HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU TRANG

XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC

HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN

CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU TRANG

XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC

HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

MÃ SỐ: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH

PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thu Trang

MỤC LỤC

Trang

1

6 6

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận án cần tiếp tục

giải quyết 21

25 25 32 39 60

64 64

Chương 2: PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Đặc trưng phong cách làm việc Hồ Chí Minh 2.3. Nội dung chủ yếu của phong cách làm việc Hồ Chí Minh 2.4. Giá trị của phong cách làm việc Hồ Chí Minh Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH 3.1. Đặc điểm tình hình cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân 3.2. Thực trạng xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các

Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh 72

103

111

3.3. Yêu cầu đặt ra trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh Chương 4: NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH 4.1. Những nhân tố tác động đến xây dựng phong cách làm việc của cán bộ,

giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay 111

4.2. Nội dung xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các

Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh 115

4.3. Giải pháp xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên các

Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh

124 145

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

148 149

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANND

: An ninh nhân dân

CAND

: Công an nhân dân

CSND

: Cảnh sát nhân dân

PCLV

: Phong cách làm việc

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân

loại, là di sản tinh thần quý báu của nhân dân ta, giá trị hợp thành nền văn hoá Việt

Nam. Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể bao gồm: phong cách tư duy;

phong cách diễn đạt; phong cách làm việc (PCLV); phong cách ứng xử; phong cách

sinh hoạt. Trong đó, PCLV Hồ Chí Minh là một yếu tố đặc sắc tạo nên nhân cách

Hồ Chí Minh - mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà khoa học chân chính,

thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của một

nhà văn hoá lớn. PCLV Hồ Chí Minh không chỉ là chuẩn mực cho việc rèn luyện

phong cách của cán bộ, đảng viên mà còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ

người Việt Nam hôm nay và mai sau.

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi để phát triển

nhanh và bền vững, nhưng cũng tiềm ẩn không ít những khó khăn, thách thức trong

bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù

địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta với nhiều thủ

đoạn, trong đó có chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự

chuyển hoá”, “phi chính trị hoá” các lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh đó, tình

trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,

đảng viên, công chức; sự tồn tại và diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng,

lãng phí đang gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Thực tiễn trên đặt ra những yêu

cầu lớn trong việc tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất chính trị, đạo đức, phong

cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 05-

CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh”. Việc nghiên cứu, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách đặc biệt

là PCLV Hồ Chí Minh là yêu cầu cần thiết để hoàn thiện phong cách, phẩm chất và

năng lực đối với mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Các Học viện Công an nhân dân (CAND) có nhiệm vụ giáo dục, đào tạo,

nghiên cứu khoa học của lực lượng, phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ

gìn trật tự, an toàn xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác, cán bộ,

2

giảng viên các Học viện CAND cần đảm bảo không chỉ về phẩm chất chính trị, đạo

đức, trình độ, năng lực chuyên môn vững vàng mà phải có phương pháp, lề lối,

PCLV phù hợp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Nhận thức vấn đề PCLV của cán bộ, giảng viên là yếu tố then chốt của công

tác giáo dục, đào tạo, xác định uy tín, vị thế của cán bộ, giảng viên và các Học viện

CAND nên trong quá trình phát triển, các Học viện CAND đã không ngừng chăm lo,

xây dựng, rèn luyện, bồi dưỡng họ mọi mặt về phẩm chất, năng lực, đặc biệt là xây

dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh, gắn liền với nhiệm vụ đổi mới căn bản

toàn diện giáo dục, đào tạo trong CAND, xây dựng phong cách người Công an “Bản

lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Qua quá trình xây dựng, đại bộ phận cán bộ,

giảng viên các Học viện CAND đã có PCLV khoa học, đổi mới, sáng tạo, tích cực,

luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm

vụ, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND vẫn chưa ngang tầm với yêu

cầu của thực tiễn công tác, vẫn còn một bộ phận cán bộ, giảng viên bộc lộ hạn chế về

PCLV, chưa thực sự tiêu biểu về PCLV khoa học, dân chủ, quần chúng, chưa thực sự

nêu gương; sự chỉ đạo xây dựng PCLV của một số Học viện còn chưa được sâu sát

và đảm bảo tính đồng bộ. Những sự tồn tại đó nếu không được thường xuyên quan

tâm, bồi dưỡng, xây dựng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác giáo

dục, đào tạo của các Học viện CAND, trong khi hệ thống các Học viện CAND đang

ngày càng được mở rộng và phát triển về mọi mặt.

Do đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay

theo phong cách Hồ Chí Minh để đảm bảo yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo, góp

phần xây dựng phong cách người cán bộ, giảng viên CAND bản lĩnh, nhân văn, vì

nhân dân phục vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của lực lượng

CAND trong tình hình mới là vấn đề mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và mục

tiêu chiến lược, lâu dài.

Với ý nghĩa nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Xây dựng phong cách làm

việc Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện

nay” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Nghiên cứu hệ thống nội dung PCLV của Hồ Chí Minh và vận dụng vào

đánh giá thực trạng xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND,

trên cơ sở đó, xác định nội dung, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ

Chí Minh.

2.2. Nhiệm vụ

Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

Hai là, phân tích làm rõ các khái niệm “phong cách”, “phong cách Hồ Chí

Minh”, “phong cách làm việc Hồ Chí Minh”, “xây dựng phong cách làm việc” và

“cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân”; đặc trưng, những nội dung

PCLV của Hồ Chí Minh.

Ba là, khái quát những nét cơ bản về cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND: đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Phân tích thực trạng xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh,

những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra.

Bốn là, xác định những nhân tố tác động; nội dung và đề xuất các giải pháp

xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong

cách Hồ Chí Minh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên các Học viện CAND.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu PCLV của Hồ Chí Minh và vận

dụng vào xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong

cách Hồ Chí Minh, làm rõ nội dung và đề xuất các nhóm giải pháp xây dựng PCLV

cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.

Về thời gian: Nghiên cứu PCLV của Hồ Chí Minh thể hiện trong cuộc đời

hoạt động cách mạng của Người; sự vận dụng xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

4

viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh từ năm học 2013 - 2014

(tính mốc thời gian kể từ khi có Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA của Đảng uỷ Công an

Trung ương và Chỉ thị số 13-CT/BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 28/10/2014

về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân”) đến

năm học 2018 - 2019.

Về không gian: Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND bao gồm: Học viện

An ninh nhân dân (ANND), Học viện Cảnh sát nhân dân (CSND), Học viện Chính

trị CAND, riêng Học viện Quốc tế (Bộ Công an), do tính chất đặc thù của ngành

nên tác giả không khảo sát.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây

dựng lực lượng CAND nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở tuân thủ phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin đó

là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lôgíc kết hợp

với phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương

pháp lý luận gắn liền với thực tiễn; phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.

Phương pháp lôgíc được sử dụng nhằm khai thác, đánh giá những thành tựu,

hạn chế và yêu cầu trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND theo phong cách Hồ Chí Minh. Phương pháp lịch sử để phân tích các vấn đề

có liên quan đến quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện của các chủ thể xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND.

Phương pháp phân tích tổng hợp giúp làm rõ những thành tựu, hạn chế trong

xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên từ năm học 2013 - 2014 đến nay. Phương

pháp thống kê tác giả sử dụng khi xây dựng các bảng biểu thống kê về số lượng, kết

quả hoạt động công tác mọi mặt của cán bộ, giảng viên từ năm học 2013 - 2014 đến

5

năm học 2018 - 2019. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh, đối chiếu

hiệu quả PCLV của cán bộ, giảng viên thể hiện qua kết quả công tác mọi mặt ở các

năm học.

5. Những đóng góp khoa học của luận án

- Luận án làm rõ khái niệm phong cách; phong cách Hồ Chí Minh; phong

cách làm việc Hồ Chí Minh; xây dựng phong cách làm việc; cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND; phân tích một số khía cạnh về đặc trưng của PCLV Hồ Chí Minh.

- Đánh giá tổng quát về vị trí, vai trò, đặc điểm hoạt động, công tác của cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND, thực trạng, yêu cầu đặt ra trong xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.

- Nêu một số nội dung và đề xuất giải pháp cơ bản xây dựng PCLV cho cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh.

6. Ý nghĩa của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần luận giải các khía cạnh về PCLV của

Hồ Chí Minh, từ đó cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học cho việc đề xuất, thực thi chính

sách liên quan đến việc bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND có PCLV quần chúng, khoa học, dân chủ - tập thể, nêu gương.

- Làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập, giảng dạy các chuyên

ngành của khoa học chính trị và khoa học CAND. Đồng thời, làm cơ sở để các đơn vị

tham mưu, vận dụng, xây dựng, phát triển lực lượng CAND trong tình hình hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận

án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

Chương 2: Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Những vấn đề lý luận.

Chương 3: Thực trạng và yêu cầu đặt ra trong xây dựng phong cách làm việc

cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh.

Chương 4: Nội dung, giải pháp xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ,

giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phong cách và phong

cách làm việc Hồ Chí Minh

Cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh [70] của Đặng Xuân Kỳ

(chủ biên), tác giả luận giải những vấn đề cơ bản, cốt lõi của phong cách Hồ Chí

Minh: “Phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của: Phong cách tư duy, phong

cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt. Năm

mặt chủ yếu này tạo thành hệ thống phong cách Hồ Chí Minh” [70, tr.133-134]. Ở

Hồ Chí Minh có sự liên hệ giữa tư tưởng với hành động, lời nói với việc làm, là

phong cách điển hình, mẫu mực của người cách mạng, có ý nghĩa giáo dục rất sâu

sắc đối với các thế hệ cán bộ cách mạng, tác giả khẳng định “Người đã có một

phong cách mẫu mực để tiến hành công tác và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, giải

quyết đúng đắn và thoả đáng các mối quan hệ; PCLV Hồ Chí Minh không chỉ tác

động đến nhận thức mà còn cảm hoá cả trái tim con người. Qua PCLV của Hồ Chí

Minh, mọi người đến với Đảng, tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng không phải chỉ

bằng lý trí, mà còn bằng tình cảm sâu sắc của chính mình” [70, tr.153]. Đây là công

trình nghiên cứu công phu về hệ thống phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có nội

dung PCLV Hồ Chí Minh, là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo, kế thừa khi

nghiên cứu viết luận án.

Cuốn Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam - Cuộc đời, sự nghiệp và đạo

đức do Đinh Xuân Lý - Trần Minh Trưởng (đồng chủ biên) [79], nghiên cứu các

nội dung PCLV của Hồ Chí Minh và khẳng định phong cách quần chúng, dân chủ,

nêu gương của Người có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình thực tiễn bởi liên

quan trực tiếp đến nhân dân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Vì vậy, chúng ta

phải tiếp tục nhận thức, đào sâu nghiên cứu, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư

7

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để kiên định, kế thừa, phát triển và vận

dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cuốn Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại [58] của Trần

Văn Giàu khắc hoạ Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách tinh tế, đó là chân dung của

một tâm hồn vĩ đại, một nhân cách giản dị, lão thực. Phong cách Hồ Chí Minh được

nghiên cứu ở khía cạnh đặc trưng là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời

nói đi đôi với việc làm, tác giả viết: “Phong cách Hồ Chí Minh là sự nhất quán

trong suy nghĩ và việc làm, giữa những cái khác nhau, giữa những cái thường bị

xem là trái nhau” [58, tr.35]. Bên cạnh đó, tác giả dẫn lời của báo Ảnh diện Ấn Độ

nhận xét về phong cách của Hồ Chí Minh: “Cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn sự tao

nhã cao quý với tác phong gẫn gũi rất dân chủ, giữa tự do không nghi thức với sự

nghiêm chỉnh thận trọng” [58, tr.37].

Trong cuốn sách Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống

mãi [57] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu: “Tác phong lãnh đạo của Bác tập thể

và dân chủ. Bác luôn lắng nghe nguyện vọng của quần chúng, ý kiến của cán bộ;

Bác muốn đổi mới phong cách lãnh đạo của Đảng, đổi mới cách suy nghĩ, cách làm

việc của đảng viên, đổi mới nếp sống trong xã hội” [57, tr.19]. Tác giả nghiên cứu

phong cách của Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng sôi

nổi của Người, phản ánh ở một số khía cạnh của tác phong lãnh đạo, phong cách

diễn đạt như: lý luận gắn với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm.

Tài liệu Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh [5] do Ban Tuyên giáo Trung ương soạn thảo trình bày mối quan hệ thống

nhất, biện chứng giữa tư tưởng, đạo đức, phong cách tạo nên nhân cách vĩ đại Hồ

Chí Minh, khái quát đặc điểm và nội dung cơ bản của phong cách Hồ Chí Minh,

“được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một

chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ. Phong cách Hồ Chí

Minh gồm những điểm nổi bật: phong cách tư duy, PCLV, phong cách diễn đạt,

phong cách ứng xử và phong cách sống” [5, tr.31]. Phong cách Hồ Chí Minh là

8

những giá trị cơ bản trong tư tưởng, đạo đức của Người, được thể hiện trong công

việc, sinh hoạt, ứng xử. Phong cách Hồ Chí Minh phong cách của một vĩ nhân, một

chiến sĩ cộng sản, một nhà văn hóa lớn.

Tài liệu học tập Chuyên đề Chỉ thị số 05-CT/TW năm 2018 về Xây dựng

phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [6] của Ban Tuyên

giáo Trung ương nêu những vấn đề cơ bản xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên

theo phong cách Hồ Chí Minh, gồm các nội dung: Phong cách dân chủ - quần

chúng, phong cách khoa học và phong cách nêu gương, trong đó, phong cách dân

chủ được coi là “phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có” [6, tr.5]. Đối

với người đứng đầu, người lãnh đạo, xây dựng PCLV lại có những yêu cầu thể hiện

vai trò, trách nhiệm cao hơn, gồm: phong cách dân chủ - quyết đoán, sâu sát, khéo

dùng người, phong cách cách mạng, khoa học và năng động sáng tạo. Phong cách,

tác phong công tác của Hồ Chí Minh là hình mẫu giá trị để cán bộ, đảng viên và

nhân dân hoàn thiện phong cách của bản thân, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,

khi toàn Đảng, toàn dân đang tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương

số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,

“tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày

15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh”.

Tác giả Bùi Đình Phong trong cuốn sách Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc

của người cách mạng [102] xác định: “Phong cách Hồ Chí Minh là cả một hệ thống

bao gồm phong cách tư duy, PCLV, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử,

phong cách sinh hoạt” [102, tr.178], phong cách là một bộ phận của văn hoá, nhân

cách, đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh. Về vấn đề xây dựng PCLV Hồ Chí Minh

cho cán bộ, đảng viên, tác giả phân tích trên hai nội dung chính là: phong cách quần

chúng và phong cách tập thể - dân chủ. Giá trị của phong cách Hồ Chí Minh được

khẳng định: “Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi là

9

nguồn sáng, nguồn động viên to lớn đối với mỗi con người Việt Nam trong tình

hình hiện nay” [102, tr.143]. Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh có ý

nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay, giúp cho mỗi cán

bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức và phong cách.

Việc học tập và nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh có sự chuyển biến sâu

sắc hơn từ khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về “Đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Có thể kể

đến các cuốn sách như: Học tập phong cách Hồ Chí Minh [80] của Lưu Trần Luân,

Trần Minh Trưởng và Văn Thanh Mai; Học tấm gương làm việc và học tập suốt đời

của Chủ tịch Hồ Chí Minh [125] của tác giả Lê Văn Yên; Học tập và làm theo tư

tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh [2] của Vũ

Ngọc Am. PCLV Hồ Chí Minh đều được các tác giả khái quát trên các phương diện

của PCLV quần chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học và PCLV nêu

gương. Trong đó, nghiên cứu PCLV quần chúng của Hồ Chí Minh, tác giả cuốn

Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ

Chí Minh cho rằng đây là điểm nổi bật nhất trong hệ thống phong cách Hồ Chí

Minh và được thể hiện bằng những hành động cụ thể: “sự sâu sát quần chúng, tin

yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết các kiến nghị

chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng, giáo dục,

lãnh đạo quần chúng, học hỏi, tự mình mẫu mực để xứng đáng với sự tin cậy của

nhân dân [2, tr.40-41]. Các tác giả có chung nhận định giá trị to lớn của phong cách

Hồ Chí Minh và cần thiết với những người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ

lãnh đạo: “tiêu biểu cho phong cách của những người cách mạng, những con người

cộng sản... Phong cách Hồ Chí Minh không phải ở tầm cao không thể vươn tới mà

luôn ở phía trước chúng ta” [80, tr.16-17].

Công trình Hồ Chí Minh - Đồng hành cùng dân tộc [115], của Mạch Quang

Thắng, nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh, tác giả nêu: “Phong cách Hồ Chí

Minh là những đặc điểm riêng có, cái độc đáo, có tính hệ thống, trở thành nền nếp

ổn định phản ánh toàn bộ cuộc sống của Hồ Chí Minh” [115, tr.82]. Về hệ thống

10

phong cách Hồ Chí Minh, quan điểm của tác giả có sự đồng nhất với nghiên cứu

của các nhà khoa học khác khi khẳng định hệ thống phong cách Hồ Chí Minh bao

gồm năm nội dung: “Phong cách tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo; PCLV; phong

cách diễn đạt; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt” [115, tr.83]. Bàn đến

PCLV Hồ Chí Minh, tác giả đánh giá Hồ Chí Minh là một người có sức làm việc

phi thường, tận tâm, tận lực trong sự nghiệp cách mạng, nội dung của PCLV Hồ

Chí Minh được thể hiện trên các phương diện: phong cách gần dân, hiểu dân, vì

dân; PCLV dân chủ; PCLV khoa học và phong cách nêu gương sáng.

Cuốn Hồ Chí Minh sự hình thành một nhân cách lớn [10] do Trần Thái Bình

(chủ biên). Bằng những sự kiện, hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc

đời hoạt động cách mạng, tác giả làm rõ những nội dung của phong cách của Người

thể hiện trên các mặt: Phong cách tư duy; PCLV; phong cách ứng xử; phong cách

diễn đạt; phong cách sinh hoạt, các mặt phong cách ấy hài hòa tự nhiên hình thành

nên một nhân cách lớn Hồ Chí Minh. Phong cách Hồ Chí Minh có giá trị và ý nghĩa

to lớn đối với mỗi người: “Nhìn từng mặt phong cách ấy, các thế hệ thanh thiếu

niên ta có thể rút ra được bài học sâu sắc: bài học để sống ở đời và sống làm người”

[10, tr.82]. Qua sự nghiên cứu cách làm việc của Hồ Chí Minh trong mọi hoàn

cảnh, tác giả chỉ ra các đặc điểm: PCLV thận trọng, thiết thực, chủ động; luôn luôn

nắm vững đường lối quần chúng; tác phong tập thể, dân chủ; tác phong khoa học.

Vấn đề phong cách Hồ Chí Minh trong đó làm rõ nội dung, giá trị, ý nghĩa

và vận dụng phong cách của Người trong tình hình hiện nay của cán bộ, đảng viên

cũng là nội dung của một số bài viết trên các tạp chí khoa học, có thể kể đến: Phong

cách Hồ Chí Minh - một giá trị di sản văn hoá dân tộc [100] của Bùi Đình Phong;

Phong cách Hồ Chí Minh [66] của Ánh Hồng.

Về phong cách và PCLV Hồ Chí Minh cũng là đề tài thu hút sự quan tâm

của nhiều học giả nước ngoài, thể hiện trên nhiều phương diện và phần lớn được thể

hiện qua các nhận định trong những công trình về tiểu sử, sự nghiệp hoạt động cách

mạng của Người. Một số tiêu biểu như:

Tác phẩm Ho [31] của David Halberstam, tác giả khi khám phá cuộc sống và

sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã khẳng định Người “là hiện thân của một cuộc cách

11

mạng”, “là biểu tượng của sự sống, niềm hy vọng, cuộc đấu tranh vì độc lập, sự

cống hiến hy sinh và những thắng lợi vẻ vang” của nông dân. Tác giả đánh giá cao

những yếu tố thuộc phẩm chất cá nhân của Người và nhấn mạnh phong cách gần

gũi, gắn bó, hiểu nhân dân, vì nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện như một lẽ tự

nhiên: “Hồ Chí Minh không cố tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì

ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân”; “khả năng hoà đồng với

nhân dân là cơ sở dẫn đến mọi thành công của ông Hồ” [31].

Tác phẩm Hồ Chí Minh - một cuộc đời [126] của William J. Duiker, thể hiện

tình cảm của tác giả dành cho Hồ Chí Minh và đất nước, con người Việt Nam.

Thông qua nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh từ bối cảnh đất nước bị đô hộ đến quá

trình trở thành nhà cách mạng, với những chiến thắng lẫy lừng của cách mạng tháng

Tám, chiến dịch Điện Biên Phủ, đến các hoạt động thường nhật của Người, tác giả

làm sống động một nhân vật huyền thoại, thể hiện phong cách và trí tuệ Hồ Chí

Minh, thống nhất trong các giá trị của người cách mạng.

Tác giả người Nga Ê. Côbêlép có tác phẩm Đồng chí Hồ Chí Minh [56].

Trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc về lịch sử, đất nước, con người Việt Nam và tình

cảm lớn dành cho Hồ Chí Minh, phản ánh sinh động phong cách, phẩm chất, đạo

đức của Hồ Chí Minh thông qua cuộc đời, sự nghiệp gắn với một thời kỳ lịch sử

dân tộc và những thay đổi lớn lao của thời đại. Xuyên suốt tác phẩm, hiện lên rõ nét

phong cách của vị lãnh tụ thiên tài với khát vọng, lý tưởng cao cả, dành trọn cuộc

đời mình phấn đấu hy sinh cho tự do của đất nước, cho hạnh phúc của đồng bào của

Hồ Chí Minh.

Người Nga nói về Hồ Chí Minh [97], tập hợp 16 bài bút ký, hồi ức, phỏng

vấn, ghi chép... của các nhà văn, nhà báo, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu người

Nga, nhìn nhận và có những nhận xét tinh tế về phong thái, cốt cách, phong cách

ứng xử, sinh hoạt của Hồ Chí Minh. Người đã để lại trong lòng nhân dân Nga nhiều

ấn tượng tốt đẹp, vì vậy, khi đọc cuốn sách, mỗi người đều tìm thấy cho mình tấm

gương trong cách thực hiện công việc, cách hành xử trong cuộc sống và công tác

hàng ngày.

12

Cuốn sách Hồ Chí Minh - Một biên niên sử [61] là công trình của tác giả

người Đức Hellmut Kapfenberger, giới thiệu rõ nét thân thế, sự nghiệp trong quá

trình Hồ Chí Minh bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh Hồ Chí Minh đã “sống một cuộc đời huyền

thoại” bởi cả một đời đã tranh đấu nhằm biến đổi thế giới, vì công bằng xã hội,

danh dự của dân tộc và Tổ quốc mình. Phong cách Hồ Chí Minh được tác giả tái

hiện bằng những chi tiết rất đời thường, giản dị: Người sống trong ngôi nhà sàn nhỏ

bé giữa Thủ đô Hà Nội, Người ăn mặc rất giản dị, thường đi dép cao su, mặc bộ

quần áo nâu hoặc bộ kaki thường, không khác gì một cán bộ bình thường hay một

lão nông. Trong cuốn sách, tác giả nêu những nhận xét về Hồ Chí Minh: “Ðó là một

con người dịu dàng, khiêm nhường, mềm dẻo, nhiều khi có cử chỉ có phần dè dặt,

nhưng đã viết nên cả một chương vĩ đại của cuộc đấu tranh giải phóng chống đế

quốc ở thế kỷ 20 và đã khơi dậy những tình cảm đoàn kết rộng khắp thế giới” [61,

tr.4]. Đó là những nét đặc sắc riêng có trong phong cách Hồ Chí Minh, hoà trộn

trong ý chí và khát vọng mãnh liệt của nhà lãnh đạo tối cao của dân tộc Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu sự vận dụng PCLV Hồ Chí Minh:

Cuốn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc

của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay của Nguyễn Thế Thắng [116]. Tác

giả xác định “PCLV của Hồ Chí Minh chính là bản chất con người Hồ Chí Minh,

phong cách Hồ Chí Minh là bản thân con người Hồ Chí Minh” [116, tr.6]. Trên

cương vị là người sáng lập Đảng và là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm

đến việc xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo tác giả,

quan điểm của Hồ Chí Minh về PCLV của cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm 6 nội

dung: Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt, mềm

dẻo; tính cách mạng với tính khoa học; tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và

quyết đoán; thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nói và làm; PCLV quần chúng;

cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và

đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tác giả trình bày mục tiêu phương

hướng cơ bản và một số giải pháp trong quá trình xây dựng PCLV cho đội ngũ cán

13

bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đến năm 2020. Trong đó, phần luận giải về nội dung

của PCLV Hồ Chí Minh là vấn đề luận án có thể kế thừa, vận dụng và phát triển.

Bài viết Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề đổi mới phong

cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay của tác giả

Nguyễn Văn Thế [117] xác định PCLV Hồ Chí Minh là lề lối, cung cách, cách

thức làm việc của người lãnh đạo, mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là

quần chúng nhân dân. Nội dung của PCLV Hồ Chí Minh gồm: PCLV dân chủ, tôn

trọng tập thể, PCLV khoa học, PCLV thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. PCLV

Hồ Chí Minh có ảnh hưởng lớn đến nâng cao chất lượng lãnh đạo và uy tín của

Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thiện nhân cách người cán bộ,

đảng viên và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Từ những

đánh giá về ưu điểm, tồn tại trong PCLV của cán bộ lãnh đạo, tác giả đề xuất

những giải pháp góp phần xây dựng PCLV của cán bộ lãnh đạo trong tình hình

hiện nay và khẳng định “việc đổi mới PCLV theo tư tưởng và tấm gương về

PCLV của Hồ Chí Minh đang là một vấn đề quan trọng và cấp thiết” [117].

Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện phong cách làm việc

của đội ngũ cán bộ hiện nay [60] của Đỗ Mạnh Hoà nêu: “PCLV Hồ Chí Minh biểu

hiện ở tư tưởng và toàn bộ kết quả hoạt động thực tiễn của Người, là một nội dung

quan trọng trong tư tưởng về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng” [60,

tr.3]. Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện PCLV

của đội ngũ cán bộ và những vấn đề đặt ra trong PCLV của cán bộ. Tác giả bước

đầu nêu lên những định hướng cơ bản trong bồi dưỡng, rèn luyện PCLV của cán bộ

hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng

về đổi mới phương thức lãnh đạo và chiến lược cán bộ; hai là, tăng cường giáo dục

nâng cao nhận thức của cán bộ, cụ thể hoá nội dung, đa dạng hoá hình thức, biện

pháp bồi dưỡng, rèn luyện PCLV; ba là, xây dựng hoàn thiện các quy chế, quy định

làm việc thích hợp tạo môi trường thuận lợi bồi dưỡng PCLV của cán bộ; đề cao

trách nhiệm tự giác học tập, rèn luyện PCLV; bốn là, đẩy mạnh cuộc vận động

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

14

Bài viết “Đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo tư

tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Phương Lan [71]. Tác giả tiếp cận PCLV Hồ Chí

Minh trên năm vấn đề cơ bản: tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên;

chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; PCLV dân chủ; PCLV khoa học

và sự nhất quán giữa nói với làm. Trên cơ sở phân tích các vấn đề, tác giả đánh giá:

Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao, đổi mới PCLV của đội ngũ cán bộ nói

chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc làm

đúng đắn, nhằm thực hiện hiệu quả mọi nhiệm vụ đặt ra.

Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị Xây dựng phong cách làm việc của chính

ủy trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay [111] của

Nhâm Cao Thành. Từ cơ sở nghiên cứu thực trạng PCLV của chính ủy trung đoàn

bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam, để góp phần xây dựng đội ngũ chính uỷ

trung đoàn bộ binh vững mạnh, có PCLV phù hợp với cương vị, chức trách được

giao, tác giả nêu phương hướng, yêu cầu và đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu,

có tính khả thi. Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các

lực lượng trong xây dựng PCLV của chính ủy trung đoàn bộ binh giai đoạn hiện

nay; thứ hai, xác định nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp xây

dựng PCLV sát với chức trách, nhiệm vụ của chính ủy trung đoàn bộ binh, phù

hợp với thực tiễn đơn vị; thứ ba, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính

ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị cấp trên và của các tổ chức, các lực lượng ở

đơn vị trong xây dựng PCLV của chính ủy trung đoàn bộ binh; thứ tư, nâng cao

chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chính ủy trung đoàn ở Học viện Chính trị Quân sự

bảo đảm vừa đáp ứng yêu cầu chuẩn chức danh, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng

PCLV của chính ủy sát với thực tiễn đơn vị; thứ năm, phát huy vai trò tích cực,

chủ động của chính ủy trung đoàn bộ binh trong tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn do Phạm

Ngọc Anh (chủ biên) [1]. Tác giả khẳng định PCLV Hồ Chí Minh là một nét đặc

sắc tạo nên nhân cách Hồ Chí Minh - mẫu mực của một lãnh tụ chính trị và nhà

15

khoa học chân chính, thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động

vì con người. Hệ thống PCLV của Hồ Chí Minh bao gồm: PCLV quần chúng; tập

thể - dân chủ; khoa học; thiết thực, cụ thể; nêu gương; là giá trị bền vững, ổn định,

đi sâu vào đời sống, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, giúp định hướng cho việc

xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên qua các giai đoạn. Tác giả đã đề xuất hệ

thống giải pháp cơ bản để học tập và làm theo PCLV Hồ Chí Minh của cán bộ,

đảng viên, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên giữ vai trò lãnh đạo chủ chốt trong

các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc PCLV

Hồ Chí Minh về nội dung và giá trị lý luận, thực tiễn, là tài liệu tác giả có thể tham

khảo, kế thừa khi nghiên cứu viết luận án.

Hội thảo khoa học Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác

phẩm “Sửa đổi lối làm việc” tinh hoa văn hoá Việt Nam [62] do Học viện Chính trị

- Bộ Quốc phòng chủ trì đã làm rõ nội dung, giá trị, sự kết tinh văn hoá Việt Nam

của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm

việc”. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, biện pháp đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Quân đội nhân dân Việt

Nam. PCLV Hồ Chí Minh được phản ánh trên nhiều khía cạnh như: PCLV quần

chúng, phong cách lãnh đạo dân chủ, phong cách nói đi đôi với làm, tự mình nêu

gương. Cuốn sách giúp tác giả luận án có cách tiếp cận nhiều chiều về giá trị to lớn

của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là nguồn tư liệu luận án có thể kế thừa.

Ngoài ra, trên nhiều tạp chí khoa học có nhiều bài viết nghiên cứu PCLV Hồ

Chí Minh, như: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tác

phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới [34] của Bùi

Tiến Dũng; Học tập Bác Hồ về PCLV: dân chủ, khiêm tốn, thiết thực, đến nơi đến

chốn [103] của Trần Đình Quảng; Xây dựng PCLV cho cán bộ, đảng viên hiện nay

theo tấm gương Hồ Chí Minh [101] của Bùi Đình Phong; Học tập và làm theo cách

làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [124] của các tác giả Lê Văn Yên - Trần Đình

Thắng; PCLV của Chủ tịch Hồ Chí Minh [81] của Nguyễn Anh Minh; Sự kết tinh

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người [8] của

16

Hoàng Chí Bảo; Học tập PCLV Hồ Chí Minh [109] của Minh Sơn; Về phong cách

lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý [54] của Phạm Văn Định; Lề lối, phong cách

làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng [67] của Đoàn Minh Huấn.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng phong cách

làm việc Hồ Chí Minh của cán bộ Công an nhân dân nói chung và cán bộ,

giảng viên các Học viện Công an nhân dân nói riêng

Cuốn Công an nhân dân thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [11] Bộ Công an và Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp nghiên cứu đã phân tích, đánh giá tư cách của

người công an cách mạng được thể hiện qua: tính khoa học, tính cách mạng, tính

quần chúng... Cuốn sách là tài liệu quan trọng để nghiên cứu, học tập, chỉnh đốn tác

phong công tác và huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng CAND theo tư

tưởng Hồ Chí Minh.

Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Công an) Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, của tác giả Nguyễn Bình Ban (chủ nhiệm) [3] xác định vai

trò quan trọng của phong cách, lề lối làm việc của người cán bộ CAND: “Kết quả

thực hiện nhiệm vụ chính trị phụ thuộc vào phong cách, lề lối, tác phong làm

việc khoa học, đúng đắn của mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an, nhất là ở địa bàn cơ

sở [3, tr.52]. PCLV của cán bộ CAND theo quan điểm Hồ Chí Minh được tác giả

phân tích trên các phương diện: tác phong làm việc dân chủ, khoa học; lý luận gắn

liền với thực tiễn; sâu sát, thiết thực và gắn bó mật thiết với nhân dân. Vận dụng

quan điểm của Hồ Chí Minh, PCLV của cán bộ, chiến sỹ CAND thể hiện công tác

tổ chức, chỉ đạo công việc, trong hoạt động chuyên môn và tác phong sinh hoạt

hàng ngày.

Tác giả Trần Quang Tám tổng hợp các công trình nghiên cứu của nhiều tác

giả phục vụ cho nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

gắn với công tác xây dựng lực lượng CAND vào cuốn Đạo đức, phong cách Hồ

17

Chí Minh và những bài học đối với cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân [110]. Mỗi

bài viết đề cập một nội dung cụ thể và đúc kết những bài học thiết thực để cán bộ,

chiến sỹ CAND nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn. Xây dựng PCLV của cán bộ,

chiến sỹ theo tư tưởng và tấm gương phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung

quan trọng của nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND chính quy, trong sạch, vững

mạnh. Tác giả nêu: “học tập và làm theo PCLV của Người, mỗi cán bộ, chiến sỹ

CAND cần không ngừng phấn đấu, rèn luyện theo lý tưởng cách mạng vì nước

quên thân, vì dân phục vụ” [110, tr.17], đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình

mới. Trên cơ sở đánh giá các mặt hoạt động trên các lĩnh vực của cán bộ, chiến sỹ

CAND, các tác giả đề xuất phương hướng, nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả việc học

tập và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sỹ CAND.

Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân [74] của Tô Lâm.

nghiên cứu nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng CAND. Từ

quan điểm của Hồ Chí Minh coi đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự là vấn đề chính

trị quan trọng, có quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, sự mất còn của

dân tộc, gắn liền với đường lối chính trị của Đảng. Vì vậy, “để thực hiện trọng

trách đó, CAND nhất định phải tạo lập được phong cách riêng của mình” [74,

tr.142]. Tác giả quan niệm hệ thống phong cách Hồ Chí Minh bao gồm nhiều mặt,

từ suy nghĩ đến các hoạt động thực tiễn tới sinh hoạt hàng ngày. Xây dựng phong

cách của CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào những nội dung:

Xây dựng phong cách tư duy, PCLV và phong cách sống. Trong đó, xây dựng

PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sỹ CAND cần đảm bảo những nội dung:

phong cách quần chúng; PCLV tập thể và dân chủ và PCLV khoa học.

Cùng tác giả Tô Lâm có cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác

cán bộ CAND [73], phân tích có hệ thống nội dung và giá trị, ý nghĩa to lớn của tư

tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ CAND. Một trong những nội

dung quan trọng Hồ Chí Minh yêu cầu đối với mỗi người cán bộ cần phải có là

phong cách quần chúng, tác giả viết: “PCLV quần chúng là biểu hiện quan trọng

nhất của phương pháp làm việc xã hội chủ nghĩa, đối lập với lề lối làm việc quan

18

liêu, hống hách, cửa quyền của bọn quan lại cai trị dưới chế độ cũ” [73, tr.121]. Tác

giả nêu những yêu cầu về PCLV quần chúng đối với người cán bộ CAND: Một là,

cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, phải gần gũi quần chúng; bằng

hành động thiết thực của mình làm cho dân tin, dân quý, dân ủng hộ, dân giúp đỡ

hoàn thành tốt nhiệm vụ; phải dựa vào dân, lắng nghe ý kiến của dân; hai là, luôn

gương mẫu trong công tác học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Cuốn

sách là tài liệu để tác giả tham khảo khi nghiên cứu PCLV quần chúng của Hồ Chí

Minh và vận dụng trong lực lượng CAND.

Hội thảo khoa học - thực tiễn cấp quốc gia “70 năm Công an nhân dân học

tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” [27], tập hợp các bài viết của các nhà lãnh đạo,

nhà khoa học, chuyên gia của Đảng, Nhà nước, tập trung đánh giá, phân tích, làm rõ

những vấn đề lớn về giá trị lịch sử, khoa học, cách mạng, giá trị nhân văn và thời

đại “Sáu điều Bác Hồ dạy CAND” của Hồ Chí Minh. Các tác giả đều nhất quán

quan điểm: để xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân tin cậy giao phó; xây dựng

phong cách người công an cách mạng, bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ theo

lời dạy của Bác Hồ yêu cầu mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND phải thường xuyên tu

dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, trong đó, “việc chấn chỉnh phong cách, đổi mới lề lối

làm việc, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật” [27, tr.42] được xem là

một trong những yếu tố then chốt.

Công trình Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm “Tư cách người công

an cách mệnh” của Hồ Chí Minh [75] do Tô Lâm (chủ biên) đánh giá tác phẩm “Tư

cách người công an cách mệnh” là chuẩn mực về công tác xây dựng, giáo dục, rèn

luyện CAND. Từ việc khái quát chặng đường 70 năm nghiên cứu, học tập, thực

hành “Tư cách người công an cách mệnh” của lực lượng CAND, tác giả nêu những

chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào CAND học tập,

thực hành “Tư cách người công an cách mệnh” trong tình hình hiện nay, trong đó,

xây dựng phong cách, hoàn thiện phong cách ứng xử là điểm gốc. Tác phẩm “Tư

cách người công an cách mệnh” của Hồ Chí Minh là những chỉ dẫn quý báu đối với

19

việc hình thành phong cách, tác phong trong công việc, cách ứng xử của người cán

bộ, chiến sỹ CAND:

Trong ứng xử với công việc luôn tận tuỵ, toàn tâm, toàn ý, cần mẫn,

chăm chỉ; làm việc khoa học, có trách nhiệm, cẩn trọng, đi sâu, xét kỹ;

thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ bí mật nhà

nước, bí mật nghiệp vụ, quy chế làm việc, quy trình công tác [75, tr.134].

Trên các tạp chí khoa học cũng có nhiều bài viết nghiên cứu phong cách Hồ

Chí Minh và vận dụng trong CAND tiêu biểu như: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh

về Công an nhân dân của Nguyễn Bình Ban [4]; Xây dựng bản lĩnh chính trị của

người cán bộ an ninh theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của Trịnh Lương Hy [68]; Xây dựng phong cách người công an bản lĩnh,

nhân văn, vì nhân dân phục vụ theo lời dạy của Bác Hồ [9] của tác giả Hoàng Chí

Bảo; Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả phong trào “Công an nhân dân học tập,

thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” của Nguyễn Văn Thành [112].

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo dục, đào tạo trong

CAND, trong đó có nội dung xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, giảng viên các

Học viện, trường CAND có thể kể đến các công trình sau:

Tác giả Cấn Văn Chúc, trong nghiên cứu Các giải pháp xây dựng, nâng cao

chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các trường CAND đến năm

2015 và hướng tới năm 2020 [30] phân tích làm rõ thực trạng công tác của hai đối

tượng chủ chốt trong các nhà trường CAND là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, công bằng. Từ thực trạng, công

trình nghiên cứu đã đề cập đến những dự báo khoa học về sự phát triển của đội ngũ

nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường CAND đến năm 2015,

tầm nhìn đến năm 2020, từ đó, đề xuất các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng

của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các trường CAND. Đây là tài liệu tác

giả có thể tham khảo khi nghiên cứu về đặc điểm hoạt động, thực trạng công tác của

đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường CAND nói

chung và các Học viện CAND nói riêng.

20

Luận án Tiến sỹ Khoa học Giáo dục Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên

các trường đại học Công an nhân dân của Võ Thành Đạt [53] thể hiện rõ cơ sở lý

luận về quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại học CAND. Tác giả nêu: Để thực

hiện đổi mới cơ bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, góp phần

bảo đảm tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ CAND trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vấn đề cấp

thiết là xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường CAND. Đội

ngũ này cần đủ yêu cầu về số lượng, bảo đảm về chất lượng và hợp lý về cơ cấu,

đáp ứng với mục tiêu, nhiệm vụ của các chương trình, đề án của Nhà nước về giáo

dục đào tạo. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đưa ra hệ thống giải pháp quản

lý đội ngũ giảng viên các trường đại học CAND trong tình hình mới.

Bài viết Công tác giáo dục đào tạo trong CAND trước yêu cầu, nhiệm vụ

mới [113] của Nguyễn Văn Thành. Cùng những kết quả tích cực, tác giả phân tích

những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác giáo dục, đào tạo

trong CAND, tới các mặt, lĩnh vực của công tác công an. Trên cơ sở thấm nhuần tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của Đảng và của ngành về giáo dục, đào

tạo, tác giả đề xuất những giải pháp, trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên

về phẩm chất, phong cách, năng lực được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm

nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo trong CAND. Tác giả nêu:

Xây dựng đội ngũ giáo viên các học viện, trường CAND không chỉ là

những nhà giáo mẫu mực, nhà khoa học có uy tín, tấm gương sáng về

đạo đức, trí tuệ, nhân cách, về sự trung thành mà còn là những nhà hoạt

động thực tiễn giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác công an, có

những đóng góp nhiều hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo của

Đảng, Nhà nước và của lực lượng CAND [113, tr.12].

Nghiên cứu về cán bộ, giảng viên các nhà trường CAND, trong đó có đề cập

đến xây dựng phong cách của cán bộ, giảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cũng là

nội dung của một số bài viết trên các tạp chí khoa học như: Phát huy truyền thống

40 năm đào tạo đại học công an, phấn đấu xây dựng lực lượng CAND xứng đáng

21

với niềm tin của Đảng và nhân dân của Nguyễn Tấn Dũng [33], Nâng cao chất

lượng đào tạo đại học của Học viện An ninh nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

của công tác công an trong tình hình mới của Nguyễn Khánh Toàn [119], Bồi

dưỡng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tại các cơ sở đào

tạo hiện nay [59] của Nguyễn Thanh Hà, Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên

nghiệp vụ CAND đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của Nguyễn Văn

Ngọc [98]. Các tác giả đều thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, ngành và lãnh đạo

các Học viện CAND về vị trí, vai trò và định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng

viên trong các nhà trường CAND nói chung ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu,

nhiệm vụ của công tác giáo dục, đào tạo trong tình hình hiện nay.

Như vậy, những công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng PCLV Hồ

Chí Minh trong CAND đã được các tác giả đề cập trong tổng thể của công tác xây

dựng lực lượng CAND vững mạnh và vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo

đại học trong CAND. Tuy nhiên, nghiên cứu PCLV và nhiệm vụ xây dựng PCLV

của cán bộ, giảng viên trong nhà trường CAND nói chung và các Học viện CAND

chưa được đặt ra và nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu xây dựng PCLV cho cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cần

thiết trong tình hình hiện nay.

1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN

ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT

1.2.1. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Xây dựng phong cách làm

việc Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân hiện nay”

đã nghiên cứu những vấn đề sau đây:

Thứ nhất, các kết quả nghiên cứu về hệ thống phong cách và PCLV Hồ Chí

Minh và vận dụng xây dựng PCLV của cán bộ

Các công trình nghiên cứu về phong cách Hồ Chí Minh rất đa dạng, phong

phú, ở nhiều loại hình như: sách, đề tài khoa học, luận án và đã phân tích, làm rõ

khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ bản của hệ thống phong cách Hồ Chí Minh. Điểm

22

chung của các công trình là các tác giả đều khái quát được đặc điểm cơ bản của

phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống bao

gồm: phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, PCLV, phong cách ứng xử, phong

cách sinh hoạt và chỉ ra giá trị to lớn của phong cách Hồ Chí Minh đối với việc hoàn

thiện phong cách của mỗi người. Trong hệ thống phong cách đó, PCLV của Hồ Chí

Minh là điểm nổi bật, đã được nhiều công trình nghiên cứu hệ thống hoá, khái quát

nội dung, xác định giá trị to lớn đối với việc xây dựng, rèn luyện PCLV của đội ngũ

cán bộ, đảng viên hiện nay. Các công trình nghiên cứu sâu sắc thực trạng PCLV của

đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, từ đó làm cơ sở đề xuất phương hướng, giải

pháp cụ thể nhằm xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên hiện nay theo phong cách

Hồ Chí Minh, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập nội dung phong

cách, PCLV của Hồ Chí Minh và vận dụng trong xây dựng, hoàn thiện phong cách,

PCLV của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên

cứu một cách chiều sâu, mang tính hệ thống trong việc nâng cao PCLV của đội ngũ

cán bộ, giảng viên trong các nhà trường nói chung và nhà trường CAND nói riêng.

Thứ hai, các kết quả nghiên cứu về PCLV Hồ Chí Minh vận dụng trong lực

lượng CAND

Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND, về vai trò của

việc học tập, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh để hoàn thiện phong cách

người cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng CAND rất phong phú. Tuy nhiên, cho đến

nay chưa có một công trình nào nghiên cứu và đưa ra được những giải pháp cụ thể,

thiết thực trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng CAND

nói chung và cán bộ, giảng viên các Học viện CAND nói riêng theo phong cách Hồ

Chí Minh, các nghiên cứu chủ yếu dừng lại ở việc đưa ra những giải pháp tổng thể

nhằm xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh.

Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên

các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh - đề tài mà tác giả

nghiên cứu chính là muốn góp một phần vào việc bổ sung những kết quả của các

23

công trình trước đó. Đề tài sẽ là công trình có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện

nay về vận dụng PCLV Hồ Chí Minh.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận án sẽ

tiếp tục nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, phân tích các khái niệm công cụ chủ yếu phục vụ nghiên cứu đề

tài, hệ thống hoá những vấn đề về PCLV Hồ Chí Minh như: đặc trưng và nội dung

cơ bản, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh.

Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh, làm rõ những mặt tích

cực, mặt hạn chế, nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra.

Thứ ba, trình bày nội dung và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây

dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách

Hồ Chí Minh.

Tiểu kết chương 1

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một nội dung, bộ phận quan trọng hợp

thành hệ thống chỉnh thể phong cách của Người. PCLV Hồ Chí Minh là lề lối, cung

cách, cách thức làm việc có tính khoa học, mang đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh,

được thể hiện chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện

mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.

Quá trình nghiên cứu cho thấy, hệ thống tư tưởng, tấm gương đạo đức và

phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã được nhiều nhà khoa học trong và

ngoài nước quan tâm. Các công trình của các tác giả nước ngoài chủ yếu phản ánh

phong cách Hồ Chí Minh qua tổng thể cuộc đời hoạt động cách mạng, tấm gương

đạo đức của Người. Ở trong nước, nghiên cứu phong cách, PCLV Hồ Chí Minh và

vận dụng xây dựng PCLV Hồ Chí Minh là đề tài đã được các nhà nghiên cứu đề

cập phong phú, đa dạng dưới các góc độ khác nhau, tùy theo những mục đích xác

24

định và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy vậy, các tác giả chủ yếu nghiên

cứu phong cách và PCLV Hồ Chí Minh và vận dụng xây dựng PCLV của đội ngũ

cán bộ, đảng viên. Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách

hệ thống, toàn diện về vấn đề xây dựng PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sỹ

trong lực lượng CAND nói chung và cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND

nói riêng.

Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công trình

nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là nguồn tư

liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ nhiệm vụ

nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.

25

Chương 2

PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH -

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

2.1.1. Khái niệm “Phong cách”

Phong cách là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh - stylus, tiếng Hy Lạp -

stylos và trong lịch sử tư tưởng phương Đông và phương Tây, khái niệm “Phong

cách” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận.

Ở phương Tây, khái niệm phong cách để chỉ những đặc điểm có tính chất hệ

thống về tư tưởng và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ ổn định về nội dung và

hình thức thể hiện, tạo nên những giá trị độc đáo của một nghệ sỹ. Do đó, phong

cách không phải là hiện tượng phổ biến, mà là hiện tượng cá biệt, chỉ những nghệ

sỹ lớn, những tài năng lớn mới có phong cách. Với cách diễn đạt trên, phong cách

được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.

Trong “Từ điển tiếng Việt”, khái niệm “phong cách” được hiểu theo ba nghĩa:

1. Là cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự, tạo nên cái riêng

của một người hay một lớp người nào đó; 2. Những đặc điểm có tính

chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của một

nghệ sỹ hay trong sáng tác thuộc cùng một thể loại nói chung; 3. Dạng

của ngôn ngữ được sử dụng trong những yêu cầu chức năng điển hình

nào đó, khác với những dạng khác về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ

âm [99, tr.1032].

Trong ba nghĩa trên, nghĩa đầu tiên là hiểu theo nghĩa rộng, hai nghĩa sau là

nghĩa hẹp, thể hiện những biểu hiện thường có trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

Bàn về phong cách, tác giả Đặng Xuân Kỳ trong cuốn “Phương pháp và

phong cách Hồ Chí Minh” nhận định:

Phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và

phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc một lớp

người, được thể hiện trong tất cả mặt hoạt động như lao động, học tập,

26

sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết) tạo nên những giá trị, nét riêng

biệt của chủ thể đó [70, tr.130-131].

Tác giả Bùi Đình Phong trong cuốn “Đạo đức là cái gốc của người cách

mạng” nêu quan điểm: “Phong cách được hiểu là cái đặc sắc, độc đáo, riêng có của

chủ thể; là sáng tạo thật sự tự nhiên, không giả tạo, đích thực là chân - thiện - mỹ;

phong cách chính là con người, là văn hoá làm người, đạo làm người, trải nghiệm

cả cuộc đời” [102, tr.178].

Nghiên cứu các khái niệm “phong cách” trên, ta thấy có sự tương đồng trong

quan điểm của các nhà nghiên cứu. Tuy cách diễn đạt có sự khác nhau nhưng đa số

đều khẳng định phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, mang đặc

trưng riêng có của chủ thể, có tính hệ thống, nền nếp ổn định, được thể hiện trong

mọi mặt của cuộc sống. Phong cách phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phẩm chất

chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, khí chất, dấu ấn của cá nhân; vị trí, chức năng,

nhiệm vụ; điều kiện làm việc sinh hoạt; sự giáo dục rèn luyện của mỗi cá nhân;

phong cách liên quan đến đạo đức, những phẩm chất đạo đức đó được nhận thức và

thể hiện ra trong hoạt động sống của cá nhân.

Như vậy, phong cách là cách thức, lề lối, phong thái đã trở thành nền nếp ổn

định, được thể hiện trong tất cả các mặt của cuộc sống và tạo nên cái riêng, độc

đáo, mang đặc trưng của chủ thể.

Từ cách tiếp cận trên, có thể rút ra một số đặc điểm của phong cách:

Thứ nhất, phong cách được hình thành từ quá trình rèn luyện, tu dưỡng, phấn

đấu, học hỏi không ngừng của chủ thể.

Thứ hai, phong cách có sự chi phối, ảnh hưởng bởi điều kiện, hoàn cảnh, lối

sống, thói quen, truyền thống văn hoá.

Thứ ba, phong cách có có liên hệ mật thiết, chặt chẽ với phương pháp và

đạo đức, qua phong cách có thể đánh giá được nhân cách, phẩm chất đạo đức của

một người.

2.1.2. Khái niệm “Phong cách Hồ Chí Minh”

Trước Đại hội VII (6/1991), Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để

nói về “tác phong Hồ Chủ tịch”. Tuy nhiên, “tác phong” có hàm nghĩa hẹp, mới chỉ

27

nói lên một mặt là “phong cách làm việc, phong cách công tác” của Người, trong

đó, ngoài công tác, phong cách của Hồ Chí Minh còn được biểu hiện phong phú ở

nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Vì vậy, từ Đại hội VII, khái niệm “tác phong”

đã được Đảng ta thay bằng “phong cách” trong quan điểm: “Tiếp tục bồi dưỡng cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” [41, tr.120]. Từ đây, cụm từ “tư

tưởng, đạo đức, phong cách” Hồ Chí Minh thường gắn liền với nhau, thể hiện

những đặc trưng phong phú trong toàn bộ cuộc sống và quá trình hoạt động cách

mạng của Người.

Nghiên cứu khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh” nhiều nhà khoa học đã thể

hiện quan điểm của mình:

Tác giả Phạm Ngọc Anh trong cuốn “PCLV Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và

thực tiễn” khẳng định: “Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng

giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và

hoạt động của Người… là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm phong cách tư duy,

PCLV, phong cách ứng xử, phong cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt” [1, tr.11]

Theo Tài liệu nghiên cứu phục vụ triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW

của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương, phong cách Hồ Chí Minh là: “Đặc

trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức… thể

hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể

nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ” [5, tr.88-89].

Tác giả Mạch Quang Thắng trong cuốn sách “Hồ Chí Minh - Đồng hành

cùng dân tộc” có quan niệm về phong cách Hồ Chí Minh rất ngắn gọn, súc tích:

“Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc điểm riêng có, cái độc đáo, có tính hệ

thống, trở thành nền nếp ổn định được phản ánh trong toàn bộ cuộc sống của Hồ

Chí Minh” [115, tr.82].

Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong một hệ thống, là sự tổng hợp

của nhiều yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển theo lôgic đi từ suy nghĩ

28

(phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua PCLV,

phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt hàng ngày. Năm mặt chủ yếu này tạo

thành hệ thống phong cách, thể hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống và hoạt

động cách mạng của Hồ Chí Minh. Là phong cách rất mẫu mực của người cách

mạng, người cán bộ, đảng viên, gắn bó mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương

pháp cách mạng.

Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể bao gồm:

phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử,

phong cách sinh hoạt, là những đặc trưng giá trị thể hiện trong toàn bộ cuộc sống

và hoạt động của Hồ Chí Minh, mang đậm tính dân tộc, hiện đại, thiết thực.

Đặc trưng của phong cách Hồ Chí Minh:

Thứ nhất, phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận không thể tách rời trong

di sản tư tưởng, đạo đức của Người;

Thứ hai, phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của nhiều yếu tố gắn bó

chặt chẽ với nhau, bắt đầu từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn

(PCLV, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử), và sinh hoạt thường ngày (phong

cách sinh hoạt).

2.1.3. Khái niệm “Phong cách làm việc Hồ Chí Minh”

Tác giả Phạm Ngọc Anh trong cuốn sách “PCLV Hồ Chí Minh - Giá trị lý

luận và thực tiễn” nêu quan điểm: “PCLV Hồ Chí Minh, nói ngắn gọn đó là cách

thức hoạt động, rõ nhất là trong lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh” [1, tr.12].

Tác giả Nguyễn Văn Thế có quan niệm: “PCLV của Hồ Chí Minh là lề lối,

cung cách, cách thức làm việc của người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó

là cấp dưới, là quần chúng nhân dân” [117].

Trong chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh năm 2018 - Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu,

của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương diễn đạt PCLV Hồ Chí Minh là:

29

Lề lối, cung cách, cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học,

nêu gương, thể hiện trong hoạt động lãnh đạo của Người với những đặc

điểm quan trọng như: phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo

dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng

tạo [6, tr.2].

Nghiên cứu quan điểm của các nhà khoa học và thông qua tìm hiểu thực tiễn

cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của Người, có thể nhận thấy PCLV Hồ Chí

Minh là tổng thể những đặc trưng, đặc điểm nổi bật, có tính hệ thống, thường xuyên

lặp đi lặp lại, tương đối ổn định, bền vững, có tính quy luật, hệ thống hợp logic của

những cách thức làm việc, cách thức thực hiện công việc cụ thể hàng ngày của

Người, chủ yếu là trong phong cách lãnh đạo, quản lý với những nội dung cơ bản

như sau: PCLV dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, cách mạng, khoa

học, năng động, sáng tạo.

Từ những cơ sở trên, có thể xác định: Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là

một chỉnh thể bao gồm phương pháp, cách thức, lề lối làm việc có tính khoa học, hệ

thống, được thể hiện chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh

nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.

2.1.4. Khái niệm “xây dựng phong cách làm việc”

Theo “Từ điển Tiếng Việt”, khái niệm “xây dựng” được hiểu với những nghĩa:

1. Làm nên công trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định;

2. Làm cho hình thành một chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá

theo một phương hướng nhất định;

3. Tạo ra, sáng tạo cái có giá trị tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng;

4. Xây dựng gia đình [99, tr.1500].

Như vậy, có thể hiểu nghĩa chung nhất của từ “xây dựng” là: Làm nên, hình

thành nên, tạo ra một sự vật, một tổ chức, một vấn đề nào đó. Xây dựng PCLV

được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện

PCLV của chủ thể.

Khái niệm xây dựng PCLV là: Tổng thể các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng,

giáo dục, rèn luyện của lãnh đạo các cấp, cơ quan chức năng, các tổ chức và chủ

30

thể một cách hệ thống, kế hoạch, hướng vào việc hình thành cho chủ thể có PCLV

khoa học, cách mạng để luôn hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ.

Mục đích xây dựng: Xây dựng PCLV nhằm bổ sung, phát triển và hoàn thiện

PCLV của chủ thể, bảo đảm cho họ có PCLV khoa học, dân chủ, quần chúng, nêu

gương, phù hợp với vị trí, vai trò của người cán bộ.

Chủ thể xây dựng: Xây dựng PCLV là công việc thể hiện vai trò của cấp uỷ,

tổ chức đảng; hệ thống lãnh đạo các cấp và bản thân mỗi cán bộ.

Phương pháp xây dựng: Xây dựng PCLV được thực hiện bằng nhiều

phương pháp đa dạng: Giáo dục, tuyên truyền; đào tạo, bồi dưỡng, quá trình tu

dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi chủ thể.

2.1.5. Khái niệm “Cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân”

Sinh thời, Hồ Chí Minh đánh giá vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ cán bộ

đối với sự nghiệp cách mạng và Người có những cách diễn đạt khác nhau về cán bộ

như: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [86, tr.309]; “Cán bộ là đày tớ của nhân

dân” [93, tr.211]; “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể” [87, tr.356]; “Cán bộ là cái dây

chuyền của bộ máy” [86, tr.68].

Theo “Từ điển Tiếng Việt”, cán bộ là: Người làm việc trong cơ quan, đoàn

thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo, quản lý, hoặc một công tác nghiệp vụ

chuyên môn nhất định” [99, tr.153]

Trong “Luật cán bộ, công chức” (Ban hành 13/11/2008) nêu rõ:

Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ

chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp

huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [104, tr.8].

Như vậy, cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ lãnh đạo, quản lý,

chỉ huy được bầu, bổ nhiệm hoặc những người có chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt

động trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau, giữ trọng trách trong một tổ chức, cơ

31

quan, đơn vị, có tác động, ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của tổ chức, cơ

quan, đơn vị đó.

Công an nhân dân là một tổ chức chính trị, công cụ bảo vệ Đảng, Nhà nước

xã hội chủ nghĩa và nhân dân. Để có quan niệm đúng đắn và đầy đủ về cán bộ trong

các Học viện CAND phải trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về cán bộ thuộc lực

lượng CAND. Cán bộ CAND là một bộ phận cán bộ của Đảng, vừa đảm bảo tiêu

chuẩn, điều kiện chung, vừa có những yêu cầu riêng về phẩm chất, năng lực,

phương pháp, tác phong phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tính chất, đặc điểm

nghiệp vụ của lực lượng CAND. Cán bộ trong các Học viện CAND bao gồm cán

bộ quản lý giáo dục và cán bộ khác (tham mưu, hậu cần, tài chính, kỹ thuật) được

hình thành và tổ chức theo yêu cầu, nhiệm vụ của các Học viện CAND.

“Luật Giáo dục” tại chương 4 khoản 3, Điều 70 nêu: “Nhà giáo giảng dạy ở

cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [105], Điều 72 cũng quy định nhiệm vụ

của giảng viên: “Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện

đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục” [105].

Trong hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục Đại học và sau

đại học nêu: Nhiệm vụ của giảng viên là giảng dạy và nghiên cứu khoa học; học

tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ; giữ gìn

phẩm chất, uy tín, danh dự của người giảng viên; tôn trọng nhân cách của người

học, đối xử công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học; tham gia các

hoạt động, tổ chức xã hội; ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học đối với

các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định; được bổ

nhiệm chức danh, danh hiệu nhà giáo, khen thưởng theo quy định của pháp luật.

Do đó, giảng viên là khái niệm chỉ những người làm công tác giảng dạy,

nghiên cứu khoa học trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng.

Các Học viện CAND là những cơ sở đào tạo thuộc Bộ Công an và nằm trong

hệ thống giáo dục quốc dân. Giảng viên các Học viện CAND là những cán bộ Công

an có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; có vai

trò quan trọng trong hoạt động giáo dục, đào tạo của Học viện, là người trực tiếp

32

thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và những công việc được giao,

có phương pháp làm việc khoa học và năng lực vận dụng lý luận vào công tác;

không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho sinh viên. Chức danh của giảng

viên trong hệ thống giáo dục đại học của CAND bao gồm: trợ giảng, giảng viên,

giảng viên chính, Phó giáo sư, Giáo sư.

Như vậy, từ những nhận thức trên, xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà

nước, Bộ công an về cán bộ và công tác cán bộ, có thể xác định: Cán bộ, giảng viên

các Học viện CAND là người công tác tại các Học viện CAND, giữ vai trò tổ chức,

quản lý, tham mưu, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thực hiện các nhiệm vụ phục

vụ cho giáo dục, đào tạo theo chức trách, nhiệm vụ được giao của mỗi cán bộ,

giảng viên trong Học viện.

2.2. ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo

V.I.Lênin khi nói về sự kết hợp nhuần nhuyễn tính nguyên tắc với sự linh

hoạt, sáng tạo trong việc đề ra sách lược cách mạng đã nhấn mạnh: “Tinh thần tuyệt

đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phải được kết hợp với nghệ thuật

biết thực hành tất cả những thoả hiệp cần thiết” [76, tr.100]. Còn trong quan điểm

và PCLV của Hồ Chí Minh, tính đảng, nguyên tắc, tính sáng tạo là hai mặt của một

chỉnh thể thống nhất không thể tách rời. Vào tháng 5/1946, khi vận mệnh dân tộc

đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trước lúc lên máy bay sang Pháp, Hồ

Chí Minh đã giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn: “Tôi

vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở

Cụ và anh em giải quyết cho. Mong cụ “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không

đổi đối phó với muôn sự thay đổi)” [63, tr.235]. Lời căn dặn của Hồ Chí Minh

chính là sự thể hiện sâu sắc của sự thống nhất giữa PCLV kiên định tính đảng,

nguyên tắc với sự năng động, sáng tạo, đổi mới của người cách mạng.

Tính đảng, tính nguyên tắc thể hiện ở việc Hồ Chí Minh luôn luôn giữ vững

lập trường, quan điểm, đường lối của Đảng; tôn trọng pháp luật, chấp hành nghiêm

33

túc, tự giác các nguyên tắc, chế độ kỷ luật, công tác, nghiêm khắc với bản thân, bảo

vệ chân lý, sự thật, phê phán đấu tranh cái sai. Người nói: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng

viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng

không làm nên” [86, tr.307]. PCLV ấy được xuất phát từ đường lối, quan điểm của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đặt lợi ích của Đảng, cách mạng và Tổ

quốc lên trên hết; quán triệt mục đích phục vụ nhân dân, kiên định phương hướng đi

lên chủ nghĩa xã hội.

Sự kiên định những nguyên tắc trong PCLV thể hiện sâu sắc trong nhận thức

và hoạt động của Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do

và hạnh phúc của nhân dân, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thay đổi, dù có

nhiều khó khăn, gian khổ và phải hy sinh cũng kiên quyết đấu tranh để giữ vững và

cũng là mong muốn tột bậc của Hồ Chí Minh trong cuộc đời cách mạng: Cái mà tôi

cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Tính

nguyên tắc trong PCLV Hồ Chí Minh hoàn toàn xa rời sự bảo thủ, trì trệ, giáo điều,

cứng nhắc mà trái lại, luôn đòi hỏi tính năng động, sáng tạo và đổi mới.

Tính sáng tạo trong PCLV của Hồ Chí Minh biểu hiện ở tính chủ động, sáng

tạo trong việc cụ thể hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho phù hợp

với địa phương, đơn vị, đồng thời có đổi mới nội dung, phương pháp công tác theo

hướng hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả công tác, nhạy bén với cái mới.

Đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh lâu dài, nguyên tắc bất biến. Việc lựa chọn con

đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bởi Hồ Chí Minh nhìn nhận

chủ nghĩa xã hội không chỉ là kết quả tất yếu do sự phát triển không ngừng của lực

lượng sản xuất, mà còn là con đường để giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội phát

triển cao và tốt đẹp hơn so với các chế độ xã hội trước. Đó là con đường đấu tranh

không mệt mỏi, đầy khó khăn, đòi hỏi trí tuệ và sự hy sinh, phấn đấu của nhiều

lớp người, nhiều thế hệ để đạt được mục tiêu. Trong thực tiễn cách mạng, có nhiều

sự biến đổi nhanh chóng, người cách mạng phải luôn vạn biến, sáng suốt, nhạy

bén để linh hoạt biến đổi sách lược, có hình thức, biện pháp đấu tranh thích hợp

34

với điều kiện lịch sử cụ thể. Với sự thông tuệ và trải nghiệm sâu sắc, Hồ Chí Minh

xác định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập,

dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh

hoạt” [87, tr.555], “cần nhận rõ tình thế để rồi tùy cơ ứng biến mà tiến chứ không

hàm hồ làm bừa một cách vô chính trị” [85, tr.244].

Năm 1945, đối diện với vô vàn khó khăn sau Cách mạng Tháng Tám do các

lực lượng thù trong, giặc ngoài cùng nhau tìm cách chống phá chính quyền cách

mạng non trẻ, Hồ Chí Minh sáng suốt cùng Trung ương Đảng chèo lái con thuyền

cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sự hiểm nguy, vững vàng tiến bước. Người nắm

vững mục tiêu bất biến là độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ở

từng thời điểm, với từng đối tượng lại có sự nhạy bén, năng động với những sách

lược nhằm phân hóa, cô lập, lợi dụng và loại dần từng kẻ thù. Cứng rắn trong

nguyên tắc, mềm dẻo trong sách lược và nhân nhượng khi cần thiết, nhưng nhân

nhượng không có nghĩa đầu hàng mà chỉ trong chừng mực nhất định và khi kẻ thù

càng lấn tới, chúng ta càng phải quyết giữ cho được nền độc lập dân tộc. Bằng

PCLV linh hoạt, sáng tạo và đổi mới, Hồ Chí Minh đã chứng minh chân lý: Làm

cách mạng không chỉ cần “đúng” mà còn phải “khéo”; không chỉ là lập trường,

quan điểm mà còn là nghệ thuật, mưu lược. Người đã kết hợp một cách hoàn hảo

mối quan hệ giữa hai vấn đề tưởng chừng đối lập: Tính kiên định về nguyên tắc, lý

tưởng, niềm tin và tính linh hoạt, năng động, uyển chuyển, đổi mới trong nhận thức

và hành động.

Vì vậy, sự thống nhất hài hoà giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sự sáng

tạo và đổi mới chính là đặc trưng quan trọng trong PCLV của Hồ Chí Minh.

2.2.2. Sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học

Nói về vai trò của cảm hứng, lòng nhiệt tình đối với sự thành công của việc

lớn, người xưa có câu: “Thiếu nhiệt hứng tất không thành đại sự”. PCLV Hồ Chí

Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn của lòng nhiệt tình cách mạng với tính khách

quan, khoa học, Người nói: “Phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất

cao” [89, tr.277].

35

Sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học trong PCLV

Hồ Chí Minh khiến Người luôn tìm tòi sáng tạo, đề xuất ý kiến hay, những cách

làm tốt, không nề hà gian khổ, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để hoàn

thành nhiệm vụ.

Nhiệt tình cách mạng là một yếu tố quan trọng trong phẩm chất của người

cán bộ để họ say mê, tận tuỵ, hết lòng với công việc, tìm tòi những phương án tốt

nhất nhằm thực hiện công việc. Nếu không có lòng nhiệt tình cách mạng, người cán

bộ sẽ hình thành tư tưởng trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, không hăng

hái, trì trệ trong công tác.

Mặt khác, nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đạt hiệu quả cao nhất khi có sự

kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học. Bởi Hồ Chí Minh nhận thức rằng, nếu chỉ có

nhiệt tình cách mạng mà thiếu tính khoa học, sự am hiểu công việc, tinh thông

nghiệp vụ theo cương vị được phụ trách sẽ dẫn tới làm sai đường lối, chính sách,

thậm chí có thể dẫn đến sự tổn thất cho cách mạng. Trước mỗi bước ngoặt, thử

thách khó khăn, trước nhiệm vụ nặng nề càng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo bình

tĩnh, sáng suốt gắn kết nhiệt huyết cách mạng với lý trí khoa học để đưa ra quyết

định chính xác, tối ưu và tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, triệt để, ít mắc phải

sai lầm nhất. Hồ Chí Minh dạy: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn

đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp,

chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy” [86, tr.279].

Người căn dặn: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ,

cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [91, tr.377]. Do

vậy, việc học tập và tự học tập để bổ sung kiến thức, kinh nghiệm của mỗi cán bộ là

rất cần thiết để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức: “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng

viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập

để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính trị của mình” [86, tr.293].

Phong cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất hài hòa với tư cách của nhà cách

mạng và nhà khoa học. Hồ Chí Minh là tấm gương của người cách mạng làm việc

tận tâm, tận lực, nhiệt tình cách mạng vì nước, vì dân.

36

2.2.3. Sự thống nhất giữa tinh thần dân chủ, tập thể với tính quyết đoán

Sự thống nhất hài hoà giữa PCLV dân chủ với tính quyết đoán của Hồ Chí

Minh cũng chính là việc thực hành nguyên tắc tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân

phụ trách trong Đảng.

PCLV dân chủ Hồ Chí Minh thể hiện ở việc luôn tôn trọng quyền làm chủ

của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, tin tưởng, quý trọng nhân dân vì

chế độ ta “dân là chủ”, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải

quyết mọi vấn đề.

Cách làm việc dân chủ tập thể của Hồ Chí Minh còn kết hợp nhuần nhuyễn

với tính quyết đoán, nâng cao trách nhiệm cá nhân trước tập thể; đưa ra những

quyết định đúng đắn trong những thời khắc quyết định, tranh thủ tối đa cơ hội, sự

thuận lợi trong từng giai đoạn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã dạy: “Làm việc phải

xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm” [83, tr.281]. Cán bộ nếu không

quyết đoán, không nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân sẽ làm giảm sút năng lực,

hiệu quả lãnh đạo, quản lý của cán bộ, cơ hội trôi qua, công việc cũng không thể

thành công và không hoàn thành trách nhiệm. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ lãnh

đạo cần có sự bản lĩnh, tính quyết đoán: “Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi

thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị

quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khan” [86, tr.315].

Hồ Chí Minh là hiện thân của người cách mạng có PCLV dân chủ nhưng

quyết đoán. Người luôn tôn trọng tập thể, biết tận dụng tối đa trí tuệ của tập thể,

lắng nghe, tiếp thu ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân, không thành kiến, dù

đó là ý kiến thiểu số. Hồ Chí Minh cũng là con người của lịch sử, dám quyết định

và dám chịu trách nhiệm trước những bước ngoặt của cách mạng. Khi có những

tình huống cần có sự quyết đoán mau lẹ thì Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần trách

nhiệm trước Tổ quốc để hành động.

Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng

cộng sản Việt Nam. Sau khi giành được độc lập dân tộc, trước tình thế ngàn cân

37

treo sợi tóc, thù trong giặc ngoài, để tránh sự khiêu khích của các thế lực phản động,

nhằm tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc. Đứng trước tình hình gay go và cấp bách

ấy, tháng 11/1945, Hồ Chí Minh đã tuyên bố “giải tán Đảng” (thực chất là đưa

Đảng rút vào hoạt động bí mật, nhằm tránh sự phá hoại của kẻ thù), vì: “Đảng

không thể do dự, do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng

những phương pháp - dù là phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế” [88, tr.27].

Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng, tay sai, Hồ Chí Minh và Hội đồng

Chính phủ đã bàn bạc và nhất trí để Nguyễn Hải Thần giữ chức Phó Chủ tịch của

Chính phủ, thừa nhận 70 ghế cho Việt Nam cách mệnh đồng minh hội và Việt Nam

Quốc dân Đảng trong Quốc hội không qua bầu cử. Khi quân đồng minh lợi dụng

Hiệp ước Potxdam tràn vào Việt Nam giải giáp quân Nhật, thực chất là tiêu diệt

Đảng và Chính phủ cách mạng, Hồ Chí Minh quyết định nhân nhượng táo bạo qua

sách lược “hòa với Tưởng”, “hòa với Pháp”. Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân viễn

chinh vào miền Nam, Người kiên quyết chủ trương giữ vững thế chiến lược tiến

công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược với tinh thần “Không có gì quý hơn

độc lập, tự do” [96, tr.131]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,

Hồ Chí Minh chỉ đạo tập trung thực hiện xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,

chấp nhận đa sở hữu, khuyến khích nhân dân vươn lên làm giàu chính đáng. Những

quyết định mang dấu ấn sâu đậm đó trong sự nghiệp cách mạng đã khẳng định vai

trò mở đường của Hồ Chí Minh. Đó là phong cách của người lãnh đạo, quản lý luôn

thống nhất giữa PCLV dân chủ, tập thể với đề cao tính quyết đoán, giải quyết hài

hòa mối quan hệ dân chủ với tập trung; kết hợp PCLV dân chủ, tập thể với dám thể

hiện vai trò cá nhân trong thực thi chức trách, nhiệm vụ.

2.2.4. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn

Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, lý luận gắn liền thực tiễn, tư tưởng,

phong cách, đạo đức thống nhất biện chứng với nhau. Theo Người, lý luận là: “sự

tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên

và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [92, tr.96] và thực tế là: “kinh nghiệm

38

công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm

lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và thế giới” [92, tr.96].

Mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn được Hồ Chí Minh diễn đạt

hết sức phong phú: “Lý luận liên hệ với thực tế” [96, tr.116], “Lý luận kết hợp với

thực hành” [92; tr.400], “Lý luận đi đôi với thực tiễn” [92, tr.611]. Như vậy, khi nói

“liên hệ”, “kết hợp”, “đi đôi” là nói tới sự khẳng định của Hồ Chí Minh về sự

“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác

-Lênin” [92, tr.95]. Sự gắn bó giữa lý luận và thực tiễn mang tính biện chứng, trong

đó thực tiễn phải có lý luận soi đường, hướng dẫn; còn lý luận phải dựa trên cơ sở

thực tiễn, phản ánh thực tiễn và luôn liên hệ với thực tiễn. Không có lý luận sẽ rơi

vào chủ nghĩa kinh nghiệm; thiếu thực tiễn sa vào chủ nghĩa giáo điều và suy cho

cùng, chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ nghĩa giáo điều đều là kết quả của sự chủ

quan, duy ý chí. Người nhấn mạnh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì

thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận

suông” [92, tr.95].

Để hình thành PCLV lý luận gắn với thực tiễn, Hồ Chí Minh khuyên mỗi

cán bộ phải nâng cao trình độ lý luận, khắc phục bệnh tuyệt đối hoá kinh nghiệm và

chủ nghĩa kinh nghiệm, không ngừng trau dồi lý luận, gắn việc học tập nghiên cứu

lý luận với công việc thực tế của mình, vì “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ

phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [86, tr.273].

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, đã có lý luận thì phải liên hệ chặt chẽ với thực

tiễn để tránh bệnh lý luận suông, giáo điều. Lý luận chỉ có ý nghĩa khi nó được vận

dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn trong vai trò dẫn đắt, chỉ đạo hoạt động thực

tiễn đi tới kết quả: “Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận

suông” [86, tr.274]. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một đặc trưng quan

trọng trong PCLV của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là biện pháp cơ bản để ngăn

ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong PCLV của cán bộ, đảng

viên trong mọi thời kỳ cách mạng.

Như vậy, PCLV Hồ Chí Minh có những đặc trưng chủ yếu là: Sự thống nhất

giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo, nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học,

39

tinh thần dân chủ tập thể với tính quyết đoán, sự thống nhất giữa lý luận với thực

tiễn. Mỗi đặc trưng trên đều phản ánh một khía cạnh riêng trong việc thực hiện và

giải quyết công việc của Người, đồng thời gắn bó chặt chẽ với nhau. Trước yêu cầu,

nhiệm vụ của cách mạng trong mọi giai đoạn, đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên

cần nghiên cứu, học tập và làm theo những đặc trưng trong PCLV của Người để có

thể hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân.

2.3. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH

2.3.1. Phong cách làm việc quần chúng

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là lề lối, cách thức làm việc của

người lãnh đạo mà đối tượng của sự lãnh đạo đó là cấp dưới, là quần chúng nhân

dân. Đây là nét độc đáo, đặc sắc riêng có của Hồ Chí Minh. Cách làm việc này xuất

phát từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân

lãnh tụ và quần chúng nhân dân, của tư tưởng trọng dân, thân dân trong nền văn hoá

truyền thống như: “Nước lấy dân làm gốc”, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ,

bền gốc” của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi. PCLV quần chúng Hồ Chí

Minh còn bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, họ vừa là lực

lượng sản xuất cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, đồng thời cũng là người

sáng tạo, lưu giữ những giá trị tinh thần.

Phong cách làm việc quần chúng Hồ Chí Minh thể hiện trên các khía cạnh

của phong cách sâu sát, vì lợi ích của quần chúng, đi đúng đường lối nhân dân của

những người cán bộ cách mạng. Cụ thể là:

2.3.1.1. Đặt lợi ích của dân lên trên hết

Hồ Chí Minh khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” và Người coi đó là

kim chỉ nam cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là

người đứng đầu. Người cán bộ đã coi trọng nhân dân thì phải biết hy sinh vì nhân

dân, chứ đánh giá cao nhân dân nhưng đến với nhân dân chỉ nghĩ đến lợi ích của cá

nhân mình, cục bộ, tự tư, tự lợi thì dân sẽ không nghe, cần phải: “Việc gì có lợi cho

dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh” [85, tr.51]. Phong

40

cách quần chúng ở Hồ Chí Minh được thể hiện: Người cán bộ phải được dân tin;

dân nghe, dân theo; dân sẵn sàng thực hiện, thực hành mọi chủ trương, đường lối

Đảng, Nhà nước.

Với quan điểm vì lợi ích của nhân dân: “Nếu nước độc lập mà dân không

hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [85, tr.64] nên ngay

trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh

đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước

mắt của nhân dân là chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ

thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đoàn kết. Ðể

cứu nhân dân khỏi nạn đói đang trầm trọng, Hồ Chí Minh đề nghị đồng bào cả

nước và Người đã gương mẫu thực hiện trước: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi

tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [85, tr.33].

Nhờ những biện pháp tích cực trên, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả

nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói. Phong trào tăng gia sản xuất

được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu tăng, nạn đói đã sớm được khắc

phục. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát động. Thực hiện lời

kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những

người chưa biết chữ. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi”

[85, tr.40-41], phong trào thanh toán nạn mù chữ đã dâng cao trong cả nước, chỉ

trong thời gian ngắn, hơn hai triệu người đã biết đọc, biết viết. Công tác văn hóa,

giáo dục, y tế cũng được quan tâm, tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được

khẳng định và phát huy.

Lòng yêu thương nhân dân, phấn đấu vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân

dân trong tư tưởng, tình cảm và phong cách của Hồ Chí Minh không chỉ là sự cảm

thông, chia sẻ với nỗi đau, sự nhọc nhằn của nhân dân lao động mà quan trọng

hơn, là thức tỉnh họ đứng lên đấu tranh cho cuộc sống hạnh phúc, ấm no của mỗi

người. Phong cách ấy của Hồ Chí Minh còn có giá trị cổ vũ nhân dân các dân tộc

trong cuộc đấu tranh chống nạn áp bức dân tộc, bất công xã hội, chống nghèo đói,

lạc hậu, dốt nát, hướng tới độc lập tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn

nhân loại.

41

Đối lập với PCLV luôn vì lợi ích của nhân dân là chủ nghĩa cá nhân, từ chủ

nghĩa cá nhân mà sinh ra tham lam, vi phạm đến quyền lợi, lợi ích của dân, mưu

“vinh thân, phì gia”, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ,

đảng viên và hệ thống chính trị. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải: “Đặt lợi ích của

cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết” [96, tr.547]

2.3.1.2. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân

Đánh giá vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh nói: “Có lực lượng dân chúng

việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng

không xong” [86, tr.335]. Bởi, “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt

thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại” [91, tr.63].

Để hình thành PCLV gắn bó chặt chẽ với nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu

cán bộ trong công tác phải thường xuyên tiếp xúc làm việc với nhân dân, nắm tâm

tư nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của họ. Đó là phong cách

người cán bộ cách mạng không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; đi sâu vào cơ

sở, liên hệ mật thiết với nhân dân để nắm bắt nguyện vọng, ý chí của nhân dân,

hướng dẫn, giúp họ thực hiện khát vọng, ý chí của mình. Sự gắn bó, liên hệ mật

thiết với nhân dân sẽ giúp người cán bộ được lòng dân, tích cực giúp đỡ cho công

tác của người cán bộ. Người lấy một thí dụ:

Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi

nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm

vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có

hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được.

Muốn được như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu

không thế thì sẽ thất bại [88, tr.270].

Phong cách làm việc liên hệ chặt chẽ với nhân dân để đạt hiệu quả cao thì

công tác dân vận phải được thực hiện tốt. Đó là kết quả của quá trình làm việc luôn

“óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, thật sự yêu dân, kính

dân, thương dân và hiểu dân, biết vận động nhân dân làm tốt những việc có lợi cho

cách mạng, “thật sự gần gũi nhân dân, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân

42

dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân” [93, tr.438]. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,

đảng viên phải chịu khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, xuống

cơ sở phải nắm tình hình, đưa ra được các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho địa

phương, cho các ngành. Phải nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, cả những ý

kiến trái chiều, cán bộ huyện thì “phải đi xuống xã mà xem xét, kiểm tra, chớ làm

theo lối quan liêu, tỉnh gửi giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã” [96, tr.280-281].

Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương điển hình về phong cách gần gũi, sâu

sát với nhân dân. Trong cuộc sống đời thường và quá trình hoạt động cách mạng,

Người thường đi thăm hỏi, gặp gỡ chiến sĩ và nhân dân các địa phương để tìm hiểu

tình hình và tâm tư, mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Từ sự hiểu biết thực

tiễn đời sống của nhân dân để hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước sao cho phù hợp. Ở Hồ Chí Minh, mọi hoạt động đều thể hiện tư tưởng

“Nước lấy dân làm gốc”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” [93, tr.672].

2.3.1.3. Việc gì cũng bàn với dân, giải thích cho dân hiểu rõ

Hồ Chí Minh nêu vấn đề: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân

dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm

trước nhân dân [86, tr.285].

Từ chỗ đánh giá cao vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách

nhiệm của Đảng, Nhà nước trong bất cứ việc gì cũng phải hỏi ý kiến và tìm hiểu

kinh nghiệm của dân: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng

thì không thể làm được… Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng

trở nên dễ dàng và làm được tốt” [96, tr.279]. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử,

là chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử, cá nhân dù có tài giỏi mấy cũng

không thay thế được nhân dân. Do đó, mọi chủ trương, chính sách đưa ra, nếu

không có sự bàn bạc, giải thích cho nhân dân, trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và lợi

ích của nhân dân, mà lại thi hành theo cách quan liêu, mệnh lệnh, ép nhân dân thực

hiện “thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt

chính trị, là thất bại” [86, tr.333]. Chính trị Hồ Chí Minh nói đến ở đây là lòng dân.

Suy giảm lòng tin, mất lòng tin của dân vào Đảng là mất tất cả.

43

Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng căn dặn, lắng nghe dân, bàn bạc với dân là

điều cần thiết, nhưng không “theo đuôi” dân, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng

cứ nhắm mắt theo” [86, tr.337] vì dân chúng trông thấy từ dưới lên, nên sự trông

thấy cũng có hạn. Nơi nào có quần chúng thì ở đó nhất định có 3 hạng người là:

hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém. Trong đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa,

nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn, “người lãnh đạo phải dùng

hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng

vừa vừa và kéo hạng kém tiến lên” [86, tr.329]. Người cán bộ cách mạng cần có bản

lĩnh, nghiệp vụ để nâng cao trình độ, sự giác ngộ của một bộ phận quần chúng

“chậm tiến” và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

2.3.1.4. Thường xuyên tự phê bình và hoan nghênh nhân dân phê bình

Kế thừa quan điểm của Lênin về những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới,

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng

viên và tạo điều kiện, cơ chế để nhân dân phê bình cán bộ, giúp cán bộ nhận thức,

sửa chữa những hạn chế, thiếu sót trong công tác. Đó cũng chính là quy luật phát

triển của Đảng - sự phát triển đó bao hàm tự chỉnh đốn và đổi mới.

Hồ Chí Minh nói: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”

nếu “không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được” [85,

tr.28] vì “Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình

cho tư tưởng và hành động đúng đắn” [88, tr.80]. Hồ Chí Minh quan niệm, trong

sinh hoạt và trong công tác, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, cái hay và cái dở,

cái thiện và cái ác, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Để làm tốt việc tự phê bình, Hồ Chí

Minh nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải có thái độ thành khẩn, phải trung thực

và kiên quyết, xuất phát từ cái tâm trong sáng của mỗi người, phải thật thà, không

che giấu khuyết điểm của mình, không quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm,

đó là điều bất bình thường. Chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì mỗi

cán bộ, đảng viên mới nhận rõ: ta và địch, cái ưu và cái khuyết, cái đúng và cái

sai, cái tốt và cái xấu. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự

44

phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng

phát triển” [86, tr.307].

Muốn phê bình đúng, trước hết phải xác định đúng mục đích và đối tượng

phê bình: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để

sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”

[86, tr.272]. Cách phê bình phải thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan, thái độ

phê bình có văn hóa, mang tính xây dựng; tuyệt đối không được “phùng mang trợn

mắt” làm thui chột tinh thần của cán bộ, nhân dân. Tránh tuyệt đối hiện tượng lợi

dụng phê bình để công kích, nói xấu, hạ bệ nhau, Hồ Chí Minh nói: “Không phải vì

Ðảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi

bướng, trả thù, tiểu khí” [86, tr.298]. Phê bình việc làm hay những suy nghĩ sai lầm,

khuyết điểm dù là của đảng viên hay cán bộ lãnh đạo đều phải phê bình một cách

kiên quyết và lập tức sửa chữa. Người bị phê bình phải có tinh thần nhìn rõ khuyết

điểm để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà giảm ý chí hoặc sinh ra oán ghét.

Tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng là cần thiết, nhưng cán bộ

cũng cần chú ý tự phê bình trước nhân dân, không nên “tự đóng cửa bảo nhau”,

giải quyết nội bộ. Tự mình phải mạnh dạn công khai tự phê bình, có khuyết điểm

cần thẳng thắn nhận khuyết điểm, dù đó là việc làm khó khăn, đau đớn. Khi

được nhân dân phê bình, cần tiếp thu với thái độ thực sự cầu thị chứ không chỉ

nhận lỗi qua loa hoặc tìm cách bao biện, rồi lại “chứng nào tật nấy”. Mỗi cán bộ

phải hiểu rằng, nhân dân tài giỏi, thông minh, cái gì họ cũng nghe, cũng thấy,

cũng biết. Đã làm việc thì sẽ có lúc không tránh khỏi khuyết điểm. Người cán bộ

không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ không dám tự phê bình, không dám thẳng thắn

nhìn nhận khuyết điểm.

Không chỉ kêu gọi, nhắc nhở cán bộ, bản thân Hồ Chí Minh luôn gương mẫu

tự phê bình và yêu cầu cán bộ, đảng viên cùng nhân dân thẳng thắn góp ý cho mình:

Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa

chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy

cớ “nể Cụ” không nói là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không

45

quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói

cho người ta sửa, tức là hại người ta [86, tr.260].

Lời dạy của Hồ Chí Minh mộc mạc, giản dị mà sâu sắc, có tính thuyết phục

cao. Phong cách tự phê bình của Người không chỉ thể hiện vai trò gương mẫu của vị

Chủ tịch Đảng, mà còn chỉ cho mọi cán bộ, đảng viên thấy tác hại của việc né tránh

phê bình; đồng thời, khuyến khích mọi người mạnh dạn phê bình, không nên vì

“nể” mà phá vỡ nguyên tắc trong phê bình dẫn đến sự nguy hại lớn cho Đảng.

2.3.1.5. Sẵn sàng học hỏi nhân dân

Năm 1950, tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và

học tập, Hồ Chí Minh chỉ dạy cán bộ, đảng viên: “Không học nhân dân là một thiếu

sót rất lớn” [87, tr.361]. Nhiệm vụ chủ chốt của Chính phủ và Đảng là phụng sự

nhân dân. Muốn làm được như vậy, phải gần gũi dân, nghe ngóng và hiểu biết dân,

học hỏi nhân dân, dựa vào nhân dân. Bốn điều đó cán bộ phải thuộc lòng và ra sức

thực hành. Cán bộ nếu không gần gũi thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân

sẽ không học hỏi được kinh nghiệm, trí tuệ của dân, “không lãnh đạo được dân”

[87, tr.432].

Người cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phải nhận thức rằng, sự hiểu biết

và kinh nghiệm của bản thân cũng chưa đầy đủ cho việc lãnh đạo. Vì vậy, cán bộ

cần học hỏi kinh nghiệm, trí tuệ của nhân dân để làm giàu kinh nghiệm cho mình.

Mỗi chính sách phải dựa vào ý kiến, mong muốn của nhân dân. Sinh thời, Hồ Chí

Minh đã căn dặn lực lượng CAND: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công

nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn.

Dân ta rất tốt” [88, tr.270].

Đồng thời, cán bộ phải tin yêu, tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng

góp phê bình xây dựng của họ; không chỉ giáo dục mà còn phải học hỏi và nêu

gương cho nhân dân noi theo. Trong cách làm việc cần nắm vững tình hình chất

lượng nhân dân mà phân loại các mức hạng khác nhau để có biện pháp làm việc

cho hiệu quả, mặt khác phải hiểu rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của nhân dân

là “họ hay so sánh”, tai mắt họ nhiều nên việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế,

46

“người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh”

[86, tr.337].

Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ phải phê phán và đấu tranh khắc

phục cách làm việc quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Người yêu cầu các

đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi

kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi

thực tiễn cơ sở ít. Bởi thực tế đã chứng minh, chỉ có đi sâu vào quần chúng, thực

sự hoà mình trong phong trào của quần chúng mới có cơ sở để hoạch định những

chủ trương, quyết sách hợp quy luật, thuận lòng dân, đáp ứng kịp thời những thay

đổi của thực tiễn.

2.3.1.6. Tự mình cần, kiệm, liêm, chính

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con người, nhất là người cộng sản giữ

cương vị lãnh đạo phải có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính. Quan điểm đó chính là

sự kế thừa từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo lý làm người của

cha ông, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đối với người cán bộ cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính là những chuẩn mực đạo

đức hàng đầu, thể hiện trong mối quan hệ với “tự mình”, là cái gốc, cái căn bản để

thực hiện lý tưởng và mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh viết:

Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy

cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,

giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có

đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi

việc gì [86 tr.292-293].

Để thấm nhuần chuẩn mực đạo đức, trong công tác, cán bộ, đảng viên phải

vượt qua rào cản của chủ nghĩa cá nhân, nó là kẻ địch ở trong lòng, là nguồn gốc

của mọi cái xấu, trái với đạo đức cách mạng. Người nói: “Công an đánh địch bên

ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn” [92, tr.599]. Do vậy,

mỗi cán bộ cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tiên

phong gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính, kiên quyết đấu tranh với tệ

47

quan liêu, tham nhũng, lãng phí; thực hiện phương châm “đảng viên đi trước, làng

nước theo sau”; là người “miệng nói, tay làm”. Trong PCLV và sinh hoạt, người

cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì

có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh những suy nghĩ sai trái,

những hành động lệch lạc của một bộ phận cán bộ: “Phải ăn mặc bảnh mới giữ

được oai tín, giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì

phải làm việc cho giỏi” [86, tr.241].

Sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đến việc rèn luyện tư cách, phẩm

chất của cán bộ, đảng viên được thể hiện sâu sắc trong những tác phẩm nổi tiếng

của Người, như: Năm 1927, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đường Cách mệnh” để

truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặt nền móng

tư tưởng lý luận, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cách mạng. Mở đầu,

Hồ Chí Minh nêu “Tư cách người cách mệnh”, nổi bật là “giữ chủ nghĩa cho vững”

và “ít lòng tham muốn về vật chất” [83, tr.280]. Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi

lối làm việc”, Người viết: để công cuộc “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất

thành”, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình rèn luyện cần, kiệm, liêm,

chính, phải tự mình chỉnh đốn, “sửa đổi lối làm việc”, “tự phê bình và sửa chữa”;

chống bằng được những căn bệnh quan liêu, xa dân, xa rời thực tế, lý thuyết suông,

chủ nghĩa kinh nghiệm, thói coi khinh lý luận, không chịu học, ngại khó, ngại khổ,

học mà không hành.

Phong cách lãnh đạo, lối làm việc gần dân, hiểu dân, vì dân của Hồ Chí

Minh là những bài học về rèn luyện PCLV quần chúng cho cán bộ cách mạng

trong thực tiễn. Khi người cán bộ thấm nhuần PCLV quần chúng sẽ được quần

chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ thực hiện cũng

thành công.

2.3.2. Phong cách làm việc tập thể - dân chủ

Là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, ở đỉnh cao của quyền lực, nhưng Chủ

tịch Hồ Chí Minh luôn có PCLV tập thể và dân chủ. Gắn bó với tập thể, tôn trọng,

phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo trong suy nghĩ và hành

48

động của Người. PCLV tập thể, dân chủ của Hồ Chí Minh được thể hiện trong

những nội dung:

2.3.2.1. Phong cách làm việc tôn trọng tập thể

Tôn trọng tập thể là một nội dung PCLV xuất phát từ nguyên tắc tập trung

dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước ta. Cán bộ lãnh

đạo, trong hoạt động phải luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể để có được quyết định

chính xác và kịp thời nhất.

Người cán bộ lãnh đạo, quản lý biết lắng nghe ý kiến của mọi người, tôn

trọng các quyết định của tập thể sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và

quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình, ủng hộ của tập thể, vì: “Một người dù khôn

ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xét

thấy được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét

tất cả mọi mặt của một vấn đề” [86, tr.619]. Chỉ có trí tuệ tập thể mới khơi hết

được những kinh nghiệm chung, trí tuệ lớn để đưa ra được quyết định đúng, Hồ Chí

Minh nêu: “Có bàn bạc tập thể, có dân chủ thì công việc mới thực hiện được, tập

thể mới thông suốt, đồng thuận, nhất trí, quyết tâm thực hiện” [86, tr.619].

Người cán bộ cần lắng nghe quần chúng, khơi gợi cấp dưới thể hiện ý kiến

của mình, khuyên cán bộ của mình mạnh bạo, “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”,

cán bộ không sợ nói sự thật và lãnh đạo mong muốn, khuyến khích nói sự thật.

Làm được như vậy sẽ thể hiện dân chủ thật sự trong Đảng. Tránh tuyệt đối hiện

tượng: “Họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội

bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám

nói, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản [86, tr.320].

Với tác phong làm việc tôn trọng tập thể, Hồ Chí Minh không bao giờ đặt

mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn tranh thủ

bàn bạc với tập thể, tạo ra được bầu không khí làm việc hăng hái, thúc đẩy tinh thần

nhiệt huyết và sự sáng tạo của cán bộ. Năm 1968, Hồ Chí Minh bàn với cán bộ về

việc làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”, Người nói: “Bác muốn bàn

luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt

49

được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ,

rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa” [96, tr.661]. Trong các cuộc họp,

Hồ Chí Minh luôn trân trọng và chú ý lắng nghe các ý kiến của từng cán bộ. Khi

đến với đồng bào Người không chỉ nghe báo cáo của cán bộ các cấp, các ngành mà

còn chú ý những ý kiến của quần chúng nhân dân. Đối với những tài liệu quan

trọng, Người đều gửi đến các đồng chí lãnh đạo đóng góp ý kiến trước khi đưa ra

quyết định cuối cùng, trao đổi với các đồng chí phục vụ về những bài báo để họ góp

ý những chỗ còn khó hiểu trước khi đăng. PCLV tôn trọng tập thể chính là phương

châm chỉ đạo suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.

2.3.2.2. Phong cách làm việc dân chủ

Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ” [91, tr.378] và khi

dân là chủ thì cách lãnh đạo phải dân chủ.

Phong cách làm việc dân chủ của Hồ Chí Minh được biểu hiện trong

nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo tinh thần:

“Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung” [86, tr.620]. Vai trò của tập

trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo

thành sức mạnh to lớn trong tiến trình cách mạng. Cùng với đó, thực hành dân chủ

rộng rãi trong Đảng sẽ làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, tăng cường sức mạnh

lãnh đạo của Đảng.

Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để thực hiện và giải quyết mọi vấn

đề, “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” [86, tr.284].

Công việc gì cũng cần phát huy sức mạnh tập thể, một cá nhân không thể hiểu biết

được mọi thứ, làm hết được mọi việc. Do đó, cán bộ, đảng viên phải biết tập hợp

được tài năng, trí tuệ của tập thể để phấn đấu cho mục tiêu chung, để “Đảng ta tuy

nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người” [87, tr.17]. Cán bộ lãnh

đạo khi quyết định mọi việc không được theo ý kiến chủ quan của mình mà luôn

mở rộng dân chủ, tranh thủ, động viên mọi người tham gia vào các quyết định; khi

quản lý, điều hành và giải quyết các nhiệm vụ phải tạo không khí làm việc dân chủ

50

thực sự để cán bộ và nhân dân hăng hái, tích cực đề ra sáng kiến. Cán bộ có PCLV

dân chủ sẽ phát huy tinh thần cống hiến, sự sáng tạo của tập thể và làm cho tổ chức

cơ quan ngày càng thêm phát triển.

Trái với PCLV dân chủ là PCLV quan liêu. Hồ Chí Minh phê phán những

người cán bộ: “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ.

Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần

chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” [88,

tr.176]. PCLV độc đoán, chuyên quyền sẽ dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo

của đảng viên và nhân dân. Trong cách mạng, chúng ta kêu gọi cán bộ, đảng viên

phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng thực tế, vẫn không có nhiều sự

sáng tạo và hăng say, nhiệt tình trong công tác. Đó là vì lẽ gì? Hồ Chí Minh xác

định một trong những nguyên nhân đó là: “Cách lãnh đạo của ta không được dân

chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân

chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”

[86, tr.283]. Từ cách lãnh đạo không dân chủ, khiến cán bộ dưới quyền không có

sự tích cực, hăng hái trong công việc và nhân dân không dám góp ý, phê bình, tạo

khoảng cách lớn giữa cán bộ các cấp, Đảng không liên hệ mật thiết với quần

chúng nhân dân.

Do đó, cán bộ lãnh đạo ở cương vị càng cao càng phải có PCLV tập thể -

dân chủ thật sự để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn của tổ chức.

2.3.3. Phong cách làm việc khoa học

Hồ Chí Minh ngay từ sớm đã nhận thức được một trong những thiếu hụt

của xã hội Việt Nam cổ truyền là chưa hình thành được một tác phong khoa học.

Điều này xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu với tư duy nông

nghiệp - một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học phát triển,

nên khái niệm khoa học, phương pháp, tác phong khoa học chưa trở thành mặt chủ

đạo của ý thức toàn xã hội. Nhiều năm lao động, hoạt động tại nước ngoài, trong

đó có các nước tư bản phát triển, có cơ hội học hỏi những thành tựu của nền khoa

học, kỹ thuật, tiếp xúc với phong cách hiện đại ở phương Tây, nên Hồ Chí Minh

51

thường xuyên tự rèn luyện để xây dựng cho mình PCLV khoa học trong công tác,

lãnh đạo và chú ý rèn luyện cán bộ, đảng viên xây dựng tác phong khoa học,

“cách làm việc có khoa học”.

Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã quan tâm huấn luyện cách làm việc, lối

làm việc cho cán bộ. Trong thư gửi chi bộ đảng trường Đại học phương Đông,

Người đề nghị cần giáo dục cho những người cộng sản An Nam ở đây “cho họ có

thể học cách làm việc”. Sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh căn dặn

cán bộ chính quyền các cấp cần lưu ý: “Cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải

biết các làm việc cho có phương pháp”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ

Chí Minh viết: “Nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì

thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa”. PCLV khoa học của Hồ Chí Minh đòi hỏi

cách làm việc phải xuất phát từ thực tế, nắm vững, tôn trọng quy luật khách quan;

có kế hoạch; đổi mới, sáng tạo và gắn liền với kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Đối lập với phong cách làm việc khoa học là thói tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí, gặp

chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, không có hiệu quả. Bản Hồ Chí Minh

đã nêu tấm gương sáng ngời về PCLV khoa học.

2.3.3.1. Phong cách làm việc xuất phát từ thực tế, nắm vững, tôn trọng quy

luật khách quan

Tôn trọng thực tế khách quan luôn là yêu cầu tất yếu trong PCLV khoa học

Hồ Chí Minh. Người dạy, cán bộ muốn lãnh đạo đúng, “trước hết phải quyết định

mọi vấn đề một cách cho đúng… phải tổ chức sự thi hành cho đúng” [86, tr.325].

Để có cách quyết định và thi hành công việc một cách đúng đắn, cán bộ phải

giải quyết trên cơ sở dựa vào kết quả điều tra, nghiên cứu chính xác, nắm chắc và

hiểu thấu vấn đề ở các mặt. Làm việc dựa trên điều kiện tôn trọng thực tế khách

quan, đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu cụ thể tình hình, không bóp méo sự thật.

Người nói: “Đảng có hiểu rõ tình hình thì đặt chính sách mới đúng. Mà muốn

Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ phải điều tra, báo cáo rõ ràng” [86, tr.307].

Cán bộ cũng cần có tầm nhìn xa trông rộng trong chiến lược công tác,

không được vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến mục tiêu lớn. Đó là tư duy,

52

tầm nhìn của người có PCLV khoa học, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật

khách quan. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng.

Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ” [86,

tr.297]. Đồng thời, cán bộ cần tích cực, chủ động đấu tranh chống bệnh làm việc

theo cách quan liêu, mệnh lệnh, chỉ nghe người ta báo cáo rồi ra quyết định, thay thế

sự phân tích đánh giá khách quan tình hình bằng cảm tính chủ quan, áp đặt, duy ý chí

mà không đi sâu đi sát thực tế, xem tận nơi, tận chỗ. Hồ Chí Minh nêu thực tế: “trong

Đảng ta có một số người như thế. Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày

này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được” [86, tr.327].

Tại nhiều hội nghị với cán bộ các ngành, các cấp, cả ở Trung ương và địa

phương, Hồ Chí Minh từng thẳng thắn phê phán những cán bộ mắc phải “bệnh giáo

điều” phô trương kiến thức; chỉ “thuộc sách làu làu, Cụ Mác nói thế này, Cụ Lênin

nói thế kia” [96, tr.668], rồi áp đặt vào thực tiễn. Nguyên nhân của “bệnh kinh

nghiệm” xuất phát từ việc “kém lý luận”, hoặc từ thái độ “khinh lý luận”. Hồ Chí

Minh ví von: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một

mắt mờ” [86, tr.274]. Nếu cán bộ lãnh đạo mắc “bệnh kinh nghiệm”, “bệnh giáo

điều” thì trong công tác thường thể hiện “lý luận suông”, làm việc dễ rơi vào chủ

quan, duy ý chí.

Bản thân Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã giành

nhiều thời gian đến các địa phương, cơ sở, hoà mình vào đời sống của nhân dân để

xem xét kỹ thực tiễn và đưa ra những quyết định đúng đắn do đã nắm vững tình

hình. Đã có người nước ngoài đánh giá phong cách của Hồ Chí Minh: Khi chúng tôi

bắt đầu nói về Việt Nam, tôi hiểu rằng, Người đã biết từ những chi tiết nhỏ nhất

trong hoạt động của đất nước. Và về mỗi vấn đề, Người đều có nhận định với một

cách nhìn rất rộng. Tôi hiểu vì sao nhân dân kính yêu Người như vậy.

2.3.3.2. Phong cách làm việc có kế hoạch

Ngay từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã hướng dẫn cán bộ “Đối với công việc

phải thế nào? Trước hết, phải nghĩ cho kỹ” [86, tr.68]. Đây chính là yêu cầu cơ bản

của PCLV khoa học, trong công tác phải có kế hoạch, nội dung, chương trình rõ

ràng, không chung chung, qua loa, sơ sài.

53

Theo Hồ Chí Minh, PCLV khoa học được đảm bảo khi đặt kế hoạch phải

nhìn xa, thấy rộng, mới quyết định và sắp đặt các công việc một cách hiệu quả, phù

hợp tình hình thực tiễn. Khi đi vào thực hiện phải rất tỉ mỉ, chu đáo, thật sát với mỗi

cơ sở. Thực tế, cán bộ, đảng viên trong công tác thường gặp một khuyết điểm là đầu

tư nhiều công sức vào việc đặt ra nhiều chương trình, kế hoạch khác nhau, rất to tát,

nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được kế hoạch, chương trình đã đặt ra. Hồ

Chí Minh chỉ rõ: “Đặt ra kế hoạch và chương trình không xét năng lực của những

người thi hành kế hoạch và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà

việc gì làm cũng không triệt để [86, tr.463]. Từ thực tiễn và kinh nghiệm của mình,

Người căn dặn cán bộ phải đặt kế hoạch khoa học, sát thực, phù hợp, “không nên

luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy” [86, tr.332].

Muốn thực hiện thành công kế hoạch đã đặt ra, cán bộ và nhân dân cần có

tinh thần quyết tâm cao. Nếu chương trình, kế hoạch có hay đến mấy, nhưng tổ

chức thi hành không đúng, thiếu biện pháp thích hợp, người thi hành thiếu quyết

tâm thì mọi chương trình, kế hoạch đều thất bại. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, sự

quyết tâm phải được thể hiện bằng thực tế, phải nhớ kỹ rằng: “Kế hoạch 10 phần,

thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” [95; tr.485]. Để có tinh thần hoàn

thành tốt kế hoạch, điều quan trọng nhất là bồi dưỡng tư tưởng, chính trị cho cán bộ

và quần chúng, làm cho mỗi người có tinh thần làm chủ tập thể, ý chí cần kiệm xây

dựng nước nhà. Cùng với đó, “quần chúng và cán bộ ta phải kết hợp tinh thần cách

mạng với thái độ khoa học, để hoàn thành thắng lợi kế hoạch” [95, tr.463].

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người có nhiều năm công tác gần gũi bên Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết kinh nghiệm:

Học phương pháp khoa học của Hồ Chủ tịch là học làm việc có chương

trình, có kế hoạch, có tổ chức, việc lớn, việc nhỏ, việc nhất thời, việc

trường cửu đều phải thế. Chúng ta hãy nhớ rằng: Lúc Hồ Chủ tịch giao

công việc cho một người, người ấy phải thảo kế hoạch tiến hành rồi bàn

với Hồ Chủ tịch trước khi thi hành. Kế hoạch ấy, Hồ Chủ tịch thường

dạy, phải sát thực tế, phải vừa sức mình [55, tr.32].

54

2.3.3.3. Phong cách làm việc đổi mới, sáng tạo

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh luôn đổi mới, sáng tạo, không chấp

nhận tư duy “lối mòn”, kinh nghiệm chủ nghĩa, mà luôn cải tiến cách làm, phương

pháp để hiệu quả công việc ngày càng tốt hơn. Người có quan niệm: “Tư tưởng bảo

thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì

phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm” [94, tr.340]. Hồ Chí Minh là một

tấm gương về đổi mới, có sức khơi gợi, kích thích sự sáng tạo cho mỗi cán bộ, đảng

viên. PCLV khoa học yêu cầu người cán bộ cần tuân thủ theo mục đích, chương

trình, kế hoạch đã đề ra, tuy nhiên, biện chứng của cuộc sống là mọi sự vật, hiện

tượng luôn luôn vận động và phát triển trong sự phong phú, đa dạng, trong những

trường hợp nhất định, không nên cứng nhắc, giáo điều.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên cần sáng tạo không

ngừng, đổi mới phương pháp công tác theo hướng hiện đại, chủ động trong cụ thể

hóa quan điểm, đường lối của Đảng cho phù hợp với địa phương, đơn vị. Hồ Chí

Minh phê bình một vài cán bộ “còn có tư tưởng bảo thủ không chịu tiếp thu dễ dàng

cái hay, cái mới” [94, tr.63].

Tuy nhiên, sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo trong công tác của người cán

bộ phải luôn thống nhất với nguyên tắc “tính Đảng” - nghĩa là phải đúng với quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tránh tuyệt đối

trường hợp: “Muốn làm gì cứ tự ý làm bừa đi, chẳng bàn hỏi thảo luận với ai, không

theo pháp luật Chính phủ ban hành, không dựa vào ý nguyện dân chúng” [85, tr.45],

bởi làm như thế sẽ “hại đến uy tín của Chính phủ, làm cho dân chúng oán thán, kêu

ca” [85, tr.45].

Có thể khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà khoa học, nhà cách mạng mang

phong cách đổi mới, sáng tạo. Quan điểm đó được thể hiện sâu sắc trong toàn bộ

cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, trong việc thực thi những đổi mới sáng

tạo cho đất nước về kinh tế, chính trị, chính sách đối nội, đối ngoại… Tư tưởng và

PCLV đổi mới sáng tạo của Hồ Chí Minh chính là cơ sở quan trọng cho việc hoạch

định những cải cách, đổi mới, sáng tạo đúng đắn của Đảng để đưa đất nước ta ngày

càng phát triển bền vững.

55

2.3.3.4. Phong cách làm việc có kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm

Người lãnh đạo phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện công việc của cấp dưới

và quần chúng là tinh thần mà V.I.Lênin đã đề ra: Lãnh đạo mà không kiểm tra, có

nghĩa là không lãnh đạo.

Đối với Hồ Chí Minh, lãnh đạo tất yếu phải có kiểm tra vì mục đích của

công tác kiểm tra nhằm: “Huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của

nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ

kịp thời” [86, tr.636]. Kiểm tra, giám sát “mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của

các mệnh lệnh và nghị quyết” [86, tr.327]. Nếu cán bộ, đảng viên trong công tác

không thường xuyên kiểm tra, giám sát thì không thể biết đường lối, chính sách,

pháp luật của Đảng, Nhà nước có phù hợp với thực tiễn và thi hành đúng quy định

hay không, mà nguy hiểm hơn, còn làm suy giảm lòng tin của quần đối với Đảng và

Chính phủ.

Về cách thức kiểm tra, Hồ Chí Minh hướng dẫn: Kiểm tra phải có hệ thống

nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết, biết

rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương. Kiểm tra

không chỉ bằng báo cáo, mà phải đi đến tận nơi, tìm hiểu rõ ràng, cụ thể. Bên cạnh

kiểm tra, giám sát, cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút kinh nghiệm. Người nói:

“Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội

rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công

việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” [86, tr.283].

Hơn nữa, Hồ Chí Minh nhắc nhở công tác kiểm tra, giám sát phải được thực

hiện thường xuyên. Đối với “người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”

[86, tr.327], Hồ Chí Minh nhấn mạnh về phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ của

cán bộ kiểm tra. Người cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất đạo đức trong sáng

“người rất có uy tín”, đó không chỉ là sự trung thực, công tâm, khách quan mà phải

có năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị vững vàng của người cán bộ kiểm tra. Như

vậy, việc kiểm tra mới hiệu quả.

56

Bản thân Hồ Chí Minh luôn nghiêm túc tổ chức sự kiểm tra, giám sát thường

xuyên từ trên xuống dưới một cách hệ thống để đánh giá hiệu quả hoạt động của

cán bộ, đảng viên và triển khai vấn đề tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm từng

việc, từng chủ trương, thấy rõ hay - dở, đúng - sai, từ đó, bổ sung kịp thời những

chủ trương chưa đúng, chưa đủ và quan trọng hơn là rút ra kết luận để bổ sung cho

lý luận.

2.3.4. Phong cách làm việc nêu gương, nói đi đôi với làm

PCLV nêu gương là một giá trị trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ,

đặc biệt là cán bộ lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói chung thì các dân

tộc phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị

hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [82, tr.284].

2.3.4.1. Phong cách làm việc nêu gương

Hồ Chí Minh quan niệm mỗi cán bộ cần nhận thức và giải quyết tốt ba

phương diện: Đối với tự mình, đối với người và đối với công việc.

Ðối với mình, không được tự cao, tự đại và kiêu ngạo. Đó là căn bệnh rất

nguy hiểm. Nếu cán bộ, đảng viên có căn bệnh này sẽ dễ mù quáng, thiển cận, luôn

đề cao lợi ích cá nhân mình, coi thường quần chúng, nhất định sẽ thoái bộ, dừng lại.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ

thêm” [86, tr.90]. Người cán bộ phải luôn học hỏi, rèn luyện để tiến bộ; thường

xuyên tự phê bình để phát huy ưu điểm, nhận ra khuyết điểm kịp thời sửa chữa.

Ðối với người, phải có thật thà, đoàn kết, và có tình thương yêu, bao dung,

độ lượng. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt điều “Nhân”:

“Thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào” [86, tr.291].

Ðối với công việc, cán bộ cần giữ vững nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”,

nghĩa là công tư phân minh, để việc công lên trước việc cá nhân, không sợ khó,

không sợ khổ, tận tâm tận lực hoàn thành tốt; đề cao tinh thần phục vụ nhân dân,

việc gì có lợi cho nhân dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho nhân dân thì hết sức

tránh. Người cũng dạy: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong

anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân” [85, tr.171]. Bản chất của

57

PCLV nêu gương xuất phát từ đạo đức của người cách mạng về vai trò, trách nhiệm

của bản thân trước nhân dân chứ không chỉ là sự thể hiện để bắt nhân dân noi theo.

Trong việc thực hiện phương pháp nêu gương, không chỉ đơn thuần là biểu

dương những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến, mà quan trọng là nuôi dưỡng

những tấm gương, điển hình tiên tiến. Đồng thời, khắc phục mọi biểu hiện của tư

tưởng tự mãn, chủ quan, dừng lại, hoặc chỉ dựa vào những truyền thống đã có để

khuếch trương thành tích. Thực hiện nêu gương cần luôn gắn liền với nhân điển

hình tiên tiến, kịp thời phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm tốt trong giáo dục, rèn

luyện. Để mỗi cán bộ là tấm gương để quần chúng noi theo, mỗi cán bộ cần tự mình

không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, tự mình gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí

công vô tư”. Hồ Chí Minh nói: “Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính,

để nhân dân noi theo” [88, tr.177].

Phong cách làm việc nêu gương của Hồ Chí Minh, trong đó, điều nổi bật và

dễ nhận thấy nhất là sự thống nhất giữa lời nói và việc làm; giáo dục và thực hành

đạo đức. Khuyên nhân dân rèn luyện thân thể để có sức khỏe để bảo vệ và xây dựng

đất nước thành công thì bản thân Người ngày nào cũng tập thể dục; phát động Tết

trồng cây, Người tiên phong đi đầu trong việc vun trồng, chăm bón cây xanh;

khuyên thanh niên tự học, Người là một tấm gương tự học không ngừng. Hồ Chí

Minh là biểu hiện sinh động của người lãnh đạo biết lắng nghe tiếng nói của nhân

dân, nghiêm khắc với bản thân nhưng độ lượng hết mực với đồng chí, đồng bào.

2.3.4.2. Phong cách làm việc nói đi đôi với làm

Trong PCLV của Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là sự thống nhất giữa tư

tưởng và hành động, nhận thức và việc làm của người cán bộ, là thước đo sự cống

hiến, tinh thần tận tuỵ, cố gắng và quyết tâm của cán bộ, được thể hiện bằng kết quả

công việc, với những sản phẩm cụ thể. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải lấy kết quả thiết

thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo mà đo ý chí cách mạng của

mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc

không nhằm mục đích nâng cao sản xuất” [94, tr.68].

58

Phong cách làm việc nói đi đôi với làm trong quan điểm của Hồ Chí Minh

yêu cầu người cán bộ phải đảm bảo những nguyên tắc:

Một là, nói đi đôi với làm phải đúng chủ trương, chính sách của Ðảng và

Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững đường lối của Ðảng trong toàn bộ tiến

trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn khác nhau để thực hiện,

tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm cho đúng. Rèn luyện bản lĩnh vững

vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Ðảng, dù trải qua những

tình huống phức tạp, trước những bước ngoặt hiểm nghèo vẫn luôn trung thành với

Ðảng và cách mạng, bảo vệ nền độc lập và xây dựng xã hội mới tiến bộ cho nhân

dân. Ðể nói đúng quan điểm, đường lối của Ðảng, cán bộ, đảng viên phải thường

xuyên nghiên cứu, trau dồi, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hai là, nói đi đôi với làm, không được “nói một đằng làm một nẻo”. Không

được nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm. Để chống việc “nói một đằng, làm

một nẻo”, cán bộ, đảng viên cần xác định rõ vai trò, nhiệm vụ bản thân. Khi nói

phải gắn với những công việc, nhiệm vụ cụ thể, không chung chung, đại khái, nghe

thì hay, nhưng không biết thực hiện từ đâu, thực hiện thế nào. Cán bộ phải đi sâu đi

sát, kiểm tra đôn đốc kết quả của việc thực hiện những công việc đã đề ra, không

làm theo lối quan liêu.

Ba là, nói đi đôi với làm, không nói suông, nói mà không làm. “Làm” được

hiểu là hành động, hoạt động thực tiễn, tổ chức thực hiện. Ðối với Ðảng ta, Người

yêu cầu “luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế

nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà

còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Ðảng” [86, tr.290].

Cán bộ muốn tuyên truyền, tập hợp nhân dân thì tự mình phải làm gương

cho người khác. Đối với nhân dân không thể lý luận suông, chính trị suông, nhân

dân cần trông thấy những lợi ích thiết thực từ những tấm gương sáng, những việc

làm của người cán bộ. Phong cách nói và làm của cán bộ không chỉ thể hiện trong

công việc mà còn phải thống nhất trong hoạt động đời thường. Cán bộ lãnh đạo ở

cương vị càng cao, càng phải không ngừng hoàn thiện đạo đức cách mạng, thực

59

hành nói đi đôi với làm. Khi giáo dục cán bộ làm công tác dân vận Người dạy:

“Tuyên truyền phải miệng nói tay làm, phải tùy hoàn cảnh mà tổ chức giúp đỡ nhân

dân thật sự, không phải chỉ dân vận bằng diễn thuyết” [88, tr.219].

Sự kết hợp giữa lời nói và việc làm của người cán bộ phải được vận dụng

vào điều kiện, công việc cụ thể. Nếu tuyệt đối hoá lời nói, xem nhẹ việc làm sẽ dẫn

tới bệnh nói suông; ngược lại, tuyệt đối hoá việc làm mà không tuyên truyền, giáo

dục thì không phát huy được hiệu quả của việc làm. Sự thống nhất giữa lời nói với

việc làm là PCLV đầy sức thuyết phục của người cán bộ, đảm bảo cho họ có được

sự tín nhiệm cao trước tập thể và trước quần chúng vì “lời nói và việc làm của đảng

viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng”

[92, tr.606].

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là sự thống nhất trọn

vẹn giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm. Hồ Chí Minh nêu gương tốt

đúng như những điều Người dạy cán bộ, đảng viên và nhân dân về phẩm chất đạo

đức cách mạng. Người nói ít, nhưng làm nhiều, nói là làm, thường là làm nhiều hơn

nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng thể hiện trong hành động. Tấm gương

nói đi đôi với làm bắt nguồn từ chính quan niệm, từ sự trong sáng, chính tâm, thật

sự nêu gương của Người. Năm 1945, sau ngày tuyên bố nước độc lập, để giải quyết

nạn đói đang hoành hành, Hồ Chí Minh đã kêu gọi với đồng bào cả nước góp gạo

để cứu dân nghèo và nêu gương “tôi xin thực hành trước” một cách nghiêm túc.

Những đồng chí từng phục vụ bên Người kể lại: Một lần tướng Tiêu Văn của quân

đội Tưởng Giới Thạch mời chiêu đãi vào đúng bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu

đói, dù cán bộ có báo cáo là phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói, nhưng

Hồ Chí Minh vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” bù vào ngày hôm sau.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm,

giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và

đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. PCLV Hồ Chí Minh là tấm

gương mẫu mực cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập và noi theo, là nguồn

sáng soi rọi vào tâm hồn mỗi con người Việt Nam, hướng mọi người đến chân,

thiện, mỹ của cuộc sống.

60

2.4. GIÁ TRỊ CỦA PHONG CÁCH LÀM VIỆC HỒ CHÍ MINH

2.4.1. Là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo công tác xây dựng phong cách làm

việc của cán bộ, đảng viên

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh được hình thành qua quá trình hoạt

động thực tiễn, thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Người đối với sự vận động của

thực tiễn trong thời đại mới, có giá trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc.

PCLV Hồ Chí Minh mang những đặc trưng mới, độc đáo, riêng có của Người

trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật của

chủ nghĩa Mác - Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học

phương Đông và Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn cho thấy: chất lượng, hiệu

quả của việc ra quyết định, tổ chức thực hiện, tổ chức kiểm tra, giám sát thực hiện

kế hoạch, tổng kết không chỉ phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất mà còn phụ thuộc

phần quan trọng vào PCLV của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt,

cán bộ giữ vai trò lãnh đạo. Do đó, PCLV Hồ Chí Minh với những nội dung chủ

yếu là: PCLV quần chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học, PCLV nêu

gương là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo công tác xây dựng PCLV mới cho cán bộ, đảng

viên hiện nay.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng ta đã nhấn mạnh vấn đề quan

trọng và cần thiết: Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và

đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh,

và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn. Quan điểm trên của Đảng

chính là sự khẳng định giá trị to lớn, sức sống mạnh mẽ của tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của cách mạng và dân tộc. Phong

cách Hồ Chí Minh đã trở thành tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên học tập và

hoàn thiện nhân cách của mình.

Trong khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta nhận thức ngày

càng sâu sắc giá trị của hệ thống phong cách trong đó có PCLV Hồ Chí Minh ở

từng giai đoạn, từng thời kỳ của quá trình đổi mới. Nghị quyết 04-NQ/TW ngày

30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh

61

đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-

CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là sự phát triển liên tục trong nhận thức

và chỉ đạo thực hiện của Đảng về giá trị của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện PCLV của cán bộ,

đảng viên để đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn.

Hiện nay, cách mạng Việt Nam và thế giới đang bước vào giai đoạn bước

ngoặt với những chuyển biến không ngừng trong quan hệ địa - chính trị - kinh tế

giữa các nước và vùng lãnh thổ. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của

nước ta cùng với những tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đã

dẫn đến sự thay đổi trong các mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc nói chung và

giữa các giai cấp, các thành phần trong xã hội Việt Nam nói riêng. Do vậy, PCLV

Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trong việc định hướng xây dựng, rèn luyện PCLV của

mỗi cán bộ, đảng viên nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của dân tộc trước

những thách thức của thời đại.

2.4.2. Là cơ sở để cán bộ, đảng viên rèn luyện, tu dưỡng phong cách,

phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn

Phẩm chất, nhân cách của người cán bộ được cấu thành bởi các yếu tố: đạo

đức, năng lực và PCLV. Trong đó, PCLV của một người không thụ động, mà có tác

động tích cực góp phần củng cố, hoàn thiện và phát triển phẩm chất, năng lực của

chính cá nhân đó. Bởi, một trong những con đường để cán bộ có thể hoàn thành tốt

chức trách, nhiệm vụ được giao là họ xây dựng và kiên trì thực hiện đúng các khâu

trong quy trình hoạt động lãnh đạo, quản lý với tư cách là một cán bộ của nhân dân.

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn hàng đầu của người cách

mạng là phải thật sự tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng. Trong “Di chúc”

thiêng liêng, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán

bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí

công vô tư” [96, tr.622].

62

Tuy nhiên, nếu chỉ có thực hành đạo đức cách mạng cũng chưa đủ tạo thành

phong cách hoàn chỉnh, còn phải thường xuyên và bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện đạo

đức cách mạng. Chỉ có như vậy, phong cách tu dưỡng, thực hành đạo đức cách

mạng mới được hình thành và phát triển, đây là một nguyên tắc xây dựng nền đạo

đức mới. Khi người cách mạng đã rèn luyện được phẩm chất đạo đức họ sẽ trở

thành tấm gương cho quần chúng tin theo. Người viết: “Quần chúng chỉ quý mến

những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực

thước cho người ta bắt chước” [87, tr.16].

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh còn có giá trị to lớn đối với sự phát triển,

hoàn thiện năng lực và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng, giúp cán

bộ củng cố năng lực tư duy nghề nghiệp, tránh lối làm việc máy móc, hình thức chủ

nghĩa, bảo đảm cho họ thực thi chức trách, nhiệm vụ đạt chất lượng, hiệu quả tốt,

rút ra những cách làm hay, củng cố, không ngừng làm phong phú, hoàn thiện vốn

hiểu biết của mình.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên từng bước xây

dựng và hoàn thiện PCLV bản thân, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới

trên các phương diện:

Thứ nhất, giúp người cán bộ biết tôn trọng, lắng nghe nhân dân, có niềm tin

với nhân dân, học phục vụ nhân dân, học cách thức xử lý mối quan hệ giữa cán bộ

lãnh đạo với cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, giúp người cán bộ gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, phát huy sức

mạnh của tập thể, thực hiện và phát huy dân chủ trong Đảng và nhân dân, thực hiện

nghiêm túc, có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành tự phê bình và phê

bình trong tổ chức và hoạt động của Đảng.

Thứ ba, PCLV Hồ Chí Minh giúp xây dựng cho người cán bộ PCLV khoa

học, nắm việc, nắm tình hình cụ thể; làm việc có mục đích rõ ràng, thực tế; người

đứng đầu, người lãnh đạo, tổ chức luôn nêu gương trước cấp dưới và nhân dân.

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh mang sắc thái riêng, là PCLV của

người có 24 năm trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước nhưng lại không xa

63

cách, khác thường, là tấm gương để mọi người học tập và làm theo, góp phần thúc

đẩy sự phát triển phẩm chất đạo đức, năng lực của người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí

Minh đã trở thành bất tử trong lòng nhân dân, đất nước và mãi mãi là tấm gương

sáng ngời cho mọi lớp người học tập và phấn đấu cho thế giới ngày càng tốt đẹp.

Tiểu kết chương 2

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một nội dung, bộ phận quan trọng

hợp thành hệ thống chỉnh thể phong cách của Người; là di sản vô giá Người để lại

cho dân tộc và nhân loại. PCLV Hồ Chí Minh là phong cách mẫu mực của một

lãnh tụ, của một nhà khoa học chân chính, là lề lối, cách thức làm việc có tính

khoa học, mang đặc trưng riêng của Người, được thể hiện chủ yếu trong hoạt động

lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.

Đặc trưng của PCLV Hồ Chí Minh là sự thống nhất hài hoà giữa tính nguyên

tắc và sáng tạo, lòng nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, tính dân chủ, tập

thể nhưng quyết đoá và sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Nội dung của

PCLV Hồ Chí Minh được thể hiện trên các phương diện: PCLV quần chúng, PCLV

dân chủ - tập thể, PCLV khoa học và PCLV nêu gương. PCLV Hồ Chí Minh có giá

trị to lớn, là cơ sở để Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên và

cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, tu dưỡng phong cách, phẩm chất đạo

đức cách mạng và năng lực.

64

Chương 3

THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG

CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN

CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

3.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG

AN NHÂN DÂN

3.1.1. Đặc điểm, vai trò của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an

nhân dân

3.1.1.1. Đặc điểm cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Một là, tình hình chung về các Học viện CAND

Học viện An ninh Nhân dân: Tiền thân là Trường Huấn luyện Công an

Trung ương, thành lập ngày 25/6/1946, địa điểm tại Phường Văn Quán, Quận Hà

Đông, Hà Nội, là cơ sở giáo dục trọng điểm hàng đầu của lực lượng CAND. Học

viện có nhiệm vụ tuyển sinh và đào tạo các chuyên ngành An ninh ở các cấp trình

độ từ đại học đến tiến sỹ cho các tỉnh từ Quảng Bình trở ra; bồi dưỡng chức danh,

nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực An ninh; đào tạo lý luận

chính trị; giáo dục quốc phòng, an ninh; thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác

quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học và tổng kết lý luận

về an ninh quốc gia của lực lượng CAND.

Học viện Cảnh sát Nhân dân: Thành lập ngày 15/05/1968, từ khoa Cảnh sát

của trường Huấn luyện Công an Trung ương. Địa điểm tại Phường Cổ Nhuế, Quận

Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Học viện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ từ đại học

đến tiến sĩ; bồi dưỡng chức danh, nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy của lực

lượng CSND; bồi dưỡng giáo viên cho các trường Cảnh sát; giáo dục quốc phòng,

an ninh; đào tạo cao cấp lý luận chính trị, thực hiện công tác đối ngoại và hợp tác

quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học của lực lượng

CSND.

65

Học viện Chính trị CAND: Thành lập ngày 25/4/2014 trên cơ sở Trường Bồi

dưỡng nghiệp vụ Công an, địa điểm tại Phường Đức Thắng, Quận Bắc Từ Liêm, Hà

Nội. Có chức năng đào tạo trình độ đại học, sau đại học; bồi dưỡng chức danh,

nghiệp vụ cho cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực xây dựng lực lượng, tham

mưu chỉ huy CAND; bồi dưỡng giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cho các trường

CAND; đào tạo lý luận chính trị; giáo dục quốc phòng, an ninh; thực hiện công tác

đối ngoại và hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; là trung tâm nghiên cứu khoa học

và tổng kết lý luận về chính trị của lực lượng CAND.

Hai là, đặc điểm của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND

Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có những đặc điểm khác với cán bộ,

giảng viên các nhà trường trong hệ thống giáo dục CAND và hệ thống giáo dục

quốc dân. Sự khác biệt làm nên đặc điểm riêng có đó xuất phát từ đối tượng phục

vụ và đặc thù công tác, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo được Bộ Công an giao cho.

Trong đó, người cán bộ, giảng viên ngoài việc chấp hành các quy định chung của

Luật Giáo dục, còn phải nắm vững chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của

Ngành về công tác Công an, đấu tranh phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu

trong tình hình mới. Đặc điểm của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng có

sự khác biệt với cán bộ, chiến sĩ CAND nói chung vì đối tượng phục vụ của cán bộ,

giảng viên là sinh viên - sĩ quan CAND tương lai; là cán bộ, chiến sỹ đang học tập,

bồi dưỡng nâng cao trình độ; là thủ trưởng cơ quan, lãnh đạo các đơn vị địa phương

đang bồi dưỡng quy hoạch chức danh, hoàn thiện tiêu chuẩn lãnh đạo. Như vậy, họ

vừa là đối tượng được người cán bộ, giảng viên có trách nhiệm phục vụ, đồng thời

cũng là đồng chí, đồng đội nên cán bộ, giảng viên có phong cách phù hợp trong

giao tiếp, ứng xử và phương pháp, tác phong làm việc phù hợp để đem lại kết quả

tốt, hình thành kỹ năng nghề nghiệp và giáo dục phẩm chất đạo đức cho học viên.

Vì vậy người cán bộ, giảng viên các Học viện CAND phải đảm bảo đầy đủ những

chuẩn mực, có năng lực, trình độ phù hợp và luôn là tấm gương cho học viên noi

theo, với những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:

66

Thứ nhất, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có phẩm chất chính trị

vững vàng và phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng

Đây là đặc điểm quan trọng hàng đầu của cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND, họ có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với Đảng cộng sản Việt Nam, chấp hành

mọi Cương lĩnh chính trị, nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước. Họ luôn đảm bảo tư cách của người công an cách mạng “thương dân,

một lòng, một dạ phục vụ nhân dân”, sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh

khó khăn, tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, tình nghĩa; luôn tin tưởng

vào trí tuệ, sức mạnh, đoàn kết của nhân dân, góp phần khơi dậy được sự giúp đỡ và

sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn,

đảm bảo an toàn, xã hội.

Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có phẩm chất đạo đức trong sáng đi

liền với tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực

dụng, tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ

thống chính trị và trong nội bộ, đề cao tính nêu gương của người đứng đầu và phát

huy trí tuệ tập thể; thực hiện công tác đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai

trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử xấu lợi dụng dân chủ, nhân

quyền để chống phá Đảng, Nhà nước, đi ngược lại truyền thống đạo đức, văn hóa

của dân tộc. Có tinh thần thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, đoàn kết nội bộ, giúp

đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy CAND.

Thứ hai, cán bộ, giảng viên có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ công an, pháp

luật và nghiệp vụ sư phạm, có phong cách, phương pháp tư duy khoa học

Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND là người có trình độ chuyên môn

cao, nắm chắc kiến thức cơ bản về nghiệp vụ chuyên ngành công tác của mình, có

khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế, có lý luận và kinh nghiệm thực tế để

hướng dẫn sinh viên. Hiện nay, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có trình độ

tiến sỹ chiếm 13,9%, trình độ thạc sỹ chiếm 38%, trình độ đại học, cao đẳng chiếm

67

45,6% và trình độ trung cấp chiếm 2,4%, tập trung đa số ở đội ngũ cán bộ lĩnh vực

hậu cần, tài chính.

Ngoài ra, cán bộ, giảng viên không chỉ có nhiệm vụ trong công tác, giảng

dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý, tham mưu, hậu cần đáp ứng yêu cầu trong Học

viện CAND, mà còn là lực lượng chi viện, tăng cường, bổ sung có hiệu quả cho nhu

cầu chiến đấu bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng lực lượng CAND, là đội ngũ cộng

tác tin cậy, có chất lượng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu,

giáo trình với các cơ sở đào tạo cán bộ, các trường trong và ngoài ngành.

Các Học viện CAND đều là những cơ sở giáo dục hàng đầu của Bộ Công an

nên cán bộ, giảng viên luôn chú ý đổi mới, cải tiến phương pháp, cách thức, tác

phong làm việc chu đáo, khoa học, nền nếp, hiệu quả, thiết thực, không ngại khó

khăn, gian khổ, hiểm nguy. Có tinh thần trách nhiệm, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi

phương pháp, phương tiện để đáp ứng yêu cầu giảng dạy, công tác nâng cao chất

lượng giáo dục, đào tạo của Học viện.

Thứ ba, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND được tuyển chọn theo quy

định của Bộ Công an, có sự đa dạng về tuổi đời, cấp bậc, chức vụ, chức danh và

chuyên ngành đào tạo

Trước đây, cán bộ, giảng viên chủ yếu tuyển chọn từ học viên tốt nghiệp các

Học viện, trường đại học CAND, có kết quả học tập cao, đạo đức, phẩm chất tốt.

Những năm gần đây, nguồn tuyển cán bộ, giảng viên đã được mở rộng, có sự kết

hợp giữa tuyển chọn trong lực lượng Công an với các cơ sở đào tạo ngoài lực lượng

theo từng chuyên ngành tuyển chọn, chủ yếu tập trung ở những giảng viên giảng

dạy lý luận chính trị, tâm lý, quân sự - võ thuật, cán bộ thuộc lĩnh vực hậu cần, tài

chính, kỹ thuật. Đồng thời, tuyển chọn các chuyên viên cao cấp, cán bộ từ các đơn

vị thực tiễn trong lực lượng và cán bộ, giảng viên có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ từ các

cơ sở đào tạo ngoài lực lượng. Khi đã về các Học viện CAND công tác, cán bộ, đặc

biệt là giảng viên đều có thời gian công tác thực tế, luân chuyển tại các đơn vị nên

họ luôn nắm bắt được tình hình thực tiễn nghiệp vụ của Ngành để bổ sung vào quá

trình giảng dạy, công tác.

Cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND hiện nay có tuổi đời, thâm

niên, cấp bậc đa dạng, có sự đan xen giữa các lớp cán bộ trong từng phòng, ban

68

chức năng và khoa, bộ môn giảng dạy. Có đồng chí vừa tốt nghiệp, được tuyển

ngay về các phòng, ban và đơn vị giảng dạy, ngoài ra, có đồng chí trước khi về công

tác tại cơ quan đã từng là giảng viên các cơ sở giáo dục khác, cán bộ tại các đơn vị

thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm công tác, cấp bậc cao. Về chuyên ngành, cán bộ,

giảng viên được đào tạo từ nhiều trường trong và ngoài ngành Công an, tuỳ thuộc

vào lĩnh vực chuyên môn. Quá trình tích luỹ, trải nghiệm thực tiễn, đào tạo, bồi

dưỡng của mỗi người là khác nhau, làm cho cán bộ, giảng viên có sự phong phú, đa

dạng về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và phong cách công tác.

Thứ tư, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có tính kỷ luật, kỷ cương,

trung thực, trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, công bằng, khách quan

Các Học viện CAND vừa mang tính chất của cơ sở đào tạo, vừa là một đơn

vị sẵn sàng chiến đấu của lực lượng CAND, cán bộ, giảng viên đều có tác phong,

kỷ luật cao của người chiến sỹ CAND, thực hiện nghiêm túc điều lệnh CAND, kỷ

luật, kỷ cương, chấp hành pháp luật, điều lệnh, ý thức tổ chức kỷ luật trong CAND.

Họ vừa có tác phong khoa học, trung thực và trách nhiệm của một nhà giáo, cán bộ

nhà trường, thể hiện tấm gương mẫu mực về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách

nhiệm về công tác trước đồng chí, đồng nghiệp và học viên. Trong công tác chuyên

môn, cán bộ, giảng viên luôn thực hiện công bằng trong giáo dục, đánh giá đúng

thực chất năng lực của học viên; thực hiện đúng điều lệ, quy chế giáo dục của Học

viện, chống tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.

3.1.1.2. Vai trò của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Thứ nhất, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có vai trò là nhà giáo, nhà

sư phạm. Đây là vai trò truyền thống và tiên quyết nhất của cán bộ, giảng viên trong

các nhà trường nói chung và trong các Học viện CAND nói riêng. Vai trò của cán

bộ, giảng viên được thể hiện ở việc tham gia trực tiếp vào công tác giáo dục, đào

tạo, đổi mới giáo dục, đào tạo của Học viện, tạo ra sản phẩm là đội ngũ sỹ quan

CAND có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia, giữ

gìn trật tự an toàn xã hội.

Vai trò là nhà nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu khoa học là một trong

những nhiệm vụ của người cán bộ, đặc biệt là giảng viên và đồng thời khẳng định

69

tính chất “đại học”, là thành tố quan trọng để xác định đó là trung tâm đào tạo và

trung tâm nghiên cứu khoa học trọng điểm của Ngành công an. Với vai trò của nhà

khoa học, cán bộ, giảng viên có ba chức năng cơ bản là: nghiên cứu khoa học, ứng

dụng các kết quả khoa học công nghệ và công bố các kết quả nghiên cứu.

Vai trò là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội: Đã có những ý kiến cho rằng: là

cán bộ, giảng viên của trường đại học, đặc biệt là cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND thì không có vai trò dịch vụ xã hội, vì hoạt động của cán bộ, giảng viên

không vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải dịch vụ nào cũng nhằm mục

tiêu lợi nhuận, có những dịch vụ đặc biệt mà mục tiêu hướng tới là công ích xã hội

và cán bộ, giảng viên các Học viện có những hoạt động mang tính chất đó. Thực tế,

những hoạt động sau đã mang tính chất dịch vụ trí thức, như: tham gia công trình

nghiên cứu khoa học các cấp; viết bài báo khoa học đăng các báo, tạp chí chuyên

ngành; tổ chức và tham dự các hội thảo khoa học, thực tiễn; tư vấn không thu phí

những vấn đề pháp lý, nghiệp vụ cho các đơn vị thực tiễn; liên hệ và hướng dẫn học

viên thực tập, thực tế; cung cấp các thông tin khoa học đối với các nhà khoa học khi

có nhu cầu.

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an

nhân dân

3.1.2.1. Chức năng của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định:

Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chịu

trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về

bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm

mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm

pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [106, tr.13-14].

Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ của các Học viện CAND và lực lượng

CAND, mỗi cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có chức năng khác nhau tuỳ

thuộc vào vai trò, nhiệm vụ công tác được giao. Bao gồm:

Tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện lãnh đạo, chỉ đạo,

quản lý, hướng dẫn, triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và đổi

70

mới phương pháp dạy học từ thực tiễn của công tác quản lý chương trình, nội dung,

kế hoạch đào tạo, quản lý chất lượng giảng dạy của giảng viên và học viên, công tác

nghiên cứu khoa học, tổ chức, hậu cần và các công việc khác của nhà trường.

Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức thực hiện các hoạt động, trong đó,

chủ chốt là hoạt động giáo dục, đào tạo theo kế hoạch. Trực tiếp tiến hành một số

nhiệm vụ như: tuyển sinh, thanh tra, kiểm tra, khảo thí, kiểm định chất lượng giáo

dục, đào tạo. Để có thể hoàn thành chức năng, cán bộ cần phối hợp thường xuyên,

chặt chẽ với đội ngũ giảng viên.

Bên cạnh đó, đối với giảng viên, họ còn có chức năng giảng dạy, nghiên cứu

khoa học và quản lý, phục vụ xã hội. Cả ba chức năng giảng dạy - nghiên cứu khoa

học - dịch vụ ở mỗi giảng viên đều thể hiện rõ nét vì giữa chúng có mối liên hệ

tương hỗ hết sức chặt chẽ, bổ sung và làm phong phú lẫn nhau. Thực hiện đầy đủ và

toàn diện cả ba chức năng trên là một thách thức lớn không chỉ cho từng giảng viên

mà cho cả hệ thống giáo dục, đào tạo của các Học viện CAND.

3.1.2.2. Nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Căn cứ vào những quy định về chức năng, nhiệm vụ đối với cán bộ, giảng

viên trong hệ thống giáo dục quốc dân được quy định trong các văn bản pháp luật

hiện hành, cũng như yêu cầu của Bộ Công an, cán bộ, giảng viên trong các Học viện

CAND được cụ thể hoá trong những nhiệm vụ sau:

Cán bộ các Học viện CAND bao gồm: cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ

khác (tham mưu, hậu cần, tài chính, kỹ thuật…). Ngoài những nhiệm vụ, yêu

cầu cần có của người chiến sỹ CAND, họ cần đảm bảo các nhiệm vụ cụ thể tuỳ

thuộc vào vị trí công tác như: xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cho

từng đối tượng, loại hình đào tạo; lập kế hoạch với các công tác khác của Học

viện; tham mưu, đề xuất các biện pháp cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học,

nghiên cứu khoa học, áp dụng các kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của Học viện. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch,

vững mạnh, làm tốt công tác tham mưu, tổ chức, hậu cần, phục vụ cho nhiệm

vụ giáo dục, đào tạo của Học viện.

71

Giảng viên các Học viện CAND là chủ thể của hoạt động giảng dạy, quyết

định đến chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện. Nhiệm vụ của giảng viên các

Học viện CAND bao gồm:

Một là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ giảng dạy.

Đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất của giảng viên các Học viện

CAND, đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy trên lớp, hướng dẫn nghiên cứu, thực tập và

bồi dưỡng cán bộ giảng dạy. Nghiên cứu và nắm vững mục tiêu giáo dục, đào tạo,

đảm bảo nội dung giảng dạy gắn liền với thực tiễn công tác công an; tìm hiểu tư

tưởng, trình độ, khả năng nhận thức và hiểu biết của học viên; hướng dẫn sinh viên

tự học, thảo luận khoa học, thực tập. Giảng viên còn là người tổ chức và thực hiện

kế hoạch giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên, tham gia xây dựng và phát triển

các ngành học, cải tiến nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, chuẩn bị kế

hoạch giảng dạy.

Hai là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ nghiên cứu, thực nghiệm

khoa học - kỹ thuật và công nghệ.

Đây là nhiệm vụ quan trọng, nhằm phục vụ cho nhu cầu giáo dục toàn diện,

nâng cao chất lượng đào tạo, không những đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn công

tác công an mà còn khai thác được “tài nguyên” chất xám của giảng viên. Thực hiện

phương châm giáo dục, học tập, nghiên cứu gắn liền với thực tiễn công tác, chiến

đấu của ngành.

Ba là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng về

chính trị, tư tưởng và chuyên môn nghiệp vụ.

Nhiệm vụ trên không chỉ theo chương trình, kế hoạch của Bộ và Học viện

mà còn xuất phát từ sự tích cực, tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ của mỗi giảng viên. Đây cũng là điều kiện cần thiết để xây dựng

PCLV của cán bộ, giảng viên ngày càng nâng cao, đáp ứng được những yêu cầu đặt

ra về chất lượng đào tạo. Đối với mỗi cán bộ, giảng viên, các yêu cầu về mức độ

hiểu biết và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là khác nhau.

Bốn là, giảng viên các Học viện CAND có nhiệm vụ tham gia quản lý công

tác đào tạo của Học viện.

72

Nhiệm vụ tham gia quản lý công tác đào tạo của Học viện được thực hiện

thông qua các tổ chức chuyên môn, như: các bộ môn, các khoa, hội đồng khoa học,

các phòng ban chức năng và các tổ chức đoàn thể dưới các hình thức như: xây

dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập và nghiên

cứu; đánh giá kết quả giảng dạy và học tập; cải tiến và đề xuất những biện pháp

nâng cao chất lượng đào tạo. Giảng viên có trách nhiệm tham gia các công tác kiêm

nhiệm như: Lãnh đạo các khoa, bộ môn giảng dạy, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu các

cấp, các dự án giáo dục, đào tạo.

3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,

GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH HỒ

CHÍ MINH

3.2.1. Ưu điểm

3.2.1.1. Cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện Công an nhân dân nhận thức sâu

sắc và có trách nhiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo xây dựng phong cách làm việc cho

cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

Một là, cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND đã nhận thức đúng đắn về vai

trò, tầm quan trọng của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh

Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, Tổng cục Chính trị

CAND, Cục Đào tạo - Bộ Công an, cấp uỷ, lãnh đạo là Đảng uỷ, Ban Giám đốc,

cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị trong các Học viện CAND đã xác định: Cán bộ, chiến sỹ

CAND, ngoài những tiêu chuẩn về phẩm chất, chính trị, đạo đức, tinh thần phục vụ

nhân dân thì PCLV cũng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực, chất lượng

hoạt động của cán bộ, chiến sỹ. Đối với cán bộ, giảng viên công tác tại các nhà

trường Học viện CAND, PCLV là yếu tố rất quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu

quả công tác giáo dục, đào tạo của Học viện.

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Trên cơ sở đó,

dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, Đảng uỷ các Học viện đã

thường xuyên tổ chức triển khai, quán triệt kịp thời đến cán bộ, giảng viên, nhấn

73

mạnh những yêu cầu mới, nội dung quan trọng của Chỉ thị; xác định rõ trách nhiệm

của các cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy trong Học viện, nhất là người đứng đầu đơn vị

trong tổ chức thực hiện; nhằm thống nhất nhận thức, nắm vững vai trò, nội dung cơ

bản tư tưởng, đạo đức, đặc biệt là PCLV của Hồ Chí Minh đối với cán bộ, giảng

viên. Các Học viện đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai thực hiện

gắn với học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy, thực hiện Nghị quyết Trung ương

4, khóa XII của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xây dựng nếp sống văn hoá trong

toàn Học viện.

Bên cạnh đó, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND

còn tổ chức, chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo nâng cao

văn hóa ứng xử CAND trong tình hình mới; Quy tắc ứng xử văn hóa trong CAND

và phát động Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân

văn, vì nhân dân phục vụ” trong toàn lực lượng. Nội dung cốt lõi là xây dựng phong

cách người CAND bản lĩnh trong công tác, chiến đấu, sinh hoạt, ứng xử nhân văn,

vì nhân dân phục vụ. Đây là căn cứ quan trọng để các Học viện CAND tập trung

vào công tác xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên.

Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện đã tập trung và phát huy vai trò lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về tổ chức, yêu cầu các đơn vị chức

năng xây dựng, từng bước triển khai đồng bộ mọi nhiệm vụ từ các khâu trong công

tác. Báo cáo Chính trị của Đảng bộ Học viện ANND nêu: “Đã xây dựng Đề án Phát

triển và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Học viện ANND nhằm

nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng

viên đáp ứng nhu cầu phát triển của Học viện” [36, tr.19]. Ở Học viện CSND, công

tác xây dựng, đào tạo trong đó có việc rèn luyện, bồi dưỡng phong cách, tác phong

làm việc của cán bộ, giảng viên được Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị xác

định là vấn đề quan trọng trong hoạt động đổi mới của nhà trường.

Hai là, cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND đã nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn và tham gia xây dựng PCLV cho

cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

74

Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã thường

xuyên quán triệt, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức,

hướng dẫn cán bộ, giảng viên, đồng thời tham gia trực tiếp trong quá trình xây dựng

PCLV, coi đó là một nhiệm vụ then chốt trong mục tiêu phát triển chung và được

thể hiện trên mọi lĩnh vực công tác của Học viện.

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành

Trung ương “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA ngày 28/10/2014

của Đảng uỷ Công an Trung ương về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào

tạo trong CAND”, trong những năm qua, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện

CAND đã chủ động tích cực triển khai xây dựng, đổi mới chương trình đào tạo, bồi

dưỡng, rèn luyện phương pháp, PCLV, phát huy năng lực của cán bộ, giảng viên

theo chủ trương chung của Bộ Giáo dục - đào tạo và Bộ Công an. Đồng thời, thực

hiện nghiêm túc việc xây dựng các văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá các quy định của

Bộ về quản lý đội ngũ cán bộ, giảng viên phù hợp với thực tế từng trường.

Ngay từ đầu các năm học, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện đã chỉ đạo

xây dựng, thực hiện chương trình công tác giáo dục, rèn luyện tác phong làm việc

của cán bộ, giảng viên theo từng tháng, quý và năm học thông qua nhiều nội dung,

hình thức, biện pháp tổ chức phong phú, sát hợp; thường xuyên phổ biến, cập nhật

tình hình chính trị, thời sự trong nước và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức thực tiễn

cho cán bộ, giảng viên; triển khai nhiều đợt sinh hoạt chính trị với hình thức phong

phú, có ý nghĩa sâu rộng trong toàn Học viện, gắn với các sự kiện lịch sử của Đảng,

ngành và của Học viện. Tổ chức có kế hoạch, nghiêm túc việc học tập, quán triệt và

triển khai thực hiện các văn bản, chỉ thị quan trọng của Đảng, Bộ Công an, như:

“CAND học tập thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “CAND chấp hành nghiêm điều

lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”. Hoạt động này càng được

tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa từ khi triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày

15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức

75

và phong cách Hồ Chí Minh”, “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân

văn, vì nhân dân phục vụ”.

Dưới sự lãnh đạo và quan tâm sát sao của lãnh đạo Bộ Công an, các Học

viện đã có những chuyển biến rõ nét trong chỉ đạo và thực hiện đổi mới phong cách,

phương pháp, nâng cao tính chủ động, khả năng tự học, coi trọng việc rèn luyện tay

nghề, nhân cách nghề nghiệp cho cán bộ, giảng viên.

Do thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về mọi

mặt, trong đó có PCLV nên chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện đã

được nâng lên rõ rệt về mặt trình độ chuyên môn. So sánh các năm học, số lượng

cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ và đại học đều tăng qua các năm. So

sánh với năm học 2013 – 2014, năm học 2018 - 2019, tỷ lệ cán bộ, giảng viên có

trình độ tiến sỹ tăng 104 %; trình độ thạc sỹ tăng 62,1%; trình độ đại học, cao đẳng

giảm 17,5% so với năm học; tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình độ trung cấp giảm còn

67,8%, tập trung đa số ở đội ngũ cán bộ lĩnh vực hậu cần, tài chính.

Chức danh của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng không ngừng

tăng lên qua các năm. Năm học 2017 - 2018, các Học viện CAND, cán bộ, giảng

viên đạt tiêu chuẩn chức danh Giáo sư tăng 71,4% so với năm 2013 - 2014, cán bộ,

giảng viên đạt tiêu chuẩn chức danh Phó giáo sư tăng 69% so với năm 2013 - 2014,

tỷ lệ lớn tập trung chủ yếu ở Học viện CSND, Học viện ANND.

Số liệu trên cho thấy trình độ chuyên môn, chức danh, danh hiệu của cán bộ,

giảng viên các Học viện CAND không ngừng tăng qua các năm học, thể hiện sự

phát triển, nâng cao trong phong cách, phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ,

giảng viên. Trong quá trình xây dựng, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các

Học viện CAND đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong hoạt động lãnh

đạo, quản lý, điều hành, nêu cao ý thức trách nhiệm, phát huy trí tuệ tập thể, tạo

được sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ năm học và công tác xây dựng,

phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên nhà trường ngày càng nâng cao về PCLV và

trình độ năng lực chuyên môn.

76

3.2.1.2. Những ưu điểm trong phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên

các Học viện Công an nhân dân

Một là, đại đa số cán bộ, giảng viên có PCLV quần chúng, gắn bó, phát huy

vai trò của học viên

Đối với cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, xây dựng, rèn luyện PCLV

chính là nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường, góp

phần hình thành nên các thế hệ học viên có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Dưới sự lãnh

đạo, chỉ đạo xây dựng PCLV của các Học viện CAND, cán bộ, giảng viên luôn đặt

quyền lợi của học viên lên trên hết, thật sự gần gũi, quan tâm giúp đỡ học viên về

mặt học tập và rèn luyện. Trong công tác giảng dạy và quản lý, cán bộ, giảng viên

có những phương pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng, lấy học viên làm trung

tâm, cán bộ, giảng viên từ phong cách, phẩm chất của bản thân đã tạo được niềm

tin, sự kính trọng của người học. Nhờ đó, học viên luôn tin tưởng và cố gắng để

nâng cao thành tích trong học tập và rèn luyện, kết quả phân loại học viên hàng năm

luôn đạt vượt mức chỉ tiêu:

Tỉ lệ học viên có kết quả phân loại từ loại khá trở lên luôn đạt trên 60%, số

học viên đạt loại kết quả xuất sắc, giỏi luôn duy trì trên 9%, tình hình học

viên vi phạm bị xử lý kỷ luật bằng các hình thức trong các năm học luôn

được kiểm soát và duy trì đạt mức dưới 5% lưu lượng học viên [18, tr.11].

Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có PCLV gắn liền với

quần chúng nhân dân, trọng dân, lắng nghe góp ý của nhân dân; vận động, thuyết

phục nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an ninh, trật tự; tham gia tích cực đẩy mạnh

cuộc vận động “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hoá, vì

nhân dân phục vụ”. Căn cứ theo Hướng dẫn số 6777/HD-X11 của Tổng cục Xây

dựng lực lượng CAND ngày 20/06/2014, các cán bộ, giảng viên đã tích cực tham

gia cùng chính quyền, công an địa phương và các đoàn thể quần chúng thực hiện

tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần giữ gìn

77

an ninh, trật tự an toàn xã hội và tham gia giải quyết các vấn đề về trật tự, an ninh

tại địa phương khi có yêu cầu. Đồng thời, cán bộ, giảng viên thông qua công tác dân

vận thực tiễn tại địa phương đã tích cực vận động nhân dân hưởng ứng và tham gia

các phong trào như: Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hoá ở khu dân cư.

Hai là, cán bộ, giảng viên đã hình thành PCLV dân chủ, phát huy trí tuệ tập

thể và vai trò, trách nhiệm cá nhân

Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, Đảng bộ các Học viện

CAND, cán bộ, giảng viên luôn thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,

phát huy vai trò cá nhân và tập thể, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, khắc phục yếu

kém, thoái hóa, biến chất nảy sinh từ cơ sở; nêu gương người tốt, việc tốt, phê phán

những biểu hiện cá nhân, tư tưởng cơ hội, lối sống thực dụng và các biểu hiện tiêu

cực trong giáo dục.

Cán bộ, giảng viên đã thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong nhà

trường, gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, sự phân công, điều

động của tổ chức; đi đầu thực hiện nền nếp, các quy chế, quy định của tổ chức, cơ

quan, đơn vị. Nhận thức sâu sắc việc xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí

Minh, cán bộ, giảng viên luôn đi liền với tự phê bình và phê bình, thường xuyên tự

giác thực hiện “tự soi, tự sửa”, bảo đảm công tác tự phê bình và phê bình đi vào

thực chất; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, lãng

phí, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và trong

nội bộ. Đồng thời, việc kiểm tra, giám sát quá trình nâng cao, đổi mới phương pháp,

tác phong công tác cũng được nâng cao.

Cán bộ, giảng viên có ý thức phát huy trí tuệ và tôn trọng tập thể, được thể

hiện rõ nét trong các mặt như: hết lòng chăm lo xây dựng và tăng cường đoàn kết

nội bộ; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần; hợp tác; chân thành giúp đỡ đồng

chí, đồng nghiệp trong công tác và trong cuộc sống để cùng nhau tiến bộ; bảo vệ uy

tín, danh dự chính đáng của đồng chí, đồng nghiệp; không tranh công, đổ lỗi, né

tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khuyết điểm cho người khác.

78

Ba là, đại bộ phận cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã hình thành

PCLV khoa học, có chương trình, kế hoạch, đồng thời luôn đổi mới, sáng tạo

Hệ thống các Học viện CAND là những cơ sở đào tạo đại học có bề dày

truyền thống đi đầu trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của ngành Công an. Quán triệt

sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng và của Ngành về đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục, đào tạo trong CAND, các cán bộ, giảng viên trong giảng dạy, thực

hiện nhiệm vụ luôn học hỏi, rèn luyện PCLV khoa học, tuân thủ với chương trình,

mục đích, kế hoạch đề ra. Ngay từ đầu năm học, cán bộ, giảng viên đều nắm rõ

phương hướng nhiệm vụ của Học viện và kế hoạch của đơn vị để từ đó xác định

nhiệm vụ và xây dựng chương trình, kế hoạch cho cá nhân. Đặc biệt, hiện nay, quy

mô đào tạo, bồi dưỡng của các Học viện ngày càng tăng, yêu cầu công việc ngày

càng nhiều, nếu làm việc không có kế hoạch sẽ dễ dẫn đến tình trạng bỏ sót công

việc, hoàn thành được nhiệm vụ này thì nhiệm vụ khác lại hạn chế.

Ở các Học viện CAND, hàng năm, tỷ lệ cán bộ, giảng viên thực hiện vượt

định mức công tác luôn ở mức cao, năm học 2013 - 2014, tỷ lệ vượt định mức của

giảng viên là 215,9%, đến năm học 2018 - 2019, tỷ lệ trên đã đạt 576,9%. Tỷ lệ

giảng viên có công tác vượt định mức tập trung chủ yếu tại Học viện ANND và

Học viện CSND, nơi có số lượng lượt lớp và lưu lượng học viên cao. Không chỉ

hoàn thành công việc vượt chỉ tiêu được giao, cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND còn đạt nhiều kết quả tích cực trong các lĩnh vực công tác chuyên môn khác

như: biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học. Sự tiến bộ trong PCLV của

cán bộ, giảng viên các Học viện CAND không chỉ trong lĩnh vực công tác chuyên

môn mà còn thể hiện trong năng lực nghiên cứu khoa học. Hàng năm, cán bộ, giảng

viên các Học viện CAND đều tích cực nghiên cứu khoa học các cấp. Năm học 2017 -

2018, các Học viện CAND đã thực hiện 57 đề tài cấp cơ sở, 40 đề tài cấp Bộ và 5 đề

tài khoa học cấp Nhà nước. Đến năm học 2018 - 2019, số lượng đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ do cán bộ, giảng viên các Học viện thực hiện tăng lên 10% và cấp

Nhà nước tăng 100%. Ngoài ra, số lượng các chương trình, giáo trình, tài liệu phục

vụ giảng dạy, nghiên cứu và học tập do cán bộ, giảng viên các Học viện thực hiện

79

hàng năm luôn đạt mức cao, thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo sâu sắc của Đảng uỷ, Ban

Giám đốc trong việc đôn đốc, quản lý, bám sát các nội dung công tác của Học viện

và tinh thần, thái độ và PCLV khoa học, nghiêm túc, đồng thời luôn chú ý tìm tòi,

sáng tạo trong nghiên cứu, gắn lý luận với thực tiễn công tác để cho ra những công

trình khoa học có giá trị và chất lượng. Cán bộ, giảng viên, nhất là lãnh đạo khoa,

bộ môn, giảng viên chính, chuyên viên cao cấp không những có năng lực giải

quyết các vấn đề khoa học lý luận mà còn am hiểu thực tế, giỏi thực hành giải

quyết vấn đề thực tiễn.

Trên cơ sở xây dựng quan hệ phối hợp gắn bó với Công an các đơn vị, địa

phương, các đơn vị ngoài ngành, hợp tác quốc tế, cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND đã tích cực cập nhật, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp qua thực tiễn công tác, chiến

đấu để vận dụng vào giảng dạy, công tác, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

Theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đi đào tạo, bồi

dưỡng nâng cao trình độ ngày càng tăng qua các năm. Năm học 2017 - 2018, cán

bộ, giảng viên đi học nghiên cứu sinh tăng 86% so với năm học 2016 - 2017, trong

đó tập trung ở khối giảng viên; cán bộ, giảng viên đi học cao học tăng 24% so với

năm học 2016 - 2017. Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên còn tích cực tham gia bồi

dưỡng, học tập bổ sung trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ, nghiệp vụ sư phạm và

các loại hình bồi dưỡng khác để nâng cao PCLV, chuyên môn của bản thân. Từ quá

trình học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, PCLV của cán bộ, giảng viên ngày càng

được cải thiện, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nâng cao trình độ chuyên môn và

đổi mới PCLV.

Ngoài ra, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND không chỉ tích cực học tập,

nghiên cứu ở trong nước, mà còn tham gia vào các hoạt động triển khai hợp tác

quốc tế. Một số cán bộ, giảng viên đã tham gia và đóng góp nhiều nội dung quan

trọng tại các diễn đàn hợp tác với tổ chức quốc tế có liên quan đến công tác đào tạo

an ninh, cảnh sát để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ với các cơ

quan an ninh, cảnh sát các nước. Bên cạnh việc trao đổi kinh nghiệm, mời các

80

chuyên gia nước bạn sang giảng dạy, “một số Học viện CAND đã chủ động triển

khai các dự án hợp tác, các đề tài nghiên cứu với các cơ sở đào tạo an ninh, cảnh sát

nước bạn” [25, tr.17]. Qua đó, cán bộ, giảng viên có cơ hội học hỏi, tìm hiểu các

phong cách, phương pháp làm việc tiến bộ từ các nước bạn để bổ sung, hoàn thiện

PCLV của bản thân.

Xác định nhiệm vụ xây dựng, rèn luyện PCLV khoa học, thực tiễn, cán bộ,

giảng viên thường xuyên đề xuất tổ chức và nghiên cứu các vấn đề thực tiễn chiến

đấu của lực lượng CAND. Vì vậy, số lượng các đề tài, sáng kiến cải tiến, bài báo,

báo cáo khoa học, hội thảo khoa học tăng hàng năm và chất lượng được đảm bảo so

với thời gian trước đây. Những đề tài nghiên cứu đều là các công trình có giá trị cao

về lý luận và thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học giúp lãnh đạo Bộ Công an

và Công an các đơn vị, địa phương hoạch định các chủ trương, biện pháp đấu tranh

trong thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao PCLV khoa học, xuất phát từ

thực tiễn, cung cấp những kiến thức thực tế sinh động để cán bộ, giảng viên vận

dụng vào công tác và biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học của các Học viện.

Căn cứ thông tư số 44/2014/TT-BCA “Quy định về công tác thực tế của các

chức danh giảng dạy, huấn luyện trong các học viện, trường đại học, cao đẳng và

trung cấp CAND”, các Học viện CAND đã quyết liệt thực hiện chủ trương luân

chuyển, đi thực tế tại các đơn vị, địa phương đối với giảng viên để cập nhật kiến

thức thực tiễn phục vụ giảng dạy và coi đây là một trong những điểm “đột phá” của

công tác xây dựng, bồi dưỡng phong cách của giảng viên theo hướng lý luận gắn

liền với thực tiễn.

Theo thống kê, từ năm học 2013 - 2014 đến năm học 2018 - 2019, trung bình

mỗi năm các Học viện CAND đã cử 201 lượt giảng viên đi thực tế và 42,6 lượt

giảng viên đi luân chuyển. Việc luân chuyển có thời hạn và thực tế, trực tiếp thực

hiện các mặt công tác nghiệp vụ tại Công an các đơn vị, địa phương, các cơ sở hoạt

động chuyên môn giúp giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục rèn luyện bản lĩnh nghề

nghiệp, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực tế, tạo điều kiện cơ hội để giảng viên tiếp

xúc, gắn bó với nhân dân. Đồng thời, là phương pháp kiểm tra lý luận nhằm kịp thời

bổ sung, sửa đổi những kiến thức đã lỗi thời, đưa hơi thở thực tiễn công tác vào bài

81

giảng, góp phần đảm bảo chất lượng và nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học. Do

đó, hoạt động luân chuyển, thực tế là một trong những yêu cầu, tiêu chí cần thiết,

luôn được lãnh đạo các Học viện CAND đặc biệt quan tâm.

Bên cạnh đó, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã không

ngừng đổi mới, sáng tạo, thể hiện đa dạng trên các mặt công tác như: đổi mới công

tác quản lý đào tạo một cách cơ bản, vững chắc, phù hợp với tình hình thực tế theo

hướng: Quy trình hoá công tác quản lý, chuẩn hoá các tiêu chí quản lý, ứng dụng

mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo và phương pháp đào tạo. Xây

dựng và đổi mới chương trình đào tạo các ngành, thực hiện chuyển đổi đào tạo theo

tín chỉ ở tất cả các trình độ. Tăng cường các hoạt động sau giảng lý thuyết thông

qua: tổ chức câu lạc bộ học tập; tham dự phiên tòa xét xử tại Tòa án nhân dân; tổ

chức cho học viên tham gia đóng vai những người tham gia tố tụng để giải quyết

một số vụ án cụ thể; tổ chức cho học viên đi thực tế chính trị, xã hội.

Trong giảng dạy, các giảng viên đã cập nhật những vấn đề mới về lý luận,

đưa các kết quả tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm xử lý các vấn đề phức tạp về an

ninh, trật tự vào nội dung bài giảng. Giảng viên có sự đổi mới mạnh mẽ phương

pháp dạy học, tích cực phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại (phương pháp làm

việc nhóm, nêu vấn đề, đóng vai, phương pháp tình huống, dạy học theo dự án, dạy

học định hướng hành động…), gia tăng các hoạt động sau giảng, phát huy tính tích

cực, chủ động học tập của học viên.

Phong trào dạy giỏi tiếp tục được triển khai với ý nghĩa đổi mới, nâng cao

phong cách, phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực, hiện đại của giảng viên.

Công tác dạy giỏi các cấp thường xuyên được tổ chức và là một tiêu chí đánh giá

năng lực, phương pháp giảng dạy, yêu cầu bắt buộc để xét chức danh của giảng

viên. So sánh với năm học 2013 – 2014, kết quả thực hiện bài dạy giỏi của giảng

viên năm học 2015 - 2016 tăng 43,1%; giảng viên được nhận danh hiệu giảng viên

dạy giỏi cấp Bộ tăng 34,7%, giảng viên được nhận danh hiệu giảng viên dạy giỏi

cấp Học viện tăng 31,4%. Số liệu trên đã khẳng định đội ngũ giảng viên các Học

viện CAND đã không ngừng đổi mới, nâng cao PCLV thể hiện trong việc cập nhật

nội dung và học hỏi, áp dụng các phương pháp dạy học tiến bộ thông qua việc thực

82

hiện bài dạy giỏi, một yêu cầu bắt buộc đối với việc nâng cao chức danh của giảng

viên trong các nhà trường CAND.

Bốn là, cán bộ, giảng viên các Học CAND đã hình thành PCLV khách quan,

công bằng, nhiệt tình thực hiện nhiệm vụ công tác

Quá trình công tác, mỗi cán bộ, giảng viên đều thể hiện sự tâm huyết với

nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm của người cán bộ, giảng viên; có

tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công

tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng

nghiệp; tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị,

của ngành; có PCLV công bằng, khách quan trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá

đúng thực chất năng lực của người học. Không ngừng nghiên cứu, tìm tòi phương

pháp, phương tiện để đáp ứng yêu cầu giảng dạy nâng cao chất lượng đào tạo và

thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác.

Cán bộ, giảng viên có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ

công tác được giao. Cán bộ, giảng viên các nhà trường trong đó có các Học viện đã

thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ chính trị của ngành, tích cực

tham gia các sự kiện của đất nước, Bộ và địa phương nơi trường đóng quân. Nhiệt

tình hướng dẫn học viên trong các hoạt động học tập và rèn luyện. Nhờ sự khuyến

khích, hướng dẫn tận tình của giảng viên và cán bộ trong việc tạo điều kiện thuận

lợi để sinh viên nghiên cứu khoa học, tham gia các cuộc thi trí tuệ, tài năng, nên

hàng năm, sinh viên đều nhiệt tình tham gia, thực hiện các chuyên đề, công trình

khoa học, trong đó “sinh viên của một số Học viện đã đạt giải cao trong các kỳ thi

Olympic, thi tìm hiểu cấp quốc gia và quốc tế” [18, tr.7].

Năm là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã hình thành PCLV nêu

gương, nói đi đôi với làm

Xác định PCLV không chỉ đơn giản là việc riêng của cán bộ, giảng viên mà

còn là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác, giảng dạy và uy tín của

mỗi Học viện CAND. Do đó, mỗi cán bộ, giảng viên đã hình thành PCLV chuẩn

mực, nêu gương, giữ gìn hình ảnh người chiến sỹ Công an cách mạng, hình ảnh

người giảng viên, thực hiện lời nói luôn đi đôi với hành động.

83

Với nhiệm vụ không chỉ giáo dục, đào tạo học viên về mặt kiến thức, pháp

luật, nghiệp vụ mà cán bộ, giảng viên các Học viện còn có trách nhiệm rất lớn trong

việc giáo dục học viên về lễ tiết, tác phong, đạo đức và nhân cách. Vì vậy, mỗi cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND đã nâng cao vai trò trách nhiệm của bản thân

trong việc nêu gương, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước đồng nghiệp, học viên

bằng những việc làm thiết thực như: nêu tấm gương nói đi đôi với làm, về thực

hành những phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chấp hành nghiêm túc giờ

giấc làm việc, gương mẫu, chuẩn mực trong phát ngôn, tư thế, tác phong, phấn đấu

khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong công tác cũng

như trong rèn luyện. Người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các Học viện đã chủ động

nêu gương, có nhiều sáng kiến, cải tiến trong công tác tham mưu, hướng dẫn, kiểm

tra, tổ chức thực hiện, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, tác phong trong Học viện.

Phong cách làm việc nêu gương, nói đi đôi với làm của cán bộ, giảng viên thể

hiện trong công tác, học tập, rèn luyện và thực hiện các văn bản, chương trình của

Đảng, của ngành như: thực hiện nghiêm túc quy định về đạo đức nhà giáo theo Quyết

định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào

tạo; các cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì

nhân dân phục vụ” nhằm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của

Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

trong nội bộ”, chương trình hành động số 08-CTr/ĐUCA; Thông tư số 27/2017/TT-

BCA, ngày 22/8/2017, của Bộ trưởng Bộ Công an “Quy định về quy tắc ứng xử của

CAND”. Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên còn tham gia tích cực và thực hiện có hiệu

quả nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua trong toàn lực lượng: “CAND học tập,

thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Đề án “Công tác phát triển và nâng cao chất

lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các trường, các Học viện CAND”

đã đánh giá: “Đại đa số cán bộ, giảng viên có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức

nghề nghiệp, sống mẫu mực, lành mạnh, trong sáng, tích cực học tập, nâng cao trình

84

độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, có tinh thần trách nhiệm

cao trong thực hiện nhiệm vụ” [26, tr.7]. Qua các phong trào, những tấm gương

điển hình tiên tiến trong giảng dạy và công tác chuyên môn đã được tôn vinh, nhân

rộng trong các Học viện và toàn lực lượng CAND.

Từ kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện phong cách PCLV nêu gương,

nói đi đôi với làm, hiệu quả thực hiện công việc, hàng năm, đã có nhiều cán bộ,

giảng viên các Học viện CAND được nhận huân huy chương, bằng khen, giấy khen

biểu dương những thành tích xuất sắc trong học tập, rèn luyện phong cách, năng

lực. So với năm học 2013 - 2014, trong năm học 2017 - 2018, cán bộ, giảng viên

được nhận huân chương tăng 217%, cán bộ, giảng viên được nhận huy chương tăng

50,1% và bằng khen, giấy khen tăng 96,2%, đó cũng là một trong những kết quả

ghi nhận sự tiến bộ, hiệu quả trong PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên.

3.2.2. Hạn chế

3.2.2.1. Về nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện

Công an nhân dân trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, giảng viên

Một là, Đảng uỷ, Ban Giám đốc trong Học viện CAND chưa nâng cao nhận

thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, giám sát các hoạt động xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên

Về cơ bản, Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND đã có nhận thức

đúng đắn, nêu cao vai trò, trách nhiệm trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn Đảng uỷ, Ban Giám đốc nhận thức chưa đầy

đủ về vai trò, sự cấp thiết của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên Học

viện. Vẫn còn một số quan điểm cho rằng, ở các Học viện CAND, cán bộ, giảng

viên đều là những người có năng lực, trách nhiệm, trình độ chuyên môn cao, tác

phong nhạy bén của người chiến sỹ CAND, vì vậy, việc bồi dưỡng, rèn luyện

PCLV cho đội ngũ này chủ yếu xuất phát từ bản thân họ là chính, bằng phương

pháp tự học tập, trau dồi, rèn luyện.

Từ nhận thức trên, Đảng uỷ, Ban Giám đốc ở một số Học viện CAND có lúc

còn chưa thực sự quyết liệt, đi đầu trong xác định vai trò, trách nhiệm chỉ đạo kịp

85

thời xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch, biện pháp rèn luyện PCLV của cán

bộ, giảng viên, chủ yếu tập trung vào hệ thống lãnh đạo cấp đơn vị của Học viện.

Trách nhiệm của từng đồng chí đảng uỷ viên, uỷ viên thường vụ Đảng

uỷ có lúc chưa thật sâu sát, chỉ đạo chưa quyết liệt, hoặc do bận nhiều

công việc nên thời gian cần thiết dành để đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc

thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị chức năng được giao phụ trách còn

chưa thoả đáng [36, tr.44-45].

Ngoài ra, công tác chỉ đạo hợp tác giáo dục, đào tạo quốc tế, tạo điều kiện

cho cán bộ, giảng viên nâng cao phong cách, phương pháp tiến bộ từ những nền

giáo dục trên thế giới tuy được chú trọng nhưng mới chỉ “tập trung hợp tác, trao đổi

với những nước bạn truyền thống như Lào, Campuchia, Cộng hoà Liên bang Nga,

chứ chưa có chương trình hợp tác, liên kết đào tạo, liên kết nghiên cứu khoa học với

các trường ở các nước phát triển khác” [17, tr.281].

Hai là, lãnh đạo đơn vị ở các Học viện CAND chưa nâng cao nhận thức,

trách nhiệm trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên.

Lãnh đạo đơn vị ở các Học viện CAND là những người quản lý, làm việc

trực tiếp đối với cán bộ, giảng viên. Trên thực tế, vẫn còn có nhận thức cho rằng:

việc xây dựng PCLV Hồ Chí Minh trách nhiệm chủ yếu thuộc về lãnh đạo cấp trên

của Học viện và ý thức, trách nhiệm của bản thân mỗi cán bộ, giảng viên là quyết

định. Xuất phát từ nhận thức đó, cấp uỷ, lãnh đạo các đơn vị trong một số Học viện

chưa phát huy hết trách nhiệm trong hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên. Trong quá trình tổ chức thực hiện, việc chỉ đạo, hướng dẫn của lãnh đạo quản

lý các khoa, phòng, bộ môn, trung tâm chưa nhạy bén, linh hoạt, thiếu sự chủ động,

sáng tạo trong việc hướng dẫn, triển khai hoạt động. “Trong đơn vị, còn tình trạng

bố trí cán bộ, giảng viên chưa khoa học, hợp lý, công tác quản lý cán bộ, giảng viên

về hiệu quả chưa cao. Việc quán triệt các nghị quyết, phong trào thi đua còn có biểu

hiện mang nặng tính hình thức” [36, tr.66].

Đối với cán bộ phụ trách công tác tham mưu, thực hiện chuyên môn của các

đơn vị chức năng, PCLV còn chậm chạp, thiếu nhạy bén: “Hoạt động tham mưu,

86

giúp việc của các đơn vị, bộ phận chức năng, cán bộ làm chuyên trách có lúc chưa

kịp thời, thiết nhạy bén nên một số công việc tiến độ triển khai thực hiện chậm, việc

chỉ đạo sơ kết, tổng kết các mặt công tác đôi khi chưa kịp thời với yêu cầu đề ra”

[38, tr.44-45].

Trong hoạt động thực tiễn, còn có biểu hiện nể nang, né tránh, chưa quyết

liệt trong phê bình, góp ý để cán bộ, giảng viên có thể khắc phục những khuyết

điểm, hạn chế trong phong cách, tác phong công tác. Công tác quản lý cán bộ, giảng

viên ở một vài đơn vị còn thiếu tính chặt chẽ, chưa chủ động ngăn ngừa, phát hiện

những khuyết điểm trong PCLV của cán bộ, giảng viên, làm ảnh hưởng đến hiệu

quả công tác chung của nhà trường. Việc triển khai các nhiệm vụ xây dựng còn

thiếu thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, công tác kiểm tra giám sát có lúc còn thiếu

chủ động nên dẫn đến tình trạng quản lý cán bộ, giảng viên ở một số trường chưa

chặt chẽ, không phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm. Công tác tuyên

truyền, nhân rộng những mô hình, tấm gương, điển hình tiên tiến trong thực hiện,

rèn luyện PCLV chưa được chú trọng.

3.2.2.2. Những hạn chế về ý thức, trách nhiệm và phong cách làm việc của

cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Thứ nhất, một số cán bộ, giảng viên ở các Học viện CAND chưa nêu cao ý

thức, trách nhiệm trong tự học tập, tự xây dựng, hoàn thiện PCLV

Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục, đào tạo trong CAND theo yêu cầu của Bộ Công an. Mỗi cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND đã xác định vai trò, trách nhiệm của bản thân trong đổi mới

phương pháp, tác phong làm việc bằng tinh thần chủ động, tích cực tự học tập, rèn

luyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác. Tuy nhiên, vẫn còn có cán bộ, giảng viên

chưa tự giác nâng cao ý thức và nghiêm túc tự rèn luyện, đổi mới tác phong, lề lối

làm việc, do đó, hiệu quả, chất lượng công tác không cao, chưa đáp ứng được yêu

cầu của thực tiễn ngày càng phát triển của công tác giáo dục, đào tạo của mỗi Học

viện. Đối với giảng viên, có một bộ phận coi việc thực hiện bài dạy giỏi là yêu cầu

bắt buộc, chứ không phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của giảng viên để nâng cao

hiệu quả, đổi mới nội dung, phong cách, phương pháp giảng dạy:

87

Công tác dạy giỏi chưa thực sự là nhu cầu tự thân của giảng viên để

nâng cao, đổi mới phương pháp, nội dung bài giảng mà chủ yếu là do

yêu cầu của chuẩn hoá chức danh, do đó có hiện tượng giảng viên đã

đủ các tiêu chuẩn chức danh thường không tích cực tham gia thực hiện

bài dạy giỏi [14, tr.8].

Chính từ nguyên nhân trên, nên tuy công tác dạy giỏi của giảng viên các Học

viện được duy trì nhưng luôn giữ mức ổn định giữa các năm, không có sự tăng lên

vượt bậc của số lượng bài dạy giỏi, mặc dù số lượng giảng viên qua các năm đều

tăng, như: Năm học 2013 - 2014, các Học viện CAND giảng viên thực hiện bài dạy

giỏi cấp trường chiếm 18,3%. Đến năm học 2017 - 2018, số lượng giảng viên tăng

lên, thực hiện bài dạy giỏi cấp trường chỉ chiếm 13,1%, về tỷ lệ giảm hơn hẳn so

với các năm học trước. Trong đó, năm học 2015 - 2016, số lượng bài dạy giỏi cấp

trường, danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ, cấp trường tăng cao do năm học này,

Bộ Công an tổ chức Hội thi giảng viên dạy giỏi khối các trường đại học, các Học

viện CAND. Danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ, cấp Học viện cũng giữ mức ổn

định qua các năm, không có sự thay đổi nhiều. Năm học 2013 - 2014, giảng viên

nhận danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Bộ chiếm 2,67% và giảng viên nhận danh

hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Học viện chiếm 6,3%. Đến năm học 2017 - 2018, số

giảng viên các Học viện đã tăng, nhưng giảng viên nhận danh hiệu dạy giỏi cấp Bộ

chỉ chiếm 2,3% và danh hiệu giảng viên dạy giỏi cấp Học viện chiếm 6,04%. Bên

cạnh đó, “đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, hậu cần của một số Học viện chưa

chuyên nghiệp” [14, tr.18].

Chính từ những nhận thức của các chủ thể xây dựng PCLV và ý thức tự học

tập, rèn luyện ở một số cán bộ, giảng viên chưa cao nên các Học viện CAND trong

lộ trình xây dựng mặc dù đã có sự cố gắng, mặt bằng trình độ đội ngũ cán bộ, giảng

viên được nâng lên nhưng vẫn chưa đạt các chỉ tiêu phấn đấu về nâng cao trình độ

theo Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Công an giai đoạn 2011 - 2020, đặc biệt

là đối với Học viện ANND và Học viện CSND đang trên lộ trình phát triển thành

trường trọng điểm quốc gia. Theo đó, để đạt tiêu chuẩn, các Học viện CAND phải

88

phấn đấu “đội ngũ giảng viên có trình độ đạt tỷ lệ 40% là tiến sỹ, 55% là thạc sỹ;

đội ngũ cán bộ có trình độ tiến sỹ 35%, thạc sỹ là 60%” [13, tr.3].

Tuy nhiên, theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ,

thạc sỹ ở 2 Học viện đầu ngành của lực lượng CAND cần cố gắng hơn nữa để đạt

yêu cầu theo Quyết định số 5620/QĐ-BCA-X11 ngày 15/11/2012 của Bộ trưởng

Bộ Công an phê duyệt Đề án về “Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng

viên các trường CAND” và Đề án xây dựng Học viện ANND, Học viện CSND trở

thành trường trọng điểm quốc gia. Do đó, để đạt được mục tiêu nâng cao đồng bộ,

toàn diện PCLV của cán bộ, giảng viên, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị

và trực tiếp là mỗi cán bộ, giảng viên cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức

thái độ, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, kỹ năng, phong cách

của bản thân, đáp ứng yêu cầu được giao. Tình hình trên ở Học viện Chính trị

CAND hiện nay cũng tương tự, khi tỷ lệ cán bộ, giảng viên đạt tiêu chuẩn tiến sỹ,

thạc sỹ vẫn còn thấp với 26,5% giảng viên có trình độ tiến sỹ và 13,4 % cán bộ có

trình độ tiến sỹ.

Thứ hai, những hạn chế về PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND

Một là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa phát huy PCLV quần

chúng, dân chủ và phát huy vai trò, trí tuệ tập thể

Về cơ bản, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đều là những tấm gương

tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và phong cách, tuy nhiên bên cạnh đó, còn có một

bộ phận cán bộ, giảng viên trong công tác chưa nêu cao phong cách quần chúng,

chưa giữ mối liên hệ thực sự gần gũi với nhân dân và phát huy vai trò của bản thân

trong vận động, thuyết phục nhân dân hiểu rõ, thực hiện tốt chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an ninh, trật tự.

Một số cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND, đặc biệt là cán bộ,

giảng viên lãnh đạo còn chưa nhận thức việc cần thiết phải phát huy dân chủ trong

PCLV. Biểu hiện ở việc nhận thức về dân chủ sơ sài, đơn giản khiến cho một bộ

phận cán bộ lãnh đạo còn có tư tưởng bảo thủ, độc đoán, cố chấp, áp đặt, thiếu tôn

trọng, lắng nghe, thiếu năng lực và kinh nghiệm làm chủ trong đơn vị; cán bộ, giảng

viên cấp dưới thụ động, đối phó, thiếu niềm tin vào tập thể và lãnh đạo. Vẫn còn tồn

89

tại sự thiếu công bằng, khách quan, trung thực, chân thành trong các mối quan hệ;

chưa sâu sát lắng nghe nguyện vọng và mong muốn để giải quyết kịp thời những ý

kiến đúng, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, giảng viên dưới quyền. Ý thức đấu

tranh tự phê bình và phê bình để u nâng cao năng lực và chuyên môn công tác của

một số cán bộ, giảng viên còn có biểu hiện chung chung, né tránh.

Vẫn còn tình trạng “bằng mặt mà không bằng lòng” hay “dân chủ hình

thức”, những biểu hiện này có thể không xảy ra mâu thuẫn hay đổ vỡ lớn nhưng

thực chất là suy giảm dân chủ, không phát huy được sức mạnh chung của tập thể và

bản chất văn minh tiến bộ của Học viện CAND, do đó, PCLV của cán bộ, giảng

viên cũng bị tác động làm hạn chế sự phát triển.

Hai là, một số cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có PCLV không khoa

học, chậm đổi mới, thiếu nhiệt tình trong công tác

Qua quá trình xây dựng, được sự chỉ đạo sát sao thực hiện Nghị quyết của

Đảng, của Bộ Công an, của Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND về đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong CAND, xây dựng phong cách

người CAND, rèn luyện PCLV cho cán bộ, giảng viên, các Học viện CAND đã đạt

được nhiều thành tích. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, giảng viên có PCLV

không khoa học, chậm đổi mới, tinh thần, sự nhiệt huyết trong công tác không cao.

Thực tiễn hiện nay cho thấy các Học viện CAND, lượng cán bộ chuyên gia

giỏi, đầu ngành về lý luận nghiệp vụ Công an, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu

khoa học công nghệ chưa nhiều. Chính những tồn tại về trình độ nghiệp vụ công an

của cán bộ, giảng viên đã dẫn tới sự hạn chế trong việc nâng cao PCLV phù hợp với

đặc thù, thực tiễn của ngành.

Theo thống kê, số lượng cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có trình độ

tiến sỹ về nghiệp vụ công an tính đến năm học 2018 - 2019 chỉ có chiếm 11,3%, ở

trình độ thạc sỹ nghiệp vụ công an chiếm 26,1% cán bộ, giảng viên. Bên cạnh đó,

kiến thức về lĩnh vực kinh tế, xã hội, pháp luật, tin học, đặc biệt là trình độ ngoại

ngữ ở nhiều cán bộ, giảng viên còn hạn chế. Số liệu trên phản ánh thực trạng chung

về sự hạn chế của trình độ nghiệp vụ công an và trình độ ngoại ngữ của cán bộ,

giảng viên, đang thực sự là “rào cản” trên con đường hội nhập và phát triển của các

90

Học viện CAND.

Ngoài ra, một bộ phận giảng viên chưa thường xuyên cập nhật phương pháp

giảng dạy tích cực, hiện đại, khả năng áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình

giảng dạy của một số giảng viên chưa hiệu quả, năng lực nghiệp vụ sư phạm còn

thấp: “Hoạt động đổi mới dạy học ở một vài đơn vị chưa tạo được những chuyển

biến rõ nét, chưa phát huy khả năng tự học của học viên, việc ứng dụng công nghệ

thông tin trong dạy học còn hạn chế” [21, tr.9].

Hàng năm, các Học viện CAND thường xuyên cử giảng viên đi thực tế, luân

chuyển đến các đơn vị chuyên môn, đơn vị nghiệp vụ địa phương để nghiên cứu,

học tập lý luận, thực tiễn của công tác Công an và các lĩnh vực khác phù hợp với

chuyên môn của giảng viên. Đây là hoạt động bắt buộc đối với giảng viên, cán bộ

quản lý giáo dục trong lực lượng CAND. Tuy nhiên, công tác này trên thực tế chưa

phát huy hết vai trò và tính hiệu quả vốn có ở một số giảng viên, dẫn đến PCLV

chưa gắn liền với thực tiễn. Năng lực thực tiễn của cán bộ, giảng viên chưa cao, một

số trường còn chưa tích cực chủ động trong việc luân chuyển giáo viên nghiệp vụ

đến công tác tại địa phương theo quy định của Bộ; công tác đi thực tế của cán bộ,

giảng viên một số Học viện còn nặng về hình thức, chất lượng thấp so với yêu cầu.

Kết quả thống kê tình hình thực hiện công tác thực tế, luân chuyển của giảng

viên các Học viện CAND cho thấy, số lượng, số lượt giảng viên đi thực tế, luân

chuyển qua các năm không có thay đổi nhiều. Năm học 2013 - 2014, giảng viên các

Học viện CAND đi thực tế chiếm tỷ lệ 19,9%, giảng viên đi luân chuyển chiếm tỷ

lệ 4,7%; đến năm học 2017 - 2018, tỷ lệ giảng viên các Học viện CAND đi thực tế

giảm xuống còn 14,1%, tỷ lệ giảng viên đi luân chuyển đạt mức thấp, chỉ có 4,06%.

Do đó, một bộ phận giảng viên chưa hình thành PCLV gắn liền lý luận với thực

tiễn, thể hiện trong việc thực hiện bài giảng còn máy móc, nặng về lý luận, ít liên hệ

thực tế công tác của ngành.

Việc chưa chú ý nâng cao, đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh ở Học viện ANND còn phản ánh trong một số mặt công tác như:

“Tỉ lệ các giờ giảng lý thuyết còn cao, các hoạt động sau giảng chưa tạo ra những

chuyển biến căn bản trong dạy và học, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao

của nền giáo dục hiện đại” [36, tr.24-25], một số cán bộ, giảng viên được cử đi học

91

tập, bồi dưỡng ở nước ngoài không hoàn thành nhiệm vụ học tập. Đổi mới phương

pháp theo hướng hiện đại kết quả đạt được có mặt chưa thật sự cơ bản, vững chắc

và đồng bộ trong các đơn vị giảng dạy, chưa có chuyển biến thực sự, sâu sắc trong

nhận thức và hành động của tất cả giảng viên, sinh viên. Phương pháp giảng dạy

theo kiểu trang bị kiến thức một chiều, thiếu sự gợi mở.

Đối với cán bộ, giảng viên, công tác nghiên cứu khoa học giúp họ mở rộng

được vốn kiến thức và vận dụng những kiến thức lý luận ấy vào thực tiễn công tác,

giảng dạy. Đồng thời giúp họ có được phong cách và phương pháp làm việc khoa

học, đặt các vấn đề trong một khung tác động đa chiều với cách nhìn khách quan,

chính xác. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả do sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng uỷ,

Ban Giám đốc các Học viện CAND, nhưng nhìn chung công tác nghiên cứu khoa

học của cán bộ, giảng viên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của các Học

viện, còn xuất hiện tình trạng chậm tiến độ và hạn chế về chất lượng trên phương

diện đảm bảo tính khoa học và cập nhật hoạt động thực tiễn: “Công tác nghiên cứu

khoa học tuy có sự phát triển nhưng chưa có được nhiều sản phẩm khoa học có giá trị

cao nổi bật về khoa học và thực tiễn” [37, tr.27].

Bên cạnh đó, một số cán bộ phụ trách tham mưu, tổ chức, hậu cần có PCLV

thiếu khoa học trong việc giải quyết những yêu cầu của thực tiễn. Các Học viện

CAND là những cơ sở hoạt động nghiên cứu, giảng dạy nghiệp vụ của lực lượng,

trong khi, vẫn có cán bộ, giảng viên chưa nâng cao ý thức trong việc chấp hành các

quy định pháp luật, quy chế về bảo vệ bí mật nhà nước, quản lý tài liệu.

Một số cán bộ, giảng viên các Học viện CAND có bản lĩnh chính trị chưa

vững vàng, chưa nâng cao ý thức nghề nghiệp, chưa thực sự phấn đấu học tập, rèn

luyện, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn: “Một bộ phận cán bộ, giảng viên

chưa thực sự yên tâm công tác, chưa tâm huyết với nghề nghiệp” [18, tr.10]. Thực

tế đó đã phản ánh sự thiếu nhiệt tình trong PCLV của một bộ phận cán bộ, giảng

viên, làm ảnh hưởng đến các mặt công tác chung của Học viện.

Ba là, một bộ phận cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa phát huy

vai trò nêu gương, chưa thực sự công tâm, khách quan

92

Bên cạnh những kết quả, thành tích đáng biểu dương trong PCLV của cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND, nghiêm túc nhìn nhận, vẫn còn một số trường

hợp cán bộ, giảng viên chưa phát huy vai trò nêu gương và tinh thần trách nhiệm

trước công việc được giao. Một số đồng chí còn né tránh công việc, kén chọn vị trí

công tác, ngại khó, ngại khổ, chưa thực sự gần gũi đồng nghiệp và học viên. Xuất

hiện tình trạng cán bộ, giáo viên xin chuyển công tác khỏi các trường có chủ trương

di dời địa điểm, giáo viên không tham gia công tác giảng dạy, xin chuyển về công

tác tại các phòng chức năng, ý thức tự học của một bộ phận cán bộ, giảng viên còn

thấp. Bên cạnh đó, một số cán bộ, giảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật kém, sa sút

về lối sống, cá biệt có cá nhân vi phạm xử lý kỷ luật, làm ảnh hưởng đến uy tín,

danh dự, hình ảnh và môi trường học tập, rèn luyện của Học viện CAND.

Còn tồn tại tình hình trên do một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa nâng cao ý

thức, trách nhiệm rèn luyện PCLV nêu gương trên mọi mặt công tác của bản thân,

làm suy giảm niềm tin của tập thể, của học viên đối với cá nhân cán bộ, giảng viên,

ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện.

Việc đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học viên ở một số cán bộ, giảng

viên còn mang tính chủ quan, chưa thực sự đánh giá đúng năng lực của người học.

Cán bộ các phòng ban chức năng giải quyết công việc còn máy móc, thụ động,

nhiều thủ tục hành chính, gây khó khăn trong quá trình thi hành nhiệm vụ công tác.

Công tác quản lý, sử dụng tài sản, phương tiện, trang thiết bị phụ vụ công tác, sinh

hoạt vẫn có những mặt chưa hiệu quả, “vẫn xảy ra hỏng hóc, lãng phí, mất mát. Ý

thức tiết kiệm của một bộ phận cán bộ, giảng viên, học viên chưa cao” [36, tr.25].

Những tồn tại nêu trên về PCLV của một bộ phận cán bộ, giảng viên đã tác

động và làm ảnh hưởng không nhỏ đến thành tích chung của các Học viện CAND

trong quá trình phát triển.

3.2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế

3.2.3.1. Nguyên nhân ưu điểm

Một là, Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đã kịp thời đưa ra những quan

điểm, chủ trương về công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng CAND

93

Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được những thành

tựu to lớn, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo nên vị thế, vai trò của Việt Nam trên

trường quốc tế, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, văn hoá, xã hội, giáo dục

được quan tâm đầu tư và phát triển. Quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội luôn

coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,

toàn xã hội, đầu tư vào giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nghị quyết số 29-NQ/TW

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã chỉ rõ: Xây

dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng

và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và

trình độ đào tạo.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự,

an toàn xã hội trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm hơn đến việc

xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ đó, công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chiến sỹ trong lực lượng nói chung và đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, giảng viên nói riêng được quan tâm đúng mức. Ngày 22/7/2011, Thủ

tướng Chính phủ ban hành quyết định số 1229/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Quy

hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

trong CAND đến năm 2020” với nội dung đổi mới công tác giáo dục, đào tạo của

ngành Công an, bắt nhịp với tiến trình đổi mới chung của nền giáo dục quốc dân.

Trên cơ sở đó, ngày 15/11/2012, Bộ trưởng Bộ Công an ra quyết định số 5620/QĐ-

BCA-X11 phê duyệt Đề án thành phần số 5 thuộc đề án 1229 của Thủ tướng Chính

phủ với nội dung “Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường

CAND” nhằm mục tiêu:

Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục

các trường CAND đạt chuẩn theo quy định của Nhà nước về trình độ

chuyên môn, chính trị, ngoại ngữ, kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng tốt yêu

94

cầu, nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ và từng bước hiện đại [13, tr.2].

Tiếp theo, ngày 28/10/2014, Đảng ủy Công an Trung ương ban hành Nghị

quyết số 17-NQ/ĐUCA và Chỉ thị số 13-CT/BCA của Bộ trưởng Bộ Công an về

“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong CAND” nhằm quy hoạch, xây

dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các nhà trường CAND đủ về số lượng, có cơ cấu

hợp lý, chuẩn về chất lượng, bảo đảm phong cách, tác phong chuẩn mực theo tiêu

chuẩn, quy định của ngành Công an. Đây là căn cứ quan trọng tạo cơ sở, tiền đề, định

hướng cho các Học viện CAND việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trong đó

nội dung trọng tâm là xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên.

Những quan điểm, chủ trương trên của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về

đổi mới công tác giáo dục, đào tạo trong CAND và các Học viện CAND đã tạo điều

kiện cho đội ngũ cán bộ, giảng viên không ngừng phát triển về số lượng và chất

lượng, có phương pháp, lề lối làm việc đổi mới, sáng tạo, đáp ứng tốt yêu cầu,

nhiệm vụ công tác công an trong tình hình mới.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của lãnh đạo Bộ Công an, Đảng uỷ các

Học viện CAND đã thường xuyên quán triệt sâu sắc các quan điểm, phương hướng,

mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới; nghiên cứu, nắm vững đặc điểm, trình độ,

phẩm chất, năng lực của cán bộ, giảng viên Học viện mình, đề ra chủ trương, giải

pháp lãnh đạo sát đúng và phù hợp thực tiễn.

Hai là, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp uỷ, lãnh đạo

các Học viện CAND trong việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên

Công tác đào tạo, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách

Hồ Chí Minh luôn được Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện

CAND đặc biệt coi trọng và xác định là một trong những khâu đột phá, tạo nguồn

quy hoạch đội ngũ cán bộ, giảng viên lãnh đạo, chỉ huy, có trình độ chuyên môn,

phương pháp công tác hiệu quả trong tương lai. Tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng PCLV

cho cán bộ, giảng viên được thể hiện trên 4 mặt: Đạo đức nghề nghiệp, năng lực sư

phạm, năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực thực tiễn. Hàng năm, mỗi Học

95

viện cử hàng trăm cán bộ, giảng viên đi học cao học, nghiên cứu sinh trong và ngoài

nước, bồi dưỡng phương pháp sư phạm, phương pháp nghiên cứu khoa học, thực

hiện luân chuyển cán bộ, giảng viên đi công tác tại Công an các đơn vị, địa phương.

Ở các Học viện CAND, đội ngũ cán bộ, giảng viên đều được xây dựng theo lộ trình

đảm bảo đạt chuẩn về chất lượng, trình độ theo yêu cầu của cơ sở giáo dục đại học

trọng điểm của ngành và của quốc gia.

Điển hình là ở Học viện ANND, Đảng uỷ Học viện đã ban hành Nghị quyết

chuyên đề Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên giai đoạn 2011 - 2015.

Trên cơ sở đó Học viện đã xây dựng “Đề án “Phát triển và nâng cao năng lực đội

ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục Học viện ANND” nhằm nâng cao hiệu quả

công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên, đáp ứng nhu cầu

phát triển của Học viện” [36, tr.19]. Do thực hiện tốt công tác xây dựng, đào tạo,

bồi dưỡng PCLV nên chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, giảng viên Học

viện đã được nâng lên rõ rệt.

Các Học viện CAND đã tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, giảng viên trên mọi mặt, trong đó có đào tạo, rèn luyện PCLV bằng

nhiều hình thức phong phú, như: “Khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao của đất

nước là chuyên gia, nhà khoa học lớn có uy tín và vị thế trong xã hội, có bề dày

kinh nghiệm, tham gia tư vấn, giúp đỡ Học viện trong giảng dạy, nghiên cứu khoa

học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên” [38, tr.12].

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện, công tác

tuyển dụng cán bộ, giảng viên cũng được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục,

tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, phong cách, sức khoẻ để tuyển chọn được

những học viên xuất sắc trong học tập, những cán bộ có trình độ cao để bổ sung cho

đội ngũ cán bộ, giảng viên của các Học viện. Do đó, cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND cơ bản có sự tương đồng và trình độ cao trong phong cách, phẩm chất,

năng lực, tạo điều kiện thuận lợi trong việc rèn luyện, bồi dưỡng, xây dựng PCLV

Hồ Chí Minh cho đội ngũ này.

Ngoài ra, các Học viện cũng không ngừng đổi mới, nội dung, chương trình,

kế hoạch, phương pháp xây dựng bằng các hình thức như tổ chức các cuộc thi viết,

96

tuyên truyền về cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân

văn, vì nhân dân phục vụ”; tổ chức Hội thi Điều lệnh CAND trong khối cán bộ,

giảng viên, tổ chức hội thi “Cán bộ chủ nhiệm lớp giỏi” trong khối cán bộ quản lý

học viên; mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề như: “Phát triển năng lực nghề nghiệp

cho giảng viên Học viện ANND”, “bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, kỹ năng sử

dụng vi tính và phương tiện hỗ trợ giảng dạy cho giảng viên ở Học viện Chính trị

CAND”, các chương trình giao lưu văn hoá, văn nghệ, đáp ứng yêu cầu nâng cao

chất lượng giáo dục, đào tạo tại các Học viện CAND.

Như vậy, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã

nhận thức đúng đắn, coi trọng việc bồi dưỡng, xây dựng cán bộ, giảng viên về phẩm

chất, năng lực và phương pháp, tác phong, thể hiện trong kết quả các mặt công tác

của cán bộ, giảng viên. Các tổ chức, đoàn thể, các cấp lãnh đạo chỉ huy phát huy vai

trò của mình trong việc tham gia các hoạt động nhằm xây dựng PCLV, đồng thời,

bản thân cán bộ, giảng viên cũng có sự tích cực tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV. Từ

đó, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả trong việc quản lý, lãnh đạo, giảng dạy, nghiên

cứu khoa học và đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Đánh giá công tác

lãnh đạo chỉ huy và xây dựng lực lượng nói chung, báo cáo tổng kết năm học 2014 -

2015, tổng cục Chính trị CAND nêu: “Nhìn chung, tập thể lãnh đạo các nhà trường

CAND, trong đó có các Học viện đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong

hoạt động quản lý, điều hành, nêu cao ý thức trách nhiệm, phát huy trí tuệ tập thể,

tạo được sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ” [16, tr.16].

Ba là, cán bộ, giảng viên có ý thức phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng

tạo trong học tập, rèn luyện, nâng cao PCLV

Cán bộ, giảng viên trong các Học viện CAND là đối tượng xây dựng PCLV,

đồng thời, họ cũng chính là chủ thể của quá trình nhận thức, trực tiếp tiếp nhận nội

dung, yêu cầu xây dựng của tổ chức và chuyển hoá những tri thức, kinh nghiệm đó

thành kỹ năng, phong cách của bản thân để vận dụng vào hoạt động thực tiễn, đáp

ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, đại đa số cán bộ, giảng viên đã có nhận

thức sâu sắc yêu cầu, nội dung xây dựng PCLV, xác định rõ trách nhiệm và quyết

97

tâm biến quá trình xây dựng thành tự xây dựng. Trên cơ sở tiếp nhận sự bồi dưỡng

tri thức về phương pháp, phong cách được Học viện trang bị, mỗi cán bộ, giảng

viên đã có những chuyển biến đáng kể về nhận thức, thái độ, kỹ năng làm việc,

phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm bản thân

trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo quy chế, kế hoạch, chương trình công

tác. Thực tế, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng, trực tiếp quyết định

đến sự hoàn thiện PCLV của cán bộ, giảng viên và là yếu tố cơ bản của những kết

quả đã đạt được trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên trong thời gian qua.

Bốn là, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

trong lực lượng CAND đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong PCLV của cán

bộ, giảng viên

Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện CAND luôn xác định việc thực hiện

Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” là công tác trọng tâm, xuyên suốt

gắn liền với việc thực hiện cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản

lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” ngày 9/1/2017, phong trào “CAND học tập,

thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, Chỉ thị số 07/CT-BCA-X11, ngày 26/10/2016 về

“Tăng cường lãnh đạo nâng cao văn hoá ứng xử CAND trong tình hình mới”, coi

đây là nội dung quan trọng, bắt buộc, song hành cùng công tác xây dựng Đảng và

thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn của cán bộ, giảng viên.

Ngay sau khi Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 190/KH-X11-X12 ngày

9/1/2017, về thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản

lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện CAND

đã tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch, thành lập Ban chỉ đạo, tổ chức lễ phát động

về cuộc vận động và ký kết giao ước thi đua trong toàn Học viện. Tổ chức cho toàn

thể cán bộ, giảng viên xây dựng chương trình và kế hoạch hành động, viết cam kết

thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính

trị và bản cam đoan thực hiện nghiêm túc cuộc vận động nhằm mục tiêu xây dựng

phong cách, bản lĩnh chính trị tư tưởng; trong mỗi tập thể, cá nhân của nhà trường.

98

Ngoài ra, mỗi Học viện CAND còn chủ động đề ra các hình thức, biện pháp,

cách làm sáng tạo, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Học viện mình như: tổ

chức các chương trình toạ đàm, phổ biến nội dung học tập và yêu cầu cán bộ, giảng

viên viết thu hoạch, xây dựng kế hoạch cá nhân thực hiện “Học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tổ chức cuộc thi viết tuyên truyền cuộc

vận động; phát động chương trình hành động “Đổi mới, chủ động, kỷ cương, trách

nhiệm, hiệu quả, văn hóa”; tọa đàm, giao lưu, biểu dương gương điển hình tiên tiến

làm theo lời Bác; thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó, đã tạo

sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc từ nhận thức đến hành động của cấp uỷ và toàn

thể cán bộ, giảng viên đối với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng PCLV, rèn luyện bản

lĩnh, tư thế lễ tiết, ứng xử văn hóa, văn minh; nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức

phục vụ nhân dân.

3.2.3.2. Nguyên nhân hạn chế

Thứ nhất, sự tác động tiêu cực của bối cảnh, tình hình trong nước, khu vực

và quốc tế đối với việc xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang

trong quá trình phát triển, chưa hoàn thiện và còn nhiều yếu tố phi thị trường, trong

quá trình vận động và phát triển, tác động tích cực, đem lại cho đất nước nhiều cơ

hội, tuy nhiên, mặt trái đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến phẩm chất chính trị, đạo đức

của một bộ phận cán bộ, đảng viên như: tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn

nghiêm trọng, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,

“tự chuyển hoá” có biểu hiện phức tạp. Bên cạnh đó, lợi dụng quá trình hội nhập

quốc tế, các thế lực thù địch, phản động đã đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà

bình”, tăng cường chống phá cách mạng nước ta, tuyên truyền thúc đẩy sự gia tăng

lối sống vụ lợi, thực dụng, biến đổi các giá trị truyền thống.

Thực tiễn trên đây đã tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, đạo đức,

thái độ của một bộ phận cán bộ, chiến sỹ CAND, trong đó có cán bộ, giảng viên các

Học viện mai một ý chí phấn đấu, thiếu tinh thần trách nhiệm, không tích cực tham

gia xây dựng và tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, PCLV của bản thân.

99

Thứ hai, một số cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND chưa phát huy hết vai

trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc tham gia xây dựng PCLV cho cán bộ,

giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

Mặc dù, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện đều thấy rõ

vai trò quan trọng của việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên đối với sự phát

triển của Học viện nhưng thực tiễn cho thấy việc xây dựng có lúc, có nơi chưa được

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên. Quá trình thực hiện còn thiếu những biện

pháp chiến lược, đôi lúc chỉ dừng lại ở yêu cầu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ

trước mắt, chưa có những yêu cầu xa hơn để nâng cao hiệu quả công tác, giảng dạy,

nghiên cứu của cán bộ, giảng viên. Ở một số Học viện, chất lượng và hiệu quả hoạt

động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên còn hạn chế do chưa bám sát yêu cầu,

nhiệm vụ mới. Nội dung xây dựng còn có biểu hiện chung chung, dàn trải, chưa chú

trọng vào các vấn đề trọng tâm, trọng điểm và có những biện pháp cụ thể với từng

đối tượng cán bộ, giảng viên cho phù hợp; chưa gắn việc xây dựng PCLV theo

phong cách Hồ Chí Minh với các nội dung xây dựng khác một cách linh hoạt, hiệu

quả. Quá trình tổ chức thực hiện nặng về hình thức, chưa được đổi mới, chủ yếu

thông qua công tác tuyên truyền, các hoạt động sinh hoạt chính trị.

Hội nghị tổng kết 4 năm triển khai, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày

14/5/2011 của Bộ Chính trị, khoá XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong CAND đã xác định nguyên nhân

chung của các đơn vị Công an, trong đó có các Học viện CAND do: “Một số cấp uỷ

và thủ trưởng đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến tổ chức triển khai, thực hiện;

chưa thực sự sâu sát, chỉ đạo kịp thời để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong rèn

luyện đạo đức, lối sống, tác phong của cán bộ, chiến sỹ” [52, tr.12].

Ngoài ra, sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các chủ thể là lãnh đạo các đơn vị

trong nội bộ Học viện CAND cũng là nguyên nhân cản trở, ảnh hưởng đến hiệu quả

xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên. Cơ chế lãnh đạo, chỉ huy giữa các cấp uỷ,

các cấp lãnh đạo một số Học viện còn chưa thật chặt chẽ, chưa phân biệt rõ công

việc của từng cấp, do đó trong lãnh đạo có lúc, có nơi còn thiếu sâu sát, có tình

trạng chồng chéo.

100

Bên cạnh đó, ở các Học viện CAND, quy mô đào tạo tăng lên nhanh chóng,

trong khi sự tập trung về nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục

vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ,

giảng viên còn chậm trễ, chưa tương xứng, đồng bộ: “Công tác sử dụng đội ngũ cán

bộ, giảng viên ở một số Học viện chưa thực sự hợp lý dẫn đến có tình trạng thiếu

giảng viên nhưng thừa cán bộ, gây quá tải trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và

nghiên cứu của giảng viên” [13, tr.11]. Mặc dù lãnh đạo, chỉ huy trong các Học viện

CAND đã có sự cố gắng đổi mới, sắp xếp với quyết tâm chiến lược cao, nhưng

chưa thể khắc phục ngay được.

Một số Học viện CAND còn lơi lỏng trong quản lý, kiểm tra, giám sát, chủ

động phát hiện các hạn chế, tồn tại các mặt công tác của cán bộ, giảng viên trong

PCLV, hoặc có trường hợp phát hiện được nhưng xử lý không nghiêm, không đúng

với tính chất, mức độ, vì sợ ảnh hưởng đến thành tích chung. Ngoài ra, “một số đơn

vị chưa thực sự quyết liệt, thậm chí có nơi còn buông lỏng công tác quản lý cán bộ;

vẫn còn tình trạng nặng về thành tích, coi nhẹ kiểm tra, giám sát việc thực hiện”

[52, tr.1].

Ở một số đơn vị trong các Học viện CAND, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, người

đứng đầu chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chưa nghiêm túc trong tự phê bình

và phê bình, chưa thực sự tiêu biểu về năng lực, phong cách và kinh nghiệm, là tấm

gương để cán bộ, giảng viên noi theo; quá trình “tự soi, tự sửa” trong kiểm điểm thực

hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng chưa nhìn thẳng vào sự

thật, nói rõ sự thật, không đánh giá đúng thực chất những hạn chế, tồn tại nên không

có những giải pháp kịp thời để chấn chỉnh lề lối, tác phong công tác của cán bộ, giảng

viên. Vấn đề đặt ra cần có sự thống nhất nhận thức của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện

CAND, làm cho họ có nhận thức đúng đắn về vị trí, ý nghĩa của phong cách, lề lối

làm việc để từ đó có những biện pháp cụ thể trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia

xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ ba, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND chưa thật sự nâng cao ý

thức xây dựng, rèn luyện, đổi mới, sáng tạo trong PCLV

101

Ở các Học viện CAND, bên cạnh những cán bộ, giảng viên say mê, nhiệt

tình, trách nhiệm, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh, đạt hiệu quả cao

trong kết quả công tác thì vẫn có một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa tự giác nhận

thức đúng đắn về vị trí, vai trò và sự cần thiết của việc đổi mới, rèn luyện PCLV.

Do đó, họ chưa thực sự tích cực, chủ động xây dựng PCLV hiệu quả, phù hợp thực

tiễn, không là tấm gương tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác

để cán bộ, giảng viên cấp dưới và học viên noi theo.

Còn tình trạng cán bộ, giảng viên có biểu hiện tự thoả mãn, tư tưởng trung

bình chủ nghĩa, ngại phấn đấu trong công tác, giảng dạy, nghiên cứu: “Ý thức tự

học và thái độ học tập của một số cán bộ, giảng viên khi tham gia các lớp bồi dưỡng

chưa cao, chưa nghiêm túc chấp hành kỷ cương, nền nếp học tập” [21, tr.10]. Một

số cán bộ, giảng viên không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện; không chấp hành nghiêm

quy định của Đảng, của ngành và Học viện, lập trường tư tưởng không vững vàng,

không đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn, thử thách, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ,

hẹp hòi, thực dụng, bị gục ngã trước những cám dỗ vật chất, suy giảm uy tín

nghiêm trọng trước đồng nghiệp và học viên. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân chính dẫn đến những hạn chế trong công tác tự xây dựng, rèn luyện PCLV của

cán bộ, giảng viên các Học viện CAND thời gian qua.

Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng xây dựng PCLV

của cán bộ, giảng viên trong các Học viện chưa thường xuyên, liên tục, có lúc, có

nơi còn hình thức

Về cơ bản, các Học viện CAND đều xác định và làm tốt công tác kiểm tra,

đánh giá quá trình xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

quá trình xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên trong những năm qua còn có mặt

chưa cao. Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị,

khoá XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh” trong CAND năm 2015 và Chỉ thị số 04/CT-BCA của Bộ trưởng Bộ

Công an về “Đổi mới, nâng cao chất lượng phong trào CAND học tập, thực hiện

Sáu điều Bác Hồ dạy trong tình hình mới” đều xác định nguyên nhân của tồn tại,

102

hạn chế về phong cách của người cán bộ, chiến sỹ nói chung, trong đó có cán bộ,

giảng viên ở các Học viện CAND là cấp uỷ, lãnh đạo, chỉ huy còn coi nhẹ kiểm tra,

giám sát việc thực hiện, công tác tham mưu, đôn đốc chưa được coi trọng.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của công tác phát triển giáo dục, đào tạo ở các Học

viện CAND, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng PCLV và nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên. Vì thế, trong thời gian tới, một trong những

yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là phải đổi mới, làm tốt công tác kiểm tra, giám

sát để tăng cường hiệu quả việc xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ năm, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ xây dựng PCLV của cán bộ,

giảng viên các Học viện CAND còn hạn chế

Hiện nay, hầu hết các Học viện CAND đã từng bước quan tâm đầu tư phương

tiện, thiết bị giảng dạy, nghiên cứu khoa học, công tác của cán bộ, giảng viên. Tuy

nhiên, việc đầu tư trang thiết bị, phương tiện, công cụ làm việc cho cán bộ, giảng viên

vẫn chưa thực sự đồng bộ, điều kiện khai thác sử dụng còn nhiều hạn chế, bất cập;

phương tiện giảng dạy nghiệp vụ chuyên ngành đã lạc hậu với sự phát triển của khoa

học công nghệ, gây khó khăn cho giảng viên nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy;

điều kiện sân bãi tập, thực hành, tài liệu học tập chưa đảm bảo, “chưa xây dựng được

các khu thực hành, thực tập liên hoàn theo ngành nghề đào tạo” [13, tr.13]. Số lượng

các phòng học chung chưa đủ đáp ứng so với quy mô đào tạo và lưu lượng học viên

thực tế, còn có tình trạng dạy học theo ca. Việc giảng dạy, thực hiện các nhiệm vụ

chuyên môn quá tải khiến cán bộ, giảng viên không có thời gian, cơ hội để nghiên

cứu khoa học và thực hiện các công tác khác ngoài giảng dạy, phục vụ, ảnh hưởng

đến kết quả rèn luyện, bồi dưỡng PCLV của cán bộ, giảng viên.

Ngoài ra, cơ chế, các quy định của Nhà nước, Bộ Công an về chế độ, chính

sách còn có những bất cập, phương tiện và tài chính phục vụ cho nội dung đổi mới

các mặt công tác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng PCLV của cán

bộ, giảng viên.

Từ những ưu điểm và hạn chế trong xây dựng PCLV, biểu hiện rõ nét trong

kết quả công tác trên các mặt của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, để nâng

103

cao, phát huy những mặt mạnh, hạn chế những vấn đề còn tồn tại, việc tiếp tục xây

dựng cho cán bộ, giảng viên PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp

thiết để hoàn thiện PCLV của họ, phục vụ nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa

học và công tác chuyên môn, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho

lực lượng CAND, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

3.3. YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC

CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO

PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Các Học viện CAND vừa mang tính chất của cơ sở đào tạo, vừa mang tính

chất là một đơn vị dự bị sẵn sàng chiến đấu của lực lượng CAND. Vì vậy, phương

pháp, tác phong của người cán bộ, giảng viên là sự tổng hòa giữa phong cách của

một nhà sư phạm và một cán bộ, chiến sĩ CAND, họ vừa có phong cách, kỷ luật cao

của người chiến sĩ CAND; vừa có phong cách khoa học của một nhà giáo, nhà quản

lý giáo dục, cán bộ nhà trường, có sự lôi cuốn và sức thuyết phục học viên, là tấm

gương mẫu mực về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị chuyên môn học thuật. Để

hình thành ở mỗi cán bộ, giảng viên PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh đúng

đắn, đạt hiệu quả cao về giáo dục, đào tạo trong thời gian tới của mỗi Học viện

CAND và nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND, cần đảm bảo các yêu cầu như sau:

3.3.1. Quán triệt, thực hiện đúng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà

nước, Bộ Công an về xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên gắn với

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân

Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc quan trọng hàng đầu, đảm bảo hoạt động

xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh được tiến

hành có hệ thống, đúng phương hướng chính trị và đạt được mục đích đề ra. Trong

lĩnh vực giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, giảng viên, Đảng, Nhà nước và Bộ

Công an đã ban hành nhiều văn bản quan tâm vấn đề trên như: Tháng 10/2012, tại

Hội nghị lần thứ VI, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã kết luận: Đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo bao gồm: đổi mới tư duy, đổi mới mục tiêu

đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục, đào tạo; nội dung, phương pháp dạy

và học, cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở vật chất,

104

nguồn lực, mọi điều kiện đảm bảo cho giáo dục, đào tạo trong hệ thống. Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 8 Khoá XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”;

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Đảng ta cũng khẳng định yêu cầu cấp thiết cần đổi mới căn bản và

toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Quyết định số

771/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/6/2012 về Chiến lược phát triển

giáo dục 2011 - 2020 đã xác định “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục” là giải pháp then chốt.

Quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục, đào tạo

trong CAND được Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an tăng

cường sự lãnh đạo, chỉ đạo như: ban hành Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA và Chỉ thị

số 13/CT-BCA ngày 28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào

tạo trong CAND”; chỉ thị về nhiệm vụ công tác trọng tâm hàng năm trong các

trường CAND.

Vì vậy, mọi hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của

Đảng, Nhà nước và của Ngành về xây dựng đội ngũ cán bộ, về đổi mới căn bản,

toàn diện giáo dục, đào tạo trong CAND phù hợp từng giai đoạn. Trong quá trình

xây dựng, cần xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nội dung, lựa chọn hình thức,

biện pháp xây dựng phù hợp với đặc điểm của từng Học viện, đảm bảo PCLV của

cán bộ, giảng viên các Học viện CAND ngày càng phát triển và hoàn thiện, đáp ứng

yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, uy tín, vị thế của các Học viện

CAND trong tình hình mới.

3.3.2. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ công tác gắn với vai trò, chức

trách, nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên các Học viện Công an nhân dân

Mục đích xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí

Minh nhằm đảm bảo họ có PCLV tiến bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục, đào tạo cũng như nhiệm vụ xây dựng lực lượng và chiến đấu của

CAND. Xuất phát từ đặc thù của lực lượng CAND, từ yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo

đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã

105

hội, đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động nên xây dựng PCLV theo

phong cách Hồ Chí Minh để đạt được hiệu quả, cần đảm bảo những yêu cầu về

phẩm chất, năng lực, phương pháp của cán bộ, giảng viên các học viện CAND như:

Cán bộ, giảng viên có năng lực về khoa học giáo dục, lý luận dạy học và tâm lý sư

phạm; là những người có kiến thức nghiệp vụ về công tác công an, lĩnh vực đào tạo

của Học viện mình; có sự hiểu biết phong phú, sâu rộng về chính trị - xã hội, pháp

luật, khoa học, công nghệ thông tin, nhận biết những âm mưu phương thức, thủ

đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và có phương châm, đối sách,

biện pháp áp dụng phòng ngừa, đấu tranh trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, “do

yêu cầu của nhiệm vụ công tác công an, cán bộ, giảng viên cần phải có các kỹ năng

khác, như: giao tiếp; hợp tác; chung sống; làm việc nhóm và có thể chất, sức khỏe

tốt đảm bảo các yêu cầu kiểm tra sức khỏe của Bộ Công an” [78, tr.79].

Các chủ thể trong quá trình xây dựng phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của

cán bộ, giảng viên trong hoạt động chuyên môn cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của

thực tiễn công tác Công an trong tình hình mới. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ yêu cầu: Xây

dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng.

Từ những yếu tố trên, việc đề ra phương hướng, nội dung, lựa chọn hình

thức, biện pháp xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh phải phù hợp, gắn

bó với thực tiễn của các Học viện và vai trò, chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm của

từng cán bộ, giảng viên, đảm bảo cho quá trình xây dựng đạt hiệu quả tích cực.

3.3.3. Xây dựng phong cách làm việc gắn với nâng cao trình độ, năng lực

của cán bộ, giảng viên

Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa năng lực chuyên môn và phong

cách của người cán bộ cách mạng, nên PCLV của người cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND chỉ có thể được hình thành và phát triển trên nền tảng của năng lực

chuyên môn, nghiệp vụ công tác. Thực tiễn quá trình xây dựng PCLV ở các Học

106

viện CAND cho thấy, nếu cán bộ, giảng viên có PCLV khoa học, chuẩn mực thì

hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được củng cố, nâng cao năng lực giảng

dạy, nghiên cứu khoa học và chuyên môn của mình, các mối quan hệ công tác được

giải quyết hài hòa, đặc biệt là cán bộ, giảng viên có vai trò lãnh đạo, sẽ trở thành

trung tâm quy tụ và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn đơn vị. Ngược lại, ở đâu,

nơi nào mà cán bộ, giảng viên thiếu sâu sát, kém năng động, quan liêu, xa rời hoạt

động thực tiễn, sẽ dẫn đến hiệu quả công tác, giảng dạy không cao.

Do đó, trong quá trình xây dựng PCLV Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên

các Học viện CAND, cần tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lòng tự tôn nghề

nghiệp, ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của những chiến sĩ tiên phong trên

mặt trận “trồng người”. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện CAND

không chỉ là những cán bộ, nhà giáo mẫu mực, nhà khoa học có uy tín, tấm gương

sáng về trí tuệ, nhân cách mà còn là những nhà hoạt động thực tiễn giàu kinh

nghiệm trong các lĩnh vực công tác công an, có những đóng góp trong sự nghiệp

giáo dục, đào tạo của Đảng, Nhà nước và lực lượng CAND.

3.3.4. Bảo đảm tính đồng bộ giữa chủ thể xây dựng với việc tự xây dựng,

rèn luyện phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên

Sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động xây dựng của các chủ thể với quá trình tự

xây dựng, tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, giảng viên là yêu cầu có tính nguyên

tắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.

Trong đó, sự nỗ lực, cố gắng tự xây dựng, rèn luyện luôn là nguyên nhân

quyết định để hình thành, phát triển PCLV của cán bộ, giảng viên. Bởi lẽ, dù được

đào tạo cơ bản, quan tâm bồi dưỡng nhưng nếu cán bộ, giảng viên không có tinh

thần cầu thị tiến bộ, yêu ngành, yêu nghề, không chịu khó phấn đấu, tu dưỡng, học

hỏi thì PCLV, phẩm chất, năng lực khó có thể phát triển toàn diện và chất lượng,

hiệu quả công tác sẽ không cao. Việc xây dựng, bồi dưỡng PCLV theo phong cách

Hồ Chí Minh của các chủ thể mặc dù giữ vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo,

giáo dục, hướng dẫn, tổ chức thực hiện nhưng không thể thay thế được hoạt động tự

xây dựng, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cán bộ, giảng viên.

107

Ngoài ra, cán bộ, giảng viên cũng cần lưu ý, sự tích cực, tự giác, sáng tạo của

bản thân trong tự xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh phải

được đặt dưới sự quản lý của tổ chức, đơn vị. Các Học viện cần đảm bảo sự định

hướng đúng đắn đối với mỗi nội dung xây dựng sao cho phù hợp với đặc điểm, vị

trí công tác của cán bộ, giảng viên ở từng giai đoạn cụ thể; phát động thành phong

trào học tập, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để cán bộ, giảng viên ở các Học

viện CAND có cơ hội phấn đấu, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công tác.

3.3.5. Có cơ chế động viên, khen thưởng, tạo môi trường thuận lợi để

xây dựng phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên

Chính sách tốt và điều kiện thuận lợi sẽ giúp cán bộ, giảng viên yên tâm

công tác, gắn bó với nhà trường, nghề nghiệp, từ đó, phát huy tinh thần tích cực,

chủ động, ý thức sáng tạo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy, không ngừng tự

đổi mới, hoàn thiện bản thân. Các Học viện CAND cần thường xuyên chủ động

nắm tình hình tư tưởng cán bộ, giảng viên, giải quyết kịp thời các vấn đề tư tưởng

phát sinh. Quan tâm chăm lo không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của cán bộ, giảng viên, tạo điều kiện tốt nhất để họ yên tâm công tác, rèn luyện, có

như vậy, quá trình xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh mới đạt hiệu

quả thiết thực.

Trong quá trình thực hiện, Đảng uỷ, ban Giám đốc, lãnh đạo các Học viện

CAND phải công bằng, công tâm các chế độ chính sách đối với cán bộ, giảng viên,

có những biện pháp khen thưởng, động viên các kết quả đạt được của cán bộ, giảng

viên theo quy định như: thăng cấp bậc hàm, nâng lương, chuyển loại bố trí cán bộ;

lựa chọn, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, giảng viên lãnh đạo các cấp, trợ cấp khó

khăn đột xuất; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng kịp thời với những cán bộ,

giảng viên đạt thành tích cao, có sáng kiến hay trong công tác, giảng dạy, nghiên

cứu khoa học để động viên, khích lệ nhân rộng điển hình; tăng cường đầu tư trang

thiết bị, nâng cấp phương tiện làm việc.

3.3.6. Thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với phong trào

thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

108

Xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên là công việc thường xuyên của các

Học viện CAND, nội dung xây dựng không chỉ thể hiện trong các hoạt động của

nhà trường, mà phải lồng ghép trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và quá

trình thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua do Đảng, Nhà nước và Bộ

Công an phát động.

Các Học viện CAND cần quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác

chính trị, tư tưởng thông qua các nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức phong phú,

linh hoạt, sát hợp. Bên cạnh đó, chú trọng công tác giáo dục truyền thống cách

mạng của Đảng, của dân tộc, Ngành và Học viện, phổ biến, cập nhật tình hình chính

trị, thời sự trong nước và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ,

giảng viên. Tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo các đơn vị nắm diễn biến tình hình tư

tưởng, tâm tư và giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng phát sinh trong cán bộ,

giảng viên.

Để quá trình xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh đạt hiệu quả,

các Học viện CAND cần tích cực chỉ đạo, tuyên truyền cho cán bộ, giảng viên

hưởng ứng và tham gia có kết quả các cuộc vận động, các phong trào lớn do Đảng,

Nhà nước và Bộ Công an phát động như cuộc vận động: “Học tập và là theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “CAND thực hiện nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp

sống văn hoá vì nhân dân phục vụ”, phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều

Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân

phục vụ”, các phong trào thi đua sáng kiến, cải tiến, học tập tốt, rèn luyện tốt. Đa

dạng hoá các loại hình hoạt động tuyên truyền bằng các nội dung, hình thức thích

hợp; gắn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với các phong trào thi đua. Qua các

phong trào, thi đua, các cuộc vận động, giúp cho cán bộ, giảng viên CAND có nhận

thức sâu sắc về giá trị, ý nghĩa cách mạng, khoa học về tư tưởng, đạo đức, phong

cách và Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, lấy đó là nền tảng tư tưởng, phương châm,

nguyên tắc để mỗi người tự hoàn thiện mình về phong cách, tác phong công tác, tự

soi, tự sửa, tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân, trở thành việc làm thường xuyên trong

tư duy và hoạt động thực tiễn hàng ngày của mỗi người. Từng đơn vị và mỗi cán

109

bộ, giảng viên cần có những chương trình hành động cụ thể hoá nội dung Sáu điều

Bác Hồ dạy thành hệ tiêu chí, tiêu chuẩn để cán bộ, giảng viên thực hiện.

Để đảm bảo hiệu quả thực chất trong học tập, thực hiện các cuộc vận động,

các phong trào thi đua cần kết hợp giáo dục đạo đức, lối sống, đi đôi với giáo dục

PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương, chủ

động phòng ngừa, phát hiện sớm, xử lý kiên quyết các trường hợp cán bộ, chiến sĩ

vi phạm pháp luật, kỷ luật, có dấu hiệu suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”,

quan liêu, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân hoặc bị mua chuộc,

lôi kéo bởi các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”. Cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND phải vừa có đức, vừa có tài, thật sự liêm chính, tâm huyết với sự nghiệp giáo

dục, đào tạo. Nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu, ý thức trách nhiệm, sự nhiệt

huyết trong đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo chỉ huy,

xây dựng môi trường nhà trường kỷ cương, kỷ luật, văn hoá.

Các Học viện CAND chủ động, khẩn trương xây dựng kế hoạch để cán bộ,

giảng viên thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động, phong trào thi đua cho phù hợp

với đặc điểm, tình hình của từng đơn vị. Lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức phong trào, các cuộc vận động phải khoa học,

cụ thể, thiết thực, gắn liền với cuộc sống và công tác hàng ngày của cán bộ, giảng

viên. Cấp ủy, lãnh đạo đơn vị các Học viện “đề cao trách nhiệm, tính tự giác gương

mẫu đi đầu trong thực hiện của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt” [24, tr.2]

“tránh phô trương, hình thức; đảm bảo phương châm “trên trước, dưới sau”, “phát

động đi đôi với hành động”, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, giảng viên tự tu dưỡng,

rèn luyện về mọi mặt, hướng tới mục tiêu xây dựng hình ảnh người chiến sỹ CAND

Việt Nam phát triển toàn diện, đẹp trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.

Tiểu kết chương 3

Cán bộ, giảng viên giữ vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của các

Học viện CAND, có chức năng, nhiệm vụ phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo,

phát triển của Học viện. Hiện nay, cán bộ, giảng viên ngày càng được chú ý xây

110

dựng, đảm bảo về chất lượng và hiệu quả về PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cho thấy, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND đã ngày một

nâng cao, được thể hiện rõ nét trong kết quả công tác mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của

giáo dục, đào tạo trong bối cảnh, tình hình mới.

Kết quả trên đã thể hiện vai trò lãnh đạo, quyết tâm của các chủ thể trong

việc tổ chức thực hiện xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND

theo phong cách Hồ Chí Minh. Quá trình xây dựng, các Học viện đã làm tốt vai trò,

trách nhiệm, đồng thời, phát huy tinh thần sáng tạo, tích cực trong việc đổi mới nội

dung, phương pháp tổ chức thực hiện; phát huy vai trò, ý thức, sự sáng tạo của mỗi

cán bộ, giảng viên trong quá trình tự xây dựng, rèn luyện.

Tuy nhiên, trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: nhận thức của một bộ phận chủ thể xây

dựng chưa toàn diện, sâu sắc; công tác xây dựng còn thiếu những biện pháp chiến

lược, nội dung cụ thể; điều kiện cơ sở vật chất phục vụ xây dựng PCLV của cán bộ,

giảng viên còn hạn chế; chất lượng bồi dưỡng, xây dựng có mặt chưa cao; một bộ

phận cán bộ, giảng viên còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, chưa thực sự cố gắng

rèn luyện, xây dựng PCLV. Những mặt tồn tại trên đã tác động không ít đến hiệu

quả xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách

Hồ Chí Minh. Nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả PCLV của cán bộ, giảng

viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, cần

phát huy mặt mạnh, hạn chế những tồn tại về nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp

uỷ, lãnh đạo các Học viện và trong PCLV của cán bộ, giảng viên; đảm bảo một số

yêu cầu đặt ra. Đây là cơ sở để xác định những nội dung và giải pháp xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ

Chí Minh.

111

Chương 4

NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC

CHO CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN

HIỆN NAY THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

4.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG PHONG CÁCH

LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN

HIỆN NAY

4.1.1. Tình hình thế giới

Tình hình thế giới những năm tới hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác

và phát triển vẫn là xu thế lớn, là dòng chảy chủ đạo trong đời sống chính trị thế

giới đương đại. Quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, thu hút tất cả

các quốc gia, dân tộc tham gia ở các mức độ khác nhau; khu vực châu Á - Thái

Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng phát triển năng động, trong đó

ASEAN ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển chung

của khu vực.

Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghiệp lần thứ tư (4.0) với

quy mô, tốc độ phát triển đã làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách và cách thức

giao tiếp của con người. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, các quốc gia không thể

chỉ dựa vào nguồn tài nguyên, vốn, kỹ thuật - công nghệ mà phải dựa vào chất

lượng nguồn nhân lực. Cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước thực chất và cơ

bản là sự cạnh tranh về nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đặt ra

cho các quốc gia, dân tộc phải chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Do đó, cùng

với đổi mới kinh tế, các quốc gia đều có chủ trương đổi mới, cải cách khoa học,

giáo dục. Đặc điểm quan trọng của trào lưu đổi mới, cải cách giáo dục, đào tạo là

cung cấp, rèn luyện phương pháp cho người học, giúp họ chủ động tiếp cận với

những thành tựu hiện đại của khoa học công nghệ.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển đòi hỏi con người phải có

PCLV khoa học, có năng lực tổ chức hoạt động, công tác một cách khoa học, có

112

chất lượng, hiệu quả. Có ý thức và năng lực làm chủ, có tinh thần tự học hỏi, rèn

luyện suốt đời để không ngừng bổ sung tri thức phù hợp với sự phát triển. Như vậy,

cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đòi hỏi cần có sự đổi mới tư duy về

công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, đảm bảo cán bộ có PCLV khoa học, tiến

bộ, đáp ứng yêu cầu trong thời đại mới.

Bên cạnh sự thuận lợi, giai đoạn phát triển hiện nay của thế giới đặt ra không

ít khó khăn, thách thức đối với các quốc gia, dân tộc trong quá trình đổi mới, hội

nhập. Kinh tế thế giới, khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn

những yếu tố bất trắc khó lường: hợp tác, cạnh tranh giữa các nước diễn ra đan xen,

khó phân biệt; khủng hoảng kinh tế chậm được khắc phục, “xung đột sắc tộc, tôn

giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về

biên giới, lãnh thổ, biển đảo... tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng

phức tạp” [47, tr.72]. Những vấn đề toàn cầu như:

An ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh

lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức

tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các

thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh

mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới [47, tr.72].

Các cơ quan đặc biệt nước ngoài tập trung tấn công, thâm nhập, tác động

chuyển hóa, tạo dựng các nhân tố chống đối trong nội bộ; đẩy mạnh tập hợp lực

lượng đối lập trong nội địa nhằm tiến hành “cách mạng màu” ở Việt Nam. Số đối

tượng chống đối trong nước cấu kết chặt chẽ với bọn phản động bên ngoài hoạt

động chống phá công khai, quyết liệt với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” ngày càng nguy hiểm, khó lường hơn.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có Đông Nam Á với tiềm năng

lớn và xu thế phát triển năng động đang trở thành vòng xoáy tranh giành ảnh hưởng,

phát triển lợi ích kinh tế, địa chính trị của các nước lớn. Khu vực này cũng đang tồn

tại nhiều mâu thuẫn, xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới, đặc biệt là tranh chấp

113

chủ quyền biển đảo hết sức căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia liên quan,

trong đó có Việt Nam, đã và đang đe doạ trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an

toàn xã hội nước ta.

Tình hình trên đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết đối với

công tác công an, tác động, nảy sinh những yêu cầu mới trong sự nghiệp bảo vệ an

ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đòi hỏi người cán bộ, chiến sỹ

CAND không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật tri thức về khoa học công

nghệ hiện đại. Do đó, PCLV của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cũng

phải đảm bảo tính khoa học, nhạy bén, nắm bắt tình hình thực tiễn chiến đấu của

ngành để đủ khả năng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phục vụ mục tiêu đào tạo

nên đội ngũ cán bộ công an có trình độ cao, đáp ứng nhiệm vụ của đất nước trong

tình hình mới.

4.1.2. Tình hình trong nước

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới và hội

nhập quốc tế của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Thế và lực, sức

mạnh tổng hợp tăng lên, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất

nước phát triển nhanh, bền vững. Đảng ta khẳng định: “Chính trị - xã hội ổn định;

quốc phòng, an ninh được tăng cường; giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển đất

nước” [47, tr.58-59]. Những thành tựu đó đã tạo cơ sở, tiền đề xây dựng đội ngũ cán

bộ, chiến sỹ Công an có sự phát triển về số lượng và chất lượng, củng cố lực lượng

CAND ngày càng lớn mạnh, trưởng thành.

Trong thời gian tới, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng

trước nhiều nguy cơ, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng chỉ ra vẫn tồn tại, có diễn biến

phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan

liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Quá trình đổi mới vẫn thiếu đồng

bộ và toàn diện, nền kinh tế tăng trưởng, nhưng phát triển chưa bền vững và tương

xứng với tiềm năng hiện có, một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch. Mặt

trái nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế thẩm thấu ngày càng mạnh vào mọi mặt

114

của đời sống xã hội, làm thay đổi nhận thức, tư tưởng, hành động của một bộ phận

nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá

Đảng, Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc, xảo quyệt,

trong đó có chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa”, “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân. Tình hình tội phạm, tệ

nạn xã hội diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, phạm vi

hoạt động và tính chất nghiêm trọng; nhiều loại tội phạm mới xuất hiện gây khó

khăn cho lực lượng công an trong phát hiện, đấu tranh, thậm chí công khai thách

thức lực lượng Công an. Đòi hỏi lực lượng CAND phải tăng cường sức chiến đấu,

xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ

trong tình hình mới.

Đây cũng là thời gian chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được

rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được giáo dục, đào tạo dưới mái

trường xã hội chủ nghĩa, sang thế hệ cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong điều

kiện đất nước hoà bình, phát triển, được đào tạo từ nhiều nguồn ở trong và ngoài

nước. Điều kiện, yêu cầu về trình độ, năng lực và phong cách của thế hệ cán bộ sau

cũng có sự khác biệt với cán bộ trong các thế hệ trước. Tình hình đó tác động mạnh

mẽ, toàn diện, sâu sắc đến việc xây dựng, rèn luyện PCLV cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.

Như vậy, trong thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản, đất nước

ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra cho toàn lực

lượng Công an những nhiệm vụ hết sức nặng nề như: yêu cầu xây dựng lực lượng

CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại và đào tạo nên thế

hệ cán bộ, chiến sỹ CAND có bản lĩnh, phong cách, trình độ. Nhiệm vụ đó trước hết

thuộc về các nhà trường CAND, trong đó trọng tâm là các Học viện. Đảng uỷ Công

an Trung ương xác định, nhất thiết phải “bố trí lực lượng, đào tạo cán bộ Công an

cả về chính trị, nghiệp vụ, pháp luật, khoa học kỹ thuật và ngoại ngữ... mới đáp ứng

được yêu cầu” [51, tr.37].

115

Trong bối cảnh đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên ở các Học viện

CAND theo phong cách Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp đột phá, chiến

lược, lâu dài để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu của tình

hình mới; góp phần xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh toàn diện,

xứng đáng là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, thực

hiện tốt vai trò bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi

trường hoà bình, ổn định để đất nước phát triển nhanh và bền vững.

4.2. NỘI DUNG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,

GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH

HỒ CHÍ MINH

Mỗi lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể luôn đòi hỏi con người làm việc

cho nó phải có những đặc trưng riêng về phẩm chất và năng lực. Do đó, nội dung

xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ

Chí Minh phụ thuộc vào những phẩm chất và năng lực riêng biệt, đặc thù của lực

lượng CAND.

Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8

Khoá XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo” với nhiệm vụ xây

dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng

và hội nhập quốc tế; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng;

các nghị quyết Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương nhằm xây dựng các

Học viện CAND đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đào tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng lực lượng CAND, phục vụ sự nghiệp

bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, nên việc xây dựng PCLV

nâng cao năng lực, phong cách công tác của cán bộ, giảng viên cũng chính là một

trong những nội dung trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của

các Học viện CAND.

Tình hình mới hiện nay của đất nước đòi hỏi cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND phải luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng tốt quan điểm, tư tưởng của Chủ

116

tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về PCLV nhằm đem lại hiệu quả cao trong thực

hiện chức trách, nhiệm vụ, trong đó cần hết sức coi trọng xây dựng tốt một số nội

dung sau:

4.2.1. Xây dựng phong cách làm việc dân chủ, đoàn kết

Xây dựng và phát huy dân chủ, giữ vững đoàn kết mọi mặt chính là biểu hiện

của PCLV dân chủ của cán bộ, giảng viên các Học viện CAND. Trong xây dựng và

phát huy PCLV dân chủ, chấp hành đúng các nguyên tắc của tổ chức, đảm bảo kỷ

cương và kỷ luật. Đấu tranh với mọi biểu hiện lợi dụng dân chủ dẫn đến dân chủ

quá trớn, hoặc dân chủ hình thức, “kéo bè, kéo cánh”, gây mất đoàn kết nội bộ.

Chỉ có bầu không khí tâm lý tích cực thì các mục tiêu nhiệm vụ công tác mới

bảo đảm chất lượng và là cơ sở của sự sáng tạo, truyền cảm hứng. Thực hiện tốt dân

chủ trong dạy và học là điều cần thiết, trong quá trình giảng dạy, giảng viên phải

khéo léo khơi gợi học viên nhạy bén phát hiện được những vấn đề hay, những mâu

thuẫn, khích lệ học viên trình bày quan điểm, cách làm, bên cạnh đó kịp thời định

hướng, dẫn dắt người học tránh lạc chủ đề, sai nguyên tắc. Sau mỗi nội dung công

tác, giảng dạy, phát huy dân chủ trong đánh giá kết quả, trao đổi, đúc rút kinh

nghiệm cho cả cán bộ, giảng viên và học viên để không ngừng cải tiến nội dung,

phương pháp, nâng cao chất lượng. Dân chủ còn thể hiện ở hoạt động giao lưu để

cán bộ, giảng viên và học viên hiểu nhau hơn, không còn những tự ti trong suy nghĩ,

thoải mái trao đổi, phát huy tốt trí tuệ, kiến thức của mình, mạnh dạn đóng góp về

nội dung, phương pháp, tác phong của cán bộ, giảng viên.

Cơ sở quan trọng đảm bảo tính bền vững, tạo nên sức mạnh và kỷ luật của

CAND chính là sự đoàn kết, gắn bó, sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong quan hệ

đồng chí, đồng nghiệp. Chỉ khi xây dựng được một tập thể đoàn kết, thống nhất về

chủ trương, hành động, vì mục tiêu nâng cao PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên

trong Học viện thì khi đó mới có cơ sở thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra. Đây

cũng là một trong những lời dạy của Hồ Chí Minh đối với lực lượng CAND: “Đối

với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ” [86, tr.498]. Giáo dục cán bộ, chiến sỹ có tinh

thần đoàn kết thương yêu đồng chí, đồng đội, thân ái giúp đỡ nhau trong học tập,

117

rèn luyện, công tác. Biểu hiện của người cán bộ, chiến sỹ CAND biết giữ gìn sự

đoàn kết nội bộ được thể hiện bởi sự yêu thương đồng chí, đồng đội, đồng cam chịu

khổ. Thân ái, giúp đỡ gắn liền với việc hướng dẫn, truyền đạt tri thức, kinh nghiệm

nghề nghiệp với đồng đội, đồng chí với tinh thần cùng nhau tiến bộ.

Phong cách làm việc đoàn kết gắn bó của cán bộ, giảng viên phải được thể

hiện ở tinh thần tương trợ, thương yêu lẫn nhau, “mỗi người vì mọi người, mọi

người vì mỗi người”, tất cả vì mục tiêu, nhiệm vụ chung, hoàn toàn khác xa với

hiện tượng kéo bè, kéo cánh, cục bộ, địa phương. Trong quan hệ giữa các cán bộ,

giảng viên phải luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, độ lượng, rộng rãi với đồng

đội. Thân ái giúp đỡ đồng nghiệp cũng là tạo điều kiện cho nhau phát triển, tiến bộ

không ngừng, coi sự trưởng thành của đồng đội là sự trưởng thành của bản thân,

không đố kỵ, nhỏ nhen, hẹp hòi.

Để có PCLV đoàn kết, gắn bó, thực sự thân ái, mỗi cán bộ, giảng viên phải

có ý thức chăm lo xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, thực hiện tốt nguyên tắc tự

phê bình và phê bình theo lời dạy của Hồ Chí Minh. Khi phê bình người khác phải

phải khéo léo, phải sáng suốt để người bị phê bình nhận ra khuyết điểm của mình và

tự sửa chữa. Bên cạnh chỉ rõ những khuyết điểm cũng nêu lên những ưu điểm để

vừa sửa chữa, khuyến khích cán bộ, mục đích để cho mọi người phát huy ưu điểm

và giúp nhau khắc phục hạn chế. Khi nội bộ đoàn kết thì dân chủ được phát huy,

cán bộ, giảng viên yên tâm, phấn khởi công tác, yêu ngành, yêu nghề, thi đua hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ.

4.2.2. Xây dựng phong cách làm việc sâu sát, nắm bắt tình hình thực tế

Ở mỗi Học viện, qua mỗi giai đoạn, quá trình đều có phương hướng, nội

dung cụ thể của công tác giáo dục, đào tạo phù hợp với thực tế đó. Cần xác định

rõ nhiệm vụ chính trị cơ bản, lâu dài, có tính chiến lược qua các giai đoạn cũng

như những nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách trong từng năm học phù hợp với đặc

điểm tình hình mỗi Học viện. Do vậy, việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên theo phong cách Hồ Chí Minh cũng cần căn cứ trên những yêu cầu cụ thể

118

của kế hoạch công tác đã được Bộ Công an, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo

các Học viện đặt ra.

Căn cứ vào mục tiêu cụ thể của Đề án về “Phát triển và nâng cao chất lượng

đội ngũ giáo viên các trường CAND” quy định phấn đấu đến năm 2020, ở các Học

viện CAND, trình độ đội ngũ giảng viên là tiến sỹ đạt tỷ lệ 40%, thạc sỹ 55%, cán

bộ quản lý giáo dục có trình độ tiến sỹ 25%, thạc sỹ 60% [13, tr.3]; trình độ lý luận

chính trị là cử nhân hoặc cao cấp của cán bộ, giảng viên đạt tỷ lệ 50%; trình độ

ngoại ngữ Tiếng Anh đại học, TOEFL 550 hoặc IELTS 6.0 của cán bộ, giảng viên

đạt tỷ lệ 35% [13, tr.4]; đồng thời, bám sát theo định hướng đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục, đào tạo trong CAND. Những yêu cầu trên sẽ là tiêu chí để mỗi cán

bộ, giảng viên phấn đấu đạt tiêu chuẩn chức danh trong giảng dạy, huấn luyện, quản

lý, nâng cao hiệu quả phương pháp, lề lối công tác và phát triển cao trên con đường

sự nghiệp.

Ngoài ra, ở mỗi Học viện CAND, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo

cho rất nhiều hệ, lớp khác nhau, như: đào tạo chính quy, vừa làm - vừa học, văn

bằng 2, bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng chức danh, bồi dưỡng trung cấp, cao cấp lý

luận chính trị. Do đó, trong công tác, giảng dạy, cán bộ, giảng viên cần căn cứ và

bám sát thực tế chương trình đào tạo của mỗi đối tượng học viên để từ đó có

phương pháp, nội dung giảng dạy, huấn luyện, phục vụ phù hợp với mục tiêu, yêu

cầu của từng hệ học và đặc điểm của Ngành. Học tập PCLV Hồ Chí Minh sâu sát,

nắm bắt tình hình thực tiễn cũng yêu cầu mỗi cán bộ, giảng viên phải luôn gần gũi

với học viên để khoảng cách giữa cán bộ, giảng viên với học viên được kéo lại gần

hơn, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học viên, sẵn sàng giúp đỡ về mọi mặt trong

khả năng cho phép. Giảng viên, cán bộ quản lý học viên tìm hiểu, khảo sát thêm từ

học viên để điều chỉnh bài giảng, nội dung sinh hoạt phù hợp, giúp học viên có

động cơ tích cực trong học tập và rèn luyện.

Phong cách làm việc sâu sát, nắm bắt thực tế của cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND còn thể hiện ở việc, các bài giảng, đặc biệt là các bài giảng nghiệp vụ

119

chính là lý luận được đúc kết trên cơ sở thực tiễn, do đó, đòi hỏi người cán bộ,

giảng viên trong quá trình công tác cần không ngừng trau dồi, rèn luyện, liên hệ sâu

sắc thực tiễn chiến đấu và công tác của ngành để đưa vào bài giảng. Đồng thời, bám

sát thực tiễn không chỉ phục vụ thiết thực cho việc nâng cao chất lượng bài giảng

mà còn góp phần tổng kết, cung cấp luận cứ khoa học để kiến nghị với Đảng, Nhà

nước đề ra các chủ trương, chính sách quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ an ninh

quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội; giúp lãnh đạo Bộ có thêm cơ

sở lý luận và thực tiễn trong việc nhận định, đánh giá tình hình và chỉ đạo xây dựng,

hoàn thiện và đổi mới lý luận nghiệp vụ công an. Trên cơ sở đó, sử dụng các kết

quả nghiên cứu chuyên sâu để bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ và đưa vào

thực tiễn chiến đấu của toàn lực lượng.

4.2.3. Xây dựng phong cách làm việc đổi mới, sáng tạo

Đối với các nhà trường nói chung và các Học viện CAND nói riêng, cán bộ,

giảng viên được coi là yếu tố then chốt của đổi mới, cải cách giáo dục. Bởi lẽ,

không có thầy giỏi về năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm và phẩm chất

đạo đức tốt thì không thể có nền giáo dục chất lượng. Do vậy, đổi mới nâng cao

năng lực, phương pháp công tác và giảng dạy sẽ tạo ra tiền đề căn bản, vững chắc

cho cán bộ, giảng viên có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra. Mỗi cán bộ, giảng viên cần

hình thành cho mình thái độ, động cơ phấn đấu đúng đắn, để hoàn thiện phẩm chất

nhân cách, nâng cao năng lực, phương pháp, tác phong công tác và uy tín nghề

nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo của Học viện hiện nay.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các thầy giáo, cô giáo phải tìm

cách dạy. Dạy cái gì, dạy như thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh,

đó là chỉ dẫn để mỗi cán bộ, giảng viên cần đổi mới trong phương pháp, cách thức

dạy học, công tác của mình, chắt lọc nội dung đưa vào bài giảng cho phù hợp, tìm

kiếm phương pháp công tác đạt hiệu quả, năng suất cao.

Các Học viện CAND đảm bảo đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp

giảng dạy, công tác theo hướng tăng cường cập nhật những vấn đề lý luận mới, có

120

tính thực tiễn, kinh nghiệm xử lý các vấn đề phức tạp về chính trị, tư tưởng, an ninh,

trật tự vào giảng dạy; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên trong

việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp; duy trì và nâng cao chất

lượng phong trào dạy giỏi theo hướng thực chất, thiết thực. Hiện nay, ở các Học

viện, trong giảng dạy có các phong trào “Hội thi Giảng viên dạy giỏi cấp Học viện”,

“Hội thi Giảng viên dạy giỏi cấp Bộ”, đối với cán bộ có “Hội thi cán bộ chủ nhiệm

giỏi”, “Hội thi cán bộ Công đoàn giỏi”. Qua các hội thi, các phong trào thi đua đều

rút ra những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong giảng dạy và công tác được tôn vinh

và nhân rộng trong toàn Học viện.

Các trường cần tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt chuyên môn theo

định kỳ hàng tháng, tổ chức các buổi toạ đàm, sinh hoạt khoa học để cán bộ, giảng

viên phát huy trí tuệ của mình, trao đổi học tập lẫn nhau để làm giàu thêm tri thức

bản thân. Ngoài ra, các Học viện CAND tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên tham

gia vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng như: học cao học, nghiên cứu sinh

trong và ngoài nước, tham gia các khóa học, tập huấn chuyên sâu để mở mang, làm

giàu tri thức, nâng cao kiến thức chuyên môn. Đặc biệt, cần thiết phải xây dựng cơ

chế, chính sách mang tính chất đặc thù, tạo cơ hội để cán bộ, giảng viên tham gia

nghiên cứu khoa học, giảng dạy với các trường đại học khác trong và ngoài ngành;

trân trọng và tạo mọi điều kiện cho những cán bộ, giảng viên có những sáng kiến có

thể ứng dụng vào thực tiễn đời sống đem lại lợi ích kinh tế cho Học viện.

4.2.4. Xây dựng phong cách làm việc tận tuỵ, trung thực và trách nhiệm

Sinh thời, Hồ Chí Minh căn dặn lực lượng CAND: “Đối với công việc, phải

tận tụy” [86, tr.499], đó chính là yêu cầu về ý thức, trách nhiệm, hết lòng hết sức

phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của người công an cách mạng. Đối với mỗi cán

bộ, giảng viên các Học viện CAND, là tinh thần làm việc trách nhiệm cao, tự giác,

tự nguyện, hết lòng hết sức và toàn tâm, toàn ý vì nhiệm vụ giáo dục, đào tạo chung,

không nề hà tính toán lợi ích cá nhân. Yêu cầu trong thái độ với công việc phải xuất

phát từ động cơ, thái độ làm việc đúng đắn, đối lập với tư tưởng trung bình chủ

nghĩa, làm việc cầm chừng, nặng về đòi hỏi quyền lợi; làm việc không chỉ vì chế

121

độ, chính sách đối với bản thân mà phải đặt lợi ích của cá nhân trong lợi ích tập

thể. PCLV tận tuỵ cũng bao hàm sự đam mê, nhiệt huyết, trách nhiệm cao với

công việc mà cán bộ, giảng viên được đảm nhận, đổi mới cách làm, hình thành tác

phong làm việc chu đáo, khoa học, nền nếp, có hiệu quả thiết thực. Khi được giao

nhiệm vụ nào quyết tâm làm cho bằng được, đến nơi, đến chốn, không sợ khó

nhọc, không sợ nguy hiểm. Phụ trách công việc gì cũng cần có sự chuẩn bị, tính

toán kỹ lưỡng, đề ra chương trình, kế hoạch, biện pháp và các phương án thực

hiện cụ thể để đảm bảo đạt kết quả cao nhất; đồng thời phải có sự tính toán, dự

liệu, lường trước những khó khăn, phức tạp để chủ động có phương án khắc phục.

Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND để học tập, làm theo phong cách của

Hồ Chí Minh trong công tác phải tận tụy, hăng say, yêu nghề, trung thực và có trách

nhiệm, luôn nỗ lực phấn đấu, ý thức hơn nữa về trách nhiệm và vinh dự, tự hào là

người thầy, cán bộ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo - người sĩ quan CAND, không

ngừng học tập nâng cao trình độ, say mê nghiên cứu sáng tạo trau dồi kiến thức và

kinh nghiệm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn vững vàng lập trường tư tưởng,

quan điểm chính trị, luôn là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, nhân cách, sự

trung thành tuyệt đối trước đồng nghiệp và học viên; là những người truyền lửa,

lòng nhiệt huyết, tri thức cho học viên.

4.2.5. Xây dựng phong cách làm việc nêu gương

Xây dựng PCLV nêu gương theo phong cách Hồ Chí Minh, các Học viện

CAND chú ý phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những khuyết điểm tạo

nên những chuyển biến tích cực trong giảng dạy, công tác của cán bộ, giảng viên.

Trong đó, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo, chỉ huy các Học viện trong tổ

chức thực hiện, đổi mới lề lối làm việc, có trách nhiệm gương mẫu đi đầu trong việc

thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị, nhất là thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở; phải thực sự gương mẫu về chuyên môn, năng lực và

phẩm chất đạo đức.

Mục tiêu cuối cùng của quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên

theo phong cách Hồ Chí Minh chính là nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của

122

nhà trường, rèn luyện nên các thế hệ sỹ quan CAND tương lai có đủ phẩm chất

chính trị, đạo đức, năng lực công tác chuyên môn. Mỗi cán bộ, giảng viên phải ý

thức sâu sắc rằng mình là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”, đó không chỉ là

khẩu hiệu mà còn là phương châm hành động trong công tác, chiến đấu; tự giác tu

dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức theo Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, xây dựng

hình ảnh người chiến sỹ CAND tận tụy, nhân văn, vì nhân dân phục vụ; nhân rộng

các tấm gương cán bộ, giảng viên điển hình tiên tiến về phẩm chất, năng lực, PCLV

trong mỗi Học viện.

Trong mỗi Học viện CAND, sự tác động của tấm gương đạo đức, các phẩm

chất chính trị, nhân cách, tình cảm tâm huyết, hết lòng với nghề nghiệp, đặc biệt là

của cán bộ, giảng viên giữ vai trò lãnh đạo và cán bộ, giảng viên thế hệ đi trước có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là những tấm gương có giá trị lan toả, làm cho thế hệ

cán bộ, giảng viên trẻ noi theo. Là người gần gũi trong suốt quá trình đào tạo nên

nhân cách, trí tuệ của học viên nên tác phong, lối sống của người cán bộ, giảng viên

có ảnh hưởng rất lớn trí tuệ, nhân cách, đạo đức, phương pháp của học viên.

Cán bộ, giảng viên tự rèn luyện nhân cách bản thân bằng việc giữ tác phong

sư phạm, có mối quan hệ tốt, tương trợ lẫn nhau với đồng nghiệp, thái độ với học

viên hòa nhã, thân thiện, vui vẻ, sẵn sàng giúp học viên trong học tập, rèn luyện,

sinh hoạt và các vấn đề mà họ còn băn khoăn. Với sự am hiểu về lịch sử, truyền

thống cũng như vai trò của lực lượng CAND, cán bộ, giảng viên cần xác định

nhiệm vụ không chỉ dạy học viên về kiến thức, về phương pháp, mà còn truyền thụ

cho học viên sự yêu ngành, yêu nghề. Đồng thời, rèn luyện đức tính khiêm tốn, giản

dị, tôn trọng pháp luật, nguyên tắc kỷ luật như: thực hiện đúng quy chế, kiên quyết

chống lại mọi biểu hiện tiêu cực trong học tập, giảng dạy và công tác; thực hiện tự

phê bình bản thân thường xuyên, sẵn sàng nhận khuyết điểm, thiếu sót của mình

trước tập thể; chấp hành đúng nội quy, điều lệnh, chuẩn mực trong phát ngôn, phấn

đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về

đạo đức, tự học và sáng tạo” [13, tr.4].

123

4.2.6. Xây dựng phong cách làm việc đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, thực

hiện nghiêm điều lệnh nội vụ và quy định của Ngành

Ngoài yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực

chuyên môn, cán bộ, giảng viên cần rèn luyện bản lĩnh trong ý thức tổ chức kỷ luật:

chấp hành nghiêm túc quy định của Đảng, Nhà nước, ngành Công an, quy định điều

lệnh CAND, mệnh lệnh của người lãnh đạo, chỉ huy, nhất là trong thực thi các

nhiệm vụ, công tác đột xuất hay phải ứng phó kịp thời trước tình huống đặt ra. Khi

tiếp xúc với học viên, với nhân dân phải có thái độ, hành vi văn minh, lịch sự, tôn

trọng, khiêm tốn đúng mực, lắng nghe, nhiệt tình, biết chia sẻ, cảm thông, đồng

cảm, khéo léo, linh hoạt trong xử lý tình huống liên quan đến việc thực hiện chức

trách, nhiệm vụ. Xây dựng tác phong nhanh nhẹn, dứt khoát, chuẩn mực trong lời

nói và hành động. Đặc biệt, cán bộ, giảng viên trẻ cần nâng cao ý thức tự giác tu

dưỡng, rèn luyện, trong suy nghĩ và thực hiện công việc hằng ngày, trong quan hệ

với đồng chí, đồng nghiệp và học viên. Tự nhìn nhận, tự đánh giá và thấy được vị

trí của mình trong từng mối quan hệ để có cách tiếp cận, ứng xử phù hợp; chú trọng

phương pháp “giáo dục, thuyết phục” và “nêu gương” trong ứng xử với học viên.

Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên cần thực hiện tốt các Chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, ngành và quy định của mỗi Học viện, như: thực hiện Nghị quyết Trung ương

4 (khoá XII) của Đảng về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi

sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn

biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; Kế hoạch số 337/KHBCA-X11 về tổ chức

cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân

dân phục vụ”; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và phong trào “CAND

học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”; Thông tư số 27/2017/TT-BCA ngày

22/8/2017 của Bộ Công an về quy tắc ứng xử của CAND.

4.2.7. Xây dựng phong cách làm việc gắn liền với kiểm tra, giám sát,

đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên, các Học viện không chỉ

chú trọng vào nội dung, phương pháp, hiệu quả mà cần thường xuyên kiểm tra đánh

124

giá định kỳ, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cán bộ, giảng

viên thực hiện tốt, có những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong giảng dạy và công

tác chuyên môn; đồng thời tiếp thu, rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp khắc phục

tồn tại của cán bộ, giảng viên trong thực thi chức trách, nhiệm vụ. Chủ động phát

hiện và xử lý nghiêm cán bộ, giảng viên vi phạm những quy tắc cơ bản trrong quá

trình tu dưỡng, rèn luyện PCLV.

Nội dung kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm có thể được

thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng: lấy ý kiến của chuyên gia công

tác tại các đơn vị nghiệp vụ trong lực lượng; tiếp nhận phản ánh của học viên về

chương trình đào tạo, thái độ, hiệu quả công tác của các phòng, ban chức năng; tổ

chức đối thoại với học viên, khảo sát học viên tốt nghiệp ra trường, lấy ý kiến của

học viên năm cuối bằng các bộ tiêu chí đánh giá. Từ đó, các Học viện có cơ sở để

phát huy những điểm mạnh, đề ra phương án hạn chế những tồn tại, bất cập về

PCLV của cán bộ, giảng viên trong thực hiện nhiệm vụ.

Đồng thời, mỗi cán bộ, giảng viên cần tự kiểm tra, kiểm soát lại công việc

của bản thân đã thực hiện đến đâu, với mức độ, kết quả như thế nào, có sáng kiến gì

có thể phát huy và vận dụng trong công tác, giảng dạy. Chủ động đề ra những biện

pháp khắc phục sửa chữa thiếu sót, tồn tại, cần thiết có thể tham mưu, đề xuất với

lãnh đạo cấp trên để có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm

vụ, phần việc được giao. Biết tiếp thu ý kiến của đồng chí, đồng nghiệp, lãnh đạo

nhằm phát huy mặt mạnh, khắc phục, sửa chữa điều chỉnh mặt còn yếu, còn tồn tại

trong PCLV của bản thân.

4.3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CHO CÁN BỘ,

GIẢNG VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHONG CÁCH

HỒ CHÍ MINH

4.3.1. Nhóm giải pháp về chủ thể cấp uỷ, lãnh đạo

4.3.1.1. Nâng cao nhận thức, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng

Đây là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng PCLV

Hồ Chí Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND. Thực tế cho thấy, những

125

ưu điểm, khuyết điểm trong xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh có nguyên nhân từ nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo

các cấp.

Một là, nâng cao nhận thức của cấp uỷ, lãnh đạo về vai trò, giá trị của

PCLV Hồ Chí Minh đối với hiệu quả công tác của cán bộ, giảng viên

Để xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

đạt kết quả tốt, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND cần

nâng cao nhận thức về vai trò PCLV của Hồ Chí Minh. Xác định xây dựng PCLV

cho cán bộ, giảng viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi

các mục tiêu của Học viện đặt ra trong từng giai đoạn cụ thể. Đảng uỷ, Ban Giám

đốc, lãnh đạo các Học viện CAND cần nhận thức, quán triệt sâu sắc các văn bản

chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,

đào tạo trong CAND, về xây dựng phong cách người CAND, trong đó nhiệm vụ

then chốt là xây dựng PCLV theo tấm gương phong cách Hồ Chí Minh trên cơ sở

bám sát tình hình, mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động cụ thể của Học viện. Tiếp tục

nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến tuyển dụng, sử dụng,

quản lý cán bộ, giảng viên, chế độ làm việc, tiêu chuẩn nghề nghiệp của cán bộ,

giảng viên.

Hai là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, phong

cách người công an cách mạng cho cán bộ, giảng viên

Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo đơn vị trong Học viện CAND cần tăng

cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

truyền thống cách mạng của Đảng, dân tộc và của lực lượng CAND cho cán bộ,

giảng viên Học viện; đẩy mạnh học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận; chủ

động đấu tranh, phản bác đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các

thế lực thù địch, phản động. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” trong nội bộ;

duy trì nghiêm túc, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tập huấn điều lệnh

126

CAND, tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành điều lệnh của cán bộ chiến sĩ.

Bồi dưỡng lòng tự tôn nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của

những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận “trồng người” cho cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND.

Để công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, giảng viên

đạt hiệu quả, các Học viện CAND cần quán triệt và triển khai nghiêm túc Nghị

quyết Trung ương IV, khóa XII của Đảng về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn

Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

những biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 05-

CT/TW của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng

Chính phủ về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh; Kế hoạch thực hiện cuộc vận động “Xây dựng phong cách người

CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Tiếp tục đổi mới nội dung,

phương thức các cuộc vận động để nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính

trị cho cán bộ, giảng viên. Định kỳ hàng tháng, cấp ủy, lãnh đạo đơn vị tổ chức

cán bộ, giảng viên nghiêm túc đánh giá kết quả rèn luyện, xây dựng PCLV theo

phong cách Hồ Chí Minh trên mọi mặt, đặc biệt là đánh giá về kết quả của việc

đổi mới, rèn luyện phong cách, phương pháp giảng dạy, công tác, thực hiện đạo

đức, lối sống, văn hóa ứng xử; tư thế, lễ tiết, tác phong; tinh thần trách nhiệm

trong công việc.

Ba là, đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục

Các Học viện CAND chú ý thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa

đàm, trao đổi, nói chuyện chuyên đề, giao lưu với các đơn vị trong và ngoài ngành

về phong cách, văn hóa ứng xử; tổ chức tập huấn, thi tìm hiểu, bồi dưỡng kiến thức

về PCLV Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, bổ sung nội dung giáo dục về PCLV, bản lĩnh

chính trị, đạo đức, lối sống vào nội dung sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống,

sinh hoạt chi bộ của từng đơn vị.

127

Ngoài ra, hiện nay, các Học viện CAND đều có các tạp chí chuyên ngành,

các câu lạc bộ truyền thanh, truyền hình, nội san, bản tin nội bộ thường xuyên hoạt

động tích cực, hiệu quả. Các tạp chí chuyên ngành có: Tạp chí Khoa học và Giáo

dục An ninh (Học viện ANND), Tạp chí Cảnh sát nhân dân (Học viện CSND) và

Tạp chí Lý luận chính trị CAND (Học viện Chính trị CAND). Đây là các ấn

phẩm, chương trình tuyên tuyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước, chỉ thị nghị quyết của ngành Công an về giáo dục, đào tạo,

khoa học, về thực tiễn công tác chiến đấu, xây dựng lực lượng CAND, là diễn đàn

trao đổi kết quả nghiên cứu, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phổ

biến những kinh nghiệm giảng dạy, học tập của cán bộ, giảng viên, học viên của

các Học viện CAND.

Để công tác xây dựng PCLV có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạp chí, chương

trình phát thanh, truyền hình, bản tin của các Học viện cần mở chuyên mục tuyên

truyền các mô hình, đơn vị, những tấm gương điển hình tiên tiến, “Người tốt,

việc tốt”, những kết quả tích cực thu được từ quá trình xây dựng, rèn luyện theo

PCLV của Hồ Chí Minh. Đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ

hạ thấp uy tín, hình ảnh của lực lượng CAND; nhắc nhở, phê bình những đơn vị,

cán bộ chiến sĩ chưa tích cực, tự giác, còn có vi phạm trong việc xây dựng, rèn

luyện phong cách, phẩm chất. Việc tăng cường thông tin truyền thông về những

tấm gương cán bộ, giảng viên tiêu biểu, các điển hình tiên tiến xuất sắc sẽ khơi

dậy nhiệt huyết và ý thức, lương tâm, trách nhiệm tự hào về nghề nghiệp của cán

bộ, giảng viên.

4.3.1.2. Phát huy vai trò lãnh đạo, trách nhiệm nêu gương của người

đứng đầu

Một là, tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND

Hoạt động xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo

phong cách Hồ Chí Minh cần đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của

Đảng uỷ Công an Trung ương. Đảng uỷ, Ban Giám đốc các Học viện CAND, xác

định xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên là nội dung cốt lõi, có ý nghĩa quyết

128

định đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND, là công việc tự

giác, thường xuyên của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp. Bám sát các quan điểm chủ

trương, của Đảng uỷ cấp trên về nội dung, phương pháp xây dựng để chủ động ban

hành các nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động, chương trình công tác cụ

thể phù hợp với mỗi Học viện.

Đổi mới phương thức và nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, vai trò và

trách nhiệm của tập thể Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo các đơn vị, tăng cường

chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ công tác chuyên môn, tập trung chỉ đạo quyết

liệt để hoàn thành dứt điểm, đúng tiến độ mục tiêu, chương trình đã đặt ra. Trong

quá trình xây dựng, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trên các lĩnh vực để

phát huy tiềm năng, trí tuệ, khả năng sáng tạo của từng đơn vị, cá nhân và làm tốt

công tác quản lý cán bộ, giảng viên. Lãnh đạo Học viện và đơn vị phải hiểu rõ cán

bộ, giảng viên về điều kiện, hoàn cảnh, năng lực, sở trường, trình độ chuyên môn.

Quan tâm sử dụng vào đúng người, đúng việc, đúng vị trí, đúng lúc, thời cơ, điều

kiện, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên, sắp

xếp bố trí, phân công cán bộ trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ của Học

viện, chương trình, kế hoạch công tác, vừa đảm bảo phù hợp, đúng đắn để họ phát

huy năng lực, sở trường, vừa tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên nâng cao PCLV,

hoàn thành tốt nhiệm vụ và không ngừng tiến bộ, phát triển.

Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, lãnh đạo các cấp

tại Học viện CAND

Xuất phát từ quan điểm người đứng đầu, lãnh đạo các cấp trong Học viện

CAND có vai trò đặc biệt quan trọng, chịu trách nhiệm cao nhất trước lãnh đạo Bộ,

Ban Giám đốc trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quản lý, xây dựng đơn vị trong sạch,

vững mạnh; gương mẫu, giáo dục, rèn luyện cán bộ, giảng viên. Trên thực tiễn, lãnh

đạo ở các Học viện CAND đã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ và toàn diện

các nhiệm vụ công tác, nâng cao, chất lượng hiệu quả PCLV của đội ngũ cán bộ,

giảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

129

Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả, cán bộ lãnh đạo các cấp ở

các Học viện cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt và quyết tâm cao độ khi

tham gia xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.

Không ngừng phát huy tinh thần trách nhiệm và sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ

đạo, quản lý, thể hiện năng lực tham gia, quyết định và tổ chức thực hiện tốt những

nhiệm vụ xây dựng trong phạm vi trách nhiệm lãnh đạo của mình; có bản lĩnh và

năng lực điều hành, tập hợp cán bộ, biết sử dụng nhân tài, phối hợp công tác; có khả

năng đúc rút kinh nghiệm và tổng kết thực tiễn; có tác phong dân chủ, PCLV khoa

học, nói đi đôi với làm, sâu sát thực tế. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải là ngọn cờ tiêu

biểu, là tấm gương sáng về phẩm chất, năng lực, phong cách, tinh thần trách nhiệm,

sự sáng tạo trong công tác chuyên môn để cán bộ, giảng viên cấp dưới noi theo. Tạo

môi trường đoàn kết, dân chủ để cán bộ, giảng viên mạnh dạn đánh giá, nhận xét,

giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện công khai, minh bạch; chống lãng phí, tham ô,

tham nhũng và thực hành tiết kiệm.

Bên cạnh việc nêu gương, phát huy tinh thần, trách nhiệm của lãnh đạo các

Học viện, cần thực hiện nghiêm túc các văn bản hiện hành liên quan đến trách

nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy như: Nghị định số

157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ về “Quy định chế độ trách nhiệm

đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong khi thi hành

nhiệm vụ, công vụ”; Điều 10, Luật cán bộ công chức “Quy định nghĩa vụ, trách

nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước”; Quy định số

101-QÐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán

bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.

4.3.1.3. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng; xây dựng

bộ tiêu chí về phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên

Một là, làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, giảng viên đảm bảo yêu cầu về

phẩm chất, năng lực

Đối với lực lượng CAND nói chung và các Học viện CAND nói riêng, công

tác tuyển chọn luôn được xác định là điều kiện tiên quyết, nếu không được thực

130

hiện tốt, chất lượng “đầu vào” không đảm bảo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng

của đội ngũ cán bộ, giảng viên, giảm sút hiệu quả đào tạo của các Học viện. Thông

tư 18/2010/TT-BCA đã đề cập toàn diện, đầy đủ, chi tiết về công tác tuyển chọn,

trong đó nêu rõ: Tuyển chọn cán bộ, giảng viên phải đảm bảo đúng nguyên tắc, tiêu

chuẩn, đối tượng và quy trình. Các Học viện CAND cần ưu tiên tuyển chọn những

trường hợp tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc và những trường hợp có học hàm, học vị

cao, đối với tuyển giảng viên cần có năng khiếu và khả năng sư phạm tốt để bổ sung

cho đội ngũ giảng viên của các Học viện. Tổ chức phân loại chất lượng cán bộ,

giảng viên để xây dựng hướng đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp. Đối với những cán

bộ, giảng viên có triển vọng phát triển cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về

PCLV, tri thức đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên đầu đàn đảm đương

chính trong công tác, giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại các phòng ban chức năng,

khoa, bộ môn, đồng thời để xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận lâu dài. Đối với những

cán bộ chuyên trách có chuyên môn còn hạn chế, giảng viên yếu về năng lực sư

phạm và kiến thức chuyên sâu, cần điều động đến các bộ phận khác cho phù hợp

với năng lực, sở trường của cán bộ.

Công tác tuyển chọn cán bộ, giảng viên ở các Học viện CAND phải phù hợp

với chủ trương, kế hoạch hành động cụ thể của Học viện, đảm bảo đủ về số lượng,

có cơ cấu hợp lý, chuẩn về chất lượng theo tiêu chuẩn của cơ sở giáo dục đại học

trọng điểm của Ngành và quốc gia, phấn đấu đạt tỷ lệ trung bình 01 giảng viên/15

học viên vào năm 2020. Xác định các tiêu chuẩn tuyển chọn, đánh giá cán bộ, giảng

viên, trong đó, quan tâm đồng bộ cả trình độ, năng lực; phương pháp giảng dạy,

công tác chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và sức khoẻ, thể lực. Làm tốt

công tác tuyển chọn, các Học viện CAND sẽ có sự thuận lợi trong quá trình xây

dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh.

Hai là, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng cho cán bộ, giảng viên

Để hoàn thành mục tiêu xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong

cách Hồ Chí Minh, các Học viện cần tiếp tục giành sự quan tâm, ưu tiên, đầu tư cao

nhất cho nhiệm vụ xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên nhằm nâng cao

131

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lề lối, tác phong công tác của đội ngũ này. Đây

được xem là trụ cột quan trọng bậc nhất, góp phần đảm bảo yêu cầu phát triển

nhanh, bền vững của các Học viện.

Nội dung giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong xây dựng PCLV theo phong

cách Hồ Chí Minh phải được xác định toàn diện về chuyên môn, nghiệp vụ công

an, lý luận chính trị, nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng giảng dạy tích cực, trình độ ngoại

ngữ, tin học và đặc biệt là bồi dưỡng năng lực thực tiễn; được triển khai ở các cơ sở

đào tạo cả trong và ngoài ngành, trong nước và nước ngoài. Tập trung tổ chức hoạt

động luân chuyển, thực tế của cán bộ, giảng viên trực tiếp góp phần nâng cao năng

lực thực tiễn. Khuyến khích, động viên cán bộ, giảng viên tự học tập nâng cao trình

độ, đi thực tế để cập nhật, bổ sung những thông tin, tình hình mới của thực tiễn vào

hoạt động, giảng dạy.

Các Học viện CAND tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định 1229/QĐ-

TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể, nâng

cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong các

trường CAND đến năm 2020; nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện quy hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ giảng

viên, cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2015 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ đó,

mỗi Học viện tập trung khảo sát tổng thể về trình độ, cơ cấu, nhu cầu đào tạo để

có kế hoạch dài hạn phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên đáp ứng yêu cầu cho

phù hợp.

Các Học viện CAND đều là những cơ sở đào tạo đầu ngành của Bộ Công an,

mục tiêu, nhiệm vụ mỗi Học viện được đảm nhận là khác nhau, do đó, trong việc

xác định những nội dung xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách

Hồ Chí Minh ở mỗi Học viện phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ của cán

bộ, giảng viên và gắn với nhu cầu sử dụng cán bộ của Học viện, lựa chọn nội dung

sao cho toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm đem lại hiệu quả tốt nhất.

Việc lựa chọn nội dung xây dựng PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh có

trọng tâm là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là việc áp dụng linh hoạt các hình

132

thức, biện pháp xây dựng phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cán

bộ, giảng viên, các hình thức có thể áp dụng như: mở các lớp tuyên truyền, tập huấn

cho cán bộ, giảng viên; thông qua thực tiễn công tác; thông qua sự lãnh đạo, chỉ

đạo, hướng dẫn của cấp trên; thông qua các tấm gương, điển hình người tốt việc tốt

trong và ngoài lực lượng.

Trong phương hướng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ, giảng

viên, mỗi Học viện CAND đã xác định những mục tiêu cơ bản, đối với Học viện

ANND: “Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ từ

35% trở lên, thạc sỹ từ 60% trở lên. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ trong diện quy

hoạch có trình độ cao cấp lý luận chính trị đạt 80% trở lên” [36, tr.29]; đối với Học

viện CSND: “Đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên có trình độ

tiến sỹ từ 45% trở lên, thạc sỹ từ 60% trở lên. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ trong diện

quy hoạch lãnh đạo cấp khoa, phòng có trình độ cao cấp lý luận chính trị đạt 80%

trở lên” [37, tr.31]; Học viện Chính trị CAND đặt ra mục tiêu “Đến năm 2020, 35%

cán bộ quản lý giáo dục, 40% giảng viên có trình độ tiến sỹ; 100% cán bộ lãnh đạo

cấp phòng có trình độ cao cấp lý luận chính trị” [38, tr.14]. Đây chính là căn cứ để

cán bộ, giảng viên ở mỗi Học viện không ngừng cố gắng phấn đấu, rèn luyện PCLV

để đạt được mục tiêu.

Không chỉ qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên ở trong Học

viện và các ngành ngoài ở trong nước mà các Học viện CAND chủ động hội nhập,

nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo với chủ

trương “ưu tiên chỉ tiêu cử cán bộ, giảng viên các Học viện, trường đại học CAND

đi học nước ngoài” [50, tr.9], tạo cơ hội cho họ phấn đấu, trưởng thành, học hỏi

những phương pháp, cách thức công tác hiện đại, hiệu quả. Củng cố, đẩy mạnh

quan hệ hợp tác giữa các Học viện với các đối tác quốc tế truyền thống, thường

xuyên như: Bộ An ninh Lào, Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia, cơ quan An ninh

Liên bang Nga; đồng thời mở rộng thiết lập quan hệ với các đối tác mới như: Hiệp

hội Cảnh sát Quốc tế, cơ quan Cảnh sát Mỹ, Australia…

133

Ba là, xây dựng bộ tiêu chí, quy định về học tập, rèn luyện PCLV theo phong

cách Hồ Chí Minh

Trên thực tế, Bộ Công an đã ban hành nhiều văn bản Nghị quyết, thông tư

quy định về công tác cán bộ trong CAND, về chế độ làm việc của CAND như:

Thông tư số 57/2010/TT-BCA ngày 14/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an “Quy

định chế độ làm việc của các chức danh giảng dạy, huấn luyện trong các học viện,

trường đại học, cao đẳng, trung cấp CAND”. Thông tư giúp các trường có căn cứ để

kiểm tra, thẩm định, đánh giá và xây dựng chính sách, chương trình đào tạo, bồi

dưỡng giảng viên; làm cơ sở để xây dựng kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học,

học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; phục vụ việc đánh giá, xếp loại

giangr viên hàng năm và đảm bảo tính công khai, công bằng, dân chủ trong việc

thực hiện chế độ chính sách.

Tuy nhiên, để quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND theo phong cách Hồ Chí Minh đạt hiệu quả toàn diện thì lãnh đạo Bộ Công

an, lãnh đạo Học viện cần có những quy định cụ thể hơn về hệ thống các quy chế,

tiêu chí về PCLV mới, đó chính là hành lang pháp lý hướng dẫn, định hướng cán

bộ, giảng viên để họ có phương hướng xây dựng, hoàn thiện phong cách của bản

thân, đáp ứng được mục tiêu đề ra. Có thể tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm xây

dựng bộ các tiêu chí về PCLV của cán bộ, giảng viên trong công tác, sinh hoạt; rà

soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chế độ công tác, về tiêu chí phẩm

chất chính trị, đạo đức, lối sống sẽ tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hiệu

quả công việc và đổi mới PCLV của cán bộ, giảng viên. Vì vậy, việc bổ sung, hoàn

thiện các quy chế, quy định về PCLV là một yêu cầu quan trọng.

4.3.1.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách

Một là, từng bước tăng cường trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật hiện đại

ở các Học viện CAND

Trang thiết bị của các nhà trường nói chung và các Học viện CAND nói

riêng đóng vai trò quan trọng, đảm bảo tính hiệu quả công tác của cán bộ, giảng

134

viên, đặc biệt là trong thời kỳ phát triển của khoa học hiện đại ngày càng trở nên

mạnh mẽ. Vì vậy, một trong những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả xây dựng

PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ

Chí Minh là phải xây dựng được hệ thống trang thiết bị chuẩn, hiện đại hóa, đồng

bộ, đủ khả năng đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực và đa cấp học, theo kịp với tiến trình

và nhu cầu phát triển của xã hội nói chung. Qua đó, cán bộ, giảng viên có thể cập

nhật thông tin và ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại trong giảng dạy,

nghiên cứu khoa học và công tác.

Từ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên đến học viên các Học viện CAND

đều phải có trách nhiệm tham gia quá trình xây dựng môi trường giáo dục lành

mạnh và cùng phấn đấu vì mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đối với

Học viện ANND và Học viện CSND, trong quá trình đầu tư xây dựng bám sát vào

Đề án xây dựng Học viện trở thành trường trọng điểm quốc gia năm 2020. Đối với

Học viện Chính trị CAND cần khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện

có, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, ứng dụng khoa học công

nghệ thông tin vào quá trình quản lý, công tác, giảng dạy. Tổng thể các Học viện

cần chú ý quy hoạch phòng làm việc, giảng đường, hội trường, phòng học chuyên

dùng, trung tâm thực hành, thư viện, sân vận động, bể bơi, ký túc xá, nhà ăn… đảm

bảo tốt nhất điều kiện vật chất, đáp ứng quy mô và nâng cao hiệu quả xây dựng

PCLV của cán bộ, giảng viên nhà trường theo phong cách Hồ Chí Minh.

Hai là, xây dựng môi trường văn hoá sư phạm

Đảng uỷ, Ban Giám đốc, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Học viện CAND

cần xây dựng một môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác tin cậy, làm cơ

sở để nuôi dưỡng, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tự do học thuật, thống nhất, đồng

thuận, kỷ luật, kỷ cương. Tạo điều kiện cho cán bộ giảng viên tích cực, hăng say

công tác.

Môi trường dân chủ để xây dựng PCLV tức là cán bộ, giảng viên trên cương

vị, chức trách của mình được dân chủ trong bàn bạc, thảo luận về khoa học và

chuyên môn. Trên cơ sở thống nhất với những kế hoạch nhiệm vụ cụ thể của từng

135

năm, từng giai đoạn, các Học viện CAND cần công khai cho cán bộ, giảng viên để

mỗi người ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện. Quá trình đó, cán bộ, giảng viên tự

đặt mình vào tình huống, tích cực trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa

học, thông qua đó để hình thành PCLV tích cực, hiệu quả.

Thường xuyên tổ chức các hoạt động diễn đàn, trao đổi, tạo cơ hội để cán bộ,

giảng viên học hỏi lẫn nhau những kinh nghiệm quý, những cách làm hay để vận

dụng theo cương vị chức trách của mình. Sự công bằng, dân chủ trong khoa học có

mối quan hệ chặt chẽ, tạo ra động lực cho mỗi cá nhân phấn đấu toàn diện. Trong

mỗi nhiệm vụ, sự đánh giá của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp trong Học viện phải công

tâm, khách quan, tạo niềm tin vững chắc của cán bộ, giảng viên đối với tổ chức, làm

cho họ có điều kiện để bày tỏ quan điểm, nguyện vọng cá nhân. Từ phát huy dân

chủ sẽ góp phần tạo ra sức sáng tạo của mỗi người trong PCLV. Quá trình đó chính

là từng bước bổ sung, phát triển PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ

Chí Minh

Ba là, thực hiện cơ chế, chính sách biểu dương, động viên, khen thưởng

Cơ chế, chính sách là động lực rất quan trọng tác động đến hoạt động, công

tác của cán bộ, giảng viên, là sự xác định những chủ trương, nội dung, biện pháp,

hình thức xây dựng PCLV, thống nhất giữa các chủ thể giáo dục, học tập, rèn luyện.

Cơ chế chính sách đối với cán bộ, giảng viên phải liên tục được hoàn thiện cả về tổ

chức quản lý con người, chuyên môn.

Trên thực tế, tại các Học viện CAND, việc thực hiện chế độ chính sách đối

với cán bộ, giảng viên vẫn còn nhiều bất cập với những vấn đề như: thanh toán vượt

giờ, vượt chỉ tiêu cho cán bộ, giảng viên chưa tương xứng với thực tiễn công tác, tư

liệu và phương tiện nghiên cứu còn thiếu, tài liệu nghiên cứu, học tập về chuyên

môn nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu, chưa bám sát thực tiễn đấu tranh phòng

chống tội phạm của công tác Công an, chế độ đi thực tế của cán bộ, giảng viên chưa

phù hợp... đã tác động không nhỏ đến hiệu quả xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên theo phong cách Hồ Chí Minh.

136

Để mỗi cán bộ, giảng viên có động cơ đúng đắn trong phấn đấu, rèn luyện

hoàn thiện PCLV, cấp uỷ, lãnh đạo, trực tiếp là lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên

quan tâm, động viên cán bộ, giảng viên phấn đấu, rèn luyện tích luỹ kiến thức, rèn

luyện kỹ năng, phương pháp của người cán bộ, giảng viên trong môi trường sư

phạm. Sự quan tâm, động viên, khuyến khích được đa dạng bằng nhiều hình thức

khác nhau, chú trọng quan tâm, chăm lo tinh thần, tạo cơ hội học tập, thăng tiến cho

mỗi người, điều kiện để thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến trong quá trình công

tác. Mỗi thành tích của cán bộ, giảng viên cần có sự động viên đặc biệt là đối với

những sáng kiến hay, những biện pháp giỏi được ứng dụng. Hàng năm, tuỳ điều

kiện thực tiễn, các Học viện có thể tổ chức các chương trình giao lưu, hội thảo, trại

hè cho những cán bộ, giảng viên tiêu biểu, xuất sắc về mọi mặt tham gia để động

viên, khen thưởng, khích lệ.

Ngoài ra, quan tâm đến việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo

phong cách Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu với công tác tổ chức của các Học viện

CAND cần chú ý đến việc bố trí, sử dụng, cất nhắc cán bộ, giảng viên đúng tiêu

chuẩn, phù hợp sở trường. Đề bạt cán bộ, giảng viên đúng lúc, đúng người, đúng

việc, đảm bảo tính kế thừa, ổn định và phát triển. Trong mỗi đơn vị, có sự bố trí kết

hợp giữa các thế hệ cán bộ, giảng viên trẻ với cán bộ, giảng viên lớn tuổi để bổ sung

cho nhau về năng lực cũng như kinh nghiệm, kết hợp được những phẩm chất tốt của

các thế hệ “trẻ xông pha, già kinh nghiệm”. Đây cũng là yếu tố quan trọng để cán

bộ, giảng viên phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện, cơ hội để hoàn thiện

PCLV, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ. Việc lựa chọn đúng người thật sự có

tâm, có tầm, có tài, có đủ tiêu chuẩn chính trị và bố trí giữ trọng trách tương xứng

không chỉ phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ, giảng viên mà còn tác

động mạnh mẽ, tạo được sự đồng thuận, “tâm phục, khẩu phục” đối với tập thể, cán

bộ, giảng viên dưới quyền.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, đánh giá, tổng kết việc xây dựng PCLV cho cán

bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

Công tác kiểm tra, đánh giá, tổng kết chất lượng xây dựng PCLV Hồ Chí

Minh cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND là trách nhiệm của mọi tổ chức,

137

lực lượng ở các Học viện CAND, trong đó, trước hết là Đảng uỷ, Ban Giám đốc,

lãnh đạo đơn vị.

Hằng năm, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, chỉ huy đánh giá thực trạng, xây dựng

kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ phù hợp với đặc điểm, chức năng

của đơn vị và khả năng, chức trách của mỗi người. Quá trình kiểm tra, đánh giá gắn

liền với công tác đánh giá, nhận xét cán bộ, giảng viên hằng năm. Xây dựng, hoàn

thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, phong cách công tác ở từng đơn vị của cán

bộ, giảng viên với phương châm: sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ

thực hiện và đánh giá việc thực hiện.

Ngoài ra, các Học viện CAND cần tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên thực

hiện tốt việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong

cách Hồ Chí Minh. Đề cao ý thức, trách nhiệm trong việc đặt ra yêu cầu đối với

việc tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV; quy định thành chế độ, nền nếp, đồng

thời hướng dẫn và tổ chức cán bộ, giảng viên thực hiện một cách chặt chẽ và khoa

học. Đây là việc làm quan trọng, khắc phục bệnh hình thức trong thực hiện nội

dung, kế hoạch tự xây dựng, rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên đã đặt ra. Phân

tích rõ mặt mạnh, yếu của cán bộ, giảng viên, tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề

ra phương hướng, biện pháp khắc phục những mặt còn tồn tại để họ nâng cao

PCLV của bản thân.

Như vậy, kiểm tra, giám sát việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các

Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải được tiến hành từ cả hai phía.

Từ phía người làm công tác cán bộ: kiểm tra, giám sát làm giảm bệnh quan liêu, hạn

chế tiêu cực trong công tác đánh giá cán bộ, giảng viên. Về phía cán bộ, giảng viên:

kiểm tra, đánh giá làm cho họ có trách nhiệm hơn trong việc nâng cao phương

pháp, PCLV của bản thân, tăng cường đạo đức nghề nghiệp, tránh được những thói

hư tật xấu nảy sinh trong quá trình công tác, giảng dạy.

Công tác kiểm tra, đánh giá quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng

viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh phải được tiến hành

138

thường xuyên, trở thành công việc thường ngày của lãnh đạo, Ban Giám đốc, chỉ

huy các đơn vị trong Học viện CAND. Mỗi cuộc kiểm tra, đánh giá đều phải có

chương trình, kế hoạch cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng và thực hiện đúng

các nguyên tắc: công khai, công bằng, dân chủ gắn liền với kỷ luật. Lấy kết quả

đánh giá quá trình xây dựng, rèn luyện của mỗi cán bộ, giảng viên làm cơ sở cho

việc bình xét, đánh giá, phân loại thi đua hàng năm; kịp thời biểu dương, khen

thưởng những cán bộ, giảng viên có nhiều thành tích. Đồng thời, có biện pháp

kiên quyết với những người chủ quan, tự mãn, ngại học tập, lười rèn luyện, không

có khả năng đáp ứng nhiệm vụ được giao.

Qua mỗi thời kỳ, giai đoạn, chú trọng tổ chức việc tổng kết rút kinh nghiệm

trong rèn luyện PCLV của cán bộ, giảng viên. Môi trường thi đua lành mạnh, có

quy chế thưởng phạt nghiêm minh, công bằng sẽ kích thích cán bộ, giảng viên phát

huy tài năng và phẩm chất, phong cách của mình, tận tâm với công việc, cống hiến

sức lực, tài trí, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thực hiện đầy đủ, thường xuyên những nội dung giải pháp thuộc về cấp

uỷ, lãnh đạo các Học viện CAND sẽ đảm bảo cho các tổ chức, lực lượng có

nhận thức đúng, trách nhiệm cao, phát huy tính tích cực, chủ động trong tiến

hành xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong

cách Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các Học viện CAND trong

tình hình mới.

4.3.2. Nhóm giải pháp về phát huy tính tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng

phong cách làm việc của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh

4.3.2.1. Cán bộ, giảng viên cần nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của

phong cách làm việc Hồ Chí Minh

Cán bộ, giảng viên các Học viện CAND tự học hỏi, nâng cao nhận thức về

vai trò, nội dung và ý nghĩa PCLV của Hồ Chí Minh đối với người cán bộ cách

mạng. Từ đó, cụ thể hóa và vận dụng những yêu cầu, nội dung PCLV của mỗi

người cho phù hợp. Khắc phục kịp thời những biểu hiện nhận thức hời hợt, phiến

139

diện, chỉ thấy PCLV là do cá tính riêng của từng người và môi trường làm việc

quy định mà không thấy được mối quan hệ gắn bó giữa PCLV với chuyên môn,

năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, giá trị nhân văn của người cán bộ,

giảng viên.

Từ nhận thức về vai trò, nội dung và ý nghĩa PCLV của Hồ Chí Minh, để

một bộ phận cán bộ, giảng viên hiểu rằng, PCLV không hình thành một cách tự

nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện nghiêm túc. Đồng thời, xuất phát từ chức

năng, nhiệm vụ của người cán bộ, giảng viên các Học viện CAND, đòi hỏi họ phải

tự mình tu dưỡng, rèn luyện nâng cao PCLV, chuyên môn nghiệp vụ.

Làm tốt việc nâng cao nhận thức của bản thân về PCLV, giúp người cán bộ,

giảng viên có sự thống nhất trong tư duy về những nội dung xây dựng PCLV theo

phong cách Hồ Chí Minh trên mọi mặt công tác như: xây dựng phong cách bản lĩnh

về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội

chủ nghĩa; tinh thông về pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn; năng động sáng tạo

trong công tác; dám chịu trách nhiệm trước công việc, kiên trì vượt qua khó khăn,

thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; vững vàng

trước kẻ địch và tội phạm, trước sự mua chuộc, lôi kéo, cám dỗ về vật chất; nâng

cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; có phẩm chất đạo

đức trong sáng, lối sống lành mạnh; thái độ, hành vi văn minh, khiêm tốn, đúng

mực; ứng xử văn hóa; phát huy truyền thống quý báu của lực lượng CAND, khát

vọng vươn lên vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

4.3.2.2. Cán bộ, giảng viên chủ động phát huy tính tự giác tu dưỡng, rèn

luyện, xây dựng phong cách làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh

Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ dạy: Về học tập, phải lấy tự học làm cốt, phải

tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ

cách mạng phải hoàn thành, do đó mà tích cực tự động hoàn thành kế hoạch, nêu

cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong

việc học tập. Từ quan điểm của Hồ Chí Minh, PCLV của cán bộ, giảng viên cũng

140

không phải tự nhiên mà hình thành, nó là sản phẩm của quá trình giáo dục, rèn

luyện công phu, bền bỉ cả từ hai phía: tổ chức và cá nhân. Trong đó, vai trò tích cực,

chủ động, sáng tạo trong tự học tập, rèn luyện PCLV của cá nhân cán bộ, giảng viên

luôn có vai trò trực tiếp, quyết định.

Cán bộ, giảng viên vừa là đối tượng của hoạt động bồi dưỡng, xây dựng, vừa

là chủ thể của quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện. Hoạt động tự tu dưỡng, rèn luyện

của mỗi cán bộ, giảng viên là yếu tố bên trong, yếu tố chủ quan của quá trình xây

dựng PCLV. Để phát huy vai trò tích cực, chủ động của cán bộ, giảng viên các Học

viện CAND trong quá trình tự bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV theo phong

cách Hồ Chí Minh, cần thực hiện một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, cán bộ, giảng viên cần xây dựng động cơ đúng đắn, nâng cao ý thức,

trách nhiệm về việc tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV

Thực tiễn công tác của các Học viện CAND hiện nay cho thấy, phần lớn cán

bộ, giảng viên có ý chí phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, trau dồi kiến thức,

rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn

một bộ phận cán bộ, giảng viên có biểu hiện thoả mãn, không có ý chí phấn đấu học

tập, rèn luyện cao hơn, ngại tu dưỡng, rèn luyện, đổi mới PCLV, lười sáng tạo. Điều

này đã tác động không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác chung của Học viện.

Do đó, xây dựng động cơ đúng đắn, ý thức trách nhiệm cao ở mỗi cán bộ, giảng

viên trong quá trình tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện theo PCLV của Hồ Chí Minh

hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.

Xây dựng động cơ đúng đắn, nâng cao ý thức trách nhiệm bản thân trong

việc tu dưỡng, rèn luyện theo PCLV của Hồ Chí Minh, cán bộ, giảng viên phải

nắm vững và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng coi “học tập là nghĩa vụ

bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên”, lười học tập, lười suy nghĩ, không

thường xuyên tiếp nhận những thông tin, kiến thức mới, không chịu tư duy sáng

tạo, đổi mới cách làm việc cũng là biểu hiện của sự thoái hoá. Cần hiểu rằng, nếu

không tích cực, chủ động, hăng hái tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện PCLV sẽ

141

không theo kịp sự phát triển của thực tiễn, khó khăn trong việc hoàn thành chức

trách, nhiệm vụ. Khi đã xây dựng được động cơ đúng đắn, ý thức trách nhiệm

trong tự tu dưỡng, rèn luyện xây dựng PCLV, cần biến nhận thức thành hành

động, việc làm cụ thể trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV theo phong

cách Hồ Chí Minh của bản thân.

Bên cạnh đó, cán bộ, giảng viên cần coi việc rèn luyện, xây dựng PCLV

theo phong cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ

suốt đời. Rèn luyện phong cách của mỗi người không thể trong ngày một ngày

hai, mà phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn công tác của lực lượng CAND

luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới về năng lực, phẩm chất, vì vậy, cán bộ,

giảng viên nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV sẽ không theo kịp

những yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Xác định học tập, rèn luyện, xây

dựng PCLV không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa tiêu chuẩn, chức danh, điều kiện

theo yêu cầu công tác mà quan trọng nhất phải từ nhu cầu tự thân, học tập, tu

dưỡng, rèn luyện thường xuyên, suốt đời để hình thành phẩm chất tốt, trình độ

cao, phong cách giá trị.

Việc xây dựng động cơ, nâng cao ý thức trách nhiệm trong tự rèn luyện, bồi

dưỡng PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh phải đi đôi với

đấu tranh chống lại những biểu hiện của tư tưởng trung bình chủ nghĩa, ngại phấn

đấu, tránh tình trạng “đăng ký “làm theo” nhưng không thật tích cực, tự giác” [52,

tr.7] đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, giảng viên hiện nay.

Hai là, cán bộ, giảng viên các Học viện CAND cần xây dựng kế hoạch, nội

dung, biện pháp tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV cụ thể

Đây là khâu then chốt quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình tự tu

dưỡng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh của mỗi cán bộ, giảng viên

các Học viện CAND. Xây dựng kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập phải cụ

thể, thiết thực, bao gồm: mục tiêu, yêu cầu, nội dung, biện pháp, hình thức, thời

gian thực hiện.

142

Mục tiêu yêu cầu đề ra phải sát thực, có cơ sở khoa học, chỉ tiêu phấn đấu

không quá cao nhưng cũng không được quá thấp; toàn diện nhưng có trọng tâm,

trọng điểm, bám sát nhiệm vụ của đơn vị, chức trách được giao, không để bị chi

phối bởi các công việc khác. Thực tế ở các Học viện CAND hiện nay, một số cán

bộ, giảng viên đã quan tâm xây dựng kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập

nhưng phần lớn kế hoạch chưa thể hiện rõ mục tiêu, yêu cầu tự tu dưỡng, rèn luyện

hoặc kế hoạch không phù hợp với khả năng bản thân, chưa sát thực tế nên quá trình

tổ chức thực hiện kế hoạch đạt chất lượng và hiệu quả không cao.

Đặc biệt, nội dung tự tu dưỡng, rèn luyện cần gắn liền với việc thực hiện Chỉ

thị số 17-NQ/ĐUCA của Đảng uỷ Công an trung ương về “Đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục và đào tạo trong Công an nhân dân” và nội dung xây dựng phong

cách người CAND “bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” gắn với thực hiện

“Sáu điều Bác Hồ dạy CAND”. Đổi mới, nâng cao hiệu quả PCLV theo phong cách

Hồ Chí Minh phải xuất phát từ điểm gốc đó là rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất,

kiến thức, năng lực của cán bộ, giảng viên. Chú trọng rèn luyện, trau dồi đạo đức

cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tuỵ, không ngừng nghiên cứu, tìm tòi,

sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; tinh thần cương quyết đấu tranh chống các biểu

hiện tiêu cực, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, biết đặt lợi ích tập thể, lợi ích

cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân.

Cán bộ, giảng viên nắm vững và vận dụng sáng tạo các hình thức, biện pháp

tự xây dựng, rèn luyện PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh tuỳ điều kiện và khả

năng, đặc điểm của từng người. Trong đó, tự phê bình và phê bình là quy luật phát

triển của Đảng nhưng đồng thời cũng là hình thức, biện pháp tự rèn luyện, xây dựng

PCLV có hiệu quả. Để vận dụng tốt hình thức này, cán bộ, giảng viên nêu cao tinh

thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai; tôn trọng, lắng nghe và

tiếp thu có chọn lọc những ý kiến góp ý, phê bình của đồng chí, đồng nghiệp trong

đơn vị. Trong đấu tranh phê bình phải có thái độ đúng và phương pháp phù hợp;

chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, ngại phê bình và không chịu

143

tiếp thu ý kiến phê bình của người khác; rèn luyện thái độ khiêm tốn, cầu thị, tôn

trọng, sâu sát, gắn bó, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp; đồng thời có óc quan sát,

khả năng khái quát hoá, hệ thống hoá, tiếp thu và vận dụng có chọn lọc những bài

học hay, kinh nghiệm quý, noi gương, học tập những phong cách, phẩm chất tốt đẹp

để không ngừng tự hoàn thiện bản thân.

Việc xác định thời gian tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV cũng phải phù

hợp, không kéo dài nhưng cũng không được nóng vội, chủ quan, tránh tình trạng

xây dựng kế hoạch chung chung, hình thức, đối phó. Muốn vậy, ngoài sự chủ động,

tự giác của mỗi cán bộ, giảng viên cần có sự quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo, giúp đỡ

của lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong việc đề ra mục tiêu, yêu cầu, nội dung, thời

gian, cách thức xây dựng và thực hiện kế hoạch tự tu dưỡng, rèn luyện PCLV phù

hợp với yêu cầu thực tiễn của đơn vị và Học viện.

Tiểu kết chương 4

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hội

nhập quốc tế sâu rộng. Quá trình đó mang lại thời cơ nhưng cũng tiềm ẩn không ít

những thách thức lớn đối với việc đảm bảo tình hình an ninh, ổn định trật tự an toàn

xã hội của lực lượng CAND. Nhằm đảm bảo các yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà

nước và của ngành Công an, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của các Học viện CAND,

việc xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND hiện nay theo

phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết.

Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xây

dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí

Minh, cần bám sát những nội dung xây dựng. Thực hiện đồng bộ những giải pháp

thuộc về hai nhóm cơ bản, đối với chủ thể cấp uỷ, lãnh đạo: nâng cao nhận thức,

làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phát huy vai trò lãnh đạo, trách nhiệm

nêu gương của người đứng đầu; công tác tuyển chọn, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ

144

năng, xây dựng bộ tiêu chí về PCLV; hoàn thiện cơ chế chính sách và nhóm giải

pháp phát huy tính tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng của mỗi cán bộ, giảng viên:

nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh; phát huy tính tự tu

dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV của mỗi cán bộ, giảng viên.

Các giải pháp nêu trên là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi

hỏi trong quá trình thực hiện phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ, coi trọng

điều chỉnh, bổ sung kịp thời, đáp ứng sự vận động của thực tiễn và điều kiện của

mỗi Học viện, nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND có PCLV khoa học, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, dân chủ - tập thể, nêu

gương trong tác phong công tác, thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nên những

cán bộ, chiến sỹ CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ, đáp ứng yêu cầu

của đất nước trong tình hình mới.

145

KẾT LUẬN

1. Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là một chỉnh thể bao gồm phương

pháp, cách thức, lề lối làm việc có tính khoa học, hệ thống, được thể hiện chủ

yếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của Người nhằm thực hiện mục tiêu,

nhiệm vụ của cách mạng. PCLV Hồ Chí Minh thể hiện đặc trưng là sự thống

nhất giữa tính nguyên tắc với tính sáng tạo; lòng nhiệt tình cách mạng với tri

thức khoa học; tinh thần dân chủ, tập thể với tính quyết đoán; lý luận gắn liền

với thực tiễn với những nội dung phong phú, toàn diện như: PCLV quần

chúng, PCLV tập thể - dân chủ, PCLV khoa học, PCLV nêu gương, nói đi đôi

với làm. Những đặc trưng và nội dung cơ bản trên hợp thành PCLV Hồ Chí

Minh, là tài sản tinh thần vô giá, có giá trị to lớn để Đảng ta chỉ đạo công tác

xây dựng PCLV của cán bộ, đảng viên, đồng thời, là cơ sở để cán bộ, đảng

viên rèn luyện, tu dưỡng phong cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng

lực chuyên môn.

2. Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội cũng

phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có những thách thức

lớn về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tác động sâu sắc đến PCLV của

lực lượng CAND nói chung và cán bộ, giảng viên các Học viện CAND nói

riêng, làm ảnh hưởng đến sức mạnh và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính

trị, trong đó có lực lượng CAND. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ-TW ngày 04/11/2013 về “Đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,

hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế”; Đảng uỷ Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 17-

NQ/ĐUCA ngày 28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào

tạo trong Công an nhân dân”, đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu và xây dựng

lực lượng.

146

3. Cán bộ, giảng viên là đội ngũ có vai trò, chức năng và nhiệm vụ quan

trọng đối với công tác của các Học viện CAND. Do đó, trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lực lượng

CAND, các Học viện CAND đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm

nhằm đổi mới, nâng cao vị thế các Học viện CAND trong hệ thống giáo dục

quốc dân là xây dựng, bồi dưỡng PCLV cho cán bộ, giảng viên theo phong cách

Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển của Học viện; góp phần quan

trọng vào việc đào tạo nên những sỹ quan CAND tương lai, đóng góp vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bộ Công an, Đảng uỷ,

Ban Giám đốc các Học viện CAND đã quan tâm tới công tác xây dựng, rèn

luyện về mọi mặt của cán bộ, giảng viên, trong đó chú trọng xây dựng PCLV của

đội ngũ này. Quá trình xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên các Học viện

CAND theo phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian qua đã có nhiều thành tựu.

Đảng uỷ, Ban giám đốc, lãnh đạo đơn vị các Học viện CAND đã nhận thức sâu

sắc và có trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; cán bộ, giảng viên có nhiều ưu

điểm, sự tích cực trong PCLV. Tuy nhiên, việc xây dựng PCLV cho cán bộ,

giảng viên các Học viện CAND theo phong cách Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều

hạn chế như: nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, lãnh đạo các cấp chưa nâng

cao; PCLV của cán bộ, giảng viên còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế, xuất phát

từ các nguyên nhân khác nhau. Do đó, xây dựng PCLV cho cán bộ, giảng viên

các Học viện CAND hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh cần đảm bảo một

số yêu cầu đặt ra, là cơ sở đặt ra nội dung, giải pháp cơ bản để công tác trên đạt

hiệu quả trong thời gian tới.

4. Từ di sản PCLV của Hồ Chí Minh, căn cứ vào nhiệm vụ của lực lượng

CAND trong tình hình mới, những yếu tố tác động tới xây dựng PCLV của cán

bộ, giảng viên và từ thực tiễn đội ngũ cán bộ, giảng viên các Học viện CAND,

trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các nội dung xây dựng đó là: xây dựng

147

PCLV dân chủ, đoàn kết; xây dựng PCLV sâu sát, nắm bắt tình hình thực tế; xây

dựng PCLV đổi mới, sáng tạo; xây dựng PCLV tận tuỵ, trung thực và trách

nhiệm; xây dựng PCLV nêu gương; xây dựng PCLV đề cao ý thức tổ chức, kỷ

luật; xây dựng PCLV gắn liền với kiểm tra, giám sát, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Đồng thời, quán triệt và thực hiện đồng bộ 02 nhóm giải pháp cơ bản. Thứ nhất,

nhóm giải pháp thuộc về chủ thể, cấp uỷ lãnh đạo các Học viện CAND bao gồm:

Nâng cao nhận thức, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phát huy vai

trò lãnh đạo, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu; công tác tuyển chọn,

bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng, xây dựng bộ tiêu chí về PCLV của cán bộ,

giảng viên; hoàn thiện cơ chế chính sách. Thứ hai, nhóm giải pháp phát huy tính

tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng PCLV của cán bộ, giảng viên theo phong cách

Hồ Chí Minh: Nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của PCLV Hồ Chí Minh;

cán bộ, giảng viên chủ động phát huy tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng

PCLV theo phong cách Hồ Chí Minh. Đây là hệ thống giải pháp mang tính đột

phá, trực tiếp quyết định hiệu quả của công tác xây dựng PCLV cho cán bộ,

giảng viên. Góp phần xây dựng phong cách người cán bộ, giảng viên CAND bản

lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới

giáo dục, đào tạo trong CAND.

148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ,

chiến sỹ Công an nhân dân theo Sáu điều Bác Hồ dạy”, Kỷ yếu Hội thảo khoa

học - thực tiễn cấp Quốc gia 70 năm Công an nhân dân thực hiện sáu điều Bác

Hồ dạy, Bộ Công an - Báo Nhân dân - Tạp chí Cộng sản, tr.539-546.

2. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Quán triệt chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

về phong cách làm việc cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân”, Tạp chí Lý

luận chính trị Công an nhân dân, (31), tr.27-30.

3. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Xây dựng phong cách làm việc khoa học cho

giảng viên Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học

và Giáo dục An ninh, (18), tr.84-87.

4. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Phong cách làm việc nêu gương Hồ Chí Minh

và ý nghĩa đối với việc rèn luyện đạo đức người cán bộ”, Tạp chí Nhịp cầu Tri

thức, (12), tr.14-18.

5. Nguyễn Thị Thu Trang (2018), “Rèn luyện tác phong làm việc khoa học cho đội

ngũ giảng viên các trường Công an nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp

chí Lý luận chính trị Công an nhân dân, (38), tr.29-31.

6. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), “Xây dựng phong cách làm việc Hồ Chí Minh cho

cán bộ, chiến sỹ theo “Sáu điều Bác Hồ dạy” Công an nhân dân”, Tạp chí Giáo dục

lý luận, Học viện Chính trị khu vực I, (285+286), tr.8-13.

7. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), “Vận dụng phong cách làm việc “đối với địch,

phải cương quyết khôn khéo” của Hồ Chí Minh trong đấu tranh, phản bác các

luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

Công an nhân dân đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới, Hà Nội, tr.471-477.

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên - 2015), Phong cách làm việc Hồ Chí Minh - Giá

trị lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

2. Vũ Ngọc Am (2016), Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và

phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội.

3. Nguyễn Bình Ban (2007), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực

lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, Đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Công an), Hà Nội.

4. Nguyễn Bình Ban (2003), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân

dân”, Tạp chí Công an nhân dân, (3).

5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Những nội dung cơ bản của tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

6. Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Xây dựng phong cách, tác phong công

tác của người đứng đầu, của người cán bộ, đảng viên trong học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

7. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

8. Hoàng Chí Bảo (2017), “Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh trong Di chúc của Người”, Tạp chí Cộng sản, (901), tr.44-47.

9. Hoàng Chí Bảo (2018), “Xây dựng phong cách người công an bản lĩnh, nhân

văn, vì nhân dân phục vụ theo lời dạy của Bác Hồ”, Tạp chí Công an nhân

dân, Kỳ 2-tháng 3, tr.28-31, Hà Nội.

10. Trần Thái Bình (2007), Hồ Chí Minh, sự hình thành một nhân cách lớn, NXB

Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Bộ Công an - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Công an nhân

dân thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

150

12. Bộ Công an (2011), Tài liệu triển khai nhiệm vụ công tác giáo dục đào tạo

trong Công an nhân dân năm học 2011 - 2012 và giai đoạn 2011 - 2015,

Hà Nội.

13. Bộ Công an (2012), Quyết định số 5620/QĐ-BCA-X11 ngày 15/11/2012 Phê

duyệt Đề án thành phần số 5 thuộc Đề án “Quy hoạch tổng thể, nâng cao

năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công

an nhân dân đến năm 2020”, Hà Nội.

14. Bộ Công an (2014), Tài liệu Hội nghị tổng kết công tác giáo dục đào tạo và

triển khai nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Công an (2014), Chỉ thị số 13/CT-BCA ngày 28/10/2014 về đổi mới căn

bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân, Hà Nội.

16. Bộ Công an (2015), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2015 -

2016 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Bộ Công an (2016), Học viện An ninh nhân dân - 70 năm xây dựng và phát

triển, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.

18. Bộ Công an (2016), Tài liệu Hội nghị triển khai chương trình nhiệm vụ năm

học 2016 - 2017 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Bộ Công an (2016), Chỉ thị số 07/CT-BCA-X11 ngày 26/10/2016 về tăng

cường lãnh đạo nâng cao văn hoá ứng xử Công an nhân dân trong tình hình

mới, Hà Nội.

20. Bộ Công an (2016), Kế hoạch số 337/KH-BCA-X11 ngày 19/12/2016 về tổ

chức Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản

lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Hà Nội.

21. Bộ Công an (2017), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2017 -

2018 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Bộ Công an (2017), Kế hoạch số 190/KH-X11-X12 ngày 9/1/2017 về thực hiện

Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh,

nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, Hà Nội.

23. Bộ Công an (2017), Hướng dẫn số 2022/HD-X11-X15 ngày 7/3/2017 về sinh

hoạt chính trị và công tác tuyên truyền thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng

phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục

vụ”, Hà Nội.

151

24. Bộ Công an (2018), Chỉ thị số 04/CT-BCA ngày 19/5/2018 về đổi mới, nâng

cao chất lượng phong trào “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều

Bác Hồ dạy” trong tình hình mới, Hà Nội.

25. Bộ Công an (2018), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2018 -

2019 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

26. Bộ Công an (2018), Báo cáo sơ kết Đề án số 1229/QĐ-Ttg “Quy hoạch tổng

thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng trong Công an nhân dân đến năm 2020”, Hà Nội.

27. Bộ Công an - Báo Nhân dân - Tạp chí Cộng sản (2018), “70 năm Công an

nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa

học - thực tiễn quốc gia, Hà Nội.

28. Bộ Công an (2019), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học 2019 -

2020 trong Công an nhân dân, Hà Nội.

29. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2006), Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về

giáo dục Đại học và sau Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Cấn Văn Chúc (2010), Các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ

nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các trường Công an nhân dân đến năm

2015 và hướng tới năm 2020, Đề tài Khoa học cấp cơ sở, Cục Đào tạo, Bộ

Công an, Hà Nội.

31. David Halberstam (1971), Ho, NXB Random House New York, Mỹ.

32. Phạm Văn Dần (2001), “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng

CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, Tạp chí Công

an nhân dân, (5).

33. Nguyễn Tấn Dũng (2009), “Phát huy truyền thống 40 năm đào tạo đại học

công an, phấn đấu xây dựng lực lượng Công an nhân dân xứng đáng với niềm

tin của Đảng và nhân dân”, Tạp chí Công an nhân dân, (11), tr.3-7, Hà Nội.

34. Bùi Tiến Dũng (2010), “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

về tác phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới”,

Tạp chí Lý luận chính trị, (11).

152

35. Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân (2011), Báo cáo chính trị của Ban chấp

hành Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần

thứ XXVI, nhiệm kỳ 2011 - 2015, Hà Nội.

36. Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp

hành Đảng bộ Học viện An ninh nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần

thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.

37. Đảng bộ Học viện Cảnh sát nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp

hành Đảng bộ Học viện Cảnh sát nhân dân tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần

thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.

38. Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân (2015), Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành Đảng bộ Học viện Chính trị Công an nhân dân tại Đại hội đại

biểu Đảng bộ lần thứ I, nhiệm kỳ 2011 - 2015, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB. Chính trị

quốc gia, Hà Nội, tập 51.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), “Về công tác cán bộ trong thời kỳ mới”,

Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012

tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số vấn đề

cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013

tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về chiến lược

bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Hà Nội.

153

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013

tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa XI “Về đổi mới căn

bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế”, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về

“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh”, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018

Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ

cán bộ các cấp, nhất là các cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,

ngang tầm nhiệm vụ”, Hà Nội.

50. Đảng uỷ Công an Trung ương (2014), Nghị quyết số 17-NQ/ĐUCA

28/10/2014 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Công

an nhân dân”, Hà Nội.

51. Đảng uỷ Công an Trung ương (2015), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ

Công an Trung ương, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.

52. Đảng uỷ Công an Trung ương (2015), Tài liệu hội nghị Tổng kết 4 năm triển

khai, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, khoá XI

về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh” trong Công an nhân dân, Hà Nội.

53. Võ Thành Đạt (2014), Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên các trường Đại

học Công an nhân dân, Luận án Tiến sỹ khoa học Giáo dục, Viện Khoa học

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

54. Phạm Văn Định (2018), “Về phong cách lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng

Đảng, (4), tr.35-37.

55. Phạm Văn Đồng (2009), Học Chủ tịch Hồ Chí Minh - chúng ta học gì?, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

56. E.Côbêlép (2005), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

154

57. Võ Nguyên Giáp (2015), Thế giới đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống

mãi, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

58. Trần Văn Giàu (2014), Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ

đại, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

59. Nguyễn Thanh Hà (2014), “Bồi dưỡng phong cách làm việc cho đội ngũ cán

bộ quản lý giáo dục tại các cơ sở đào tạo”, Tạp chí Giáo dục, (328), tr.12-13.

60. Đỗ Mạnh Hoà (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của

người cán bộ, Đề tài Khoa học Viện Khoa học xã hội nhân văn Quân sự, Ban

nghiên cứu xây dựng Quân đội về Chính trị, Hà Nội.

61. Hellmut Kapfenberder (2009), Hồ Chí Minh - Một biên niên sử, NXB Neues

Leben, Đức.

62. Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (2017), Tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - tinh hoa văn hoá Việt

Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.

63. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí

Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, 1945 - 1946, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Di sản Hồ Chí Minh trong thời

đại ngày nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh

Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/1890 - 19/5/2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh -

Giá trị nhân văn và phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

66. Ánh Hồng (2004), “Phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Toàn cảnh - sự kiện,

(167), tr.11-12.

67. Đoàn Minh Huấn (2018), Lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ,

chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, Tạp chí Cộng sản, (909), tr.38-44.

68. Trịnh Lương Hy (2007), “Xây dựng bản lĩnh chính trị của người cán bộ an

ninh theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Kỷ

yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

155

69. Hồng Khanh (2013), Phong cách Bác Hồ đến cơ sở, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

70. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên - 2013), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,

NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

71. Lê Thị Phương Lan (2006), “Đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr.47-49.

72. T.Lan (1994), Vừa đi đường vừa kể chuyện, NXB Sự thật, Hà Nội.

73. Tô Lâm (chủ biên - 2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán

bộ Công an nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

74. Tô Lâm (chủ biên - 2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Tô Lâm (chủ biên - 2017), Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm “Tư cách

người công an cách mệnh của Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 41, tiếng Việt, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

77. Đỗ Hoàng Linh, Vũ Kim Yến (tuyển chọn - 2014), Phong cách Hồ Chí Minh,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Nguyễn Văn Ly (2010), Quản lý chất lượng đào tạo đại học trong các Học

viện, trường Công an nhân dân, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học

Giáo dục, Hà Nội.

79. Đinh Xuân Lý - Trần Minh Trưởng (2013), Hồ Chí Minh với cách mạng Việt

Nam - Cuộc đời, sự nghiệp và đạo đức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Lưu Trần Luân, Trần Minh Trưởng, Văn Thanh Mai (2016), Học tập phong

cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

81. Nguyễn Anh Minh (2014), “Phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,

Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 (282), tr.34-37.

82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Hội hữu nghị Nga - Việt (2010), Người Nga nói về Hồ Chí Minh, NXB Kuna,

Matxcơva, Liên bang Nga.

98. Nguyễn Văn Ngọc (2005), “Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nghiệp vụ

Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Tạp chí

Công an nhân dân, (7), tr.30-32, Hà Nội.

99. Hoàng Phê (Chủ biên - 2017), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học -

NXB Đà Nẵng, Hà Nội.

100. Bùi Đình Phong (2005), “Phong cách Hồ Chí Minh - một giá trị di sản văn hoá

dân tộc”, Tạp chí Di sản Văn hoá, (2), tr.26-28.

101. Bùi Đình Phong (2013), “Xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, đảng

viên hiện nay theo tấm gương Hồ Chí Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh học, (2).

102. Bùi Đình Phong (2016), Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, NXB Dân

trí, Hà Nội.

103. Trần Đình Quảng (2005), “Học tập Bác Hồ về phong cách làm việc: dân chủ,

khiêm tốn, thiết thực, đến nơi đến chốn”, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (5),

tr.12-13.

104. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật cán bộ,

công chức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

105. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Giáo dục

năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2014, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Công an

nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Nguyễn Hồng Quyết (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng

Công an nhân dân”, Hội thảo tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh trật tự, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

108. Robert Bolton, Dorothy Grove Bolton (2008), 4 phong cách làm việc, Thanh

Ngân, Thanh Hương dịch, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

109. Minh Sơn (2017), “Học tập phong cách làm việc Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quốc

phòng toàn dân điện tử, www.tapchiqptd.vn, đăng ngày 23/6/2017.

110. Trần Quang Tám (2015), Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và những bài học

đối với cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

111. Nhâm Cao Thành (2012), Xây dựng phong cách làm việc của chính ủy trung

đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ

Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

112. Nguyễn Văn Thành (2018), “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả phong trào

“Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy””, Tạp chí Quốc

phòng toàn dân điện tử, www.tapchiqptd.vn, đăng ngày 19/5/2018, Hà Nội.

113. Nguyễn Văn Thành (2018), “Công tác giáo dục đào tạo trong CAND trước

yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị Công an nhân dân, (37),

tr.8-12.

114. Song Thành (Chủ biên - 1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Mạch Quang Thắng (2017), Hồ Chí Minh - Đồng hành cùng dân tộc, NXB

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

116. Nguyễn Thế Thắng (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng

phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

158

117. Nguyễn Văn Thế (2010), “Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh và vấn đề

đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện

nay”, Kỷ yếu Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Hà Nội.

118. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1229/QĐ-Ttg ngày 22/7/2011

“Phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào

tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công an nhân dân đến năm

2020”, Hà Nội.

119. Nguyễn Khánh Toàn (2009), “Nâng cao chất lượng đào tạo đại học của Học

viện An ninh nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác công an trong

tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân dân, (11), tr.9-13, Hà Nội.

120. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (2015), Hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật, hướng dẫn công tác giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục,

NXB Lao Động, Hà Nội.

121. Trường Đại học tổng hợp Saint Petersburg (2015), Di sản tư tưởng Hồ Chí

Minh và thời đại ngày nay, NXB Đại học tổng hợp Saint Petersburg, Liên

bang Nga.

122. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh - nhân văn và phát triển, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

123. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Khu Di tích tại Phủ Chủ tịch

(2016), Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, NXB Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

124. Lê Văn Yên, Trần Đình Thắng (2013), “Học tập và làm theo cách làm việc của

Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).

125. Lê Văn Yên (2017), Học tấm gương làm việc và học tập suốt đời của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

126. William J. Duiker (2005), Hồ Chí Minh - Một cuộc đời, NXB Thế giới,

Hà Nội.