HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU TRANG
XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN
CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU TRANG
XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
MÃ SỐ: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH
PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Trang
MỤC LỤC
Trang
1
6 6
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận án cần tiếp tục
giải quyết 21
25 25 32 39 60
64 64
Chương 2: PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Đặc trưng phong cách làm việc Hồ Chí Minh 2.3. Nội dung chủ yếu của phong cách làm việc Hồ Chí Minh 2.4. Giá trị của phong cách làm việc Hồ Chí Minh Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH 3.1. Đặc điểm tình hình cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân 3.2. Thực trạng xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các
Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh 72
103
111
3.3. Yêu cầu đặt ra trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh Chương 4: NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH 4.1. Những nhân tố tác động đến xây dựng phong cách làm việc của cán bộ,
giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay 111
4.2. Nội dung xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các
Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh 115
4.3. Giải pháp xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các
Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh
124 145
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
148 149
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANND
: An ninh nhân dân
CAND
: Công an nhân dân
CSND
: Cảnh sát nhân dân
PCLV
: Phong cách làm việc
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân
loại, là di sản tinh thần quý báu của nhân dân ta, giá trị hợp thành nền văn hoá Việt
Nam. Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể bao gồm: phong cách tư duy;
phong cách diễn đạt; phong cách làm việc (PCLV); phong cách ứng xử; phong cách
sinh hoạt. Trong đó, PCLV Hồ Chí Minh là một yếu tố đặc sắc tạo nên nhân cách
Hồ Chí Minh - mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính,
thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của một
nhà văn hoá lớn. PCLV Hồ Chí Minh không chỉ là chuẩn mực cho việc rèn luyện
phong cách của cán bộ, đảng viên mà còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ
người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi để phát triển
nhanh và bền vững, nhưng cũng tiềm ẩn không ít những khó khăn, thách thức trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù
địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta với nhiều thủ
đoạn, trong đó có chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá”, “phi chính trị hoá” các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh đó, tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức; sự tồn tại và diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí đang gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Thực tiễn trên đặt ra những yêu
cầu lớn trong việc tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất chính trị, đạo đức, phong
cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 05-
CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”. Việc nghiên cứu, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách đặc biệt
là PCLV Hồ Chí Minh là yêu cầu cần thiết để hoàn thiện phong cách, phẩm chất và
năng lực đối với mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Các Học viện Công an nhân dân (CAND) có nhiệm vụ giáo dục, đào tạo,
nghiên cứu khoa học của lực lượng, phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác, cán bộ,
2
giảng viên các Học viện CAND cần đảm bảo không chỉ về phẩm chất chính trị, đạo
đức, trình độ, năng lực chuyên môn vững vàng mà phải có phương pháp, lề lối,
PCLV phù hợp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Nhận thức vấn đề PCLV của cán bộ, giảng viên là yếu tố then chốt của công
tác giáo dục, đào tạo, xác định uy tín, vị thế của cán bộ, giảng viên và các Học viện
CAND nên trong quá trình phát triển, các Học viện CAND đã không ngừng chăm lo,
xây dựng, rèn luyện, bồi dưỡng họ mọi mặt về phẩm chất, năng lực, đặc biệt là xây
dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh, gắn liền với nhiệm vụ đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục, đào tạo trong CAND, xây dựng phong cách người Công an “Bản
lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Qua quá trình xây dựng, đại bộ phận cán bộ,
giảng viên các Học viện CAND đã có PCLV khoa học, đổi mới, sáng tạo, tích cực,
luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm
vụ, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND vẫn chưa ngang tầm với yêu
cầu của thực tiễn công tác, vẫn còn một bộ phận cán bộ, giảng viên bộc lộ hạn chế về
PCLV, chưa thực sự tiêu biểu về PCLV khoa học, dân chủ, quần chúng, chưa thực sự
nêu gương; sự chỉ đạo xây dựng PCLV của một số Học viện còn chưa được sâu sát
và đảm bảo tính đồng bộ. Những sự tồn tại đó nếu không được thường xuyên quan
tâm, bồi dưỡng, xây dựng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác giáo
dục, đào tạo của các Học viện CAND, trong khi hệ thống các Học viện CAND đang
ngày càng được mở rộng và phát triển về mọi mặt.
Do đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay
theo phong cách Hồ Chí Minh để đảm bảo yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo, góp
phần xây dựng phong cách người cán bộ, giảng viên CAND bản lĩnh, nhân văn, vì
nhân dân phục vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của lực lượng
CAND trong tình hình mới là vấn đề mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và mục
tiêu chiến lược, lâu dài.
Với ý nghĩa nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Xây dựng phong cách làm
việc Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện
nay” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu hệ thống nội dung PCLV của Hồ Chí Minh và vận dụng vào
đánh giá thực trạng xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND,
trên cơ sở đó, xác định nội dung, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ
Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Hai là, phân tích làm rõ các khái niệm “phong cách”, “phong cách Hồ Chí
Minh”, “phong cách làm việc Hồ Chí Minh”, “xây dựng phong cách làm việc” và
“cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân”; đặc trưng, những nội dung
PCLV của Hồ Chí Minh.
Ba là, khái quát những nét cơ bản về cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND: đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Phân tích thực trạng xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh,
những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra.
Bốn là, xác định những nhân tố tác động; nội dung và đề xuất các giải pháp
xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong
cách Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên các Học viện CAND.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu PCLV của Hồ Chí Minh và vận
dụng vào xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong
cách Hồ Chí Minh, làm rõ nội dung và đề xuất các nhóm giải pháp xây dựng PCLV
cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Nghiên cứu PCLV của Hồ Chí Minh thể hiện trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người; sự vận dụng xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
4
viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh từ năm học 2013 - 2014
(tính mốc thời gian kể từ khi có Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA của Đảng uỷ Công an
Trung ương và Chỉ thị số 13-CT/BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 28/10/2014
về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân”) đến
năm học 2018 - 2019.
Về không gian: Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND bao gồm: Học viện
An ninh nhân dân (ANND), Học viện Cảnh sát nhân dân (CSND), Học viện Chính
trị CAND, riêng Học viện Quốc tế (Bộ Công an), do tính chất đặc thù của ngành
nên tác giả không khảo sát.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng lực lượng CAND nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tuân thủ phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin đó
là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lôgíc kết hợp
với phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương
pháp lý luận gắn liền với thực tiễn; phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.
Phương pháp lôgíc được sử dụng nhằm khai thác, đánh giá những thành tựu,
hạn chế và yêu cầu trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND theo phong cách Hồ Chí Minh. Phương pháp lịch sử để phân tích các vấn đề
có liên quan đến quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện của các chủ thể xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND.
Phương pháp phân tích tổng hợp giúp làm rõ những thành tựu, hạn chế trong
xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên từ năm học 2013 - 2014 đến nay. Phương
pháp thống kê tác giả sử dụng khi xây dựng các bảng biểu thống kê về số lượng, kết
quả hoạt động công tác mọi mặt của cán bộ, giảng viên từ năm học 2013 - 2014 đến
5
năm học 2018 - 2019. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh, đối chiếu
hiệu quả PCLV của cán bộ, giảng viên thể hiện qua kết quả công tác mọi mặt ở các
năm học.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Luận án làm rõ khái niệm phong cách; phong cách Hồ Chí Minh; phong
cách làm việc Hồ Chí Minh; xây dựng phong cách làm việc; cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND; phân tích một số khía cạnh về đặc trưng của PCLV Hồ Chí Minh.
- Đánh giá tổng quát về vị trí, vai trò, đặc điểm hoạt động, công tác của cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND, thực trạng, yêu cầu đặt ra trong xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.
- Nêu một số nội dung và đề xuất giải pháp cơ bản xây dựng PCLV cho cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần luận giải các khía cạnh về PCLV của
Hồ Chí Minh, từ đó cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học cho việc đề xuất, thực thi chính
sách liên quan đến việc bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND có PCLV quần chúng, khoa học, dân chủ - tập thể, nêu gương.
- Làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập, giảng dạy các chuyên
ngành của khoa học chính trị và khoa học CAND. Đồng thời, làm cơ sở để các đơn vị
tham mưu, vận dụng, xây dựng, phát triển lực lượng CAND trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Những vấn đề lý luận.
Chương 3: Thực trạng và yêu cầu đặt ra trong xây dựng phong cách làm việc
cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh.
Chương 4: Nội dung, giải pháp xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ,
giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phong cách và phong
cách làm việc Hồ Chí Minh
Cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh [70] của Đặng Xuân Kỳ
(chủ biên), tác giả luận giải những vấn đề cơ bản, cốt lõi của phong cách Hồ Chí
Minh: “Phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của: Phong cách tư duy, phong
cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt. Năm
mặt chủ yếu này tạo thành hệ thống phong cách Hồ Chí Minh” [70, tr.133-134]. Ở
Hồ Chí Minh có sự liên hệ giữa tư tưởng với hành động, lời nói với việc làm, là
phong cách điển hình, mẫu mực của người cách mạng, có ý nghĩa giáo dục rất sâu
sắc đối với các thế hệ cán bộ cách mạng, tác giả khẳng định “Người đã có một
phong cách mẫu mực để tiến hành công tác và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, giải
quyết đúng đắn và thoả đáng các mối quan hệ; PCLV Hồ Chí Minh không chỉ tác
động đến nhận thức mà còn cảm hoá cả trái tim con người. Qua PCLV của Hồ Chí
Minh, mọi người đến với Đảng, tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng không phải chỉ
bằng lý trí, mà còn bằng tình cảm sâu sắc của chính mình” [70, tr.153]. Đây là công
trình nghiên cứu công phu về hệ thống phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có nội
dung PCLV Hồ Chí Minh, là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo, kế thừa khi
nghiên cứu viết luận án.
Cuốn Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam - Cuộc đời, sự nghiệp và đạo
đức do Đinh Xuân Lý - Trần Minh Trưởng (đồng chủ biên) [79], nghiên cứu các
nội dung PCLV của Hồ Chí Minh và khẳng định phong cách quần chúng, dân chủ,
nêu gương của Người có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình thực tiễn bởi liên
quan trực tiếp đến nhân dân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Vì vậy, chúng ta
phải tiếp tục nhận thức, đào sâu nghiên cứu, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
7
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để kiên định, kế thừa, phát triển và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cuốn Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại [58] của Trần
Văn Giàu khắc hoạ Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách tinh tế, đó là chân dung của
một tâm hồn vĩ đại, một nhân cách giản dị, lão thực. Phong cách Hồ Chí Minh được
nghiên cứu ở khía cạnh đặc trưng là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời
nói đi đôi với việc làm, tác giả viết: “Phong cách Hồ Chí Minh là sự nhất quán
trong suy nghĩ và việc làm, giữa những cái khác nhau, giữa những cái thường bị
xem là trái nhau” [58, tr.35]. Bên cạnh đó, tác giả dẫn lời của báo Ảnh diện Ấn Độ
nhận xét về phong cách của Hồ Chí Minh: “Cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn sự tao
nhã cao quý với tác phong gẫn gũi rất dân chủ, giữa tự do không nghi thức với sự
nghiêm chỉnh thận trọng” [58, tr.37].
Trong cuốn sách Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống
mãi [57] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu: “Tác phong lãnh đạo của Bác tập thể
và dân chủ. Bác luôn lắng nghe nguyện vọng của quần chúng, ý kiến của cán bộ;
Bác muốn đổi mới phong cách lãnh đạo của Đảng, đổi mới cách suy nghĩ, cách làm
việc của đảng viên, đổi mới nếp sống trong xã hội” [57, tr.19]. Tác giả nghiên cứu
phong cách của Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng sôi
nổi của Người, phản ánh ở một số khía cạnh của tác phong lãnh đạo, phong cách
diễn đạt như: lý luận gắn với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm.
Tài liệu Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh [5] do Ban Tuyên giáo Trung ương soạn thảo trình bày mối quan hệ thống
nhất, biện chứng giữa tư tưởng, đạo đức, phong cách tạo nên nhân cách vĩ đại Hồ
Chí Minh, khái quát đặc điểm và nội dung cơ bản của phong cách Hồ Chí Minh,
“được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một
chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ. Phong cách Hồ Chí
Minh gồm những điểm nổi bật: phong cách tư duy, PCLV, phong cách diễn đạt,
phong cách ứng xử và phong cách sống” [5, tr.31]. Phong cách Hồ Chí Minh là
8
những giá trị cơ bản trong tư tưởng, đạo đức của Người, được thể hiện trong công
việc, sinh hoạt, ứng xử. Phong cách Hồ Chí Minh phong cách của một vĩ nhân, một
chiến sĩ cộng sản, một nhà văn hóa lớn.
Tài liệu học tập Chuyên đề Chỉ thị số 05-CT/TW năm 2018 về Xây dựng
phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [6] của Ban Tuyên
giáo Trung ương nêu những vấn đề cơ bản xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên
theo phong cách Hồ Chí Minh, gồm các nội dung: Phong cách dân chủ - quần
chúng, phong cách khoa học và phong cách nêu gương, trong đó, phong cách dân
chủ được coi là “phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có” [6, tr.5]. Đối
với người đứng đầu, người lãnh đạo, xây dựng PCLV lại có những yêu cầu thể hiện
vai trò, trách nhiệm cao hơn, gồm: phong cách dân chủ - quyết đoán, sâu sát, khéo
dùng người, phong cách cách mạng, khoa học và năng động sáng tạo. Phong cách,
tác phong công tác của Hồ Chí Minh là hình mẫu giá trị để cán bộ, đảng viên và
nhân dân hoàn thiện phong cách của bản thân, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
khi toàn Đảng, toàn dân đang tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương
số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”.
Tác giả Bùi Đình Phong trong cuốn sách Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc
của người cách mạng [102] xác định: “Phong cách Hồ Chí Minh là cả một hệ thống
bao gồm phong cách tư duy, PCLV, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử,
phong cách sinh hoạt” [102, tr.178], phong cách là một bộ phận của văn hoá, nhân
cách, đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh. Về vấn đề xây dựng PCLV Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên, tác giả phân tích trên hai nội dung chính là: phong cách quần
chúng và phong cách tập thể - dân chủ. Giá trị của phong cách Hồ Chí Minh được
khẳng định: “Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi là
9
nguồn sáng, nguồn động viên to lớn đối với mỗi con người Việt Nam trong tình
hình hiện nay” [102, tr.143]. Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh có ý
nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay, giúp cho mỗi cán
bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức và phong cách.
Việc học tập và nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh có sự chuyển biến sâu
sắc hơn từ khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Có thể kể
đến các cuốn sách như: Học tập phong cách Hồ Chí Minh [80] của Lưu Trần Luân,
Trần Minh Trưởng và Văn Thanh Mai; Học tấm gương làm việc và học tập suốt đời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh [125] của tác giả Lê Văn Yên; Học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh [2] của Vũ
Ngọc Am. PCLV Hồ Chí Minh đều được các tác giả khái quát trên các phương diện
của PCLV quần chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học và PCLV nêu
gương. Trong đó, nghiên cứu PCLV quần chúng của Hồ Chí Minh, tác giả cuốn
Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng đây là điểm nổi bật nhất trong hệ thống phong cách Hồ Chí
Minh và được thể hiện bằng những hành động cụ thể: “sự sâu sát quần chúng, tin
yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết các kiến nghị
chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng, giáo dục,
lãnh đạo quần chúng, học hỏi, tự mình mẫu mực để xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân [2, tr.40-41]. Các tác giả có chung nhận định giá trị to lớn của phong cách
Hồ Chí Minh và cần thiết với những người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ
lãnh đạo: “tiêu biểu cho phong cách của những người cách mạng, những con người
cộng sản... Phong cách Hồ Chí Minh không phải ở tầm cao không thể vươn tới mà
luôn ở phía trước chúng ta” [80, tr.16-17].
Công trình Hồ Chí Minh - Đồng hành cùng dân tộc [115], của Mạch Quang
Thắng, nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh, tác giả nêu: “Phong cách Hồ Chí
Minh là những đặc điểm riêng có, cái độc đáo, có tính hệ thống, trở thành nền nếp
ổn định phản ánh toàn bộ cuộc sống của Hồ Chí Minh” [115, tr.82]. Về hệ thống
10
phong cách Hồ Chí Minh, quan điểm của tác giả có sự đồng nhất với nghiên cứu
của các nhà khoa học khác khi khẳng định hệ thống phong cách Hồ Chí Minh bao
gồm năm nội dung: “Phong cách tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo; PCLV; phong
cách diễn đạt; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt” [115, tr.83]. Bàn đến
PCLV Hồ Chí Minh, tác giả đánh giá Hồ Chí Minh là một người có sức làm việc
phi thường, tận tâm, tận lực trong sự nghiệp cách mạng, nội dung của PCLV Hồ
Chí Minh được thể hiện trên các phương diện: phong cách gần dân, hiểu dân, vì
dân; PCLV dân chủ; PCLV khoa học và phong cách nêu gương sáng.
Cuốn Hồ Chí Minh sự hình thành một nhân cách lớn [10] do Trần Thái Bình
(chủ biên). Bằng những sự kiện, hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng, tác giả làm rõ những nội dung của phong cách của Người
thể hiện trên các mặt: Phong cách tư duy; PCLV; phong cách ứng xử; phong cách
diễn đạt; phong cách sinh hoạt, các mặt phong cách ấy hài hòa tự nhiên hình thành
nên một nhân cách lớn Hồ Chí Minh. Phong cách Hồ Chí Minh có giá trị và ý nghĩa
to lớn đối với mỗi người: “Nhìn từng mặt phong cách ấy, các thế hệ thanh thiếu
niên ta có thể rút ra được bài học sâu sắc: bài học để sống ở đời và sống làm người”
[10, tr.82]. Qua sự nghiên cứu cách làm việc của Hồ Chí Minh trong mọi hoàn
cảnh, tác giả chỉ ra các đặc điểm: PCLV thận trọng, thiết thực, chủ động; luôn luôn
nắm vững đường lối quần chúng; tác phong tập thể, dân chủ; tác phong khoa học.
Vấn đề phong cách Hồ Chí Minh trong đó làm rõ nội dung, giá trị, ý nghĩa
và vận dụng phong cách của Người trong tình hình hiện nay của cán bộ, đảng viên
cũng là nội dung của một số bài viết trên các tạp chí khoa học, có thể kể đến: Phong
cách Hồ Chí Minh - một giá trị di sản văn hoá dân tộc [100] của Bùi Đình Phong;
Phong cách Hồ Chí Minh [66] của Ánh Hồng.
Về phong cách và PCLV Hồ Chí Minh cũng là đề tài thu hút sự quan tâm
của nhiều học giả nước ngoài, thể hiện trên nhiều phương diện và phần lớn được thể
hiện qua các nhận định trong những công trình về tiểu sử, sự nghiệp hoạt động cách
mạng của Người. Một số tiêu biểu như:
Tác phẩm Ho [31] của David Halberstam, tác giả khi khám phá cuộc sống và
sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã khẳng định Người “là hiện thân của một cuộc cách
11
mạng”, “là biểu tượng của sự sống, niềm hy vọng, cuộc đấu tranh vì độc lập, sự
cống hiến hy sinh và những thắng lợi vẻ vang” của nông dân. Tác giả đánh giá cao
những yếu tố thuộc phẩm chất cá nhân của Người và nhấn mạnh phong cách gần
gũi, gắn bó, hiểu nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện như một lẽ tự
nhiên: “Hồ Chí Minh không cố tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì
ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân”; “khả năng hoà đồng với
nhân dân là cơ sở dẫn đến mọi thành công của ông Hồ” [31].
Tác phẩm Hồ Chí Minh - một cuộc đời [126] của William J. Duiker, thể hiện
tình cảm của tác giả dành cho Hồ Chí Minh và đất nước, con người Việt Nam.
Thông qua nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh từ bối cảnh đất nước bị đô hộ đến quá
trình trở thành nhà cách mạng, với những chiến thắng lẫy lừng của cách mạng tháng
Tám, chiến dịch Điện Biên Phủ, đến các hoạt động thường nhật của Người, tác giả
làm sống động một nhân vật huyền thoại, thể hiện phong cách và trí tuệ Hồ Chí
Minh, thống nhất trong các giá trị của người cách mạng.
Tác giả người Nga Ê. Côbêlép có tác phẩm Đồng chí Hồ Chí Minh [56].
Trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc về lịch sử, đất nước, con người Việt Nam và tình
cảm lớn dành cho Hồ Chí Minh, phản ánh sinh động phong cách, phẩm chất, đạo
đức của Hồ Chí Minh thông qua cuộc đời, sự nghiệp gắn với một thời kỳ lịch sử
dân tộc và những thay đổi lớn lao của thời đại. Xuyên suốt tác phẩm, hiện lên rõ nét
phong cách của vị lãnh tụ thiên tài với khát vọng, lý tưởng cao cả, dành trọn cuộc
đời mình phấn đấu hy sinh cho tự do của đất nước, cho hạnh phúc của đồng bào của
Hồ Chí Minh.
Người Nga nói về Hồ Chí Minh [97], tập hợp 16 bài bút ký, hồi ức, phỏng
vấn, ghi chép... của các nhà văn, nhà báo, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu người
Nga, nhìn nhận và có những nhận xét tinh tế về phong thái, cốt cách, phong cách
ứng xử, sinh hoạt của Hồ Chí Minh. Người đã để lại trong lòng nhân dân Nga nhiều
ấn tượng tốt đẹp, vì vậy, khi đọc cuốn sách, mỗi người đều tìm thấy cho mình tấm
gương trong cách thực hiện công việc, cách hành xử trong cuộc sống và công tác
hàng ngày.
12
Cuốn sách Hồ Chí Minh - Một biên niên sử [61] là công trình của tác giả
người Đức Hellmut Kapfenberger, giới thiệu rõ nét thân thế, sự nghiệp trong quá
trình Hồ Chí Minh bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh Hồ Chí Minh đã “sống một cuộc đời huyền
thoại” bởi cả một đời đã tranh đấu nhằm biến đổi thế giới, vì công bằng xã hội,
danh dự của dân tộc và Tổ quốc mình. Phong cách Hồ Chí Minh được tác giả tái
hiện bằng những chi tiết rất đời thường, giản dị: Người sống trong ngôi nhà sàn nhỏ
bé giữa Thủ đô Hà Nội, Người ăn mặc rất giản dị, thường đi dép cao su, mặc bộ
quần áo nâu hoặc bộ kaki thường, không khác gì một cán bộ bình thường hay một
lão nông. Trong cuốn sách, tác giả nêu những nhận xét về Hồ Chí Minh: “Ðó là một
con người dịu dàng, khiêm nhường, mềm dẻo, nhiều khi có cử chỉ có phần dè dặt,
nhưng đã viết nên cả một chương vĩ đại của cuộc đấu tranh giải phóng chống đế
quốc ở thế kỷ 20 và đã khơi dậy những tình cảm đoàn kết rộng khắp thế giới” [61,
tr.4]. Đó là những nét đặc sắc riêng có trong phong cách Hồ Chí Minh, hoà trộn
trong ý chí và khát vọng mãnh liệt của nhà lãnh đạo tối cao của dân tộc Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu sự vận dụng PCLV Hồ Chí Minh:
Cuốn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay của Nguyễn Thế Thắng [116]. Tác
giả xác định “PCLV của Hồ Chí Minh chính là bản chất con người Hồ Chí Minh,
phong cách Hồ Chí Minh là bản thân con người Hồ Chí Minh” [116, tr.6]. Trên
cương vị là người sáng lập Đảng và là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến việc xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo tác giả,
quan điểm của Hồ Chí Minh về PCLV của cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm 6 nội
dung: Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt, mềm
dẻo; tính cách mạng với tính khoa học; tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và
quyết đoán; thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nói và làm; PCLV quần chúng;
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tác giả trình bày mục tiêu phương
hướng cơ bản và một số giải pháp trong quá trình xây dựng PCLV cho đội ngũ cán
13
bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đến năm 2020. Trong đó, phần luận giải về nội dung
của PCLV Hồ Chí Minh là vấn đề luận án có thể kế thừa, vận dụng và phát triển.
Bài viết Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề đổi mới phong
cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay của tác giả
Nguyễn Văn Thế [117] xác định PCLV Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách
thức làm việc của người lãnh đạo, mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là
quần chúng nhân dân. Nội dung của PCLV Hồ Chí Minh gồm: PCLV dân chủ, tôn
trọng tập thể, PCLV khoa học, PCLV thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. PCLV
Hồ Chí Minh có ảnh hưởng lớn đến nâng cao chất lượng lãnh đạo và uy tín của
Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thiện nhân cách người cán bộ,
đảng viên và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Từ những
đánh giá về ưu điểm, tồn tại trong PCLV của cán bộ lãnh đạo, tác giả đề xuất
những giải pháp góp phần xây dựng PCLV của cán bộ lãnh đạo trong tình hình
hiện nay và khẳng định “việc đổi mới PCLV theo tư tưởng và tấm gương về
PCLV của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết” [117].
Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện phong cách làm việc
của đội ngũ cán bộ hiện nay [60] của Đỗ Mạnh Hoà nêu: “PCLV Hồ Chí Minh biểu
hiện ở tư tưởng và toàn bộ kết quả hoạt động thực tiễn của Người, là một nội dung
quan trọng trong tư tưởng về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng” [60,
tr.3]. Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện PCLV
của đội ngũ cán bộ và những vấn đề đặt ra trong PCLV của cán bộ. Tác giả bước
đầu nêu lên những định hướng cơ bản trong bồi dưỡng, rèn luyện PCLV của cán bộ
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng
về đổi mới phương thức lãnh đạo và chiến lược cán bộ; hai là, tăng cường giáo dục
nâng cao nhận thức của cán bộ, cụ thể hoá nội dung, đa dạng hoá hình thức, biện
pháp bồi dưỡng, rèn luyện PCLV; ba là, xây dựng hoàn thiện các quy chế, quy định
làm việc thích hợp tạo môi trường thuận lợi bồi dưỡng PCLV của cán bộ; đề cao
trách nhiệm tự giác học tập, rèn luyện PCLV; bốn là, đẩy mạnh cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
14
Bài viết “Đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Phương Lan [71]. Tác giả tiếp cận PCLV Hồ Chí
Minh trên năm vấn đề cơ bản: tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên;
chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; PCLV dân chủ; PCLV khoa học
và sự nhất quán giữa nói với làm. Trên cơ sở phân tích các vấn đề, tác giả đánh giá:
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao, đổi mới PCLV của đội ngũ cán bộ nói
chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc làm
đúng đắn, nhằm thực hiện hiệu quả mọi nhiệm vụ đặt ra.
Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị Xây dựng phong cách làm việc của chính
ủy trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay [111] của
Nhâm Cao Thành. Từ cơ sở nghiên cứu thực trạng PCLV của chính ủy trung đoàn
bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam, để góp phần xây dựng đội ngũ chính uỷ
trung đoàn bộ binh vững mạnh, có PCLV phù hợp với cương vị, chức trách được
giao, tác giả nêu phương hướng, yêu cầu và đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu,
có tính khả thi. Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các
lực lượng trong xây dựng PCLV của chính ủy trung đoàn bộ binh giai đoạn hiện
nay; thứ hai, xác định nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp xây
dựng PCLV sát với chức trách, nhiệm vụ của chính ủy trung đoàn bộ binh, phù
hợp với thực tiễn đơn vị; thứ ba, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính
ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị cấp trên và của các tổ chức, các lực lượng ở
đơn vị trong xây dựng PCLV của chính ủy trung đoàn bộ binh; thứ tư, nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chính ủy trung đoàn ở Học viện Chính trị Quân sự
bảo đảm vừa đáp ứng yêu cầu chuẩn chức danh, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng
PCLV của chính ủy sát với thực tiễn đơn vị; thứ năm, phát huy vai trò tích cực,
chủ động của chính ủy trung đoàn bộ binh trong tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn do Phạm
Ngọc Anh (chủ biên) [1]. Tác giả khẳng định PCLV Hồ Chí Minh là một nét đặc
sắc tạo nên nhân cách Hồ Chí Minh - mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà
15
khoa học chân chính, thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động
vì con người. Hệ thống PCLV của Hồ Chí Minh bao gồm: PCLV quần chúng; tập
thể - dân chủ; khoa học; thiết thực, cụ thể; nêu gương; là giá trị bền vững, ổn định,
đi sâu vào đời sống, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, giúp định hướng cho việc
xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên qua các giai đoạn. Tác giả đã đề xuất hệ
thống giải pháp cơ bản để học tập và làm theo PCLV Hồ Chí Minh của cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên giữ vai trò lãnh đạo chủ chốt trong
các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc PCLV
Hồ Chí Minh về nội dung và giá trị lý luận, thực tiễn, là tài liệu tác giả có thể tham
khảo, kế thừa khi nghiên cứu viết luận án.
Hội thảo khoa học Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” tinh hoa văn hoá Việt Nam [62] do Học viện Chính trị
- Bộ Quốc phòng chủ trì đã làm rõ nội dung, giá trị, sự kết tinh văn hoá Việt Nam
của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, biện pháp đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. PCLV Hồ Chí Minh được phản ánh trên nhiều khía cạnh như: PCLV quần
chúng, phong cách lãnh đạo dân chủ, phong cách nói đi đôi với làm, tự mình nêu
gương. Cuốn sách giúp tác giả luận án có cách tiếp cận nhiều chiều về giá trị to lớn
của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là nguồn tư liệu luận án có thể kế thừa.
Ngoài ra, trên nhiều tạp chí khoa học có nhiều bài viết nghiên cứu PCLV Hồ
Chí Minh, như: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tác
phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới [34] của Bùi
Tiến Dũng; Học tập Bác Hồ về PCLV: dân chủ, khiêm tốn, thiết thực, đến nơi đến
chốn [103] của Trần Đình Quảng; Xây dựng PCLV cho cán bộ, đảng viên hiện nay
theo tấm gương Hồ Chí Minh [101] của Bùi Đình Phong; Học tập và làm theo cách
làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [124] của các tác giả Lê Văn Yên - Trần Đình
Thắng; PCLV của Chủ tịch Hồ Chí Minh [81] của Nguyễn Anh Minh; Sự kết tinh
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người [8] của
16
Hoàng Chí Bảo; Học tập PCLV Hồ Chí Minh [109] của Minh Sơn; Về phong cách
lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý [54] của Phạm Văn Định; Lề lối, phong cách
làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng [67] của Đoàn Minh Huấn.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng phong cách
làm việc Hồ Chí Minh của cán bộ Công an nhân dân nói chung và cán bộ,
giảng viên các Học viện Công an nhân dân nói riêng
Cuốn Công an nhân dân thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [11] Bộ Công an và Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp nghiên cứu đã phân tích, đánh giá tư cách của
người công an cách mạng được thể hiện qua: tính khoa học, tính cách mạng, tính
quần chúng... Cuốn sách là tài liệu quan trọng để nghiên cứu, học tập, chỉnh đốn tác
phong công tác và huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng CAND theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Công an) Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, của tác giả Nguyễn Bình Ban (chủ nhiệm) [3] xác định vai
trò quan trọng của phong cách, lề lối làm việc của người cán bộ CAND: “Kết quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị phụ thuộc vào phong cách, lề lối, tác phong làm
việc khoa học, đúng đắn của mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an, nhất là ở địa bàn cơ
sở [3, tr.52]. PCLV của cán bộ CAND theo quan điểm Hồ Chí Minh được tác giả
phân tích trên các phương diện: tác phong làm việc dân chủ, khoa học; lý luận gắn
liền với thực tiễn; sâu sát, thiết thực và gắn bó mật thiết với nhân dân. Vận dụng
quan điểm của Hồ Chí Minh, PCLV của cán bộ, chiến sỹ CAND thể hiện công tác
tổ chức, chỉ đạo công việc, trong hoạt động chuyên môn và tác phong sinh hoạt
hàng ngày.
Tác giả Trần Quang Tám tổng hợp các công trình nghiên cứu của nhiều tác
giả phục vụ cho nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
gắn với công tác xây dựng lực lượng CAND vào cuốn Đạo đức, phong cách Hồ
17
Chí Minh và những bài học đối với cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân [110]. Mỗi
bài viết đề cập một nội dung cụ thể và đúc kết những bài học thiết thực để cán bộ,
chiến sỹ CAND nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn. Xây dựng PCLV của cán bộ,
chiến sỹ theo tư tưởng và tấm gương phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung
quan trọng của nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND chính quy, trong sạch, vững
mạnh. Tác giả nêu: “học tập và làm theo PCLV của Người, mỗi cán bộ, chiến sỹ
CAND cần không ngừng phấn đấu, rèn luyện theo lý tưởng cách mạng vì nước
quên thân, vì dân phục vụ” [110, tr.17], đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Trên cơ sở đánh giá các mặt hoạt động trên các lĩnh vực của cán bộ, chiến sỹ
CAND, các tác giả đề xuất phương hướng, nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả việc học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sỹ CAND.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân [74] của Tô Lâm.
nghiên cứu nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng CAND. Từ
quan điểm của Hồ Chí Minh coi đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự là vấn đề chính
trị quan trọng, có quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, sự mất còn của
dân tộc, gắn liền với đường lối chính trị của Đảng. Vì vậy, “để thực hiện trọng
trách đó, CAND nhất định phải tạo lập được phong cách riêng của mình” [74,
tr.142]. Tác giả quan niệm hệ thống phong cách Hồ Chí Minh bao gồm nhiều mặt,
từ suy nghĩ đến các hoạt động thực tiễn tới sinh hoạt hàng ngày. Xây dựng phong
cách của CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào những nội dung:
Xây dựng phong cách tư duy, PCLV và phong cách sống. Trong đó, xây dựng
PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sỹ CAND cần đảm bảo những nội dung:
phong cách quần chúng; PCLV tập thể và dân chủ và PCLV khoa học.
Cùng tác giả Tô Lâm có cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ CAND [73], phân tích có hệ thống nội dung và giá trị, ý nghĩa to lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ CAND. Một trong những nội
dung quan trọng Hồ Chí Minh yêu cầu đối với mỗi người cán bộ cần phải có là
phong cách quần chúng, tác giả viết: “PCLV quần chúng là biểu hiện quan trọng
nhất của phương pháp làm việc xã hội chủ nghĩa, đối lập với lề lối làm việc quan
18
liêu, hống hách, cửa quyền của bọn quan lại cai trị dưới chế độ cũ” [73, tr.121]. Tác
giả nêu những yêu cầu về PCLV quần chúng đối với người cán bộ CAND: Một là,
cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, phải gần gũi quần chúng; bằng
hành động thiết thực của mình làm cho dân tin, dân quý, dân ủng hộ, dân giúp đỡ
hoàn thành tốt nhiệm vụ; phải dựa vào dân, lắng nghe ý kiến của dân; hai là, luôn
gương mẫu trong công tác học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Cuốn
sách là tài liệu để tác giả tham khảo khi nghiên cứu PCLV quần chúng của Hồ Chí
Minh và vận dụng trong lực lượng CAND.
Hội thảo khoa học - thực tiễn cấp quốc gia “70 năm Công an nhân dân học
tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” [27], tập hợp các bài viết của các nhà lãnh đạo,
nhà khoa học, chuyên gia của Đảng, Nhà nước, tập trung đánh giá, phân tích, làm rõ
những vấn đề lớn về giá trị lịch sử, khoa học, cách mạng, giá trị nhân văn và thời
đại “Sáu điều Bác Hồ dạy CAND” của Hồ Chí Minh. Các tác giả đều nhất quán
quan điểm: để xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân tin cậy giao phó; xây dựng
phong cách người công an cách mạng, bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ theo
lời dạy của Bác Hồ yêu cầu mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND phải thường xuyên tu
dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, trong đó, “việc chấn chỉnh phong cách, đổi mới lề lối
làm việc, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật” [27, tr.42] được xem là
một trong những yếu tố then chốt.
Công trình Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm “Tư cách người công
an cách mệnh” của Hồ Chí Minh [75] do Tô Lâm (chủ biên) đánh giá tác phẩm “Tư
cách người công an cách mệnh” là chuẩn mực về công tác xây dựng, giáo dục, rèn
luyện CAND. Từ việc khái quát chặng đường 70 năm nghiên cứu, học tập, thực
hành “Tư cách người công an cách mệnh” của lực lượng CAND, tác giả nêu những
chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào CAND học tập,
thực hành “Tư cách người công an cách mệnh” trong tình hình hiện nay, trong đó,
xây dựng phong cách, hoàn thiện phong cách ứng xử là điểm gốc. Tác phẩm “Tư
cách người công an cách mệnh” của Hồ Chí Minh là những chỉ dẫn quý báu đối với
19
việc hình thành phong cách, tác phong trong công việc, cách ứng xử của người cán
bộ, chiến sỹ CAND:
Trong ứng xử với công việc luôn tận tuỵ, toàn tâm, toàn ý, cần mẫn,
chăm chỉ; làm việc khoa học, có trách nhiệm, cẩn trọng, đi sâu, xét kỹ;
thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ bí mật nhà
nước, bí mật nghiệp vụ, quy chế làm việc, quy trình công tác [75, tr.134].
Trên các tạp chí khoa học cũng có nhiều bài viết nghiên cứu phong cách Hồ
Chí Minh và vận dụng trong CAND tiêu biểu như: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về Công an nhân dân của Nguyễn Bình Ban [4]; Xây dựng bản lĩnh chính trị của
người cán bộ an ninh theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Trịnh Lương Hy [68]; Xây dựng phong cách người công an bản lĩnh,
nhân văn, vì nhân dân phục vụ theo lời dạy của Bác Hồ [9] của tác giả Hoàng Chí
Bảo; Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả phong trào “Công an nhân dân học tập,
thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” của Nguyễn Văn Thành [112].
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục, đào tạo trong
CAND, trong đó có nội dung xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, giảng viên các
Học viện, trường CAND có thể kể đến các công trình sau:
Tác giả Cấn Văn Chúc, trong nghiên cứu Các giải pháp xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các trường CAND đến năm
2015 và hướng tới năm 2020 [30] phân tích làm rõ thực trạng công tác của hai đối
tượng chủ chốt trong các nhà trường CAND là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, công bằng. Từ thực trạng, công
trình nghiên cứu đã đề cập đến những dự báo khoa học về sự phát triển của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường CAND đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2020, từ đó, đề xuất các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng
của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các trường CAND. Đây là tài liệu tác
giả có thể tham khảo khi nghiên cứu về đặc điểm hoạt động, thực trạng công tác của
đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường CAND nói
chung và các Học viện CAND nói riêng.
20
Luận án Tiến sỹ Khoa học Giáo dục Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên
các trường đại học Công an nhân dân của Võ Thành Đạt [53] thể hiện rõ cơ sở lý
luận về quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học CAND. Tác giả nêu: Để thực
hiện đổi mới cơ bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, góp phần
bảo đảm tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ CAND trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vấn đề cấp
thiết là xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường CAND. Đội
ngũ này cần đủ yêu cầu về số lượng, bảo đảm về chất lượng và hợp lý về cơ cấu,
đáp ứng với mục tiêu, nhiệm vụ của các chương trình, đề án của Nhà nước về giáo
dục đào tạo. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đưa ra hệ thống giải pháp quản
lý đội ngũ giảng viên các trường đại học CAND trong tình hình mới.
Bài viết Công tác giáo dục đào tạo trong CAND trước yêu cầu, nhiệm vụ
mới [113] của Nguyễn Văn Thành. Cùng những kết quả tích cực, tác giả phân tích
những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác giáo dục, đào tạo
trong CAND, tới các mặt, lĩnh vực của công tác công an. Trên cơ sở thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của Đảng và của ngành về giáo dục, đào
tạo, tác giả đề xuất những giải pháp, trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên
về phẩm chất, phong cách, năng lực được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo trong CAND. Tác giả nêu:
Xây dựng đội ngũ giáo viên các học viện, trường CAND không chỉ là
những nhà giáo mẫu mực, nhà khoa học có uy tín, tấm gương sáng về
đạo đức, trí tuệ, nhân cách, về sự trung thành mà còn là những nhà hoạt
động thực tiễn giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác công an, có
những đóng góp nhiều hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo của
Đảng, Nhà nước và của lực lượng CAND [113, tr.12].
Nghiên cứu về cán bộ, giảng viên các nhà trường CAND, trong đó có đề cập
đến xây dựng phong cách của cán bộ, giảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cũng là
nội dung của một số bài viết trên các tạp chí khoa học như: Phát huy truyền thống
40 năm đào tạo đại học công an, phấn đấu xây dựng lực lượng CAND xứng đáng
21
với niềm tin của Đảng và nhân dân của Nguyễn Tấn Dũng [33], Nâng cao chất
lượng đào tạo đại học của Học viện An ninh nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của công tác công an trong tình hình mới của Nguyễn Khánh Toàn [119], Bồi
dưỡng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tại các cơ sở đào
tạo hiện nay [59] của Nguyễn Thanh Hà, Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
nghiệp vụ CAND đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của Nguyễn Văn
Ngọc [98]. Các tác giả đều thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, ngành và lãnh đạo
các Học viện CAND về vị trí, vai trò và định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng
viên trong các nhà trường CAND nói chung ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của công tác giáo dục, đào tạo trong tình hình hiện nay.
Như vậy, những công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng PCLV Hồ
Chí Minh trong CAND đã được các tác giả đề cập trong tổng thể của công tác xây
dựng lực lượng CAND vững mạnh và vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo
đại học trong CAND. Tuy nhiên, nghiên cứu PCLV và nhiệm vụ xây dựng PCLV
của cán bộ, giảng viên trong nhà trường CAND nói chung và các Học viện CAND
chưa được đặt ra và nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu xây dựng PCLV cho cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cần
thiết trong tình hình hiện nay.
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN
ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.2.1. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Xây dựng phong cách làm
việc Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay”
đã nghiên cứu những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, các kết quả nghiên cứu về hệ thống phong cách và PCLV Hồ Chí
Minh và vận dụng xây dựng PCLV của cán bộ
Các công trình nghiên cứu về phong cách Hồ Chí Minh rất đa dạng, phong
phú, ở nhiều loại hình như: sách, đề tài khoa học, luận án và đã phân tích, làm rõ
khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ bản của hệ thống phong cách Hồ Chí Minh. Điểm
22
chung của các công trình là các tác giả đều khái quát được đặc điểm cơ bản của
phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống bao
gồm: phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, PCLV, phong cách ứng xử, phong
cách sinh hoạt và chỉ ra giá trị to lớn của phong cách Hồ Chí Minh đối với việc hoàn
thiện phong cách của mỗi người. Trong hệ thống phong cách đó, PCLV của Hồ Chí
Minh là điểm nổi bật, đã được nhiều công trình nghiên cứu hệ thống hoá, khái quát
nội dung, xác định giá trị to lớn đối với việc xây dựng, rèn luyện PCLV của đội ngũ
cán bộ, đảng viên hiện nay. Các công trình nghiên cứu sâu sắc thực trạng PCLV của
đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, từ đó làm cơ sở đề xuất phương hướng, giải
pháp cụ thể nhằm xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên hiện nay theo phong cách
Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập nội dung phong
cách, PCLV của Hồ Chí Minh và vận dụng trong xây dựng, hoàn thiện phong cách,
PCLV của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách chiều sâu, mang tính hệ thống trong việc nâng cao PCLV của đội ngũ
cán bộ, giảng viên trong các nhà trường nói chung và nhà trường CAND nói riêng.
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu về PCLV Hồ Chí Minh vận dụng trong lực
lượng CAND
Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND, về vai trò của
việc học tập, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh để hoàn thiện phong cách
người cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng CAND rất phong phú. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có một công trình nào nghiên cứu và đưa ra được những giải pháp cụ thể,
thiết thực trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng CAND
nói chung và cán bộ, giảng viên các Học viện CAND nói riêng theo phong cách Hồ
Chí Minh, các nghiên cứu chủ yếu dừng lại ở việc đưa ra những giải pháp tổng thể
nhằm xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh.
Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên
các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh - đề tài mà tác giả
nghiên cứu chính là muốn góp một phần vào việc bổ sung những kết quả của các
23
công trình trước đó. Đề tài sẽ là công trình có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện
nay về vận dụng PCLV Hồ Chí Minh.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận án sẽ
tiếp tục nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích các khái niệm công cụ chủ yếu phục vụ nghiên cứu đề
tài, hệ thống hoá những vấn đề về PCLV Hồ Chí Minh như: đặc trưng và nội dung
cơ bản, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh.
Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh, làm rõ những mặt tích
cực, mặt hạn chế, nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra.
Thứ ba, trình bày nội dung và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách
Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 1
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một nội dung, bộ phận quan trọng hợp
thành hệ thống chỉnh thể phong cách của Người. PCLV Hồ Chí Minh là lề lối, cung
cách, cách thức làm việc có tính khoa học, mang đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh,
được thể hiện chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.
Quá trình nghiên cứu cho thấy, hệ thống tư tưởng, tấm gương đạo đức và
phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã được nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm. Các công trình của các tác giả nước ngoài chủ yếu phản ánh
phong cách Hồ Chí Minh qua tổng thể cuộc đời hoạt động cách mạng, tấm gương
đạo đức của Người. Ở trong nước, nghiên cứu phong cách, PCLV Hồ Chí Minh và
vận dụng xây dựng PCLV Hồ Chí Minh là đề tài đã được các nhà nghiên cứu đề
cập phong phú, đa dạng dưới các góc độ khác nhau, tùy theo những mục đích xác
24
định và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy vậy, các tác giả chủ yếu nghiên
cứu phong cách và PCLV Hồ Chí Minh và vận dụng xây dựng PCLV của đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
hệ thống, toàn diện về vấn đề xây dựng PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sỹ
trong lực lượng CAND nói chung và cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND
nói riêng.
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là nguồn tư
liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ nhiệm vụ
nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.
25
Chương 2
PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Khái niệm “Phong cách”
Phong cách là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh - stylus, tiếng Hy Lạp -
stylos và trong lịch sử tư tưởng phương Đông và phương Tây, khái niệm “Phong
cách” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận.
Ở phương Tây, khái niệm phong cách để chỉ những đặc điểm có tính chất hệ
thống về tư tưởng và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ ổn định về nội dung và
hình thức thể hiện, tạo nên những giá trị độc đáo của một nghệ sỹ. Do đó, phong
cách không phải là hiện tượng phổ biến, mà là hiện tượng cá biệt, chỉ những nghệ
sỹ lớn, những tài năng lớn mới có phong cách. Với cách diễn đạt trên, phong cách
được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Trong “Từ điển tiếng Việt”, khái niệm “phong cách” được hiểu theo ba nghĩa:
1. Là cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự, tạo nên cái riêng
của một người hay một lớp người nào đó; 2. Những đặc điểm có tính
chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của một
nghệ sỹ hay trong sáng tác thuộc cùng một thể loại nói chung; 3. Dạng
của ngôn ngữ được sử dụng trong những yêu cầu chức năng điển hình
nào đó, khác với những dạng khác về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ
âm [99, tr.1032].
Trong ba nghĩa trên, nghĩa đầu tiên là hiểu theo nghĩa rộng, hai nghĩa sau là
nghĩa hẹp, thể hiện những biểu hiện thường có trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Bàn về phong cách, tác giả Đặng Xuân Kỳ trong cuốn “Phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh” nhận định:
Phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và
phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc một lớp
người, được thể hiện trong tất cả mặt hoạt động như lao động, học tập,
26
sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết) tạo nên những giá trị, nét riêng
biệt của chủ thể đó [70, tr.130-131].
Tác giả Bùi Đình Phong trong cuốn “Đạo đức là cái gốc của người cách
mạng” nêu quan điểm: “Phong cách được hiểu là cái đặc sắc, độc đáo, riêng có của
chủ thể; là sáng tạo thật sự tự nhiên, không giả tạo, đích thực là chân - thiện - mỹ;
phong cách chính là con người, là văn hoá làm người, đạo làm người, trải nghiệm
cả cuộc đời” [102, tr.178].
Nghiên cứu các khái niệm “phong cách” trên, ta thấy có sự tương đồng trong
quan điểm của các nhà nghiên cứu. Tuy cách diễn đạt có sự khác nhau nhưng đa số
đều khẳng định phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, mang đặc
trưng riêng có của chủ thể, có tính hệ thống, nền nếp ổn định, được thể hiện trong
mọi mặt của cuộc sống. Phong cách phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phẩm chất
chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, khí chất, dấu ấn của cá nhân; vị trí, chức năng,
nhiệm vụ; điều kiện làm việc sinh hoạt; sự giáo dục rèn luyện của mỗi cá nhân;
phong cách liên quan đến đạo đức, những phẩm chất đạo đức đó được nhận thức và
thể hiện ra trong hoạt động sống của cá nhân.
Như vậy, phong cách là cách thức, lề lối, phong thái đã trở thành nền nếp ổn
định, được thể hiện trong tất cả các mặt của cuộc sống và tạo nên cái riêng, độc
đáo, mang đặc trưng của chủ thể.
Từ cách tiếp cận trên, có thể rút ra một số đặc điểm của phong cách:
Thứ nhất, phong cách được hình thành từ quá trình rèn luyện, tu dưỡng, phấn
đấu, học hỏi không ngừng của chủ thể.
Thứ hai, phong cách có sự chi phối, ảnh hưởng bởi điều kiện, hoàn cảnh, lối
sống, thói quen, truyền thống văn hoá.
Thứ ba, phong cách có có liên hệ mật thiết, chặt chẽ với phương pháp và
đạo đức, qua phong cách có thể đánh giá được nhân cách, phẩm chất đạo đức của
một người.
2.1.2. Khái niệm “Phong cách Hồ Chí Minh”
Trước Đại hội VII (6/1991), Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để
nói về “tác phong Hồ Chủ tịch”. Tuy nhiên, “tác phong” có hàm nghĩa hẹp, mới chỉ
27
nói lên một mặt là “phong cách làm việc, phong cách công tác” của Người, trong
đó, ngoài công tác, phong cách của Hồ Chí Minh còn được biểu hiện phong phú ở
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Vì vậy, từ Đại hội VII, khái niệm “tác phong”
đã được Đảng ta thay bằng “phong cách” trong quan điểm: “Tiếp tục bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” [41, tr.120]. Từ đây, cụm từ “tư
tưởng, đạo đức, phong cách” Hồ Chí Minh thường gắn liền với nhau, thể hiện
những đặc trưng phong phú trong toàn bộ cuộc sống và quá trình hoạt động cách
mạng của Người.
Nghiên cứu khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh” nhiều nhà khoa học đã thể
hiện quan điểm của mình:
Tác giả Phạm Ngọc Anh trong cuốn “PCLV Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và
thực tiễn” khẳng định: “Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng
giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và
hoạt động của Người… là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm phong cách tư duy,
PCLV, phong cách ứng xử, phong cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt” [1, tr.11]
Theo Tài liệu nghiên cứu phục vụ triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương, phong cách Hồ Chí Minh là: “Đặc
trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức… thể
hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể
nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ” [5, tr.88-89].
Tác giả Mạch Quang Thắng trong cuốn sách “Hồ Chí Minh - Đồng hành
cùng dân tộc” có quan niệm về phong cách Hồ Chí Minh rất ngắn gọn, súc tích:
“Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc điểm riêng có, cái độc đáo, có tính hệ
thống, trở thành nền nếp ổn định được phản ánh trong toàn bộ cuộc sống của Hồ
Chí Minh” [115, tr.82].
Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong một hệ thống, là sự tổng hợp
của nhiều yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển theo lôgic đi từ suy nghĩ
28
(phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua PCLV,
phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt hàng ngày. Năm mặt chủ yếu này tạo
thành hệ thống phong cách, thể hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống và hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh. Là phong cách rất mẫu mực của người cách
mạng, người cán bộ, đảng viên, gắn bó mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương
pháp cách mạng.
Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể bao gồm:
phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử,
phong cách sinh hoạt, là những đặc trưng giá trị thể hiện trong toàn bộ cuộc sống
và hoạt động của Hồ Chí Minh, mang đậm tính dân tộc, hiện đại, thiết thực.
Đặc trưng của phong cách Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận không thể tách rời trong
di sản tư tưởng, đạo đức của Người;
Thứ hai, phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của nhiều yếu tố gắn bó
chặt chẽ với nhau, bắt đầu từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn
(PCLV, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử), và sinh hoạt thường ngày (phong
cách sinh hoạt).
2.1.3. Khái niệm “Phong cách làm việc Hồ Chí Minh”
Tác giả Phạm Ngọc Anh trong cuốn sách “PCLV Hồ Chí Minh - Giá trị lý
luận và thực tiễn” nêu quan điểm: “PCLV Hồ Chí Minh, nói ngắn gọn đó là cách
thức hoạt động, rõ nhất là trong lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh” [1, tr.12].
Tác giả Nguyễn Văn Thế có quan niệm: “PCLV của Hồ Chí Minh là lề lối,
cung cách, cách thức làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó
là cấp dưới, là quần chúng nhân dân” [117].
Trong chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh năm 2018 - Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu,
của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương diễn đạt PCLV Hồ Chí Minh là:
29
Lề lối, cung cách, cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học,
nêu gương, thể hiện trong hoạt động lãnh đạo của Người với những đặc
điểm quan trọng như: phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo
dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng
tạo [6, tr.2].
Nghiên cứu quan điểm của các nhà khoa học và thông qua tìm hiểu thực tiễn
cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của Người, có thể nhận thấy PCLV Hồ Chí
Minh là tổng thể những đặc trưng, đặc điểm nổi bật, có tính hệ thống, thường xuyên
lặp đi lặp lại, tương đối ổn định, bền vững, có tính quy luật, hệ thống hợp logic của
những cách thức làm việc, cách thức thực hiện công việc cụ thể hàng ngày của
Người, chủ yếu là trong phong cách lãnh đạo, quản lý với những nội dung cơ bản
như sau: PCLV dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, cách mạng, khoa
học, năng động, sáng tạo.
Từ những cơ sở trên, có thể xác định: Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là
một chỉnh thể bao gồm phương pháp, cách thức, lề lối làm việc có tính khoa học, hệ
thống, được thể hiện chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh
nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.
2.1.4. Khái niệm “xây dựng phong cách làm việc”
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, khái niệm “xây dựng” được hiểu với những nghĩa:
1. Làm nên công trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định;
2. Làm cho hình thành một chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá
theo một phương hướng nhất định;
3. Tạo ra, sáng tạo cái có giá trị tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng;
4. Xây dựng gia đình [99, tr.1500].
Như vậy, có thể hiểu nghĩa chung nhất của từ “xây dựng” là: Làm nên, hình
thành nên, tạo ra một sự vật, một tổ chức, một vấn đề nào đó. Xây dựng PCLV
được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện
PCLV của chủ thể.
Khái niệm xây dựng PCLV là: Tổng thể các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng,
giáo dục, rèn luyện của lãnh đạo các cấp, cơ quan chức năng, các tổ chức và chủ
30
thể một cách hệ thống, kế hoạch, hướng vào việc hình thành cho chủ thể có PCLV
khoa học, cách mạng để luôn hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ.
Mục đích xây dựng: Xây dựng PCLV nhằm bổ sung, phát triển và hoàn thiện
PCLV của chủ thể, bảo đảm cho họ có PCLV khoa học, dân chủ, quần chúng, nêu
gương, phù hợp với vị trí, vai trò của người cán bộ.
Chủ thể xây dựng: Xây dựng PCLV là công việc thể hiện vai trò của cấp uỷ,
tổ chức đảng; hệ thống lãnh đạo các cấp và bản thân mỗi cán bộ.
Phương pháp xây dựng: Xây dựng PCLV được thực hiện bằng nhiều
phương pháp đa dạng: Giáo dục, tuyên truyền; đào tạo, bồi dưỡng, quá trình tu
dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi chủ thể.
2.1.5. Khái niệm “Cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân”
Sinh thời, Hồ Chí Minh đánh giá vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ cán bộ
đối với sự nghiệp cách mạng và Người có những cách diễn đạt khác nhau về cán bộ
như: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [86, tr.309]; “Cán bộ là đày tớ của nhân
dân” [93, tr.211]; “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể” [87, tr.356]; “Cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy” [86, tr.68].
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, cán bộ là: Người làm việc trong cơ quan, đoàn
thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo, quản lý, hoặc một công tác nghiệp vụ
chuyên môn nhất định” [99, tr.153]
Trong “Luật cán bộ, công chức” (Ban hành 13/11/2008) nêu rõ:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [104, tr.8].
Như vậy, cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy được bầu, bổ nhiệm hoặc những người có chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt
động trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau, giữ trọng trách trong một tổ chức, cơ
31
quan, đơn vị, có tác động, ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của tổ chức, cơ
quan, đơn vị đó.
Công an nhân dân là một tổ chức chính trị, công cụ bảo vệ Đảng, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và nhân dân. Để có quan niệm đúng đắn và đầy đủ về cán bộ trong
các Học viện CAND phải trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về cán bộ thuộc lực
lượng CAND. Cán bộ CAND là một bộ phận cán bộ của Đảng, vừa đảm bảo tiêu
chuẩn, điều kiện chung, vừa có những yêu cầu riêng về phẩm chất, năng lực,
phương pháp, tác phong phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tính chất, đặc điểm
nghiệp vụ của lực lượng CAND. Cán bộ trong các Học viện CAND bao gồm cán
bộ quản lý giáo dục và cán bộ khác (tham mưu, hậu cần, tài chính, kỹ thuật) được
hình thành và tổ chức theo yêu cầu, nhiệm vụ của các Học viện CAND.
“Luật Giáo dục” tại chương 4 khoản 3, Điều 70 nêu: “Nhà giáo giảng dạy ở
cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [105], Điều 72 cũng quy định nhiệm vụ
của giảng viên: “Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện
đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục” [105].
Trong hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục Đại học và sau
đại học nêu: Nhiệm vụ của giảng viên là giảng dạy và nghiên cứu khoa học; học
tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ; giữ gìn
phẩm chất, uy tín, danh dự của người giảng viên; tôn trọng nhân cách của người
học, đối xử công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học; tham gia các
hoạt động, tổ chức xã hội; ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học đối với
các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định; được bổ
nhiệm chức danh, danh hiệu nhà giáo, khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Do đó, giảng viên là khái niệm chỉ những người làm công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng.
Các Học viện CAND là những cơ sở đào tạo thuộc Bộ Công an và nằm trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Giảng viên các Học viện CAND là những cán bộ Công
an có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; có vai
trò quan trọng trong hoạt động giáo dục, đào tạo của Học viện, là người trực tiếp
32
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và những công việc được giao,
có phương pháp làm việc khoa học và năng lực vận dụng lý luận vào công tác;
không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho sinh viên. Chức danh của giảng
viên trong hệ thống giáo dục đại học của CAND bao gồm: trợ giảng, giảng viên,
giảng viên chính, Phó giáo sư, Giáo sư.
Như vậy, từ những nhận thức trên, xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà
nước, Bộ công an về cán bộ và công tác cán bộ, có thể xác định: Cán bộ, giảng viên
các Học viện CAND là người công tác tại các Học viện CAND, giữ vai trò tổ chức,
quản lý, tham mưu, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thực hiện các nhiệm vụ phục
vụ cho giáo dục, đào tạo theo chức trách, nhiệm vụ được giao của mỗi cán bộ,
giảng viên trong Học viện.
2.2. ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo
V.I.Lênin khi nói về sự kết hợp nhuần nhuyễn tính nguyên tắc với sự linh
hoạt, sáng tạo trong việc đề ra sách lược cách mạng đã nhấn mạnh: “Tinh thần tuyệt
đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phải được kết hợp với nghệ thuật
biết thực hành tất cả những thoả hiệp cần thiết” [76, tr.100]. Còn trong quan điểm
và PCLV của Hồ Chí Minh, tính đảng, nguyên tắc, tính sáng tạo là hai mặt của một
chỉnh thể thống nhất không thể tách rời. Vào tháng 5/1946, khi vận mệnh dân tộc
đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trước lúc lên máy bay sang Pháp, Hồ
Chí Minh đã giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn: “Tôi
vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở
Cụ và anh em giải quyết cho. Mong cụ “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không
đổi đối phó với muôn sự thay đổi)” [63, tr.235]. Lời căn dặn của Hồ Chí Minh
chính là sự thể hiện sâu sắc của sự thống nhất giữa PCLV kiên định tính đảng,
nguyên tắc với sự năng động, sáng tạo, đổi mới của người cách mạng.
Tính đảng, tính nguyên tắc thể hiện ở việc Hồ Chí Minh luôn luôn giữ vững
lập trường, quan điểm, đường lối của Đảng; tôn trọng pháp luật, chấp hành nghiêm
33
túc, tự giác các nguyên tắc, chế độ kỷ luật, công tác, nghiêm khắc với bản thân, bảo
vệ chân lý, sự thật, phê phán đấu tranh cái sai. Người nói: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng
viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng
không làm nên” [86, tr.307]. PCLV ấy được xuất phát từ đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đặt lợi ích của Đảng, cách mạng và Tổ
quốc lên trên hết; quán triệt mục đích phục vụ nhân dân, kiên định phương hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Sự kiên định những nguyên tắc trong PCLV thể hiện sâu sắc trong nhận thức
và hoạt động của Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do
và hạnh phúc của nhân dân, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thay đổi, dù có
nhiều khó khăn, gian khổ và phải hy sinh cũng kiên quyết đấu tranh để giữ vững và
cũng là mong muốn tột bậc của Hồ Chí Minh trong cuộc đời cách mạng: Cái mà tôi
cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Tính
nguyên tắc trong PCLV Hồ Chí Minh hoàn toàn xa rời sự bảo thủ, trì trệ, giáo điều,
cứng nhắc mà trái lại, luôn đòi hỏi tính năng động, sáng tạo và đổi mới.
Tính sáng tạo trong PCLV của Hồ Chí Minh biểu hiện ở tính chủ động, sáng
tạo trong việc cụ thể hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho phù hợp
với địa phương, đơn vị, đồng thời có đổi mới nội dung, phương pháp công tác theo
hướng hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả công tác, nhạy bén với cái mới.
Đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh lâu dài, nguyên tắc bất biến. Việc lựa chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bởi Hồ Chí Minh nhìn nhận
chủ nghĩa xã hội không chỉ là kết quả tất yếu do sự phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất, mà còn là con đường để giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội phát
triển cao và tốt đẹp hơn so với các chế độ xã hội trước. Đó là con đường đấu tranh
không mệt mỏi, đầy khó khăn, đòi hỏi trí tuệ và sự hy sinh, phấn đấu của nhiều
lớp người, nhiều thế hệ để đạt được mục tiêu. Trong thực tiễn cách mạng, có nhiều
sự biến đổi nhanh chóng, người cách mạng phải luôn vạn biến, sáng suốt, nhạy
bén để linh hoạt biến đổi sách lược, có hình thức, biện pháp đấu tranh thích hợp
34
với điều kiện lịch sử cụ thể. Với sự thông tuệ và trải nghiệm sâu sắc, Hồ Chí Minh
xác định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh
hoạt” [87, tr.555], “cần nhận rõ tình thế để rồi tùy cơ ứng biến mà tiến chứ không
hàm hồ làm bừa một cách vô chính trị” [85, tr.244].
Năm 1945, đối diện với vô vàn khó khăn sau Cách mạng Tháng Tám do các
lực lượng thù trong, giặc ngoài cùng nhau tìm cách chống phá chính quyền cách
mạng non trẻ, Hồ Chí Minh sáng suốt cùng Trung ương Đảng chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sự hiểm nguy, vững vàng tiến bước. Người nắm
vững mục tiêu bất biến là độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ở
từng thời điểm, với từng đối tượng lại có sự nhạy bén, năng động với những sách
lược nhằm phân hóa, cô lập, lợi dụng và loại dần từng kẻ thù. Cứng rắn trong
nguyên tắc, mềm dẻo trong sách lược và nhân nhượng khi cần thiết, nhưng nhân
nhượng không có nghĩa đầu hàng mà chỉ trong chừng mực nhất định và khi kẻ thù
càng lấn tới, chúng ta càng phải quyết giữ cho được nền độc lập dân tộc. Bằng
PCLV linh hoạt, sáng tạo và đổi mới, Hồ Chí Minh đã chứng minh chân lý: Làm
cách mạng không chỉ cần “đúng” mà còn phải “khéo”; không chỉ là lập trường,
quan điểm mà còn là nghệ thuật, mưu lược. Người đã kết hợp một cách hoàn hảo
mối quan hệ giữa hai vấn đề tưởng chừng đối lập: Tính kiên định về nguyên tắc, lý
tưởng, niềm tin và tính linh hoạt, năng động, uyển chuyển, đổi mới trong nhận thức
và hành động.
Vì vậy, sự thống nhất hài hoà giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sự sáng
tạo và đổi mới chính là đặc trưng quan trọng trong PCLV của Hồ Chí Minh.
2.2.2. Sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học
Nói về vai trò của cảm hứng, lòng nhiệt tình đối với sự thành công của việc
lớn, người xưa có câu: “Thiếu nhiệt hứng tất không thành đại sự”. PCLV Hồ Chí
Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn của lòng nhiệt tình cách mạng với tính khách
quan, khoa học, Người nói: “Phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất
cao” [89, tr.277].
35
Sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học trong PCLV
Hồ Chí Minh khiến Người luôn tìm tòi sáng tạo, đề xuất ý kiến hay, những cách
làm tốt, không nề hà gian khổ, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để hoàn
thành nhiệm vụ.
Nhiệt tình cách mạng là một yếu tố quan trọng trong phẩm chất của người
cán bộ để họ say mê, tận tuỵ, hết lòng với công việc, tìm tòi những phương án tốt
nhất nhằm thực hiện công việc. Nếu không có lòng nhiệt tình cách mạng, người cán
bộ sẽ hình thành tư tưởng trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, không hăng
hái, trì trệ trong công tác.
Mặt khác, nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đạt hiệu quả cao nhất khi có sự
kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học. Bởi Hồ Chí Minh nhận thức rằng, nếu chỉ có
nhiệt tình cách mạng mà thiếu tính khoa học, sự am hiểu công việc, tinh thông
nghiệp vụ theo cương vị được phụ trách sẽ dẫn tới làm sai đường lối, chính sách,
thậm chí có thể dẫn đến sự tổn thất cho cách mạng. Trước mỗi bước ngoặt, thử
thách khó khăn, trước nhiệm vụ nặng nề càng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo bình
tĩnh, sáng suốt gắn kết nhiệt huyết cách mạng với lý trí khoa học để đưa ra quyết
định chính xác, tối ưu và tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, triệt để, ít mắc phải
sai lầm nhất. Hồ Chí Minh dạy: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn
đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp,
chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy” [86, tr.279].
Người căn dặn: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ,
cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [91, tr.377]. Do
vậy, việc học tập và tự học tập để bổ sung kiến thức, kinh nghiệm của mỗi cán bộ là
rất cần thiết để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức: “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng
viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập
để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính trị của mình” [86, tr.293].
Phong cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất hài hòa với tư cách của nhà cách
mạng và nhà khoa học. Hồ Chí Minh là tấm gương của người cách mạng làm việc
tận tâm, tận lực, nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân.
36
2.2.3. Sự thống nhất giữa tinh thần dân chủ, tập thể với tính quyết đoán
Sự thống nhất hài hoà giữa PCLV dân chủ với tính quyết đoán của Hồ Chí
Minh cũng chính là việc thực hành nguyên tắc tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân
phụ trách trong Đảng.
PCLV dân chủ Hồ Chí Minh thể hiện ở việc luôn tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, tin tưởng, quý trọng nhân dân vì
chế độ ta “dân là chủ”, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề.
Cách làm việc dân chủ tập thể của Hồ Chí Minh còn kết hợp nhuần nhuyễn
với tính quyết đoán, nâng cao trách nhiệm cá nhân trước tập thể; đưa ra những
quyết định đúng đắn trong những thời khắc quyết định, tranh thủ tối đa cơ hội, sự
thuận lợi trong từng giai đoạn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã dạy: “Làm việc phải
xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm” [83, tr.281]. Cán bộ nếu không
quyết đoán, không nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân sẽ làm giảm sút năng lực,
hiệu quả lãnh đạo, quản lý của cán bộ, cơ hội trôi qua, công việc cũng không thể
thành công và không hoàn thành trách nhiệm. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ lãnh
đạo cần có sự bản lĩnh, tính quyết đoán: “Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi
thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị
quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khan” [86, tr.315].
Hồ Chí Minh là hiện thân của người cách mạng có PCLV dân chủ nhưng
quyết đoán. Người luôn tôn trọng tập thể, biết tận dụng tối đa trí tuệ của tập thể,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân, không thành kiến, dù
đó là ý kiến thiểu số. Hồ Chí Minh cũng là con người của lịch sử, dám quyết định
và dám chịu trách nhiệm trước những bước ngoặt của cách mạng. Khi có những
tình huống cần có sự quyết đoán mau lẹ thì Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm trước Tổ quốc để hành động.
Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam. Sau khi giành được độc lập dân tộc, trước tình thế ngàn cân
37
treo sợi tóc, thù trong giặc ngoài, để tránh sự khiêu khích của các thế lực phản động,
nhằm tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc. Đứng trước tình hình gay go và cấp bách
ấy, tháng 11/1945, Hồ Chí Minh đã tuyên bố “giải tán Đảng” (thực chất là đưa
Đảng rút vào hoạt động bí mật, nhằm tránh sự phá hoại của kẻ thù), vì: “Đảng
không thể do dự, do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng
những phương pháp - dù là phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế” [88, tr.27].
Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng, tay sai, Hồ Chí Minh và Hội đồng
Chính phủ đã bàn bạc và nhất trí để Nguyễn Hải Thần giữ chức Phó Chủ tịch của
Chính phủ, thừa nhận 70 ghế cho Việt Nam cách mệnh đồng minh hội và Việt Nam
Quốc dân Đảng trong Quốc hội không qua bầu cử. Khi quân đồng minh lợi dụng
Hiệp ước Potxdam tràn vào Việt Nam giải giáp quân Nhật, thực chất là tiêu diệt
Đảng và Chính phủ cách mạng, Hồ Chí Minh quyết định nhân nhượng táo bạo qua
sách lược “hòa với Tưởng”, “hòa với Pháp”. Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân viễn
chinh vào miền Nam, Người kiên quyết chủ trương giữ vững thế chiến lược tiến
công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do” [96, tr.131]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Hồ Chí Minh chỉ đạo tập trung thực hiện xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,
chấp nhận đa sở hữu, khuyến khích nhân dân vươn lên làm giàu chính đáng. Những
quyết định mang dấu ấn sâu đậm đó trong sự nghiệp cách mạng đã khẳng định vai
trò mở đường của Hồ Chí Minh. Đó là phong cách của người lãnh đạo, quản lý luôn
thống nhất giữa PCLV dân chủ, tập thể với đề cao tính quyết đoán, giải quyết hài
hòa mối quan hệ dân chủ với tập trung; kết hợp PCLV dân chủ, tập thể với dám thể
hiện vai trò cá nhân trong thực thi chức trách, nhiệm vụ.
2.2.4. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, lý luận gắn liền thực tiễn, tư tưởng,
phong cách, đạo đức thống nhất biện chứng với nhau. Theo Người, lý luận là: “sự
tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên
và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [92, tr.96] và thực tế là: “kinh nghiệm
38
công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm
lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và thế giới” [92, tr.96].
Mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn được Hồ Chí Minh diễn đạt
hết sức phong phú: “Lý luận liên hệ với thực tế” [96, tr.116], “Lý luận kết hợp với
thực hành” [92; tr.400], “Lý luận đi đôi với thực tiễn” [92, tr.611]. Như vậy, khi nói
“liên hệ”, “kết hợp”, “đi đôi” là nói tới sự khẳng định của Hồ Chí Minh về sự
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác
-Lênin” [92, tr.95]. Sự gắn bó giữa lý luận và thực tiễn mang tính biện chứng, trong
đó thực tiễn phải có lý luận soi đường, hướng dẫn; còn lý luận phải dựa trên cơ sở
thực tiễn, phản ánh thực tiễn và luôn liên hệ với thực tiễn. Không có lý luận sẽ rơi
vào chủ nghĩa kinh nghiệm; thiếu thực tiễn sa vào chủ nghĩa giáo điều và suy cho
cùng, chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ nghĩa giáo điều đều là kết quả của sự chủ
quan, duy ý chí. Người nhấn mạnh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông” [92, tr.95].
Để hình thành PCLV lý luận gắn với thực tiễn, Hồ Chí Minh khuyên mỗi
cán bộ phải nâng cao trình độ lý luận, khắc phục bệnh tuyệt đối hoá kinh nghiệm và
chủ nghĩa kinh nghiệm, không ngừng trau dồi lý luận, gắn việc học tập nghiên cứu
lý luận với công việc thực tế của mình, vì “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [86, tr.273].
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, đã có lý luận thì phải liên hệ chặt chẽ với thực
tiễn để tránh bệnh lý luận suông, giáo điều. Lý luận chỉ có ý nghĩa khi nó được vận
dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn trong vai trò dẫn đắt, chỉ đạo hoạt động thực
tiễn đi tới kết quả: “Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận
suông” [86, tr.274]. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một đặc trưng quan
trọng trong PCLV của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là biện pháp cơ bản để ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong PCLV của cán bộ, đảng
viên trong mọi thời kỳ cách mạng.
Như vậy, PCLV Hồ Chí Minh có những đặc trưng chủ yếu là: Sự thống nhất
giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo, nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học,
39
tinh thần dân chủ tập thể với tính quyết đoán, sự thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn. Mỗi đặc trưng trên đều phản ánh một khía cạnh riêng trong việc thực hiện và
giải quyết công việc của Người, đồng thời gắn bó chặt chẽ với nhau. Trước yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng trong mọi giai đoạn, đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên
cần nghiên cứu, học tập và làm theo những đặc trưng trong PCLV của Người để có
thể hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân.
2.3. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH
2.3.1. Phong cách làm việc quần chúng
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cách thức làm việc của
người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần chúng nhân
dân. Đây là nét độc đáo, đặc sắc riêng có của Hồ Chí Minh. Cách làm việc này xuất
phát từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân
lãnh tụ và quần chúng nhân dân, của tư tưởng trọng dân, thân dân trong nền văn hoá
truyền thống như: “Nước lấy dân làm gốc”, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ,
bền gốc” của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi. PCLV quần chúng Hồ Chí
Minh còn bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, họ vừa là lực
lượng sản xuất cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, đồng thời cũng là người
sáng tạo, lưu giữ những giá trị tinh thần.
Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh thể hiện trên các khía cạnh
của phong cách sâu sát, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối nhân dân của
những người cán bộ cách mạng. Cụ thể là:
2.3.1.1. Đặt lợi ích của dân lên trên hết
Hồ Chí Minh khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” và Người coi đó là
kim chỉ nam cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là
người đứng đầu. Người cán bộ đã coi trọng nhân dân thì phải biết hy sinh vì nhân
dân, chứ đánh giá cao nhân dân nhưng đến với nhân dân chỉ nghĩ đến lợi ích của cá
nhân mình, cục bộ, tự tư, tự lợi thì dân sẽ không nghe, cần phải: “Việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh” [85, tr.51]. Phong
40
cách quần chúng ở Hồ Chí Minh được thể hiện: Người cán bộ phải được dân tin;
dân nghe, dân theo; dân sẵn sàng thực hiện, thực hành mọi chủ trương, đường lối
Đảng, Nhà nước.
Với quan điểm vì lợi ích của nhân dân: “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [85, tr.64] nên ngay
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh
đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước
mắt của nhân dân là chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ
thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đoàn kết. Ðể
cứu nhân dân khỏi nạn đói đang trầm trọng, Hồ Chí Minh đề nghị đồng bào cả
nước và Người đã gương mẫu thực hiện trước: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [85, tr.33].
Nhờ những biện pháp tích cực trên, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả
nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói. Phong trào tăng gia sản xuất
được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu tăng, nạn đói đã sớm được khắc
phục. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát động. Thực hiện lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những
người chưa biết chữ. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi”
[85, tr.40-41], phong trào thanh toán nạn mù chữ đã dâng cao trong cả nước, chỉ
trong thời gian ngắn, hơn hai triệu người đã biết đọc, biết viết. Công tác văn hóa,
giáo dục, y tế cũng được quan tâm, tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được
khẳng định và phát huy.
Lòng yêu thương nhân dân, phấn đấu vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân
dân trong tư tưởng, tình cảm và phong cách của Hồ Chí Minh không chỉ là sự cảm
thông, chia sẻ với nỗi đau, sự nhọc nhằn của nhân dân lao động mà quan trọng
hơn, là thức tỉnh họ đứng lên đấu tranh cho cuộc sống hạnh phúc, ấm no của mỗi
người. Phong cách ấy của Hồ Chí Minh còn có giá trị cổ vũ nhân dân các dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống nạn áp bức dân tộc, bất công xã hội, chống nghèo đói,
lạc hậu, dốt nát, hướng tới độc lập tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn
nhân loại.
41
Đối lập với PCLV luôn vì lợi ích của nhân dân là chủ nghĩa cá nhân, từ chủ
nghĩa cá nhân mà sinh ra tham lam, vi phạm đến quyền lợi, lợi ích của dân, mưu
“vinh thân, phì gia”, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên và hệ thống chính trị. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải: “Đặt lợi ích của
cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết” [96, tr.547]
2.3.1.2. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân
Đánh giá vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh nói: “Có lực lượng dân chúng
việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng
không xong” [86, tr.335]. Bởi, “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt
thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại” [91, tr.63].
Để hình thành PCLV gắn bó chặt chẽ với nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu
cán bộ trong công tác phải thường xuyên tiếp xúc làm việc với nhân dân, nắm tâm
tư nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của họ. Đó là phong cách
người cán bộ cách mạng không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; đi sâu vào cơ
sở, liên hệ mật thiết với nhân dân để nắm bắt nguyện vọng, ý chí của nhân dân,
hướng dẫn, giúp họ thực hiện khát vọng, ý chí của mình. Sự gắn bó, liên hệ mật
thiết với nhân dân sẽ giúp người cán bộ được lòng dân, tích cực giúp đỡ cho công
tác của người cán bộ. Người lấy một thí dụ:
Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi
nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm
vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có
hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được.
Muốn được như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu
không thế thì sẽ thất bại [88, tr.270].
Phong cách làm việc liên hệ chặt chẽ với nhân dân để đạt hiệu quả cao thì
công tác dân vận phải được thực hiện tốt. Đó là kết quả của quá trình làm việc luôn
“óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, thật sự yêu dân, kính
dân, thương dân và hiểu dân, biết vận động nhân dân làm tốt những việc có lợi cho
cách mạng, “thật sự gần gũi nhân dân, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân
42
dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân” [93, tr.438]. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải chịu khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, xuống
cơ sở phải nắm tình hình, đưa ra được các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho địa
phương, cho các ngành. Phải nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, cả những ý
kiến trái chiều, cán bộ huyện thì “phải đi xuống xã mà xem xét, kiểm tra, chớ làm
theo lối quan liêu, tỉnh gửi giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã” [96, tr.280-281].
Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương điển hình về phong cách gần gũi, sâu
sát với nhân dân. Trong cuộc sống đời thường và quá trình hoạt động cách mạng,
Người thường đi thăm hỏi, gặp gỡ chiến sĩ và nhân dân các địa phương để tìm hiểu
tình hình và tâm tư, mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Từ sự hiểu biết thực
tiễn đời sống của nhân dân để hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước sao cho phù hợp. Ở Hồ Chí Minh, mọi hoạt động đều thể hiện tư tưởng
“Nước lấy dân làm gốc”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” [93, tr.672].
2.3.1.3. Việc gì cũng bàn với dân, giải thích cho dân hiểu rõ
Hồ Chí Minh nêu vấn đề: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân
dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm
trước nhân dân [86, tr.285].
Từ chỗ đánh giá cao vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước trong bất cứ việc gì cũng phải hỏi ý kiến và tìm hiểu
kinh nghiệm của dân: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng
thì không thể làm được… Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng
trở nên dễ dàng và làm được tốt” [96, tr.279]. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử,
là chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử, cá nhân dù có tài giỏi mấy cũng
không thay thế được nhân dân. Do đó, mọi chủ trương, chính sách đưa ra, nếu
không có sự bàn bạc, giải thích cho nhân dân, trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và lợi
ích của nhân dân, mà lại thi hành theo cách quan liêu, mệnh lệnh, ép nhân dân thực
hiện “thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt
chính trị, là thất bại” [86, tr.333]. Chính trị Hồ Chí Minh nói đến ở đây là lòng dân.
Suy giảm lòng tin, mất lòng tin của dân vào Đảng là mất tất cả.
43
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng căn dặn, lắng nghe dân, bàn bạc với dân là
điều cần thiết, nhưng không “theo đuôi” dân, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng
cứ nhắm mắt theo” [86, tr.337] vì dân chúng trông thấy từ dưới lên, nên sự trông
thấy cũng có hạn. Nơi nào có quần chúng thì ở đó nhất định có 3 hạng người là:
hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém. Trong đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa,
nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn, “người lãnh đạo phải dùng
hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng
vừa vừa và kéo hạng kém tiến lên” [86, tr.329]. Người cán bộ cách mạng cần có bản
lĩnh, nghiệp vụ để nâng cao trình độ, sự giác ngộ của một bộ phận quần chúng
“chậm tiến” và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
2.3.1.4. Thường xuyên tự phê bình và hoan nghênh nhân dân phê bình
Kế thừa quan điểm của Lênin về những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới,
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng
viên và tạo điều kiện, cơ chế để nhân dân phê bình cán bộ, giúp cán bộ nhận thức,
sửa chữa những hạn chế, thiếu sót trong công tác. Đó cũng chính là quy luật phát
triển của Đảng - sự phát triển đó bao hàm tự chỉnh đốn và đổi mới.
Hồ Chí Minh nói: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”
nếu “không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được” [85,
tr.28] vì “Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình
cho tư tưởng và hành động đúng đắn” [88, tr.80]. Hồ Chí Minh quan niệm, trong
sinh hoạt và trong công tác, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, cái hay và cái dở,
cái thiện và cái ác, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Để làm tốt việc tự phê bình, Hồ Chí
Minh nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải có thái độ thành khẩn, phải trung thực
và kiên quyết, xuất phát từ cái tâm trong sáng của mỗi người, phải thật thà, không
che giấu khuyết điểm của mình, không quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm,
đó là điều bất bình thường. Chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì mỗi
cán bộ, đảng viên mới nhận rõ: ta và địch, cái ưu và cái khuyết, cái đúng và cái
sai, cái tốt và cái xấu. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự
44
phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng
phát triển” [86, tr.307].
Muốn phê bình đúng, trước hết phải xác định đúng mục đích và đối tượng
phê bình: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để
sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”
[86, tr.272]. Cách phê bình phải thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan, thái độ
phê bình có văn hóa, mang tính xây dựng; tuyệt đối không được “phùng mang trợn
mắt” làm thui chột tinh thần của cán bộ, nhân dân. Tránh tuyệt đối hiện tượng lợi
dụng phê bình để công kích, nói xấu, hạ bệ nhau, Hồ Chí Minh nói: “Không phải vì
Ðảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi
bướng, trả thù, tiểu khí” [86, tr.298]. Phê bình việc làm hay những suy nghĩ sai lầm,
khuyết điểm dù là của đảng viên hay cán bộ lãnh đạo đều phải phê bình một cách
kiên quyết và lập tức sửa chữa. Người bị phê bình phải có tinh thần nhìn rõ khuyết
điểm để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà giảm ý chí hoặc sinh ra oán ghét.
Tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng là cần thiết, nhưng cán bộ
cũng cần chú ý tự phê bình trước nhân dân, không nên “tự đóng cửa bảo nhau”,
giải quyết nội bộ. Tự mình phải mạnh dạn công khai tự phê bình, có khuyết điểm
cần thẳng thắn nhận khuyết điểm, dù đó là việc làm khó khăn, đau đớn. Khi
được nhân dân phê bình, cần tiếp thu với thái độ thực sự cầu thị chứ không chỉ
nhận lỗi qua loa hoặc tìm cách bao biện, rồi lại “chứng nào tật nấy”. Mỗi cán bộ
phải hiểu rằng, nhân dân tài giỏi, thông minh, cái gì họ cũng nghe, cũng thấy,
cũng biết. Đã làm việc thì sẽ có lúc không tránh khỏi khuyết điểm. Người cán bộ
không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ không dám tự phê bình, không dám thẳng thắn
nhìn nhận khuyết điểm.
Không chỉ kêu gọi, nhắc nhở cán bộ, bản thân Hồ Chí Minh luôn gương mẫu
tự phê bình và yêu cầu cán bộ, đảng viên cùng nhân dân thẳng thắn góp ý cho mình:
Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa
chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy
cớ “nể Cụ” không nói là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không
45
quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói
cho người ta sửa, tức là hại người ta [86, tr.260].
Lời dạy của Hồ Chí Minh mộc mạc, giản dị mà sâu sắc, có tính thuyết phục
cao. Phong cách tự phê bình của Người không chỉ thể hiện vai trò gương mẫu của vị
Chủ tịch Đảng, mà còn chỉ cho mọi cán bộ, đảng viên thấy tác hại của việc né tránh
phê bình; đồng thời, khuyến khích mọi người mạnh dạn phê bình, không nên vì
“nể” mà phá vỡ nguyên tắc trong phê bình dẫn đến sự nguy hại lớn cho Đảng.
2.3.1.5. Sẵn sàng học hỏi nhân dân
Năm 1950, tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và
học tập, Hồ Chí Minh chỉ dạy cán bộ, đảng viên: “Không học nhân dân là một thiếu
sót rất lớn” [87, tr.361]. Nhiệm vụ chủ chốt của Chính phủ và Đảng là phụng sự
nhân dân. Muốn làm được như vậy, phải gần gũi dân, nghe ngóng và hiểu biết dân,
học hỏi nhân dân, dựa vào nhân dân. Bốn điều đó cán bộ phải thuộc lòng và ra sức
thực hành. Cán bộ nếu không gần gũi thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân
sẽ không học hỏi được kinh nghiệm, trí tuệ của dân, “không lãnh đạo được dân”
[87, tr.432].
Người cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phải nhận thức rằng, sự hiểu biết
và kinh nghiệm của bản thân cũng chưa đầy đủ cho việc lãnh đạo. Vì vậy, cán bộ
cần học hỏi kinh nghiệm, trí tuệ của nhân dân để làm giàu kinh nghiệm cho mình.
Mỗi chính sách phải dựa vào ý kiến, mong muốn của nhân dân. Sinh thời, Hồ Chí
Minh đã căn dặn lực lượng CAND: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công
nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn.
Dân ta rất tốt” [88, tr.270].
Đồng thời, cán bộ phải tin yêu, tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng
góp phê bình xây dựng của họ; không chỉ giáo dục mà còn phải học hỏi và nêu
gương cho nhân dân noi theo. Trong cách làm việc cần nắm vững tình hình chất
lượng nhân dân mà phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc
cho hiệu quả, mặt khác phải hiểu rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của nhân dân
là “họ hay so sánh”, tai mắt họ nhiều nên việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế,
46
“người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh”
[86, tr.337].
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc
phục cách làm việc quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Người yêu cầu các
đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi
kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi
thực tiễn cơ sở ít. Bởi thực tế đã chứng minh, chỉ có đi sâu vào quần chúng, thực
sự hoà mình trong phong trào của quần chúng mới có cơ sở để hoạch định những
chủ trương, quyết sách hợp quy luật, thuận lòng dân, đáp ứng kịp thời những thay
đổi của thực tiễn.
2.3.1.6. Tự mình cần, kiệm, liêm, chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con người, nhất là người cộng sản giữ
cương vị lãnh đạo phải có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính. Quan điểm đó chính là
sự kế thừa từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo lý làm người của
cha ông, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đối với người cán bộ cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính là những chuẩn mực đạo
đức hàng đầu, thể hiện trong mối quan hệ với “tự mình”, là cái gốc, cái căn bản để
thực hiện lý tưởng và mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh viết:
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì [86 tr.292-293].
Để thấm nhuần chuẩn mực đạo đức, trong công tác, cán bộ, đảng viên phải
vượt qua rào cản của chủ nghĩa cá nhân, nó là kẻ địch ở trong lòng, là nguồn gốc
của mọi cái xấu, trái với đạo đức cách mạng. Người nói: “Công an đánh địch bên
ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn” [92, tr.599]. Do vậy,
mỗi cán bộ cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tiên
phong gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính, kiên quyết đấu tranh với tệ
47
quan liêu, tham nhũng, lãng phí; thực hiện phương châm “đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”; là người “miệng nói, tay làm”. Trong PCLV và sinh hoạt, người
cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì
có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh những suy nghĩ sai trái,
những hành động lệch lạc của một bộ phận cán bộ: “Phải ăn mặc bảnh mới giữ
được oai tín, giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì
phải làm việc cho giỏi” [86, tr.241].
Sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đến việc rèn luyện tư cách, phẩm
chất của cán bộ, đảng viên được thể hiện sâu sắc trong những tác phẩm nổi tiếng
của Người, như: Năm 1927, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đường Cách mệnh” để
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặt nền móng
tư tưởng lý luận, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cách mạng. Mở đầu,
Hồ Chí Minh nêu “Tư cách người cách mệnh”, nổi bật là “giữ chủ nghĩa cho vững”
và “ít lòng tham muốn về vật chất” [83, tr.280]. Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc”, Người viết: để công cuộc “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất
thành”, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình rèn luyện cần, kiệm, liêm,
chính, phải tự mình chỉnh đốn, “sửa đổi lối làm việc”, “tự phê bình và sửa chữa”;
chống bằng được những căn bệnh quan liêu, xa dân, xa rời thực tế, lý thuyết suông,
chủ nghĩa kinh nghiệm, thói coi khinh lý luận, không chịu học, ngại khó, ngại khổ,
học mà không hành.
Phong cách lãnh đạo, lối làm việc gần dân, hiểu dân, vì dân của Hồ Chí
Minh là những bài học về rèn luyện PCLV quần chúng cho cán bộ cách mạng
trong thực tiễn. Khi người cán bộ thấm nhuần PCLV quần chúng sẽ được quần
chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ thực hiện cũng
thành công.
2.3.2. Phong cách làm việc tập thể - dân chủ
Là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, ở đỉnh cao của quyền lực, nhưng Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn có PCLV tập thể và dân chủ. Gắn bó với tập thể, tôn trọng,
phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo trong suy nghĩ và hành
48
động của Người. PCLV tập thể, dân chủ của Hồ Chí Minh được thể hiện trong
những nội dung:
2.3.2.1. Phong cách làm việc tôn trọng tập thể
Tôn trọng tập thể là một nội dung PCLV xuất phát từ nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước ta. Cán bộ lãnh
đạo, trong hoạt động phải luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể để có được quyết định
chính xác và kịp thời nhất.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý biết lắng nghe ý kiến của mọi người, tôn
trọng các quyết định của tập thể sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và
quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình, ủng hộ của tập thể, vì: “Một người dù khôn
ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xét
thấy được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét
tất cả mọi mặt của một vấn đề” [86, tr.619]. Chỉ có trí tuệ tập thể mới khơi hết
được những kinh nghiệm chung, trí tuệ lớn để đưa ra được quyết định đúng, Hồ Chí
Minh nêu: “Có bàn bạc tập thể, có dân chủ thì công việc mới thực hiện được, tập
thể mới thông suốt, đồng thuận, nhất trí, quyết tâm thực hiện” [86, tr.619].
Người cán bộ cần lắng nghe quần chúng, khơi gợi cấp dưới thể hiện ý kiến
của mình, khuyên cán bộ của mình mạnh bạo, “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”,
cán bộ không sợ nói sự thật và lãnh đạo mong muốn, khuyến khích nói sự thật.
Làm được như vậy sẽ thể hiện dân chủ thật sự trong Đảng. Tránh tuyệt đối hiện
tượng: “Họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội
bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám
nói, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản [86, tr.320].
Với tác phong làm việc tôn trọng tập thể, Hồ Chí Minh không bao giờ đặt
mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn tranh thủ
bàn bạc với tập thể, tạo ra được bầu không khí làm việc hăng hái, thúc đẩy tinh thần
nhiệt huyết và sự sáng tạo của cán bộ. Năm 1968, Hồ Chí Minh bàn với cán bộ về
việc làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”, Người nói: “Bác muốn bàn
luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt
49
được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ,
rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa” [96, tr.661]. Trong các cuộc họp,
Hồ Chí Minh luôn trân trọng và chú ý lắng nghe các ý kiến của từng cán bộ. Khi
đến với đồng bào Người không chỉ nghe báo cáo của cán bộ các cấp, các ngành mà
còn chú ý những ý kiến của quần chúng nhân dân. Đối với những tài liệu quan
trọng, Người đều gửi đến các đồng chí lãnh đạo đóng góp ý kiến trước khi đưa ra
quyết định cuối cùng, trao đổi với các đồng chí phục vụ về những bài báo để họ góp
ý những chỗ còn khó hiểu trước khi đăng. PCLV tôn trọng tập thể chính là phương
châm chỉ đạo suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.
2.3.2.2. Phong cách làm việc dân chủ
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ” [91, tr.378] và khi
dân là chủ thì cách lãnh đạo phải dân chủ.
Phong cách làm việc dân chủ của Hồ Chí Minh được biểu hiện trong
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo tinh thần:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung” [86, tr.620]. Vai trò của tập
trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo
thành sức mạnh to lớn trong tiến trình cách mạng. Cùng với đó, thực hành dân chủ
rộng rãi trong Đảng sẽ làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, tăng cường sức mạnh
lãnh đạo của Đảng.
Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để thực hiện và giải quyết mọi vấn
đề, “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” [86, tr.284].
Công việc gì cũng cần phát huy sức mạnh tập thể, một cá nhân không thể hiểu biết
được mọi thứ, làm hết được mọi việc. Do đó, cán bộ, đảng viên phải biết tập hợp
được tài năng, trí tuệ của tập thể để phấn đấu cho mục tiêu chung, để “Đảng ta tuy
nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người” [87, tr.17]. Cán bộ lãnh
đạo khi quyết định mọi việc không được theo ý kiến chủ quan của mình mà luôn
mở rộng dân chủ, tranh thủ, động viên mọi người tham gia vào các quyết định; khi
quản lý, điều hành và giải quyết các nhiệm vụ phải tạo không khí làm việc dân chủ
50
thực sự để cán bộ và nhân dân hăng hái, tích cực đề ra sáng kiến. Cán bộ có PCLV
dân chủ sẽ phát huy tinh thần cống hiến, sự sáng tạo của tập thể và làm cho tổ chức
cơ quan ngày càng thêm phát triển.
Trái với PCLV dân chủ là PCLV quan liêu. Hồ Chí Minh phê phán những
người cán bộ: “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ.
Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần
chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” [88,
tr.176]. PCLV độc đoán, chuyên quyền sẽ dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo
của đảng viên và nhân dân. Trong cách mạng, chúng ta kêu gọi cán bộ, đảng viên
phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng thực tế, vẫn không có nhiều sự
sáng tạo và hăng say, nhiệt tình trong công tác. Đó là vì lẽ gì? Hồ Chí Minh xác
định một trong những nguyên nhân đó là: “Cách lãnh đạo của ta không được dân
chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân
chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”
[86, tr.283]. Từ cách lãnh đạo không dân chủ, khiến cán bộ dưới quyền không có
sự tích cực, hăng hái trong công việc và nhân dân không dám góp ý, phê bình, tạo
khoảng cách lớn giữa cán bộ các cấp, Đảng không liên hệ mật thiết với quần
chúng nhân dân.
Do đó, cán bộ lãnh đạo ở cương vị càng cao càng phải có PCLV tập thể -
dân chủ thật sự để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn của tổ chức.
2.3.3. Phong cách làm việc khoa học
Hồ Chí Minh ngay từ sớm đã nhận thức được một trong những thiếu hụt
của xã hội Việt Nam cổ truyền là chưa hình thành được một tác phong khoa học.
Điều này xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu với tư duy nông
nghiệp - một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học phát triển,
nên khái niệm khoa học, phương pháp, tác phong khoa học chưa trở thành mặt chủ
đạo của ý thức toàn xã hội. Nhiều năm lao động, hoạt động tại nước ngoài, trong
đó có các nước tư bản phát triển, có cơ hội học hỏi những thành tựu của nền khoa
học, kỹ thuật, tiếp xúc với phong cách hiện đại ở phương Tây, nên Hồ Chí Minh
51
thường xuyên tự rèn luyện để xây dựng cho mình PCLV khoa học trong công tác,
lãnh đạo và chú ý rèn luyện cán bộ, đảng viên xây dựng tác phong khoa học,
“cách làm việc có khoa học”.
Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã quan tâm huấn luyện cách làm việc, lối
làm việc cho cán bộ. Trong thư gửi chi bộ đảng trường Đại học phương Đông,
Người đề nghị cần giáo dục cho những người cộng sản An Nam ở đây “cho họ có
thể học cách làm việc”. Sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh căn dặn
cán bộ chính quyền các cấp cần lưu ý: “Cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải
biết các làm việc cho có phương pháp”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ
Chí Minh viết: “Nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì
thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa”. PCLV khoa học của Hồ Chí Minh đòi hỏi
cách làm việc phải xuất phát từ thực tế, nắm vững, tôn trọng quy luật khách quan;
có kế hoạch; đổi mới, sáng tạo và gắn liền với kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm.
Đối lập với phong cách làm việc khoa học là thói tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí, gặp
chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, không có hiệu quả. Bản Hồ Chí Minh
đã nêu tấm gương sáng ngời về PCLV khoa học.
2.3.3.1. Phong cách làm việc xuất phát từ thực tế, nắm vững, tôn trọng quy
luật khách quan
Tôn trọng thực tế khách quan luôn là yêu cầu tất yếu trong PCLV khoa học
Hồ Chí Minh. Người dạy, cán bộ muốn lãnh đạo đúng, “trước hết phải quyết định
mọi vấn đề một cách cho đúng… phải tổ chức sự thi hành cho đúng” [86, tr.325].
Để có cách quyết định và thi hành công việc một cách đúng đắn, cán bộ phải
giải quyết trên cơ sở dựa vào kết quả điều tra, nghiên cứu chính xác, nắm chắc và
hiểu thấu vấn đề ở các mặt. Làm việc dựa trên điều kiện tôn trọng thực tế khách
quan, đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu cụ thể tình hình, không bóp méo sự thật.
Người nói: “Đảng có hiểu rõ tình hình thì đặt chính sách mới đúng. Mà muốn
Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ phải điều tra, báo cáo rõ ràng” [86, tr.307].
Cán bộ cũng cần có tầm nhìn xa trông rộng trong chiến lược công tác,
không được vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến mục tiêu lớn. Đó là tư duy,
52
tầm nhìn của người có PCLV khoa học, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng.
Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ” [86,
tr.297]. Đồng thời, cán bộ cần tích cực, chủ động đấu tranh chống bệnh làm việc
theo cách quan liêu, mệnh lệnh, chỉ nghe người ta báo cáo rồi ra quyết định, thay thế
sự phân tích đánh giá khách quan tình hình bằng cảm tính chủ quan, áp đặt, duy ý chí
mà không đi sâu đi sát thực tế, xem tận nơi, tận chỗ. Hồ Chí Minh nêu thực tế: “trong
Đảng ta có một số người như thế. Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày
này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được” [86, tr.327].
Tại nhiều hội nghị với cán bộ các ngành, các cấp, cả ở Trung ương và địa
phương, Hồ Chí Minh từng thẳng thắn phê phán những cán bộ mắc phải “bệnh giáo
điều” phô trương kiến thức; chỉ “thuộc sách làu làu, Cụ Mác nói thế này, Cụ Lênin
nói thế kia” [96, tr.668], rồi áp đặt vào thực tiễn. Nguyên nhân của “bệnh kinh
nghiệm” xuất phát từ việc “kém lý luận”, hoặc từ thái độ “khinh lý luận”. Hồ Chí
Minh ví von: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ” [86, tr.274]. Nếu cán bộ lãnh đạo mắc “bệnh kinh nghiệm”, “bệnh giáo
điều” thì trong công tác thường thể hiện “lý luận suông”, làm việc dễ rơi vào chủ
quan, duy ý chí.
Bản thân Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã giành
nhiều thời gian đến các địa phương, cơ sở, hoà mình vào đời sống của nhân dân để
xem xét kỹ thực tiễn và đưa ra những quyết định đúng đắn do đã nắm vững tình
hình. Đã có người nước ngoài đánh giá phong cách của Hồ Chí Minh: Khi chúng tôi
bắt đầu nói về Việt Nam, tôi hiểu rằng, Người đã biết từ những chi tiết nhỏ nhất
trong hoạt động của đất nước. Và về mỗi vấn đề, Người đều có nhận định với một
cách nhìn rất rộng. Tôi hiểu vì sao nhân dân kính yêu Người như vậy.
2.3.3.2. Phong cách làm việc có kế hoạch
Ngay từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã hướng dẫn cán bộ “Đối với công việc
phải thế nào? Trước hết, phải nghĩ cho kỹ” [86, tr.68]. Đây chính là yêu cầu cơ bản
của PCLV khoa học, trong công tác phải có kế hoạch, nội dung, chương trình rõ
ràng, không chung chung, qua loa, sơ sài.
53
Theo Hồ Chí Minh, PCLV khoa học được đảm bảo khi đặt kế hoạch phải
nhìn xa, thấy rộng, mới quyết định và sắp đặt các công việc một cách hiệu quả, phù
hợp tình hình thực tiễn. Khi đi vào thực hiện phải rất tỉ mỉ, chu đáo, thật sát với mỗi
cơ sở. Thực tế, cán bộ, đảng viên trong công tác thường gặp một khuyết điểm là đầu
tư nhiều công sức vào việc đặt ra nhiều chương trình, kế hoạch khác nhau, rất to tát,
nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được kế hoạch, chương trình đã đặt ra. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Đặt ra kế hoạch và chương trình không xét năng lực của những
người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà
việc gì làm cũng không triệt để [86, tr.463]. Từ thực tiễn và kinh nghiệm của mình,
Người căn dặn cán bộ phải đặt kế hoạch khoa học, sát thực, phù hợp, “không nên
luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy” [86, tr.332].
Muốn thực hiện thành công kế hoạch đã đặt ra, cán bộ và nhân dân cần có
tinh thần quyết tâm cao. Nếu chương trình, kế hoạch có hay đến mấy, nhưng tổ
chức thi hành không đúng, thiếu biện pháp thích hợp, người thi hành thiếu quyết
tâm thì mọi chương trình, kế hoạch đều thất bại. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, sự
quyết tâm phải được thể hiện bằng thực tế, phải nhớ kỹ rằng: “Kế hoạch 10 phần,
thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” [95; tr.485]. Để có tinh thần hoàn
thành tốt kế hoạch, điều quan trọng nhất là bồi dưỡng tư tưởng, chính trị cho cán bộ
và quần chúng, làm cho mỗi người có tinh thần làm chủ tập thể, ý chí cần kiệm xây
dựng nước nhà. Cùng với đó, “quần chúng và cán bộ ta phải kết hợp tinh thần cách
mạng với thái độ khoa học, để hoàn thành thắng lợi kế hoạch” [95, tr.463].
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người có nhiều năm công tác gần gũi bên Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết kinh nghiệm:
Học phương pháp khoa học của Hồ Chủ tịch là học làm việc có chương
trình, có kế hoạch, có tổ chức, việc lớn, việc nhỏ, việc nhất thời, việc
trường cửu đều phải thế. Chúng ta hãy nhớ rằng: Lúc Hồ Chủ tịch giao
công việc cho một người, người ấy phải thảo kế hoạch tiến hành rồi bàn
với Hồ Chủ tịch trước khi thi hành. Kế hoạch ấy, Hồ Chủ tịch thường
dạy, phải sát thực tế, phải vừa sức mình [55, tr.32].
54
2.3.3.3. Phong cách làm việc đổi mới, sáng tạo
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh luôn đổi mới, sáng tạo, không chấp
nhận tư duy “lối mòn”, kinh nghiệm chủ nghĩa, mà luôn cải tiến cách làm, phương
pháp để hiệu quả công việc ngày càng tốt hơn. Người có quan niệm: “Tư tưởng bảo
thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì
phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm” [94, tr.340]. Hồ Chí Minh là một
tấm gương về đổi mới, có sức khơi gợi, kích thích sự sáng tạo cho mỗi cán bộ, đảng
viên. PCLV khoa học yêu cầu người cán bộ cần tuân thủ theo mục đích, chương
trình, kế hoạch đã đề ra, tuy nhiên, biện chứng của cuộc sống là mọi sự vật, hiện
tượng luôn luôn vận động và phát triển trong sự phong phú, đa dạng, trong những
trường hợp nhất định, không nên cứng nhắc, giáo điều.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên cần sáng tạo không
ngừng, đổi mới phương pháp công tác theo hướng hiện đại, chủ động trong cụ thể
hóa quan điểm, đường lối của Đảng cho phù hợp với địa phương, đơn vị. Hồ Chí
Minh phê bình một vài cán bộ “còn có tư tưởng bảo thủ không chịu tiếp thu dễ dàng
cái hay, cái mới” [94, tr.63].
Tuy nhiên, sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo trong công tác của người cán
bộ phải luôn thống nhất với nguyên tắc “tính Đảng” - nghĩa là phải đúng với quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tránh tuyệt đối
trường hợp: “Muốn làm gì cứ tự ý làm bừa đi, chẳng bàn hỏi thảo luận với ai, không
theo pháp luật Chính phủ ban hành, không dựa vào ý nguyện dân chúng” [85, tr.45],
bởi làm như thế sẽ “hại đến uy tín của Chính phủ, làm cho dân chúng oán thán, kêu
ca” [85, tr.45].
Có thể khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà khoa học, nhà cách mạng mang
phong cách đổi mới, sáng tạo. Quan điểm đó được thể hiện sâu sắc trong toàn bộ
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, trong việc thực thi những đổi mới sáng
tạo cho đất nước về kinh tế, chính trị, chính sách đối nội, đối ngoại… Tư tưởng và
PCLV đổi mới sáng tạo của Hồ Chí Minh chính là cơ sở quan trọng cho việc hoạch
định những cải cách, đổi mới, sáng tạo đúng đắn của Đảng để đưa đất nước ta ngày
càng phát triển bền vững.
55
2.3.3.4. Phong cách làm việc có kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm
Người lãnh đạo phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện công việc của cấp dưới
và quần chúng là tinh thần mà V.I.Lênin đã đề ra: Lãnh đạo mà không kiểm tra, có
nghĩa là không lãnh đạo.
Đối với Hồ Chí Minh, lãnh đạo tất yếu phải có kiểm tra vì mục đích của
công tác kiểm tra nhằm: “Huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của
nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ
kịp thời” [86, tr.636]. Kiểm tra, giám sát “mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
các mệnh lệnh và nghị quyết” [86, tr.327]. Nếu cán bộ, đảng viên trong công tác
không thường xuyên kiểm tra, giám sát thì không thể biết đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước có phù hợp với thực tiễn và thi hành đúng quy định
hay không, mà nguy hiểm hơn, còn làm suy giảm lòng tin của quần đối với Đảng và
Chính phủ.
Về cách thức kiểm tra, Hồ Chí Minh hướng dẫn: Kiểm tra phải có hệ thống
nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết, biết
rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương. Kiểm tra
không chỉ bằng báo cáo, mà phải đi đến tận nơi, tìm hiểu rõ ràng, cụ thể. Bên cạnh
kiểm tra, giám sát, cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút kinh nghiệm. Người nói:
“Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội
rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công
việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” [86, tr.283].
Hơn nữa, Hồ Chí Minh nhắc nhở công tác kiểm tra, giám sát phải được thực
hiện thường xuyên. Đối với “người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”
[86, tr.327], Hồ Chí Minh nhấn mạnh về phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ của
cán bộ kiểm tra. Người cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất đạo đức trong sáng
“người rất có uy tín”, đó không chỉ là sự trung thực, công tâm, khách quan mà phải
có năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị vững vàng của người cán bộ kiểm tra. Như
vậy, việc kiểm tra mới hiệu quả.
56
Bản thân Hồ Chí Minh luôn nghiêm túc tổ chức sự kiểm tra, giám sát thường
xuyên từ trên xuống dưới một cách hệ thống để đánh giá hiệu quả hoạt động của
cán bộ, đảng viên và triển khai vấn đề tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm từng
việc, từng chủ trương, thấy rõ hay - dở, đúng - sai, từ đó, bổ sung kịp thời những
chủ trương chưa đúng, chưa đủ và quan trọng hơn là rút ra kết luận để bổ sung cho
lý luận.
2.3.4. Phong cách làm việc nêu gương, nói đi đôi với làm
PCLV nêu gương là một giá trị trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ,
đặc biệt là cán bộ lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói chung thì các dân
tộc phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [82, tr.284].
2.3.4.1. Phong cách làm việc nêu gương
Hồ Chí Minh quan niệm mỗi cán bộ cần nhận thức và giải quyết tốt ba
phương diện: Đối với tự mình, đối với người và đối với công việc.
Ðối với mình, không được tự cao, tự đại và kiêu ngạo. Đó là căn bệnh rất
nguy hiểm. Nếu cán bộ, đảng viên có căn bệnh này sẽ dễ mù quáng, thiển cận, luôn
đề cao lợi ích cá nhân mình, coi thường quần chúng, nhất định sẽ thoái bộ, dừng lại.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ
thêm” [86, tr.90]. Người cán bộ phải luôn học hỏi, rèn luyện để tiến bộ; thường
xuyên tự phê bình để phát huy ưu điểm, nhận ra khuyết điểm kịp thời sửa chữa.
Ðối với người, phải có thật thà, đoàn kết, và có tình thương yêu, bao dung,
độ lượng. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt điều “Nhân”:
“Thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào” [86, tr.291].
Ðối với công việc, cán bộ cần giữ vững nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”,
nghĩa là công tư phân minh, để việc công lên trước việc cá nhân, không sợ khó,
không sợ khổ, tận tâm tận lực hoàn thành tốt; đề cao tinh thần phục vụ nhân dân,
việc gì có lợi cho nhân dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho nhân dân thì hết sức
tránh. Người cũng dạy: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong
anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân” [85, tr.171]. Bản chất của
57
PCLV nêu gương xuất phát từ đạo đức của người cách mạng về vai trò, trách nhiệm
của bản thân trước nhân dân chứ không chỉ là sự thể hiện để bắt nhân dân noi theo.
Trong việc thực hiện phương pháp nêu gương, không chỉ đơn thuần là biểu
dương những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến, mà quan trọng là nuôi dưỡng
những tấm gương, điển hình tiên tiến. Đồng thời, khắc phục mọi biểu hiện của tư
tưởng tự mãn, chủ quan, dừng lại, hoặc chỉ dựa vào những truyền thống đã có để
khuếch trương thành tích. Thực hiện nêu gương cần luôn gắn liền với nhân điển
hình tiên tiến, kịp thời phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm tốt trong giáo dục, rèn
luyện. Để mỗi cán bộ là tấm gương để quần chúng noi theo, mỗi cán bộ cần tự mình
không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, tự mình gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”. Hồ Chí Minh nói: “Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính,
để nhân dân noi theo” [88, tr.177].
Phong cách làm việc nêu gương của Hồ Chí Minh, trong đó, điều nổi bật và
dễ nhận thấy nhất là sự thống nhất giữa lời nói và việc làm; giáo dục và thực hành
đạo đức. Khuyên nhân dân rèn luyện thân thể để có sức khỏe để bảo vệ và xây dựng
đất nước thành công thì bản thân Người ngày nào cũng tập thể dục; phát động Tết
trồng cây, Người tiên phong đi đầu trong việc vun trồng, chăm bón cây xanh;
khuyên thanh niên tự học, Người là một tấm gương tự học không ngừng. Hồ Chí
Minh là biểu hiện sinh động của người lãnh đạo biết lắng nghe tiếng nói của nhân
dân, nghiêm khắc với bản thân nhưng độ lượng hết mực với đồng chí, đồng bào.
2.3.4.2. Phong cách làm việc nói đi đôi với làm
Trong PCLV của Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là sự thống nhất giữa tư
tưởng và hành động, nhận thức và việc làm của người cán bộ, là thước đo sự cống
hiến, tinh thần tận tuỵ, cố gắng và quyết tâm của cán bộ, được thể hiện bằng kết quả
công việc, với những sản phẩm cụ thể. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải lấy kết quả thiết
thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo mà đo ý chí cách mạng của
mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc
không nhằm mục đích nâng cao sản xuất” [94, tr.68].
58
Phong cách làm việc nói đi đôi với làm trong quan điểm của Hồ Chí Minh
yêu cầu người cán bộ phải đảm bảo những nguyên tắc:
Một là, nói đi đôi với làm phải đúng chủ trương, chính sách của Ðảng và
Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững đường lối của Ðảng trong toàn bộ tiến
trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn khác nhau để thực hiện,
tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm cho đúng. Rèn luyện bản lĩnh vững
vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Ðảng, dù trải qua những
tình huống phức tạp, trước những bước ngoặt hiểm nghèo vẫn luôn trung thành với
Ðảng và cách mạng, bảo vệ nền độc lập và xây dựng xã hội mới tiến bộ cho nhân
dân. Ðể nói đúng quan điểm, đường lối của Ðảng, cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên nghiên cứu, trau dồi, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là, nói đi đôi với làm, không được “nói một đằng làm một nẻo”. Không
được nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm. Để chống việc “nói một đằng, làm
một nẻo”, cán bộ, đảng viên cần xác định rõ vai trò, nhiệm vụ bản thân. Khi nói
phải gắn với những công việc, nhiệm vụ cụ thể, không chung chung, đại khái, nghe
thì hay, nhưng không biết thực hiện từ đâu, thực hiện thế nào. Cán bộ phải đi sâu đi
sát, kiểm tra đôn đốc kết quả của việc thực hiện những công việc đã đề ra, không
làm theo lối quan liêu.
Ba là, nói đi đôi với làm, không nói suông, nói mà không làm. “Làm” được
hiểu là hành động, hoạt động thực tiễn, tổ chức thực hiện. Ðối với Ðảng ta, Người
yêu cầu “luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế
nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà
còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Ðảng” [86, tr.290].
Cán bộ muốn tuyên truyền, tập hợp nhân dân thì tự mình phải làm gương
cho người khác. Đối với nhân dân không thể lý luận suông, chính trị suông, nhân
dân cần trông thấy những lợi ích thiết thực từ những tấm gương sáng, những việc
làm của người cán bộ. Phong cách nói và làm của cán bộ không chỉ thể hiện trong
công việc mà còn phải thống nhất trong hoạt động đời thường. Cán bộ lãnh đạo ở
cương vị càng cao, càng phải không ngừng hoàn thiện đạo đức cách mạng, thực
59
hành nói đi đôi với làm. Khi giáo dục cán bộ làm công tác dân vận Người dạy:
“Tuyên truyền phải miệng nói tay làm, phải tùy hoàn cảnh mà tổ chức giúp đỡ nhân
dân thật sự, không phải chỉ dân vận bằng diễn thuyết” [88, tr.219].
Sự kết hợp giữa lời nói và việc làm của người cán bộ phải được vận dụng
vào điều kiện, công việc cụ thể. Nếu tuyệt đối hoá lời nói, xem nhẹ việc làm sẽ dẫn
tới bệnh nói suông; ngược lại, tuyệt đối hoá việc làm mà không tuyên truyền, giáo
dục thì không phát huy được hiệu quả của việc làm. Sự thống nhất giữa lời nói với
việc làm là PCLV đầy sức thuyết phục của người cán bộ, đảm bảo cho họ có được
sự tín nhiệm cao trước tập thể và trước quần chúng vì “lời nói và việc làm của đảng
viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng”
[92, tr.606].
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là sự thống nhất trọn
vẹn giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm. Hồ Chí Minh nêu gương tốt
đúng như những điều Người dạy cán bộ, đảng viên và nhân dân về phẩm chất đạo
đức cách mạng. Người nói ít, nhưng làm nhiều, nói là làm, thường là làm nhiều hơn
nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng thể hiện trong hành động. Tấm gương
nói đi đôi với làm bắt nguồn từ chính quan niệm, từ sự trong sáng, chính tâm, thật
sự nêu gương của Người. Năm 1945, sau ngày tuyên bố nước độc lập, để giải quyết
nạn đói đang hoành hành, Hồ Chí Minh đã kêu gọi với đồng bào cả nước góp gạo
để cứu dân nghèo và nêu gương “tôi xin thực hành trước” một cách nghiêm túc.
Những đồng chí từng phục vụ bên Người kể lại: Một lần tướng Tiêu Văn của quân
đội Tưởng Giới Thạch mời chiêu đãi vào đúng bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu
đói, dù cán bộ có báo cáo là phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói, nhưng
Hồ Chí Minh vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” bù vào ngày hôm sau.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm,
giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và
đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. PCLV Hồ Chí Minh là tấm
gương mẫu mực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập và noi theo, là nguồn
sáng soi rọi vào tâm hồn mỗi con người Việt Nam, hướng mọi người đến chân,
thiện, mỹ của cuộc sống.
60
2.4. GIÁ TRỊ CỦA PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH
2.4.1. Là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo công tác xây dựng phong cách làm
việc của cán bộ, đảng viên
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh được hình thành qua quá trình hoạt
động thực tiễn, thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Người đối với sự vận động của
thực tiễn trong thời đại mới, có giá trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc.
PCLV Hồ Chí Minh mang những đặc trưng mới, độc đáo, riêng có của Người
trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học
phương Đông và Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn cho thấy: chất lượng, hiệu
quả của việc ra quyết định, tổ chức thực hiện, tổ chức kiểm tra, giám sát thực hiện
kế hoạch, tổng kết không chỉ phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất mà còn phụ thuộc
phần quan trọng vào PCLV của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt,
cán bộ giữ vai trò lãnh đạo. Do đó, PCLV Hồ Chí Minh với những nội dung chủ
yếu là: PCLV quần chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học, PCLV nêu
gương là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo công tác xây dựng PCLV mới cho cán bộ, đảng
viên hiện nay.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng ta đã nhấn mạnh vấn đề quan
trọng và cần thiết: Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và
đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh,
và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn. Quan điểm trên của Đảng
chính là sự khẳng định giá trị to lớn, sức sống mạnh mẽ của tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của cách mạng và dân tộc. Phong
cách Hồ Chí Minh đã trở thành tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên học tập và
hoàn thiện nhân cách của mình.
Trong khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta nhận thức ngày
càng sâu sắc giá trị của hệ thống phong cách trong đó có PCLV Hồ Chí Minh ở
từng giai đoạn, từng thời kỳ của quá trình đổi mới. Nghị quyết 04-NQ/TW ngày
30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
61
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-
CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là sự phát triển liên tục trong nhận thức
và chỉ đạo thực hiện của Đảng về giá trị của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện PCLV của cán bộ,
đảng viên để đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn.
Hiện nay, cách mạng Việt Nam và thế giới đang bước vào giai đoạn bước
ngoặt với những chuyển biến không ngừng trong quan hệ địa - chính trị - kinh tế
giữa các nước và vùng lãnh thổ. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của
nước ta cùng với những tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đã
dẫn đến sự thay đổi trong các mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc nói chung và
giữa các giai cấp, các thành phần trong xã hội Việt Nam nói riêng. Do vậy, PCLV
Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trong việc định hướng xây dựng, rèn luyện PCLV của
mỗi cán bộ, đảng viên nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của dân tộc trước
những thách thức của thời đại.
2.4.2. Là cơ sở để cán bộ, đảng viên rèn luyện, tu dưỡng phong cách,
phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn
Phẩm chất, nhân cách của người cán bộ được cấu thành bởi các yếu tố: đạo
đức, năng lực và PCLV. Trong đó, PCLV của một người không thụ động, mà có tác
động tích cực góp phần củng cố, hoàn thiện và phát triển phẩm chất, năng lực của
chính cá nhân đó. Bởi, một trong những con đường để cán bộ có thể hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao là họ xây dựng và kiên trì thực hiện đúng các khâu
trong quy trình hoạt động lãnh đạo, quản lý với tư cách là một cán bộ của nhân dân.
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn hàng đầu của người cách
mạng là phải thật sự tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng. Trong “Di chúc”
thiêng liêng, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư” [96, tr.622].
62
Tuy nhiên, nếu chỉ có thực hành đạo đức cách mạng cũng chưa đủ tạo thành
phong cách hoàn chỉnh, còn phải thường xuyên và bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng. Chỉ có như vậy, phong cách tu dưỡng, thực hành đạo đức cách
mạng mới được hình thành và phát triển, đây là một nguyên tắc xây dựng nền đạo
đức mới. Khi người cách mạng đã rèn luyện được phẩm chất đạo đức họ sẽ trở
thành tấm gương cho quần chúng tin theo. Người viết: “Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước” [87, tr.16].
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh còn có giá trị to lớn đối với sự phát triển,
hoàn thiện năng lực và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng, giúp cán
bộ củng cố năng lực tư duy nghề nghiệp, tránh lối làm việc máy móc, hình thức chủ
nghĩa, bảo đảm cho họ thực thi chức trách, nhiệm vụ đạt chất lượng, hiệu quả tốt,
rút ra những cách làm hay, củng cố, không ngừng làm phong phú, hoàn thiện vốn
hiểu biết của mình.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên từng bước xây
dựng và hoàn thiện PCLV bản thân, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới
trên các phương diện:
Thứ nhất, giúp người cán bộ biết tôn trọng, lắng nghe nhân dân, có niềm tin
với nhân dân, học phục vụ nhân dân, học cách thức xử lý mối quan hệ giữa cán bộ
lãnh đạo với cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, giúp người cán bộ gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, phát huy sức
mạnh của tập thể, thực hiện và phát huy dân chủ trong Đảng và nhân dân, thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành tự phê bình và phê
bình trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Thứ ba, PCLV Hồ Chí Minh giúp xây dựng cho người cán bộ PCLV khoa
học, nắm việc, nắm tình hình cụ thể; làm việc có mục đích rõ ràng, thực tế; người
đứng đầu, người lãnh đạo, tổ chức luôn nêu gương trước cấp dưới và nhân dân.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng, là PCLV của
người có 24 năm trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước nhưng lại không xa
63
cách, khác thường, là tấm gương để mọi người học tập và làm theo, góp phần thúc
đẩy sự phát triển phẩm chất đạo đức, năng lực của người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh đã trở thành bất tử trong lòng nhân dân, đất nước và mãi mãi là tấm gương
sáng ngời cho mọi lớp người học tập và phấn đấu cho thế giới ngày càng tốt đẹp.
Tiểu kết chương 2
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một nội dung, bộ phận quan trọng
hợp thành hệ thống chỉnh thể phong cách của Người; là di sản vô giá Người để lại
cho dân tộc và nhân loại. PCLV Hồ Chí Minh là phong cách mẫu mực của một
lãnh tụ, của một nhà khoa học chân chính, là lề lối, cách thức làm việc có tính
khoa học, mang đặc trưng riêng của Người, được thể hiện chủ yếu trong hoạt động
lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.
Đặc trưng của PCLV Hồ Chí Minh là sự thống nhất hài hoà giữa tính nguyên
tắc và sáng tạo, lòng nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, tính dân chủ, tập
thể nhưng quyết đoá và sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Nội dung của
PCLV Hồ Chí Minh được thể hiện trên các phương diện: PCLV quần chúng, PCLV
dân chủ - tập thể, PCLV khoa học và PCLV nêu gương. PCLV Hồ Chí Minh có giá
trị to lớn, là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên và
cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, tu dưỡng phong cách, phẩm chất đạo
đức cách mạng và năng lực.
64
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG
CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN
CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
3.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG
AN NHÂN DÂN
3.1.1. Đặc điểm, vai trò của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an
nhân dân
3.1.1.1. Đặc điểm cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Một là, tình hình chung về các Học viện CAND
Học viện An ninh Nhân dân: Tiền thân là Trường Huấn luyện Công an
Trung ương, thành lập ngày 25/6/1946, địa điểm tại Phường Văn Quán, Quận Hà
Đông, Hà Nội, là cơ sở giáo dục trọng điểm hàng đầu của lực lượng CAND. Học
viện có nhiệm vụ tuyển sinh và đào tạo các chuyên ngành An ninh ở các cấp trình
độ từ đại học đến tiến sỹ cho các tỉnh từ Quảng Bình trở ra; bồi dưỡng chức danh,
nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực An ninh; đào tạo lý luận
chính trị; giáo dục quốc phòng, an ninh; thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác
quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học và tổng kết lý luận
về an ninh quốc gia của lực lượng CAND.
Học viện Cảnh sát Nhân dân: Thành lập ngày 15/05/1968, từ khoa Cảnh sát
của trường Huấn luyện Công an Trung ương. Địa điểm tại Phường Cổ Nhuế, Quận
Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Học viện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ từ đại học
đến tiến sĩ; bồi dưỡng chức danh, nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy của lực
lượng CSND; bồi dưỡng giáo viên cho các trường Cảnh sát; giáo dục quốc phòng,
an ninh; đào tạo cao cấp lý luận chính trị, thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác
quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học của lực lượng
CSND.
65
Học viện Chính trị CAND: Thành lập ngày 25/4/2014 trên cơ sở Trường Bồi
dưỡng nghiệp vụ Công an, địa điểm tại Phường Đức Thắng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà
Nội. Có chức năng đào tạo trình độ đại học, sau đại học; bồi dưỡng chức danh,
nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực xây dựng lực lượng, tham
mưu chỉ huy CAND; bồi dưỡng giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cho các trường
CAND; đào tạo lý luận chính trị; giáo dục quốc phòng, an ninh; thực hiện công tác
đối ngoại và hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học
và tổng kết lý luận về chính trị của lực lượng CAND.
Hai là, đặc điểm của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND
Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có những đặc điểm khác với cán bộ,
giảng viên các nhà trường trong hệ thống giáo dục CAND và hệ thống giáo dục
quốc dân. Sự khác biệt làm nên đặc điểm riêng có đó xuất phát từ đối tượng phục
vụ và đặc thù công tác, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo được Bộ Công an giao cho.
Trong đó, người cán bộ, giảng viên ngoài việc chấp hành các quy định chung của
Luật Giáo dục, còn phải nắm vững chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của
Ngành về công tác Công an, đấu tranh phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới. Đặc điểm của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng có
sự khác biệt với cán bộ, chiến sĩ CAND nói chung vì đối tượng phục vụ của cán bộ,
giảng viên là sinh viên - sĩ quan CAND tương lai; là cán bộ, chiến sỹ đang học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ; là thủ trưởng cơ quan, lãnh đạo các đơn vị địa phương
đang bồi dưỡng quy hoạch chức danh, hoàn thiện tiêu chuẩn lãnh đạo. Như vậy, họ
vừa là đối tượng được người cán bộ, giảng viên có trách nhiệm phục vụ, đồng thời
cũng là đồng chí, đồng đội nên cán bộ, giảng viên có phong cách phù hợp trong
giao tiếp, ứng xử và phương pháp, tác phong làm việc phù hợp để đem lại kết quả
tốt, hình thành kỹ năng nghề nghiệp và giáo dục phẩm chất đạo đức cho học viên.
Vì vậy người cán bộ, giảng viên các Học viện CAND phải đảm bảo đầy đủ những
chuẩn mực, có năng lực, trình độ phù hợp và luôn là tấm gương cho học viên noi
theo, với những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
66
Thứ nhất, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có phẩm chất chính trị
vững vàng và phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng
Đây là đặc điểm quan trọng hàng đầu của cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND, họ có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với Đảng cộng sản Việt Nam, chấp hành
mọi Cương lĩnh chính trị, nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước. Họ luôn đảm bảo tư cách của người công an cách mạng “thương dân,
một lòng, một dạ phục vụ nhân dân”, sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh
khó khăn, tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, tình nghĩa; luôn tin tưởng
vào trí tuệ, sức mạnh, đoàn kết của nhân dân, góp phần khơi dậy được sự giúp đỡ và
sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn,
đảm bảo an toàn, xã hội.
Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có phẩm chất đạo đức trong sáng đi
liền với tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng, tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ
thống chính trị và trong nội bộ, đề cao tính nêu gương của người đứng đầu và phát
huy trí tuệ tập thể; thực hiện công tác đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai
trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử xấu lợi dụng dân chủ, nhân
quyền để chống phá Đảng, Nhà nước, đi ngược lại truyền thống đạo đức, văn hóa
của dân tộc. Có tinh thần thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, đoàn kết nội bộ, giúp
đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy CAND.
Thứ hai, cán bộ, giảng viên có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ công an, pháp
luật và nghiệp vụ sư phạm, có phong cách, phương pháp tư duy khoa học
Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND là người có trình độ chuyên môn
cao, nắm chắc kiến thức cơ bản về nghiệp vụ chuyên ngành công tác của mình, có
khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế, có lý luận và kinh nghiệm thực tế để
hướng dẫn sinh viên. Hiện nay, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có trình độ
tiến sỹ chiếm 13,9%, trình độ thạc sỹ chiếm 38%, trình độ đại học, cao đẳng chiếm
67
45,6% và trình độ trung cấp chiếm 2,4%, tập trung đa số ở đội ngũ cán bộ lĩnh vực
hậu cần, tài chính.
Ngoài ra, cán bộ, giảng viên không chỉ có nhiệm vụ trong công tác, giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý, tham mưu, hậu cần đáp ứng yêu cầu trong Học
viện CAND, mà còn là lực lượng chi viện, tăng cường, bổ sung có hiệu quả cho nhu
cầu chiến đấu bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng lực lượng CAND, là đội ngũ cộng
tác tin cậy, có chất lượng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu,
giáo trình với các cơ sở đào tạo cán bộ, các trường trong và ngoài ngành.
Các Học viện CAND đều là những cơ sở giáo dục hàng đầu của Bộ Công an
nên cán bộ, giảng viên luôn chú ý đổi mới, cải tiến phương pháp, cách thức, tác
phong làm việc chu đáo, khoa học, nền nếp, hiệu quả, thiết thực, không ngại khó
khăn, gian khổ, hiểm nguy. Có tinh thần trách nhiệm, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi
phương pháp, phương tiện để đáp ứng yêu cầu giảng dạy, công tác nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo của Học viện.
Thứ ba, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND được tuyển chọn theo quy
định của Bộ Công an, có sự đa dạng về tuổi đời, cấp bậc, chức vụ, chức danh và
chuyên ngành đào tạo
Trước đây, cán bộ, giảng viên chủ yếu tuyển chọn từ học viên tốt nghiệp các
Học viện, trường đại học CAND, có kết quả học tập cao, đạo đức, phẩm chất tốt.
Những năm gần đây, nguồn tuyển cán bộ, giảng viên đã được mở rộng, có sự kết
hợp giữa tuyển chọn trong lực lượng Công an với các cơ sở đào tạo ngoài lực lượng
theo từng chuyên ngành tuyển chọn, chủ yếu tập trung ở những giảng viên giảng
dạy lý luận chính trị, tâm lý, quân sự - võ thuật, cán bộ thuộc lĩnh vực hậu cần, tài
chính, kỹ thuật. Đồng thời, tuyển chọn các chuyên viên cao cấp, cán bộ từ các đơn
vị thực tiễn trong lực lượng và cán bộ, giảng viên có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ từ các
cơ sở đào tạo ngoài lực lượng. Khi đã về các Học viện CAND công tác, cán bộ, đặc
biệt là giảng viên đều có thời gian công tác thực tế, luân chuyển tại các đơn vị nên
họ luôn nắm bắt được tình hình thực tiễn nghiệp vụ của Ngành để bổ sung vào quá
trình giảng dạy, công tác.
Cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND hiện nay có tuổi đời, thâm
niên, cấp bậc đa dạng, có sự đan xen giữa các lớp cán bộ trong từng phòng, ban
68
chức năng và khoa, bộ môn giảng dạy. Có đồng chí vừa tốt nghiệp, được tuyển
ngay về các phòng, ban và đơn vị giảng dạy, ngoài ra, có đồng chí trước khi về công
tác tại cơ quan đã từng là giảng viên các cơ sở giáo dục khác, cán bộ tại các đơn vị
thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm công tác, cấp bậc cao. Về chuyên ngành, cán bộ,
giảng viên được đào tạo từ nhiều trường trong và ngoài ngành Công an, tuỳ thuộc
vào lĩnh vực chuyên môn. Quá trình tích luỹ, trải nghiệm thực tiễn, đào tạo, bồi
dưỡng của mỗi người là khác nhau, làm cho cán bộ, giảng viên có sự phong phú, đa
dạng về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và phong cách công tác.
Thứ tư, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có tính kỷ luật, kỷ cương,
trung thực, trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, công bằng, khách quan
Các Học viện CAND vừa mang tính chất của cơ sở đào tạo, vừa là một đơn
vị sẵn sàng chiến đấu của lực lượng CAND, cán bộ, giảng viên đều có tác phong,
kỷ luật cao của người chiến sỹ CAND, thực hiện nghiêm túc điều lệnh CAND, kỷ
luật, kỷ cương, chấp hành pháp luật, điều lệnh, ý thức tổ chức kỷ luật trong CAND.
Họ vừa có tác phong khoa học, trung thực và trách nhiệm của một nhà giáo, cán bộ
nhà trường, thể hiện tấm gương mẫu mực về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách
nhiệm về công tác trước đồng chí, đồng nghiệp và học viên. Trong công tác chuyên
môn, cán bộ, giảng viên luôn thực hiện công bằng trong giáo dục, đánh giá đúng
thực chất năng lực của học viên; thực hiện đúng điều lệ, quy chế giáo dục của Học
viện, chống tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.
3.1.1.2. Vai trò của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Thứ nhất, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có vai trò là nhà giáo, nhà
sư phạm. Đây là vai trò truyền thống và tiên quyết nhất của cán bộ, giảng viên trong
các nhà trường nói chung và trong các Học viện CAND nói riêng. Vai trò của cán
bộ, giảng viên được thể hiện ở việc tham gia trực tiếp vào công tác giáo dục, đào
tạo, đổi mới giáo dục, đào tạo của Học viện, tạo ra sản phẩm là đội ngũ sỹ quan
CAND có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội.
Vai trò là nhà nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khoa học là một trong
những nhiệm vụ của người cán bộ, đặc biệt là giảng viên và đồng thời khẳng định
69
tính chất “đại học”, là thành tố quan trọng để xác định đó là trung tâm đào tạo và
trung tâm nghiên cứu khoa học trọng điểm của Ngành công an. Với vai trò của nhà
khoa học, cán bộ, giảng viên có ba chức năng cơ bản là: nghiên cứu khoa học, ứng
dụng các kết quả khoa học công nghệ và công bố các kết quả nghiên cứu.
Vai trò là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội: Đã có những ý kiến cho rằng: là
cán bộ, giảng viên của trường đại học, đặc biệt là cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND thì không có vai trò dịch vụ xã hội, vì hoạt động của cán bộ, giảng viên
không vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải dịch vụ nào cũng nhằm mục
tiêu lợi nhuận, có những dịch vụ đặc biệt mà mục tiêu hướng tới là công ích xã hội
và cán bộ, giảng viên các Học viện có những hoạt động mang tính chất đó. Thực tế,
những hoạt động sau đã mang tính chất dịch vụ trí thức, như: tham gia công trình
nghiên cứu khoa học các cấp; viết bài báo khoa học đăng các báo, tạp chí chuyên
ngành; tổ chức và tham dự các hội thảo khoa học, thực tiễn; tư vấn không thu phí
những vấn đề pháp lý, nghiệp vụ cho các đơn vị thực tiễn; liên hệ và hướng dẫn học
viên thực tập, thực tế; cung cấp các thông tin khoa học đối với các nhà khoa học khi
có nhu cầu.
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an
nhân dân
3.1.2.1. Chức năng của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định:
Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm
pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [106, tr.13-14].
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ của các Học viện CAND và lực lượng
CAND, mỗi cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có chức năng khác nhau tuỳ
thuộc vào vai trò, nhiệm vụ công tác được giao. Bao gồm:
Tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, hướng dẫn, triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và đổi
70
mới phương pháp dạy học từ thực tiễn của công tác quản lý chương trình, nội dung,
kế hoạch đào tạo, quản lý chất lượng giảng dạy của giảng viên và học viên, công tác
nghiên cứu khoa học, tổ chức, hậu cần và các công việc khác của nhà trường.
Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức thực hiện các hoạt động, trong đó,
chủ chốt là hoạt động giáo dục, đào tạo theo kế hoạch. Trực tiếp tiến hành một số
nhiệm vụ như: tuyển sinh, thanh tra, kiểm tra, khảo thí, kiểm định chất lượng giáo
dục, đào tạo. Để có thể hoàn thành chức năng, cán bộ cần phối hợp thường xuyên,
chặt chẽ với đội ngũ giảng viên.
Bên cạnh đó, đối với giảng viên, họ còn có chức năng giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và quản lý, phục vụ xã hội. Cả ba chức năng giảng dạy - nghiên cứu khoa
học - dịch vụ ở mỗi giảng viên đều thể hiện rõ nét vì giữa chúng có mối liên hệ
tương hỗ hết sức chặt chẽ, bổ sung và làm phong phú lẫn nhau. Thực hiện đầy đủ và
toàn diện cả ba chức năng trên là một thách thức lớn không chỉ cho từng giảng viên
mà cho cả hệ thống giáo dục, đào tạo của các Học viện CAND.
3.1.2.2. Nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Căn cứ vào những quy định về chức năng, nhiệm vụ đối với cán bộ, giảng
viên trong hệ thống giáo dục quốc dân được quy định trong các văn bản pháp luật
hiện hành, cũng như yêu cầu của Bộ Công an, cán bộ, giảng viên trong các Học viện
CAND được cụ thể hoá trong những nhiệm vụ sau:
Cán bộ các Học viện CAND bao gồm: cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ
khác (tham mưu, hậu cần, tài chính, kỹ thuật…). Ngoài những nhiệm vụ, yêu
cầu cần có của người chiến sỹ CAND, họ cần đảm bảo các nhiệm vụ cụ thể tuỳ
thuộc vào vị trí công tác như: xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cho
từng đối tượng, loại hình đào tạo; lập kế hoạch với các công tác khác của Học
viện; tham mưu, đề xuất các biện pháp cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học,
nghiên cứu khoa học, áp dụng các kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Học viện. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch,
vững mạnh, làm tốt công tác tham mưu, tổ chức, hậu cần, phục vụ cho nhiệm
vụ giáo dục, đào tạo của Học viện.
71
Giảng viên các Học viện CAND là chủ thể của hoạt động giảng dạy, quyết
định đến chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện. Nhiệm vụ của giảng viên các
Học viện CAND bao gồm:
Một là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ giảng dạy.
Đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất của giảng viên các Học viện
CAND, đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy trên lớp, hướng dẫn nghiên cứu, thực tập và
bồi dưỡng cán bộ giảng dạy. Nghiên cứu và nắm vững mục tiêu giáo dục, đào tạo,
đảm bảo nội dung giảng dạy gắn liền với thực tiễn công tác công an; tìm hiểu tư
tưởng, trình độ, khả năng nhận thức và hiểu biết của học viên; hướng dẫn sinh viên
tự học, thảo luận khoa học, thực tập. Giảng viên còn là người tổ chức và thực hiện
kế hoạch giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên, tham gia xây dựng và phát triển
các ngành học, cải tiến nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, chuẩn bị kế
hoạch giảng dạy.
Hai là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ nghiên cứu, thực nghiệm
khoa học - kỹ thuật và công nghệ.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, nhằm phục vụ cho nhu cầu giáo dục toàn diện,
nâng cao chất lượng đào tạo, không những đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn công
tác công an mà còn khai thác được “tài nguyên” chất xám của giảng viên. Thực hiện
phương châm giáo dục, học tập, nghiên cứu gắn liền với thực tiễn công tác, chiến
đấu của ngành.
Ba là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng về
chính trị, tư tưởng và chuyên môn nghiệp vụ.
Nhiệm vụ trên không chỉ theo chương trình, kế hoạch của Bộ và Học viện
mà còn xuất phát từ sự tích cực, tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của mỗi giảng viên. Đây cũng là điều kiện cần thiết để xây dựng
PCLV của cán bộ, giảng viên ngày càng nâng cao, đáp ứng được những yêu cầu đặt
ra về chất lượng đào tạo. Đối với mỗi cán bộ, giảng viên, các yêu cầu về mức độ
hiểu biết và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là khác nhau.
Bốn là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ tham gia quản lý công
tác đào tạo của Học viện.
72
Nhiệm vụ tham gia quản lý công tác đào tạo của Học viện được thực hiện
thông qua các tổ chức chuyên môn, như: các bộ môn, các khoa, hội đồng khoa học,
các phòng ban chức năng và các tổ chức đoàn thể dưới các hình thức như: xây
dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập và nghiên
cứu; đánh giá kết quả giảng dạy và học tập; cải tiến và đề xuất những biện pháp
nâng cao chất lượng đào tạo. Giảng viên có trách nhiệm tham gia các công tác kiêm
nhiệm như: Lãnh đạo các khoa, bộ môn giảng dạy, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu các
cấp, các dự án giáo dục, đào tạo.
3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,
GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH
3.2.1. Ưu điểm
3.2.1.1. Cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện Công an nhân dân nhận thức sâu
sắc và có trách nhiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo xây dựng phong cách làm việc cho
cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
Một là, cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND đã nhận thức đúng đắn về vai
trò, tầm quan trọng của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, Tổng cục Chính trị
CAND, Cục Đào tạo - Bộ Công an, cấp uỷ, lãnh đạo là Đảng uỷ, Ban Giám đốc,
cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị trong các Học viện CAND đã xác định: Cán bộ, chiến sỹ
CAND, ngoài những tiêu chuẩn về phẩm chất, chính trị, đạo đức, tinh thần phục vụ
nhân dân thì PCLV cũng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực, chất lượng
hoạt động của cán bộ, chiến sỹ. Đối với cán bộ, giảng viên công tác tại các nhà
trường Học viện CAND, PCLV là yếu tố rất quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu
quả công tác giáo dục, đào tạo của Học viện.
Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Trên cơ sở đó,
dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, Đảng uỷ các Học viện đã
thường xuyên tổ chức triển khai, quán triệt kịp thời đến cán bộ, giảng viên, nhấn
73
mạnh những yêu cầu mới, nội dung quan trọng của Chỉ thị; xác định rõ trách nhiệm
của các cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy trong Học viện, nhất là người đứng đầu đơn vị
trong tổ chức thực hiện; nhằm thống nhất nhận thức, nắm vững vai trò, nội dung cơ
bản tư tưởng, đạo đức, đặc biệt là PCLV của Hồ Chí Minh đối với cán bộ, giảng
viên. Các Học viện đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai thực hiện
gắn với học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy, thực hiện Nghị quyết Trung ương
4, khóa XII của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xây dựng nếp sống văn hoá trong
toàn Học viện.
Bên cạnh đó, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND
còn tổ chức, chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo nâng cao
văn hóa ứng xử CAND trong tình hình mới; Quy tắc ứng xử văn hóa trong CAND
và phát động Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân
văn, vì nhân dân phục vụ” trong toàn lực lượng. Nội dung cốt lõi là xây dựng phong
cách người CAND bản lĩnh trong công tác, chiến đấu, sinh hoạt, ứng xử nhân văn,
vì nhân dân phục vụ. Đây là căn cứ quan trọng để các Học viện CAND tập trung
vào công tác xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên.
Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện đã tập trung và phát huy vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về tổ chức, yêu cầu các đơn vị chức
năng xây dựng, từng bước triển khai đồng bộ mọi nhiệm vụ từ các khâu trong công
tác. Báo cáo Chính trị của Đảng bộ Học viện ANND nêu: “Đã xây dựng Đề án Phát
triển và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Học viện ANND nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng
viên đáp ứng nhu cầu phát triển của Học viện” [36, tr.19]. Ở Học viện CSND, công
tác xây dựng, đào tạo trong đó có việc rèn luyện, bồi dưỡng phong cách, tác phong
làm việc của cán bộ, giảng viên được Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị xác
định là vấn đề quan trọng trong hoạt động đổi mới của nhà trường.
Hai là, cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn và tham gia xây dựng PCLV cho
cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
74
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã thường
xuyên quán triệt, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức,
hướng dẫn cán bộ, giảng viên, đồng thời tham gia trực tiếp trong quá trình xây dựng
PCLV, coi đó là một nhiệm vụ then chốt trong mục tiêu phát triển chung và được
thể hiện trên mọi lĩnh vực công tác của Học viện.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA ngày 28/10/2014
của Đảng uỷ Công an Trung ương về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo trong CAND”, trong những năm qua, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện
CAND đã chủ động tích cực triển khai xây dựng, đổi mới chương trình đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện phương pháp, PCLV, phát huy năng lực của cán bộ, giảng viên
theo chủ trương chung của Bộ Giáo dục - đào tạo và Bộ Công an. Đồng thời, thực
hiện nghiêm túc việc xây dựng các văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá các quy định của
Bộ về quản lý đội ngũ cán bộ, giảng viên phù hợp với thực tế từng trường.
Ngay từ đầu các năm học, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện đã chỉ đạo
xây dựng, thực hiện chương trình công tác giáo dục, rèn luyện tác phong làm việc
của cán bộ, giảng viên theo từng tháng, quý và năm học thông qua nhiều nội dung,
hình thức, biện pháp tổ chức phong phú, sát hợp; thường xuyên phổ biến, cập nhật
tình hình chính trị, thời sự trong nước và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức thực tiễn
cho cán bộ, giảng viên; triển khai nhiều đợt sinh hoạt chính trị với hình thức phong
phú, có ý nghĩa sâu rộng trong toàn Học viện, gắn với các sự kiện lịch sử của Đảng,
ngành và của Học viện. Tổ chức có kế hoạch, nghiêm túc việc học tập, quán triệt và
triển khai thực hiện các văn bản, chỉ thị quan trọng của Đảng, Bộ Công an, như:
“CAND học tập thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “CAND chấp hành nghiêm điều
lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”. Hoạt động này càng được
tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa từ khi triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức
75
và phong cách Hồ Chí Minh”, “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân
văn, vì nhân dân phục vụ”.
Dưới sự lãnh đạo và quan tâm sát sao của lãnh đạo Bộ Công an, các Học
viện đã có những chuyển biến rõ nét trong chỉ đạo và thực hiện đổi mới phong cách,
phương pháp, nâng cao tính chủ động, khả năng tự học, coi trọng việc rèn luyện tay
nghề, nhân cách nghề nghiệp cho cán bộ, giảng viên.
Do thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về mọi
mặt, trong đó có PCLV nên chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện đã
được nâng lên rõ rệt về mặt trình độ chuyên môn. So sánh các năm học, số lượng
cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ và đại học đều tăng qua các năm. So
sánh với năm học 2013 – 2014, năm học 2018 - 2019, tỷ lệ cán bộ, giảng viên có
trình độ tiến sỹ tăng 104 %; trình độ thạc sỹ tăng 62,1%; trình độ đại học, cao đẳng
giảm 17,5% so với năm học; tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình độ trung cấp giảm còn
67,8%, tập trung đa số ở đội ngũ cán bộ lĩnh vực hậu cần, tài chính.
Chức danh của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng không ngừng
tăng lên qua các năm. Năm học 2017 - 2018, các Học viện CAND, cán bộ, giảng
viên đạt tiêu chuẩn chức danh Giáo sư tăng 71,4% so với năm 2013 - 2014, cán bộ,
giảng viên đạt tiêu chuẩn chức danh Phó giáo sư tăng 69% so với năm 2013 - 2014,
tỷ lệ lớn tập trung chủ yếu ở Học viện CSND, Học viện ANND.
Số liệu trên cho thấy trình độ chuyên môn, chức danh, danh hiệu của cán bộ,
giảng viên các Học viện CAND không ngừng tăng qua các năm học, thể hiện sự
phát triển, nâng cao trong phong cách, phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ,
giảng viên. Trong quá trình xây dựng, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các
Học viện CAND đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý, điều hành, nêu cao ý thức trách nhiệm, phát huy trí tuệ tập thể, tạo
được sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ năm học và công tác xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường ngày càng nâng cao về PCLV và
trình độ năng lực chuyên môn.
76
3.2.1.2. Những ưu điểm trong phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên
các Học viện Công an nhân dân
Một là, đại đa số cán bộ, giảng viên có PCLV quần chúng, gắn bó, phát huy
vai trò của học viên
Đối với cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, xây dựng, rèn luyện PCLV
chính là nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường, góp
phần hình thành nên các thế hệ học viên có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng PCLV của các Học viện CAND, cán bộ, giảng viên luôn đặt
quyền lợi của học viên lên trên hết, thật sự gần gũi, quan tâm giúp đỡ học viên về
mặt học tập và rèn luyện. Trong công tác giảng dạy và quản lý, cán bộ, giảng viên
có những phương pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng, lấy học viên làm trung
tâm, cán bộ, giảng viên từ phong cách, phẩm chất của bản thân đã tạo được niềm
tin, sự kính trọng của người học. Nhờ đó, học viên luôn tin tưởng và cố gắng để
nâng cao thành tích trong học tập và rèn luyện, kết quả phân loại học viên hàng năm
luôn đạt vượt mức chỉ tiêu:
Tỉ lệ học viên có kết quả phân loại từ loại khá trở lên luôn đạt trên 60%, số
học viên đạt loại kết quả xuất sắc, giỏi luôn duy trì trên 9%, tình hình học
viên vi phạm bị xử lý kỷ luật bằng các hình thức trong các năm học luôn
được kiểm soát và duy trì đạt mức dưới 5% lưu lượng học viên [18, tr.11].
Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có PCLV gắn liền với
quần chúng nhân dân, trọng dân, lắng nghe góp ý của nhân dân; vận động, thuyết
phục nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an ninh, trật tự; tham gia tích cực đẩy mạnh
cuộc vận động “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hoá, vì
nhân dân phục vụ”. Căn cứ theo Hướng dẫn số 6777/HD-X11 của Tổng cục Xây
dựng lực lượng CAND ngày 20/06/2014, các cán bộ, giảng viên đã tích cực tham
gia cùng chính quyền, công an địa phương và các đoàn thể quần chúng thực hiện
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần giữ gìn
77
an ninh, trật tự an toàn xã hội và tham gia giải quyết các vấn đề về trật tự, an ninh
tại địa phương khi có yêu cầu. Đồng thời, cán bộ, giảng viên thông qua công tác dân
vận thực tiễn tại địa phương đã tích cực vận động nhân dân hưởng ứng và tham gia
các phong trào như: Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư.
Hai là, cán bộ, giảng viên đã hình thành PCLV dân chủ, phát huy trí tuệ tập
thể và vai trò, trách nhiệm cá nhân
Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, Đảng bộ các Học viện
CAND, cán bộ, giảng viên luôn thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,
phát huy vai trò cá nhân và tập thể, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, khắc phục yếu
kém, thoái hóa, biến chất nảy sinh từ cơ sở; nêu gương người tốt, việc tốt, phê phán
những biểu hiện cá nhân, tư tưởng cơ hội, lối sống thực dụng và các biểu hiện tiêu
cực trong giáo dục.
Cán bộ, giảng viên đã thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong nhà
trường, gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, sự phân công, điều
động của tổ chức; đi đầu thực hiện nền nếp, các quy chế, quy định của tổ chức, cơ
quan, đơn vị. Nhận thức sâu sắc việc xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí
Minh, cán bộ, giảng viên luôn đi liền với tự phê bình và phê bình, thường xuyên tự
giác thực hiện “tự soi, tự sửa”, bảo đảm công tác tự phê bình và phê bình đi vào
thực chất; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, lãng
phí, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và trong
nội bộ. Đồng thời, việc kiểm tra, giám sát quá trình nâng cao, đổi mới phương pháp,
tác phong công tác cũng được nâng cao.
Cán bộ, giảng viên có ý thức phát huy trí tuệ và tôn trọng tập thể, được thể
hiện rõ nét trong các mặt như: hết lòng chăm lo xây dựng và tăng cường đoàn kết
nội bộ; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần; hợp tác; chân thành giúp đỡ đồng
chí, đồng nghiệp trong công tác và trong cuộc sống để cùng nhau tiến bộ; bảo vệ uy
tín, danh dự chính đáng của đồng chí, đồng nghiệp; không tranh công, đổ lỗi, né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khuyết điểm cho người khác.
78
Ba là, đại bộ phận cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã hình thành
PCLV khoa học, có chương trình, kế hoạch, đồng thời luôn đổi mới, sáng tạo
Hệ thống các Học viện CAND là những cơ sở đào tạo đại học có bề dày
truyền thống đi đầu trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của ngành Công an. Quán triệt
sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng và của Ngành về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo trong CAND, các cán bộ, giảng viên trong giảng dạy, thực
hiện nhiệm vụ luôn học hỏi, rèn luyện PCLV khoa học, tuân thủ với chương trình,
mục đích, kế hoạch đề ra. Ngay từ đầu năm học, cán bộ, giảng viên đều nắm rõ
phương hướng nhiệm vụ của Học viện và kế hoạch của đơn vị để từ đó xác định
nhiệm vụ và xây dựng chương trình, kế hoạch cho cá nhân. Đặc biệt, hiện nay, quy
mô đào tạo, bồi dưỡng của các Học viện ngày càng tăng, yêu cầu công việc ngày
càng nhiều, nếu làm việc không có kế hoạch sẽ dễ dẫn đến tình trạng bỏ sót công
việc, hoàn thành được nhiệm vụ này thì nhiệm vụ khác lại hạn chế.
Ở các Học viện CAND, hàng năm, tỷ lệ cán bộ, giảng viên thực hiện vượt
định mức công tác luôn ở mức cao, năm học 2013 - 2014, tỷ lệ vượt định mức của
giảng viên là 215,9%, đến năm học 2018 - 2019, tỷ lệ trên đã đạt 576,9%. Tỷ lệ
giảng viên có công tác vượt định mức tập trung chủ yếu tại Học viện ANND và
Học viện CSND, nơi có số lượng lượt lớp và lưu lượng học viên cao. Không chỉ
hoàn thành công việc vượt chỉ tiêu được giao, cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND còn đạt nhiều kết quả tích cực trong các lĩnh vực công tác chuyên môn khác
như: biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học. Sự tiến bộ trong PCLV của
cán bộ, giảng viên các Học viện CAND không chỉ trong lĩnh vực công tác chuyên
môn mà còn thể hiện trong năng lực nghiên cứu khoa học. Hàng năm, cán bộ, giảng
viên các Học viện CAND đều tích cực nghiên cứu khoa học các cấp. Năm học 2017 -
2018, các Học viện CAND đã thực hiện 57 đề tài cấp cơ sở, 40 đề tài cấp Bộ và 5 đề
tài khoa học cấp Nhà nước. Đến năm học 2018 - 2019, số lượng đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ do cán bộ, giảng viên các Học viện thực hiện tăng lên 10% và cấp
Nhà nước tăng 100%. Ngoài ra, số lượng các chương trình, giáo trình, tài liệu phục
vụ giảng dạy, nghiên cứu và học tập do cán bộ, giảng viên các Học viện thực hiện
79
hàng năm luôn đạt mức cao, thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo sâu sắc của Đảng uỷ, Ban
Giám đốc trong việc đôn đốc, quản lý, bám sát các nội dung công tác của Học viện
và tinh thần, thái độ và PCLV khoa học, nghiêm túc, đồng thời luôn chú ý tìm tòi,
sáng tạo trong nghiên cứu, gắn lý luận với thực tiễn công tác để cho ra những công
trình khoa học có giá trị và chất lượng. Cán bộ, giảng viên, nhất là lãnh đạo khoa,
bộ môn, giảng viên chính, chuyên viên cao cấp không những có năng lực giải
quyết các vấn đề khoa học lý luận mà còn am hiểu thực tế, giỏi thực hành giải
quyết vấn đề thực tiễn.
Trên cơ sở xây dựng quan hệ phối hợp gắn bó với Công an các đơn vị, địa
phương, các đơn vị ngoài ngành, hợp tác quốc tế, cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND đã tích cực cập nhật, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp qua thực tiễn công tác, chiến
đấu để vận dụng vào giảng dạy, công tác, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đi đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ ngày càng tăng qua các năm. Năm học 2017 - 2018, cán
bộ, giảng viên đi học nghiên cứu sinh tăng 86% so với năm học 2016 - 2017, trong
đó tập trung ở khối giảng viên; cán bộ, giảng viên đi học cao học tăng 24% so với
năm học 2016 - 2017. Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên còn tích cực tham gia bồi
dưỡng, học tập bổ sung trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ, nghiệp vụ sư phạm và
các loại hình bồi dưỡng khác để nâng cao PCLV, chuyên môn của bản thân. Từ quá
trình học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, PCLV của cán bộ, giảng viên ngày càng
được cải thiện, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nâng cao trình độ chuyên môn và
đổi mới PCLV.
Ngoài ra, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND không chỉ tích cực học tập,
nghiên cứu ở trong nước, mà còn tham gia vào các hoạt động triển khai hợp tác
quốc tế. Một số cán bộ, giảng viên đã tham gia và đóng góp nhiều nội dung quan
trọng tại các diễn đàn hợp tác với tổ chức quốc tế có liên quan đến công tác đào tạo
an ninh, cảnh sát để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ với các cơ
quan an ninh, cảnh sát các nước. Bên cạnh việc trao đổi kinh nghiệm, mời các
80
chuyên gia nước bạn sang giảng dạy, “một số Học viện CAND đã chủ động triển
khai các dự án hợp tác, các đề tài nghiên cứu với các cơ sở đào tạo an ninh, cảnh sát
nước bạn” [25, tr.17]. Qua đó, cán bộ, giảng viên có cơ hội học hỏi, tìm hiểu các
phong cách, phương pháp làm việc tiến bộ từ các nước bạn để bổ sung, hoàn thiện
PCLV của bản thân.
Xác định nhiệm vụ xây dựng, rèn luyện PCLV khoa học, thực tiễn, cán bộ,
giảng viên thường xuyên đề xuất tổ chức và nghiên cứu các vấn đề thực tiễn chiến
đấu của lực lượng CAND. Vì vậy, số lượng các đề tài, sáng kiến cải tiến, bài báo,
báo cáo khoa học, hội thảo khoa học tăng hàng năm và chất lượng được đảm bảo so
với thời gian trước đây. Những đề tài nghiên cứu đều là các công trình có giá trị cao
về lý luận và thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học giúp lãnh đạo Bộ Công an
và Công an các đơn vị, địa phương hoạch định các chủ trương, biện pháp đấu tranh
trong thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao PCLV khoa học, xuất phát từ
thực tiễn, cung cấp những kiến thức thực tế sinh động để cán bộ, giảng viên vận
dụng vào công tác và biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học của các Học viện.
Căn cứ thông tư số 44/2014/TT-BCA “Quy định về công tác thực tế của các
chức danh giảng dạy, huấn luyện trong các học viện, trường đại học, cao đẳng và
trung cấp CAND”, các Học viện CAND đã quyết liệt thực hiện chủ trương luân
chuyển, đi thực tế tại các đơn vị, địa phương đối với giảng viên để cập nhật kiến
thức thực tiễn phục vụ giảng dạy và coi đây là một trong những điểm “đột phá” của
công tác xây dựng, bồi dưỡng phong cách của giảng viên theo hướng lý luận gắn
liền với thực tiễn.
Theo thống kê, từ năm học 2013 - 2014 đến năm học 2018 - 2019, trung bình
mỗi năm các Học viện CAND đã cử 201 lượt giảng viên đi thực tế và 42,6 lượt
giảng viên đi luân chuyển. Việc luân chuyển có thời hạn và thực tế, trực tiếp thực
hiện các mặt công tác nghiệp vụ tại Công an các đơn vị, địa phương, các cơ sở hoạt
động chuyên môn giúp giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục rèn luyện bản lĩnh nghề
nghiệp, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực tế, tạo điều kiện cơ hội để giảng viên tiếp
xúc, gắn bó với nhân dân. Đồng thời, là phương pháp kiểm tra lý luận nhằm kịp thời
bổ sung, sửa đổi những kiến thức đã lỗi thời, đưa hơi thở thực tiễn công tác vào bài
81
giảng, góp phần đảm bảo chất lượng và nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học. Do
đó, hoạt động luân chuyển, thực tế là một trong những yêu cầu, tiêu chí cần thiết,
luôn được lãnh đạo các Học viện CAND đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh đó, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã không
ngừng đổi mới, sáng tạo, thể hiện đa dạng trên các mặt công tác như: đổi mới công
tác quản lý đào tạo một cách cơ bản, vững chắc, phù hợp với tình hình thực tế theo
hướng: Quy trình hoá công tác quản lý, chuẩn hoá các tiêu chí quản lý, ứng dụng
mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo và phương pháp đào tạo. Xây
dựng và đổi mới chương trình đào tạo các ngành, thực hiện chuyển đổi đào tạo theo
tín chỉ ở tất cả các trình độ. Tăng cường các hoạt động sau giảng lý thuyết thông
qua: tổ chức câu lạc bộ học tập; tham dự phiên tòa xét xử tại Tòa án nhân dân; tổ
chức cho học viên tham gia đóng vai những người tham gia tố tụng để giải quyết
một số vụ án cụ thể; tổ chức cho học viên đi thực tế chính trị, xã hội.
Trong giảng dạy, các giảng viên đã cập nhật những vấn đề mới về lý luận,
đưa các kết quả tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm xử lý các vấn đề phức tạp về an
ninh, trật tự vào nội dung bài giảng. Giảng viên có sự đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy học, tích cực phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại (phương pháp làm
việc nhóm, nêu vấn đề, đóng vai, phương pháp tình huống, dạy học theo dự án, dạy
học định hướng hành động…), gia tăng các hoạt động sau giảng, phát huy tính tích
cực, chủ động học tập của học viên.
Phong trào dạy giỏi tiếp tục được triển khai với ý nghĩa đổi mới, nâng cao
phong cách, phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực, hiện đại của giảng viên.
Công tác dạy giỏi các cấp thường xuyên được tổ chức và là một tiêu chí đánh giá
năng lực, phương pháp giảng dạy, yêu cầu bắt buộc để xét chức danh của giảng
viên. So sánh với năm học 2013 – 2014, kết quả thực hiện bài dạy giỏi của giảng
viên năm học 2015 - 2016 tăng 43,1%; giảng viên được nhận danh hiệu giảng viên
dạy giỏi cấp Bộ tăng 34,7%, giảng viên được nhận danh hiệu giảng viên dạy giỏi
cấp Học viện tăng 31,4%. Số liệu trên đã khẳng định đội ngũ giảng viên các Học
viện CAND đã không ngừng đổi mới, nâng cao PCLV thể hiện trong việc cập nhật
nội dung và học hỏi, áp dụng các phương pháp dạy học tiến bộ thông qua việc thực
82
hiện bài dạy giỏi, một yêu cầu bắt buộc đối với việc nâng cao chức danh của giảng
viên trong các nhà trường CAND.
Bốn là, cán bộ, giảng viên các Học CAND đã hình thành PCLV khách quan,
công bằng, nhiệt tình thực hiện nhiệm vụ công tác
Quá trình công tác, mỗi cán bộ, giảng viên đều thể hiện sự tâm huyết với
nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm của người cán bộ, giảng viên; có
tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công
tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng
nghiệp; tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị,
của ngành; có PCLV công bằng, khách quan trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá
đúng thực chất năng lực của người học. Không ngừng nghiên cứu, tìm tòi phương
pháp, phương tiện để đáp ứng yêu cầu giảng dạy nâng cao chất lượng đào tạo và
thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác.
Cán bộ, giảng viên có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ
công tác được giao. Cán bộ, giảng viên các nhà trường trong đó có các Học viện đã
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ chính trị của ngành, tích cực
tham gia các sự kiện của đất nước, Bộ và địa phương nơi trường đóng quân. Nhiệt
tình hướng dẫn học viên trong các hoạt động học tập và rèn luyện. Nhờ sự khuyến
khích, hướng dẫn tận tình của giảng viên và cán bộ trong việc tạo điều kiện thuận
lợi để sinh viên nghiên cứu khoa học, tham gia các cuộc thi trí tuệ, tài năng, nên
hàng năm, sinh viên đều nhiệt tình tham gia, thực hiện các chuyên đề, công trình
khoa học, trong đó “sinh viên của một số Học viện đã đạt giải cao trong các kỳ thi
Olympic, thi tìm hiểu cấp quốc gia và quốc tế” [18, tr.7].
Năm là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã hình thành PCLV nêu
gương, nói đi đôi với làm
Xác định PCLV không chỉ đơn giản là việc riêng của cán bộ, giảng viên mà
còn là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác, giảng dạy và uy tín của
mỗi Học viện CAND. Do đó, mỗi cán bộ, giảng viên đã hình thành PCLV chuẩn
mực, nêu gương, giữ gìn hình ảnh người chiến sỹ Công an cách mạng, hình ảnh
người giảng viên, thực hiện lời nói luôn đi đôi với hành động.
83
Với nhiệm vụ không chỉ giáo dục, đào tạo học viên về mặt kiến thức, pháp
luật, nghiệp vụ mà cán bộ, giảng viên các Học viện còn có trách nhiệm rất lớn trong
việc giáo dục học viên về lễ tiết, tác phong, đạo đức và nhân cách. Vì vậy, mỗi cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND đã nâng cao vai trò trách nhiệm của bản thân
trong việc nêu gương, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước đồng nghiệp, học viên
bằng những việc làm thiết thực như: nêu tấm gương nói đi đôi với làm, về thực
hành những phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chấp hành nghiêm túc giờ
giấc làm việc, gương mẫu, chuẩn mực trong phát ngôn, tư thế, tác phong, phấn đấu
khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong công tác cũng
như trong rèn luyện. Người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các Học viện đã chủ động
nêu gương, có nhiều sáng kiến, cải tiến trong công tác tham mưu, hướng dẫn, kiểm
tra, tổ chức thực hiện, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, tác phong trong Học viện.
Phong cách làm việc nêu gương, nói đi đôi với làm của cán bộ, giảng viên thể
hiện trong công tác, học tập, rèn luyện và thực hiện các văn bản, chương trình của
Đảng, của ngành như: thực hiện nghiêm túc quy định về đạo đức nhà giáo theo Quyết
định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào
tạo; các cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì
nhân dân phục vụ” nhằm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của
Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ”, chương trình hành động số 08-CTr/ĐUCA; Thông tư số 27/2017/TT-
BCA, ngày 22/8/2017, của Bộ trưởng Bộ Công an “Quy định về quy tắc ứng xử của
CAND”. Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên còn tham gia tích cực và thực hiện có hiệu
quả nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua trong toàn lực lượng: “CAND học tập,
thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Đề án “Công tác phát triển và nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các trường, các Học viện CAND”
đã đánh giá: “Đại đa số cán bộ, giảng viên có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp, sống mẫu mực, lành mạnh, trong sáng, tích cực học tập, nâng cao trình
84
độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, có tinh thần trách nhiệm
cao trong thực hiện nhiệm vụ” [26, tr.7]. Qua các phong trào, những tấm gương
điển hình tiên tiến trong giảng dạy và công tác chuyên môn đã được tôn vinh, nhân
rộng trong các Học viện và toàn lực lượng CAND.
Từ kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện phong cách PCLV nêu gương,
nói đi đôi với làm, hiệu quả thực hiện công việc, hàng năm, đã có nhiều cán bộ,
giảng viên các Học viện CAND được nhận huân huy chương, bằng khen, giấy khen
biểu dương những thành tích xuất sắc trong học tập, rèn luyện phong cách, năng
lực. So với năm học 2013 - 2014, trong năm học 2017 - 2018, cán bộ, giảng viên
được nhận huân chương tăng 217%, cán bộ, giảng viên được nhận huy chương tăng
50,1% và bằng khen, giấy khen tăng 96,2%, đó cũng là một trong những kết quả
ghi nhận sự tiến bộ, hiệu quả trong PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên.
3.2.2. Hạn chế
3.2.2.1. Về nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện
Công an nhân dân trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên
Một là, Đảng uỷ, Ban Giám đốc trong Học viện CAND chưa nâng cao nhận
thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, giám sát các hoạt động xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên
Về cơ bản, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND đã có nhận thức
đúng đắn, nêu cao vai trò, trách nhiệm trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn Đảng uỷ, Ban Giám đốc nhận thức chưa đầy
đủ về vai trò, sự cấp thiết của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên Học
viện. Vẫn còn một số quan điểm cho rằng, ở các Học viện CAND, cán bộ, giảng
viên đều là những người có năng lực, trách nhiệm, trình độ chuyên môn cao, tác
phong nhạy bén của người chiến sỹ CAND, vì vậy, việc bồi dưỡng, rèn luyện
PCLV cho đội ngũ này chủ yếu xuất phát từ bản thân họ là chính, bằng phương
pháp tự học tập, trau dồi, rèn luyện.
Từ nhận thức trên, Đảng uỷ, Ban Giám đốc ở một số Học viện CAND có lúc
còn chưa thực sự quyết liệt, đi đầu trong xác định vai trò, trách nhiệm chỉ đạo kịp
85
thời xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch, biện pháp rèn luyện PCLV của cán
bộ, giảng viên, chủ yếu tập trung vào hệ thống lãnh đạo cấp đơn vị của Học viện.
Trách nhiệm của từng đồng chí đảng uỷ viên, uỷ viên thường vụ Đảng
uỷ có lúc chưa thật sâu sát, chỉ đạo chưa quyết liệt, hoặc do bận nhiều
công việc nên thời gian cần thiết dành để đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị chức năng được giao phụ trách còn
chưa thoả đáng [36, tr.44-45].
Ngoài ra, công tác chỉ đạo hợp tác giáo dục, đào tạo quốc tế, tạo điều kiện
cho cán bộ, giảng viên nâng cao phong cách, phương pháp tiến bộ từ những nền
giáo dục trên thế giới tuy được chú trọng nhưng mới chỉ “tập trung hợp tác, trao đổi
với những nước bạn truyền thống như Lào, Campuchia, Cộng hoà Liên bang Nga,
chứ chưa có chương trình hợp tác, liên kết đào tạo, liên kết nghiên cứu khoa học với
các trường ở các nước phát triển khác” [17, tr.281].
Hai là, lãnh đạo đơn vị ở các Học viện CAND chưa nâng cao nhận thức,
trách nhiệm trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên.
Lãnh đạo đơn vị ở các Học viện CAND là những người quản lý, làm việc
trực tiếp đối với cán bộ, giảng viên. Trên thực tế, vẫn còn có nhận thức cho rằng:
việc xây dựng PCLV Hồ Chí Minh trách nhiệm chủ yếu thuộc về lãnh đạo cấp trên
của Học viện và ý thức, trách nhiệm của bản thân mỗi cán bộ, giảng viên là quyết
định. Xuất phát từ nhận thức đó, cấp uỷ, lãnh đạo các đơn vị trong một số Học viện
chưa phát huy hết trách nhiệm trong hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên. Trong quá trình tổ chức thực hiện, việc chỉ đạo, hướng dẫn của lãnh đạo quản
lý các khoa, phòng, bộ môn, trung tâm chưa nhạy bén, linh hoạt, thiếu sự chủ động,
sáng tạo trong việc hướng dẫn, triển khai hoạt động. “Trong đơn vị, còn tình trạng
bố trí cán bộ, giảng viên chưa khoa học, hợp lý, công tác quản lý cán bộ, giảng viên
về hiệu quả chưa cao. Việc quán triệt các nghị quyết, phong trào thi đua còn có biểu
hiện mang nặng tính hình thức” [36, tr.66].
Đối với cán bộ phụ trách công tác tham mưu, thực hiện chuyên môn của các
đơn vị chức năng, PCLV còn chậm chạp, thiếu nhạy bén: “Hoạt động tham mưu,
86
giúp việc của các đơn vị, bộ phận chức năng, cán bộ làm chuyên trách có lúc chưa
kịp thời, thiết nhạy bén nên một số công việc tiến độ triển khai thực hiện chậm, việc
chỉ đạo sơ kết, tổng kết các mặt công tác đôi khi chưa kịp thời với yêu cầu đề ra”
[38, tr.44-45].
Trong hoạt động thực tiễn, còn có biểu hiện nể nang, né tránh, chưa quyết
liệt trong phê bình, góp ý để cán bộ, giảng viên có thể khắc phục những khuyết
điểm, hạn chế trong phong cách, tác phong công tác. Công tác quản lý cán bộ, giảng
viên ở một vài đơn vị còn thiếu tính chặt chẽ, chưa chủ động ngăn ngừa, phát hiện
những khuyết điểm trong PCLV của cán bộ, giảng viên, làm ảnh hưởng đến hiệu
quả công tác chung của nhà trường. Việc triển khai các nhiệm vụ xây dựng còn
thiếu thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, công tác kiểm tra giám sát có lúc còn thiếu
chủ động nên dẫn đến tình trạng quản lý cán bộ, giảng viên ở một số trường chưa
chặt chẽ, không phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm. Công tác tuyên
truyền, nhân rộng những mô hình, tấm gương, điển hình tiên tiến trong thực hiện,
rèn luyện PCLV chưa được chú trọng.
3.2.2.2. Những hạn chế về ý thức, trách nhiệm và phong cách làm việc của
cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Thứ nhất, một số cán bộ, giảng viên ở các Học viện CAND chưa nêu cao ý
thức, trách nhiệm trong tự học tập, tự xây dựng, hoàn thiện PCLV
Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục, đào tạo trong CAND theo yêu cầu của Bộ Công an. Mỗi cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND đã xác định vai trò, trách nhiệm của bản thân trong đổi mới
phương pháp, tác phong làm việc bằng tinh thần chủ động, tích cực tự học tập, rèn
luyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác. Tuy nhiên, vẫn còn có cán bộ, giảng viên
chưa tự giác nâng cao ý thức và nghiêm túc tự rèn luyện, đổi mới tác phong, lề lối
làm việc, do đó, hiệu quả, chất lượng công tác không cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn ngày càng phát triển của công tác giáo dục, đào tạo của mỗi Học
viện. Đối với giảng viên, có một bộ phận coi việc thực hiện bài dạy giỏi là yêu cầu
bắt buộc, chứ không phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của giảng viên để nâng cao
hiệu quả, đổi mới nội dung, phong cách, phương pháp giảng dạy:
87
Công tác dạy giỏi chưa thực sự là nhu cầu tự thân của giảng viên để
nâng cao, đổi mới phương pháp, nội dung bài giảng mà chủ yếu là do
yêu cầu của chuẩn hoá chức danh, do đó có hiện tượng giảng viên đã
đủ các tiêu chuẩn chức danh thường không tích cực tham gia thực hiện
bài dạy giỏi [14, tr.8].
Chính từ nguyên nhân trên, nên tuy công tác dạy giỏi của giảng viên các Học
viện được duy trì nhưng luôn giữ mức ổn định giữa các năm, không có sự tăng lên
vượt bậc của số lượng bài dạy giỏi, mặc dù số lượng giảng viên qua các năm đều
tăng, như: Năm học 2013 - 2014, các Học viện CAND giảng viên thực hiện bài dạy
giỏi cấp trường chiếm 18,3%. Đến năm học 2017 - 2018, số lượng giảng viên tăng
lên, thực hiện bài dạy giỏi cấp trường chỉ chiếm 13,1%, về tỷ lệ giảm hơn hẳn so
với các năm học trước. Trong đó, năm học 2015 - 2016, số lượng bài dạy giỏi cấp
trường, danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ, cấp trường tăng cao do năm học này,
Bộ Công an tổ chức Hội thi giảng viên dạy giỏi khối các trường đại học, các Học
viện CAND. Danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ, cấp Học viện cũng giữ mức ổn
định qua các năm, không có sự thay đổi nhiều. Năm học 2013 - 2014, giảng viên
nhận danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ chiếm 2,67% và giảng viên nhận danh
hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Học viện chiếm 6,3%. Đến năm học 2017 - 2018, số
giảng viên các Học viện đã tăng, nhưng giảng viên nhận danh hiệu dạy giỏi cấp Bộ
chỉ chiếm 2,3% và danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Học viện chiếm 6,04%. Bên
cạnh đó, “đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, hậu cần của một số Học viện chưa
chuyên nghiệp” [14, tr.18].
Chính từ những nhận thức của các chủ thể xây dựng PCLV và ý thức tự học
tập, rèn luyện ở một số cán bộ, giảng viên chưa cao nên các Học viện CAND trong
lộ trình xây dựng mặc dù đã có sự cố gắng, mặt bằng trình độ đội ngũ cán bộ, giảng
viên được nâng lên nhưng vẫn chưa đạt các chỉ tiêu phấn đấu về nâng cao trình độ
theo Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Công an giai đoạn 2011 - 2020, đặc biệt
là đối với Học viện ANND và Học viện CSND đang trên lộ trình phát triển thành
trường trọng điểm quốc gia. Theo đó, để đạt tiêu chuẩn, các Học viện CAND phải
88
phấn đấu “đội ngũ giảng viên có trình độ đạt tỷ lệ 40% là tiến sỹ, 55% là thạc sỹ;
đội ngũ cán bộ có trình độ tiến sỹ 35%, thạc sỹ là 60%” [13, tr.3].
Tuy nhiên, theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ,
thạc sỹ ở 2 Học viện đầu ngành của lực lượng CAND cần cố gắng hơn nữa để đạt
yêu cầu theo Quyết định số 5620/QĐ-BCA-X11 ngày 15/11/2012 của Bộ trưởng
Bộ Công an phê duyệt Đề án về “Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên các trường CAND” và Đề án xây dựng Học viện ANND, Học viện CSND trở
thành trường trọng điểm quốc gia. Do đó, để đạt được mục tiêu nâng cao đồng bộ,
toàn diện PCLV của cán bộ, giảng viên, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị
và trực tiếp là mỗi cán bộ, giảng viên cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức
thái độ, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, kỹ năng, phong cách
của bản thân, đáp ứng yêu cầu được giao. Tình hình trên ở Học viện Chính trị
CAND hiện nay cũng tương tự, khi tỷ lệ cán bộ, giảng viên đạt tiêu chuẩn tiến sỹ,
thạc sỹ vẫn còn thấp với 26,5% giảng viên có trình độ tiến sỹ và 13,4 % cán bộ có
trình độ tiến sỹ.
Thứ hai, những hạn chế về PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND
Một là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa phát huy PCLV quần
chúng, dân chủ và phát huy vai trò, trí tuệ tập thể
Về cơ bản, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đều là những tấm gương
tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và phong cách, tuy nhiên bên cạnh đó, còn có một
bộ phận cán bộ, giảng viên trong công tác chưa nêu cao phong cách quần chúng,
chưa giữ mối liên hệ thực sự gần gũi với nhân dân và phát huy vai trò của bản thân
trong vận động, thuyết phục nhân dân hiểu rõ, thực hiện tốt chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an ninh, trật tự.
Một số cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND, đặc biệt là cán bộ,
giảng viên lãnh đạo còn chưa nhận thức việc cần thiết phải phát huy dân chủ trong
PCLV. Biểu hiện ở việc nhận thức về dân chủ sơ sài, đơn giản khiến cho một bộ
phận cán bộ lãnh đạo còn có tư tưởng bảo thủ, độc đoán, cố chấp, áp đặt, thiếu tôn
trọng, lắng nghe, thiếu năng lực và kinh nghiệm làm chủ trong đơn vị; cán bộ, giảng
viên cấp dưới thụ động, đối phó, thiếu niềm tin vào tập thể và lãnh đạo. Vẫn còn tồn
89
tại sự thiếu công bằng, khách quan, trung thực, chân thành trong các mối quan hệ;
chưa sâu sát lắng nghe nguyện vọng và mong muốn để giải quyết kịp thời những ý
kiến đúng, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, giảng viên dưới quyền. Ý thức đấu
tranh tự phê bình và phê bình để u nâng cao năng lực và chuyên môn công tác của
một số cán bộ, giảng viên còn có biểu hiện chung chung, né tránh.
Vẫn còn tình trạng “bằng mặt mà không bằng lòng” hay “dân chủ hình
thức”, những biểu hiện này có thể không xảy ra mâu thuẫn hay đổ vỡ lớn nhưng
thực chất là suy giảm dân chủ, không phát huy được sức mạnh chung của tập thể và
bản chất văn minh tiến bộ của Học viện CAND, do đó, PCLV của cán bộ, giảng
viên cũng bị tác động làm hạn chế sự phát triển.
Hai là, một số cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có PCLV không khoa
học, chậm đổi mới, thiếu nhiệt tình trong công tác
Qua quá trình xây dựng, được sự chỉ đạo sát sao thực hiện Nghị quyết của
Đảng, của Bộ Công an, của Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong CAND, xây dựng phong cách
người CAND, rèn luyện PCLV cho cán bộ, giảng viên, các Học viện CAND đã đạt
được nhiều thành tích. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, giảng viên có PCLV
không khoa học, chậm đổi mới, tinh thần, sự nhiệt huyết trong công tác không cao.
Thực tiễn hiện nay cho thấy các Học viện CAND, lượng cán bộ chuyên gia
giỏi, đầu ngành về lý luận nghiệp vụ Công an, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu
khoa học công nghệ chưa nhiều. Chính những tồn tại về trình độ nghiệp vụ công an
của cán bộ, giảng viên đã dẫn tới sự hạn chế trong việc nâng cao PCLV phù hợp với
đặc thù, thực tiễn của ngành.
Theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có trình độ
tiến sỹ về nghiệp vụ công an tính đến năm học 2018 - 2019 chỉ có chiếm 11,3%, ở
trình độ thạc sỹ nghiệp vụ công an chiếm 26,1% cán bộ, giảng viên. Bên cạnh đó,
kiến thức về lĩnh vực kinh tế, xã hội, pháp luật, tin học, đặc biệt là trình độ ngoại
ngữ ở nhiều cán bộ, giảng viên còn hạn chế. Số liệu trên phản ánh thực trạng chung
về sự hạn chế của trình độ nghiệp vụ công an và trình độ ngoại ngữ của cán bộ,
giảng viên, đang thực sự là “rào cản” trên con đường hội nhập và phát triển của các
90
Học viện CAND.
Ngoài ra, một bộ phận giảng viên chưa thường xuyên cập nhật phương pháp
giảng dạy tích cực, hiện đại, khả năng áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình
giảng dạy của một số giảng viên chưa hiệu quả, năng lực nghiệp vụ sư phạm còn
thấp: “Hoạt động đổi mới dạy học ở một vài đơn vị chưa tạo được những chuyển
biến rõ nét, chưa phát huy khả năng tự học của học viên, việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học còn hạn chế” [21, tr.9].
Hàng năm, các Học viện CAND thường xuyên cử giảng viên đi thực tế, luân
chuyển đến các đơn vị chuyên môn, đơn vị nghiệp vụ địa phương để nghiên cứu,
học tập lý luận, thực tiễn của công tác Công an và các lĩnh vực khác phù hợp với
chuyên môn của giảng viên. Đây là hoạt động bắt buộc đối với giảng viên, cán bộ
quản lý giáo dục trong lực lượng CAND. Tuy nhiên, công tác này trên thực tế chưa
phát huy hết vai trò và tính hiệu quả vốn có ở một số giảng viên, dẫn đến PCLV
chưa gắn liền với thực tiễn. Năng lực thực tiễn của cán bộ, giảng viên chưa cao, một
số trường còn chưa tích cực chủ động trong việc luân chuyển giáo viên nghiệp vụ
đến công tác tại địa phương theo quy định của Bộ; công tác đi thực tế của cán bộ,
giảng viên một số Học viện còn nặng về hình thức, chất lượng thấp so với yêu cầu.
Kết quả thống kê tình hình thực hiện công tác thực tế, luân chuyển của giảng
viên các Học viện CAND cho thấy, số lượng, số lượt giảng viên đi thực tế, luân
chuyển qua các năm không có thay đổi nhiều. Năm học 2013 - 2014, giảng viên các
Học viện CAND đi thực tế chiếm tỷ lệ 19,9%, giảng viên đi luân chuyển chiếm tỷ
lệ 4,7%; đến năm học 2017 - 2018, tỷ lệ giảng viên các Học viện CAND đi thực tế
giảm xuống còn 14,1%, tỷ lệ giảng viên đi luân chuyển đạt mức thấp, chỉ có 4,06%.
Do đó, một bộ phận giảng viên chưa hình thành PCLV gắn liền lý luận với thực
tiễn, thể hiện trong việc thực hiện bài giảng còn máy móc, nặng về lý luận, ít liên hệ
thực tế công tác của ngành.
Việc chưa chú ý nâng cao, đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh ở Học viện ANND còn phản ánh trong một số mặt công tác như:
“Tỉ lệ các giờ giảng lý thuyết còn cao, các hoạt động sau giảng chưa tạo ra những
chuyển biến căn bản trong dạy và học, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của nền giáo dục hiện đại” [36, tr.24-25], một số cán bộ, giảng viên được cử đi học
91
tập, bồi dưỡng ở nước ngoài không hoàn thành nhiệm vụ học tập. Đổi mới phương
pháp theo hướng hiện đại kết quả đạt được có mặt chưa thật sự cơ bản, vững chắc
và đồng bộ trong các đơn vị giảng dạy, chưa có chuyển biến thực sự, sâu sắc trong
nhận thức và hành động của tất cả giảng viên, sinh viên. Phương pháp giảng dạy
theo kiểu trang bị kiến thức một chiều, thiếu sự gợi mở.
Đối với cán bộ, giảng viên, công tác nghiên cứu khoa học giúp họ mở rộng
được vốn kiến thức và vận dụng những kiến thức lý luận ấy vào thực tiễn công tác,
giảng dạy. Đồng thời giúp họ có được phong cách và phương pháp làm việc khoa
học, đặt các vấn đề trong một khung tác động đa chiều với cách nhìn khách quan,
chính xác. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả do sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng uỷ,
Ban Giám đốc các Học viện CAND, nhưng nhìn chung công tác nghiên cứu khoa
học của cán bộ, giảng viên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của các Học
viện, còn xuất hiện tình trạng chậm tiến độ và hạn chế về chất lượng trên phương
diện đảm bảo tính khoa học và cập nhật hoạt động thực tiễn: “Công tác nghiên cứu
khoa học tuy có sự phát triển nhưng chưa có được nhiều sản phẩm khoa học có giá trị
cao nổi bật về khoa học và thực tiễn” [37, tr.27].
Bên cạnh đó, một số cán bộ phụ trách tham mưu, tổ chức, hậu cần có PCLV
thiếu khoa học trong việc giải quyết những yêu cầu của thực tiễn. Các Học viện
CAND là những cơ sở hoạt động nghiên cứu, giảng dạy nghiệp vụ của lực lượng,
trong khi, vẫn có cán bộ, giảng viên chưa nâng cao ý thức trong việc chấp hành các
quy định pháp luật, quy chế về bảo vệ bí mật nhà nước, quản lý tài liệu.
Một số cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có bản lĩnh chính trị chưa
vững vàng, chưa nâng cao ý thức nghề nghiệp, chưa thực sự phấn đấu học tập, rèn
luyện, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn: “Một bộ phận cán bộ, giảng viên
chưa thực sự yên tâm công tác, chưa tâm huyết với nghề nghiệp” [18, tr.10]. Thực
tế đó đã phản ánh sự thiếu nhiệt tình trong PCLV của một bộ phận cán bộ, giảng
viên, làm ảnh hưởng đến các mặt công tác chung của Học viện.
Ba là, một bộ phận cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa phát huy
vai trò nêu gương, chưa thực sự công tâm, khách quan
92
Bên cạnh những kết quả, thành tích đáng biểu dương trong PCLV của cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND, nghiêm túc nhìn nhận, vẫn còn một số trường
hợp cán bộ, giảng viên chưa phát huy vai trò nêu gương và tinh thần trách nhiệm
trước công việc được giao. Một số đồng chí còn né tránh công việc, kén chọn vị trí
công tác, ngại khó, ngại khổ, chưa thực sự gần gũi đồng nghiệp và học viên. Xuất
hiện tình trạng cán bộ, giáo viên xin chuyển công tác khỏi các trường có chủ trương
di dời địa điểm, giáo viên không tham gia công tác giảng dạy, xin chuyển về công
tác tại các phòng chức năng, ý thức tự học của một bộ phận cán bộ, giảng viên còn
thấp. Bên cạnh đó, một số cán bộ, giảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật kém, sa sút
về lối sống, cá biệt có cá nhân vi phạm xử lý kỷ luật, làm ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự, hình ảnh và môi trường học tập, rèn luyện của Học viện CAND.
Còn tồn tại tình hình trên do một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa nâng cao ý
thức, trách nhiệm rèn luyện PCLV nêu gương trên mọi mặt công tác của bản thân,
làm suy giảm niềm tin của tập thể, của học viên đối với cá nhân cán bộ, giảng viên,
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện.
Việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học viên ở một số cán bộ, giảng
viên còn mang tính chủ quan, chưa thực sự đánh giá đúng năng lực của người học.
Cán bộ các phòng ban chức năng giải quyết công việc còn máy móc, thụ động,
nhiều thủ tục hành chính, gây khó khăn trong quá trình thi hành nhiệm vụ công tác.
Công tác quản lý, sử dụng tài sản, phương tiện, trang thiết bị phụ vụ công tác, sinh
hoạt vẫn có những mặt chưa hiệu quả, “vẫn xảy ra hỏng hóc, lãng phí, mất mát. Ý
thức tiết kiệm của một bộ phận cán bộ, giảng viên, học viên chưa cao” [36, tr.25].
Những tồn tại nêu trên về PCLV của một bộ phận cán bộ, giảng viên đã tác
động và làm ảnh hưởng không nhỏ đến thành tích chung của các Học viện CAND
trong quá trình phát triển.
3.2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế
3.2.3.1. Nguyên nhân ưu điểm
Một là, Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đã kịp thời đưa ra những quan
điểm, chủ trương về công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng CAND
93
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được những thành
tựu to lớn, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo nên vị thế, vai trò của Việt Nam trên
trường quốc tế, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, văn hoá, xã hội, giáo dục
được quan tâm đầu tư và phát triển. Quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội luôn
coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
toàn xã hội, đầu tư vào giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nghị quyết số 29-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã chỉ rõ: Xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng
và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và
trình độ đào tạo.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm hơn đến việc
xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ đó, công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chiến sỹ trong lực lượng nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, giảng viên nói riêng được quan tâm đúng mức. Ngày 22/7/2011, Thủ
tướng Chính phủ ban hành quyết định số 1229/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Quy
hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
trong CAND đến năm 2020” với nội dung đổi mới công tác giáo dục, đào tạo của
ngành Công an, bắt nhịp với tiến trình đổi mới chung của nền giáo dục quốc dân.
Trên cơ sở đó, ngày 15/11/2012, Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định số 5620/QĐ-
BCA-X11 phê duyệt Đề án thành phần số 5 thuộc đề án 1229 của Thủ tướng Chính
phủ với nội dung “Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường
CAND” nhằm mục tiêu:
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
các trường CAND đạt chuẩn theo quy định của Nhà nước về trình độ
chuyên môn, chính trị, ngoại ngữ, kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng tốt yêu
94
cầu, nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại [13, tr.2].
Tiếp theo, ngày 28/10/2014, Đảng ủy Công an Trung ương ban hành Nghị
quyết số 17-NQ/ĐUCA và Chỉ thị số 13-CT/BCA của Bộ trưởng Bộ Công an về
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong CAND” nhằm quy hoạch, xây
dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các nhà trường CAND đủ về số lượng, có cơ cấu
hợp lý, chuẩn về chất lượng, bảo đảm phong cách, tác phong chuẩn mực theo tiêu
chuẩn, quy định của ngành Công an. Đây là căn cứ quan trọng tạo cơ sở, tiền đề, định
hướng cho các Học viện CAND việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trong đó
nội dung trọng tâm là xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên.
Những quan điểm, chủ trương trên của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về
đổi mới công tác giáo dục, đào tạo trong CAND và các Học viện CAND đã tạo điều
kiện cho đội ngũ cán bộ, giảng viên không ngừng phát triển về số lượng và chất
lượng, có phương pháp, lề lối làm việc đổi mới, sáng tạo, đáp ứng tốt yêu cầu,
nhiệm vụ công tác công an trong tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của lãnh đạo Bộ Công an, Đảng uỷ các
Học viện CAND đã thường xuyên quán triệt sâu sắc các quan điểm, phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới; nghiên cứu, nắm vững đặc điểm, trình độ,
phẩm chất, năng lực của cán bộ, giảng viên Học viện mình, đề ra chủ trương, giải
pháp lãnh đạo sát đúng và phù hợp thực tiễn.
Hai là, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp uỷ, lãnh đạo
các Học viện CAND trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên
Công tác đào tạo, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách
Hồ Chí Minh luôn được Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện
CAND đặc biệt coi trọng và xác định là một trong những khâu đột phá, tạo nguồn
quy hoạch đội ngũ cán bộ, giảng viên lãnh đạo, chỉ huy, có trình độ chuyên môn,
phương pháp công tác hiệu quả trong tương lai. Tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng PCLV
cho cán bộ, giảng viên được thể hiện trên 4 mặt: Đạo đức nghề nghiệp, năng lực sư
phạm, năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực thực tiễn. Hàng năm, mỗi Học
95
viện cử hàng trăm cán bộ, giảng viên đi học cao học, nghiên cứu sinh trong và ngoài
nước, bồi dưỡng phương pháp sư phạm, phương pháp nghiên cứu khoa học, thực
hiện luân chuyển cán bộ, giảng viên đi công tác tại Công an các đơn vị, địa phương.
Ở các Học viện CAND, đội ngũ cán bộ, giảng viên đều được xây dựng theo lộ trình
đảm bảo đạt chuẩn về chất lượng, trình độ theo yêu cầu của cơ sở giáo dục đại học
trọng điểm của ngành và của quốc gia.
Điển hình là ở Học viện ANND, Đảng uỷ Học viện đã ban hành Nghị quyết
chuyên đề Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên giai đoạn 2011 - 2015.
Trên cơ sở đó Học viện đã xây dựng “Đề án “Phát triển và nâng cao năng lực đội
ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục Học viện ANND” nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên, đáp ứng nhu cầu
phát triển của Học viện” [36, tr.19]. Do thực hiện tốt công tác xây dựng, đào tạo,
bồi dưỡng PCLV nên chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, giảng viên Học
viện đã được nâng lên rõ rệt.
Các Học viện CAND đã tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, giảng viên trên mọi mặt, trong đó có đào tạo, rèn luyện PCLV bằng
nhiều hình thức phong phú, như: “Khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao của đất
nước là chuyên gia, nhà khoa học lớn có uy tín và vị thế trong xã hội, có bề dày
kinh nghiệm, tham gia tư vấn, giúp đỡ Học viện trong giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên” [38, tr.12].
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện, công tác
tuyển dụng cán bộ, giảng viên cũng được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục,
tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, phong cách, sức khoẻ để tuyển chọn được
những học viên xuất sắc trong học tập, những cán bộ có trình độ cao để bổ sung cho
đội ngũ cán bộ, giảng viên của các Học viện. Do đó, cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND cơ bản có sự tương đồng và trình độ cao trong phong cách, phẩm chất,
năng lực, tạo điều kiện thuận lợi trong việc rèn luyện, bồi dưỡng, xây dựng PCLV
Hồ Chí Minh cho đội ngũ này.
Ngoài ra, các Học viện cũng không ngừng đổi mới, nội dung, chương trình,
kế hoạch, phương pháp xây dựng bằng các hình thức như tổ chức các cuộc thi viết,
96
tuyên truyền về cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân
văn, vì nhân dân phục vụ”; tổ chức Hội thi Điều lệnh CAND trong khối cán bộ,
giảng viên, tổ chức hội thi “Cán bộ chủ nhiệm lớp giỏi” trong khối cán bộ quản lý
học viên; mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề như: “Phát triển năng lực nghề nghiệp
cho giảng viên Học viện ANND”, “bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, kỹ năng sử
dụng vi tính và phương tiện hỗ trợ giảng dạy cho giảng viên ở Học viện Chính trị
CAND”, các chương trình giao lưu văn hoá, văn nghệ, đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo tại các Học viện CAND.
Như vậy, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã
nhận thức đúng đắn, coi trọng việc bồi dưỡng, xây dựng cán bộ, giảng viên về phẩm
chất, năng lực và phương pháp, tác phong, thể hiện trong kết quả các mặt công tác
của cán bộ, giảng viên. Các tổ chức, đoàn thể, các cấp lãnh đạo chỉ huy phát huy vai
trò của mình trong việc tham gia các hoạt động nhằm xây dựng PCLV, đồng thời,
bản thân cán bộ, giảng viên cũng có sự tích cực tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV. Từ
đó, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả trong việc quản lý, lãnh đạo, giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Đánh giá công tác
lãnh đạo chỉ huy và xây dựng lực lượng nói chung, báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015, tổng cục Chính trị CAND nêu: “Nhìn chung, tập thể lãnh đạo các nhà trường
CAND, trong đó có các Học viện đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong
hoạt động quản lý, điều hành, nêu cao ý thức trách nhiệm, phát huy trí tuệ tập thể,
tạo được sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ” [16, tr.16].
Ba là, cán bộ, giảng viên có ý thức phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng
tạo trong học tập, rèn luyện, nâng cao PCLV
Cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND là đối tượng xây dựng PCLV,
đồng thời, họ cũng chính là chủ thể của quá trình nhận thức, trực tiếp tiếp nhận nội
dung, yêu cầu xây dựng của tổ chức và chuyển hoá những tri thức, kinh nghiệm đó
thành kỹ năng, phong cách của bản thân để vận dụng vào hoạt động thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đại đa số cán bộ, giảng viên đã có nhận
thức sâu sắc yêu cầu, nội dung xây dựng PCLV, xác định rõ trách nhiệm và quyết
97
tâm biến quá trình xây dựng thành tự xây dựng. Trên cơ sở tiếp nhận sự bồi dưỡng
tri thức về phương pháp, phong cách được Học viện trang bị, mỗi cán bộ, giảng
viên đã có những chuyển biến đáng kể về nhận thức, thái độ, kỹ năng làm việc,
phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm bản thân
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo quy chế, kế hoạch, chương trình công
tác. Thực tế, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng, trực tiếp quyết định
đến sự hoàn thiện PCLV của cán bộ, giảng viên và là yếu tố cơ bản của những kết
quả đã đạt được trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên trong thời gian qua.
Bốn là, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong lực lượng CAND đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong PCLV của cán
bộ, giảng viên
Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện CAND luôn xác định việc thực hiện
Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là công tác trọng tâm, xuyên suốt
gắn liền với việc thực hiện cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản
lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” ngày 9/1/2017, phong trào “CAND học tập,
thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, Chỉ thị số 07/CT-BCA-X11, ngày 26/10/2016 về
“Tăng cường lãnh đạo nâng cao văn hoá ứng xử CAND trong tình hình mới”, coi
đây là nội dung quan trọng, bắt buộc, song hành cùng công tác xây dựng Đảng và
thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn của cán bộ, giảng viên.
Ngay sau khi Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 190/KH-X11-X12 ngày
9/1/2017, về thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản
lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện CAND
đã tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch, thành lập Ban chỉ đạo, tổ chức lễ phát động
về cuộc vận động và ký kết giao ước thi đua trong toàn Học viện. Tổ chức cho toàn
thể cán bộ, giảng viên xây dựng chương trình và kế hoạch hành động, viết cam kết
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính
trị và bản cam đoan thực hiện nghiêm túc cuộc vận động nhằm mục tiêu xây dựng
phong cách, bản lĩnh chính trị tư tưởng; trong mỗi tập thể, cá nhân của nhà trường.
98
Ngoài ra, mỗi Học viện CAND còn chủ động đề ra các hình thức, biện pháp,
cách làm sáng tạo, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Học viện mình như: tổ
chức các chương trình toạ đàm, phổ biến nội dung học tập và yêu cầu cán bộ, giảng
viên viết thu hoạch, xây dựng kế hoạch cá nhân thực hiện “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tổ chức cuộc thi viết tuyên truyền cuộc
vận động; phát động chương trình hành động “Đổi mới, chủ động, kỷ cương, trách
nhiệm, hiệu quả, văn hóa”; tọa đàm, giao lưu, biểu dương gương điển hình tiên tiến
làm theo lời Bác; thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó, đã tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc từ nhận thức đến hành động của cấp uỷ và toàn
thể cán bộ, giảng viên đối với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng PCLV, rèn luyện bản
lĩnh, tư thế lễ tiết, ứng xử văn hóa, văn minh; nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức
phục vụ nhân dân.
3.2.3.2. Nguyên nhân hạn chế
Thứ nhất, sự tác động tiêu cực của bối cảnh, tình hình trong nước, khu vực
và quốc tế đối với việc xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang
trong quá trình phát triển, chưa hoàn thiện và còn nhiều yếu tố phi thị trường, trong
quá trình vận động và phát triển, tác động tích cực, đem lại cho đất nước nhiều cơ
hội, tuy nhiên, mặt trái đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến phẩm chất chính trị, đạo đức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên như: tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” có biểu hiện phức tạp. Bên cạnh đó, lợi dụng quá trình hội nhập
quốc tế, các thế lực thù địch, phản động đã đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà
bình”, tăng cường chống phá cách mạng nước ta, tuyên truyền thúc đẩy sự gia tăng
lối sống vụ lợi, thực dụng, biến đổi các giá trị truyền thống.
Thực tiễn trên đây đã tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, đạo đức,
thái độ của một bộ phận cán bộ, chiến sỹ CAND, trong đó có cán bộ, giảng viên các
Học viện mai một ý chí phấn đấu, thiếu tinh thần trách nhiệm, không tích cực tham
gia xây dựng và tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, PCLV của bản thân.
99
Thứ hai, một số cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND chưa phát huy hết vai
trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc tham gia xây dựng PCLV cho cán bộ,
giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
Mặc dù, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện đều thấy rõ
vai trò quan trọng của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên đối với sự phát
triển của Học viện nhưng thực tiễn cho thấy việc xây dựng có lúc, có nơi chưa được
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên. Quá trình thực hiện còn thiếu những biện
pháp chiến lược, đôi lúc chỉ dừng lại ở yêu cầu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ
trước mắt, chưa có những yêu cầu xa hơn để nâng cao hiệu quả công tác, giảng dạy,
nghiên cứu của cán bộ, giảng viên. Ở một số Học viện, chất lượng và hiệu quả hoạt
động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên còn hạn chế do chưa bám sát yêu cầu,
nhiệm vụ mới. Nội dung xây dựng còn có biểu hiện chung chung, dàn trải, chưa chú
trọng vào các vấn đề trọng tâm, trọng điểm và có những biện pháp cụ thể với từng
đối tượng cán bộ, giảng viên cho phù hợp; chưa gắn việc xây dựng PCLV theo
phong cách Hồ Chí Minh với các nội dung xây dựng khác một cách linh hoạt, hiệu
quả. Quá trình tổ chức thực hiện nặng về hình thức, chưa được đổi mới, chủ yếu
thông qua công tác tuyên truyền, các hoạt động sinh hoạt chính trị.
Hội nghị tổng kết 4 năm triển khai, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày
14/5/2011 của Bộ Chính trị, khoá XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong CAND đã xác định nguyên nhân
chung của các đơn vị Công an, trong đó có các Học viện CAND do: “Một số cấp uỷ
và thủ trưởng đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến tổ chức triển khai, thực hiện;
chưa thực sự sâu sát, chỉ đạo kịp thời để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong rèn
luyện đạo đức, lối sống, tác phong của cán bộ, chiến sỹ” [52, tr.12].
Ngoài ra, sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các chủ thể là lãnh đạo các đơn vị
trong nội bộ Học viện CAND cũng là nguyên nhân cản trở, ảnh hưởng đến hiệu quả
xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên. Cơ chế lãnh đạo, chỉ huy giữa các cấp uỷ,
các cấp lãnh đạo một số Học viện còn chưa thật chặt chẽ, chưa phân biệt rõ công
việc của từng cấp, do đó trong lãnh đạo có lúc, có nơi còn thiếu sâu sát, có tình
trạng chồng chéo.
100
Bên cạnh đó, ở các Học viện CAND, quy mô đào tạo tăng lên nhanh chóng,
trong khi sự tập trung về nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ,
giảng viên còn chậm trễ, chưa tương xứng, đồng bộ: “Công tác sử dụng đội ngũ cán
bộ, giảng viên ở một số Học viện chưa thực sự hợp lý dẫn đến có tình trạng thiếu
giảng viên nhưng thừa cán bộ, gây quá tải trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu của giảng viên” [13, tr.11]. Mặc dù lãnh đạo, chỉ huy trong các Học viện
CAND đã có sự cố gắng đổi mới, sắp xếp với quyết tâm chiến lược cao, nhưng
chưa thể khắc phục ngay được.
Một số Học viện CAND còn lơi lỏng trong quản lý, kiểm tra, giám sát, chủ
động phát hiện các hạn chế, tồn tại các mặt công tác của cán bộ, giảng viên trong
PCLV, hoặc có trường hợp phát hiện được nhưng xử lý không nghiêm, không đúng
với tính chất, mức độ, vì sợ ảnh hưởng đến thành tích chung. Ngoài ra, “một số đơn
vị chưa thực sự quyết liệt, thậm chí có nơi còn buông lỏng công tác quản lý cán bộ;
vẫn còn tình trạng nặng về thành tích, coi nhẹ kiểm tra, giám sát việc thực hiện”
[52, tr.1].
Ở một số đơn vị trong các Học viện CAND, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, người
đứng đầu chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chưa nghiêm túc trong tự phê bình
và phê bình, chưa thực sự tiêu biểu về năng lực, phong cách và kinh nghiệm, là tấm
gương để cán bộ, giảng viên noi theo; quá trình “tự soi, tự sửa” trong kiểm điểm thực
hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng chưa nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật, không đánh giá đúng thực chất những hạn chế, tồn tại nên không
có những giải pháp kịp thời để chấn chỉnh lề lối, tác phong công tác của cán bộ, giảng
viên. Vấn đề đặt ra cần có sự thống nhất nhận thức của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện
CAND, làm cho họ có nhận thức đúng đắn về vị trí, ý nghĩa của phong cách, lề lối
làm việc để từ đó có những biện pháp cụ thể trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia
xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ ba, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa thật sự nâng cao ý
thức xây dựng, rèn luyện, đổi mới, sáng tạo trong PCLV
101
Ở các Học viện CAND, bên cạnh những cán bộ, giảng viên say mê, nhiệt
tình, trách nhiệm, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh, đạt hiệu quả cao
trong kết quả công tác thì vẫn có một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa tự giác nhận
thức đúng đắn về vị trí, vai trò và sự cần thiết của việc đổi mới, rèn luyện PCLV.
Do đó, họ chưa thực sự tích cực, chủ động xây dựng PCLV hiệu quả, phù hợp thực
tiễn, không là tấm gương tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác
để cán bộ, giảng viên cấp dưới và học viên noi theo.
Còn tình trạng cán bộ, giảng viên có biểu hiện tự thoả mãn, tư tưởng trung
bình chủ nghĩa, ngại phấn đấu trong công tác, giảng dạy, nghiên cứu: “Ý thức tự
học và thái độ học tập của một số cán bộ, giảng viên khi tham gia các lớp bồi dưỡng
chưa cao, chưa nghiêm túc chấp hành kỷ cương, nền nếp học tập” [21, tr.10]. Một
số cán bộ, giảng viên không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện; không chấp hành nghiêm
quy định của Đảng, của ngành và Học viện, lập trường tư tưởng không vững vàng,
không đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn, thử thách, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ,
hẹp hòi, thực dụng, bị gục ngã trước những cám dỗ vật chất, suy giảm uy tín
nghiêm trọng trước đồng nghiệp và học viên. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến những hạn chế trong công tác tự xây dựng, rèn luyện PCLV của
cán bộ, giảng viên các Học viện CAND thời gian qua.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng xây dựng PCLV
của cán bộ, giảng viên trong các Học viện chưa thường xuyên, liên tục, có lúc, có
nơi còn hình thức
Về cơ bản, các Học viện CAND đều xác định và làm tốt công tác kiểm tra,
đánh giá quá trình xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
quá trình xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên trong những năm qua còn có mặt
chưa cao. Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị,
khoá XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong CAND năm 2015 và Chỉ thị số 04/CT-BCA của Bộ trưởng Bộ
Công an về “Đổi mới, nâng cao chất lượng phong trào CAND học tập, thực hiện
Sáu điều Bác Hồ dạy trong tình hình mới” đều xác định nguyên nhân của tồn tại,
102
hạn chế về phong cách của người cán bộ, chiến sỹ nói chung, trong đó có cán bộ,
giảng viên ở các Học viện CAND là cấp uỷ, lãnh đạo, chỉ huy còn coi nhẹ kiểm tra,
giám sát việc thực hiện, công tác tham mưu, đôn đốc chưa được coi trọng.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của công tác phát triển giáo dục, đào tạo ở các Học
viện CAND, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng PCLV và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên. Vì thế, trong thời gian tới, một trong những
yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là phải đổi mới, làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát để tăng cường hiệu quả việc xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ năm, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ xây dựng PCLV của cán bộ,
giảng viên các Học viện CAND còn hạn chế
Hiện nay, hầu hết các Học viện CAND đã từng bước quan tâm đầu tư phương
tiện, thiết bị giảng dạy, nghiên cứu khoa học, công tác của cán bộ, giảng viên. Tuy
nhiên, việc đầu tư trang thiết bị, phương tiện, công cụ làm việc cho cán bộ, giảng viên
vẫn chưa thực sự đồng bộ, điều kiện khai thác sử dụng còn nhiều hạn chế, bất cập;
phương tiện giảng dạy nghiệp vụ chuyên ngành đã lạc hậu với sự phát triển của khoa
học công nghệ, gây khó khăn cho giảng viên nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy;
điều kiện sân bãi tập, thực hành, tài liệu học tập chưa đảm bảo, “chưa xây dựng được
các khu thực hành, thực tập liên hoàn theo ngành nghề đào tạo” [13, tr.13]. Số lượng
các phòng học chung chưa đủ đáp ứng so với quy mô đào tạo và lưu lượng học viên
thực tế, còn có tình trạng dạy học theo ca. Việc giảng dạy, thực hiện các nhiệm vụ
chuyên môn quá tải khiến cán bộ, giảng viên không có thời gian, cơ hội để nghiên
cứu khoa học và thực hiện các công tác khác ngoài giảng dạy, phục vụ, ảnh hưởng
đến kết quả rèn luyện, bồi dưỡng PCLV của cán bộ, giảng viên.
Ngoài ra, cơ chế, các quy định của Nhà nước, Bộ Công an về chế độ, chính
sách còn có những bất cập, phương tiện và tài chính phục vụ cho nội dung đổi mới
các mặt công tác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng PCLV của cán
bộ, giảng viên.
Từ những ưu điểm và hạn chế trong xây dựng PCLV, biểu hiện rõ nét trong
kết quả công tác trên các mặt của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, để nâng
103
cao, phát huy những mặt mạnh, hạn chế những vấn đề còn tồn tại, việc tiếp tục xây
dựng cho cán bộ, giảng viên PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp
thiết để hoàn thiện PCLV của họ, phục vụ nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và công tác chuyên môn, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
lực lượng CAND, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
3.3. YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Các Học viện CAND vừa mang tính chất của cơ sở đào tạo, vừa mang tính
chất là một đơn vị dự bị sẵn sàng chiến đấu của lực lượng CAND. Vì vậy, phương
pháp, tác phong của người cán bộ, giảng viên là sự tổng hòa giữa phong cách của
một nhà sư phạm và một cán bộ, chiến sĩ CAND, họ vừa có phong cách, kỷ luật cao
của người chiến sĩ CAND; vừa có phong cách khoa học của một nhà giáo, nhà quản
lý giáo dục, cán bộ nhà trường, có sự lôi cuốn và sức thuyết phục học viên, là tấm
gương mẫu mực về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị chuyên môn học thuật. Để
hình thành ở mỗi cán bộ, giảng viên PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh đúng
đắn, đạt hiệu quả cao về giáo dục, đào tạo trong thời gian tới của mỗi Học viện
CAND và nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND, cần đảm bảo các yêu cầu như sau:
3.3.1. Quán triệt, thực hiện đúng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà
nước, Bộ Công an về xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên gắn với
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân
Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc quan trọng hàng đầu, đảm bảo hoạt động
xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh được tiến
hành có hệ thống, đúng phương hướng chính trị và đạt được mục đích đề ra. Trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, giảng viên, Đảng, Nhà nước và Bộ
Công an đã ban hành nhiều văn bản quan tâm vấn đề trên như: Tháng 10/2012, tại
Hội nghị lần thứ VI, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã kết luận: Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo bao gồm: đổi mới tư duy, đổi mới mục tiêu
đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục, đào tạo; nội dung, phương pháp dạy
và học, cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở vật chất,
104
nguồn lực, mọi điều kiện đảm bảo cho giáo dục, đào tạo trong hệ thống. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 Khoá XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”;
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Đảng ta cũng khẳng định yêu cầu cấp thiết cần đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Quyết định số
771/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/6/2012 về Chiến lược phát triển
giáo dục 2011 - 2020 đã xác định “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục” là giải pháp then chốt.
Quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục, đào tạo
trong CAND được Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo như: ban hành Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA và Chỉ thị
số 13/CT-BCA ngày 28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo trong CAND”; chỉ thị về nhiệm vụ công tác trọng tâm hàng năm trong các
trường CAND.
Vì vậy, mọi hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của
Đảng, Nhà nước và của Ngành về xây dựng đội ngũ cán bộ, về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, đào tạo trong CAND phù hợp từng giai đoạn. Trong quá trình
xây dựng, cần xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nội dung, lựa chọn hình thức,
biện pháp xây dựng phù hợp với đặc điểm của từng Học viện, đảm bảo PCLV của
cán bộ, giảng viên các Học viện CAND ngày càng phát triển và hoàn thiện, đáp ứng
yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, uy tín, vị thế của các Học viện
CAND trong tình hình mới.
3.3.2. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ công tác gắn với vai trò, chức
trách, nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân
Mục đích xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí
Minh nhằm đảm bảo họ có PCLV tiến bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo cũng như nhiệm vụ xây dựng lực lượng và chiến đấu của
CAND. Xuất phát từ đặc thù của lực lượng CAND, từ yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo
đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã
105
hội, đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động nên xây dựng PCLV theo
phong cách Hồ Chí Minh để đạt được hiệu quả, cần đảm bảo những yêu cầu về
phẩm chất, năng lực, phương pháp của cán bộ, giảng viên các học viện CAND như:
Cán bộ, giảng viên có năng lực về khoa học giáo dục, lý luận dạy học và tâm lý sư
phạm; là những người có kiến thức nghiệp vụ về công tác công an, lĩnh vực đào tạo
của Học viện mình; có sự hiểu biết phong phú, sâu rộng về chính trị - xã hội, pháp
luật, khoa học, công nghệ thông tin, nhận biết những âm mưu phương thức, thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và có phương châm, đối sách,
biện pháp áp dụng phòng ngừa, đấu tranh trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, “do
yêu cầu của nhiệm vụ công tác công an, cán bộ, giảng viên cần phải có các kỹ năng
khác, như: giao tiếp; hợp tác; chung sống; làm việc nhóm và có thể chất, sức khỏe
tốt đảm bảo các yêu cầu kiểm tra sức khỏe của Bộ Công an” [78, tr.79].
Các chủ thể trong quá trình xây dựng phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của
cán bộ, giảng viên trong hoạt động chuyên môn cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của
thực tiễn công tác Công an trong tình hình mới. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ yêu cầu: Xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng.
Từ những yếu tố trên, việc đề ra phương hướng, nội dung, lựa chọn hình
thức, biện pháp xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh phải phù hợp, gắn
bó với thực tiễn của các Học viện và vai trò, chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm của
từng cán bộ, giảng viên, đảm bảo cho quá trình xây dựng đạt hiệu quả tích cực.
3.3.3. Xây dựng phong cách làm việc gắn với nâng cao trình độ, năng lực
của cán bộ, giảng viên
Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa năng lực chuyên môn và phong
cách của người cán bộ cách mạng, nên PCLV của người cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND chỉ có thể được hình thành và phát triển trên nền tảng của năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ công tác. Thực tiễn quá trình xây dựng PCLV ở các Học
106
viện CAND cho thấy, nếu cán bộ, giảng viên có PCLV khoa học, chuẩn mực thì
hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được củng cố, nâng cao năng lực giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và chuyên môn của mình, các mối quan hệ công tác được
giải quyết hài hòa, đặc biệt là cán bộ, giảng viên có vai trò lãnh đạo, sẽ trở thành
trung tâm quy tụ và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn đơn vị. Ngược lại, ở đâu,
nơi nào mà cán bộ, giảng viên thiếu sâu sát, kém năng động, quan liêu, xa rời hoạt
động thực tiễn, sẽ dẫn đến hiệu quả công tác, giảng dạy không cao.
Do đó, trong quá trình xây dựng PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên
các Học viện CAND, cần tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lòng tự tôn nghề
nghiệp, ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của những chiến sĩ tiên phong trên
mặt trận “trồng người”. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện CAND
không chỉ là những cán bộ, nhà giáo mẫu mực, nhà khoa học có uy tín, tấm gương
sáng về trí tuệ, nhân cách mà còn là những nhà hoạt động thực tiễn giàu kinh
nghiệm trong các lĩnh vực công tác công an, có những đóng góp trong sự nghiệp
giáo dục, đào tạo của Đảng, Nhà nước và lực lượng CAND.
3.3.4. Bảo đảm tính đồng bộ giữa chủ thể xây dựng với việc tự xây dựng,
rèn luyện phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên
Sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động xây dựng của các chủ thể với quá trình tự
xây dựng, tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, giảng viên là yêu cầu có tính nguyên
tắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.
Trong đó, sự nỗ lực, cố gắng tự xây dựng, rèn luyện luôn là nguyên nhân
quyết định để hình thành, phát triển PCLV của cán bộ, giảng viên. Bởi lẽ, dù được
đào tạo cơ bản, quan tâm bồi dưỡng nhưng nếu cán bộ, giảng viên không có tinh
thần cầu thị tiến bộ, yêu ngành, yêu nghề, không chịu khó phấn đấu, tu dưỡng, học
hỏi thì PCLV, phẩm chất, năng lực khó có thể phát triển toàn diện và chất lượng,
hiệu quả công tác sẽ không cao. Việc xây dựng, bồi dưỡng PCLV theo phong cách
Hồ Chí Minh của các chủ thể mặc dù giữ vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo,
giáo dục, hướng dẫn, tổ chức thực hiện nhưng không thể thay thế được hoạt động tự
xây dựng, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cán bộ, giảng viên.
107
Ngoài ra, cán bộ, giảng viên cũng cần lưu ý, sự tích cực, tự giác, sáng tạo của
bản thân trong tự xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh phải
được đặt dưới sự quản lý của tổ chức, đơn vị. Các Học viện cần đảm bảo sự định
hướng đúng đắn đối với mỗi nội dung xây dựng sao cho phù hợp với đặc điểm, vị
trí công tác của cán bộ, giảng viên ở từng giai đoạn cụ thể; phát động thành phong
trào học tập, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để cán bộ, giảng viên ở các Học
viện CAND có cơ hội phấn đấu, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công tác.
3.3.5. Có cơ chế động viên, khen thưởng, tạo môi trường thuận lợi để
xây dựng phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên
Chính sách tốt và điều kiện thuận lợi sẽ giúp cán bộ, giảng viên yên tâm
công tác, gắn bó với nhà trường, nghề nghiệp, từ đó, phát huy tinh thần tích cực,
chủ động, ý thức sáng tạo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy, không ngừng tự
đổi mới, hoàn thiện bản thân. Các Học viện CAND cần thường xuyên chủ động
nắm tình hình tư tưởng cán bộ, giảng viên, giải quyết kịp thời các vấn đề tư tưởng
phát sinh. Quan tâm chăm lo không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của cán bộ, giảng viên, tạo điều kiện tốt nhất để họ yên tâm công tác, rèn luyện, có
như vậy, quá trình xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh mới đạt hiệu
quả thiết thực.
Trong quá trình thực hiện, Đảng uỷ, ban Giám đốc, lãnh đạo các Học viện
CAND phải công bằng, công tâm các chế độ chính sách đối với cán bộ, giảng viên,
có những biện pháp khen thưởng, động viên các kết quả đạt được của cán bộ, giảng
viên theo quy định như: thăng cấp bậc hàm, nâng lương, chuyển loại bố trí cán bộ;
lựa chọn, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, giảng viên lãnh đạo các cấp, trợ cấp khó
khăn đột xuất; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng kịp thời với những cán bộ,
giảng viên đạt thành tích cao, có sáng kiến hay trong công tác, giảng dạy, nghiên
cứu khoa học để động viên, khích lệ nhân rộng điển hình; tăng cường đầu tư trang
thiết bị, nâng cấp phương tiện làm việc.
3.3.6. Thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với phong trào
thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
108
Xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên là công việc thường xuyên của các
Học viện CAND, nội dung xây dựng không chỉ thể hiện trong các hoạt động của
nhà trường, mà phải lồng ghép trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và quá
trình thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua do Đảng, Nhà nước và Bộ
Công an phát động.
Các Học viện CAND cần quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác
chính trị, tư tưởng thông qua các nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức phong phú,
linh hoạt, sát hợp. Bên cạnh đó, chú trọng công tác giáo dục truyền thống cách
mạng của Đảng, của dân tộc, Ngành và Học viện, phổ biến, cập nhật tình hình chính
trị, thời sự trong nước và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ,
giảng viên. Tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo các đơn vị nắm diễn biến tình hình tư
tưởng, tâm tư và giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng phát sinh trong cán bộ,
giảng viên.
Để quá trình xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh đạt hiệu quả,
các Học viện CAND cần tích cực chỉ đạo, tuyên truyền cho cán bộ, giảng viên
hưởng ứng và tham gia có kết quả các cuộc vận động, các phong trào lớn do Đảng,
Nhà nước và Bộ Công an phát động như cuộc vận động: “Học tập và là theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “CAND thực hiện nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp
sống văn hoá vì nhân dân phục vụ”, phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều
Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân
phục vụ”, các phong trào thi đua sáng kiến, cải tiến, học tập tốt, rèn luyện tốt. Đa
dạng hoá các loại hình hoạt động tuyên truyền bằng các nội dung, hình thức thích
hợp; gắn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với các phong trào thi đua. Qua các
phong trào, thi đua, các cuộc vận động, giúp cho cán bộ, giảng viên CAND có nhận
thức sâu sắc về giá trị, ý nghĩa cách mạng, khoa học về tư tưởng, đạo đức, phong
cách và Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, lấy đó là nền tảng tư tưởng, phương châm,
nguyên tắc để mỗi người tự hoàn thiện mình về phong cách, tác phong công tác, tự
soi, tự sửa, tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân, trở thành việc làm thường xuyên trong
tư duy và hoạt động thực tiễn hàng ngày của mỗi người. Từng đơn vị và mỗi cán
109
bộ, giảng viên cần có những chương trình hành động cụ thể hoá nội dung Sáu điều
Bác Hồ dạy thành hệ tiêu chí, tiêu chuẩn để cán bộ, giảng viên thực hiện.
Để đảm bảo hiệu quả thực chất trong học tập, thực hiện các cuộc vận động,
các phong trào thi đua cần kết hợp giáo dục đạo đức, lối sống, đi đôi với giáo dục
PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương, chủ
động phòng ngừa, phát hiện sớm, xử lý kiên quyết các trường hợp cán bộ, chiến sĩ
vi phạm pháp luật, kỷ luật, có dấu hiệu suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”,
quan liêu, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân hoặc bị mua chuộc,
lôi kéo bởi các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”. Cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND phải vừa có đức, vừa có tài, thật sự liêm chính, tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục, đào tạo. Nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu, ý thức trách nhiệm, sự nhiệt
huyết trong đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo chỉ huy,
xây dựng môi trường nhà trường kỷ cương, kỷ luật, văn hoá.
Các Học viện CAND chủ động, khẩn trương xây dựng kế hoạch để cán bộ,
giảng viên thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động, phong trào thi đua cho phù hợp
với đặc điểm, tình hình của từng đơn vị. Lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức phong trào, các cuộc vận động phải khoa học,
cụ thể, thiết thực, gắn liền với cuộc sống và công tác hàng ngày của cán bộ, giảng
viên. Cấp ủy, lãnh đạo đơn vị các Học viện “đề cao trách nhiệm, tính tự giác gương
mẫu đi đầu trong thực hiện của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt” [24, tr.2]
“tránh phô trương, hình thức; đảm bảo phương châm “trên trước, dưới sau”, “phát
động đi đôi với hành động”, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, giảng viên tự tu dưỡng,
rèn luyện về mọi mặt, hướng tới mục tiêu xây dựng hình ảnh người chiến sỹ CAND
Việt Nam phát triển toàn diện, đẹp trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.
Tiểu kết chương 3
Cán bộ, giảng viên giữ vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của các
Học viện CAND, có chức năng, nhiệm vụ phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo,
phát triển của Học viện. Hiện nay, cán bộ, giảng viên ngày càng được chú ý xây
110
dựng, đảm bảo về chất lượng và hiệu quả về PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cho thấy, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã ngày một
nâng cao, được thể hiện rõ nét trong kết quả công tác mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của
giáo dục, đào tạo trong bối cảnh, tình hình mới.
Kết quả trên đã thể hiện vai trò lãnh đạo, quyết tâm của các chủ thể trong
việc tổ chức thực hiện xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND
theo phong cách Hồ Chí Minh. Quá trình xây dựng, các Học viện đã làm tốt vai trò,
trách nhiệm, đồng thời, phát huy tinh thần sáng tạo, tích cực trong việc đổi mới nội
dung, phương pháp tổ chức thực hiện; phát huy vai trò, ý thức, sự sáng tạo của mỗi
cán bộ, giảng viên trong quá trình tự xây dựng, rèn luyện.
Tuy nhiên, trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: nhận thức của một bộ phận chủ thể xây
dựng chưa toàn diện, sâu sắc; công tác xây dựng còn thiếu những biện pháp chiến
lược, nội dung cụ thể; điều kiện cơ sở vật chất phục vụ xây dựng PCLV của cán bộ,
giảng viên còn hạn chế; chất lượng bồi dưỡng, xây dựng có mặt chưa cao; một bộ
phận cán bộ, giảng viên còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, chưa thực sự cố gắng
rèn luyện, xây dựng PCLV. Những mặt tồn tại trên đã tác động không ít đến hiệu
quả xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách
Hồ Chí Minh. Nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả PCLV của cán bộ, giảng
viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, cần
phát huy mặt mạnh, hạn chế những tồn tại về nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
uỷ, lãnh đạo các Học viện và trong PCLV của cán bộ, giảng viên; đảm bảo một số
yêu cầu đặt ra. Đây là cơ sở để xác định những nội dung và giải pháp xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ
Chí Minh.
111
Chương 4
NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN
HIỆN NAY THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
4.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG PHONG CÁCH
LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN
HIỆN NAY
4.1.1. Tình hình thế giới
Tình hình thế giới những năm tới hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn, là dòng chảy chủ đạo trong đời sống chính trị thế
giới đương đại. Quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, thu hút tất cả
các quốc gia, dân tộc tham gia ở các mức độ khác nhau; khu vực châu Á - Thái
Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng phát triển năng động, trong đó
ASEAN ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển chung
của khu vực.
Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghiệp lần thứ tư (4.0) với
quy mô, tốc độ phát triển đã làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách và cách thức
giao tiếp của con người. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, các quốc gia không thể
chỉ dựa vào nguồn tài nguyên, vốn, kỹ thuật - công nghệ mà phải dựa vào chất
lượng nguồn nhân lực. Cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước thực chất và cơ
bản là sự cạnh tranh về nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đặt ra
cho các quốc gia, dân tộc phải chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Do đó, cùng
với đổi mới kinh tế, các quốc gia đều có chủ trương đổi mới, cải cách khoa học,
giáo dục. Đặc điểm quan trọng của trào lưu đổi mới, cải cách giáo dục, đào tạo là
cung cấp, rèn luyện phương pháp cho người học, giúp họ chủ động tiếp cận với
những thành tựu hiện đại của khoa học công nghệ.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển đòi hỏi con người phải có
PCLV khoa học, có năng lực tổ chức hoạt động, công tác một cách khoa học, có
112
chất lượng, hiệu quả. Có ý thức và năng lực làm chủ, có tinh thần tự học hỏi, rèn
luyện suốt đời để không ngừng bổ sung tri thức phù hợp với sự phát triển. Như vậy,
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đòi hỏi cần có sự đổi mới tư duy về
công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, đảm bảo cán bộ có PCLV khoa học, tiến
bộ, đáp ứng yêu cầu trong thời đại mới.
Bên cạnh sự thuận lợi, giai đoạn phát triển hiện nay của thế giới đặt ra không
ít khó khăn, thách thức đối với các quốc gia, dân tộc trong quá trình đổi mới, hội
nhập. Kinh tế thế giới, khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn
những yếu tố bất trắc khó lường: hợp tác, cạnh tranh giữa các nước diễn ra đan xen,
khó phân biệt; khủng hoảng kinh tế chậm được khắc phục, “xung đột sắc tộc, tôn
giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ, biển đảo... tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng
phức tạp” [47, tr.72]. Những vấn đề toàn cầu như:
An ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh
lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức
tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các
thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh
mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới [47, tr.72].
Các cơ quan đặc biệt nước ngoài tập trung tấn công, thâm nhập, tác động
chuyển hóa, tạo dựng các nhân tố chống đối trong nội bộ; đẩy mạnh tập hợp lực
lượng đối lập trong nội địa nhằm tiến hành “cách mạng màu” ở Việt Nam. Số đối
tượng chống đối trong nước cấu kết chặt chẽ với bọn phản động bên ngoài hoạt
động chống phá công khai, quyết liệt với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” ngày càng nguy hiểm, khó lường hơn.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có Đông Nam Á với tiềm năng
lớn và xu thế phát triển năng động đang trở thành vòng xoáy tranh giành ảnh hưởng,
phát triển lợi ích kinh tế, địa chính trị của các nước lớn. Khu vực này cũng đang tồn
tại nhiều mâu thuẫn, xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới, đặc biệt là tranh chấp
113
chủ quyền biển đảo hết sức căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia liên quan,
trong đó có Việt Nam, đã và đang đe doạ trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội nước ta.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết đối với
công tác công an, tác động, nảy sinh những yêu cầu mới trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đòi hỏi người cán bộ, chiến sỹ
CAND không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật tri thức về khoa học công
nghệ hiện đại. Do đó, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng
phải đảm bảo tính khoa học, nhạy bén, nắm bắt tình hình thực tiễn chiến đấu của
ngành để đủ khả năng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phục vụ mục tiêu đào tạo
nên đội ngũ cán bộ công an có trình độ cao, đáp ứng nhiệm vụ của đất nước trong
tình hình mới.
4.1.2. Tình hình trong nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Thế và lực, sức
mạnh tổng hợp tăng lên, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất
nước phát triển nhanh, bền vững. Đảng ta khẳng định: “Chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển đất
nước” [47, tr.58-59]. Những thành tựu đó đã tạo cơ sở, tiền đề xây dựng đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ Công an có sự phát triển về số lượng và chất lượng, củng cố lực lượng
CAND ngày càng lớn mạnh, trưởng thành.
Trong thời gian tới, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng
trước nhiều nguy cơ, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng chỉ ra vẫn tồn tại, có diễn biến
phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan
liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Quá trình đổi mới vẫn thiếu đồng
bộ và toàn diện, nền kinh tế tăng trưởng, nhưng phát triển chưa bền vững và tương
xứng với tiềm năng hiện có, một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch. Mặt
trái nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế thẩm thấu ngày càng mạnh vào mọi mặt
114
của đời sống xã hội, làm thay đổi nhận thức, tư tưởng, hành động của một bộ phận
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá
Đảng, Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc, xảo quyệt,
trong đó có chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân. Tình hình tội phạm, tệ
nạn xã hội diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, phạm vi
hoạt động và tính chất nghiêm trọng; nhiều loại tội phạm mới xuất hiện gây khó
khăn cho lực lượng công an trong phát hiện, đấu tranh, thậm chí công khai thách
thức lực lượng Công an. Đòi hỏi lực lượng CAND phải tăng cường sức chiến đấu,
xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Đây cũng là thời gian chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được
rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được giáo dục, đào tạo dưới mái
trường xã hội chủ nghĩa, sang thế hệ cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong điều
kiện đất nước hoà bình, phát triển, được đào tạo từ nhiều nguồn ở trong và ngoài
nước. Điều kiện, yêu cầu về trình độ, năng lực và phong cách của thế hệ cán bộ sau
cũng có sự khác biệt với cán bộ trong các thế hệ trước. Tình hình đó tác động mạnh
mẽ, toàn diện, sâu sắc đến việc xây dựng, rèn luyện PCLV cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Như vậy, trong thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản, đất nước
ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra cho toàn lực
lượng Công an những nhiệm vụ hết sức nặng nề như: yêu cầu xây dựng lực lượng
CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại và đào tạo nên thế
hệ cán bộ, chiến sỹ CAND có bản lĩnh, phong cách, trình độ. Nhiệm vụ đó trước hết
thuộc về các nhà trường CAND, trong đó trọng tâm là các Học viện. Đảng uỷ Công
an Trung ương xác định, nhất thiết phải “bố trí lực lượng, đào tạo cán bộ Công an
cả về chính trị, nghiệp vụ, pháp luật, khoa học kỹ thuật và ngoại ngữ... mới đáp ứng
được yêu cầu” [51, tr.37].
115
Trong bối cảnh đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên ở các Học viện
CAND theo phong cách Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp đột phá, chiến
lược, lâu dài để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới; góp phần xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh toàn diện,
xứng đáng là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, thực
hiện tốt vai trò bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi
trường hoà bình, ổn định để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
4.2. NỘI DUNG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,
GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Mỗi lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể luôn đòi hỏi con người làm việc
cho nó phải có những đặc trưng riêng về phẩm chất và năng lực. Do đó, nội dung
xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ
Chí Minh phụ thuộc vào những phẩm chất và năng lực riêng biệt, đặc thù của lực
lượng CAND.
Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
Khoá XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo” với nhiệm vụ xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng
và hội nhập quốc tế; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng;
các nghị quyết Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương nhằm xây dựng các
Học viện CAND đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng lực lượng CAND, phục vụ sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, nên việc xây dựng PCLV
nâng cao năng lực, phong cách công tác của cán bộ, giảng viên cũng chính là một
trong những nội dung trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của
các Học viện CAND.
Tình hình mới hiện nay của đất nước đòi hỏi cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND phải luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng tốt quan điểm, tư tưởng của Chủ
116
tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về PCLV nhằm đem lại hiệu quả cao trong thực
hiện chức trách, nhiệm vụ, trong đó cần hết sức coi trọng xây dựng tốt một số nội
dung sau:
4.2.1. Xây dựng phong cách làm việc dân chủ, đoàn kết
Xây dựng và phát huy dân chủ, giữ vững đoàn kết mọi mặt chính là biểu hiện
của PCLV dân chủ của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND. Trong xây dựng và
phát huy PCLV dân chủ, chấp hành đúng các nguyên tắc của tổ chức, đảm bảo kỷ
cương và kỷ luật. Đấu tranh với mọi biểu hiện lợi dụng dân chủ dẫn đến dân chủ
quá trớn, hoặc dân chủ hình thức, “kéo bè, kéo cánh”, gây mất đoàn kết nội bộ.
Chỉ có bầu không khí tâm lý tích cực thì các mục tiêu nhiệm vụ công tác mới
bảo đảm chất lượng và là cơ sở của sự sáng tạo, truyền cảm hứng. Thực hiện tốt dân
chủ trong dạy và học là điều cần thiết, trong quá trình giảng dạy, giảng viên phải
khéo léo khơi gợi học viên nhạy bén phát hiện được những vấn đề hay, những mâu
thuẫn, khích lệ học viên trình bày quan điểm, cách làm, bên cạnh đó kịp thời định
hướng, dẫn dắt người học tránh lạc chủ đề, sai nguyên tắc. Sau mỗi nội dung công
tác, giảng dạy, phát huy dân chủ trong đánh giá kết quả, trao đổi, đúc rút kinh
nghiệm cho cả cán bộ, giảng viên và học viên để không ngừng cải tiến nội dung,
phương pháp, nâng cao chất lượng. Dân chủ còn thể hiện ở hoạt động giao lưu để
cán bộ, giảng viên và học viên hiểu nhau hơn, không còn những tự ti trong suy nghĩ,
thoải mái trao đổi, phát huy tốt trí tuệ, kiến thức của mình, mạnh dạn đóng góp về
nội dung, phương pháp, tác phong của cán bộ, giảng viên.
Cơ sở quan trọng đảm bảo tính bền vững, tạo nên sức mạnh và kỷ luật của
CAND chính là sự đoàn kết, gắn bó, sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong quan hệ
đồng chí, đồng nghiệp. Chỉ khi xây dựng được một tập thể đoàn kết, thống nhất về
chủ trương, hành động, vì mục tiêu nâng cao PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên
trong Học viện thì khi đó mới có cơ sở thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra. Đây
cũng là một trong những lời dạy của Hồ Chí Minh đối với lực lượng CAND: “Đối
với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ” [86, tr.498]. Giáo dục cán bộ, chiến sỹ có tinh
thần đoàn kết thương yêu đồng chí, đồng đội, thân ái giúp đỡ nhau trong học tập,
117
rèn luyện, công tác. Biểu hiện của người cán bộ, chiến sỹ CAND biết giữ gìn sự
đoàn kết nội bộ được thể hiện bởi sự yêu thương đồng chí, đồng đội, đồng cam chịu
khổ. Thân ái, giúp đỡ gắn liền với việc hướng dẫn, truyền đạt tri thức, kinh nghiệm
nghề nghiệp với đồng đội, đồng chí với tinh thần cùng nhau tiến bộ.
Phong cách làm việc đoàn kết gắn bó của cán bộ, giảng viên phải được thể
hiện ở tinh thần tương trợ, thương yêu lẫn nhau, “mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người”, tất cả vì mục tiêu, nhiệm vụ chung, hoàn toàn khác xa với
hiện tượng kéo bè, kéo cánh, cục bộ, địa phương. Trong quan hệ giữa các cán bộ,
giảng viên phải luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, độ lượng, rộng rãi với đồng
đội. Thân ái giúp đỡ đồng nghiệp cũng là tạo điều kiện cho nhau phát triển, tiến bộ
không ngừng, coi sự trưởng thành của đồng đội là sự trưởng thành của bản thân,
không đố kỵ, nhỏ nhen, hẹp hòi.
Để có PCLV đoàn kết, gắn bó, thực sự thân ái, mỗi cán bộ, giảng viên phải
có ý thức chăm lo xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, thực hiện tốt nguyên tắc tự
phê bình và phê bình theo lời dạy của Hồ Chí Minh. Khi phê bình người khác phải
phải khéo léo, phải sáng suốt để người bị phê bình nhận ra khuyết điểm của mình và
tự sửa chữa. Bên cạnh chỉ rõ những khuyết điểm cũng nêu lên những ưu điểm để
vừa sửa chữa, khuyến khích cán bộ, mục đích để cho mọi người phát huy ưu điểm
và giúp nhau khắc phục hạn chế. Khi nội bộ đoàn kết thì dân chủ được phát huy,
cán bộ, giảng viên yên tâm, phấn khởi công tác, yêu ngành, yêu nghề, thi đua hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
4.2.2. Xây dựng phong cách làm việc sâu sát, nắm bắt tình hình thực tế
Ở mỗi Học viện, qua mỗi giai đoạn, quá trình đều có phương hướng, nội
dung cụ thể của công tác giáo dục, đào tạo phù hợp với thực tế đó. Cần xác định
rõ nhiệm vụ chính trị cơ bản, lâu dài, có tính chiến lược qua các giai đoạn cũng
như những nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách trong từng năm học phù hợp với đặc
điểm tình hình mỗi Học viện. Do vậy, việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên theo phong cách Hồ Chí Minh cũng cần căn cứ trên những yêu cầu cụ thể
118
của kế hoạch công tác đã được Bộ Công an, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo
các Học viện đặt ra.
Căn cứ vào mục tiêu cụ thể của Đề án về “Phát triển và nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên các trường CAND” quy định phấn đấu đến năm 2020, ở các Học
viện CAND, trình độ đội ngũ giảng viên là tiến sỹ đạt tỷ lệ 40%, thạc sỹ 55%, cán
bộ quản lý giáo dục có trình độ tiến sỹ 25%, thạc sỹ 60% [13, tr.3]; trình độ lý luận
chính trị là cử nhân hoặc cao cấp của cán bộ, giảng viên đạt tỷ lệ 50%; trình độ
ngoại ngữ Tiếng Anh đại học, TOEFL 550 hoặc IELTS 6.0 của cán bộ, giảng viên
đạt tỷ lệ 35% [13, tr.4]; đồng thời, bám sát theo định hướng đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo trong CAND. Những yêu cầu trên sẽ là tiêu chí để mỗi cán
bộ, giảng viên phấn đấu đạt tiêu chuẩn chức danh trong giảng dạy, huấn luyện, quản
lý, nâng cao hiệu quả phương pháp, lề lối công tác và phát triển cao trên con đường
sự nghiệp.
Ngoài ra, ở mỗi Học viện CAND, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo
cho rất nhiều hệ, lớp khác nhau, như: đào tạo chính quy, vừa làm - vừa học, văn
bằng 2, bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng chức danh, bồi dưỡng trung cấp, cao cấp lý
luận chính trị. Do đó, trong công tác, giảng dạy, cán bộ, giảng viên cần căn cứ và
bám sát thực tế chương trình đào tạo của mỗi đối tượng học viên để từ đó có
phương pháp, nội dung giảng dạy, huấn luyện, phục vụ phù hợp với mục tiêu, yêu
cầu của từng hệ học và đặc điểm của Ngành. Học tập PCLV Hồ Chí Minh sâu sát,
nắm bắt tình hình thực tiễn cũng yêu cầu mỗi cán bộ, giảng viên phải luôn gần gũi
với học viên để khoảng cách giữa cán bộ, giảng viên với học viên được kéo lại gần
hơn, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học viên, sẵn sàng giúp đỡ về mọi mặt trong
khả năng cho phép. Giảng viên, cán bộ quản lý học viên tìm hiểu, khảo sát thêm từ
học viên để điều chỉnh bài giảng, nội dung sinh hoạt phù hợp, giúp học viên có
động cơ tích cực trong học tập và rèn luyện.
Phong cách làm việc sâu sát, nắm bắt thực tế của cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND còn thể hiện ở việc, các bài giảng, đặc biệt là các bài giảng nghiệp vụ
119
chính là lý luận được đúc kết trên cơ sở thực tiễn, do đó, đòi hỏi người cán bộ,
giảng viên trong quá trình công tác cần không ngừng trau dồi, rèn luyện, liên hệ sâu
sắc thực tiễn chiến đấu và công tác của ngành để đưa vào bài giảng. Đồng thời, bám
sát thực tiễn không chỉ phục vụ thiết thực cho việc nâng cao chất lượng bài giảng
mà còn góp phần tổng kết, cung cấp luận cứ khoa học để kiến nghị với Đảng, Nhà
nước đề ra các chủ trương, chính sách quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội; giúp lãnh đạo Bộ có thêm cơ
sở lý luận và thực tiễn trong việc nhận định, đánh giá tình hình và chỉ đạo xây dựng,
hoàn thiện và đổi mới lý luận nghiệp vụ công an. Trên cơ sở đó, sử dụng các kết
quả nghiên cứu chuyên sâu để bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ và đưa vào
thực tiễn chiến đấu của toàn lực lượng.
4.2.3. Xây dựng phong cách làm việc đổi mới, sáng tạo
Đối với các nhà trường nói chung và các Học viện CAND nói riêng, cán bộ,
giảng viên được coi là yếu tố then chốt của đổi mới, cải cách giáo dục. Bởi lẽ,
không có thầy giỏi về năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm và phẩm chất
đạo đức tốt thì không thể có nền giáo dục chất lượng. Do vậy, đổi mới nâng cao
năng lực, phương pháp công tác và giảng dạy sẽ tạo ra tiền đề căn bản, vững chắc
cho cán bộ, giảng viên có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra. Mỗi cán bộ, giảng viên cần
hình thành cho mình thái độ, động cơ phấn đấu đúng đắn, để hoàn thiện phẩm chất
nhân cách, nâng cao năng lực, phương pháp, tác phong công tác và uy tín nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo của Học viện hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các thầy giáo, cô giáo phải tìm
cách dạy. Dạy cái gì, dạy như thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh,
đó là chỉ dẫn để mỗi cán bộ, giảng viên cần đổi mới trong phương pháp, cách thức
dạy học, công tác của mình, chắt lọc nội dung đưa vào bài giảng cho phù hợp, tìm
kiếm phương pháp công tác đạt hiệu quả, năng suất cao.
Các Học viện CAND đảm bảo đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp
giảng dạy, công tác theo hướng tăng cường cập nhật những vấn đề lý luận mới, có
120
tính thực tiễn, kinh nghiệm xử lý các vấn đề phức tạp về chính trị, tư tưởng, an ninh,
trật tự vào giảng dạy; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên trong
việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp; duy trì và nâng cao chất
lượng phong trào dạy giỏi theo hướng thực chất, thiết thực. Hiện nay, ở các Học
viện, trong giảng dạy có các phong trào “Hội thi Giảng viên dạy giỏi cấp Học viện”,
“Hội thi Giảng viên dạy giỏi cấp Bộ”, đối với cán bộ có “Hội thi cán bộ chủ nhiệm
giỏi”, “Hội thi cán bộ Công đoàn giỏi”. Qua các hội thi, các phong trào thi đua đều
rút ra những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong giảng dạy và công tác được tôn vinh
và nhân rộng trong toàn Học viện.
Các trường cần tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt chuyên môn theo
định kỳ hàng tháng, tổ chức các buổi toạ đàm, sinh hoạt khoa học để cán bộ, giảng
viên phát huy trí tuệ của mình, trao đổi học tập lẫn nhau để làm giàu thêm tri thức
bản thân. Ngoài ra, các Học viện CAND tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên tham
gia vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng như: học cao học, nghiên cứu sinh
trong và ngoài nước, tham gia các khóa học, tập huấn chuyên sâu để mở mang, làm
giàu tri thức, nâng cao kiến thức chuyên môn. Đặc biệt, cần thiết phải xây dựng cơ
chế, chính sách mang tính chất đặc thù, tạo cơ hội để cán bộ, giảng viên tham gia
nghiên cứu khoa học, giảng dạy với các trường đại học khác trong và ngoài ngành;
trân trọng và tạo mọi điều kiện cho những cán bộ, giảng viên có những sáng kiến có
thể ứng dụng vào thực tiễn đời sống đem lại lợi ích kinh tế cho Học viện.
4.2.4. Xây dựng phong cách làm việc tận tuỵ, trung thực và trách nhiệm
Sinh thời, Hồ Chí Minh căn dặn lực lượng CAND: “Đối với công việc, phải
tận tụy” [86, tr.499], đó chính là yêu cầu về ý thức, trách nhiệm, hết lòng hết sức
phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của người công an cách mạng. Đối với mỗi cán
bộ, giảng viên các Học viện CAND, là tinh thần làm việc trách nhiệm cao, tự giác,
tự nguyện, hết lòng hết sức và toàn tâm, toàn ý vì nhiệm vụ giáo dục, đào tạo chung,
không nề hà tính toán lợi ích cá nhân. Yêu cầu trong thái độ với công việc phải xuất
phát từ động cơ, thái độ làm việc đúng đắn, đối lập với tư tưởng trung bình chủ
nghĩa, làm việc cầm chừng, nặng về đòi hỏi quyền lợi; làm việc không chỉ vì chế
121
độ, chính sách đối với bản thân mà phải đặt lợi ích của cá nhân trong lợi ích tập
thể. PCLV tận tuỵ cũng bao hàm sự đam mê, nhiệt huyết, trách nhiệm cao với
công việc mà cán bộ, giảng viên được đảm nhận, đổi mới cách làm, hình thành tác
phong làm việc chu đáo, khoa học, nền nếp, có hiệu quả thiết thực. Khi được giao
nhiệm vụ nào quyết tâm làm cho bằng được, đến nơi, đến chốn, không sợ khó
nhọc, không sợ nguy hiểm. Phụ trách công việc gì cũng cần có sự chuẩn bị, tính
toán kỹ lưỡng, đề ra chương trình, kế hoạch, biện pháp và các phương án thực
hiện cụ thể để đảm bảo đạt kết quả cao nhất; đồng thời phải có sự tính toán, dự
liệu, lường trước những khó khăn, phức tạp để chủ động có phương án khắc phục.
Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND để học tập, làm theo phong cách của
Hồ Chí Minh trong công tác phải tận tụy, hăng say, yêu nghề, trung thực và có trách
nhiệm, luôn nỗ lực phấn đấu, ý thức hơn nữa về trách nhiệm và vinh dự, tự hào là
người thầy, cán bộ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo - người sĩ quan CAND, không
ngừng học tập nâng cao trình độ, say mê nghiên cứu sáng tạo trau dồi kiến thức và
kinh nghiệm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn vững vàng lập trường tư tưởng,
quan điểm chính trị, luôn là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, nhân cách, sự
trung thành tuyệt đối trước đồng nghiệp và học viên; là những người truyền lửa,
lòng nhiệt huyết, tri thức cho học viên.
4.2.5. Xây dựng phong cách làm việc nêu gương
Xây dựng PCLV nêu gương theo phong cách Hồ Chí Minh, các Học viện
CAND chú ý phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những khuyết điểm tạo
nên những chuyển biến tích cực trong giảng dạy, công tác của cán bộ, giảng viên.
Trong đó, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo, chỉ huy các Học viện trong tổ
chức thực hiện, đổi mới lề lối làm việc, có trách nhiệm gương mẫu đi đầu trong việc
thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị, nhất là thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở; phải thực sự gương mẫu về chuyên môn, năng lực và
phẩm chất đạo đức.
Mục tiêu cuối cùng của quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên
theo phong cách Hồ Chí Minh chính là nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của
122
nhà trường, rèn luyện nên các thế hệ sỹ quan CAND tương lai có đủ phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực công tác chuyên môn. Mỗi cán bộ, giảng viên phải ý
thức sâu sắc rằng mình là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”, đó không chỉ là
khẩu hiệu mà còn là phương châm hành động trong công tác, chiến đấu; tự giác tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức theo Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, xây dựng
hình ảnh người chiến sỹ CAND tận tụy, nhân văn, vì nhân dân phục vụ; nhân rộng
các tấm gương cán bộ, giảng viên điển hình tiên tiến về phẩm chất, năng lực, PCLV
trong mỗi Học viện.
Trong mỗi Học viện CAND, sự tác động của tấm gương đạo đức, các phẩm
chất chính trị, nhân cách, tình cảm tâm huyết, hết lòng với nghề nghiệp, đặc biệt là
của cán bộ, giảng viên giữ vai trò lãnh đạo và cán bộ, giảng viên thế hệ đi trước có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là những tấm gương có giá trị lan toả, làm cho thế hệ
cán bộ, giảng viên trẻ noi theo. Là người gần gũi trong suốt quá trình đào tạo nên
nhân cách, trí tuệ của học viên nên tác phong, lối sống của người cán bộ, giảng viên
có ảnh hưởng rất lớn trí tuệ, nhân cách, đạo đức, phương pháp của học viên.
Cán bộ, giảng viên tự rèn luyện nhân cách bản thân bằng việc giữ tác phong
sư phạm, có mối quan hệ tốt, tương trợ lẫn nhau với đồng nghiệp, thái độ với học
viên hòa nhã, thân thiện, vui vẻ, sẵn sàng giúp học viên trong học tập, rèn luyện,
sinh hoạt và các vấn đề mà họ còn băn khoăn. Với sự am hiểu về lịch sử, truyền
thống cũng như vai trò của lực lượng CAND, cán bộ, giảng viên cần xác định
nhiệm vụ không chỉ dạy học viên về kiến thức, về phương pháp, mà còn truyền thụ
cho học viên sự yêu ngành, yêu nghề. Đồng thời, rèn luyện đức tính khiêm tốn, giản
dị, tôn trọng pháp luật, nguyên tắc kỷ luật như: thực hiện đúng quy chế, kiên quyết
chống lại mọi biểu hiện tiêu cực trong học tập, giảng dạy và công tác; thực hiện tự
phê bình bản thân thường xuyên, sẵn sàng nhận khuyết điểm, thiếu sót của mình
trước tập thể; chấp hành đúng nội quy, điều lệnh, chuẩn mực trong phát ngôn, phấn
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về
đạo đức, tự học và sáng tạo” [13, tr.4].
123
4.2.6. Xây dựng phong cách làm việc đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, thực
hiện nghiêm điều lệnh nội vụ và quy định của Ngành
Ngoài yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực
chuyên môn, cán bộ, giảng viên cần rèn luyện bản lĩnh trong ý thức tổ chức kỷ luật:
chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng, Nhà nước, ngành Công an, quy định điều
lệnh CAND, mệnh lệnh của người lãnh đạo, chỉ huy, nhất là trong thực thi các
nhiệm vụ, công tác đột xuất hay phải ứng phó kịp thời trước tình huống đặt ra. Khi
tiếp xúc với học viên, với nhân dân phải có thái độ, hành vi văn minh, lịch sự, tôn
trọng, khiêm tốn đúng mực, lắng nghe, nhiệt tình, biết chia sẻ, cảm thông, đồng
cảm, khéo léo, linh hoạt trong xử lý tình huống liên quan đến việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ. Xây dựng tác phong nhanh nhẹn, dứt khoát, chuẩn mực trong lời
nói và hành động. Đặc biệt, cán bộ, giảng viên trẻ cần nâng cao ý thức tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, trong suy nghĩ và thực hiện công việc hằng ngày, trong quan hệ
với đồng chí, đồng nghiệp và học viên. Tự nhìn nhận, tự đánh giá và thấy được vị
trí của mình trong từng mối quan hệ để có cách tiếp cận, ứng xử phù hợp; chú trọng
phương pháp “giáo dục, thuyết phục” và “nêu gương” trong ứng xử với học viên.
Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên cần thực hiện tốt các Chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, ngành và quy định của mỗi Học viện, như: thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khoá XII) của Đảng về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; Kế hoạch số 337/KHBCA-X11 về tổ chức
cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân
dân phục vụ”; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và phong trào “CAND
học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”; Thông tư số 27/2017/TT-BCA ngày
22/8/2017 của Bộ Công an về quy tắc ứng xử của CAND.
4.2.7. Xây dựng phong cách làm việc gắn liền với kiểm tra, giám sát,
đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên, các Học viện không chỉ
chú trọng vào nội dung, phương pháp, hiệu quả mà cần thường xuyên kiểm tra đánh
124
giá định kỳ, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cán bộ, giảng
viên thực hiện tốt, có những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong giảng dạy và công
tác chuyên môn; đồng thời tiếp thu, rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp khắc phục
tồn tại của cán bộ, giảng viên trong thực thi chức trách, nhiệm vụ. Chủ động phát
hiện và xử lý nghiêm cán bộ, giảng viên vi phạm những quy tắc cơ bản trrong quá
trình tu dưỡng, rèn luyện PCLV.
Nội dung kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm có thể được
thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng: lấy ý kiến của chuyên gia công
tác tại các đơn vị nghiệp vụ trong lực lượng; tiếp nhận phản ánh của học viên về
chương trình đào tạo, thái độ, hiệu quả công tác của các phòng, ban chức năng; tổ
chức đối thoại với học viên, khảo sát học viên tốt nghiệp ra trường, lấy ý kiến của
học viên năm cuối bằng các bộ tiêu chí đánh giá. Từ đó, các Học viện có cơ sở để
phát huy những điểm mạnh, đề ra phương án hạn chế những tồn tại, bất cập về
PCLV của cán bộ, giảng viên trong thực hiện nhiệm vụ.
Đồng thời, mỗi cán bộ, giảng viên cần tự kiểm tra, kiểm soát lại công việc
của bản thân đã thực hiện đến đâu, với mức độ, kết quả như thế nào, có sáng kiến gì
có thể phát huy và vận dụng trong công tác, giảng dạy. Chủ động đề ra những biện
pháp khắc phục sửa chữa thiếu sót, tồn tại, cần thiết có thể tham mưu, đề xuất với
lãnh đạo cấp trên để có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm
vụ, phần việc được giao. Biết tiếp thu ý kiến của đồng chí, đồng nghiệp, lãnh đạo
nhằm phát huy mặt mạnh, khắc phục, sửa chữa điều chỉnh mặt còn yếu, còn tồn tại
trong PCLV của bản thân.
4.3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,
GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
4.3.1. Nhóm giải pháp về chủ thể cấp uỷ, lãnh đạo
4.3.1.1. Nâng cao nhận thức, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Đây là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng PCLV
Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND. Thực tế cho thấy, những
125
ưu điểm, khuyết điểm trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh có nguyên nhân từ nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo
các cấp.
Một là, nâng cao nhận thức của cấp uỷ, lãnh đạo về vai trò, giá trị của
PCLV Hồ Chí Minh đối với hiệu quả công tác của cán bộ, giảng viên
Để xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
đạt kết quả tốt, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND cần
nâng cao nhận thức về vai trò PCLV của Hồ Chí Minh. Xác định xây dựng PCLV
cho cán bộ, giảng viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi
các mục tiêu của Học viện đặt ra trong từng giai đoạn cụ thể. Đảng uỷ, Ban Giám
đốc, lãnh đạo các Học viện CAND cần nhận thức, quán triệt sâu sắc các văn bản
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo trong CAND, về xây dựng phong cách người CAND, trong đó nhiệm vụ
then chốt là xây dựng PCLV theo tấm gương phong cách Hồ Chí Minh trên cơ sở
bám sát tình hình, mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động cụ thể của Học viện. Tiếp tục
nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến tuyển dụng, sử dụng,
quản lý cán bộ, giảng viên, chế độ làm việc, tiêu chuẩn nghề nghiệp của cán bộ,
giảng viên.
Hai là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, phong
cách người công an cách mạng cho cán bộ, giảng viên
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị trong Học viện CAND cần tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
truyền thống cách mạng của Đảng, dân tộc và của lực lượng CAND cho cán bộ,
giảng viên Học viện; đẩy mạnh học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận; chủ
động đấu tranh, phản bác đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch, phản động. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
duy trì nghiêm túc, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tập huấn điều lệnh
126
CAND, tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành điều lệnh của cán bộ chiến sĩ.
Bồi dưỡng lòng tự tôn nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của
những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận “trồng người” cho cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND.
Để công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, giảng viên
đạt hiệu quả, các Học viện CAND cần quán triệt và triển khai nghiêm túc Nghị
quyết Trung ương IV, khóa XII của Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; Kế hoạch thực hiện cuộc vận động “Xây dựng phong cách người
CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức các cuộc vận động để nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính
trị cho cán bộ, giảng viên. Định kỳ hàng tháng, cấp ủy, lãnh đạo đơn vị tổ chức
cán bộ, giảng viên nghiêm túc đánh giá kết quả rèn luyện, xây dựng PCLV theo
phong cách Hồ Chí Minh trên mọi mặt, đặc biệt là đánh giá về kết quả của việc
đổi mới, rèn luyện phong cách, phương pháp giảng dạy, công tác, thực hiện đạo
đức, lối sống, văn hóa ứng xử; tư thế, lễ tiết, tác phong; tinh thần trách nhiệm
trong công việc.
Ba là, đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục
Các Học viện CAND chú ý thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa
đàm, trao đổi, nói chuyện chuyên đề, giao lưu với các đơn vị trong và ngoài ngành
về phong cách, văn hóa ứng xử; tổ chức tập huấn, thi tìm hiểu, bồi dưỡng kiến thức
về PCLV Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, bổ sung nội dung giáo dục về PCLV, bản lĩnh
chính trị, đạo đức, lối sống vào nội dung sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống,
sinh hoạt chi bộ của từng đơn vị.
127
Ngoài ra, hiện nay, các Học viện CAND đều có các tạp chí chuyên ngành,
các câu lạc bộ truyền thanh, truyền hình, nội san, bản tin nội bộ thường xuyên hoạt
động tích cực, hiệu quả. Các tạp chí chuyên ngành có: Tạp chí Khoa học và Giáo
dục An ninh (Học viện ANND), Tạp chí Cảnh sát nhân dân (Học viện CSND) và
Tạp chí Lý luận chính trị CAND (Học viện Chính trị CAND). Đây là các ấn
phẩm, chương trình tuyên tuyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, chỉ thị nghị quyết của ngành Công an về giáo dục, đào tạo,
khoa học, về thực tiễn công tác chiến đấu, xây dựng lực lượng CAND, là diễn đàn
trao đổi kết quả nghiên cứu, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phổ
biến những kinh nghiệm giảng dạy, học tập của cán bộ, giảng viên, học viên của
các Học viện CAND.
Để công tác xây dựng PCLV có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạp chí, chương
trình phát thanh, truyền hình, bản tin của các Học viện cần mở chuyên mục tuyên
truyền các mô hình, đơn vị, những tấm gương điển hình tiên tiến, “Người tốt,
việc tốt”, những kết quả tích cực thu được từ quá trình xây dựng, rèn luyện theo
PCLV của Hồ Chí Minh. Đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ
hạ thấp uy tín, hình ảnh của lực lượng CAND; nhắc nhở, phê bình những đơn vị,
cán bộ chiến sĩ chưa tích cực, tự giác, còn có vi phạm trong việc xây dựng, rèn
luyện phong cách, phẩm chất. Việc tăng cường thông tin truyền thông về những
tấm gương cán bộ, giảng viên tiêu biểu, các điển hình tiên tiến xuất sắc sẽ khơi
dậy nhiệt huyết và ý thức, lương tâm, trách nhiệm tự hào về nghề nghiệp của cán
bộ, giảng viên.
4.3.1.2. Phát huy vai trò lãnh đạo, trách nhiệm nêu gương của người
đứng đầu
Một là, tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND
Hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo
phong cách Hồ Chí Minh cần đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của
Đảng uỷ Công an Trung ương. Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND, xác
định xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên là nội dung cốt lõi, có ý nghĩa quyết
128
định đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND, là công việc tự
giác, thường xuyên của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp. Bám sát các quan điểm chủ
trương, của Đảng uỷ cấp trên về nội dung, phương pháp xây dựng để chủ động ban
hành các nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động, chương trình công tác cụ
thể phù hợp với mỗi Học viện.
Đổi mới phương thức và nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, vai trò và
trách nhiệm của tập thể Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo các đơn vị, tăng cường
chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ công tác chuyên môn, tập trung chỉ đạo quyết
liệt để hoàn thành dứt điểm, đúng tiến độ mục tiêu, chương trình đã đặt ra. Trong
quá trình xây dựng, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trên các lĩnh vực để
phát huy tiềm năng, trí tuệ, khả năng sáng tạo của từng đơn vị, cá nhân và làm tốt
công tác quản lý cán bộ, giảng viên. Lãnh đạo Học viện và đơn vị phải hiểu rõ cán
bộ, giảng viên về điều kiện, hoàn cảnh, năng lực, sở trường, trình độ chuyên môn.
Quan tâm sử dụng vào đúng người, đúng việc, đúng vị trí, đúng lúc, thời cơ, điều
kiện, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, sắp
xếp bố trí, phân công cán bộ trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ của Học
viện, chương trình, kế hoạch công tác, vừa đảm bảo phù hợp, đúng đắn để họ phát
huy năng lực, sở trường, vừa tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên nâng cao PCLV,
hoàn thành tốt nhiệm vụ và không ngừng tiến bộ, phát triển.
Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, lãnh đạo các cấp
tại Học viện CAND
Xuất phát từ quan điểm người đứng đầu, lãnh đạo các cấp trong Học viện
CAND có vai trò đặc biệt quan trọng, chịu trách nhiệm cao nhất trước lãnh đạo Bộ,
Ban Giám đốc trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quản lý, xây dựng đơn vị trong sạch,
vững mạnh; gương mẫu, giáo dục, rèn luyện cán bộ, giảng viên. Trên thực tiễn, lãnh
đạo ở các Học viện CAND đã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ và toàn diện
các nhiệm vụ công tác, nâng cao, chất lượng hiệu quả PCLV của đội ngũ cán bộ,
giảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
129
Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả, cán bộ lãnh đạo các cấp ở
các Học viện cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt và quyết tâm cao độ khi
tham gia xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.
Không ngừng phát huy tinh thần trách nhiệm và sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý, thể hiện năng lực tham gia, quyết định và tổ chức thực hiện tốt những
nhiệm vụ xây dựng trong phạm vi trách nhiệm lãnh đạo của mình; có bản lĩnh và
năng lực điều hành, tập hợp cán bộ, biết sử dụng nhân tài, phối hợp công tác; có khả
năng đúc rút kinh nghiệm và tổng kết thực tiễn; có tác phong dân chủ, PCLV khoa
học, nói đi đôi với làm, sâu sát thực tế. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải là ngọn cờ tiêu
biểu, là tấm gương sáng về phẩm chất, năng lực, phong cách, tinh thần trách nhiệm,
sự sáng tạo trong công tác chuyên môn để cán bộ, giảng viên cấp dưới noi theo. Tạo
môi trường đoàn kết, dân chủ để cán bộ, giảng viên mạnh dạn đánh giá, nhận xét,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện công khai, minh bạch; chống lãng phí, tham ô,
tham nhũng và thực hành tiết kiệm.
Bên cạnh việc nêu gương, phát huy tinh thần, trách nhiệm của lãnh đạo các
Học viện, cần thực hiện nghiêm túc các văn bản hiện hành liên quan đến trách
nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy như: Nghị định số
157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ về “Quy định chế độ trách nhiệm
đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ”; Điều 10, Luật cán bộ công chức “Quy định nghĩa vụ, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước”; Quy định số
101-QÐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.
4.3.1.3. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng; xây dựng
bộ tiêu chí về phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên
Một là, làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, giảng viên đảm bảo yêu cầu về
phẩm chất, năng lực
Đối với lực lượng CAND nói chung và các Học viện CAND nói riêng, công
tác tuyển chọn luôn được xác định là điều kiện tiên quyết, nếu không được thực
130
hiện tốt, chất lượng “đầu vào” không đảm bảo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng
của đội ngũ cán bộ, giảng viên, giảm sút hiệu quả đào tạo của các Học viện. Thông
tư 18/2010/TT-BCA đã đề cập toàn diện, đầy đủ, chi tiết về công tác tuyển chọn,
trong đó nêu rõ: Tuyển chọn cán bộ, giảng viên phải đảm bảo đúng nguyên tắc, tiêu
chuẩn, đối tượng và quy trình. Các Học viện CAND cần ưu tiên tuyển chọn những
trường hợp tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc và những trường hợp có học hàm, học vị
cao, đối với tuyển giảng viên cần có năng khiếu và khả năng sư phạm tốt để bổ sung
cho đội ngũ giảng viên của các Học viện. Tổ chức phân loại chất lượng cán bộ,
giảng viên để xây dựng hướng đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp. Đối với những cán
bộ, giảng viên có triển vọng phát triển cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về
PCLV, tri thức đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên đầu đàn đảm đương
chính trong công tác, giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại các phòng ban chức năng,
khoa, bộ môn, đồng thời để xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận lâu dài. Đối với những
cán bộ chuyên trách có chuyên môn còn hạn chế, giảng viên yếu về năng lực sư
phạm và kiến thức chuyên sâu, cần điều động đến các bộ phận khác cho phù hợp
với năng lực, sở trường của cán bộ.
Công tác tuyển chọn cán bộ, giảng viên ở các Học viện CAND phải phù hợp
với chủ trương, kế hoạch hành động cụ thể của Học viện, đảm bảo đủ về số lượng,
có cơ cấu hợp lý, chuẩn về chất lượng theo tiêu chuẩn của cơ sở giáo dục đại học
trọng điểm của Ngành và quốc gia, phấn đấu đạt tỷ lệ trung bình 01 giảng viên/15
học viên vào năm 2020. Xác định các tiêu chuẩn tuyển chọn, đánh giá cán bộ, giảng
viên, trong đó, quan tâm đồng bộ cả trình độ, năng lực; phương pháp giảng dạy,
công tác chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và sức khoẻ, thể lực. Làm tốt
công tác tuyển chọn, các Học viện CAND sẽ có sự thuận lợi trong quá trình xây
dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng cho cán bộ, giảng viên
Để hoàn thành mục tiêu xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong
cách Hồ Chí Minh, các Học viện cần tiếp tục giành sự quan tâm, ưu tiên, đầu tư cao
nhất cho nhiệm vụ xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên nhằm nâng cao
131
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lề lối, tác phong công tác của đội ngũ này. Đây
được xem là trụ cột quan trọng bậc nhất, góp phần đảm bảo yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững của các Học viện.
Nội dung giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong xây dựng PCLV theo phong
cách Hồ Chí Minh phải được xác định toàn diện về chuyên môn, nghiệp vụ công
an, lý luận chính trị, nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng giảng dạy tích cực, trình độ ngoại
ngữ, tin học và đặc biệt là bồi dưỡng năng lực thực tiễn; được triển khai ở các cơ sở
đào tạo cả trong và ngoài ngành, trong nước và nước ngoài. Tập trung tổ chức hoạt
động luân chuyển, thực tế của cán bộ, giảng viên trực tiếp góp phần nâng cao năng
lực thực tiễn. Khuyến khích, động viên cán bộ, giảng viên tự học tập nâng cao trình
độ, đi thực tế để cập nhật, bổ sung những thông tin, tình hình mới của thực tiễn vào
hoạt động, giảng dạy.
Các Học viện CAND tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định 1229/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể, nâng
cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong các
trường CAND đến năm 2020; nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2015 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ đó,
mỗi Học viện tập trung khảo sát tổng thể về trình độ, cơ cấu, nhu cầu đào tạo để
có kế hoạch dài hạn phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên đáp ứng yêu cầu cho
phù hợp.
Các Học viện CAND đều là những cơ sở đào tạo đầu ngành của Bộ Công an,
mục tiêu, nhiệm vụ mỗi Học viện được đảm nhận là khác nhau, do đó, trong việc
xác định những nội dung xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách
Hồ Chí Minh ở mỗi Học viện phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ của cán
bộ, giảng viên và gắn với nhu cầu sử dụng cán bộ của Học viện, lựa chọn nội dung
sao cho toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm đem lại hiệu quả tốt nhất.
Việc lựa chọn nội dung xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh có
trọng tâm là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là việc áp dụng linh hoạt các hình
132
thức, biện pháp xây dựng phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cán
bộ, giảng viên, các hình thức có thể áp dụng như: mở các lớp tuyên truyền, tập huấn
cho cán bộ, giảng viên; thông qua thực tiễn công tác; thông qua sự lãnh đạo, chỉ
đạo, hướng dẫn của cấp trên; thông qua các tấm gương, điển hình người tốt việc tốt
trong và ngoài lực lượng.
Trong phương hướng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ, giảng
viên, mỗi Học viện CAND đã xác định những mục tiêu cơ bản, đối với Học viện
ANND: “Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ từ
35% trở lên, thạc sỹ từ 60% trở lên. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ trong diện quy
hoạch có trình độ cao cấp lý luận chính trị đạt 80% trở lên” [36, tr.29]; đối với Học
viện CSND: “Đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên có trình độ
tiến sỹ từ 45% trở lên, thạc sỹ từ 60% trở lên. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ trong diện
quy hoạch lãnh đạo cấp khoa, phòng có trình độ cao cấp lý luận chính trị đạt 80%
trở lên” [37, tr.31]; Học viện Chính trị CAND đặt ra mục tiêu “Đến năm 2020, 35%
cán bộ quản lý giáo dục, 40% giảng viên có trình độ tiến sỹ; 100% cán bộ lãnh đạo
cấp phòng có trình độ cao cấp lý luận chính trị” [38, tr.14]. Đây chính là căn cứ để
cán bộ, giảng viên ở mỗi Học viện không ngừng cố gắng phấn đấu, rèn luyện PCLV
để đạt được mục tiêu.
Không chỉ qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên ở trong Học
viện và các ngành ngoài ở trong nước mà các Học viện CAND chủ động hội nhập,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo với chủ
trương “ưu tiên chỉ tiêu cử cán bộ, giảng viên các Học viện, trường đại học CAND
đi học nước ngoài” [50, tr.9], tạo cơ hội cho họ phấn đấu, trưởng thành, học hỏi
những phương pháp, cách thức công tác hiện đại, hiệu quả. Củng cố, đẩy mạnh
quan hệ hợp tác giữa các Học viện với các đối tác quốc tế truyền thống, thường
xuyên như: Bộ An ninh Lào, Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia, cơ quan An ninh
Liên bang Nga; đồng thời mở rộng thiết lập quan hệ với các đối tác mới như: Hiệp
hội Cảnh sát Quốc tế, cơ quan Cảnh sát Mỹ, Australia…
133
Ba là, xây dựng bộ tiêu chí, quy định về học tập, rèn luyện PCLV theo phong
cách Hồ Chí Minh
Trên thực tế, Bộ Công an đã ban hành nhiều văn bản Nghị quyết, thông tư
quy định về công tác cán bộ trong CAND, về chế độ làm việc của CAND như:
Thông tư số 57/2010/TT-BCA ngày 14/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an “Quy
định chế độ làm việc của các chức danh giảng dạy, huấn luyện trong các học viện,
trường đại học, cao đẳng, trung cấp CAND”. Thông tư giúp các trường có căn cứ để
kiểm tra, thẩm định, đánh giá và xây dựng chính sách, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên; làm cơ sở để xây dựng kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; phục vụ việc đánh giá, xếp loại
giangr viên hàng năm và đảm bảo tính công khai, công bằng, dân chủ trong việc
thực hiện chế độ chính sách.
Tuy nhiên, để quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND theo phong cách Hồ Chí Minh đạt hiệu quả toàn diện thì lãnh đạo Bộ Công
an, lãnh đạo Học viện cần có những quy định cụ thể hơn về hệ thống các quy chế,
tiêu chí về PCLV mới, đó chính là hành lang pháp lý hướng dẫn, định hướng cán
bộ, giảng viên để họ có phương hướng xây dựng, hoàn thiện phong cách của bản
thân, đáp ứng được mục tiêu đề ra. Có thể tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm xây
dựng bộ các tiêu chí về PCLV của cán bộ, giảng viên trong công tác, sinh hoạt; rà
soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chế độ công tác, về tiêu chí phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống sẽ tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hiệu
quả công việc và đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên. Vì vậy, việc bổ sung, hoàn
thiện các quy chế, quy định về PCLV là một yêu cầu quan trọng.
4.3.1.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách
Một là, từng bước tăng cường trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật hiện đại
ở các Học viện CAND
Trang thiết bị của các nhà trường nói chung và các Học viện CAND nói
riêng đóng vai trò quan trọng, đảm bảo tính hiệu quả công tác của cán bộ, giảng
134
viên, đặc biệt là trong thời kỳ phát triển của khoa học hiện đại ngày càng trở nên
mạnh mẽ. Vì vậy, một trong những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả xây dựng
PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ
Chí Minh là phải xây dựng được hệ thống trang thiết bị chuẩn, hiện đại hóa, đồng
bộ, đủ khả năng đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực và đa cấp học, theo kịp với tiến trình
và nhu cầu phát triển của xã hội nói chung. Qua đó, cán bộ, giảng viên có thể cập
nhật thông tin và ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và công tác.
Từ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên đến học viên các Học viện CAND
đều phải có trách nhiệm tham gia quá trình xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh và cùng phấn đấu vì mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đối với
Học viện ANND và Học viện CSND, trong quá trình đầu tư xây dựng bám sát vào
Đề án xây dựng Học viện trở thành trường trọng điểm quốc gia năm 2020. Đối với
Học viện Chính trị CAND cần khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện
có, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, ứng dụng khoa học công
nghệ thông tin vào quá trình quản lý, công tác, giảng dạy. Tổng thể các Học viện
cần chú ý quy hoạch phòng làm việc, giảng đường, hội trường, phòng học chuyên
dùng, trung tâm thực hành, thư viện, sân vận động, bể bơi, ký túc xá, nhà ăn… đảm
bảo tốt nhất điều kiện vật chất, đáp ứng quy mô và nâng cao hiệu quả xây dựng
PCLV của cán bộ, giảng viên nhà trường theo phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, xây dựng môi trường văn hoá sư phạm
Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Học viện CAND
cần xây dựng một môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác tin cậy, làm cơ
sở để nuôi dưỡng, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tự do học thuật, thống nhất, đồng
thuận, kỷ luật, kỷ cương. Tạo điều kiện cho cán bộ giảng viên tích cực, hăng say
công tác.
Môi trường dân chủ để xây dựng PCLV tức là cán bộ, giảng viên trên cương
vị, chức trách của mình được dân chủ trong bàn bạc, thảo luận về khoa học và
chuyên môn. Trên cơ sở thống nhất với những kế hoạch nhiệm vụ cụ thể của từng
135
năm, từng giai đoạn, các Học viện CAND cần công khai cho cán bộ, giảng viên để
mỗi người ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện. Quá trình đó, cán bộ, giảng viên tự
đặt mình vào tình huống, tích cực trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
học, thông qua đó để hình thành PCLV tích cực, hiệu quả.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động diễn đàn, trao đổi, tạo cơ hội để cán bộ,
giảng viên học hỏi lẫn nhau những kinh nghiệm quý, những cách làm hay để vận
dụng theo cương vị chức trách của mình. Sự công bằng, dân chủ trong khoa học có
mối quan hệ chặt chẽ, tạo ra động lực cho mỗi cá nhân phấn đấu toàn diện. Trong
mỗi nhiệm vụ, sự đánh giá của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp trong Học viện phải công
tâm, khách quan, tạo niềm tin vững chắc của cán bộ, giảng viên đối với tổ chức, làm
cho họ có điều kiện để bày tỏ quan điểm, nguyện vọng cá nhân. Từ phát huy dân
chủ sẽ góp phần tạo ra sức sáng tạo của mỗi người trong PCLV. Quá trình đó chính
là từng bước bổ sung, phát triển PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ
Chí Minh
Ba là, thực hiện cơ chế, chính sách biểu dương, động viên, khen thưởng
Cơ chế, chính sách là động lực rất quan trọng tác động đến hoạt động, công
tác của cán bộ, giảng viên, là sự xác định những chủ trương, nội dung, biện pháp,
hình thức xây dựng PCLV, thống nhất giữa các chủ thể giáo dục, học tập, rèn luyện.
Cơ chế chính sách đối với cán bộ, giảng viên phải liên tục được hoàn thiện cả về tổ
chức quản lý con người, chuyên môn.
Trên thực tế, tại các Học viện CAND, việc thực hiện chế độ chính sách đối
với cán bộ, giảng viên vẫn còn nhiều bất cập với những vấn đề như: thanh toán vượt
giờ, vượt chỉ tiêu cho cán bộ, giảng viên chưa tương xứng với thực tiễn công tác, tư
liệu và phương tiện nghiên cứu còn thiếu, tài liệu nghiên cứu, học tập về chuyên
môn nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu, chưa bám sát thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm của công tác Công an, chế độ đi thực tế của cán bộ, giảng viên chưa
phù hợp... đã tác động không nhỏ đến hiệu quả xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên theo phong cách Hồ Chí Minh.
136
Để mỗi cán bộ, giảng viên có động cơ đúng đắn trong phấn đấu, rèn luyện
hoàn thiện PCLV, cấp uỷ, lãnh đạo, trực tiếp là lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên
quan tâm, động viên cán bộ, giảng viên phấn đấu, rèn luyện tích luỹ kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, phương pháp của người cán bộ, giảng viên trong môi trường sư
phạm. Sự quan tâm, động viên, khuyến khích được đa dạng bằng nhiều hình thức
khác nhau, chú trọng quan tâm, chăm lo tinh thần, tạo cơ hội học tập, thăng tiến cho
mỗi người, điều kiện để thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến trong quá trình công
tác. Mỗi thành tích của cán bộ, giảng viên cần có sự động viên đặc biệt là đối với
những sáng kiến hay, những biện pháp giỏi được ứng dụng. Hàng năm, tuỳ điều
kiện thực tiễn, các Học viện có thể tổ chức các chương trình giao lưu, hội thảo, trại
hè cho những cán bộ, giảng viên tiêu biểu, xuất sắc về mọi mặt tham gia để động
viên, khen thưởng, khích lệ.
Ngoài ra, quan tâm đến việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo
phong cách Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu với công tác tổ chức của các Học viện
CAND cần chú ý đến việc bố trí, sử dụng, cất nhắc cán bộ, giảng viên đúng tiêu
chuẩn, phù hợp sở trường. Đề bạt cán bộ, giảng viên đúng lúc, đúng người, đúng
việc, đảm bảo tính kế thừa, ổn định và phát triển. Trong mỗi đơn vị, có sự bố trí kết
hợp giữa các thế hệ cán bộ, giảng viên trẻ với cán bộ, giảng viên lớn tuổi để bổ sung
cho nhau về năng lực cũng như kinh nghiệm, kết hợp được những phẩm chất tốt của
các thế hệ “trẻ xông pha, già kinh nghiệm”. Đây cũng là yếu tố quan trọng để cán
bộ, giảng viên phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện, cơ hội để hoàn thiện
PCLV, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ. Việc lựa chọn đúng người thật sự có
tâm, có tầm, có tài, có đủ tiêu chuẩn chính trị và bố trí giữ trọng trách tương xứng
không chỉ phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ, giảng viên mà còn tác
động mạnh mẽ, tạo được sự đồng thuận, “tâm phục, khẩu phục” đối với tập thể, cán
bộ, giảng viên dưới quyền.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, đánh giá, tổng kết việc xây dựng PCLV cho cán
bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
Công tác kiểm tra, đánh giá, tổng kết chất lượng xây dựng PCLV Hồ Chí
Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND là trách nhiệm của mọi tổ chức,
137
lực lượng ở các Học viện CAND, trong đó, trước hết là Đảng uỷ, Ban Giám đốc,
lãnh đạo đơn vị.
Hằng năm, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, chỉ huy đánh giá thực trạng, xây dựng
kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ phù hợp với đặc điểm, chức năng
của đơn vị và khả năng, chức trách của mỗi người. Quá trình kiểm tra, đánh giá gắn
liền với công tác đánh giá, nhận xét cán bộ, giảng viên hằng năm. Xây dựng, hoàn
thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, phong cách công tác ở từng đơn vị của cán
bộ, giảng viên với phương châm: sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ
thực hiện và đánh giá việc thực hiện.
Ngoài ra, các Học viện CAND cần tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên thực
hiện tốt việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong
cách Hồ Chí Minh. Đề cao ý thức, trách nhiệm trong việc đặt ra yêu cầu đối với
việc tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV; quy định thành chế độ, nền nếp, đồng
thời hướng dẫn và tổ chức cán bộ, giảng viên thực hiện một cách chặt chẽ và khoa
học. Đây là việc làm quan trọng, khắc phục bệnh hình thức trong thực hiện nội
dung, kế hoạch tự xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên đã đặt ra. Phân
tích rõ mặt mạnh, yếu của cán bộ, giảng viên, tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề
ra phương hướng, biện pháp khắc phục những mặt còn tồn tại để họ nâng cao
PCLV của bản thân.
Như vậy, kiểm tra, giám sát việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các
Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải được tiến hành từ cả hai phía.
Từ phía người làm công tác cán bộ: kiểm tra, giám sát làm giảm bệnh quan liêu, hạn
chế tiêu cực trong công tác đánh giá cán bộ, giảng viên. Về phía cán bộ, giảng viên:
kiểm tra, đánh giá làm cho họ có trách nhiệm hơn trong việc nâng cao phương
pháp, PCLV của bản thân, tăng cường đạo đức nghề nghiệp, tránh được những thói
hư tật xấu nảy sinh trong quá trình công tác, giảng dạy.
Công tác kiểm tra, đánh giá quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng
viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải được tiến hành
138
thường xuyên, trở thành công việc thường ngày của lãnh đạo, Ban Giám đốc, chỉ
huy các đơn vị trong Học viện CAND. Mỗi cuộc kiểm tra, đánh giá đều phải có
chương trình, kế hoạch cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng và thực hiện đúng
các nguyên tắc: công khai, công bằng, dân chủ gắn liền với kỷ luật. Lấy kết quả
đánh giá quá trình xây dựng, rèn luyện của mỗi cán bộ, giảng viên làm cơ sở cho
việc bình xét, đánh giá, phân loại thi đua hàng năm; kịp thời biểu dương, khen
thưởng những cán bộ, giảng viên có nhiều thành tích. Đồng thời, có biện pháp
kiên quyết với những người chủ quan, tự mãn, ngại học tập, lười rèn luyện, không
có khả năng đáp ứng nhiệm vụ được giao.
Qua mỗi thời kỳ, giai đoạn, chú trọng tổ chức việc tổng kết rút kinh nghiệm
trong rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên. Môi trường thi đua lành mạnh, có
quy chế thưởng phạt nghiêm minh, công bằng sẽ kích thích cán bộ, giảng viên phát
huy tài năng và phẩm chất, phong cách của mình, tận tâm với công việc, cống hiến
sức lực, tài trí, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thực hiện đầy đủ, thường xuyên những nội dung giải pháp thuộc về cấp
uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND sẽ đảm bảo cho các tổ chức, lực lượng có
nhận thức đúng, trách nhiệm cao, phát huy tính tích cực, chủ động trong tiến
hành xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong
cách Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các Học viện CAND trong
tình hình mới.
4.3.2. Nhóm giải pháp về phát huy tính tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng
phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh
4.3.2.1. Cán bộ, giảng viên cần nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của
phong cách làm việc Hồ Chí Minh
Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND tự học hỏi, nâng cao nhận thức về
vai trò, nội dung và ý nghĩa PCLV của Hồ Chí Minh đối với người cán bộ cách
mạng. Từ đó, cụ thể hóa và vận dụng những yêu cầu, nội dung PCLV của mỗi
người cho phù hợp. Khắc phục kịp thời những biểu hiện nhận thức hời hợt, phiến
139
diện, chỉ thấy PCLV là do cá tính riêng của từng người và môi trường làm việc
quy định mà không thấy được mối quan hệ gắn bó giữa PCLV với chuyên môn,
năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, giá trị nhân văn của người cán bộ,
giảng viên.
Từ nhận thức về vai trò, nội dung và ý nghĩa PCLV của Hồ Chí Minh, để
một bộ phận cán bộ, giảng viên hiểu rằng, PCLV không hình thành một cách tự
nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Đồng thời, xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ của người cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, đòi hỏi họ phải
tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao PCLV, chuyên môn nghiệp vụ.
Làm tốt việc nâng cao nhận thức của bản thân về PCLV, giúp người cán bộ,
giảng viên có sự thống nhất trong tư duy về những nội dung xây dựng PCLV theo
phong cách Hồ Chí Minh trên mọi mặt công tác như: xây dựng phong cách bản lĩnh
về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; tinh thông về pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn; năng động sáng tạo
trong công tác; dám chịu trách nhiệm trước công việc, kiên trì vượt qua khó khăn,
thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; vững vàng
trước kẻ địch và tội phạm, trước sự mua chuộc, lôi kéo, cám dỗ về vật chất; nâng
cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; có phẩm chất đạo
đức trong sáng, lối sống lành mạnh; thái độ, hành vi văn minh, khiêm tốn, đúng
mực; ứng xử văn hóa; phát huy truyền thống quý báu của lực lượng CAND, khát
vọng vươn lên vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
4.3.2.2. Cán bộ, giảng viên chủ động phát huy tính tự giác tu dưỡng, rèn
luyện, xây dựng phong cách làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ dạy: Về học tập, phải lấy tự học làm cốt, phải
tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ
cách mạng phải hoàn thành, do đó mà tích cực tự động hoàn thành kế hoạch, nêu
cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong
việc học tập. Từ quan điểm của Hồ Chí Minh, PCLV của cán bộ, giảng viên cũng
140
không phải tự nhiên mà hình thành, nó là sản phẩm của quá trình giáo dục, rèn
luyện công phu, bền bỉ cả từ hai phía: tổ chức và cá nhân. Trong đó, vai trò tích cực,
chủ động, sáng tạo trong tự học tập, rèn luyện PCLV của cá nhân cán bộ, giảng viên
luôn có vai trò trực tiếp, quyết định.
Cán bộ, giảng viên vừa là đối tượng của hoạt động bồi dưỡng, xây dựng, vừa
là chủ thể của quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện. Hoạt động tự tu dưỡng, rèn luyện
của mỗi cán bộ, giảng viên là yếu tố bên trong, yếu tố chủ quan của quá trình xây
dựng PCLV. Để phát huy vai trò tích cực, chủ động của cán bộ, giảng viên các Học
viện CAND trong quá trình tự bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV theo phong
cách Hồ Chí Minh, cần thực hiện một số nội dung, biện pháp sau:
Một là, cán bộ, giảng viên cần xây dựng động cơ đúng đắn, nâng cao ý thức,
trách nhiệm về việc tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV
Thực tiễn công tác của các Học viện CAND hiện nay cho thấy, phần lớn cán
bộ, giảng viên có ý chí phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, trau dồi kiến thức,
rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn
một bộ phận cán bộ, giảng viên có biểu hiện thoả mãn, không có ý chí phấn đấu học
tập, rèn luyện cao hơn, ngại tu dưỡng, rèn luyện, đổi mới PCLV, lười sáng tạo. Điều
này đã tác động không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác chung của Học viện.
Do đó, xây dựng động cơ đúng đắn, ý thức trách nhiệm cao ở mỗi cán bộ, giảng
viên trong quá trình tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện theo PCLV của Hồ Chí Minh
hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
Xây dựng động cơ đúng đắn, nâng cao ý thức trách nhiệm bản thân trong
việc tu dưỡng, rèn luyện theo PCLV của Hồ Chí Minh, cán bộ, giảng viên phải
nắm vững và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng coi “học tập là nghĩa vụ
bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên”, lười học tập, lười suy nghĩ, không
thường xuyên tiếp nhận những thông tin, kiến thức mới, không chịu tư duy sáng
tạo, đổi mới cách làm việc cũng là biểu hiện của sự thoái hoá. Cần hiểu rằng, nếu
không tích cực, chủ động, hăng hái tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV sẽ
141
không theo kịp sự phát triển của thực tiễn, khó khăn trong việc hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ. Khi đã xây dựng được động cơ đúng đắn, ý thức trách nhiệm
trong tự tu dưỡng, rèn luyện xây dựng PCLV, cần biến nhận thức thành hành
động, việc làm cụ thể trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV theo phong
cách Hồ Chí Minh của bản thân.
Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên cần coi việc rèn luyện, xây dựng PCLV
theo phong cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ
suốt đời. Rèn luyện phong cách của mỗi người không thể trong ngày một ngày
hai, mà phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn công tác của lực lượng CAND
luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới về năng lực, phẩm chất, vì vậy, cán bộ,
giảng viên nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV sẽ không theo kịp
những yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Xác định học tập, rèn luyện, xây
dựng PCLV không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa tiêu chuẩn, chức danh, điều kiện
theo yêu cầu công tác mà quan trọng nhất phải từ nhu cầu tự thân, học tập, tu
dưỡng, rèn luyện thường xuyên, suốt đời để hình thành phẩm chất tốt, trình độ
cao, phong cách giá trị.
Việc xây dựng động cơ, nâng cao ý thức trách nhiệm trong tự rèn luyện, bồi
dưỡng PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh phải đi đôi với
đấu tranh chống lại những biểu hiện của tư tưởng trung bình chủ nghĩa, ngại phấn
đấu, tránh tình trạng “đăng ký “làm theo” nhưng không thật tích cực, tự giác” [52,
tr.7] đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, giảng viên hiện nay.
Hai là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cần xây dựng kế hoạch, nội
dung, biện pháp tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV cụ thể
Đây là khâu then chốt quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình tự tu
dưỡng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh của mỗi cán bộ, giảng viên
các Học viện CAND. Xây dựng kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập phải cụ
thể, thiết thực, bao gồm: mục tiêu, yêu cầu, nội dung, biện pháp, hình thức, thời
gian thực hiện.
142
Mục tiêu yêu cầu đề ra phải sát thực, có cơ sở khoa học, chỉ tiêu phấn đấu
không quá cao nhưng cũng không được quá thấp; toàn diện nhưng có trọng tâm,
trọng điểm, bám sát nhiệm vụ của đơn vị, chức trách được giao, không để bị chi
phối bởi các công việc khác. Thực tế ở các Học viện CAND hiện nay, một số cán
bộ, giảng viên đã quan tâm xây dựng kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập
nhưng phần lớn kế hoạch chưa thể hiện rõ mục tiêu, yêu cầu tự tu dưỡng, rèn luyện
hoặc kế hoạch không phù hợp với khả năng bản thân, chưa sát thực tế nên quá trình
tổ chức thực hiện kế hoạch đạt chất lượng và hiệu quả không cao.
Đặc biệt, nội dung tự tu dưỡng, rèn luyện cần gắn liền với việc thực hiện Chỉ
thị số 17-NQ/ĐUCA của Đảng uỷ Công an trung ương về “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân” và nội dung xây dựng phong
cách người CAND “bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” gắn với thực hiện
“Sáu điều Bác Hồ dạy CAND”. Đổi mới, nâng cao hiệu quả PCLV theo phong cách
Hồ Chí Minh phải xuất phát từ điểm gốc đó là rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất,
kiến thức, năng lực của cán bộ, giảng viên. Chú trọng rèn luyện, trau dồi đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tuỵ, không ngừng nghiên cứu, tìm tòi,
sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; tinh thần cương quyết đấu tranh chống các biểu
hiện tiêu cực, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, biết đặt lợi ích tập thể, lợi ích
cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân.
Cán bộ, giảng viên nắm vững và vận dụng sáng tạo các hình thức, biện pháp
tự xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh tuỳ điều kiện và khả
năng, đặc điểm của từng người. Trong đó, tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của Đảng nhưng đồng thời cũng là hình thức, biện pháp tự rèn luyện, xây dựng
PCLV có hiệu quả. Để vận dụng tốt hình thức này, cán bộ, giảng viên nêu cao tinh
thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai; tôn trọng, lắng nghe và
tiếp thu có chọn lọc những ý kiến góp ý, phê bình của đồng chí, đồng nghiệp trong
đơn vị. Trong đấu tranh phê bình phải có thái độ đúng và phương pháp phù hợp;
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, ngại phê bình và không chịu
143
tiếp thu ý kiến phê bình của người khác; rèn luyện thái độ khiêm tốn, cầu thị, tôn
trọng, sâu sát, gắn bó, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp; đồng thời có óc quan sát,
khả năng khái quát hoá, hệ thống hoá, tiếp thu và vận dụng có chọn lọc những bài
học hay, kinh nghiệm quý, noi gương, học tập những phong cách, phẩm chất tốt đẹp
để không ngừng tự hoàn thiện bản thân.
Việc xác định thời gian tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV cũng phải phù
hợp, không kéo dài nhưng cũng không được nóng vội, chủ quan, tránh tình trạng
xây dựng kế hoạch chung chung, hình thức, đối phó. Muốn vậy, ngoài sự chủ động,
tự giác của mỗi cán bộ, giảng viên cần có sự quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo, giúp đỡ
của lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong việc đề ra mục tiêu, yêu cầu, nội dung, thời
gian, cách thức xây dựng và thực hiện kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV phù
hợp với yêu cầu thực tiễn của đơn vị và Học viện.
Tiểu kết chương 4
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hội
nhập quốc tế sâu rộng. Quá trình đó mang lại thời cơ nhưng cũng tiềm ẩn không ít
những thách thức lớn đối với việc đảm bảo tình hình an ninh, ổn định trật tự an toàn
xã hội của lực lượng CAND. Nhằm đảm bảo các yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà
nước và của ngành Công an, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của các Học viện CAND,
việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo
phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết.
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xây
dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí
Minh, cần bám sát những nội dung xây dựng. Thực hiện đồng bộ những giải pháp
thuộc về hai nhóm cơ bản, đối với chủ thể cấp uỷ, lãnh đạo: nâng cao nhận thức,
làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phát huy vai trò lãnh đạo, trách nhiệm
nêu gương của người đứng đầu; công tác tuyển chọn, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ
144
năng, xây dựng bộ tiêu chí về PCLV; hoàn thiện cơ chế chính sách và nhóm giải
pháp phát huy tính tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng của mỗi cán bộ, giảng viên:
nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh; phát huy tính tự tu
dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên.
Các giải pháp nêu trên là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi
hỏi trong quá trình thực hiện phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ, coi trọng
điều chỉnh, bổ sung kịp thời, đáp ứng sự vận động của thực tiễn và điều kiện của
mỗi Học viện, nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND có PCLV khoa học, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, dân chủ - tập thể, nêu
gương trong tác phong công tác, thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nên những
cán bộ, chiến sỹ CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ, đáp ứng yêu cầu
của đất nước trong tình hình mới.
145
KẾT LUẬN
1. Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một chỉnh thể bao gồm phương
pháp, cách thức, lề lối làm việc có tính khoa học, hệ thống, được thể hiện chủ
yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của cách mạng. PCLV Hồ Chí Minh thể hiện đặc trưng là sự thống
nhất giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo; lòng nhiệt tình cách mạng với tri
thức khoa học; tinh thần dân chủ, tập thể với tính quyết đoán; lý luận gắn liền
với thực tiễn với những nội dung phong phú, toàn diện như: PCLV quần
chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học, PCLV nêu gương, nói đi đôi
với làm. Những đặc trưng và nội dung cơ bản trên hợp thành PCLV Hồ Chí
Minh, là tài sản tinh thần vô giá, có giá trị to lớn để Đảng ta chỉ đạo công tác
xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên, đồng thời, là cơ sở để cán bộ, đảng
viên rèn luyện, tu dưỡng phong cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng
lực chuyên môn.
2. Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội cũng
phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có những thách thức
lớn về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tác động sâu sắc đến PCLV của
lực lượng CAND nói chung và cán bộ, giảng viên các Học viện CAND nói
riêng, làm ảnh hưởng đến sức mạnh và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị, trong đó có lực lượng CAND. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ-TW ngày 04/11/2013 về “Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”; Đảng uỷ Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 17-
NQ/ĐUCA ngày 28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo trong Công an nhân dân”, đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu và xây dựng
lực lượng.
146
3. Cán bộ, giảng viên là đội ngũ có vai trò, chức năng và nhiệm vụ quan
trọng đối với công tác của các Học viện CAND. Do đó, trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lực lượng
CAND, các Học viện CAND đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm
nhằm đổi mới, nâng cao vị thế các Học viện CAND trong hệ thống giáo dục
quốc dân là xây dựng, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách
Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển của Học viện; góp phần quan
trọng vào việc đào tạo nên những sỹ quan CAND tương lai, đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bộ Công an, Đảng uỷ,
Ban Giám đốc các Học viện CAND đã quan tâm tới công tác xây dựng, rèn
luyện về mọi mặt của cán bộ, giảng viên, trong đó chú trọng xây dựng PCLV của
đội ngũ này. Quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện
CAND theo phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian qua đã có nhiều thành tựu.
Đảng uỷ, Ban giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã nhận thức sâu
sắc và có trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; cán bộ, giảng viên có nhiều ưu
điểm, sự tích cực trong PCLV. Tuy nhiên, việc xây dựng PCLV cho cán bộ,
giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều
hạn chế như: nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp chưa nâng
cao; PCLV của cán bộ, giảng viên còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế, xuất phát
từ các nguyên nhân khác nhau. Do đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên
các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh cần đảm bảo một
số yêu cầu đặt ra, là cơ sở đặt ra nội dung, giải pháp cơ bản để công tác trên đạt
hiệu quả trong thời gian tới.
4. Từ di sản PCLV của Hồ Chí Minh, căn cứ vào nhiệm vụ của lực lượng
CAND trong tình hình mới, những yếu tố tác động tới xây dựng PCLV của cán
bộ, giảng viên và từ thực tiễn đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện CAND,
trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các nội dung xây dựng đó là: xây dựng
147
PCLV dân chủ, đoàn kết; xây dựng PCLV sâu sát, nắm bắt tình hình thực tế; xây
dựng PCLV đổi mới, sáng tạo; xây dựng PCLV tận tuỵ, trung thực và trách
nhiệm; xây dựng PCLV nêu gương; xây dựng PCLV đề cao ý thức tổ chức, kỷ
luật; xây dựng PCLV gắn liền với kiểm tra, giám sát, tổng kết, rút kinh nghiệm.
Đồng thời, quán triệt và thực hiện đồng bộ 02 nhóm giải pháp cơ bản. Thứ nhất,
nhóm giải pháp thuộc về chủ thể, cấp uỷ lãnh đạo các Học viện CAND bao gồm:
Nâng cao nhận thức, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phát huy vai
trò lãnh đạo, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu; công tác tuyển chọn,
bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng, xây dựng bộ tiêu chí về PCLV của cán bộ,
giảng viên; hoàn thiện cơ chế chính sách. Thứ hai, nhóm giải pháp phát huy tính
tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách
Hồ Chí Minh: Nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh;
cán bộ, giảng viên chủ động phát huy tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng
PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Đây là hệ thống giải pháp mang tính đột
phá, trực tiếp quyết định hiệu quả của công tác xây dựng PCLV cho cán bộ,
giảng viên. Góp phần xây dựng phong cách người cán bộ, giảng viên CAND bản
lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới
giáo dục, đào tạo trong CAND.
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ,
chiến sỹ Công an nhân dân theo Sáu điều Bác Hồ dạy”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học - thực tiễn cấp Quốc gia 70 năm Công an nhân dân thực hiện sáu điều Bác
Hồ dạy, Bộ Công an - Báo Nhân dân - Tạp chí Cộng sản, tr.539-546.
2. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Quán triệt chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân”, Tạp chí Lý
luận chính trị Công an nhân dân, (31), tr.27-30.
3. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Xây dựng phong cách làm việc khoa học cho
giảng viên Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học
và Giáo dục An ninh, (18), tr.84-87.
4. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Phong cách làm việc nêu gương Hồ Chí Minh
và ý nghĩa đối với việc rèn luyện đạo đức người cán bộ”, Tạp chí Nhịp cầu Tri
thức, (12), tr.14-18.
5. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Rèn luyện tác phong làm việc khoa học cho đội
ngũ giảng viên các trường Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Lý luận chính trị Công an nhân dân, (38), tr.29-31.
6. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), “Xây dựng phong cách làm việc Hồ Chí Minh cho
cán bộ, chiến sỹ theo “Sáu điều Bác Hồ dạy” Công an nhân dân”, Tạp chí Giáo dục
lý luận, Học viện Chính trị khu vực I, (285+286), tr.8-13.
7. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), “Vận dụng phong cách làm việc “đối với địch,
phải cương quyết khôn khéo” của Hồ Chí Minh trong đấu tranh, phản bác các
luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Công an nhân dân đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới, Hà Nội, tr.471-477.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên - 2015), Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Giá
trị lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Vũ Ngọc Am (2016), Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và
phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội.
3. Nguyễn Bình Ban (2007), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Công an), Hà Nội.
4. Nguyễn Bình Ban (2003), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân
dân”, Tạp chí Công an nhân dân, (3).
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Những nội dung cơ bản của tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Xây dựng phong cách, tác phong công
tác của người đứng đầu, của người cán bộ, đảng viên trong học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo (2017), “Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong Di chúc của Người”, Tạp chí Cộng sản, (901), tr.44-47.
9. Hoàng Chí Bảo (2018), “Xây dựng phong cách người công an bản lĩnh, nhân
văn, vì nhân dân phục vụ theo lời dạy của Bác Hồ”, Tạp chí Công an nhân
dân, Kỳ 2-tháng 3, tr.28-31, Hà Nội.
10. Trần Thái Bình (2007), Hồ Chí Minh, sự hình thành một nhân cách lớn, NXB
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Bộ Công an - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Công an nhân
dân thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150
12. Bộ Công an (2011), Tài liệu triển khai nhiệm vụ công tác giáo dục đào tạo
trong Công an nhân dân năm học 2011 - 2012 và giai đoạn 2011 - 2015,
Hà Nội.
13. Bộ Công an (2012), Quyết định số 5620/QĐ-BCA-X11 ngày 15/11/2012 Phê
duyệt Đề án thành phần số 5 thuộc Đề án “Quy hoạch tổng thể, nâng cao
năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công
an nhân dân đến năm 2020”, Hà Nội.
14. Bộ Công an (2014), Tài liệu Hội nghị tổng kết công tác giáo dục đào tạo và
triển khai nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ Công an (2014), Chỉ thị số 13/CT-BCA ngày 28/10/2014 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân, Hà Nội.
16. Bộ Công an (2015), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2015 -
2016 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Bộ Công an (2016), Học viện An ninh nhân dân - 70 năm xây dựng và phát
triển, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
18. Bộ Công an (2016), Tài liệu Hội nghị triển khai chương trình nhiệm vụ năm
học 2016 - 2017 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Bộ Công an (2016), Chỉ thị số 07/CT-BCA-X11 ngày 26/10/2016 về tăng
cường lãnh đạo nâng cao văn hoá ứng xử Công an nhân dân trong tình hình
mới, Hà Nội.
20. Bộ Công an (2016), Kế hoạch số 337/KH-BCA-X11 ngày 19/12/2016 về tổ
chức Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản
lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Hà Nội.
21. Bộ Công an (2017), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2017 -
2018 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Bộ Công an (2017), Kế hoạch số 190/KH-X11-X12 ngày 9/1/2017 về thực hiện
Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh,
nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Hà Nội.
23. Bộ Công an (2017), Hướng dẫn số 2022/HD-X11-X15 ngày 7/3/2017 về sinh
hoạt chính trị và công tác tuyên truyền thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng
phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục
vụ”, Hà Nội.
151
24. Bộ Công an (2018), Chỉ thị số 04/CT-BCA ngày 19/5/2018 về đổi mới, nâng
cao chất lượng phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều
Bác Hồ dạy” trong tình hình mới, Hà Nội.
25. Bộ Công an (2018), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2018 -
2019 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
26. Bộ Công an (2018), Báo cáo sơ kết Đề án số 1229/QĐ-Ttg “Quy hoạch tổng
thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng trong Công an nhân dân đến năm 2020”, Hà Nội.
27. Bộ Công an - Báo Nhân dân - Tạp chí Cộng sản (2018), “70 năm Công an
nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học - thực tiễn quốc gia, Hà Nội.
28. Bộ Công an (2019), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2019 -
2020 trong Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2006), Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục Đại học và sau Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Cấn Văn Chúc (2010), Các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các trường Công an nhân dân đến năm
2015 và hướng tới năm 2020, Đề tài Khoa học cấp cơ sở, Cục Đào tạo, Bộ
Công an, Hà Nội.
31. David Halberstam (1971), Ho, NXB Random House New York, Mỹ.
32. Phạm Văn Dần (2001), “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng
CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, Tạp chí Công
an nhân dân, (5).
33. Nguyễn Tấn Dũng (2009), “Phát huy truyền thống 40 năm đào tạo đại học
công an, phấn đấu xây dựng lực lượng Công an nhân dân xứng đáng với niềm
tin của Đảng và nhân dân”, Tạp chí Công an nhân dân, (11), tr.3-7, Hà Nội.
34. Bùi Tiến Dũng (2010), “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về tác phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (11).
152
35. Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân (2011), Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần
thứ XXVI, nhiệm kỳ 2011 - 2015, Hà Nội.
36. Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần
thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.
37. Đảng bộ Học viện Cảnh sát nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ Học viện Cảnh sát nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần
thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.
38. Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân tại Đại hội đại
biểu Đảng bộ lần thứ I, nhiệm kỳ 2011 - 2015, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tập 51.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), “Về công tác cán bộ trong thời kỳ mới”,
Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012
tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013
tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Hà Nội.
153
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013
tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa XI “Về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ các cấp, nhất là các cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”, Hà Nội.
50. Đảng uỷ Công an Trung ương (2014), Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA
28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Công
an nhân dân”, Hà Nội.
51. Đảng uỷ Công an Trung ương (2015), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ
Công an Trung ương, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.
52. Đảng uỷ Công an Trung ương (2015), Tài liệu hội nghị Tổng kết 4 năm triển
khai, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, khoá XI
về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” trong Công an nhân dân, Hà Nội.
53. Võ Thành Đạt (2014), Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên các trường Đại
học Công an nhân dân, Luận án Tiến sỹ khoa học Giáo dục, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
54. Phạm Văn Định (2018), “Về phong cách lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, (4), tr.35-37.
55. Phạm Văn Đồng (2009), Học Chủ tịch Hồ Chí Minh - chúng ta học gì?, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. E.Côbêlép (2005), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
154
57. Võ Nguyên Giáp (2015), Thế giới đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống
mãi, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
58. Trần Văn Giàu (2014), Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ
đại, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
59. Nguyễn Thanh Hà (2014), “Bồi dưỡng phong cách làm việc cho đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục tại các cơ sở đào tạo”, Tạp chí Giáo dục, (328), tr.12-13.
60. Đỗ Mạnh Hoà (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của
người cán bộ, Đề tài Khoa học Viện Khoa học xã hội nhân văn Quân sự, Ban
nghiên cứu xây dựng Quân đội về Chính trị, Hà Nội.
61. Hellmut Kapfenberder (2009), Hồ Chí Minh - Một biên niên sử, NXB Neues
Leben, Đức.
62. Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (2017), Tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - tinh hoa văn hoá Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
63. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí
Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, 1945 - 1946, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Di sản Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/1890 - 19/5/2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh -
Giá trị nhân văn và phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
66. Ánh Hồng (2004), “Phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Toàn cảnh - sự kiện,
(167), tr.11-12.
67. Đoàn Minh Huấn (2018), Lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ,
chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, Tạp chí Cộng sản, (909), tr.38-44.
68. Trịnh Lương Hy (2007), “Xây dựng bản lĩnh chính trị của người cán bộ an
ninh theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
155
69. Hồng Khanh (2013), Phong cách Bác Hồ đến cơ sở, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
70. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên - 2013), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
71. Lê Thị Phương Lan (2006), “Đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr.47-49.
72. T.Lan (1994), Vừa đi đường vừa kể chuyện, NXB Sự thật, Hà Nội.
73. Tô Lâm (chủ biên - 2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ Công an nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
74. Tô Lâm (chủ biên - 2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Tô Lâm (chủ biên - 2017), Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm “Tư cách
người công an cách mệnh của Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 41, tiếng Việt, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
77. Đỗ Hoàng Linh, Vũ Kim Yến (tuyển chọn - 2014), Phong cách Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Văn Ly (2010), Quản lý chất lượng đào tạo đại học trong các Học
viện, trường Công an nhân dân, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học
Giáo dục, Hà Nội.
79. Đinh Xuân Lý - Trần Minh Trưởng (2013), Hồ Chí Minh với cách mạng Việt
Nam - Cuộc đời, sự nghiệp và đạo đức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Lưu Trần Luân, Trần Minh Trưởng, Văn Thanh Mai (2016), Học tập phong
cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
81. Nguyễn Anh Minh (2014), “Phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 (282), tr.34-37.
82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hội hữu nghị Nga - Việt (2010), Người Nga nói về Hồ Chí Minh, NXB Kuna,
Matxcơva, Liên bang Nga.
98. Nguyễn Văn Ngọc (2005), “Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nghiệp vụ
Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Tạp chí
Công an nhân dân, (7), tr.30-32, Hà Nội.
99. Hoàng Phê (Chủ biên - 2017), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học -
NXB Đà Nẵng, Hà Nội.
100. Bùi Đình Phong (2005), “Phong cách Hồ Chí Minh - một giá trị di sản văn hoá
dân tộc”, Tạp chí Di sản Văn hoá, (2), tr.26-28.
101. Bùi Đình Phong (2013), “Xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, đảng
viên hiện nay theo tấm gương Hồ Chí Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh học, (2).
102. Bùi Đình Phong (2016), Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, NXB Dân
trí, Hà Nội.
103. Trần Đình Quảng (2005), “Học tập Bác Hồ về phong cách làm việc: dân chủ,
khiêm tốn, thiết thực, đến nơi đến chốn”, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (5),
tr.12-13.
104. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật cán bộ,
công chức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
105. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Giáo dục
năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2014, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Công an
nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Nguyễn Hồng Quyết (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
Công an nhân dân”, Hội thảo tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh trật tự, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
108. Robert Bolton, Dorothy Grove Bolton (2008), 4 phong cách làm việc, Thanh
Ngân, Thanh Hương dịch, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
109. Minh Sơn (2017), “Học tập phong cách làm việc Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân điện tử, www.tapchiqptd.vn, đăng ngày 23/6/2017.
110. Trần Quang Tám (2015), Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và những bài học
đối với cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
111. Nhâm Cao Thành (2012), Xây dựng phong cách làm việc của chính ủy trung
đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
112. Nguyễn Văn Thành (2018), “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả phong trào
“Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy””, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân điện tử, www.tapchiqptd.vn, đăng ngày 19/5/2018, Hà Nội.
113. Nguyễn Văn Thành (2018), “Công tác giáo dục đào tạo trong CAND trước
yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị Công an nhân dân, (37),
tr.8-12.
114. Song Thành (Chủ biên - 1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Mạch Quang Thắng (2017), Hồ Chí Minh - Đồng hành cùng dân tộc, NXB
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
116. Nguyễn Thế Thắng (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng
phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
117. Nguyễn Văn Thế (2010), “Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề
đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện
nay”, Kỷ yếu Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Hà Nội.
118. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1229/QĐ-Ttg ngày 22/7/2011
“Phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào
tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công an nhân dân đến năm
2020”, Hà Nội.
119. Nguyễn Khánh Toàn (2009), “Nâng cao chất lượng đào tạo đại học của Học
viện An ninh nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác công an trong
tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân dân, (11), tr.9-13, Hà Nội.
120. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (2015), Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, hướng dẫn công tác giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục,
NXB Lao Động, Hà Nội.
121. Trường Đại học tổng hợp Saint Petersburg (2015), Di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh và thời đại ngày nay, NXB Đại học tổng hợp Saint Petersburg, Liên
bang Nga.
122. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh - nhân văn và phát triển, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
123. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Khu Di tích tại Phủ Chủ tịch
(2016), Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, NXB Thông tin và
truyền thông, Hà Nội.
124. Lê Văn Yên, Trần Đình Thắng (2013), “Học tập và làm theo cách làm việc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
125. Lê Văn Yên (2017), Học tấm gương làm việc và học tập suốt đời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
126. William J. Duiker (2005), Hồ Chí Minh - Một cuộc đời, NXB Thế giới,
Hà Nội.