Xét nghiệm máu giúp

phát hiện sớm bệnh cúm

Những virus gây cảm lạnh, cảm cúm luôn để lại những “dấu tích” trong

máu và các nhà nghiên cứu Mỹ cho biết họ đã tìm thấy một cách để

“điểm mặt chỉ tên” chúng.

Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng sẽ phát triển phát hiện mới này thành xét

nghiệm giúp bác sĩ nhanh chóng biết liệu bệnh nhân bị cảm lạnh, cảm cúm

hay đang mắc bệnh truyền nhiễm nào… từ đó hỗ trợ cho việc lựa chọn các

phương pháp điều trị.

Khó chẩn đoán

Hầu hết các bệnh lây truyền đều có biểu hiện chung chung như ho, hắt hơi,

sốt, đau đầu và mệt mỏi. Trong khi đó, hiện chưa có một xét nghiệm nhanh

đủ tin cậy. Một nghiên cứu của TT Kiểm soát & Ngăn ngừa dịch bệnh Mỹ

(CDC) cho thấy các xét nghiệm cúm thường bỏ qua tới một nửa các loại

cúm.

Các chuyên gia sức khỏe cho biết khoảng thời gian đầu mới nhiễm virus,

bệnh thường không có biểu hiện và bản thân người bệnh không biết mình đã

mang bệnh. Và cũng rất khó để dự đoán diễn tiến của bệnh có nghiêm trọng

hay không. Và đây chính là lý do thôi thúc các nhà khoa học tìm hiểu cách

để phát hiện bệnh sớm.

Đăng tải trên tạp chí Cell Host & Microbe, Ginsburg và các đồng nghiệp

cho biết họ đã chọn 57 tình nguyện viên khỏe mạnh, những người đồng ý để

các nhà nghiên cứu “gieo” mầm virus cảm lạnh (virus rhinovirus), virus hợp

bào gây bệnh hô hấp hay vi rú gây cúm mùa týp A.

Sau đó, các nhà nghiên cứu đã tiến hành lấy máu xét nghiệm, rồi chờ đợi

xem người nào sẽ phát bệnh. Có khoảng 1/2 số tình nguyện viên đã phát

bệnh với các biểu hiện rõ ràng.

Phân tích 30 gen

Xét nghiệm máu cho thấy có khoảng 30 kiểu gen trở nên “hoạt bát” bất

thường ở những người mang virus và có triệu chứng.

Họ cũng chú ý tới các nghiên cứu về các trường hợp nhiễm khuẩn như viêm

phổi do khuẩn Streptococcus và so sánh các gen hoạt động ra sao ở những

người mang bệnh với sự linh hoạt của các gen ở những bệnh nhân nhiễm

virus. Và chính xét nghiệm của họ cũng sẽ giúp nói lên sự khác biệt này.

Sử dụng kháng sinh hợp lý hơn

Giá trị lớn nhất mà xét nghiệm về mức độ hoạt động của gen có thể giúp các

bác sĩ là cho biết những người bệnh bị viêm phổi do virus hay vi khuẩn, từ

đó sẽ hạn chế được việc sử dụng kháng sinh cho các trường hợp viêm phổi

do virus.

“Trên thực tế, việc sử dụng kháng sinh trong các trường hợp bị bệnh do

virus đã dẫn tới tình trạng kháng thuốc rất đáng báo động và không ai muốn

điều này sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai”, TS Christopher Woods, ĐH

Duke cho biết.

“Mặc dù mới chỉ bắt đầu nhưng chúng tôi lạc quan tin tưởng rằng những

phát hiện này sẽ giúp mở ra hướng chẩn đoán mới cho các bệnh lây truyền”,

TS Geoffrey Ginsburg, ĐH Duke (Bắc Carolina, Mỹ), trưởng nhóm nghiên

cứu cho biết.