BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH NGỌC PHƯƠNG THẢO
GIÁ TRỊ CỦA CÁC XÉT NGHIỆM TỰ KHÁNG THỂ:
ANTI-dsDNA, ANTI-NUCLEOSOME VÀ ANTI-C1q
TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ THEO DÕI
VIÊM THẬN LUPUS
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH NGỌC PHƯƠNG THẢO
GIÁ TRỊ CỦA CÁC XÉT NGHIỆM TỰ KHÁNG THỂ:
ANTI-dsDNA, ANTI-NUCLEOSOME VÀ ANTI-C1q
TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ THEO DÕI
VIÊM THẬN LUPUS
NGÀNH: NỘI THẬN – TIẾT NIỆU
MÃ SỐ: 62720146
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BS TRẦN THỊ BÍCH HƯƠNG
TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
được công bố ở bất kỳ nơi nào.
Tác giả luận án
Huỳnh Ngọc Phương Thảo
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ............................................................................................................... i
Mục Lục ..................................................................................................................... ii
Danh mục các chữ viết tắt Thuật ngữ Anh Việt ........................................................ iv
Danh mục bảng ........................................................................................................ vii
Danh mục hình ............................................................................................................ x
Danh mục các sơ đồ .................................................................................................... x
Danh mục các biểu đồ ............................................................................................... xi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ..................................................................................... 4
1.1. Tổng quan về lupus ban đỏ hệ thống và viêm thận lupus ................................. 4
1.2. Tổng quan về 3 kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q .............. 25
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các kháng thể: anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q trong chẩn đoán và theo dõi viêm thận lupus ......... 29
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................... 36
2.1. Thiết kế nghiên cứu ......................................................................................... 36
2.2. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 36
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu................................................................... 38
2.4. Cỡ mẫu của nghiên cứu ................................................................................... 38
2.5. Quy trình thực hiện nghiên cứu ...................................................................... 39
2.6. Định nghĩa các biến số .................................................................................... 41
2.7. Phương pháp và công cụ đo lường, thu thập số liệu ....................................... 50
2.8. Phương pháp phân tích dữ liệu ....................................................................... 55
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................................................... 56
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ ......................................................................................... 57
3.1 Đặc điểm chính về dân số học, lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm thận
lupus hoạt động tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ....................................... 59
3.2 Tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome, anti-C1q dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ........... 64
iii
3.3 Liên quan giữa các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q với tổn
thương mô bệnh học thận tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ........................ 66
3.4 Giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q trong theo
dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị ......................................................... 76
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ...................................................................................... 96
4.1 Bàn về đặc điểm chính về dân số học, lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân
viêm thận lupus hoạt động tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ...................... 96
4.2 Bàn về tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA,
anti-nucleosome, anti-C1q dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu .... 98
4.3 Bàn về liên quan giữa các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
với tổn thương mô bệnh học thận ở bệnh nhân viêm thận lupus tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu ..................................................................................... 111
4.4 Bàn về giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q,
trong theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị ...................................... 120
HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU ......................................................................... 132
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 133
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................... 134
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ............ 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Phiếu thu thập số liệu nghiên cứu
Phụ lục 2 Thông tin dành cho đối tượng nghiên cứu và Phiếu đồng ý tham gia
nghiên cứu
Phụ lục 3 Bảng đánh giá độ hoạt động SLEDAI-2K
Phụ lục 4 Bảng chỉ số BILAG Thận 2004
Phụ lục 5 Mẫu kết quả sinh thiết thận
Phụ lục 6 Danh sách bệnh nhân
Phụ lục 7 Chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong Nghiên cứu Y Sinh học Đại học
Y Dược TP Hồ Chí Minh
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THUẬT NGỮ ANH VIỆT
Viết tắt Từ nguyên tiếng Anh Tiếng Việt
BN Bệnh nhân
BVCR Bệnh viện Chợ Rẫy
BVĐHYD Bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh
BVNDGD Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
KTC Khoảng tin cậy
MLCT Mức lọc cầu thận
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
TPTNT Tổng phân tích nước tiểu
ACR American College of Hiệp hội Thấp học Hoa Kỳ
Rheumatology
AI Activity Index Chỉ số hoạt động
AKI Acute Kidney Injury Tổn thương thận cấp
ANA Anti Nuclear Antibody Kháng thể kháng nhân
ANCA Anti-Neutrophil Cytoplasmic Kháng thể kháng bạch cầu đa
Antibody nhân trung tính
Anti-dsDNA Anti-double stranded Kháng thể kháng chuỗi xoắn kép
DeoxyriboNucleic Acid DNA
Antibody
BILAG Index British Isles Lupus Chỉ số hoạt động của nhóm đánh
Assessment Group Index giá lupus Anh quốc
CI Chronicity Index Chỉ số mạn tính
ECLAM European Concensus Lupus Đo lường độ hoạt động lupus
Activity Measurements theo đồng thuận Châu Âu
ELISA Enzyme-Linked Phương pháp miễn dịch hấp phụ
Immunosorbent Assay gắn kết men
ENA Extractable Nuclear Antigen Các kháng nguyên nhân trích
xuất được
v
ERA/EDTA European Renal Hiệp hội Thận học Châu
Association/European Âu/Hiệp hội lọc máu và ghép
Dialysis and Transplant tạng Châu Âu
Association
End-Stage Renal Disease Bệnh thận giai đoạn cuối ESRD
European League Against Hiệp hội Thấp học Châu Âu EULAR
Rheumatism
Glomerular Filtration Rate Mức lọc cầu thận GFR
Hematoxylin-Eosin Nhuộm HE HE
Human epithelial type 2 Biểu mô người loại 2 HEp2
HPF High Power Field Quang trường phóng đại cao
HUS/TTP Hemolytic Uremic Hội chứng ure huyết cao kèm
Syndrome/Thrombotic tán huyết/Ban xuất huyết giảm
Thrombocytopenic Purpura tiểu cầu kèm huyết khối
ICAM-1 InterCellularAdhesion Phân tử kết dính liên tế bào-1
Molecule-1
INF-α Interferon-α Interferon-α
ISN/RPS International Society of Hội Thận học thế giới/Hội Bệnh
Nephrology/Renal Pathology học Thận
Society
KDIGO Kidney Disease: Improving Bệnh Thận: Cải thiện kết cục
Global Outcomes toàn cầu
Lupus Activity Index Chỉ số hoạt động Lupus LAI
Lupus Erythematosus Lupus ban đỏ LE
Mesangial Gian mạch M
NETs Neutrophil Extracellular Bắt giữ Bạch cầu Đa nhân trung
Traps tính ngoài tế bào
National Institute of Health Viện Sức khỏe Quốc gia NIH
Periodic Acid-Schiff Stain Nhuộm PAS PAS
Red Blood Cell Hồng cầu RBC
Radioimmunoassay Phương pháp miễn dịch phóng RIA
xạ
vi
SLAM-R Systemic Lupus Activity Đo lường hoạt động lupus ban
Measure-Revised đỏ hệ thống-cải biên
SLAQ Systemic Lupus Activity Bộ câu hỏi nghiên cứu độ hoạt
Questionnaire for population động lupus ban đỏ hệ thống
studies
SLE Lupus ban đỏ hệ thống Systemic Lupus
Erythematosus
SLEDAI Systemic Lupus Chỉ số hoạt động bệnh lupus ban
Erythematosus Disease đỏ hệ thống
Activity Index
SLICC Systemic Lupus International Ủy ban cộng tác Quốc tế về
Collaborating Clinics lupus ban đỏ hệ thống
Th1 T helper 1 Tế bào Lympho T giúp đỡ
TMA Thrombotic Microangiopathy Thuyên tắc vi mạch huyết khối
TTP Thrombotic Ban xuất huyết giảm tiểu cầu
Thrombocytopenic Purpura kèm huyết khối
uACR Urine Albumin: Creatinine Tỉ lệ albumin : creatinine trong
ratio nước tiểu
uPCR Urine Protein: Creatinine Tỉ lệ protein : creatinine trong
ratio nước tiểu
WHO World Health Organization Tổ chức y tế thế giới
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Phân loại ISN/RPS 2004 của viêm thận lupus .......................................... 9
Bảng 1.2: Tiêu chuẩn chẩn đoán lupus theo Hiệp hội Thấp học Hoa Kỳ (ACR) .... 20
Bảng 2.1: Các biến số về dân số học và lâm sàng sử dụng trong nghiên cứu .......... 41
Bảng 2.2: Các biến số về cận lâm sàng sử dụng trong nghiên cứu .......................... 45
Bảng 3.1: Phân bố bệnh nhân theo các điểm nghiên cứu ......................................... 57
Bảng 3.2: Các đặc điểm chung của 144 bệnh nhân viêm thận lupus ....................... 59
Bảng 3.3: Các đặc điểm lâm sàng chính của nhóm nghiên cứu tại thời điểm nhận
vào nghiên cứu ................................................................................................. 60
Bảng 3.4: Các đặc điểm cận lâm sàng chính về thận của nhóm nghiên cứu tại thời
điểm nhận vào nghiên cứu ................................................................................ 61
Bảng 3.5: Đặc điểm về nồng độ bổ thể máu của nhóm nghiên cứu tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu ......................................................................................... 63
Bảng 3.6: Bảng phân nhóm bệnh nhân theo chỉ số BILAG thận tại thời điểm nhận
vào nghiên cứu ................................................................................................. 63
Bảng 3.7: Đặc điểm các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q của
nhóm nghiên cứu tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ...................................... 65
Bảng 3.8: Đặc điểm sinh thiết thận của nhóm nghiên cứu ....................................... 67
Bảng 3.9: Bảng đối chiếu lâm sàng với giải phẫu bệnh ở thời điểm sinh thiết thận 68
Bảng 3.10: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với viêm
thận lupus hoạt động và không hoạt động trên lâm sàng tại thời điểm nhận vào
nghiên cứu ........................................................................................................ 69
Bảng 3.11: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với các
triệu chứng lâm sàng ........................................................................................ 69
Bảng 3.12: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với kiểu
biểu hiện viêm thận lupus hoạt động trên lâm sàng ......................................... 70
Bảng 3.13: Đặc điểm chỉ số hoạt động (AI) và chỉ số mạn tính (CI) theo NIH của
116 BN viêm thận lupus tăng sinh ................................................................... 70
viii
Bảng 3.14: Tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính ở hai nhóm viêm thận lupus
tăng sinh và không tăng sinh ............................................................................ 72
Bảng 3.15: Tỉ lệ kháng thể anti-nucleosome dương tính ở hai nhóm viêm thận lupus
tăng sinh và không tăng sinh ............................................................................ 73
Bảng 3.16: Tỉ lệ kháng thể anti-C1q dương tính ở hai nhóm viêm thận lupus tăng
sinh và không tăng sinh .................................................................................... 74
Bảng 3.17: Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số hoạt động AI
theo NIH ........................................................................................................... 75
Bảng 3.18: Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số mạn tính CI . 75
Bảng 3.19: Tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động trên lâm sàng ở 2
lần thăm khám (ban đầu và theo dõi sau 6 tháng) ............................................ 76
Bảng 3.20: Bảng so sánh các đặc điểm lâm sàng ở 2 lần thăm khám ...................... 76
Bảng 3.21: Phân bố các kiểu đáp ứng lâm sàng ở lần thăm khám theo dõi sau 6
tháng ................................................................................................................. 79
Bảng 3.22: Bảng so sánh nồng độ bổ thể máu ở hai lần thăm khám ....................... 79
Bảng 3.23: Phân bố 137 bệnh nhân theo các mức hoạt động của chỉ số BILAG
Thận ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng ..................................................... 80
Bảng 3.24: Phân bố 137 BN viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động theo
tiêu chuẩn BILAG Thận ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng ...................... 80
Bảng 3.25: Bảng so sánh chỉ số SLEDAI-2K ở 2 lần thăm khám ........................... 81
Bảng 3.26: Bảng so sánh nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome,
anti-C1q ở hai lần thăm khám .......................................................................... 83
Bảng 3.27: Bảng nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
theo các kiểu đáp ứng lâm sàng khác nhau ở lần thăm khám theo dõi sau 6
tháng ................................................................................................................. 83
ix
Bảng 3.28: Bảng nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
theo tình trạng viêm thận lupus hoạt động hay không hoạt động trên lâm sàng
ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng .............................................................. 90
Bảng 3.29: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm anti-dsDNA dương tính ở lần khám theo dõi
sau 6 tháng ........................................................................................................ 92
Bảng 3.30: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm kháng thể anti-nucleosome dương tính ở lần
khám theo dõi sau 6 tháng ................................................................................ 93
Bảng 3.31: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm kháng thể anti-C1q dương tính ở lần khám
sau 6 tháng ........................................................................................................ 94
Bảng 3.32: Phân tích hồi qui logistic đa biến về mối liên quan giữa các kháng thể
anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q, bổ thể C3/máu, C4/máu và viêm thận
lupus hoạt động trên lâm sàng ở lần khám theo dõi sau 6 tháng ...................... 95
Bảng 4.1: So sánh các đặc điểm về dịch tể học và đặc điểm lâm sàng giữa các
nghiên cứu ........................................................................................................ 97
Bảng 4.2: So sánh điểm số SLEDAI-2K theo một số tác giả trên đối tượng viêm
thận lupus .......................................................................................................... 98
Bảng 4.3: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA dương
tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu ................................... 101
Bảng 4.4: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-nucleosome
dương tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu ........................ 106
Bảng 4.5: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-C1q dương
tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu ................................... 108
x
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Sinh bệnh học của lupus ban đỏ hệ thống .................................................. 6
Hình 1.2: Viêm thận lupus nhóm I ........................................................................... 10
Hình 1.3: Tăng sinh gian mạch nhẹ ISN/RPS nhóm II ............................................ 10
Hình 1.4: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm III ......................................................... 11
Hình 1.5: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm IV ......................................................... 12
Hình 1.6: Lắng đóng phức hợp miễn dịch đậm đặc ................................................. 12
Hình 1.7: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm V .......................................................... 13
Hình 1.8: Mô hình viêm thận lupus toàn phát .......................................................... 26
Hình 1.9: Mô hình giải thích viêm thận lupus có xảy ra không tuỳ từng BN .......... 27
Hình 2.1: Sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm .................................................. 51
Hình 2.2: Kim sinh thiết chạm vào thận ................................................................. 51
Hình 2.3: Mẫu mô thận lấy ra sau khi sinh thiết ..................................................... 51
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ mô tả nghiên cứu ........................................................................... 39
Sơ đồ 2.2: Quy trình thực hiện xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể bằng
phương pháp ELISA ......................................................................................... 52
Sơ đồ 3.1: Quy trình thực hiện nghiên cứu .............................................................. 58
xi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Nồng độ protein niệu 24 giờ của các bệnh nhân tại thời điểm nhận vào
nghiên cứu ........................................................................................................ 62
Biểu đồ 3.2: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA trong máu của nhóm nghiên cứu tại
thời điểm bắt đầu nghiên cứu ........................................................................... 64
Biểu đồ 3.3: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome trong máu của nhóm nghiên cứu
tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu ...................................................................... 64
Biểu đồ 3.4: Nồng độ kháng thể anti-C1q trong máu của nhóm nghiên cứu tại thời
điểm bắt đầu nghiên cứu ................................................................................... 65
Biểu đồ 3.5: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA tại thời điểm sinh thiết thận ở 2 nhóm
viêm thận lupus tăng sinh (n= 116) và không tăng sinh (n=28) ....................... 71
Biểu đồ 3.6: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome tại thời điểm sinh thiết thận ở 2
nhóm viêm thận lupus tăng sinh (n=116) và không tăng sinh (n=28) ............. 72
Biểu đồ 3.7: Nồng độ kháng thể anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận ở 2 nhóm
viêm thận lupus tăng sinh (n=116) và không tăng sinh (n=28) ........................ 74
Biểu đồ 3.8: Biểu đồ thay đổi lượng protein niệu theo từng cá nhân trong toàn bộ
nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám ....................................................... 77
Biểu đồ 3.9: Biểu đồ thay đổi tỉ lệ albumin:creatinine niệu theo từng cá nhân trong
toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám .......................................... 77
Biểu đồ 3.10: Biểu đồ thay đổi nồng độ albumin huyết thanh theo từng cá nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám ................................. 78
Biểu đồ 3.11: Biểu đồ thay đổi nồng độ creatinine huyết thanh theo từng cá nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám ................................. 78
Biểu đồ 3.12: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA ở thời điểm thăm khám sau 6 tháng
.......................................................................................................................... 81
Biểu đồ 3.13: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome ở thời điểm thăm khám sau 6
tháng ................................................................................................................. 82
Biểu đồ 3.14: Nồng độ kháng thể anti-C1q ở thời điểm thăm khám sau 6 tháng .... 82
xii
Biểu đồ 3.15: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA theo các kiểu đáp ứng lâm sàng ở lần
thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu ....................................... 84
Biểu đồ 3.16: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome theo các kiểu đáp ứng lâm sàng
ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu .............................. 84
Biểu đồ 3.17: Nồng độ kháng thể anti-C1q theo các kiểu đáp ứng lâm sàng ở lần
thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu ....................................... 85
Biểu đồ 3.18: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu ........................................................................ 85
Biểu đồ 3.19: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong nhóm có đáp ứng lâm sàng ..................................................................... 86
Biểu đồ 3.20: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong nhóm đáp ứng hoàn toàn ......................................................................... 86
Biểu đồ 3.21: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu ........................................................................ 87
Biểu đồ 3.22: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh nhân
trong nhóm có đáp ứng lâm sàng ..................................................................... 87
Biểu đồ 3.23: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh nhân
trong nhóm có đáp ứng hoàn toàn .................................................................... 88
Biểu đồ 3.24: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q của từng bệnh nhân trong
toàn bộ nhóm nghiên cứu ................................................................................. 88
Biểu đồ 3.25: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q của từng bệnh nhân trong
nhóm có đáp ứng lâm sàng ............................................................................... 89
Biểu đồ 3.26: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q trong nhóm bệnh nhân có
đáp ứng hoàn toàn ............................................................................................ 89
Biểu đồ 3.27: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA theo các nhóm viêm thận lupus “hoạt
động” và “không hoạt động” ở lần khám theo dõi sau 6 tháng ........................ 90
Biểu đồ 3.28: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome theo các nhóm viêm thận lupus
“hoạt động” và “không hoạt động” ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng ..... 91
xiii
Biểu đồ 3.29: Nồng độ kháng thể anti-C1q theo các nhóm viêm thận lupus “hoạt
động” và “không hoạt động” ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng ............... 91
Biểu đồ 3.30: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA trong chẩn
đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi ................................ 92
Biểu đồ 3.31: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-nucleosome trong
chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi ....................... 93
Biểu đồ 3.32: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-C1q trong chẩn
đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi ................................ 94
1
MỞ ĐẦU
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là bệnh tự miễn phức tạp, gây tổn thương
nhiều cơ quan, là một trong những bệnh cảnh nặng nề, có tỉ lệ tử vong và tỉ lệ bệnh
đồng mắc cao, không chỉ do biến chứng trực tiếp của bệnh mà còn do những tác
dụng phụ của thuốc điều trị [15], [122], [149]. SLE là bệnh gặp nhiều ở độ tuổi 15-
45, là độ tuổi lao động chính của xã hội, với tỉ lệ nữ trên nam là 8-13/1; gặp nhiều ở
người Mỹ da đen, người Châu Á, đặc biệt là vùng Đông Nam Á chúng ta, người gốc
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha [119], [122], [123]. Viêm thận lupus xảy ra ở 25-50%
các trường hợp lúc mới khởi phát lupus, nhưng trên 60% trường hợp, bệnh phát sinh
trong quá trình diễn tiến [15]; khi xuất hiện sẽ làm tỉ lệ sống còn giảm xuống đáng
kể [15], [122] và còn là một trong những bệnh lý diễn tiến nhanh đến suy thận mạn
giai đoạn cuối, làm tăng gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Đặc tính của bệnh là diễn tiến mạn tính, thành nhiều đợt bùng phát xen kẽ
thời gian lui bệnh. Vì vậy, việc phát hiện kịp thời tình trạng hoạt động của bệnh hết
sức cần thiết, để bắt đầu điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch thích hợp, góp phần
cải thiện tiên lượng bệnh và tránh được các tác dụng phụ nguy hiểm của thuốc. Để
chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động, hiện nay có các công cụ chính: lâm sàng, mô
bệnh học, và xét nghiệm huyết thanh học. Lâm sàng và các xét nghiệm đạm niệu,
cặn lắng nước tiểu, chức năng thận là những tiêu chuẩn quan trọng đánh giá bệnh
nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chúng ta khó phân biệt triệu chứng xảy
ra là do bản thân bệnh lupus hoạt động hay là tổn thương mạn tính không hồi phục,
do bệnh đồng mắc hay do tác dụng phụ của thuốc điều trị. Sinh thiết thận với những
chỉ số hoạt động trên mô bệnh học góp phần cung cấp ý nghĩa chẩn đoán xác định
và tiên lượng bệnh [15], [29], [53], [69], [116], [122], [149]. Tuy vậy, việc lặp lại
sinh thiết thận nhiều lần rõ ràng là một khó khăn, tốn kém, cũng như có thể đưa đến
những tai biến ngoài ý muốn cho bệnh nhân. Do đó, nhu cầu tìm ra những xét
nghiệm huyết thanh học dễ làm, ít tốn kém, có thể lặp lại nhiều lần mà không ảnh
hưởng bệnh nhân, có khả năng dự đoán sớm đợt bùng phát và có khả năng theo dõi
độ hoạt động của bệnh trở nên vô cùng cấp thiết.
2
Cơ chế sinh bệnh của SLE là hình thành những kháng thể kháng nhân tế bào.
Kháng thể kháng nhân (ANA) được xem là xét nghiệm nhạy và then chốt trong
chẩn đoán lupus nhưng độ đặc hiệu không cao, có thể xuất hiện ở một số người bình
thường khỏe mạnh, một số tình trạng nhiễm khuẩn, do thuốc, và đặc biệt trong
nhiều bệnh lý tự miễn khác [18], [65], [149]. Kháng thể kháng chuỗi xoắn kép DNA
(anti-double stranded DNA) từ hơn 60 năm qua, được xem là một chỉ dấu sinh học
có thể theo dõi độ hoạt động của lupus, đặc biệt là tình trạng tổn thương thận [18],
[65], [128], [149]. Gần đây, dựa vào các nghiên cứu thực nghiệm, nucleosome và
C1q được giải phóng từ quá trình thanh lọc các tế bào chết theo chương trình, được
chứng minh là đóng vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh của viêm thận lupus.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò của kháng thể anti-nucleosome, anti-C1q
trong chẩn đoán và theo dõi độ hoạt động của SLE, đặc biệt là tổn thương thận [12],
[68], [77], [100], [105-108], [126], [128], [132], [153] nhưng cũng có một số nghiên
cứu cho kết quả đối lập [86], [103], [124]. Phần lớn các nghiên cứu trên thế giới
được thực hiện trên dân số bệnh SLE nói chung, viêm thận lupus chỉ chiếm phần
nhỏ, và chủ yếu so sánh với lâm sàng, rất ít nghiên cứu có sinh thiết thận.
Tại Việt Nam, viêm thận lupus có tỉ lệ bệnh lưu hành cao so với thế giới
[15], [18], [122], [149], [154]. Kháng thể anti-dsDNA chỉ được khảo sát trong một
số nghiên cứu lâm sàng vì mục đích khác chứ chưa được đánh giá giá trị một cách
chi tiết [7], [8], [10]. Kháng thể anti-nucleosome được đánh giá trên một nghiên cứu
cắt ngang tại Bệnh viện Da Liễu TPHCM, mà chưa được đánh giá trên tổn thương
thận [6]. Kháng thể anti-C1q là xét nghiệm mới, chưa từng được thẩm định tại Việt
Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Giá trị của các xét nghiệm tự
kháng thể: anti-dsDNA, anti-nucleosome, và anti-C1q trong chẩn đoán và theo dõi
viêm thận lupus” để xem xét giá trị của các xét nghiệm này có ý nghĩa như thế nào
trên bệnh nhân viêm thận lupus người Việt Nam, nhằm đưa ra một công cụ chẩn
đoán và theo dõi mới, giúp ích việc điều trị hiệu quả hơn.
3
MỤC TIÊU
1. Xác định tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-
dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên
cứu.
2. Khảo sát mối liên quan giữa các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome,
anti-C1q với tổn thương mô bệnh học thận tại thời điểm nhận vào nghiên
cứu.
3. Khảo sát giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
trong theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về lupus ban đỏ hệ thống và viêm thận lupus
1.1.1 Dịch tễ học
Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là bệnh gặp nhiều ở phụ nữ hơn nam giới, với
tỉ lệ nữ trên nam là 8-13/1, trong đó đa số các trường hợp xảy ra ở tuổi dưới 55
[122], [149]. Tỉ suất mới mắc nói chung trên thế giới là 1,8-7,6 ca /100000 người-
năm, tỉ lệ bệnh lưu hành là 40-250/100000 người-năm [40], [43], [65], [81], [122],
[123].
Viêm thận lupus gặp trong 40%-60% các trường hợp lupus ban đỏ hệ thống
[65], [71], [142], [149]. Trong số bệnh nhân bị SLE, viêm thận lupus ảnh hưởng cả
hai giới như nhau, nhưng thường biểu hiện nặng ở trẻ em và nam giới, thường nhẹ
hơn ở người lớn tuổi. Người da đen, người gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, người
Châu Á có khởi phát viêm thận sớm hơn và có tiên lượng nặng hơn người da trắng
về tỉ lệ tử vong và tỉ lệ bệnh thận giai đoạn cuối [15], [43], [65], [71], [81], [119],
[149], [154]. Ở người Châu Á, sang thương viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa là loại
sang thương giải phẫu bệnh thường gặp nhất [154]. Khoảng 10% bệnh nhân viêm
thận lupus sẽ bị suy thận giai đoạn cuối, nguy cơ suy thận giai đoạn cuối sau 15
năm khoảng 44% ở bệnh nhân viêm thận lupus nhóm IV [142], [149]. Tuy nhiên,
nếu viêm thận lupus được điều trị thuyên giảm, thì tỉ lệ sống còn 10 năm lên đến
95% [15], [122].
Viêm thận lupus từng là nhóm nguyên nhân quan trọng gây suy thận ở người
gốc Á [15], [87]. Tuy nhiên, ngày nay với sự ra đời của các thuốc ức chế miễn dịch
mới, có hiệu quả cao, các nghiên cứu gần đây cho thấy cải thiện ngoạn mục tỉ lệ
sống còn 10 năm lên đến 81-98% [83], [117], [154], so với 68-95% ở người da
trắng và 38-70% ở người Mỹ gốc Phi [122]. Suy thận mạn ở bệnh nhân (BN) Châu
Á bị viêm thận lupus thường là do các tổn thương để lại di chứng sau nhiều đợt
bùng phát làm giảm số nephron, giảm chức năng thận tồn lưu.
1.1.2 Cơ chế bệnh sinh lupus ban đỏ hệ thống và viêm thận lupus
Nguyên nhân gây SLE chưa rõ, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy có nhiều
5
yếu tố liên quan đến bệnh [18], [83], [122], [128]. Thứ nhất là yếu tố di truyền.
Các chứng cứ ủng hộ cho giả thuyết này là người ta thấy bệnh SLE hay tập trung ở
một số gia đình, ở trẻ sinh đôi cùng trứng, ở một số chủng tộc như người Mỹ gốc
Phi, gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, gốc Á [69], [111], [116], [128], [149]. Một số
kiểu gen nhạy cảm với bệnh SLE như HLA B8, DR2, DR3, DR15, DQW1. Ngoài
ra, bệnh lupus còn gặp nhiều ở những bệnh nhân bị khiếm khuyết bổ thể bẩm sinh
(C1q, C2, C4), đột biến TREX1 ở nhiễm sắc thể giới tính X. Người ta xác định có
hơn 100 locus gen có liên quan đến tăng nguy cơ SLE [122], [128], [149]. Phần lớn
các trường hợp liên quan đa gen thông qua các nghiên cứu tương quan kiểu gen
[41], [69], [116], [143]. Các gen liên quan đến nguy cơ gây bệnh lupus bao gồm các
gen ảnh hưởng báo hiệu tế bào B, ảnh hưởng chức năng bạch cầu đa nhân trung
tính, điều hoà interferon, thanh lọc các phức hợp miễn dịch, các thụ thể Toll-like
[83], [111], [122]. Thứ hai là yếu tố hormone. Điều này được chứng minh qua tần
suất bệnh ưu thế ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ, hoặc tăng nguy cơ bị lupus ở phụ
nữ tuổi mãn kinh có dùng hormone thay thế, hoặc một số nghiên cứu cho thấy bệnh
cải thiện khi cắt buồng trứng hoặc điều trị androgen [149]. Estradiol gắn với các thụ
thể trên tế bào lympho T và B, làm tăng khả năng hoạt hoá và khả năng sống còn
của các tế bào này, đặc biệt là các dòng tự phản ứng, làm cho đáp ứng miễn dịch
kéo dài [69]. Thứ ba là yếu tố môi trường, thể hiện qua sự thay đổi hệ thống miễn
dịch gây ra bởi tình trạng nhiễm trùng hoặc nhiễm siêu vi, đặc biệt là Epstein Barr
virus, sự tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời, tia cực tím và một số thuốc như
procainamide, hydralazine, quinidine, thuốc sinh học anti-TNF, hút thuốc lá, uống
rượu, tiếp xúc nghề nghiệp với tinh thể silic (hít bụi bột xà phòng, hoặc bụi đất
trong nông trại) [69]. Thứ tư là yếu tố quyết định kháng nguyên. Khả năng DNA
tiếp cận các yếu tố chuyển mã và biểu hiện gen được điều hoà bởi sự methyl hoá
DNA và điều chỉnh histone thông qua quá trình methyl hoá và acetyl hoá, dẫn đến
làm tăng biểu hiện gen và/hoặc tăng sản xuất Interferon [69], [122]. Các yếu tố trên
không tác động riêng lẻ mà tương tác qua lại làm nên tính phức tạp của bệnh lupus.
Chẳng hạn, nếu chỉ có cơ địa gen gây bệnh mà không có yếu tố môi trường tác động
6
cũng không xảy ra bệnh. Hoặc bệnh thường hay xảy ra ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là do
sự tham gia của yếu tố hormone, ngoài ra còn do gen nằm trên nhiễm sắc thể giới
tính X như TREX1 làm tăng nguy cơ bị bệnh SLE.
Hình 1.1: Sinh bệnh học của lupus ban đỏ hệ thống
Nguồn: Hahn B.H. (2018) [69]
Ghi chú: Ag: (Antigen) kháng nguyên, DC (dendritic cell) tế bào sao; T cell: tế bào
lympho T, B cell: tế bào lympho B.
Ở bệnh nhân (BN) SLE điển hình, bất thường về điều hoà miễn dịch dẫn đến
mất khả năng tự thanh lọc, hình thành đáp ứng tự miễn, xuất hiện nhiều tự kháng
thể, trong đó chủ yếu là các kháng thể trực tiếp chống lại acid nucleic hoặc các
protein liên quan đến quá trình giải mã và dịch mã chẳng hạn như nucleosome
(DNA-histone), kháng nguyên chromatin và một số protein ribonuclear trong nhân
và tế bào chất [41], [69], [122], [149]. Trong giai đoạn sớm của bệnh, quá trình
thanh lọc các tế bào chết theo chương trình bị suy giảm và các tự kháng nguyên
nhân được giải phóng từ các tế bào này kích thích interferon-, tác động lên các tế
bào trình diện kháng nguyên, làm tăng biệt hoá tế bào B tự hoạt hoá thành tương
bào và thúc đẩy tế bào T giúp đỡ. Các tế bào B và tế bào T tự hoạt hoá sẽ nhân đôi
nhiều lần do cơ chế chết tế bào theo chương trình bị suy yếu. Ngoài ra, bản chất
7
trình diện kháng nguyên cũng quan trọng, một số kháng nguyên nhân có khả năng
kích hoạt đáp ứng miễn dịch thông qua các tương tác với rất nhiều thụ thể Toll-like
trong tế bào [54], [56], [69], [116], [121], [122], [149].
Tự kháng thể kết hợp với tự kháng nguyên để hình thành nên phức hợp miễn
dịch lưu hành, lắng đóng tại mô, hoạt hoá bổ thể và gây ra đáp ứng viêm. Phức hợp
miễn dịch có thể phát hiện ở da, ranh giới giữa lớp bì-thượng bì, đám rối màng
nhện, màng ngoài tim, thanh mạc, cầu thận [56], [57], [121]. Trong trường hợp
viêm thận lupus thể tăng sinh, có thể tìm thấy các phức hợp miễn dịch trong khoang
dưới nội mạc; còn viêm thận lupus màng, có thể tìm thấy phức hợp miễn dịch trong
khoang dưới tế bào biểu mô. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy lắng đóng phức hợp
miễn dịch ở ống thận, góp phần làm suy giảm chức năng thận [41], [157]. Các yếu
tố như kích thước, điện tích, tính đặc hiệu, ái lực của kháng nguyên và kháng thể,
khả năng thanh lọc của vùng gian mạch, và thay đổi huyết động học tại chỗ sẽ quyết
định vị trí của phức hợp miễn dịch trong cầu thận [56], [69], [122]. Trong viêm thận
lupus thể tăng sinh lan toả, phức hợp miễn dịch lắng đóng bao gồm kháng nguyên
nhân (DNA) và kháng thể IgG cố định bổ thể ái lực cao [149]. Các phức hợp miễn
dịch, đặc biệt trong khoang dưới nội mạc, sẽ hoạt hoá cơ chế tiền viêm, bao gồm
các dòng thác bổ thể, các thụ thể Fc trên tế bào bạch cầu, các cytokine điều hoà tăng
sinh tế bào, tổng hợp các chất nền gian mạch và các yếu tố tiền viêm [56]. Các bạch
cầu đa nhân trung tính có thể trải qua một dạng chết tế bào theo chương trình kiểu
mới được gọi là NETosis, khi đó mạng lưới chất nhiễm sắc (NET: Neutrophil
Extracellular Traps) được giải phóng. Các mạng lưới chất nhiễm sắc này là nguồn
gốc của các tự kháng nguyên và không được thoái biến đúng cách ở những BN
viêm thận lupus, làm cho các tế bào sao dạng tương bào sản xuất INF- [41], [46].
Các con đường hoạt hoá này gây ra tổn thương thận qua trung gian bổ thể, tăng áp
lực cầu thận, khởi phát quá trình đông máu, thâm nhiễm bạch cầu qua trung gian
các thụ thể Fc và giải phóng các men ly giải. Các phức hợp miễn dịch dưới tế bào
biểu mô thường ít gây viêm hơn nhưng làm tăng sản xuất các cấu trúc màng đáy cầu
thận và làm tổn thương tế bào chân giả nhiều hơn [41], [69], [122].
8
Ngoài cơ chế miễn dịch như đã kể ở trên, tổn thương thận còn do nhiều
nguyên nhân khác như tăng huyết áp, bất thường về đông máu. Một số BN lupus có
kết hợp ANCA (Anti-Neutrophil Cystoplasmic Antibody: kháng thể kháng bạch cầu
đa nhân trung tính) ở những cầu thận bị tổn thương hoại tử khu trú từng phần mà
không có lắng đóng phức hợp miễn dịch rõ ràng, giống trường hợp viêm cầu thận ít
lắng đóng miễn dịch. Sự hiện diện kháng thể phospholipid cùng với những thay đổi
chức năng nội mạc và tiểu cầu bao gồm giảm sản xuất các prostacycline và các yếu
tố kháng đông nội mạch khác, hoạt hóa plasminogen, ức chế protein C hoặc S, thúc
đẩy kết tập tiểu cầu. Tất cả quá trình này sẽ làm nặng thêm tổn thương cầu thận và
mạch máu [15], [122].
1.1.3 Giải phẫu bệnh viêm thận lupus
Sinh thiết thận đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán viêm thận lupus, còn
được xem là tiêu chuẩn vàng, có thể xác định chẩn đoán, phân loại bệnh, cung cấp
những thông tin về độ hoạt động, mạn tính, cần thiết cho quá trình điều trị và tiên
lượng bệnh [29], [52], [56], [137]. BN có các dấu hiệu tổn thương thận hoạt động
như tiểu protein lớn hơn hoặc bằng 0,5 g/24 giờ, tiểu máu do nguyên nhân cầu thận,
trụ tế bào, giảm chức năng thận không giải thích được đều có chỉ định sinh thiết
thận [53], [116]. Một mẫu sinh thiết thận có ý nghĩa khi lấy được lớn hơn hoặc bằng
8 cầu thận, được khảo sát dưới kính hiển vi quang học, nhuộm Haematoxylin Eosin
(HE), Masson’s trichrome và nhuộm bạc. Người ta khuyến cáo nhuộm miễn dịch
huỳnh quang hoặc nhuộm hoá mô miễn dịch để tìm các lắng đóng phức hợp miễn
dịch hoặc bổ thể (IgG, IgA, IgM, C3, C1q, chuỗi nhẹ kappa và lambda) [15], [22],
[29], [52]. Nếu có điều kiện, có thể thực hiện khảo sát dưới kính hiển vi điện tử để
làm rõ hơn các tổn thương tăng sinh và tổn thương màng [15], [22], [29], [52].
Hiện nay, đa số các nhà Thận học, Bệnh học, Khớp học, sử dụng Bảng phân
loại của Hội Thận học Quốc tế và Hiệp Hội Bệnh học Thận (ISN/RPS) 2004 [15],
[22], [122], [151].
9
Bảng 1.1: Phân loại ISN/RPS 2004 của viêm thận lupus
Nhóm Mô tả
Viêm thận lupus tổn thương gian mạch tối thiểu I
Viêm thận lupus tăng sinh gian mạch II
Viêm thận lupus khu trú* (< 50% số cầu thận) III
III (A) Tổn thương hoạt động
III (A/C) Tổn thương hoạt động và mạn tính
III (C) Tổn thương mạn tính
Viêm thận lupus lan tỏa ** (>50% số cầu thận) IV
Viêm thận lupus lan tỏa từng phần (IV-S) hay toàn bộ (IV-G)
IV (A) Tổn thương hoạt động
IV (A/C) Tổn thương hoạt động và mạn tính
IV (C) Tổn thương mạn tính
V*** Viêm thận lupus màng
Viêm thận lupus xơ hóa tiến triển
VI (≥90% số cầu thận bị xơ hóa hoàn toàn mà không có tổn thương hoạt
động)
* Chỉ phần cầu thận với tổn thương hoạt động hoặc xơ hóa
** Chỉ phần cầu thận với tổn thương hoại tử fibrin và sang thương liềm
*** Sang thương màng có thể kết hợp với nhóm III hoặc nhóm IV, trong trường hợp đó phải ghi chẩn đoán cả hai
Nguồn: Weening J.J. (2004) [155]
10
Nhóm I: Dưới kính hiển vi quang học, các cầu thận có hình ảnh bình thường.
Miễn dịch huỳnh quang và kính hiển vi điện tử thấy lắng đóng phức hợp miễn dịch
trong vùng gian mạch. Lâm sàng thường không biểu hiện tổn thương thận.
Hình 1.2: Viêm thận lupus nhóm I
Nhuộm hoá mô miễn dịch thấy lắng đóng C1q (kết hợp với IgG và C3) khắp các
vùng gian mạch (Độ phóng đại 400x).
Nguồn: Wadhwani S. et al (2019)[149]
Nhóm II: Kính hiển vi quang học cho thấy sự tăng sinh tế bào gian mạch
đơn thuần. Sự tăng sinh này được định nghĩa khi có trên 3 tế bào trong một khoảng
gian mạch xa cực mạch máu với những lát cắt dày không quá 3µm. Miễn dịch
huỳnh quang và kính hiển vi điện tử cho thấy lắng đóng phức hợp miễn dịch trong
vùng gian mạch và một số ít dưới nội mạc hay dưới lớp tế bào biểu mô tạng.
Hình 1.3: Tăng sinh gian mạch nhẹ ISN/RPS nhóm II Nhuộm PAS, độ phóng đại 40x. Nguồn: Stillman I.E.(2016) [137]
11
Nhóm III: Viêm cầu thận khu trú từng phần và/hoặc toàn phần nội mao
mạch và/hoặc ngoại mao mạch, ảnh hưởng dưới 50% số cầu thận trên mẫu sinh
thiết. Các tế bào tăng sinh bao gồm tế bào gian mạch và tế bào nội mô, kèm thâm
nhiễm bạch cầu đơn nhân và đa nhân trung tính [122], [151]. Các lắng đóng phức
hợp miễn dịch lan tỏa ở vùng gian mạch, lắng đóng phức hợp miễn dịch khu trú và
từng phần dưới nội mạc có thể nhận diện rõ rệt dưới kính hiển vi miễn dịch huỳnh
quang hoặc kính hiển vi điện tử. Các lắng đóng phức hợp miễn dịch dưới nội mạc
từng phần thường hiện diện trong vùng phân bố của các sang thương tăng sinh nội
mao mạch từng phần.
Hình 1.4: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm III
Nguồn: Wadhwani S. et al (2019) [149]
(A) Độ phóng đại thấp cho thấy sang thương tăng sinh hoạt động khu trú và từng
phần chiếm dưới 50% số cầu thận sinh thiết được (nhóm IIIA) (Độ phóng đại 100x, nhuộm
Hematoxylin-eosin (HE). (B) Sang thương tăng sinh khu trú và từng phần ảnh hưởng dưới
50% các quai mao mạch quan sát được (Độ phóng đại 400x, nhuộm Hematoxylin/xanh
lissamine).
Nhóm IV: Viêm thận lupus có các tổn thương nội mao mạch và/hoặc ngoại
mao mạch lan tỏa với các tính chất tương tự như nhóm III, nhưng chiếm hơn 50%
tổng số cầu thận trên mẫu sinh thiết [122], [151].
12
Hình 1.5: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm IV
(A) Viêm thận lupus hoạt động, tăng sinh lan toả (độ phóng đại 100x). (B) Hoá mô miễn dịch cho thấy lắng đóng IgG dạng đặc, không đều dọc theo vách mao mạch ngoại biên (độ phóng đại 400x). (C) Kính hiển vi điện tử cho thấy lắng đóng phức hợp miễn dịch đậm độ điện tử (mũi tên), tập trung nhiều ở vị trí dưới nội mạc.
Nguồn: Wadhwani S. et al (2019) [149]
Hình 1.6: Lắng đóng phức hợp miễn dịch đậm đặc
Nguồn: Stillman I.E.(2016)[137]
Lắng đóng mạnh ở dọc vách mao mạch với hình ảnh viền ngoài rất rõ, gợi ý lắng đóng dưới nội mạc. Chú ý các lắng đóng dày đặc dọc bao Bowman và màng đáy ống thận. Miễn dịch huỳnh quang, anti-IgG, độ phóng đại ban đầu x40.
13
Hình 1.7: ISN/RPS viêm thận lupus nhóm V
Nguồn: Wadhwani S. et al (2019) [149] (A) Lát cắt dày 0,5mm, ngấm trong araldite nhuộm xanh toluidine cho thấy không chỉ những lắng đóng chất màu xanh đậm trong màng (mũi tên) mà còn có lắng đóng phức hợp miễn dịch trong vùng gian mạch, hình ảnh rất thường gặp trong viêm thận lupus màng (độ phóng đại 400x). (B) Lát cắt nhuộm bạc cho thấy hình ảnh viền đôi (màng đáy bắt màu mạnh với bạc) (mũi tên) và lắng đóng dưới nội mạc, đặc điểm tạo “gai” bắt màu mạnh với bạc của màng đáy (độ phóng đại 400x). (C) Kính hiển vi điện tử cho thấy lắng đóng đậm độ điện tử ưu thế dưới tế bào biểu mô. Nguồn: Stillman I.E. (2016) [137]. Hình trên cùng bên phải: Lắng đóng phức hợp miễn dịch dạng hạt dưới tế bào biểu mô kiểu màng.
Nhóm V: Lắng đóng phức hợp miễn dịch dày đặc dưới lớp biểu mô làm dày
màng đáy [122], [151]. Có thể đi kèm lắng đóng phức hợp miễn dịch trong gian
mạch và tăng sinh tế bào gian mạch. Điều này giúp phân biệt với bệnh cầu thận
màng nguyên phát. Viêm thận lupus màng giai đoạn sớm có thể khó phát hiện
14
những tổn thương dưới kính hiển vi quang học nhưng dễ dàng thấy lắng đóng phức
hợp miễn dịch dưới tế bào biểu mô dưới kính hiển vi miễn dịch huỳnh quang hoặc
kính hiển vi điện tử. Ở giai đoạn trễ, có thể thấy dày vách mao mạch cầu thận và
hình ảnh tạo “gai” giữa các lắng đóng phức hợp miễn dịch dưới tế bào biểu mô. Khi
những tổn thương dạng màng chiếm trên 50% tổng số mao mạch cầu thận đi kèm
với các sang thương tăng sinh nội mô mao mạch khu trú hoặc lan tỏa, lắng đóng
phức hợp miễn dịch dưới nội mạc; những trường hợp này được xếp là nhóm V+III,
hoặc nhóm V+IV.
Nhóm VI: Viêm thận lupus xơ hóa tiến triển hoặc viêm thận lupus giai đoạn
cuối. Trong trường hợp này, có trên 90% cầu thận trên mẫu sinh thiết bị xơ hóa
hoàn toàn và không còn hình ảnh hoạt động [122], [151]. Trong những trường hợp
này rất khó biết được đây là viêm thận lupus nếu không còn những lắng đóng phức
hợp miễn dịch còn sót lại dưới kính hiển vi miễn dịch huỳnh quang hoặc kính hiển
vi điện tử hay so sánh với hình ảnh một mẫu sinh thiết thận trong tiền sử. Trên lâm
sàng, BN thường biểu hiện suy thận giai đoạn cuối.
Dưới kính hiển vi miễn dịch huỳnh quang hoặc hóa mô miễn dịch, đặc điểm
điển hình của viêm thận lupus là lắng đóng phức hợp miễn dịch trên tất cả các bộ
phận như cầu thận, ống thận, mô kẽ, mạch máu [56], [122], [151]. Thường gặp nhất
là IgG cùng với IgM, C3, và C1q [151]. Sự hiện diện cùng lúc 3 kháng thể IgG,
IgA, IgM và 2 bổ thể C3 và C1q tạo nên hình ảnh “full house” rất đặc trưng cho
viêm thận lupus. Ngoài ra, một dấu hiệu gợi ý viêm thận lupus nữa là bắt màu mạnh
với C1q. Bắt màu fibrin-fibrinogen thường gặp trong liềm thể và các sang thương
hoại tử từng phần [92], [116].
Dưới kính hiển vi điện tử, sự lắng đóng phức hợp miễn dịch ở cầu thận, ống
thận, mô kẽ, mạch máu tương quan chặt chẽ với hình ảnh dưới kính hiển vi miễn
dịch huỳnh quang [56]. Lắng đóng điển hình dưới dạng đặc có đậm độ điện tử hoặc
dạng hạt. Một số trường hợp biểu hiện dưới dạng siêu cấu trúc hình “dấu ấn ngón
tay” bao gồm các dãy đường cong xếp song song nhau có đường kính 10-15 nm
[56]. Thể vùi lưới ống, cấu trúc dạng ống nhánh trong tế bào đường kính 24 nm
15
nằm trong các túi chứa dịch của hệ lưới nội bào tương của các tế bào nội mạc mạch
máu và cầu thận cũng thường gặp trong mẫu sinh thiết thận viêm thận lupus [56],
[122]. Nghiên cứu của Kudose S. năm 2019 [92] về giá trị chẩn đoán viêm thận
lupus của các dấu hiệu mô bệnh học cho thấy các đặc điểm “full house” trên miễn
dịch huỳnh quang, bắt màu C1q ≥2+, lắng đóng miễn dịch ngoài mao mạch cầu
thận, lắng đóng miễn dịch đồng thời dưới nội mạc và dưới tế bào biểu mô, thể vùi
lưới ống trong tế bào nội mạc. Khi có từ 3/5 tiêu chuẩn trở lên, thì độ đặc hiệu chẩn
đoán viêm thận lupus là 95%.
Bảng phân loại ISN/RPS 2004 chưa đề cập đến tổn thương ống thận mô kẽ,
tổn thương mạch máu, thuyên tắc vi mạch huyết khối và bệnh tế bào chân giả. Các
tổn thương này thường có tiên lượng xấu, dẫn đến suy thận tiến triển nhanh, cần
phải điều trị thay thế thận [76], [122], [128], [156].
Kết quả giải phẫu bệnh còn được chi tiết hóa thành các hệ thống chấm điểm
nhằm giúp cho việc tiên lượng bệnh và theo dõi điều trị [20]. Chỉ số hoạt động, mạn
tính theo NIH (National Institute of Health: Viện sức khoẻ Quốc gia) được Austin
HA 3rd đưa ra năm 1984 [20], được sử dụng rộng rãi trên thế giới [15], [18], [21],
[116], [122], [128], [138] và dễ áp dụng trên lâm sàng.
Chỉ số hoạt động theo NIH (AI: Activity Index) chỉ tình trạng viêm thận
lupus đang hoạt động, bao gồm 6 thành tố: tăng sinh tế bào cầu thận, thâm nhiễm
bạch cầu đa nhân trung tính, lắng đóng hyalin dưới nội mạc, hoại tử dạng fibrin
hoặc vỡ nhân tế bào (x2), liềm tế bào (x2), viêm mô kẽ. Mỗi thành tố được chấm
điểm từ 0-3 tùy theo mức độ: 0 (không có), 1 (ảnh hưởng dưới 25% số cầu thận), 2
(ảnh hưởng 25-50% số cầu thận), 3 (ảnh hưởng trên 50% số cầu thận). Điểm AI là
tổng điểm của các thành tố trên với số điểm tối đa là 24 điểm, riêng thành tố hoại tử
dạng fibrin hoặc vỡ nhân tế bào, liềm tế bào được nhân đôi, và có ý nghĩa tiên
lượng xấu nếu chỉ số này lớn hơn 7 [15], [20], [138].
Tăng sinh tế bào cầu thận chỉ mức độ tăng sinh tế bào nội mao mạch (gian
mạch, nội mạc, bạch cầu đơn nhân) làm giảm thể tích của quai mao mạch. Thâm
nhiễm bạch cầu đa nhân trung tính khi có lớn hơn hoặc bằng 2 tế bào bạch cầu
16
đa nhân trung tính mỗi cầu thận. Hoại tử dạng fibrin và vỡ nhân là hiện diện chất
ưa eosinophil cường độ mạnh trong phần đông đặc của cầu thận. Liềm tế bào: tăng
sinh tế bào ngoài mao mạch chiếm trên ¼ chu vi cầu thận. Lắng đóng hyalin dưới
nội mạc: hiện diện chất ưa eosinophil đồng nhất dọc theo chu vi của bề mặt lòng
ống mao mạch cầu thận, hình thành nên sang thương “viền đôi” cổ điển. Viêm mô
kẽ: thâm nhiễm tế bào đơn nhân (tế bào lympho, tương bào, đại thực bào vào
khoảng mô kẽ).
Chỉ số mạn tính (CI: Chronicity Index): chỉ tình trạng tổn thương không
phục hồi của viêm thận lupus bao gồm 4 thành tố: xơ hóa cầu thận, liềm sợi, teo ống
thận, xơ hóa mô kẽ. Mỗi thành tố cũng được chấm điểm từ 0-3 tùy theo mức độ như
trên đã đề cập. Điểm CI là tổng của các thành tố trên với tổng số điểm tối đa là 12
điểm, và có ý nghĩa tiên lượng xấu nếu chỉ số này lớn hơn 3 [15], [20], [138].
Xơ hóa cầu thận: xẹp mao mạch cầu thận với dãn rộng khoảng gian mạch và đông
đặc một phần hoặc toàn bộ cầu thận. Liềm sợi: cấu trúc bao gồm chủ yếu mô sợi
viền bao Bowman. Teo ống thận: dày màng đáy ống thận và thoái hóa tế bào biểu
mô ống thận. Xơ hóa mô kẽ: lắng đóng mô xơ quanh cầu thận và quanh ống thận
được nhận diện chủ yếu bằng nhuộm Masson.
Tác giả Austin HA 3rd năm 1984 [20] nghiên cứu trên 72 BN viêm thận
lupus tăng sinh lan tỏa trong thời gian từ năm 1964 đến 1981, với thời gian theo dõi
trung bình là 53 tháng, cho thấy cả chỉ số AI và chỉ số CI đều có tương quan chặt
chẽ với kết cục là suy thận giai đoạn cuối. Năm 1994, ông lặp lại việc đánh giá các
chỉ số này trên 65 BN viêm thận lupus nặng được điều trị bằng cyclophosphamide
và methylprednisolone cũng cho thấy kết quả trên với tiêu chí đánh giá là tỉ lệ BN
bị gấp đôi chỉ số creatinine huyết thanh trong quá trình nghiên cứu [122].
Năm 2018, một cuộc họp giữa các nhà giải phẫu bệnh và các nhà thận học
đưa ra bảng phân loại mới, trong đó bỏ phân nhóm hoạt động (A), mạn tính (C), bỏ
phân nhóm từng phần (S) và toàn bộ (G). Thay vào đó, cần đánh giá độ hoạt động,
mạn tính theo NIH có điều chỉnh cho tất cả các nhóm chứ không chỉ dành riêng cho
17
sang thương tăng sinh. Tăng sinh tế bào gian mạch được định nghĩa là hiện diện lớn
hơn 4 tế bào ở vùng gian mạch xa cực mạch máu [15], [21], [128].
Vai trò của sinh thiết thận lặp lại sau điều trị còn bàn cãi, nhưng kết quả các
nghiên cứu gần đây cho thấy rằng chúng có thể giúp thay đổi quyết định điều trị và
có ý nghĩa tiên lượng lâu dài [45], [96], [97], [112]. Hầu hết các hướng dẫn đều
khuyến cáo nên sinh thiết thận lại nếu có đợt bùng phát viêm thận lupus, protein
niệu cao kéo dài sau 6 tháng điều trị, sụt giảm chức năng thận không giải thích được
[15], [91], [116], [128].
1.1.4 Triệu chứng lâm sàng
Mặc dù SLE gặp nhiều ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ, nhưng triệu chứng
lâm sàng giống nhau ở cả hai giới, giống nhau ở cả người lớn và trẻ em [122],
[149]. Các hệ thống cơ quan thường ảnh hưởng bao gồm thận, cơ xương khớp,
thanh mạc (bao gồm cả màng phổi và màng tim), hệ thần kinh, hệ tạo máu và da
niêm. Ngoài ra, còn có thể gặp các tổn thương tim, gan, phổi, và tiêu hoá [15], [69].
Bệnh nhân có bệnh SLE đang hoạt động thường than phiền những triệu
chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, sốt nhẹ, ăn kém, sụt cân.
Các tổn thương thận do lắng đóng phức hợp miễn dịch thường biểu hiện
bằng tiểu protein, hoặc cặn lắng nước tiểu hoạt động như tiểu máu vi thể, bất
thường hình dạng hồng cầu trong nước tiểu, trụ hồng cầu. Các tổn thương viêm thận
lupus nặng hơn có thể biểu hiện bằng hội chứng viêm thận kết hợp với viêm cầu
thận tăng sinh, tăng huyết áp, giảm mức lọc cầu thận (GFR) [29], [127], [128]. Các
biểu hiện thận do lupus còn có thể gặp với tần suất ít hơn như tổn thương ống thận,
gây toan hoá ống thận, viêm ống thận mô kẽ đơn thuần, thuyên tắc vi mạch huyết
khối đi kèm hoặc không kèm với hội chứng kháng phospholipid [18], [122], [149].
Tổn thương thận thường biểu hiện đồng thời hoặc một thời gian ngắn sau khởi phát
lupus, diễn tiến kéo dài bao gồm những đợt bùng phát xen kẽ những đợt lui bệnh.
Biểu hiện lâm sàng thường tương quan chặt chẽ với mức độ tổn thương cầu thận.
Tuy nhiên, một số bệnh nhân có mức độ tổn thương mạch máu và ống thận mô kẽ
không tương xứng, chiếm ưu thế trong diễn tiến lâm sàng [18], [122], [149].
18
1.1.5 Xét nghiệm huyết thanh học
1.1.5.1 Kháng thể kháng nhân (ANA):
Kháng thể kháng nhân được xem là có độ nhạy cao trong tầm soát lupus, có
thể gặp ở 90-95% BN lupus chưa được điều trị , nhưng có độ đặc hiệu thấp. Kháng
thể này có thể gặp ở người khỏe mạnh, một số bệnh lý nhiễm trùng, viêm gan, xơ
gan, một số bệnh lý tự miễn khác [46], [65], [122], [149]. Nếu xét nghiệm hai lần
âm tính, gần như có thể loại bỏ chẩn đoán SLE [19], [128]. Phương pháp xét
nghiệm được khuyến cáo là miễn dịch huỳnh quang trên tế bào HEp2 với hiệu giá
lớn hơn hoặc bằng 1/80 hoặc phương pháp ELISA (Enzyme-Linked Immunosorbent
Assay: phương pháp miễn dịch hấp phụ gắn kết men) với nồng độ ít nhất 20 UI mới
có ý nghĩa chẩn đoán [19], [44], [118]. Tính chất huỳnh quang (đồng nhất, lốm
đốm, viền xung quanh) và hiệu giá không liên quan đến mức độ tổn thương thận
[18], [122]. Hiệu giá ANA có thể tăng theo thời gian và có thể trở về âm tính sau
điều trị [65], [122].
1.1.5.2 Kháng thể kháng chuỗi xoắn kép DNA (anti-ds DNA)
Đây là kháng thể đặc hiệu của bệnh, nhất là tổn thương thận hoặc những tổn
thương đa cơ quan, nhưng ít nhạy hơn ANA, có thể gặp ở 70%-75% BN lupus hoạt
động chưa được điều trị [18], [65], [69], [122], [149].
1.1.5.3 Bổ thể
Nồng độ bổ thể toàn phần (CH50) và các bổ thể từng phần trong máu đều
giảm trong giai đoạn hoạt động của bệnh và đặc biệt là viêm thận lupus dạng hoạt
động [15], [122]. Nồng độ C3, C4 trong máu thường giảm trước mỗi đợt bùng phát
lâm sàng của lupus. Theo dõi nhiều lần nồng độ bổ thể, khi sụt giảm nồng độ bổ thể
sẽ dự đoán trước đợt bùng phát, nên được xem xét biện luận trong từng bối cảnh
lâm sàng chứ không nên đánh giá riêng lẻ từng chỉ số C3, C4. Ngược lại, khi nồng
độ bổ thể trở về bình thường thường báo hiệu cải thiện kết cục thận [122].
1.1.5.4 Các kháng thể khác
Các tự kháng thể chống lại kháng nguyên ribonuclear thường gặp trên bệnh
nhân lupus, bao gồm anti-Sm, anti-nRNP chống lại các kháng nguyên nhân trích
19
xuất được (ENA: Extractable Nuclear Antigen) [69], [122], [149]. Kháng thể anti-
Sm mặc dù rất đặc hiệu cho SLE nhưng chỉ gặp trong 25% BN SLE và có giá trị
tiên lượng chưa rõ ràng, chưa thấy rõ tương quan lâm sàng [46], [69]. Kháng thể
anti-nRNP tìm thấy trong 1/3 số BN SLE, nhưng cũng hiện diện trong nhiều bệnh
khớp khác, đặc biệt là bệnh mô liên kết hỗn hợp [69], [149].
Kháng thể anti-Ro/SSa trực tiếp chống lại phức hợp protein của RNA tế bào
chất, gặp trong 25-30% BN SLE. Kháng thể anti-La/SSb trực tiếp chống lại kháng
nguyên RNP nhân, gặp trong 5-15% SLE. Cả hai loại kháng thể anti-SSa và anti-
SSb đều không đặc hiệu cho SLE và có thể gặp trong các bệnh tạo keo khác, đặc
biệt là hội chứng Sjogren. Kháng thể anti-Ro ở mẹ rất quan trọng trong sinh bệnh
học lupus sơ sinh và xuất hiện bất thường dẫn truyền ở tim trẻ sơ sinh. Anti-Ro còn
gặp trong lupus da dạng vảy nến, ở những bệnh nhân lupus thiếu C2 đồng hợp tử và
viêm mạch máu liên quan thần kinh và loét da [18], [69], [122]. Ngoài ra, ở BN
SLE còn xuất hiện các kháng thể trực tiếp chống lại histone, tế bào nội mạc,
phospholipid, thụ thể N-methyl-D-Aspartate (thường đi kèm bệnh thần kinh trung
ương) và ANCA (kháng thể kháng bạch cầu đa nhân trung tính) [122].
Gần đây, người ta quan tâm đến kháng thể anti-phospholipid, hiện diện ở
50% các trường hợp SLE, với các kỹ thuật xét nghiệm hiện đại mới được phát triển
như kháng thể anti-cardiolipin, anti-ß2-Glycoprotein I, kháng đông lupus (lupus
anticoagulant). Các kháng thể này thường liên quan đến hội chứng kháng
phospholipid làm cho tiên lượng những trường hợp này nặng lên rất nhiều, dễ đông
máu, mất thai, giảm tiểu cầu [52], [69], [104], [122], [128].
1.1.6 Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt
1.1.6.1 Chẩn đoán Hiện nay, có 3 bảng tiêu chuẩn chẩn đoán xác định SLE: Bảng
tiêu chuẩn của Hiệp hội Thấp học Hoa Kỳ (ACR) 1997 [75], Bảng tiêu chuẩn
SLICC 2012 [118], Bảng tiêu chuẩn EULAR/ACR 2019 [19].
Bảng tiêu chuẩn của Hiệp hội Thấp học Hoa Kỳ (ACR: American College
of Rheumatology) phát triển năm 1982, được cải biên năm 1997 [75], được nhắc
đến nhiều nhất trong hầu hết các sách giáo khoa cũng như được sử dụng trong phần
20
lớn các thử nghiệm lâm sàng. Khi đáp ứng đủ 4/11 tiêu chuẩn trong bảng chẩn đoán
này trong quá trình diễn tiến của bệnh sẽ có 82,8% độ nhạy và 93% độ đặc hiệu
[19], [75], [122], [145], [149]. Lưu ý rằng các triệu chứng này có thể diễn tiến lần
lượt theo thời gian chứ không nhất thiết phải xảy ra đồng thời.
Bảng 1.2: Tiêu chuẩn chẩn đoán lupus theo Hiệp hội Thấp học Hoa Kỳ (ACR)
Tiêu chuẩn Định nghĩa
1. Hồng ban cánh Hồng ban phẳng, hơi gồ lên, có hình cánh bướm, chừa nếp mũi
bướm má.
2. Hồng ban dạng Mảng hồng ban hơi gồ lên, tăng sừng xung quanh, lõm ở giữa,
đĩa ở những sang thương cũ có hình ảnh sẹo teo.
3. Sang thương da Sang thương da do phản ứng bất thường với ánh sáng mặt trời,
nhạy cảm ánh theo lời kể của bệnh nhân hoặc do thầy thuốc phát hiện.
sáng
4. Loét miệng Loét trong khoang miệng, hoặc vùng mũi hầu, thường không
đau, do thầy thuốc phát hiện.
5.Viêm khớp Tổn thương ít nhất hai khớp ngoại biên, biểu hiện sưng, đau,
hoặc tràn dịch khớp nhưng không có tổn thương mặt khớp.
6.Viêm thanh 1. Viêm màng phổi – bệnh sử đau ngực kiểu màng phổi, khám
mạc phát hiện tiếng cọ màng phổi hoặc tràn dịch màng phổi.
2. Viêm màng ngoài tim - ghi nhận qua điện tim hoặc khám
phát hiện tiếng cọ màng tim hoặc tràn dịch màng tim.
7. Tổn thương Đạm niệu>0,5 g/ngày, hoặc >3+ nếu không định lượng;
thận HOẶC
Trụ tế bào – có thể trụ hồng cầu, trụ hemoglobin, trụ hạt, hay
trụ hỗn hợp.
8. Tổn thương 1. Co giật – không do nguyên nhân rối loạn chuyển hóa như hội
thần kinh chứng ure huyết cao, nhiễm ceton-acid, rối loạn điện giải;
21
không do thuốc; HOẶC
2. Rối loạn tâm thần – không do thuốc hoặc không do rối loạn
chuyển hóa như hội chứng ure huyết cao, nhiễm ceton-acid, rối
loạn điện giải.
9. Tổn thương hệ 1. Thiếu máu tán huyết – kèm tăng hồng cầu lưới; HOẶC
huyết học 2. Giảm Bạch cầu máu <4000/mm3 ít nhất hai lần xét nghiệm;
HOẶC
3. Giảm Bạch cầu lympho<1500/mm3 ít nhất hai lần xét
nghiệm; HOẶC
4. Giảm tiểu cầu < 100000/mm3 không phải do thuốc.
10. Rối loạn miễn 1. anti-DNA: nồng độ native DNA (dsDNA) bất thường;
dịch HOẶC
2. anti-Sm: hiện diện kháng thể thành phần Sm; HOẶC
3.Hiện diện kháng thể anti-phospholipid thông qua:
- hiện diện kháng thể anti-cardiolipin
- kháng đông lưu hành lupus dương tính
- dương tính giả với huyết thanh chẩn đoán giang mai ít nhất 6
tháng xác minh bằng phản ứng bất động Treponema pallidum
hoặc xét nghiệm hấp thu kháng thể treponema dưới huỳnh
quang
11. ANA dương Phát hiện bằng miễn dịch huỳnh quang hoặc các xét nghiệm
tính tương đương khác, không do thuốc
Nguồn: Hochberg M.C. (1997) [75]
Tổn thương thận do lupus [15], [122], [149]
Bệnh nhân đã được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống theo Hiệp hội Thấp học
Hoa Kỳ kèm các biểu hiện sau:
❖Đạm niệu >0,5 g/24 giờ, hoặc >3+ trên que nhúng nếu không định lượng được;
HOẶC
22
❖Hiện diện trụ tế bào (trụ hồng cầu, trụ hemoglobin, trụ hạt, trụ ống thận hoặc trụ
hỗn hợp)
Các hướng dẫn mới đều khuyến cáo có thể làm xét nghiệm nước tiểu đầu tiên
buổi sáng để chẩn đoán; trong đó tỉ lệ protein:creatinine > 0,5 có thể thay thế cho
đạm niệu 24 giờ, “cặn lắng nước tiểu hoạt động” (nghĩa là >5 hồng cầu/quang
trường phóng đại cao, >5 bạch cầu/quang trường phóng đại cao mà không có nhiễm
trùng, trụ tế bào dành cho trụ hồng cầu, trụ bạch cầu) có thể thay thế cho trụ tế bào
[52], [53], [116].
Tiêu chuẩn SLICC (the Systemic Lupus International Collaborating
Clinics), gồm 17 thông số được các chuyên gia trên thế giới họp và phân tích các
kịch bản từ đời thực, và áp dụng trên nhóm chứng khác để phê duyệt, đưa ra kết
luận năm 2012 [118]. Trong tiêu chuẩn này, các kiểu biểu hiện da niêm, tâm thần
kinh được thêm vào, bổ sung thêm giảm bổ thể máu, xét nghiệm kháng thể anti-
phospholipid mới và sửa chữa một số tiêu chuẩn chẩn đoán [19], [118], [122]. Chẩn
đoán lupus nếu bệnh nhân có lớn hơn hoặc bằng 4 tiêu chuẩn, với ít nhất 1 tiêu
chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận lâm sàng. Bệnh nhân viêm thận lupus có thể
được chẩn đoán nếu có kết quả sinh thiết thận phù hợp kèm với ANA dương tính
(có thể không đủ tiêu chuẩn theo ACR). Độ nhạy của SLICC là 96,7%, độ đặc hiệu
là 84% [19], [40], [65], [118]. Nhiều nghiên cứu cho thấy tiêu chuẩn SLICC tuy có
độ nhạy tốt hơn nhưng lại có độ đặc hiệu kém hơn tiêu chuẩn ACR [65], [125],
[128].
Đến năm 2019, nhằm cải thiện độ nhạy, độ đặc hiệu, hai tổ chức Hiệp hội
Thấp học Châu Âu (EULAR: European League Against Rheumatism) và Hiệp hội
Thấp học Hoa Kỳ (ACR) đã đưa ra bảng tiêu chuẩn mới EULAR/ACR 2019 trong
đó tiêu chuẩn ANA dương tính ít nhất một lần là tiêu chuẩn bắt buộc nhận vào, sau
đó chấm điểm tuỳ theo tính chất quan trọng của 7 biểu hiện lâm sàng (toàn thân,
huyết học, tâm thần kinh, da niêm, thanh mạc, cơ xương, thận) và 3 xét nghiệm
miễn dịch (kháng thể anti-phospholipid, bổ thể, kháng thể đặc hiệu SLE) được
chấm điểm từ 2 đến 10. Nếu bệnh nhân nghi ngờ có 10 điểm trở lên sẽ được chẩn
23
đoán lupus. Trong nghiên cứu đoàn hệ thẩm định bảng tiêu chuẩn này cho thấy độ
nhạy là 96,1% và độ đặc hiệu 93,4% [19].
Tóm lại, khi xem xét bệnh nhân có nhiều khả năng bị SLE, cần hỏi bệnh sử
hết sức chi tiết, khám lâm sàng cẩn thận để nhận diện các triệu chứng và dấu hiệu
phù hợp, đánh giá các thông số về huyết học và thận. Chẩn đoán ít được đặt ra nếu
không có ít nhất một xét nghiệm tự kháng thể dương tính hoặc nồng độ bổ thể thấp.
1.1.6.2 Chẩn đoán phân biệt
Nhiều bệnh tự miễn khác có các biểu hiện ngoài thận giống SLE, và một số
trường hợp có tổn thương thận đi kèm dưới dạng viêm cầu thận. Các trường hợp
này bao gồm bệnh cơ sợi, hội chứng Sjogren, thuyên tắc vi mạch huyết khối, hội
chứng kháng phospholipid nguyên phát, viêm da cơ, xơ cứng bì hệ thống, bệnh mô
liên kết hỗn hợp. Ngược lại, nhiều dạng viêm cầu thận phải được chẩn đoán phân
biệt với viêm thận lupus do có cùng đặc tính lâm sàng như bệnh thận IgA, viêm
mạch máu Henoch-Schonlein, viêm cầu thận kết hợp kháng thể kháng bạch cầu đa
nhân trung tính (ANCA), viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, viêm cầu thận kết hợp
cryoglobulin trong máu. Kháng thể ANCA được phát hiện trong 20% các trường
hợp viêm thận lupus [18], [122], [149].
1.1.7 Theo dõi độ hoạt động
Độ hoạt động của bệnh SLE được định nghĩa là những biểu hiện lâm sàng có
thể phục hồi được, gây ra do quá trình viêm. Đánh giá độ hoạt động của bệnh rất
quan trọng bởi vì nhiều quyết định phác đồ điều trị dựa trên sự đánh giá chính xác
độ hoạt động của bệnh [62].
Có rất nhiều bảng đánh giá độ hoạt động của bệnh đã được nghiên cứu rộng
rãi trên lâm sàng , chia làm hai nhóm chính: (1) chấm điểm toàn bộ các hệ cơ quan,
cung cấp đánh giá toàn bộ hoạt động của bệnh như: ECLAM (European Consensus
Lupus Activity Measurements), SLAM-R (Systemic Lupus Activity Measure-
Revised), SLEDAI (Systemic Lupus Erythematosus Disease Activity Index), LAI
(Lupus Activity Index); (2) đánh giá hoạt động của từng cơ quan riêng lẻ như
BILAG (British Isles Lupus Assessment Group) [80]. Hiện nay, có 2 công cụ được
24
thẩm định để đo hoạt động của bệnh lupus ban đỏ hệ thống và được sử dụng rộng
rãi trong các nghiên cứu lâm sàng là BILAG 2004 và SLEDAI-2K [65].
❖ Bảng SLEDAI-2K
Các biểu hiện lâm sàng ghi trong bảng đánh giá (phụ lục 3) được tính điểm
nếu xuất hiện tại thời điểm thăm khám hoặc trong vòng 10 ngày trước, hoặc 30
ngày trước [62], [145]. Phương pháp thực hiện gồm xác nhận sự hiện diện của 24
biến số và cho điểm theo thang điểm cho trước trên 9 hệ cơ quan với mức độ nặng
nhẹ khác nhau. Tổng điểm từ 0-105, nhưng hiếm có BN nào có điểm lớn hơn 45
[62] [145].
Hệ thống SLEDAI là một mô hình đánh giá toàn diện độ hoạt động bệnh
SLE có giá trị của các nhà lâm sàng có kinh nghiệm, đại diện cho sự đồng thuận của
các chuyên gia trong lĩnh vực lupus. Chỉ số này có số điểm lớn hơn hoặc bằng 6
được xem là bệnh hoạt động [65], [145].
❖Hệ thống chỉ số BILAG 2004 [80], [145]
Bảng chấm điểm này đánh giá trên các mức độ A, B, C, D, E theo mục đích
điều trị (phụ lục 4). Đánh giá từng cơ quan trên tổng số 9 hệ thống (toàn thân, da
niêm, tâm thần kinh, cơ xương khớp, tim phổi, bụng, mắt, thận và huyết học). Bảng
chỉ số này so sánh các biểu hiện của bệnh trong 4 tuần qua so sánh với 4 tuần trước.
Lưu ý, bảng chỉ số BILAG không chấm điểm tổng cộng vì các biến dựa trên thang
đo thứ tự, độ hoạt động của bệnh dựa trên hệ thống nào có giá trị cao nhất.
Bệnh được xem là hoạt động nếu có mức độ A hoặc B. Trong đó, mức A
được xem là bệnh hoạt động nặng cần được điều trị bằng corticoid liều cao và/hoặc
kết hợp thuốc ức chế miễn dịch; mức B là bệnh hoạt động mức độ trung bình cần
điều trị corticoid liều thấp và/hoặc thuốc chống sốt rét, và/hoặc thuốc điều trị triệu
chứng (như thuốc kháng viêm non-steroid để điều trị viêm khớp); mức C là bệnh
nhẹ; mức D là bệnh hiện tại không hoạt động nhưng tiền sử có ảnh hưởng; mức E là
chưa bao giờ ảnh hưởng cơ quan đang xem xét. Chỉ số BILAG có độ nhạy 87% và
độ đặc hiệu 99% khi so với tiêu chuẩn vàng, là phải bắt đầu hoặc tăng mức độ điều
trị [80], [145].
25
1.2. Tổng quan về 3 kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
1.2.1 Tự kháng nguyên
Đối với anti-dsDNA: chuỗi xoắn kép DNA.
Đối với anti-nucleosome: nucleosome chủ yếu bao gồm một octamer của
histone (H2A, H2B, H3, H4), xung quanh được bao bọc bởi chuỗi xoắn kép DNA
gắn với nucleosome kế cận. Nucleosome đóng vai trò quan trọng trong phức hợp
DNA trong nhân.
Đối với anti-C1q: vùng giống collagen (CLR: collagen-like region) của tiểu
đơn vị C1q.
1.2.2 Vai trò sinh bệnh học của 3 kháng thể này trong lupus ban đỏ hệ thống
và viêm thận lupus
BN bị viêm thận lupus thường xuất hiện các tự kháng thể chống lại các
kháng nguyên dsDNA, Sm, C1q, nucleosome và các kháng nguyên khác. Kháng thể
anti-dsDNA gắn trực tiếp vào màng đáy cầu thận. Ngoài ra, còn có liên kết chéo của
các thành phần nucleosome tích điện dương như chất nhiễm sắc giữa tự kháng thể
và màng đáy cầu thận [41], [56]. Nucleosome được giải phóng từ các tế bào chết
theo chương trình, đóng vai trò như phân tử cầu nối liên kết heparan sulfate và
thành phần collagen trong nhân của màng đáy cầu thận trong việc gắn các kháng thể
anti-nucleosome vào các kháng nguyên đặc hiệu khác. Các nucleosome này tiết ra
interleukin 1ß, IL6, IL10, TNF-alpha và trình diện các phân tử đồng kích thích
trong đại thực bào và tế bào sao. Vì vậy, kháng thể anti-nucleosome đóng vai trò
then chốt trong nguyên nhân sinh bệnh của lupus, thông qua cơ chế phá vỡ dung
nạp miễn dịch chống lại nucleosome/DNA.
Bổ thể đóng vai trò quan trọng trong duy trì khả năng tự dung nạp bằng cách
loại bỏ các chất sinh ra từ quá trình chết tế bào theo chương trình. Đối với bệnh
SLE, bổ thể đóng vai trò hai mặt. Một mặt, thiếu bổ thể làm tăng khả năng xuất hiện
lupus; mặt khác, hoạt hoá bổ thể lại gây ra phản ứng viêm. Trong SLE, phần lớn các
tự kháng thể chống trực tiếp C1q, thành phần đầu tiên của hệ thống bổ thể và hoạt
hoá con đường cổ điển; các kháng thể này có thể gặp trong một phần ba số BN bị
26
SLE . Các nghiên cứu thực nghiệm trên súc vật cho thấy tiêm tự kháng thể anti-C1q
không gây ra bệnh thận trên lâm sàng (tiểu protein) mặc dù người ta quan sát thấy
có lắng đóng C1q, kháng thể anti-C1q và thâm nhiễm bạch cầu trong cầu thận. Từ
đó đưa ra giả thuyết cần có một mức độ bão hoà nhất định của màng đáy cầu thận
với IgG để gắn kết C1q vào cầu thận và từ đó gắn với kháng thể anti-C1q. Trường
hợp này cũng xảy ra tương tự với kháng thể anti-dsDNA. Vì thế, người ta đưa ra giả
thuyết « cú hích thứ hai », nghĩa là sự hiện diện cùng lúc cả kháng thể anti-C1q và
kháng thể kháng nhân (anti-dsDNA và anti-nucleosome) là điều kiện tiên quyết để
dẫn đến viêm thận lupus toàn phát [55], [117].
Hình 1.8: Mô hình viêm thận lupus toàn phát
Nguồn: Flierman R., Daha M.R. (2007) [55]
(A) Phức hợp miễn dịch chứa nucleosome lắng đóng tại cầu thận. (B) Phức hợp
miễn dịch lắng đóng tại cầu thận liên kết với C1q. (C) Bộc lộ vị trí gắn kết kháng
nguyên mới trong phân tử C1q, đóng vai trò mục tiêu với kháng thể anti-C1q lưu
hành. (D) Hoạt hoá con đường cổ điển của hệ thống bổ thể dẫn đến tổn thương mô
qua trung gian phức hợp tấn công màng và lôi kéo tế bào viêm.
27
Hình 1.9: Mô hình giải thích viêm thận lupus có xảy ra không tuỳ từng BN
Nguồn: Flierman R., Daha M.R. (2007) [55]
(A) BN SLE có kháng thể anti-dsDNA nhưng không có anti-C1q, có thể biểu hiện
viêm thận nhẹ do điều hoà miễn dịch hiệu quả. (B) BN SLE có cả kháng thể anti-
dsDNA và anti-C1q, biểu hiện viêm thận lupus nặng do khuếch đại hoạt hoá bổ thể
qua con đường cổ điển và lôi kéo tế bào viêm. (C) Viêm cầu thận sẽ không xảy ra
nếu chỉ có biểu hiện anti-C1q bởi vì cần các kháng thể kháng lại kháng nguyên
lupus khác để tạo thành lắng đóng phức hợp miễn dịch tại cầu thận hiệu quả, nghĩa
là IgG mục tiêu để C1q đến liên kết. (D) BN SLE hiện diện cả hai kháng thể anti-
dsDNA và anti-C1q nhưng không có biểu hiện bệnh thận, do lượng C1q tại chỗ
không đủ đạt ngưỡng hoạt hoá cầu thận.
28
1.2.3 Các phương pháp phát hiện các kháng thể này
- Anti-dsDNA: thường sử dụng một trong 3 phương pháp gồm phương pháp
miễn dịch huỳnh quang trên tế bào Crithidia luciliae, phương pháp miễn dịch phóng
xạ Farr, phương pháp miễn dịch hấp phụ gắn kết men (ELISA: Enzyme-Linked
Immunosorbent Assay).
- Anti-nucleosome: ELISA
- Anti-C1q: ELISA
1.2.4 Ứng dụng lâm sàng
- Anti-dsDNA: Đây là kháng thể đặc hiệu của SLE, nhất là tổn thương thận,
có thể gặp ở 70-75% BN lupus hoạt động chưa được điều trị. Kháng thể này tăng
cùng với sự hoạt động của bệnh, giảm khi bệnh thuyên giảm hoặc sau điều trị trong
một số nghiên cứu nên thường được dùng để theo dõi viêm thận lupus hoạt động
[18], [19], [29], [46], [93], [149]. Kháng thể anti-dsDNA có thể gặp trong một số
bệnh tự miễn khác như viêm khớp dạng thấp, viêm khớp thiếu niên tự miễn, hội
chứng Sjogren, xơ hoá hệ thống, nhược cơ, viêm gan tự miễn, viêm màng bồ đào,
thoáng qua trong một số bệnh lý nhiễm trùng. Trong các trường hợp này thường
nồng độ kháng thể rất thấp. Kháng thể này rất hiếm gặp ở người bình thường khoẻ
mạnh (<0,1%) [69], [121].
- Anti-nucleosome: kháng thể này có thể phát hiện với độ nhạy cao trong các
cơn bùng phát lupus hơn các chỉ dấu sinh học khác như anti-dsDNA, và có thể phát
hiện rất sớm trong máu bệnh nhân sau khi khởi phát SLE [61], [105], [126]. Ngoài
ra, kháng thể này cũng có thể gặp trong trường hợp lupus do thuốc, viêm gan tự
miễn, xơ hoá hệ thống.
- Anti-C1q: Kháng thể anti-C1q gặp ở 2-8% người bình thường khỏe mạnh,
còn gặp trong các rối loạn miễn dịch như SLE và viêm mạch máu dị ứng mày đay,
viêm khớp dạng thấp, hội chứng Felty, viêm mạch máu dạng thấp, hội chứng
Sjogren, viêm cầu thận tăng sinh màng và bệnh thận IgA [35], [122]. Kháng thể
anti-C1q có liên quan chặt chẽ đến tổn thương thận, một nghiên cứu cho thấy anti-
C1q dương tính ở 74% viêm thận lupus so với 32% SLE không có tổn thương thận
29
[114]. Tăng nồng độ kháng thể anti-C1q thường liên quan đến các dạng tăng sinh
của viêm thận lupus và lắng đóng phức hợp miễn dịch dưới nội mạc. Vì vậy, các
kháng thể này là chỉ dấu sinh học đánh giá độ hoạt động và diễn tiến của bệnh [35],
[42].
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về các kháng thể: anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q trong chẩn đoán và theo dõi viêm thận lupus
1.3.1 Tình hình các nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới
1.3.1.1 Kháng thể anti-dsDNA
Kháng thể kháng chuỗi xoắn kép DNA từ hơn 60 năm qua được xem như
một chất đánh dấu hoạt động của bệnh lupus, đặc biệt là tình trạng tổn thương thận,
nhưng ít nhạy hơn kháng thể ANA, có thể gặp ở 60%-75% BN lupus dạng hoạt
động chưa được điều trị [84], [152]. Kháng thể này tương quan với hoạt động của
bệnh tính bằng chỉ số SLEDAI trong nhiều nghiên cứu [84], [102]. Nồng độ kháng
thể này tăng cao ở những BN SLE có tổn thương thận và thường liên quan đến độ
hoạt động của bệnh [35], [61], [64], [93], [150]. Tuy nhiên, kết quả giữa các nghiên
cứu còn chưa thống nhất [74], [79], [148]. Tác giả Ho A. [74] so sánh nồng độ
kháng thể anti-dsDNA với chỉ số hoạt động BILAG và SLEDAI, lại thấy một điều
nghịch lý là nồng độ kháng thể này giảm khá thấp khi bệnh nhân bị đợt bùng phát
nặng. Nghiên cứu của tác giả Villegas-Zambrano N. [148] công bố năm 2009 với
thiết kế đoàn hệ tiến cứu trên 194 bệnh nhân, theo dõi trong 8 năm cho thấy mối
tương quan kém giữa độ hoạt động của bệnh, nồng độ tự kháng thể và nồng độ bổ
thể C3, C4 trong máu. Kháng thể anti-dsDNA đóng vai trò then chốt trong sinh
bệnh học viêm thận lupus, có thể làm rách màng lọc cầu thận, thâm nhiễm tế bào
miễn dịch, tăng sinh tế bào, xơ hoá cầu thận, xơ hoá ống thận mô kẽ [150]. Tự
kháng thể chống dsDNA là một chỉ dấu huyết thanh quan trọng trong chẩn đoán
SLE, được tiêu chuẩn ACR 1997 [75], SLICC 2012 [118], và EULAR/ACR 2019
[19] công nhận.
30
1.3.1.2 Kháng thể anti-nucleosome
Kháng thể chống lại nucleosome lần đầu tiên được mô tả liên quan đến SLE
vào năm 1957. Vào thời điểm đó, kháng thể này được gọi là “LE cell factor”. Đến
năm 1986, Harden đề nghị nucleosome có thể là kháng nguyên mục tiêu quan trọng
với ANA của SLE. Nhưng chỉ đến năm 1995, nucleosome mới được mô tả như một
tự kháng nguyên trong bệnh tự miễn.
Kiss E. và cộng sự nghiên cứu cắt ngang trên 107 BN SLE tại Hungary,
trong đó có 35 BN viêm thận lupus được sinh thiết thận cho thấy kháng thể anti-
nucleosome có tỉ lệ dương tính ở BN viêm thận lupus là 62,8% so với anti-dsDNA
là 37,1%, tương quan với độ hoạt động tính bằng chỉ số SLEDAI [90]. Từ đó, tác
giả đã chứng minh vai trò sinh bệnh học của kháng thể này trong viêm thận lupus và
cũng đưa ra khuyến cáo nên thực hiện xét nghiệm này cùng với kháng thể anti-
dsDNA truyền thống trong chẩn đoán và theo dõi viêm thận lupus. Khác với nghiên
cứu trên, Prahan V.D. tiến hành cắt ngang trên 100 BN SLE hoạt động (trong đó có
44 BN viêm thận lupus và 56 BN không có tổn thương thận) tại Ấn Độ năm 2010,
cho thấy mặc dù anti-nucleosome có tỉ lệ dương tính rất cao lên đến 86,4% trong
viêm thận và liên quan đến độ hoạt động nhưng không có sự khác biệt giữa nhóm
có và không có tổn thương thận [120]. Hung W.T. [77] đánh giá kháng thể anti-
nucleosome trên 36 BN viêm thận lupus tăng sinh người Đài Loan năm 2011, cho
kết quả dương tính khá cao lên đến 90%, và đặc biệt kháng thể này liên quan đến
viêm thận hoạt động tính bằng chỉ số BILAG, và chỉ số AI theo NIH trên mô bệnh
học. Tuy nhiên, nghiên cứu này có nhược điểm là mẫu nhỏ, nghiên cứu cắt ngang
và thông tin về khoảng thời gian bị bệnh không đầy đủ. Yang J. và cộng sự [152] đã
hồi cứu trên 1699 BN SLE (921 có tổn thương thận, 221 BN được sinh thiết thận)
tại vùng Đông Bắc Trung Quốc từ năm 2002-2013 cho thấy kháng thể anti-
nucleosome dương tính trong 59,8% viêm thận lupus so với anti-dsDNA là 63,3%,
liên quan trực tiếp với viêm thận lupus nhóm IV, tương quan chỉ số AI theo NIH.
Ông cũng nhận xét rằng nồng độ kháng thể này giảm xuống khá thấp trong những
giai đoạn hồi phục.
31
1.3.1.3 Kháng thể anti-C1q
Nhiều nghiên cứu cho thấy kháng thể anti-C1q xuất hiện song hành với độ
nặng của viêm thận lupus [18], [35], [106], [122]. Marto N. [100] và cộng sự nghiên
cứu trên 151 BN SLE hoạt động (77 BN viêm thận lupus được sinh thiết thận) tại
Anh Quốc cho thấy kháng thể anti-C1q dương tính ở 74% BN viêm thận hoạt động
với BILAG ở mức “A” hoặc “B” so với 32% ở người không có tổn thương thận với
nguy cơ tương đối là 2,3 (95% khoảng tin cậy 1,6 đến 3,3; p<0,0001). Tác giả đã
đưa ra kết luận kháng thể anti-C1q liên quan với tổn thương thận và có thể theo dõi
hoạt độ ở BN SLE để tiên đoán cơn bùng phát thận. Các nghiên cứu cắt ngang thực
hiện tại Trung Quốc cho kết quả tương tự nhau như nghiên cứu của Tan Y. thực
hiện năm 2009 [141] trên 83 BN viêm thận, Fang Q.Y. [51] thực hiện năm 2009
trên 150 BN viêm thận (82 BN thuộc nhóm IV), Cai X. [33] trên 73 BN viêm thận
năm 2010, Yang X.W. năm 2012 [153] trên 136 BN viêm thận, Tan Y. và cộng sự
năm 2013 [140] trên 218 BN được chứng minh bằng sinh thiết thận có kết quả tỉ lệ
dương tính của kháng thể này là 42,7% đến 79,5%, đều tương quan với độ hoạt
động trên lâm sàng tính bằng chỉ số SLEDAI, ECLAM và liên quan chặt chẽ với
hoạt động trên mô bệnh học bằng chỉ số AI theo NIH. Đặc biệt, Moroni G. và cộng
sự [108] đã trả lời câu hỏi liệu các xét nghiệm cận lâm sàng như nồng độ bổ thể C3,
C4 trong máu, kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q có hữu ích trong theo dõi hoạt
động của viêm thận lupus hay không, qua theo dõi đoàn hệ tiến cứu 6 năm trên 228
BN viêm thận lupus với 1523 lượt đánh giá tại Ý. Kết quả cho thấy anti-C1q hơi tốt
hơn các xét nghiệm khác trong xác định viêm thận lupus hoạt động, nhất là trong
các trường hợp viêm thận lupus tăng sinh và không có hội chứng kháng
phospholipid đi kèm. Tất cả 4 xét nghiệm này có giá trị tiên đoán âm tốt, có nghĩa là
nếu các giá trị này đều trong ngưỡng bình thường thì viêm thận lupus hoạt động rất
khó xảy ra.
1.3.1.4 Nghiên cứu cả 3 loại kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
Xuất phát từ kết quả riêng lẻ của các nghiên cứu trên, một số tác giả nghiên
cứu cả 3 loại kháng thể, so sánh độ nhạy, độ đặc hiệu của các kháng thể này hoặc tổ
32
hợp 2 hoặc 3 kháng thể để biện luận chẩn đoán. Braun A. và cộng sự [30] nghiên
cứu cắt ngang trên 78 BN SLE (47 có tổn thương thận) năm 2007 tại Đức và theo
dõi đoàn hệ 33 BN cho thấy kháng thể anti-nucleosome có độ nhạy và độ đặc hiệu
cao nhất trong chẩn đoán SLE và có ý nghĩa đối với những trường hợp có anti-
dsDNA âm tính. Đồng hương của Ông, Grootscholten C. năm 2007 [67] tiến hành
nghiên cứu cắt ngang trên 52 BN viêm thận lupus, đo lường các kháng thể lúc vào
nghiên cứu, sau đó điều trị và theo dõi một đoàn hệ tiến cứu có kết quả kháng thể
anti-nucleosome và anti-C1q có giá trị chẩn đoán viêm thận lupus nhưng không có
giá trị theo dõi bệnh. Tại Brazil, nghiên cứu cắt ngang của Moura C.G. và cộng sự
thực hiện năm 2009 [110] trên 81 BN viêm thận lupus có sinh thiết thận cho thấy
kháng thể anti-C1q dương tính 59%, kháng thể anti-nucleosome 53% viêm thận
lupus hoạt động và đều tương quan với lượng protein niệu và chỉ số SLEDAI.
Moroni G. một lần nữa năm 2015 tại Ý [107] nghiên cứu giá trị của các tự kháng
thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận và theo dõi
sau điều trị 6-12 tháng cho thấy anti-C1q riêng lẻ hoặc kết hợp với anti-dsDNA có
khả năng phân biệt viêm thận lupus tăng sinh hay không tăng sinh trên mô bệnh
học, tương quan chặt chẽ với chỉ số AI theo NIH và có thể dùng để theo dõi đáp ứng
điều trị.
1.3.2 Tình hình các nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam
Năm 1988, Đỗ Kháng Chiến [1] đã nghiên cứu đề tài về “Những bước đầu
nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và miễn dịch trong viêm cầu thận lupus” đã
nêu lên mối liên quan giữa một số xét nghiệm tự kháng thể với lâm sàng và giải
phẫu bệnh. Về miễn dịch học, Đỗ Kháng Chiến đã mô tả các giá trị ANA, nồng độ
bổ thể, nồng độ phức hợp miễn dịch, và định lượng các globulin miễn dịch trong
máu. Năm 1991, Nguyễn Quốc Tuấn và cộng sự [10] đã nghiên cứu về các kháng
thể kháng chuỗi xoắn kép DNA và các thành phần kháng nguyên khác và mối liên
hệ lâm sàng ở BN lupus ban đỏ hệ thống. Trong đề tài này, các tác giả đã nghiên
cứu trên 64 BN SLE nhập khoa miễn dịch dị ứng Bệnh viện Bạch Mai, nêu ra được
tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính là 64%, tỉ lệ ANA là 70% và các kháng thể
33
khác như anti-RNP 18%, anti-Sm 15%, anti-SSb 15%, anti-SSa 33%. Tuy nhiên,
Ông chỉ nêu mối liên quan với các triệu chứng như protein niệu, chức năng thận mà
không có so sánh với giải phẫu bệnh hoặc các chỉ số hoạt động có giá trị, được công
nhận trên thế giới. Trần Văn Vũ [11] năm 2006 đã xem xét mối liên quan giữa lâm
sàng, giải phẫu bệnh và các xét nghiệm miễn dịch học như ANA, tế bào LE (Lupus
Erythematosus), nồng độ bổ thể. Những xét nghiệm này có độ nhạy cao nhưng độ
đặc hiệu thấp nên chưa thấy được mối liên quan cũng như chưa đánh giá được độ
hoạt động của bệnh.
Đặng Thu Hương và Nguyễn Tất Thắng [6] đã thực hiện nghiên cứu bệnh
chứng trên 77 BN bị SLE được chẩn đoán theo tiêu chuẩn ACR đến khám tại Bệnh
viện Da Liễu TPHCM, và 68 người khỏe mạnh tương ứng trong thời gian từ tháng
09 năm 2011 đến hết tháng 05 năm 2012. Tuy nhiên, nghiên cứu này không nêu rõ
BN bị tổn thương cơ quan nào và có tổn thương thận hay không. BN SLE được
đánh giá độ hoạt động theo tiêu chuẩn SLEDAI. Kết quả cho thấy tỉ lệ kháng thể
anti-nucleosome dương tính là 90%, anti-ds DNA dương tính là 84,4%, ANA
dương tính là 74% trong nhóm bệnh. Nhóm chứng gồm 68 người khỏe mạnh đều có
kháng thể anti-nucleosome và anti-dsDNA âm tính, riêng ANA dương tính trong
1,5% trường hợp. Giá trị kháng thể anti-nucleosome có mối tương quan thuận với
thang điểm SLEDAI. Kháng thể anti-nucleosome có độ nhạy 90,9%, độ đặc hiệu
100% cao hơn so với anti-dsDNA có độ nhạy 85,7%, độ đặc hiệu 97,1% và ANA
có độ nhạy 77,9%, độ đặc hiệu 85% trong chẩn đoán SLE. Nghiên cứu này có
nhược điểm là nghiên cứu bệnh chứng nên có độ mạnh không cao, số lượng BN ít,
không rõ BN tổn thương cơ quan nào, chỉ cắt ngang tại một thời điểm mà không có
theo dõi dọc.
1.3.3 Nhận xét các nghiên cứu trong và ngoài nước
Phần lớn các nghiên cứu được thực hiện trên dân số bệnh SLE nói chung,
viêm thận lupus chỉ chiếm phần nhỏ, và chủ yếu chẩn đoán dựa trên lâm sàng, rất ít
nghiên cứu có sinh thiết thận. Chỉ có khoảng trên dưới 10 nghiên cứu trên bệnh
nhân viêm thận lupus hoạt động [13], [24], [33], [50], [51], [67], [77], [99], [101],
34
[106], [108], [110], [132], [140], [141], [144]. Các nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ,
thường dưới 100 BN, chỉ có nghiên cứu của Katsumata Y. [86], Birmingham D.J.
[26], Fang Q.Y. [51], Moroni G. [108], Tan Y. [140], Mok C.C. [105], Bruns A.
[31], Cervera R. [36], Ng K.P. [113], Su Y. [139], Duzgun N. [47], Kiss E. [90],
Souza A. [133], Prahan V.D. [120], Biesen R. [23] có số lượng BN trên 100 ca. Tuy
nhiên, trong các nghiên cứu này số lượng BN viêm thận lupus không nhiều. Phần
lớn các nghiên cứu được thiết kế cắt ngang, bệnh chứng hoặc hồi cứu, là các kiểu
thiết kế có giá trị tin cậy không cao. Chỉ có nghiên cứu của Katsumata Y. năm 2011
[86] thiết kế theo phương pháp bệnh chứng, kèm theo dõi dọc; Matrat A. năm 2011
[101] thực hiện phương pháp đoàn hệ hồi cứu; Braun A. năm 2007 [30], Biesen R.
năm 2011 [23], Manson J. năm 2009 [98], Grootscholten C. năm 2007 [67], thực
hiện đoàn hệ tiến cứu. Đặc biệt, nghiên cứu của Moroni G. năm 2009, Gutierrez-
Adrianzen O.A. năm 2006 [68], [108] có thiết kế nghiên cứu rất tốt với số bệnh
nhân lớn hơn 100 nên kết quả có độ tin cậy cao. Phần lớn các nghiên cứu dùng kết
quả các kháng thể kể trên giúp chẩn đoán SLE hoạt động hay không giữa hai nhóm
có tổn thương thận và không tổn thương thận, một số nhỏ dùng xét nghiệm này để
chẩn đoán viêm thận lupus có hoạt động hay không. Phần lớn các nghiên cứu sử
dụng phương pháp ELISA để thực hiện định lượng 3 kháng thể này. Các nghiên cứu
chẩn đoán SLE theo tiêu chuẩn ACR, chỉ có Orbai A.M. năm 2015 [115] theo tiêu
chuẩn SLICC bởi vì tiêu chuẩn SLICC chỉ mới ra đời từ năm 2012. Để đánh giá độ
hoạt động, đa số các nghiên cứu dựa trên bảng chấm điểm SLEDAI hoặc ECLAM.
Có một số nghiên cứu dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng để đánh giá độ hoạt động như
protein niệu, cặn lắng nước tiểu dạng hoạt động, tăng creatinine huyết thanh [67],
[108], [132], [144]. Chỉ một vài nghiên cứu dựa trên mô bệnh học (chỉ số hoạt động
AI, mạn tính CI theo NIH, kiểu tổn thương theo ISN/RPS 2004) [33], [50], [106],
[140], hoặc chỉ số BILAG đánh giá trên từng cơ quan [77], [136].
Kết quả đạt được không thống nhất hoàn toàn giữa các nghiên cứu. Phân tích
gộp của Yin Y. và Eggleton P. [48], [155] cho thấy kháng thể anti-C1q có độ nhạy
trung bình 74%, độ chuyên trung bình 77% khi dùng để chẩn đoán viêm thận lupus
35
hoạt động. Kháng thể anti-C1q không những tương quan với chỉ số hoạt động toàn
bộ mà còn có khuynh hướng giảm nồng độ sau điều trị hiệu quả [28]. Kháng thể
anti-nucleosome có độ nhạy 70-100% trong chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động,
cao hơn so với kháng thể anti-dsDNA trong phần lớn các nghiên cứu. Cả 3 chỉ số
này phần lớn liên quan đến độ hoạt động của bệnh và có thể dùng để theo dõi độ
hoạt động theo diễn tiến thời gian cũng như kết quả điều trị. Kháng thể anti-
nucleosome có ý nghĩa đối với trường hợp anti-dsDNA âm tính. Kháng thể anti-C1q
đặc hiệu hơn anti-dsDNA trong đánh giá viêm thận lupus hoạt động. Nếu cả hai xét
nghiệm này âm tính, sẽ có giá trị tiên đoán âm cao cho tổn thương thận. Tuy nhiên,
vẫn có những kết quả mâu thuẫn với các kết quả nêu trên. Chẳng hạn như nghiên
cứu của Ho A, Villegas-Zambrano N. cho thấy nồng độ kháng thể sụt giảm khi xuất
hiện đợt bùng phát của bệnh [73], [74], [148], kháng thể anti-nucleosome và anti-
C1q không giúp phân biệt lupus có tổn thương thận hay không [24], [86], [120],
[124], [158]. Một bài báo phân tích hệ thống các y văn của cơ sở dữ liệu MEDLINE
và EMBASE cho đến năm 2015 của Gensous N. và Marti A. từ 4668 dữ liệu trong
đó có 69 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn chọn lựa cho thấy kháng thể anti-dsDNA, anti-
C1q, bổ thể C3, C4 là những chỉ dấu sinh học có nhiều hứa hẹn trong việc tiên đoán
đợt bùng phát lupus, đặc biệt là viêm thận lupus. Tuy nhiên, kết quả phân tích này
cũng không thấy chỉ dấu sinh học nào được xem là nổi trội so với các chỉ dấu khác
[60].
Vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu này để thẩm định xem các
kháng thể mới chưa được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam có ý nghĩa như thế nào
trong chẩn đoán và theo dõi viêm thận lupus, một bệnh có tần suất mắc bệnh tại
Việt Nam cao so với thế giới và có tỉ lệ tử vong, tỉ lệ bệnh phối hợp cũng như nguy
cơ diễn tiến đến suy thận giai đoạn cuối cao. Để tăng tính tin cậy của kết quả đạt
được, chúng tôi chọn sinh thiết thận là tiêu chuẩn vàng, kết hợp với đánh giá các
tiêu chuẩn lâm sàng, bảng kiểm SLEDAI-2K, BILAG 2004. Ngoài ra, để khảo sát
sâu hơn về giá trị của các kháng thể trong theo dõi bệnh, chúng tôi khảo sát lại các
trường hợp này sau 6 tháng điều trị với các phác đồ chuẩn.
36
CHƯƠNG 2:
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, có thiết kế cắt ngang tại 2 thời điểm: lúc ban đầu và sau
6 tháng điều trị.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Dân số chọn mẫu:
Các bệnh nhân viêm thận lupus đến khám và điều trị tại 3 bệnh viện: Phòng
khám Nội Thận và Khoa Nội Thận – Thận nhân tạo Bệnh viện Đại học Y Dược
TPHCM, Phòng khám Nội tiết – Thận và Khoa Nội tiết – Thận Bệnh viện Nhân
Dân Gia Định, Phòng khám Nội Thận và Khoa Nội Thận Bệnh viện Chợ Rẫy, thỏa
tiêu chuẩn chọn mẫu, được giải thích và mời tham gia nghiên cứu.
2.1.2 Phương pháp chọn mẫu
Người bệnh đủ tiêu chuẩn thu nhận và không có tiêu chuẩn loại trừ, đồng ý
tham gia nghiên cứu và ký giấy chấp thuận tham gia, được chọn vào nghiên cứu cho
đến khi đủ cỡ mẫu cần thiết.
2.1.2.1 Tiêu chuẩn thu nhận
+ Từ 16 tuổi trở lên
+ Đã được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Thấp học
Hoa Kỳ (ACR) [75]
+ Viêm thận lupus hoạt động [22], [66], [135]
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Đồng ý sinh thiết thận
Tiêu chuẩn vàng của chẩn đoán:
Viêm thận lupus hoạt động: khi xuất hiện protein niệu > 0,5-1 g/ngày (24 giờ)
hoặc tỉ lệ protein/creatinine niệu (Protein Creatinine Ratio, uPCR) >50 mg/mmol
mới xuất hiện hoặc sau khi đạt thuyên giảm hoàn toàn, hoặc gấp đôi lượng protein
niệu nếu trước đó lớn hơn 1g/ngày (24 giờ); hoặc cặn lắng nước tiểu hoạt động (tiểu
máu có hoặc không có kèm theo trụ niệu như trụ hồng cầu, trụ hemoglobin, trụ hạt,
37
trụ ống thận hoặc phối hợp) kèm tăng creatinine huyết thanh ≥25% so với giá trị
nền [22], [66], [134].
Tiểu máu khi hồng cầu >50/µl trên que nhúng nước tiểu hoặc > 5 /quang trường 40
khi soi cặn lắng, hoặc >5000 /phút khi làm cặn Addis [7], [66].
Viêm thận lupus không hoạt động: khi protein niệu <0,5 g/24 giờ hoặc tỉ lệ
protein/creatinine niệu < 50 mg/mmol, chức năng thận bình thường hay gần bình
thường (sai lệch <10% giá trị bình thường trước đó nếu bất thường), cặn lắng nước
tiểu không hoạt động (≤5 hồng cầu/quang trường 40, không có trụ tế bào) [9], [22],
[53], [66], [87], [108].
Các kiểu đáp ứng trên lâm sàng:
(1) Thuyên giảm hoàn toàn (Complete Remission) hay còn gọi là viêm thận
lupus không hoạt động: khi protein niệu < 0,5 g/24 giờ hoặc tỉ lệ
protein/creatinine niệu < 50 mg/mmol, chức năng thận bình thường hay gần
bình thường (sai lệch 10% giá trị bình thường trước đó nếu bất thường), cặn
lắng nước tiểu không hoạt động (≤5 hồng cầu/quang trường 40, không có trụ
tế bào) [9], [22], [52], [53], [66], [87], [108].
(2) Thuyên giảm một phần: đối với cơn bùng phát kiểu tiểu protein, đòi hỏi cải
thiện >50% lượng protein niệu hoặc tiểu protein dưới ngưỡng thận hư (0,5-3
g/24 giờ), đối với cơn bùng phát kiểu viêm thận, cải thiện ít nhất 25% chỉ số
creatinine huyết thanh [9], [22], [52], [53], [66], [87], [108].
(3) Không thuyên giảm (không đáp ứng): không đạt được các tiêu chuẩn trên
[9], [22], [52], [53], [66], [87], [108].
2.1.2.2 Tiêu chuẩn loại trừ
+ Phụ nữ có thai
+ Có tổn thương cầu thận khác đi kèm không phải do bệnh lupus: Đái tháo đường,
hậu nhiễm, do thuốc, di truyền, ung thư
+ Đang có tình trạng nhiễm khuẩn cấp hoặc mạn
+ Có chống chỉ định sinh thiết thận, như rối loạn đông máu nặng, tăng huyết áp
chưa được kiểm soát, viêm thận hoặc viêm quanh thận hoạt động, nhiễm khuẩn da
38
tại vị trí sinh thiết, bệnh nhân không hợp tác, các dị dạng cấu trúc thận có thể có
nguy cơ khi sinh thiết, thận teo nhỏ, thận độc nhất
+ Viêm gan mạn, xơ gan
+ Bệnh nặng, tiên lượng tử vong: suy hô hấp nặng, suy tim nặng, choáng nhiễm
khuẩn, nhiễm độc
+ Suy thận mạn giai đoạn cuối
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trong 5 năm từ tháng 4 năm 2014 đến tháng
03 năm 2019, tại Phòng khám và Khoa Nội tiết – Thận Bệnh viện Nhân Dân Gia
Định (tháng 04/2014 – 05/2015), Phòng khám và Khoa Nội Thận Bệnh viện Chợ
Rẫy (09/2014 – 09/2016), Phòng khám và Khoa Nội Thận – Thận nhân tạo Bệnh
viện Đại học Y Dược TPHCM (04/2014 – 03/2019).
2.4. Cỡ mẫu của nghiên cứu
Để khảo sát tần suất các xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome,
anti-C1q dương tính ở bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động, nghiên cứu này áp
dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu ước lượng một tỷ lệ trong dân số, đó là:
(1- /2) x p x (1 – p)]/d2
n = [z2
Trong đó, z =1,96 với độ tin cậy 95%, p: là tần suất xét nghiệm dương tính ở
bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động, d là sai số biên. Theo y văn, tần suất dương
tính ở bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động của 3 xét nghiệm này dao động rất
nhiều, nhưng phần lớn các nghiên cứu cho thấy có tỉ lệ trung bình từ 60-80% [30],
[42], [48], [61], [67], [72], [107], [152], [155], do đó chúng tôi chọn p là 70% và sai
số biên d là 10%. Do đó, cỡ mẫu sẽ là:
n = [(1,96)2 x 0,7 x 0,3] / (0,1)2 = 81
Như vậy, ban đầu chúng tôi sẽ chọn ít nhất 81 bệnh nhân viêm thận lupus
hoạt động đủ tiêu chuẩn thu nhận và không có tiêu chuẩn loại ra.
Do tỉ lệ mất mẫu ước tính là 10-20%, chúng tôi sẽ thu nhận ít nhất 100 bệnh
nhân vào nghiên cứu ban đầu, khảo sát các đặc điểm ban đầu cũng như tính nồng độ
kháng thể. Sau đó, để xem xét các nồng độ kháng thể thay đổi như thế nào tương
39
ứng với tiêu chuẩn lâm sàng, chúng tôi chọn thời điểm theo dõi sau 6 tháng điều trị.
Như vậy, mỗi bệnh nhân có 2 lần thăm khám:
1. Lần 1 là lúc nhận vào
2. Lần 2 là sau 6 tháng
2.5. Quy trình thực hiện nghiên cứu
Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn thu nhận, không có tiêu chuẩn loại trừ và đồng ý
tham gia nghiên cứu sẽ được giải thích, ký giấy chấp thuận tham gia nghiên cứu.
Vào thời điểm nhận vào nghiên cứu (T1), nghiên cứu viên thực hiện hỏi bệnh
sử, thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm cơ bản và xét nghiệm miễn dịch học
(thời điểm lấy máu ngay trước lúc sinh thiết thận) theo sơ đồ dưới đây, ghi nhận các
thông số theo bảng thu thập số liệu (pphụ lục 1).
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ mô tả nghiên cứu
❖ Sinh thiết thận qua da bằng súng tự động dưới hướng dẫn của siêu âm
Các trường hợp sinh thiết thận do chính tác giả thực hiện dưới hướng dẫn siêu
âm, bằng súng tự động (Biopsy Gun) với kim sinh thiết đường kính 16 G.
Mẫu mô thận được cố định bằng dung dịch Formol 10%, gửi ngay đến phòng
xét nghiệm Giải phẫu bệnh. Tất cả các mẫu mô đều do ThS BS Trần Hiệp Đức
Thắng, Khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định đọc kết quả. Mỗi mẫu
mô thận được xem dưới kính hiển vi quang học nhờ các phép nhuộm HE, PAS, Tri-
Chrome, Bạc và xem dưới kính miễn dịch huỳnh quang với các kháng thể IgA,
40
IgM, IgG, C3a, C1q, Fibrin, Kappa, Lambda và nhuộm chứng âm với albumin. Mẫu
sinh thiết thận được xem là có ý nghĩa khi có số cầu thận lớn hơn hoặc bằng 10. Các
kết quả được xếp loại theo phân loại ISN/RPS 2004 (International Society of
Nephrology/Renal Pathology Society) [151], sau đó được tính chỉ số hoạt động trên
mô bệnh học theo NIH [20] (National Institute of Health) (xem phần các định nghĩa
sử dụng trong nghiên cứu).
❖ Điều trị ban đầu và theo dõi bệnh nhân
Các bệnh nhân được điều trị theo phác đồ của Hội Thận học thế giới [87] tùy
theo kết quả giải phẫu bệnh và tình trạng lâm sàng với 6 tháng dẫn nhập bằng
corticosteroid, mycophenolate mofetil và hydroxychloroquine [52], [122], [128].
Tất cả các trường hợp đều được điều trị với hydroxychloroquine liều không quá 5
mg/kg/ngày. Đối với viêm thận lupus nhóm I hoặc nhóm II có tiểu protein ngưỡng
thận hư, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng prednisone liều 1 mg/kg/ngày trong 2-3
tháng, sau đó giảm liều dần. Đối với viêm thận lupus nhóm III hoặc nhóm IV, có
thể đi kèm nhóm V hoặc không, bệnh nhân sẽ được kết hợp corticosteroid với liều
tương đương prednisone 1 mg/kg/ngày và mycophenolate mofetil 1-2 g/ngày. Đối
với viêm thận lupus nhóm V đơn thuần có tiểu protein ngưỡng thận hư, bệnh nhân
được dùng corticosteroid tương đương liều prednisone 1 mg/kg/ngày kết hợp
mycophenolate mofetil 1-2 g/ngày. Một số trường hợp nặng có kèm suy thận tiến
triển nhanh có thể truyền tĩnh mạch liều cao methylprednisolone (liều 500mg/ngày
trong 3 ngày, hoặc thay huyết tương từ 5-7 lần kết hợp truyền huyết tương hoặc
truyền rituximab nếu bệnh nhân không đáp ứng các thuốc ức chế miễn dịch cơ bản
(375 mg/m2 da mỗi tuần một lần trong 4 tuần) [52], [53], [87], [91], [122], [128].
Sau 6 tháng dẫn nhập, BN được điều trị duy trì bằng cách giảm liều dần
corticosteroid xuống liều thấp nhất có hiệu quả tương đương prednisone 2,5-5
mg/ngày, kết hợp ức chế miễn dịch mycophenolate mofetil 0,5-1 g/ngày và
hydroxychloroquine 200 mg/ngày [53], [87], [91].
Trong quá trình điều trị, BN được thăm khám theo dõi tình trạng lâm sàng và
các xét nghiệm đánh giá chức năng thận, albumin huyết thanh, lượng protein niệu,
41
hồng cầu niệu, cặn lắng nước tiểu, các tác dụng phụ của thuốc hàng tháng [53],
[87], [91]. Các xét nghiệm này được thực hiện ngay lúc lấy máu ngay tại nơi BN
đến khám: Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học
Y Dược TPHCM. Các khoa xét nghiệm của 3 bệnh viện này đều thực hiện nội kiểm
100% cho tất cả các xét nghiệm, tham gia các chương trình ngoại kiểm trong và
ngoài nước. Cả 3 bệnh viện đều có khoa xét nghiệm đều duy trì hệ thống quản lý
chất lượng toàn diện theo các tiêu chuẩn quốc tế ISO 15189: 2012. Sau 6 tháng
(thời gian dùng phác đồ dẫn nhập), ngoài việc đánh giá lâm sàng và các xét nghiệm
theo dõi hàng tháng kể trên, bệnh nhân còn được đánh giá lại tiêu chuẩn vàng để
chẩn đoán lupus hoạt động dựa vào sinh hóa, kèm theo 2 nhóm: Bảng kiểm (BILAG
thận 2004 và SLEDAI-2K) và xét nghiệm miễn dịch (anti-dsDNA, anti-
nnucleosome, anti-C1q). Các xét nghiệm miễn dịch này đều được chiết xuất huyết
thanh, sau đó gửi đến thực hiện phân tích định lượng nồng độ kháng thể tại Trung
tâm Chẩn đoán Y khoa MEDIC, hoặc trữ đông ở nhiệt độ âm 800C để phân tích sau.
Các kết quả phân tích trong nghiên cứu được ghi nhận ở hai thời điểm sau:
T1: Thời điểm nhận vào nghiên cứu
T2: Sau T1 6 tháng ± 1 tháng
2.6. Định nghĩa các biến số
Các biến số độc lập và phụ thuộc được trình bày trong bảng 2.1, 2.2
Bảng 2.1: Các biến số về dân số học và lâm sàng sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên biến số Loại biến số Định nghĩa
1 Giới tính Định danh Nam, nữ
2 Tuổi Định lượng Số năm dương lịch, tính ở thời
điểm bệnh nhân được thu nhận
vào nghiên cứu
3 Thời gian mắc SLE Định lượng Số tháng dương lịch tính từ thời
trước khi vào nghiên điểm bệnh nhân được chẩn đoán
cứu SLE cho đến khi được thu nhận
vào nghiên cứu
42
4 BN lần đầu hay đã Định danh Lần đầu được chẩn đoán và điều
được chẩn đoán và trị SLE hoặc đã được chẩn đoán
điều trị SLE và điều trị SLE
5 Thời gian mắc viêm Định lượng Số tháng dương lịch tính từ thời
thận lupus điểm bệnh nhân được chẩn đoán
viêm thận lupus cho đến khi được
thu nhận vào nghiên cứu
6 BN lần đầu hay đã Định danh Lần đầu được chẩn đoán và điều
được chẩn đoán và trị viêm thận lupus hoặc đã được
điều trị viêm thận chẩn đoán và điều trị viêm thận
lupus lupus
7 Tổn thương da niêm Định danh Phát ban da mới (phát ban dạng
viêm mới xuất hiện hoặc tái phát)
Rụng tóc từng mảng hoặc lan tỏa,
mới xuất hiện hoặc tái phát
Loét niêm mạc miệng hoặc niêm
mạc mũi mới xuất hiện hoặc tái
phát
Sang thương da nhạy cảm ánh
sáng [75], [145]
Co giật – không do nguyên nhân 8 Tổn thương tâm thần Định danh
rối loạn chuyển hoá như hội kinh
chứng ure huyết cao, nhiễm
ceton-acid, rối loạn điện giải,
không do thuốc; HOẶC
Rối loạn tâm thần – không do
thuốc, không do rối loạn chuyển
hoá như hội chứng ure huyết cao,
nhiễm ceton-acid, rối loạn điện
giải [75], [145]
43
9 Tổn thương cơ xương Định danh Viêm khớp (ít nhất 2 khớp đau
khớp kèm dấu hiệu viêm tại chỗ)
Viêm cơ (đau, yếu gốc cơ kèm
tăng creatine kinase hoặc
aldolase và những thay đổi trên
điện cơ hoặc sinh thiết cho thấy
dấu hiệu viêm cơ) [75], [145]
10 Tổn thương tim, phổi Định danh Viêm cơ tim, suy tim, viêm nội
tâm mạc không do nhiễm khuẩn,
rối loạn nhịp, rối loạn chức năng
van tim mới xảy ra, viêm màng
ngoài tim, viêm màng phổi, chèn
ép tim, xuất huyết phổi, viêm
mạch máu phổi, viêm phổi mô
kẽ, hội chứng co phổi, viêm động
mạch chủ, viêm động mạch vành
[75], [145]
11 Tổn thương hệ tiêu hóa Định danh Viêm phúc mạc do lupus, viêm
ruột, viêm đại tràng, viêm mạch
máu mạc treo, hội chứng bán tắc
ruột, viêm gan, viêm túi mật,
viêm tuỵ do lupus [75], [145]
12 Tổn thương mắt Định danh Viêm ổ mắt, viêm giác mạc, viêm
mống mắt, tổn thương võng mạc
do lupus, viêm thần kinh thị [75],
[145]
13 Tổn thương hệ huyết Định danh Thiếu máu tán huyết, HOẶC
Giảm tiểu cầu <100000/mm3 học
không phải do thuốc, HOẶC
44
Giảm bạch cầu <4000/mm3 ít
nhất hai lần xét nghiệm, HOẶC
Giảm bạch cầu
lympho<1500/mm3 ít nhất hai lần
xét nghiệm [75], [145]
(tất cả các trường hợp này phải
loại trừ nhiễm trùng hoặc các
nguyên nhân khác)
14 Viêm thanh mạc Định danh Viêm màng phổi
Viêm màng ngoài tim [75], [145]
15 Viêm mạch máu lupus Định danh Có hay không các triệu chứng
sau: loét, hoại thư, nốt mềm, đau
ở đầu ngón, nhồi máu quanh
móng, xuất huyết dưới móng,
bằng chứng viêm mạch máu qua
giải phẫu bệnh hoặc chụp mạch
máu [145]
16 Số cơ quan bị tổn Định lượng Số cơ quan bị tổn thương tại thời
thương điểm nhận vào nghiên cứu
17 Thuốc dùng đến thời Định lượng Liều dùng tại thời điểm nghiên
cứu (mg) điểm nghiên cứu:
steroid
mycophenolate mofetil
cyclophosphamide
hydroxychloroquine
azathioprine
45
Bảng 2.2: Các biến số về cận lâm sàng sử dụng trong nghiên cứu
STT Tên biến số Loại biến số Kỹ thuật tiến hành Định nghĩa
1 Nồng độ Định lượng BVNDGĐ: phương Nồng độ creatinine
creatinine pháp Jaffe, máy máu tại thời điểm T1
máu (mg/dl) AU5800. và T2.
BV Chợ Rẫy:
phương pháp Jaffe,
máy Mindray BS
800, RX IMOLA.
BVĐHYD: phương
pháp đo màu động
học, máy AU5800,
Beckman Coulter.
2 thận Định danh Suy Tình trạng suy thận
tiến triển với GFR<60
nhanh ml/phút/1,73 m2 da
hoặc giảm GFR≥35%
hoặc tăng creatinine
huyết thanh >50%
trong vòng >7 ngày
đến dưới 3 tháng [8],
[88].
3 Protein niệu Định lượng BVNDGĐ và Nồng độ protein nước
24 giờ (mg) BVĐHYD: phương tiểu thu thập đủ 24
(a) pháp đo màu trên giờ, thực hiện ở thời
máy Beckman điểm T1 và T2.
Coulter
BVCR: phương
pháp đo quang so
46
màu, máy
MODULAR P800,
COBAS 6000,
AU2700
4 Tỉ lệ Định lượng (b) Nồng độ albumin chia
albumin: cho creatinine trong
creatinine mẫu nước tiểu đầu
niệu (mg/g) tiên buổi sáng tại thời
điểm T1 và T2.
5 Hội chứng Định danh Nếu protein niệu 24
thận hư giờ >3 g/ngày [18]
6 Tiểu máu Định danh (c) Tiểu máu khi hồng
cầu > 50 /µl trên que
nhúng nước tiểu
hoặc>5 /quang trường
40 khi soi cặn lắng,
hoặc >5000/phút khi
làm cặn Addis [7],
[66], [70].
7 Albumin Định lượng Cả 3 bệnh viện đều Nồng độ albumin
huyết thanh làm phương pháp đo huyết thanh thực hiện
(g/l) quang so màu với tại thời điểm T1 và T2.
Brommocresol/máy
AU5800.
8 Protein Định lượng BVNDGĐ và Nồng độ protein huyết
huyết thanh BVĐHYD dùng thanh thực hiện tại
(g/l) phương pháp đo màu thời điểm T1 và T2
trên máy AU5800.
BVCR dùng phương
47
pháp đo quang so
màu/máy
MODULAR P800.
9 Viêm thận Định danh Tiêu chuẩn lâm sàng
[22], [66], [135] đã lupus hoạt
trình bày ở trên, đánh động
giá tại thời điểm T1 và
T2.
10 Cơn bùng Định danh Xem các định nghĩa Đánh giá tại thời điểm
phát tiểu sử dụng trong nghiên T1
protein cứu [22], [66], [135]
Cơn 11 bùng Định danh Xem các định nghĩa Đánh giá tại thời điểm
phát viêm sử dụng trong nghiên T1
thận cứu [22], [66], [135]
12 Nồng độ C3 Định lượng Cả 3 bệnh viện đều Nồng độ bổ thể
máu (mg/dl) dùng phương pháp C3/máu tại thời điểm
đo miễn dịch độ T1 và T2 (dùng để
đục/máy AU5800, đánh giá SLEDAI-
MINDRAY BS800, 2K)
RX IMOLA.
13 Giảm C3 Định danh Gọi là giảm C3 khi
máu <70 mg/dl
14 Nồng độ C4 Định lượng Cả 3 bệnh viện đều Nồng độ bổ thể
máu (mg/dl) dùng phương pháp C4/máu tại thời điểm
đo miễn dịch độ T1 và T2. (dùng để
đục/máy AU5800, đánh giá SLEDAI-
MINDRAY BS800, 2K)
RX IMOLA.
15 Giảm C4 Định danh Gọi là giảm C4 khi
<10 mg/dl máu
48
16 Nồng độ Định lượng Thực hiện tại Trung Nồng độ kháng thể
kháng thể tâm Chẩn đoán Y anti-dsDNA được
anti-dsDNA khoa MEDIC bằng đánh giá vào mỗi kỳ
(U/ml) phương pháp T1 và T2
ELISA.
17 Anti- Định danh Nồng độ kháng thể
dsDNA anti-dsDNA ≥20 U/ml
dương tính (theo điểm cắt của nhà
sản xuất)
18 Nồng độ Định lượng Thực hiện tại Trung Nồng độ kháng thể
kháng thể tâm Chẩn đoán Y anti-nucleosome được
anti- khoa MEDIC bằng đánh giá vào mỗi kỳ
nucleosome phương pháp T1 và T2
(U/ml) ELISA.
Anti- Định danh Nồng độ kháng thể 19
nucleosome anti-nucleosome ≥12
dương tính U/ml (theo điểm cắt
của nhà sản xuất)
Nồng độ Định lượng Thực hiện tại Trung Nồng độ kháng thể 20
kháng thể tâm Chẩn đoán Y anti-C1q được đánh
anti-C1q khoa MEDIC bằng giá vào mỗi kỳ T1 và
(U/ml) phương pháp T2
ELISA.
Nồng độ kháng thể Anti-C1q Định danh 21
anti-C1q≥10 U/ml dương tính
(theo điểm cắt của nhà
sản xuất)
Nếu sinh thiết thận có Viêm thận Định danh 22
kết quả thuộc nhóm lupus tăng
III, nhóm IV, nhóm V sinh
kết hợp nhóm III,
49
nhóm V kết hợp nhóm
IV [21], [107], [108],
[116], [151]
Nếu sinh thiết thận có 23 Viêm thận Định danh
kết quả thuộc nhóm I, lupus không
II, V đơn thuần [21], tăng sinh
[107], [108], [116],
[151]
Đánh giá theo 4 mức 24 Chỉ số Định danh thứ
độ A, B, C, D tại lần BILAG thận tự
khám T1 và T2 [80],
[145]
Khi chỉ số BILAG 25 Viêm thận Định danh
thận thuộc nhóm A lupus hoạt
hoặc B [65], [80], động theo
[145]. chỉ số
BILAG thận
Ghi chú: (a) Cách lấy mẫu nước tiểu 24 giờ: Vào buổi sáng cùng ngày dự
định thu thập nước tiểu, hướng dẫn bệnh nhân đi tiểu hết, trước khi bắt đầu thu thập
nước tiểu. Sau đó, BN lưu giữ nước tiểu cả ngày (ngay cả trước khi đi tắm, đi tiêu)
và đổ nước tiểu vào bình chứa có chất bảo quản là acid acetic 50%. Sau 24 giờ, BN
đi tiểu lần cuối và đổ nước tiểu vào bình. Đo thể tích nước tiểu 24 giờ bằng bình đo
có vạch đo chính xác đến 10 ml và ghi thể tích nước tiểu vào phiếu chỉ định. Khuấy
đều nước tiểu, lấy khoảng 10 ml làm xét nghiệm định lượng protein niệu 24 giờ.
(b) Định lượng microalbumin niệu: Cả 3 bệnh viện đều sử dụng phương pháp
đo miễn dịch độ đục. Định lượng creatinine niệu tại BVCR và BVNDGĐ đều dùng
phương pháp Jaffe, tại BVĐHYD dùng phương pháp đo màu động học. Tỉ lệ
albumin: creatinine nước tiểu (uACR) được lấy tỉ số giữa hai số liệu trên (đơn vị
mg/g hoặc mg/mmol).
50
(c) Khảo sát mẫu nước tiểu bất kỳ: Để xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu,
BN lấy mẫu nước tiểu đầu tiên vào buổi sáng, sau khi vệ sinh lỗ tiểu và bỏ nước
tiểu đầu dòng, dùng lọ nước tiểu sạch hứng lấy 10 ml nước tiểu giữa dòng để làm
xét nghiệm. Cả 3 bệnh viện đều dùng phương pháp bán định lượng bằng giấy nhúng
sử dụng kỹ thuật đo quang học phản xạ bằng máy AnyScan, COBAS 6500 hoặc
Clinitek. Khảo sát cặn lắng nước tiểu bằng cách lấy 10ml nước tiểu bất kỳ, quay ly
tâm mẫu nước tiểu với tốc độ 2000 vòng/phút trong 5 phút. Bỏ 9 ml, lấy 1 ml cặn
lắng soi dưới kính hiển vi quang học. Cặn lắng nước tiểu được khảo sát từ 10-20
quang trường. Quang trường 10 được dùng để đánh giá số lượng trụ niệu, quang
trường 40 để đánh giá bản chất trụ niệu và các tế bào.
Khảo sát cặn Addis: Bệnh nhân nhịn ăn sáng, uống 200 ml nước, sau đó được
dặn lấy nước tiểu trong khoảng 3 giờ, đo thể tích nước tiểu thu được. Lấy 10 ml
nước tiểu, quay ly tâm và soi cặn lắng, tính số hồng cầu, bạch cầu bằng buồng đếm,
sau đó tính ra số hồng cầu, bạch cầu/phút.
2.7. Phương pháp và công cụ đo lường, thu thập số liệu
2.7.1 Thực hiện sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm
Các trường hợp sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm đều do chính tác giả
thực hiện tại Khoa Nội tiết – Thận Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, hoặc Khoa Nội
Thận Bệnh viện Chợ Rẫy, hoặc Khoa Nội Thận – Thận nhân tạo Bệnh viện Đại học
Y Dược TPHCM.
Các hình ảnh sinh thiết thận qua da bằng súng tự động dưới hướng dẫn siêu
âm trong nghiên cứu (hình 2.1 – 2.3):
51
Hình 2.1: Sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm Hình 2.2: Kim sinh thiết chạm vào thận
Hình 2.3: Mẫu mô thận lấy ra sau khi sinh thiết
2.7.2 Thực hiện các xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể anti-dsDNA,
anti-nucleosome, anti-C1q
Cả ba xét nghiệm tự kháng thể này đều được lấy máu tại 2 thời điểm: T1
ngay trước khi sinh thiết thận và T2 thời điểm sau 6 tháng điều trị. Sau khi lấy máu,
mẫu máu được chiết xuất huyết thanh, sau đó gửi mẫu trực tiếp đến Trung tâm Chẩn
đoán y khoa MEDIC, hoặc trữ đông ở nhiệt độ -800C rồi gửi mẫu sau. Tất cả 3 xét
nghiệm đều được thực hiện phân tích tại Trung tâm Chẩn đoán y khoa MEDIC bằng
phương pháp ELISA. Định lượng kháng thể anti-dsDNA và anti-nucleosome được
thực hiện bởi bộ kit do hãng AESKU Diagnostics GmbH&Co.KG, Đức cung cấp.
Định lượng kháng thể anti-C1q được thực hiện bởi bộ kit do hãng DRG Instruments
GmbH, Đức cung cấp.
52
Nguyên tắc chung của phương pháp thực hiện ba xét nghiệm này như sau:
Human recombinant (dsDNA, nucleosome, C1q) được gắn vào các giếng nhỏ trên
kit. Kháng thể kháng với các kháng nguyên này, nếu hiện diện trong huyết thanh
hoặc huyết tương pha loãng của bệnh nhân, sẽ gắn với các kháng nguyên tương
ứng. Rửa các giếng này để lấy hết các thành phần không đặc hiệu trong huyết thanh
hoặc huyết tương. Sau đó cho vào các kháng thể kháng IgG, IgA và IgM người
Horseradish peroxidase (HRP), các kháng thể này sẽ kết hợp với các phức hợp
kháng nguyên kháng thể hình thành. Rửa các giếng này một lần nữa để loại bớt các
kháng nguyên không liên kết. Một cơ chất enzyme sẽ thủy phân phức hợp
HRP/kháng thể/kháng nguyên nêu trên cho màu xanh. Thêm vào một acid làm
ngưng phản ứng tạo ra một sản phẩm cuối cùng có màu vàng. Đậm độ màu vàng
này sẽ được đo ở bước sóng 450 nm, sau đó được quy đổi ra nồng độ chuẩn U/ml.
Để kiểm tra tính lặp lại, các xét nghiệm này đều được thực hiện với các mẫu chứng
dương và mẫu chứng âm, đồng thời được thực hiện các phép kiểm Intra-assay và
Inter-assay.
Sơ đồ 2.2: Quy trình thực hiện xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể bằng
phương pháp ELISA
Theo cung cấp của nhà sản xuất, ngưỡng giá trị bình thường của kháng thể
anti-dsDNA được xác lập từ những người hiến máu tình nguyện là nhỏ hơn 16
U/ml, nhưng để tính là xét nghiệm dương tính khi vượt quá 25% giá trị này nghĩa là
dương tính khi ≥ 20 U/ml. Ngưỡng giá trị bình thường của kháng thể anti-
nucleosome là nhỏ hơn 12 U/ml, của kháng thể anti-C1q là nhỏ hơn 10 U/ml. Khi
nồng độ kháng thể của người bệnh vượt quá ngưỡng phát hiện của xét nghiệm,
53
chúng tôi đã đề nghị phòng xét nghiệm pha loãng huyết thanh thêm nữa để tính
được nồng độ chính xác.
2.7.3 Các định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu
Cơn bùng phát viêm thận (nephritic flare): Tăng xuất hiện lại cặn lắng
nước tiểu hoạt động (tiểu máu có hoặc không có kèm theo trụ niệu), có hoặc không
có kèm theo sự tăng đồng thời protein niệu và thường đi kèm tăng ≥ 25% chỉ số
creatinine huyết thanh [22], [66], [135].
Cơn bùng phát tiểu protein (proteinuric flare): tăng protein niệu kéo dài
>0,5-1 g/ngày, mới xuất hiện, hoặc sau khi thuyên giảm hoàn toàn hoặc gấp đôi
lượng protein niệu nếu lúc trước >1 g/ngày sau khi có thuyên giảm một phần [22],
[66], [135].
Công thức ước đoán mức lọc cầu thận theo CKD-EPI 2009 [89]:
eGFR (ml/phút/1,73 m2 da) = 141 x min (SCr/K, 1)α x max (SCr/K, 1)-1,209 x
0,993tuổix1,018 (nếu là nữ) x1,159 (nếu là nam)
Trong đó: K=0,7 đối với nữ, K=0,9 đối với nam, α=-0,329 đối với nữ, α=-0,411 đối
với nam
Tiêu chuẩn tổn thương thận cấp: theo KDIGO 2012 [88] khi có ít nhất một
trong các tiêu chuẩn sau:
• Tăng creatinine huyết thanh ≥ 0,3 mg/dl trong vòng 48 giờ
• Tăng creatinine huyết thanh ≥ 1,5 lần so với trị số creatinine huyết
thanh nền tảng cách đó 7 ngày
• Thể tích nước tiểu < 0,5 ml/kg/giờ trong 6 giờ
Phân loại giải phẫu bệnh theo ISN/RPS 2004 [151]:
o Nhóm I: Viêm thận lupus tổn thương gian mạch tối thiểu
o Nhóm II: Viêm thận lupus tăng sinh gian mạch
o Nhóm III: Viêm thận lupus khu trú
o Nhóm IV: Viêm thận lupus lan tỏa
o Nhóm V: Viêm thận lupus màng
o Nhóm VI: Viêm thận lupus xơ hóa tiến triển
54
Chỉ số hoạt động AI (Activity Index) theo NIH [20], [21] gồm 6 thông số
cần đánh giá, cho điểm từ 0 đến 3 tùy theo có hiện diện hay không và mức độ nặng
cho mỗi đặc điểm mô học, trong đó số điểm của liềm tế bào và hoại tử fibrin phải
nhân đôi. Mỗi thành tố được chấm điểm từ 0 đến 3 tùy theo mức độ: 0 (không có), 1
(ảnh hưởng dưới 25% số cầu thận), 2 (ảnh hưởng 25-50% số cầu thận), 3 (ảnh
hưởng trên 50% số cầu thận). Như vậy tổng điểm tối đa là 24. Chỉ số này nếu lớn
hơn 7 được xem là hoạt động mạnh [20], [65], [138].
tăng sinh tế bào nội mao mạch: 0-3
thấm nhập bạch cầu đa nhân trung tính: 0-3
lắng đọng hyalin dưới nội mạc: 0-3
hoại tử dạng fibrin hoặc vỡ nhân tế bào: 0-3 x2
liềm tế bào: 0-3 x2
viêm mô kẽ: 0-3
Chỉ số mạn tính CI (Chronicity Index) theo NIH [20], [21] gồm 4 thông số
cần đánh giá. Mỗi thông số cũng được chấm điểm từ 0-3 tuỳ theo mức độ nặng như
trên đã đề cập. Điểm CI là tổng của các thành tố trên với tổng số điểm tối đa là 12
điểm, có ý nghĩa tiên lượng xấu nếu chỉ số này lớn hơn 3 [15], [20], [138].
xơ hoá cầu thận: 0-3
liềm sợi: 0-3
teo ống thận: 0-3
xơ hoá mô kẽ: 0-3
Chỉ số hoạt động thận BILAG [80], [145]: đánh giá dựa trên mức độ tiểu
protein, thay đổi chức năng thận, cặn lắng nước tiểu hoạt động. Có 5 mức độ bệnh:
A (bệnh hoạt động nặng), B (bệnh hoạt động trung bình), C (bệnh hoạt động nhẹ), D
(bệnh hiện tại không hoạt động nhưng tiền sử có ảnh hưởng), E (chưa bao giờ ảnh
hưởng cơ quan đang xem xét). Như vậy, viêm thận lupus hoạt động khi chỉ số
BILAG thận ở mức A, hoặc B [65], [145] (phụ lục 4).
55
Chỉ số hoạt động bệnh toàn bộ lupus ban đỏ hệ thống SLEDAI-2K [62],
[145] xác nhận sự hiện diện của 24 biến số và cho điểm theo thang điểm cho trước
trên 9 hệ cơ quan với mức độ nặng nhẹ như sau: 8 cho tổn thương hệ thần kinh
trung ương và mạch máu, 4 cho tổn thương thận và cơ xương khớp, 2 cho tổn
thương thanh mạc, da, miễn dịch, và 1 cho triệu chứng toàn thân và huyết học. Tổng
điểm từ 0-105 điểm. Các biểu hiện lâm sàng được tính điểm nếu xuất hiện tại thời
điểm thăm khám hoặc trong 30 ngày trước. Chỉ số SLEDAI được xem là hoạt động
nếu lớn hơn hoặc bằng 6 [65], [145] (phụ lục 3). Kết quả chỉ số SLEDAI-2K sẽ tính
tổng điểm, và điểm càng cao chứng tỏ hoạt độ của bệnh lupus càng cao.
Mất theo dõi: bệnh nhân được xem là mất theo dõi khi tác giả nghiên cứu đã
3 lần gọi điện thoại, nhắn tin, hoặc gửi email nhưng không trả lời.
2.8. Phương pháp phân tích dữ liệu
Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 23.0 và được
trình bày trong các bảng, biểu và đồ thị.
Phân phối bình thường của các biến số được xác định bằng kiểm định
Kolmogorov Smirnov.
Số liệu được tóm tắt và trình bày dưới dạng tỉ lệ (đối với các biến số rời, định
tính), số trung bình toán học và độ lệch chuẩn (đối với các biến số liên tục có phân
phối bình thường), số trung vị và tứ phân vị đối với các biến số liên tục có phân
phối không bình thường.
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương (χ2) để kiểm định mối liên hệ giữa các
biến số rời hoặc định tính và tính OR để xác định sức mạnh mối liên quan.
Sử dụng phép kiểm Student (t-test) để so sánh trung bình của 2 mẫu độc lập
(trường hợp biến số liên tục và phân phối bình thường). Nếu không có phân phối
bình thường, sử dụng phép kiểm số trung vị (phép kiểm Mann-Whitney U test) để
so sánh số trung vị của 2 mẫu độc lập.
Để so sánh các trị số trung bình giữa các nhóm từ 3 nhóm trở lên, dùng phép
kiểm Anova trong trường hợp có phân phối bình thường. Nếu không có phân phối
56
chuẩn, dùng phép kiểm phi tham số Kruskal Wallis. So sánh cặp các biến số định
lượng giữa hai thời điểm ban đầu và sau 6 tháng dùng phép kiểm phi tham số
Wilcoxon. So sánh tỉ lệ giữa hai thời điểm ban đầu và sau 6 tháng dùng phép kiểm
phi tham số McNemar.
Tính hệ số tương quan Spearman giữa nồng độ các kháng thể và chỉ số hoạt
động trên mô học theo NIH.
Để quyết định giá trị chẩn đoán cho các xét nghiệm anti-dsDNA, anti-
nucleosome, anti-C1q, chúng tôi tính độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương,
giá trị tiên đoán âm. Dùng mô hình hồi quy logistic đa biến để phân tích biến số nào
có ý nghĩa tiên đoán độc lập.
Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu này đã được chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu
y sinh học Đại học Y Dược TPHCM (số quyết định 397/ĐHYD-HĐ), Bệnh viện
Chợ Rẫy, Nhân Dân Gia Định, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM theo đúng qui
trình.
Đây là một nghiên cứu quan sát, không can thiệp về điều trị. Tất cả bệnh
nhân tham gia nghiên cứu đều được giải thích về sự cần thiết và mục đích của
nghiên cứu, lợi ích của việc tham gia nghiên cứu, quy trình nghiên cứu, và tự
nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu bằng văn bản. Các chỉ định cận lâm sàng đều
cần thiết cho việc theo dõi và điều trị bệnh nhân theo đúng chỉ định điều trị và đúng
phác đồ theo KDIGO 2012 [87] của Hội Thận học thế giới và EULAR/ERA-EDTA
2019 [53], [91]. Bệnh nhân không phải chi trả cho xét nghiệm anti-nucleosome và
anti-C1q là những loại xét nghiệm mới, chưa phổ biến trên lâm sàng.
57
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 04/2014 đến tháng 03/2019, chúng tôi có tất
cả 144 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn thu nhận, không có tiêu chuẩn loại trừ, đồng ý sinh
thiết thận đã tham gia nghiên cứu (T1).
Bảng 3.1: Phân bố bệnh nhân theo các điểm nghiên cứu
NĂM NGHIÊN CỨU NƠI NGHIÊN CỨU SỐ BN
04/2014- 05/2015 Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 18
09/2014 – 09/2016 Bệnh viện Chợ Rẫy 19
04/2014 – 03/2019 Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM 107
Tổng số 144
Sau đó, bệnh nhân được mời tham gia tiếp tục quá trình theo dõi và hẹn tái
khám ở lần thứ hai sau lần thứ nhất 6 tháng tại Phòng khám Nội Thận Bệnh viện
Đại học Y Dược TPHCM. Tại lần khám này có tất cả 137 bệnh nhân tiếp tục tham
gia nghiên cứu. Có tất cả 7 bệnh nhân không tham gia nghiên cứu ở lần thăm khám
thứ hai này, trong đó có 2 bệnh nhân bị tử vong do viêm phổi nặng và 1 bệnh nhân
bị tử vong do lao màng não, 4 bệnh nhân không liên lạc được.
Tất cả các biến số đều được kiểm định Kolmogorov Smirnov đều cho kết quả
không có phân phối chuẩn nên sẽ được trình bày theo trung vị và tứ phân vị 25%-
75% và dùng các phép kiểm phi tham số.
58
Sơ đồ 3.1: Quy trình thực hiện nghiên cứu
59
3.1 Đặc điểm chính về dân số học, lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm
thận lupus hoạt động tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Bảng 3.2: Các đặc điểm chung của 144 bệnh nhân viêm thận lupus
Các đặc điểm n % Trung Tứ phân
vị vị 25%-
75%
22-37 144 100 27 Tuổi (năm)
Giới
- Nữ 130 90,3
- Nam 14 9,7
Số ca được chẩn đoán lupus lần đầu 93 64,6
Số ca đã được chẩn đoán lupus 51 35,4
Thời gian mắc lupus trước khi vào nghiên 3 1-14
cứu (tháng)
95 66
49 34 3 1-12
Số ca được chẩn đoán viêm thận lupus lần đầu Số ca đã được chẩn đoán viêm thận lupus Thời gian mắc viêm thận lupus trước khi vào nghiên cứu (tháng) Thuốc dùng đến thời điểm nghiên cứu là
liều:
corticosteroid (mg)* 141 97% 48 28- 48 1-
mycophenolate mofetil (mg) 44 30,5% 875 500-1000 2-
1 cyclophosphamide (mg) 0,6% 50 50 - 50 3-
5 azathioprine (mg) 3,4% 50 50 - 50 4-
hydroxychloroquine (mg) 105 72,9% 200 200 - 200 5-
Ghi chú: * Có 3 trường hợp chưa được điều trị trước khi vào nghiên cứu.
Nhận xét: Các bệnh nhân ở lứa tuổi trẻ, nữ chiếm đa số và hầu hết đều mới
bị lupus đỏ hệ thống cũng như viêm thận lupus. Các thuốc dùng chủ yếu trước khi
vào nghiên cứu là corticosteroid và hydroxychloroquine.
60
Bảng 3.3: Các đặc điểm lâm sàng chính của nhóm nghiên cứu tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu
Tổn thương cơ quan n=144 %
Thận 100 144
Da niêm 63,2 91
Tâm thần kinh 10,4 15
Cơ xương khớp 86,1 122
Tim mạch 8,3 12
6,9 10 Viêm ruột, viêm mạch máu mạc treo do lupus*
54,9 79 Huyết học: các biến chứng này không do nhiễm trùng
hoặc nguyên nhân khác
1- Thiếu máu tán huyết (Hb <12 g/dl ở nam, và Hb <11 40 27,8
g/dl ở nữ)
31,3 45 2- Giảm bạch cầu (<4 G/l trong 2 lần xét nghiệm)
19,4 28 3- Giảm tiểu cầu (<100 G/l)
6,9 10 Viêm màng tim**
9,7 14 Viêm màng phổi***
6,3 9 Viêm mạch máu ngoại biên****
Số cơ quan bị tổn thương (trung vị, tứ phân vị 25%-75%) 3 [3-4]
Ghi chú: * Các trường hợp viêm ruột, viêm mạch máu mạc treo vào viện vì đau
bụng, tiêu chảy, chẩn đoán dựa vào hình ảnh chụp cắt lớp điện toán bụng chậu có
cản quang có hình ảnh dày thành ruột, hình bia và chẩn đoán loại trừ các nguyên
nhân khác.
** Các trường hợp viêm màng tim có triệu chứng đau ngực, tiếng cọ màng tim, siêu
âm tim có tràn dịch màng tim, được các bác sĩ tim mạch chẩn đoán.
*** Các trường hợp viêm màng phổi đều được chọc dịch màng phổi để chẩn đoán
và có kết quả là dịch tiết và loại trừ các nguyên nhân khác như nhiễm trùng, lao,
ung thư. **** Các trường hợp viêm mạch máu ngoại biên: bệnh nhân có hoại tử đầu
ngón tay, xuất hiện nốt ở đầu chi đau, nhồi máu quanh móng, không có sinh thiết.
61
Bảng 3.4: Các đặc điểm cận lâm sàng chính về thận của nhóm nghiên cứu tại
thời điểm nhận vào nghiên cứu
Các đặc điểm n % Trung vị Tứ phân vị
25%-75%
1811-5903 Albumin: creatinine niệu (mg/g) 144 100 3278
2213-6950 Protein niệu (mg/24 giờ) 144 100 4100
Số bệnh nhân có tiểu protein 89 61,8
ngưỡng thận hư (> 3g/24 giờ)
Albumin huyết thanh (g/l) 22,6 19 - 28 144 100
Protein huyết thanh (g/l) 52 44 - 61 144 100
Tiểu máu* 122 84,7
100 Nồng độ creatinin huyết thanh 144 0,9 0,72-1,34
(mg/dl)
eGFR (ml/phút/1.73 m2 da) 144 100 85,6 53,2-114
tại thời điểm nghiên cứu
Số bệnh nhân có tổn thương thận 6 4,2
cấp**
Số bệnh nhân có suy thận tiến 35 24,3
triển nhanh***
Ghi chú: *Tiểu máu khi hồng cầu >50/µL trên que nhúng nước tiểu hoặc hồng cầu
>5 /quang trường 40 khi soi cặn lắng, hoặc hồng cầu >5000/phút khi làm cặn Addis.
** Trong số 6 trường hợp tổn thương thận cấp, có 2 trường hợp do hoại tử ống thận
cấp do ly giải cơ vân sau co giật nặng, 1 trường hợp hoại tử ống thận cấp (chứng
minh bằng sinh thiết thận) có thể do thuốc, 3 trường hợp do nguyên nhân trước
thận. Tất cả các trường hợp này đều hồi phục chức năng thận hoàn toàn.
*** Trong số các bệnh nhân bị suy thận tiến triển nhanh khi vào nghiên cứu, có 3
trường hợp được chẩn đoán thuyên tắc vi mạch huyết khối tại thận (TMA:
Thrombotic Microangiopathy) bằng lâm sàng (tán huyết với Coombs test âm tính,
62
giảm tiểu cầu, D-Dimer > 600 ng/ml, LDH >600 U/l, hiện diện mảnh vỡ hồng cầu
trên phết máu ngoại biên), 2 trường hợp được xác minh TMA tại thận bằng kết quả
sinh thiết thận, 30 trường hợp còn lại đều có tiểu máu (phần lớn có sang thương
liềm trên sinh thiết thận, có 3 trường hợp có số cầu thận có tổn thương liềm trên
50% trên mẫu sinh thiết). Các trường hợp thuyên tắc vi mạch huyết khối hồi phục
chức năng thận sau thay huyết tương và điều trị ức chế miễn dịch.
Nhận xét: Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu tại thời điểm ban đầu, hầu hết
biểu hiện viêm thận nặng với tiểu protein cao, nhiều bệnh nhân có tiểu protein
ngưỡng thận hư, nhiều bệnh nhân có tiểu máu.
Biểu đồ 3.1: Nồng độ protein niệu 24 giờ của các bệnh nhân tại thời điểm nhận
vào nghiên cứu
Nhận xét: Phần lớn BN tại thời thời điểm nghiên cứu có protein niệu 24 giờ cao,
với số trung vị là 4100 mg/24 giờ.
Tất cả 144 bệnh nhân tại thời điểm nhận vào nghiên cứu đều thoả tiêu chuẩn
viêm thận lupus hoạt động trên lâm sàng. Trong đó, có 30 BN vào đợt bùng phát
kiểu viêm thận (biểu hiện tiểu máu và suy thận tiến triển nhanh) chiếm tỉ lệ 20,8%,
114 BN vào đợt bùng phát kiểu tiểu protein chiếm tỉ lệ 79,2%.
63
Bảng 3.5: Đặc điểm về nồng độ bổ thể máu của nhóm nghiên cứu tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu
Các đặc điểm n % Trung vị Tứ phân vị
25%-75%
Nồng độ C3 trong máu (mg/dl) 100% 50,19 35,96 - 65,14 144
Tỉ lệ BN có C3 máu <70 mg/dl 86,1% 122
Nồng độ C4 trong máu (mg/dl) 144 100% 9,9 5,82 - 17,9
Tỉ lệ BN có C4 máu< 10 mg/dl 72 50%
Tỉ lệ BN có C3 máu <70 mg/dl 126 87,5%
và/hoặc C4 máu <10 mg/dl
Nhận xét: Các bệnh nhân nhận vào nghiên cứu có tỉ lệ giảm bổ thể máu cao, trong
đó chủ yếu là giảm C3 máu.
Bảng 3.6: Bảng phân nhóm bệnh nhân theo chỉ số BILAG thận tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu
Số BN (n=144) Tỉ lệ
BILAG nhóm A 137 95,1%
BILAG nhóm B 7 4,9%
BILAG nhóm C 0 0
BILAG nhóm D 0 0
Tổng 144 100%
Nhận xét: Khi chấm điểm theo chỉ số BILAG Thận, chúng tôi nhận thấy kết quả
cũng phù hợp với tiêu chuẩn viêm thận lupus hoạt động lâm sàng khi tất cả đều ở
mức hoạt động (“A” hoặc “B”), trong đó phần lớn là ở mức hoạt động mạnh nhóm
“A”.
Khi chấm điểm chỉ số SLEDAI-2K, chúng tôi có kết quả số trung vị là 20 (tứ
phân vị 25%-75% lần lượt là 16 và 24). Trong đó có 142 BN có chỉ số SLEDAI-2K
≥6, chiếm tỉ lệ 98,6% phù hợp với tiêu chuẩn hoạt động trên lâm sàng.
64
3.2 Tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome, anti-C1q dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Biểu đồ 3.2: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA trong máu của nhóm nghiên cứu
tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA không có phân phối chuẩn, phần lớn các
trường hợp có nồng độ dưới 100 U/ml.
Biểu đồ 3.3: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome trong máu của nhóm nghiên
cứu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome không có phân phối chuẩn.
65
Biểu đồ 3.4: Nồng độ kháng thể anti-C1q trong máu của nhóm nghiên cứu tại
thời điểm bắt đầu nghiên cứu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-C1q trong máu của nhóm nghiên cứu tại thời
điểm bắt đầu nghiên cứu không có phân phối chuẩn. Phần lớn các trường hợp có
nồng độ dưới 50 U/ml.
Bảng 3.7: Đặc điểm các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q của
nhóm nghiên cứu tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Các đặc điểm %
Số BN (n=144) 144 113 Trung vị 55,6 Tứ phân vị 25%-75% 22,3-239,5 100 78,5
144 79 3,1-83,7 16,8 100 54,9
10,6-30,5 100 77,8 144 112 18
Anti-dsDNA (U/ml) Số bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có anti-dsDNA dương tính (≥20 U/ml) Anti-nucleosome (U/ml) Số bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có anti-Nucleosome dương tính (≥12 U/ml) Anti-C1q (U/ml) Số bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có anti-C1q dương tính (≥10 U/ml) Nhận xét: Trong 3 kháng thể trên, anti-dsDNA và anti-C1q có tỉ lệ dương tính cao nhất trong số các bệnh nhân bị viêm thận lupus tại thời điểm sinh thiết thận.
66
3.3 Liên quan giữa các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q với
tổn thương mô bệnh học thận tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
3.3.1 Đặc điểm giải phẫu bệnh trong nhóm nghiên cứu và mối liên quan với
biểu hiện lâm sàng
Tất cả 144 bệnh nhân đều được sinh thiết thận qua da dưới hướng dẫn siêu âm
1 lần vào thời điểm nhận vào nghiên cứu. Có 3 trường hợp bị tai biến sau sinh thiết
thận: 1 ca bị tụ máu tại cực dưới thận trái (tỉ lệ 0,6%), 2 ca bị tiểu máu đại thể (tỉ lệ
1,2%). Tất cả các tai biến này đều nhẹ, tự khỏi sau nằm nghỉ tại giường 2-3 ngày,
không có trường hợp nào cần phải truyền máu hay can thiệp gì đặc biệt, cũng như
không có biến chứng dò động – tĩnh mạch trong thận về sau.
Về đặc điểm giải phẫu bệnh, các sang thương có phân loại nhóm III, nhóm
IV, nhóm III kết hợp nhóm V, nhóm IV kết hợp nhóm V thường có tăng sinh tế bào
gian mạch, tế bào nội mô kèm thâm nhiễm bạch cầu đơn nhân và đa nhân trung
tính, có thể kết hợp liềm tế bào. Các tổn thương này thường có độ hoạt động mạnh,
tiên lượng nặng, cần điều trị ức chế miễn dịch mạnh, có các đặc điểm lâm sàng
tương đối giống nhau nên xếp thành nhóm viêm cầu thận “tăng sinh” [21], [87],
[107], [108], [116], [151]. Các tổn thương thuộc nhóm I không có tăng sinh tế bào,
nhóm II, và nhóm V có thể chỉ có tăng sinh tế bào gian mạch đơn thuần nên xếp
nhóm viêm cầu thận “không tăng sinh”. Các tổn thương loại này thường ít gây suy
thận về sau, có tiên lượng tốt và có phác đồ điều trị riêng [21], [87], [107], [108],
[116].
67
Bảng 3.8: Đặc điểm sinh thiết thận của nhóm nghiên cứu
(n=144) %
Trung vị Tứ phân vị 25%-75%
Số cầu thận sinh thiết 23 17-29
Phân nhóm
1 0,7 -Nhóm I
4 2,6 -Nhóm II
27 18,8 -Nhóm III
73 50,7 -Nhóm IV
23 16 -Nhóm V
7 4,9 -Nhóm III+V
9 6,3 -Nhóm IV+V
116 80,55
Viêm cầu thận tăng sinh (nhóm III, nhóm IV đơn thuần hoặc nhóm III kết hợp nhóm V, nhóm IV kết hợp nhóm V)
28 19,45
Viêm cầu thận không tăng sinh (nhóm I, II, V)
Nhận xét: Các mẫu sinh thiết thận đều đạt yêu cầu đọc giải phẫu bệnh với số
cầu thận tương đối cao. Các tổn thương chủ yếu là tổn thương thuộc nhóm IV,
nhóm III.
68
Bảng 3.9: Bảng đối chiếu lâm sàng với giải phẫu bệnh ở thời điểm
sinh thiết thận
n Tiểu máu
Protein niệu 24 giờ (mg) Albumin:creatinine niệu (mg/g) n (%)
Trung vị (25%-75%) Trung vị (25%-75%)
1 Nhóm I 7350 6852 0
4 Nhóm II 4792,5 (2120-8486) 3047 (1199,5-6652,5) 3 (75%)
Nhóm III 27 2300 (1800-7500) 1674 (1307-5938) 23 (85,2%)
Nhóm IV 73 4600 (2480-7275) 3750 (2256-6635) 70 (95,9%)
Nhóm V 23 3800 (2300-6400) 2800 (1627-5652) 11 (47,8%)
Nhóm III+V 7 4487 (2900-7000) 3539 (2313-5273) 6 (85,7%)
Nhóm IV+V 9 4200 (2711-7340) 3541 (2321-7006) 9 (100%)
Nhận xét: Dựa vào bảng đối chiếu lâm sàng - giải phẫu bệnh trên, chúng tôi
nhận thấy rất khó dự đoán tổn thương mô bệnh học dựa trên lâm sàng. Các trường
hợp kết quả sinh thiết là viêm thận lupus nhóm I, II nhưng có tiểu đạm rất cao thậm
chí ngưỡng thận hư.
69
Bảng 3.10: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với
viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động trên lâm sàng tại thời điểm
nhận vào nghiên cứu
Tổng
Lâm sàng hoạt động n (%) 116 (80,55%) Lâm sàng không hoạt động 0 116
28 (19,45%) 28 0
144 (100%) 144
Viêm thận lupus tăng sinh Viêm thận lupus không tăng sinh Tổng Nhận xét: Bảng này cho thấy khi lâm sàng viêm thận lupus hoạt động thường hay
gặp tổn thương giải phẫu bệnh viêm thận lupus tăng sinh nhưng cũng có thể gặp
trong 19,45% các trường hợp viêm thận lupus không tăng sinh.
Bảng 3.11: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với
các triệu chứng lâm sàng
p
Viêm thận lupus tăng sinh 116 BN 0,92 (0,76-1,59) Viêm thận lupus không tăng sinh 28 BN 0,78 (0,63-0,94) huyết <0,001*
0 (0%) 30 (25,9%) 0,002**
4030 (2100-7150) 4380 (2390-6700) 0,987*
17 (60,7%) 72 (62,1%) 0,895**
108 (93,1%) <0,001** 14 (50%)
Creatinine thanh (mg/dl) Số ca suy thận tiến triển nhanh*** Protein niệu 24 giờ (mg) Số ca hội chứng thận hư Tiểu máu Ghi chú: * Phép kiểm Mann-Whitney U, ** Phép kiểm Chi bình phương *** Các trường hợp suy thận tiến triển nhanh đã loại trừ 5 ca thuyên tắc vi mạch huyết khối.
Nhận xét: Các trường hợp viêm thận lupus tăng sinh thường bị suy thận và tiểu máu hơn so với viêm thận lupus không tăng sinh, nhưng cũng có trường hợp viêm thận lupus không tăng sinh cũng có tiểu máu nên khó dự đoán sang thương giải phẫu bệnh nếu chỉ dựa vào lâm sàng.
70
Bảng 3.12: Liên quan giữa viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh với
kiểu biểu hiện viêm thận lupus hoạt động trên lâm sàng
Viêm thận lupus Viêm thận lupus Tổng
không tăng sinh tăng sinh
Kiểu viêm thận 0 (0%) 30 (25,9%) 30
(nephritic flare)
Kiểu tiểu protein 28 (100%) 86 (74,1%) 114
(proteinuric flare)
144 Tổng 28 116
Ghi chú: Phép kiểm Chi bình phương (χ2=9,147), df = 1, p = 0,002
Nhận xét: Đợt bùng phát kiểu viêm thận thường hay gặp ở viêm thận lupus tăng
sinh hơn.
Bảng 3.13: Đặc điểm chỉ số hoạt động (AI) và chỉ số mạn tính (CI) theo NIH
của 116 BN viêm thận lupus tăng sinh
n (%) Trung Trung vị, tứ
phân vị bình ± Độ
25%-75% lệch chuẩn
Chỉ số hoạt động AI 8,5 ± 3,3
Số bệnh nhân có chỉ số hoạt động >7 75 (64,7)
Chỉ số mạn tính CI 1 [1-2]
Số bệnh nhân có chỉ số mạn tính >3 15 (12,9)
Ghi chú: Theo tác giả Austin H.A 3rd [20], chỉ chấm điểm chỉ số hoạt động AI, mạn
tính CI đối với các trường hợp viêm thận lupus nhóm III, nhóm IV, hoặc nhóm III
kết hợp nhóm V, nhóm IV kết hợp nhóm V.
Nhận xét: Đa số các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số hoạt
động cao, tức là bệnh nặng, nhưng có khả năng điều trị khỏi, chỉ số mạn tính thấp,
tức là ít để lại di chứng lâu dài.
71
3.3.2 Vai trò của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q trong
phân biệt viêm thận lupus “tăng sinh” và viêm thận lupus “không tăng sinh”
❖ Nồng độ kháng thể anti-dsDNA tại thời điểm sinh thiết thận trong hai
nhóm viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh
p=0,002, Z=-3,12, Mann-Whitney U test
Biểu đồ 3.5: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA tại thời điểm sinh thiết thận ở 2
nhóm viêm thận lupus tăng sinh (n= 116) và không tăng sinh (n=28)
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA tại thời điểm nhận vào nghiên
cứu ở nhóm viêm thận lupus tăng sinh (68,6 U/ml) cao hơn hẳn so với nhóm viêm
thận lupus không tăng sinh (26,5 U/ml) có ý nghĩa thống kê.
72
Bảng 3.14: Tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính ở hai nhóm viêm thận lupus
tăng sinh và không tăng sinh
p Tăng sinh (n=116) (Tần số, %)
Không tăng sinh (n=28) (Tần số, %) 26,5 (5,7-69,2) 68,6 (28,5-240) 0,002*
16 (57,1%) 97 (83,6%) 0,002**
12 (42,9%) 19 (16,4%) Anti-dsDNA (trung vị, 25%, 75%) Anti-dsDNA dương tính (≥ 20 U/mll) Anti-dsDNA âm tính (<20 U/ml)
Ghi chú: *Phép kiểm Mann Whitney U
**Phép kiểm Chi bình phương (χ2=9,361), df = 1, p = 0,002. OR = 3,8 (95%
khoảng tin cậy 1,6-9,4).
Nhận xét: Tỉ lệ BN có kháng thể anti-dsDNA dương tính ở nhóm viêm thận
lupus tăng sinh cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm viêm thận lupus không
tăng sinh. Kháng thể anti-dsDNA dương tính làm tăng nguy cơ bị viêm thận lupus
tăng sinh lên 3,8 lần. Điểm cắt nồng độ Anti-dsDNA dương tính theo khuyến cáo
của phòng xét nghiệm là 20 U/ml.
❖ Nồng độ kháng thể anti-nucleosome tại thời điểm sinh thiết thận trong
hai nhóm viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh
Z=-1,953, p>0,05, Mann-Whitney U test
Biểu đồ 3.6: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome tại thời điểm sinh thiết thận ở
2 nhóm viêm thận lupus tăng sinh (n=116) và không tăng sinh (n=28)
73
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome tại thời điểm nhận vào
nghiên cứu ở nhóm viêm thận lupus tăng sinh (18,3 U/ml) cao hơn so với nhóm
viêm thận lupus không tăng sinh (7,2 U/ml) nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.15: Tỉ lệ kháng thể anti-nucleosome dương tính ở hai nhóm viêm thận
lupus tăng sinh và không tăng sinh
p
Viêm thận lupus không tăng sinh Viêm thận lupus tăng sinh
Anti-nucleosome (trung vị, 7,2 (2,7-19,4) 18,3 (3,2-131,3) 0,051*
tứ phân vị 25%-75%)
Anti-nucleosome dương 10 (35,7%) 69 (59,5%) 0,023**
tính (≥ 12 U/ml)
Anti-nucleosome âm tính 18 (64,3%) 47 (40,5%)
(<12 U/ml)
Ghi chú:
*Phép kiểm Mann-Whitney U
**Phép kiểm Chi bình phương (χ2=5,146), df = 1, p = 0,023. OR = 2,6 (95%
khoảng tin cậy 1,1-6,2). Điểm cắt giá trị anti-nucleosome dương tính theo khuyến
cáo của phòng xét nghiệm là 12 U/ml.
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân có kháng thể anti-nucleosome dương tính trong
nhóm viêm thận lupus tăng sinh cao hơn nhóm viêm thận lupus không tăng sinh có
ý nghĩa thống kê. Kháng thể anti-nucleosome dương tính làm tăng nguy cơ viêm
thận lupus tăng sinh lên 2,6 lần.
❖ Nồng độ kháng thể anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận trong hai
nhóm viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh
74
Z=-2,569 p=0,01, Mann-Whitney U test
Biểu đồ 3.7: Nồng độ kháng thể anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận ở 2
nhóm viêm thận lupus tăng sinh (n=116) và không tăng sinh (n=28)
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-C1q tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ở nhóm
viêm thận lupus tăng sinh (20 U/ml) cao hơn hẳn so với nhóm viêm thận lupus
không tăng sinh (11,8 U/ml) có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.16: Tỉ lệ kháng thể anti-C1q dương tính ở hai nhóm viêm thận lupus
tăng sinh và không tăng sinh
p
Không tăng sinh (n=28) (Tần số, %) 11,8 (6,5-19,7) 17 (60,7%) 11 (39,3%) Tăng sinh (n=116) (Tần số, %) 20 (11,1-33) 95 (81,9%) 21 (18,1%) 0,01* 0,022** Anti-C1q (trung vị, 25%- 75%) Anti-C1q dương tính (≥ 10 U/mL) Anti-C1q âm tính (<10 U/mL)
Ghi chú: *Phép kiểm Mann-Whitney U **Phép kiểm Chi bình phương (χ2=5,855),
df = 1, p = 0,022. OR = 2,9 (95% khoảng tin cậy 1,2-7,1). Điểm cắt anti-C1q dương
tính theo khuyến cáo của phòng xét nghiệm là 10 U/ml.
Nhận xét: Tỉ lệ BN có kháng thể anti-C1q ở nhóm viêm thận lupus tăng sinh cao
hơn hẳn nhóm viêm thận lupus không tăng sinh có ý nghĩa thống kê. Kháng thể
anti-C1q dương tính làm tăng nguy cơ viêm thận lupus tăng sinh lên 2,9 lần.
75
3.3.3 Mối tương quan giữa nồng độ kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome,
anti-C1q với chỉ số hoạt động AI, mạn tính CI theo NIH trên mô bệnh học thận
❖ Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số hoạt
động AI theo NIH
Bảng 3.17: Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số hoạt động AI
theo NIH
Kháng thể Chỉ số hoạt động AI (r) p
Anti-dsDNA 0,222 0,016
Anti-nnucleosome 0,116 0,074
Anti-C1q 0,216 0,02
Ghi chú: r: hệ số tương quan Spearman trong phép kiểm phi tham số.
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA và kháng thể anti-C1q có tương quan
yếu với chỉ số hoạt động AI, có ý nghĩa thống kê. Nồng độ kháng thể anti-
nucleosome không tương quan với chỉ số này.
❖ Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti- nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số mạn tính CI theo NIH
Bảng 3.18: Mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome và anti-C1q tại thời điểm sinh thiết thận với chỉ số mạn tính CI
Kháng thể p
Chỉ số mạn tính CI r
Anti-dsDNA 0,045 0,635
Anti-nucleosome 0,105 0,262
Anti-C1q -0,025 0,787
Ghi chú: r: hệ số tương quan Spearman trong phép kiểm phi tham số
Nhận xét: Nồng độ cả 3 loại kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q tại
thời điểm sinh thiết thận đều không tương quan với chỉ số mạn tính CI theo NIH.
76
3.4 Giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q trong
theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị
3.4.1 Đặc điểm các đáp ứng lâm sàng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu ở lần
thăm khám theo dõi sau 6 tháng
Từ 144 BN đều là viêm thận lupus hoạt động ban đầu, sau thời gian theo dõi
6 tháng, chúng tôi có tất cả 137 BN tiếp tục tham gia nghiên cứu ở lần thăm khám
thứ hai. Kết quả có các kiểu đáp ứng lâm sàng như sau:
Bảng 3.19: Tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động trên lâm sàng
ở 2 lần thăm khám (ban đầu và theo dõi sau 6 tháng)
Lần 1 (n; tỉ lệ) Lần 2 (n; tỉ lệ)
Viêm thận lupus hoạt động 144 (100%) 66 (48,2%)
Viêm thận lupus không hoạt động 0 (0%) 71 (51,8%)
Tổng 144 137
Nhận xét: Sau 6 tháng điều trị, có khoảng 50% BN đáp ứng, hết hoạt tính viêm
thận trên lâm sàng trở thành viêm thận lupus không hoạt động.
Bảng 3.20: Bảng so sánh các đặc điểm lâm sàng ở 2 lần thăm khám
Lần 1 4100 (2213-6950) Lần 2 350 (102-1485) p <0,001*
3278 (1811,2-5903,5) 250,5 (66,3-1118) <0,001* lệ albumin/creatinine
22,6 (19-28) 37,6 (30,7-39,8) <0,001*
thanh huyết 0,9 (0,72-1,34) 0,73 (0,66-0,88) <0,001*
Protein niệu 24 giờ (mg) (Trung vị, tứ phân vị) Tỉ niệu (mg/g) (Trung vị, tứ phân vị) Albumin huyết thanh (g/l) (Trung vị, tứ phân vị) Creatinine (mg/dl) (Trung vị, tứ phân vị) Ghi chú: *Phép kiểm phi tham số Wilcox
Nhận xét: Ở lần khám thứ hai đa số các bệnh nhân có cải thiện bệnh với lượng
protein niệu giảm đáng kể, albumin huyết thanh tăng, chỉ số creatinine huyết thanh
cải thiện có ý nghĩa thống kê.
77
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, Z = -9,212; p<0,001
Biểu đồ 3.8: Biểu đồ thay đổi lượng protein niệu theo từng cá nhân trong toàn
bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám
Nhận xét: Phần lớn các BN có protein niệu giảm đáng kể sau 6 tháng điều trị.
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, z = -9,234; p<0,001
Biểu đồ 3.9: Biểu đồ thay đổi tỉ lệ albumin:creatinine niệu theo từng cá nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám
Nhận xét: Đa số các BN có tỉ lệ albumin:creatinine niệu giảm đáng kể sau 6 tháng
điều trị.
78
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, z = -9,240; p <0,001
Biểu đồ 3.10: Biểu đồ thay đổi nồng độ albumin huyết thanh theo từng cá nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám
Nhận xét: Đa số BN có nồng độ albumin máu tăng đáng kể sau 6 tháng điều trị.
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, z = -6,264; p<0,001
Biểu đồ 3.11: Biểu đồ thay đổi nồng độ creatinine huyết thanh theo từng cá
nhân trong toàn bộ nhóm nghiên cứu giữa hai lần thăm khám
Nhận xét: Đa số BN có nồng độ creatinine huyết thanh giảm đáng kể sau 6 tháng
điều trị.
79
Nếu dựa vào protein niệu 24 giờ ở lần thăm khám sau 6 tháng, chúng tôi có
các kiểu đáp ứng lâm sàng:
Bảng 3.21: Phân bố các kiểu đáp ứng lâm sàng ở lần thăm khám theo dõi
sau 6 tháng
Số BN Tỉ lệ
71 51,8% Đáp ứng hoàn toàn
(kkhông hoạt động)
50 36,5% Đáp ứng một phần
16 11,7% Không đáp ứng
137 100% Tổng
Nhận xét: Sau 6 tháng điều trị, tỉ lệ có đáp ứng khá cao gần 90% các trường hợp.
Bảng 3.22: Bảng so sánh nồng độ bổ thể máu ở hai lần thăm khám
Lần 1 Lần 2 p
n=144 nn=137
Bổ thể C3/máu (mg/dl) 50,19 (35,9-65,14) 93,59 (68,5-108) <0,001**
(Trung vị, tứ phân vị)
Tỉ lệ BN có C3 máu thấp* 124/144 (86,1%) 36/137 (26,3%) <0,001***
Bổ thể C4/máu (mg/dl) 9,9 (5,82-17,9) 21,2 (14,5-30,74) <0,001**
(Trung vị, tứ phân vị)
Tỉ lệ BN có C4/máu thấp* 72/144 (50%) 15 /137 (10,9%) <0,001***
Tỉ lệ BN có C3/máu thấp 126/144 (87,5%) 40/137 (29,2%) <0,001***
và/hoặc C4/máu thấp
Ghi chú: *Gọi là bổ thể C3/máu thấp khi nồng độ <70 mg/dl, gọi là bổ thể C4/máu
thấp khi nồng độ <10 mg/dl.
**Phép kiểm phi tham số Wilcoxon
***Phép kiểm phi tham số Mc Nemar
Nhận xét: Phần lớn các bệnh nhân có nồng độ bổ thể tăng lên có ý nghĩa thống kê
sau 6 tháng điều trị.
80
Bảng 3.23: Phân bố 137 bệnh nhân theo các mức hoạt động của chỉ số
BILAG Thận ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng
n Tỉ lệ
Mức “A” 19 13,9%
Mức “B” 47 34,3%
Mức “C” 15 10,9%
Mức “D” 56 40,9%
Tổng 137 100%
Nhận xét: Sau 6 tháng điều trị, các bệnh nhân trong nhóm điều trị có đáp
ứng, giảm hoạt tính viêm thận lupus với các mức độ khác nhau theo tiêu chuẩn
BILAG Thận.
Bảng 3.24: Phân bố 137 BN viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động
theo tiêu chuẩn BILAG Thận ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng
n Tỉ lệ
Viêm thận lupus hoạt động 66 48,2%
theo BILAG
71 51,8%
Viêm thận lupus không hoạt động theo BILAG
Tổng 137 100%
Nhận xét: Từ 100% BN nhận vào nghiên cứu ban đầu đều là viêm thận lupus hoạt
động, sau 6 tháng điều trị có 51,8% đáp ứng hoàn toàn trở thành viêm thận lupus
không hoạt động.
Sau 6 tháng điều trị, trong số 137 BN, có 58 BN có chỉ số SLEDAI-2K lớn hơn hoặc bằng 6 (chỉ số hoạt động toàn bộ cao), chiếm tỉ lệ 42,3%; có 79 BN có chỉ
số SLEDAI-2K nhỏ hơn 6, chiếm tỉ lệ 57,7%.
81
Bảng 3.25: Bảng so sánh chỉ số SLEDAI-2K ở 2 lần thăm khám
Lần 1 Lần 2 p
20 (16-24) 4 (0-10) <0,001** Chỉ số SLEDAI-2K
(Trung vị, Tứ phân vị)
Tỉ lệ BN có chỉ số 142/144 (98,6%) 58/137 (42,3%) <0,001***
SLEDAI 2K cao*
Ghi chú: *Chỉ số SLEDAI-2K cao khi ≥6
**Phép kiểm phi tham số Wilcoxon ***Phép kiểm phi tham số McNemar
Nhận xét: Sau 6 tháng điều trị chỉ số hoạt động toàn bộ SLEDAI-2K giảm đáng kể
có ý nghĩa thống kê, tỉ lệ BN có chỉ số SLEDAI-2K cao cũng giảm đáng kể.
3.4.2 Giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q trong
theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị.
Biểu đồ 3.12: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA ở thời điểm thăm khám
sau 6 tháng
Nhận xét: Phần lớn BN có nồng độ kháng thể anti-dsDNA thấp sau 6 tháng điều trị.
82
Biểu đồ 3.13: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome ở thời điểm thăm khám
sau 6 tháng
Nhận xét: Phần lớn BN có nồng độ kháng thể anti-nucleosome thấp sau 6 tháng
điều trị.
Biểu đồ 3.14: Nồng độ kháng thể anti-C1q ở thời điểm thăm khám sau 6 tháng
Nhận xét: Phần lớn BN có nồng độ kháng thể anti-C1q thấp sau 6 tháng điều trị.
83
Bảng 3.26: Bảng so sánh nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome,
anti-C1q ở hai lần thăm khám
Lần 1 Lần 2 p
55,6 (22,3-239,5) 8,1 (3,4-22,5) <0,001*
Anti-dsDNA (U/ml)
16,8 (3,1-83,7) 3,1 (1,7 – 6,9) < 0,001*
Anti-nucleosome (U/ml)
Anti-C1q (U/ml) 18 (10,6-30,5) 6,4 (3,4-12,3) < 0,001*
Ghi chú: * Phép kiểm phi tham số Wilcoxon
Nhận xét: Nồng độ cả 3 kháng thể đều giảm rõ rệt so với lần đầu có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.27: Bảng nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-
C1q theo các kiểu đáp ứng lâm sàng khác nhau ở lần thăm khám theo dõi
sau 6 tháng
p
Khởi đầu nghiên cứu
0,004*
Đáp ứng hoàn toàn n =71 5,6 (3,1-13,7) Đáp ứng một phần n = 50 10,1 (4,2-29,9) Không đáp ứng n = 16 18,7 (6,4-78,7) 55,6 (22,3-239,5)
0,05*
16,8 (3,1-83,7) 2,8 (1,7-5,8) 4,4 (2,1-6,9) 6 (2,3-14,3)
< 0,001*
18 (10,6-30,5) 4,5 (2,7-7,6) 12,1 (6,7-15,3) 12,0 (3,7-20,1)
Anti-dsDNA (trung vị, 25- 75%) (U/ml) Anti- nucleosome (trung vị, 25- 75%) (U/ml) Anti-C1q (trung vị, 25- 75%) (U/ml) Ghi chú: * Phép kiểm phi tham số Kruskal-Wallis
Nhận xét: Kháng thể anti-dsDNA và kháng thể anti-C1q có nồng độ khác biệt nhau
giữa 3 nhóm đáp ứng lâm sàng có ý nghĩa thống kê; trong đó, kháng thể anti-C1q có
sự khác biệt rõ nét nhất. Kháng thể anti-nucleosome chưa thấy sự khác biệt giữa 3
nhóm đáp ứng lâm sàng có ý nghĩa.
84
Phép kiểm Kruskal-Wallis (χ2=10,988), df =2, p=0,004 Biểu đồ 3.15: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA theo các kiểu đáp ứng lâm sàng ở
lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể aanti-dsDNA giảm đáng kể từ lần thăm khám đầu tiên và càng thấp nếu thuyên giảm bệnh càng nhiều.
Phép kiểm Kruskal-Wallis (χ2= 5,989), df =2, p=0,05
Biểu đồ 3.16: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome theo các kiểu đáp ứng lâm
sàng ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome giảm đáng kể sau 6 tháng điều trị.
Tuy nhiên, kháng thể này không phân biệt được các tình trạng đáp ứng lâm sàng
khác nhau.
85
Phép kiểm Kruskal-Wallis (χ2=23,899), df =2, p < 0,001
Biểu đồ 3.17: Nồng độ kháng thể anti-C1q theo các kiểu đáp ứng lâm sàng ở
lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng so sánh với lần đầu
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-C1q giảm đáng kể sau 6 tháng điều trị và khác
biệt rõ rệt giữa các nhóm đáp ứng lâm sàng.
Phép kiểm Wilcoxon, z = -8,776, p<0,001
Biểu đồ 3.18: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu
Nhận xét: Đa số các BN có nồng độ kháng thể giảm sau 6 tháng tương ứng với tình
trạng đáp ứng lâm sàng.
86
Phép kiểm Wilcoxon, z = -8,503, p<0,001.
Biểu đồ 3.19: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong nhóm có đáp ứng lâm sàng
Nhận xét: Đa số các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-dsDNA giảm sau 6
tháng tương ứng với tình trạng đáp ứng lâm sàng.
Phép kiểm Wilcoxon, z = - 6,658, p < 0,001.
Biểu đồ 3.20: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-dsDNA của từng bệnh nhân
trong nhóm đáp ứng hoàn toàn
Nhận xét: Gần như toàn bộ các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-dsDNA giảm
sau 6 tháng điều trị tương ứng với tình trạng đáp ứng hoàn toàn.
87
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, Z = -7,036, p< 0,001
Biểu đồ 3.21: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh
nhân trong toàn bộ nhóm nghiên cứu
Nhận xét: Đa số các trường hợp đều có nồng độ kháng thể giảm đáng kể sau 6
tháng tương ứng đáp ứng lâm sàng.
Phép kiểm Wilcoxon, z = -6,624, p < 0,001.
Biểu đồ 3.22: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh
nhân trong nhóm có đáp ứng lâm sàng
Nhận xét: Đa số các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-nucleosome giảm sau 6
tháng tương ứng tình trạng đáp ứng lâm sàng.
88
Phép kiểm Wilcoxon, z = -5,3, p < 0,001
Biểu đồ 3.23: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-nucleosome của từng bệnh
nhân trong nhóm có đáp ứng hoàn toàn
Nhận xét: Gần như toàn bộ các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-nucleosome
giảm đáng kể sau 6 tháng điều trị tương ứng với tình trạng đáp ứng lâm sàng hoàn
toàn.
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, z = -8,828, p<0,001
Biểu đồ 3.24: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q của từng bệnh nhân
trong toàn bộ nhóm nghiên cứu
Nhận xét: Đa số các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-C1q giảm sau 6 tháng
tương ứng tình trạng đáp ứng lâm sàng.
89
Phép kiểm Wilcoxon, z = -8,269, p < 0,001
Biểu đồ 3.25: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q của từng bệnh nhân
trong nhóm có đáp ứng lâm sàng
Nhận xét: Đa số các trường hợp có nồng độ kháng thể Anti-C1q giảm sau 6 tháng
tương ứng với tình trạng đáp ứng lâm sàng.
Phép kiểm phi tham số Wilcoxon, z = -6,349, p < 0,001
Biểu đồ 3.26: Theo dõi dọc nồng độ kháng thể anti-C1q trong nhóm bệnh nhân
có đáp ứng hoàn toàn
Nhận xét: Gần như toàn bộ các trường hợp có nồng độ kháng thể anti-C1q giảm
đáng kể sau 6 tháng điều trị tương ứng với tình trạng đáp ứng hoàn toàn.
90
Bảng 3.28: Bảng nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-
C1q theo tình trạng viêm thận lupus hoạt động hay không hoạt động trên lâm
sàng ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng
p
Khởi đầu nghiên cứu
Viêm thận lupus hoạt động
Viêm thận lupus không hoạt động 5,6 (3,1-13,7) 55,6 (22,3-239,5) 12,6 (4,6-30,9) 0,003*
16,8 (3,1-83,7) 4,7 (2,2-8,4) 2,8 (1,7-5,8) 0,029*
18 (10,6-30,5) 12,0 (5,3-16,7) 4,5 (2,7-4,6) < 0,001*
Anti-dsDNA (Trung vị, 25- 75%) (U/ml) Anti- nucleosome (Trung vị, 25- 75%) (U/ml) Anti-C1q (Trung vị, 25- 75%) (U/ml) Ghi chú: *Phép kiểm Mann-Whitney U
Nhận xét: Cả 3 kháng thể đều có nồng độ khác biệt giữa hai nhóm viêm thận lupus
hoạt động và không hoạt động theo tiêu chuẩn lâm sàng có ý nghĩa thống kê.
Phép kiểm Mann-Whitney U z=- 3,001, p=0,003
Biểu đồ 3.27: Nồng độ kháng thể anti-dsDNA theo các nhóm viêm thận lupus
“hoạt động” và “không hoạt động” ở lần khám theo dõi sau 6 tháng
Nhận xét: Nồng độ kháng thể aanti-dsDNA giảm đáng kể ở lần thăm khám thứ 2
sau 6 tháng và có sự khác biệt giữa 2 nhóm viêm thận lupus hoạt động và không
hoạt động có ý nghĩa thống kê.
91
Phép kiểm Mann-Whitney U z=- 2,184, p=0,029
Biểu đồ 3.28: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome theo các nhóm viêm thận
lupus “hoạt động” và “không hoạt động” ở lần thăm khám theo dõi sau 6
tháng
Nhận xét: Nồng độ kháng thể anti-nucleosome giảm đáng kể ở lần thăm khám thứ
hai sau 6 tháng và khác biệt giữa hai nhóm viêm thận lupus hoạt động và không
hoạt động theo tiêu chuẩn lâm sàng có ý nghĩa thống kê.
Phép kiểm Mann-Whitney U z= -4,883, p < 0,001
Biểu đồ 3.29: Nồng độ kháng thể anti-C1q theo các nhóm viêm thận lupus
“hoạt động” và “không hoạt động” ở lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng
Nhận xét: Nồng độ kháng thể aanti-C1q giảm đáng kể ở lần thăm khám thứ hai sau
6 tháng và khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm viêm thận lupus hoạt động và không hoạt
động theo tiêu chuẩn lâm sàng có ý nghĩa thống kê.
92
Bảng 3.29: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm anti-dsDNA dương tính ở lần khám theo dõi
sau 6 tháng
Tổng
Viêm thận lupus hoạt động 29 Viêm thận lupus không hoạt động 9 38
62 37 99
71 66 137
Anti-dsDNA dương tính (≥ 20 U/ml) Anti-dsDNA âm tính (<20 U/ml) Tổng Ghi Chú: Phép kiểm Chi bình phương (χ2= 16,679), df = 1, p = < 0,001
Nhận xét: Kháng thể anti-dsDNA dương tính liên quan với viêm thận lupus hoạt
động trên lâm sàng, với OR = 5,4 (95% khoảng tin cậy 2,3-12,6).
Từ Bảng 2x2 trên, chúng ta có thể tính độ nhạy của xét nghiệm kháng thể
anti-dsDNA để chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi sau
điều trị là 29/66 tương đương 43,93%; độ đặc hiệu là 62/71 tương đương 87,3%; giá
trị tiên đoán dương là 29/38 tương đương 76,3%; giá trị tiên đoán âm là 62/99
tương đương 62%.
Biểu đồ 3.30: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA trong
chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi
Ghi chú: Xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA trong chẩn đoán viêm thận lupus hoạt
động trong quá trình theo dõi có diện tích dưới đường cong (AUC =0,65); p= 0,003;
95% khoảng tin cậy: 0,55-0,74.
Nhận xét: Đây là xét nghiệm có giá trị chẩn đoán trung bình.
93
Bảng 3.30: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm kháng thể anti-nucleosome dương tính ở lần
khám theo dõi sau 6 tháng
Tổng
Viêm thận lupus hoạt động 15 Viêm thận lupus không hoạt động 4 19
67 51 118
71 66 137
Anti-nucleosome dương tính (≥ 12 U/ml) Anti-nucleosome âm tính (<12 U/ml) Tổng Ghi chú: Phép kiểm Chi bình phương (χ2= 8,367), df = 1, p = 0,004
Nhận xét: Kháng thể anti-nucleosome dương tính liên quan với viêm thận lupus
hoạt động trên lâm sàng, với OR = 4,9 (95% khoảng tin cậy 1,5-15,7).
Từ Bảng 2x2, chúng tôi có thể tính độ nhạy để chẩn đoán viêm thận lupus
hoạt động trong quá trình theo dõi là 15/66, tương đương 22,7%; độ đặc hiệu là
67/71, tương đương 94,4%; giá trị tiên đoán dương là 15/19, tương đương 78,9%;
giá trị tiên đoán âm là 67/118, tương đương 56,8%.
Biểu đồ 3.31: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-nucleosome
trong chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi
Ghi chú: Xét nghiệm kháng thể anti-nucleosome trong chẩn đoán viêm thận lupus
hoạt động trong quá trình theo dõi có diện tích dưới đường cong (AUC=0,61),
p=0,029; 95% khoảng tin cậy: 0,51-0,71.
Nhận xét: Đây là xét nghiệm có giá trị chẩn đoán yếu.
94
Bảng 3.31: Bảng 2x2 về tần suất viêm thận lupus “hoạt động” và “không hoạt
động” liên quan đến xét nghiệm kháng thể anti-C1q dương tính ở lần khám
sau 6 tháng
Tổng
Viêm thận lupus hoạt động 41
Viêm thận lupus không hoạt động 7
48
64
25
89
71
66
137
Anti-C1q dương tính (≥ 10 U/ml) Anti-C1q âm tính (<10 U/mll) Tổng Ghi chú: Phép kiểm Chi bình phương (χ2= 41,045), df = 1, p < 0,001
Nhận xét: Kháng thể anti-C1q dương tính liên quan với viêm thận lupus hoạt động
trên lâm sàng, với OR = 15 (95% khoảng tin cậy 5,9- 37,8).
Từ Bảng 2x2 trên, chúng tôi có thể tính tính độ nhạy để chẩn đoán viêm thận
lupus hoạt động trong quá trình theo dõi là 41/66, tương đương 62,1%; độ đặc hiệu
là 64/71, tương đương 90%; giá trị tiên đoán dương là 41/48, tương đương 85,4%;
giá trị tiên đoán âm là 64/89, tương đương 71,9%.
Biểu đồ 3.32: Đường cong ROC của xét nghiệm kháng thể anti-C1q trong chẩn
đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi
Ghi chú: Xét nghiệm kháng thể anti-C1q trong chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi có diện tích dưới đường cong (AUC=0,742), p<0,001; 95% khoảng tin cậy: 0,65-0,83. Nhận xét: Đây là xét nghiệm có giá trị chẩn đoán khá.
95
Bảng 3.32: Phân tích hồi qui logistic đa biến về mối liên quan giữa các kháng
thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q, bổ thể C3/máu, C4/máu và viêm
thận lupus hoạt động trên lâm sàng ở lần khám theo dõi sau 6 tháng
Biến số độc lập Hệ số B Ý nghĩa thống kê OR
(Wald) p = 0,11 2,4 KTC* 95% 0,8-7,1 0,9
p = 0,381 2 0,4-8,9 0,4
p < 0,001 7,2 2,6-20,4 2,0
p = 0,006 5,0 1,6-16 1,6
p = 0,74 1,4 0,2-9 0,3
-1,39 p < 0,001 0,249
Anti-dsDNA dương tính (≥ 20 U/ml) Anti-nucleosome dương tính (≥ 12 U/ml) Anti-C1q dương tính (≥ 10 U/ml) Giảm bổ thể C3/máu (<70 mg/dl) Giảm bổ thể C4/máu (<10 mg/dl) Hằng số b0
Ghi chú: *KTC: Khoảng tin cậy;
p được xác định dựa vào phân tích hồi qui logistic đa biến
Nhận xét: Kết quả phân tích hồi qui logistic đa biến cho thấy chỉ có kháng thể anti-
C1q dương tính, và giảm bổ thể C3/máu có ý nghĩa tiên đoán độc lập viêm thận
lupus hoạt động trong quá trình theo dõi bệnh.
96
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1 Bàn về đặc điểm chính về dân số học, lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân
viêm thận lupus hoạt động tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Trong 5 năm từ tháng 04 năm 2014 đến tháng 03 năm 2019, chúng tôi thu
nhận được 144 bệnh nhân, trong đó có 116 bệnh nhân có viêm thận lupus thể tăng
sinh (nhóm III và nhóm IV trên giải phẫu bệnh). Đây là một số lượng bệnh nhân
tương đối lớn so với các nghiên cứu khác. Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nữ:
nam là 9:1, tuổi trung vị là 27 cũng gần giống với các y văn về dịch tể học [18],
[48], [65], [116], [122], [149], [155]. Các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu
phần lớn có bệnh lupus ban đỏ hệ thống (64,6%) cũng như viêm thận lupus (66%)
mới phát hiện trong khoảng 3 tháng nên ít ảnh hưởng bởi điều trị, bởi quá trình
bệnh lâu dài có thể làm thay đổi tính chất của bệnh và làm thay đổi các kết quả xét
nghiệm định lượng nồng độ kháng thể do quá trình điều trị. Các bệnh nhân của
chúng tôi, ngoài tổn thương thận là tiêu chuẩn chọn bệnh, có tổng số cơ quan bị tổn
thương do lupus trung vị là 3 cơ quan, chủ yếu là cơ xương khớp, da niêm, huyết
học (giảm bạch cầu, tán huyết miễn dịch, giảm tiểu cầu) giống các tổn thương
thường gặp theo y văn [18], [116], [122], [127], [149]. Tất cả bệnh nhân được nhận
vào nghiên cứu ban đầu đều là viêm thận lupus hoạt động, có tiểu đạm nhiều với
mức protein niệu trung vị lên đến 4100 mg/24 giờ, với 62% các trường hợp tiểu
protein mức hội chứng thận hư, nồng độ albumin huyết thanh giảm thấp ở mức
trung vị 22,6 g/l, tỉ lệ tiểu máu lên đến 84,7%. Phần lớn bệnh nhân biểu hiện cơn
bùng phát kiểu tiểu protein, trong khi suy thận tiến triển nhanh chỉ có 24,3% (trong
đó có 5 trường hợp được chẩn đoán suy thận tiến triển nhanh do thuyên tắc vi mạch
huyết khối nên tỉ lệ suy thận tiến triển nhanh do nguyên nhân viêm cầu thận chỉ còn
20,8%). Các đặc điểm lâm sàng này cũng phù hợp với kết quả ghi nhận trong y văn
[18], [81], [116], [122], [149].
Giảm bổ thể máu cũng là một trong những dấu chứng cho thấy hoạt tính
lupus đang cao. Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ giảm bổ thể C3 trong máu là
86,1%, giảm bổ thể C4 trong máu là 50%. Kết quả này gần giống như các nghiên
97
cứu có tỉ lệ viêm thận hoạt động cao [107], [108]. Khi sử dụng thang điểm đánh giá
về độ hoạt động viêm thận, chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn BILAG Thận 2004. Kết
quả của chúng tôi cho thấy có 137 BN (95,1%) được xếp BILAG Thận mức “A”, là
mức hoạt động viêm thận mạnh nhất theo tiêu chuẩn BILAG Thận 2004 [80], [145],
và 7 BN (4,9%) được xếp mức “B”. Như vậy, cũng phù hợp tiêu chuẩn lâm sàng có
100% BN viêm thận lupus hoạt động khi mới vào nghiên cứu. Trong thang điểm
BILAG Thận, ngoài các thang đo về mức protein niệu, thay đổi chức năng thận
hoặc creatinine huyết thanh, hiện diện cặn lắng nước tiểu hoạt động giống như tiêu
chuẩn lâm sàng, còn có thêm tiêu chuẩn về giải phẫu bệnh như bằng chứng mô học
về viêm thận lupus hoạt động trong 3 tháng qua, tiêu chuẩn tăng huyết áp [22], [65],
[80], [145].
Bảng 4.1: So sánh các đặc điểm về dịch tể học và đặc điểm lâm sàng giữa các
nghiên cứu
Nghiên cứu Năm Số BN Tuổi
Nơi nghiên cứu Tỉ lệ nữ:nam
Protein niệu 24 giờ (mg) 4100 Chúng tôi Việt Nam 2019 144 27 9:1
ĐT Hương [6] Việt Nam 2013 77 31 8:1
Moroni G. [108] Ý 2009 228 32 9:1 3900
Moroni G. [107] Ý 2015 107 36 7:1 3400
Yang J. [152] Trung Quốc 2015 921 35 12:1 3620
Yang X.W.[153] Trung Quốc 2012 136 32 6:1 4970
Tan Y. [140] Trung Quốc 2013 218 32 6:1 4360
Hệ thống SLEDAI là mô hình đánh giá toàn diện độ hoạt động của bệnh
lupus ban đỏ hệ thống. Nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số SLEDAI-2K tại thời
điểm nhận vào nghiên cứu khá cao, với trung vị là 20, tứ phân vị 25%-75% là 16-
24. Nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số SLEDAI cao tương tự nghiên cứu của
Nguyễn Thị Ngọc Dung [3] thực hiện trên 67 bệnh nhi viêm thận lupus tại Bệnh
viện Nhi Đồng 1, và tương tự nghiên cứu của Lê Thuý Hằng [4] thực hiện trên 114
bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động tại Bệnh viện Bạch Mai. Ngược lại, so với hai
98
nghiên cứu của Leung Y.Y. [94] và Hanly J.G. [71], chỉ số SLEDAI-2K trung vị
của chúng tôi cao hơn nhiều. Nguyên nhân là do các nghiên cứu này thực hiện tại
phòng khám nên sẽ bao gồm bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động mạnh và các
bệnh nhân ở giai đoạn ổn định. Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi có 142
bệnh nhân (98,6%) viêm thận lupus hoạt động theo tiêu chuẩn lâm sàng có chỉ số
SLEDAI-2K cao (≥6). Điều này là do chỉ số SLEDAI-2K phản ánh độ hoạt động
toàn bộ của bệnh lupus (cơn bùng phát lupus hay còn gọi là “lupus flare”), trong khi
chúng ta đang quan tâm viêm thận lupus hoạt động (cơn bùng phát tổn thương thận,
hay còn gọi là “renal flare”).
Bảng 4.2: So sánh điểm số SLEDAI-2K theo một số tác giả trên đối tượng viêm
thận lupus
Nghiên cứu Năm Số bệnh nhân SLEDAI-2K
Leung Y.Y. [94] 2007 109 5,48 (2-8)
Hanly J.G. [71] 2016 566 8,5 ± 6,7
N.T.N. Dung [3] 2011 67 22,5 ± 9,5
L.T. Hằng [4] 2016 114 16,68 ± 5,44
Chúng tôi 2019 144 20 (16-24)
Về điều trị trước khi vào nghiên cứu, do chưa có kết quả giải phẫu bệnh, nên
phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng corticosteroid và hydroxychloroquine, chỉ
một số ít khoảng 30% được sử dụng phối hợp với mycophenolate mofetil. Tóm lại,
đây là những bệnh nhân đang vào đợt bùng phát viêm thận lupus nên dễ đánh giá
các chỉ số hoạt động và mối tương quan của chúng.
4.2 Bàn về tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-
dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q dương tính tại thời điểm nhận vào
nghiên cứu
Tất cả 144 bệnh nhân tại thời điểm nhận vào nghiên cứu đều thoả tiêu chuẩn
viêm thận lupus hoạt động trên lâm sàng. Trong đó, phần lớn bệnh nhân có cơn
bùng phát thận kiểu tiểu protein với tỉ lệ 79,2%, trong khi cơn bùng phát kiểu viêm
99
thận chỉ có 20,8%. Kết quả này tương tự phần lớn các nghiên cứu trên thế giới
[127], [135].
4.2.1 Tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA
dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Nồng độ kháng thể anti-dsDNA trung vị của nghiên cứu của chúng tôi là
55,6 U/ml (tứ phân vị 25%-75% là 22,3 – 239,5 U/ml), có nghĩa là phần lớn đều
trên ngưỡng giá trị dương tính theo đề nghị của nhà sản xuất bộ kit xét nghiệm. Tỉ
lệ anti-dsDNA dương tính trong nghiên cứu của chúng tôi là 78,5%. Tỉ lệ này là khá
cao đối với xét nghiệm chẩn đoán lupus bởi vì nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao
gồm những bệnh nhân lupus có viêm thận với mức hoạt động mạnh (tiểu protein
nhiều, tỉ lệ tiểu máu cao). Điều này cũng đã được chứng minh trong nhiều nghiên
cứu cho thấy tỉ lệ anti-dsDNA dương tính nhiều trong bệnh cảnh lupus có tổn
thương thận hơn là bệnh nhân không có tổn thương thận [114], [115]. Kết quả của
chúng tôi tương đương kết quả của nhiều nghiên cứu; chẳng hạn như nghiên cứu
của Heidenrich U. và cộng sự [72] tại Áo trên 35 BN viêm thận lupus là 79,5%;
nghiên cứu của Jia Y. [84] trên 33 bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động tại Trung
Quốc có tỉ lệ là 78,8%; nghiên cứu của Mok C.C. và cộng sự tại Trung Quốc [105]
trên 245 BN SLE trong đó có 36 BN có viêm thận lupus, có tỉ lệ là 75%; Almeida
de Jesus A. và cộng sự tại Brazil [16] trên 67 BN SLE trong đó có 50 BN viêm thận
lupus có tỉ lệ dương tính là 72%; nghiên cứu của Moroni G [107] tại Ý trên 107 BN
viêm thận lupus có kết quả là 77,5%; nghiên cứu hồi cứu của Jaekel H.P. và cộng sự
[82] tại Đức trên 37 BN viêm thận lupus có tỉ lệ anti-dsDNA dương tính là 70,3%;
nghiên cứu của Duzgun N. và cộng sự năm 2007 [47] thực hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ trên
51 BN có tỉ lệ là 78,4%; nghiên cứu của Smykal-Jankowiak K. [132] tại Ba Lan
trên 48 BN là 77%; nghiên cứu của Yang X.W. tại Trung Quốc [153] trên 136 BN
viêm thận lupus là 70,6%.
Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ anti-dsDNA dương tính thấp hơn so với
nghiên cứu của Grootscholten C. và cộng sự [67] thực hiện tại Đức có tỉ lệ dương
tính lên đến 96%. Đây là nghiên cứu tiến cứu, thực hiện trên 52 bệnh nhân viêm
100
thận lupus được chứng minh bằng sinh thiết thận. Tất cả bệnh nhân trong nghiên
cứu này đều là viêm cầu thận tăng sinh lan toả, một dạng bệnh nặng có độ hoạt
động cao. Trong khi nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 80,6% số bệnh nhân ở dạng
viêm cầu thận tăng sinh. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Bigler C. năm
2009 [25] trên 35 BN viêm thận lupus tăng sinh nhóm III hoặc nhóm IV cho tỉ lệ
dương tính lên đến 94,3%.
Ngược lại, nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ anti-dsDNA dương tính cao hơn
một số nghiên cứu trên BN viêm thận lupus khác. Chẳng hạn, nghiên cứu của Samy
H. [129] thực hiện năm 2010 tại Tunisia trên 105 BN (trong đó có 67,4% BN thuộc
nhóm III hoặc nhóm IV) có tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính là 67,6%; nghiên
cứu của Braun A. và cộng sự năm 2007 tại Đức [30], thực hiện trên 78 BN SLE
trong đó có 47 BN bị viêm thận lupus có tỉ lệ anti-dsDNA dương tính là 66%.
Tương tự là nghiên cứu của Zikovic V. [159] thực hiện tại Cộng hoà Sec năm 2014,
trên 85 bệnh nhân SLE, trong đó có 32 BN viêm thận lupus, có tỉ lệ 66%. Các
nghiên cứu khác có tỉ lệ dương tính rất thấp như nghiên cứu của Gutierrez-
Adrianzen O.A. năm 2006 [68] tại Brazil trên 87 bệnh nhân SLE (có 43 BN viêm
thận lupus) có tỉ lệ 34,9%; nghiên cứu của Kiss E. năm 2009 [90] tại Hungary trên
107 bệnh nhân SLE (35 BN bị viêm thận lupus) có tỉ lệ 37,1%. Các nghiên cứu này
có số lượng BN nhỏ, không rõ kết quả sinh thiết thận và cũng không rõ mức độ
viêm thận hoạt động, có lẽ vì thế mà tỉ lệ thấp.
Tại Việt Nam, năm 2014, tác giả Lê Hữu Doanh và Đào Thị Trang [2] đã
công bố công trình nghiên cứu về kháng thể anti-dsDNA thực hiện cắt ngang trên
172 BN tại Bệnh viện Da Liễu Trung ương (trong đó có 18 BN có tổn thương thận)
cho thấy tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính là 58,8%, thấp hơn so với nghiên
cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, trong công trình này tỉ lệ bệnh thận rất ít chỉ có 18
trường hợp trong tổng số 172 BN. Tác giả cũng nhận thấy nồng độ của kháng thể
anti-dsDNA cao trong nhóm có tổn thương thận hơn so với nhóm không có tổn
thương thận. Ngược lại, Đặng Thu Hương [6] thực hiện trên 77 BN tại Bệnh viện
Da Liễu TPHCM lại thấy tỉ lệ kháng thể anti-dsDNA dương tính lên đến 84,8%.
101
Trong nghiên cứu này tác giả không nói rõ độ hoạt động của bệnh cũng như không
biết có bao nhiêu BN có tổn thương thận. Trần Thị Bích Hương và cộng sự vào năm
2015 [8], khi nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học thận của suy thận tiến
triển nhanh ở người trưởng thành tại Bệnh viện Chợ Rẫy trên 38 BN, trong đó có 34
BN viêm thận lupus với biểu hiện lâm sàng nặng (100% suy thận tiến triển nhanh,
88,2% có tiểu máu, 67,6% tiểu protein ngưỡng thận hư) cho thấy tỉ lệ kháng thể
anti-dsDNA dương tính là 78,8%, tương tự với kết quả của chúng tôi.
Bảng 4.3: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-dsDNA
dương tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu
Nghiên cứu Nơi nghiên cứu Số BN Tỉ lệ Năm
Việt Nam Chúng tôi 2019 144 78,5%
BV Chợ Rẫy TTB Hương [8] 2015 38 78,8%
Áo Heidenrich U. [72] 2009 35 79,5%
Trung Quốc Jia Y. [84] 2018 33 78,8%
Trung Quốc Mok C.C. [105] 2010 36 75%
Brazil 2012 50 72% Almeida de Jesus A. [16]
Ý Moroni G. [107] 2015 107 77,5%
Đức Jaekel H.P. [82] 2006 37 70,3%
Thổ Nhĩ Kỳ Duzgun N. [47] 2007 51 78,4%
Ba Lan 2011 48 77% Smykal-Jankowiak K. [132]
Yang X.W. [153] Trung Quốc 2012 136 70,6%
Grootscholten C. [67] Đức 2007 52 96%
Tây Ban Nha Bigler C. [25] 2009 35 94,3%
Trung Quốc Yang J. [152] 2015 921 63,3%
Tunisia Samy H. [129] 2010 105 67,6%
Đức Braun A. [30] 2007 47 66%
Séc Zikovic V. [159] 2014 32 66%
Brazil 2006 43 34,9% Gutierrez-Adrianzen O.A. [68]
Kiss E. [90] Hungary 2009 35 37,1%
102
Đa số các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ này dương tính cao ở những giai đoạn
hoạt động của bệnh, đặc biệt là khi có tổn thương thận. Nhưng kết quả có thể khác
nhau giữa các nghiên cứu là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Kháng thể anti-
dsDNA có nhiều phân nhóm, bao gồm IgA, IgG, IgE, IgM; nhưng không phải phân
nhóm nào cũng có thể là thủ phạm gây bệnh; chỉ có IgG và IgA tương quan với hoạt
động bệnh lupus ban đỏ hệ thống [146], [150], [157]. Ngược lại, kháng thể loại IgM
có tác dụng bảo vệ bằng cách thúc đẩy loại bỏ các sản phẩm của quá trình chết tế
bào theo chương trình và thông qua cơ chế điều hoà miễn dịch [150]. Riêng trong
nhóm các kháng thể IgG, chỉ những kháng thể có ái lực cao với kháng nguyên như
phân nhóm IgG1 và IgG3 mới có khả năng gây bệnh theo nghiên cứu của Villalta
D. và cộng sự [147]. Ở bệnh nhân SLE, nồng độ kháng thể anti-dsDNA phân nhóm
IgG1 trong huyết thanh luôn tăng lên trước khi xuất hiện cơn bùng phát thận; trong
khi phân nhóm IgG2a, IgG2b và IgG3 thường được trích xuất từ thận của BN bị
viêm thận lupus hoạt động [32], [61], [150], [154]. Ngoài ra, các phân nhóm IgG
khác nhau có tính đặc hiệu khác nhau đối với DNA, cho thấy sự khác biệt đáng kể
tính chất gắn với màng đáy cầu thận, sự hình thành lắng đóng phức hợp miễn dịch,
mức độ protein niệu [150], [157].
Các phương pháp thường được sử dụng để đo nồng độ kháng thể anti-
dsDNA bao gồm: phương pháp miễn dịch huỳnh quang trên tế bào Crithidia
luciliae, phương pháp ELISA, phương pháp miễn dịch phóng xạ (RIA) hay sử dụng
phương pháp Farr [22], [82], [150]. Mỗi phương pháp có ưu, khuyết điểm riêng.
Khi sử dụng xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA trong thực tế lâm sàng có 2 mục
đích quan trọng; đó là (1) giúp chẩn đoán SLE và (2) là công cụ theo dõi độ hoạt
động trong diễn tiến lâm sàng của bệnh. Với mục đích thứ nhất, phương pháp miễn
dịch huỳnh quang trên tế bào Crithidia luciliae và phương pháp Farr đáng tin cậy do
có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, phát hiện được các kháng thể có ái lực cao [150].
Với mục đích thứ hai, cần biết sự dao động của kháng thể anti-dsDNA theo thời
gian, cũng như ái lực tương đối của kháng thể anti-dsDNA thì phương pháp ELISA
là chọn lựa thích hợp do có thể định lượng được nồng độ kháng thể [150]. Đa số các
103
nghiên cứu thực hiện định lượng nồng độ kháng thể anti-dsDNA bằng phương pháp
ELISA, mặc dù dễ thực hiện, rẻ tiền, nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm đáng
lưu ý khi nhận định kết quả. Các điểm hạn chế này bao gồm tính không đồng nhất
về nguồn sản xuất kháng nguyên, về kích thước và tính trình diện kháng nguyên,
vấn đề gắn kết phức hợp miễn dịch, tạp nhiễm ssDNA, ngưỡng giá trị bình thường
khác nhau giữa các bộ kit xét nghiệm. Khi nhận diện phức hợp miễn dịch, đôi khi
không liên quan trực tiếp đến kháng nguyên mà bị ảnh hưởng bởi lớp áo bọc ngoài
kháng nguyên. Ngoài ra, phần lớn các bộ kit xét nghiệm chỉ có thể phát hiện kháng
thể anti-dsDNA nói chung mà không phân biệt được ái lực cao hay ái lực thấp [63],
[150], [157].
4.2.2 Tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-nucleosome
dương tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Nồng độ kháng thể anti-nucleosome trung vị trong nhóm nghiên cứu của
chúng tôi là 16,8 U/ml (tứ phân vị 25% - 75% là 3,1 – 83,7 U/ml). Tỉ lệ BN có
kháng thể anti-nucleosome dương tính trong nghiên cứu của chúng tôi là 54,9%. Tỉ
lệ này mặc dù không cao, nhưng tương đương kết quả một số công trình trên thế
giới về viêm thận lupus. Yang J. [152] đã hồi cứu trên 921 BN tại một trung tâm
của Trung Quốc từ năm 2002 đến năm 2013, tỉ lệ dương tính 59,8%. Nghiên cứu
của Gutierrez-Adrianzen O.A. và cộng sự năm 2006 [68] trên 87 bệnh nhân SLE
trong đó có 43 BN bị viêm thận lupus thấy có tỉ lệ kháng thể anti-nucleosome
dương tính tại thời điểm vào nghiên cứu là 44,8%. Tương tự nghiên cứu của
Metwally I.M. [103] thực hiện năm 2019 tại Ai Cập trên 40 BN có tỉ lệ dương tính
là 60%, của Moura C.G. năm 2009 tại Brazil trên 81 bệnh nhân viêm thận lupus có
tỉ lệ là 53% [110]. Nghiên cứu của Almeida de Jesus A. năm 2012 trên 50 bệnh
nhân viêm thận lupus cũng cho kết quả không khác biệt là 48% [16].
Tuy nhiên, có nhiều công trình cho thấy kháng thể anti-nucleosome có khả
năng chẩn đoán viêm thận lupus tại thời điểm mới nhận vào nghiên cứu rất tốt, với
tỉ lệ dương tính cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của Cervera R. năm
2003 tại Tây Ban Nha trên 52 BN thấy tỉ lệ anti-nucleosome dương tính lên đến
104
81% [37]. Nghiên cứu của Duzgun N. và cộng sự thực hiện năm 2007 trên 51 BN
có tỉ lệ dương tính là 74,5% [47]. Samy H. [129] năm 2010 thực hiện xét nghiệm
này trên 105 BN (trong đó có 67,4% thuộc nhóm III hoặc nhóm IV trên sinh thiết
thận), tại Tunisia cho thấy tỉ lệ này là 71,5%. Nghiên cứu của Prahan V.D. và cộng
sự thực hiện tại Ấn Độ năm 2010 trên 44 BN có tỉ lệ dương tính lên đến 86,4%
[120]; tương tự nghiên cứu của Abdalla M.A. thực hiện năm 2018 tại Ai Cập trên
46 BN có tỉ lệ 76% [12]; nghiên cứu của Braun A. năm 2007 thực hiện tại Đức trên
47 BN có tỉ lệ 68% [30]; tác giả Grootscholten C. năm 2007 thực hiện tại Đức trên
52 BN cho thấy có tỉ lệ 81% [67]; Moroni G. năm 2015 [107] thực hiện trên 107
bệnh nhân viêm thận lupus tại Ý cho thấy tỉ lệ dương tính là 80,3%. Nghiên cứu của
Bigler C. diễn ra tại Tây Ban Nha năm 2008 [24] trên 35 bệnh nhân viêm thận
lupus cho thấy kháng thể anti-nucleosome có khả năng chẩn đoán tổn thương thận
do lupus tốt nhất với tỉ lệ dương tính lên đến 89%-90%. Nghiên cứu của Bigler C.
[24] do chỉ tính tỉ lệ anti-nucleosome trên bệnh nhân viêm thận lupus thể tăng sinh
(nhóm III hoặc nhóm IV) đang hoạt động nên có tỉ lệ dương tính rất cao. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, Ông cũng cho thấy rằng kháng thể anti-nucleosome mặc dù
dương tính cao nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có tổn
thương thận và nhóm không tổn thương thận hoặc nhóm có tổn thương thận không
hoạt động. Kết quả này cũng được tìm thấy tương tự trong công trình nghiên cứu
của Elessawi D.F [49] trên 50 BN SLE (có 60% có tổn thương thận) tại Ai Cập năm
2019. Vì vậy, kháng thể anti-nucleosome chưa cho thấy tính đặc hiệu riêng cho tổn
thương thận. Hơn nữa, đây là nghiên cứu cắt ngang, số lượng bệnh nhân nhỏ, thông
tin về khoảng thời gian bị bệnh không đầy đủ nên kết quả có thể chưa chính xác.
Tại Việt Nam, năm 2013 Đặng Thu Hương và Nguyễn Tất Thắng có công bố
công trình nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Da Liễu TPHCM [6] trên 77 bệnh
nhân lupus ban đỏ hệ thống hoạt động với chỉ số SLEDAI là 9,38 ± 4,1, có kết quả
tỉ lệ kháng thể anti-nucleosome dương tính lên đến 90,9%. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu này tác giả không nói rõ có bao nhiêu bệnh nhân có tổn thương thận tham gia
vào nghiên cứu, và không có bằng chứng về sinh thiết thận ở nhóm nghiên cứu.
105
Như vậy, tỉ lệ kháng thể anti-nucleosome nói trên là tỉ lệ dương tính của bệnh nhân
bị SLE hoạt động nói chung chứ không phải bệnh nhân viêm thận lupus. Do đó, kết
quả sẽ khác hoàn toàn với nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu trên bệnh nhân
viêm thận lupus.
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng phức hợp nucleosome và kháng
thể anti-nucleosome sẽ gắn kết với màng đáy cầu thận, sau đó được nhận diện bởi
C1q. Hậu quả là C1q trở thành mục tiêu để sinh ra kháng thể, dẫn đến quá trình hoạt
hoá bổ thể, tiếp tục gây ra tổn thương mô tại chỗ và làm cho khả năng thanh lọc
phức hợp miễn dịch phụ thuộc C1q bị thay đổi. Vì thế, người ta ngoại suy rằng cả
kháng thể anti-nucleosome và anti-C1q đều cần thiết cho quá trình phát sinh viêm
thận lupus [24]. Kháng thể anti-nucleosome có vai trò sinh bệnh trong lupus, đặc
biệt là đặc hiệu với tổn thương thận được chứng minh trong nhiều nghiên cứu [42],
[59], [102], [129]. Các nghiên cứu này chứng minh mối liên quan giữa viêm thận và
sự hiện diện của kháng thể anti-nucleosome lưu hành trong máu ở bệnh nhân SLE,
thậm chí một số nghiên cứu còn cho thấy kháng thể anti-nucleosome còn tương
quan tốt với viêm thận hơn cả kháng thể anti-dsDNA [37], [68]. Tuy nhiên, kết quả
có thể khác biệt giữa nhiều nghiên cứu do các nguyên nhân sau đây: (1) sự liên
quan giữa tổn thương thận và nồng độ kháng thể anti-nucleosome phụ thuộc nhiều
vào tương tác phức tạp giữa những thay đổi trong cấu trúc bậc 4 của nucleosome và
các vị trí kháng nguyên mục tiêu trong mô thận. Điều đó có nghĩa là histone nằm
trong cấu trúc nucleosome tích điện dương, trong khi heparan sulfate trong màng
đáy cầu thận tích điện âm, ảnh hưởng đến các tương tác này [59],[130]; (2) kháng
thể anti-nucleosome gắn vào mục tiêu là nucleosome chứ không phải DNA hay
histone, là thành phần xuất hiện sớm trong bệnh SLE và thậm chí trước khi hình
thành anti-dsDNA và anti-histone [95], [129] và có thể thay đổi trong quá trình diễn
tiến của bệnh; (3) một số nghiên cứu cho thấy anti-nucleosome IgG3 isotype có tính
chọn lọc với viêm thận lupus hơn các phân nhóm khác [17]; (4) kỹ thuật ELISA
phát hiện kháng thể anti-nucleosome có kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu do
sử dụng các kháng nguyên khác nhau [102]. Theo Ghiggeri G.M. [61], khi sử dụng
106
các kháng nguyên khác nhau để phân tích xét nghiệm bằng phương pháp ELISA sẽ
cho kết quả khác nhau. Các kháng thể gắn với các biến thể histone không đặc hiệu,
không hằng định trong nucleosome phụ thuộc vào tế bào đang ở giai đoạn nào của
chu kỳ tế bào. Vì vậy, việc lấy máu xét nghiệm vào thời điểm nào trong quá trình
diễn tiến của bệnh cũng ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu [61].
Bảng 4.4: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-
nucleosome dương tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu
Nghiên cứu Nơi nghiên cứu Năm Số BN Tỉ lệ
Chúng tôi Việt Nam 2019 144 54,9%
Yang J. [152] Trung Quốc 2015 921 59,8%
Metwally I.M. [103] Ai Cập 2019 40 60%
Gutierrez-Adrianzen O.A. [68] Brazil 2006 43 44,8%
Moura C.G. [110] Brazil 2009 81 53%
Almeida de Jesus A. [16] Brazil 2012 50 48%
Cervera R. [37] Tây Ban Nha 2003 52 81%
Samy H. [129] Tunisia 2010 105 71,5%
Duzgun N. [47] Thổ Nhĩ Kỳ 2007 51 74,5%
Prahan V.D. [120] Ấn Độ 2010 44 86,4%
Abdalla M.A. [12] Ai Cập 2018 46 76%
Braun A. [30] Đức 2007 47 68%
Grootscholten C. [67] Đức 2007 52 81%
Moroni G. [107] Ý 2015 107 80,3%
4.2.3 Tỉ lệ bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-C1q dương
tính tại thời điểm nhận vào nghiên cứu
Nồng độ kháng thể anti-C1q trung vị trong nghiên cứu của chúng tôi là 18
U/ml (tứ phân vị 25%-75% là 10,6 – 30,5 U/ml). Tỉ lệ bệnh nhân bị viêm thận lupus
hoạt động có nồng độ anti-C1q dương tính là 77,8%. Nghiên cứu của chúng tôi có
kết quả giống với nghiên cứu của Marto N. [100] năm 2005 tại Anh trên 77 BN là
74%; nghiên cứu của Monova D. [106] năm 2009 tại Nga trên 54 BN có kết quả là
107
79,6%; nghiên cứu của Cai X. [33] năm 2010 tại Trung Quốc trên 73 BN có tỉ lệ
79,5%; nghiên cứu của Katsumata Y. [86] năm 2011 tại Nhật Bản trên 21 BN có kết
quả là 71%; nghiên cứu của Matrat A. [101] năm 2011 tại Pháp trên 23 BN là
78,3%; nghiên cứu của Moroni G. [107] năm 2015 tại Ý trên 107 bệnh nhân viêm
thận lupus là 70,5%. Kết quả của chúng tôi hơi cao hơn nghiên cứu của
Birmingham D.J. [26] năm 2016 tại Hoa Kỳ trên 73 BN là 63%; nghiên cứu của
Braun A. [30] năm 2007 tại Đức trên 47 BN là 61,7%; nghiên cứu của
Grootscholten C. năm 2007 [67] tại Đức trên 52 BN là 65%; nghiên cứu của Sinico
R.A. [131] năm 2005 tại Ý trên 40 BN là 60%; nghiên cứu của Jaekel H.P. [82] năm
2006 tại Đức trên 37 BN là 64,9%; nghiên cứu của Smykal-Jankowiak K. [132]
năm 2011 tại Ba Lan trên 34 bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động là 60%. Kết quả
anti-C1q dương tính ở bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động của chúng tôi cao hơn
đáng kể so với các nghiên cứu khác: nghiên cứu của tác giả Metwally I.M. [103]
thực hiện trên 40 BN viêm thận lupus tại Ai Cập năm 2019 có tỉ lệ dương tính là
57,5%; nghiên cứu của Moura C.G. và cộng sự năm 2009 [110] tại Brazil trên 81
BN là 59%; nghiên cứu của Mok C.C. năm 2010 tại Trung Quốc [105] trên 36 BN
là 53%; nghiên cứu của Tan Y. năm 2009 tại Trung Quốc trên 83 BN là 55,4%
[141]; nghiên cứu của Zhang C.Q. năm 2011 [158] tại Trung Quốc là 50%; nghiên
cứu của Yang XW. năm 2012 [153] tại Trung Quốc là 54,4%; nghiên cứu của
Stiborova I. [136] năm 2015 tại Slovania trên 39 BN là 58%; nghiên cứu của Jia Y.
[84] năm 2018 trên 50 bệnh nhân viêm thận lupus là 56%. Nghiên cứu của tác giả
Fang Y. và cộng sự năm 2009 [51] là một nghiên cứu khá có giá trị khi thực hiện
trên 150 bệnh nhân viêm thận lupus có sinh thiết thận cho kết quả tỉ lệ kháng thể
anti-C1q dương tính là 56% thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, khi
phân tích trên 82 bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh nhóm IV thì lại có tỉ lệ 71,9%
gần bằng với kết quả của chúng tôi. Điều này cũng hợp lý vì nghiên cứu của chúng
tôi có số bệnh nhân viêm thận lupus tăng sinh (nhóm III và nhóm IV) chiếm tỉ lệ
cao trên 80%.
108
Có một số nghiên cứu cho kết quả nồng độ kháng thể này rất thấp chẳng hạn
như nghiên cứu của Julkunen H. và cộng sự trên 26 bệnh nhân viêm thận lupus hoạt
động tại Phần Lan có tỉ lệ dương tính chỉ có 40% [85]; nghiên cứu của Tan Y. năm 2013 [140] tại Trung Quốc trên 218 bệnh nhân viêm thận lupus có tỉ lệ dương tính
42,7%; nghiên cứu của Orbai A.M. năm 2014 [115] thực hiện đa trung tâm trên 72
BN có tỉ lệ 41%. Công trình của Tan Y và cộng sự [140] mặc dù có số bệnh nhân
rất lớn (218 bệnh nhân), có sinh thiết thận đầy đủ, nhưng nghiên cứu viên không
nêu rõ tỉ lệ phân bố các nhóm sang thương trong nghiên cứu, nên có thể tỉ lệ thấp do không có nhiều sang thương tăng sinh. Nghiên cứu của Orbal A.M. [115] cũng có
tính chất tương tự, tác giả không nêu rõ kết quả sinh thiết thận, cũng như mức độ
hoạt động của viêm thận lupus, nên có lẽ vì vậy mà kết quả dương tính rất thấp. Cá biệt có nghiên cứu của Riaz M.O. năm 2016 [124] tại Pakistan cho tỉ lệ dương tính thấp đáng kể là 27,7%. Tuy nhiên, nghiên cứu này mẫu nhỏ chỉ có 18 bệnh nhân
viêm thận lupus nên ít tin cậy.
Năm 2006, Trendelenburg M. thực hiện nghiên cứu [144] tại Thuỵ Sỹ trên
38 bệnh nhân viêm thận lupus được sinh thiết thận, trong đó có 95% là viêm cầu
thận tăng sinh, có tỉ lệ anti-C1q dương tính tại thời điểm sinh thiết thận cực kỳ cao
với mức 94,7%. Kết quả này có được là do trong mẫu nghiên cứu hầu hết là viêm
cầu thận tăng sinh. Tương tự, nghiên cứu của Chi S. và cộng sự [39] thực hiện năm
2015 tại Trung Quốc trên 35 bệnh nhân lupus có tổn thương thận có tỉ lệ dương tính
lên đến 85,7%.
Bảng 4.5: So sánh tỉ lệ viêm thận lupus hoạt động có kháng thể anti-C1q dương
tính tại thời điểm sinh thiết thận giữa các nghiên cứu
Nghiên cứu Nơi nghiên cứu Năm Số BN Tỉ lệ
Việt Nam 144 77,8% 2019 Chúng tôi
Anh 2005 77 74% Marto N. [100]
Nga 2009 54 79,6% Monova D. [106]
Trung Quốc 2010 73 79,5% Cai X. [33]
Nhật Bản 2011 21 71% Katsumata Y. [86]
Pháp 2011 23 78,3% Matrat A. [101]
Ý 2015 107 70,5% Moroni G. [107]
109
Birmingham D.J. [26] Hoa Kỳ 2016 73 63%
Braun A. [30] Đức 2007 47 61,7%
Grootscholten C. [67] Đức 2007 52 65%
Sinico R.A. [131] Ý 2005 40 60%
Jaekel H.P. [82] Đức 2006 37 64,9%
Smykal-Jankowiak K. [132] Ba Lan 2011 34 60%
Metwally I.M. [103] Ai Cập 2019 40 57,5%
Moura C.G. [110] Brazil 2009 81 59%
Mok C.C. [105] Trung Quốc 2010 36 53%
Tan Y. [141] Trung Quốc 2009 83 55,4%
Zhang C.Q. [158] Trung Quốc 2011 49 50%
Yang X.W. [153] Trung Quốc 2012 136 54,4%
Stiborova I. [136] Slovania 2015 39 58%
Jia Y. [84] Trung Quốc 2018 50 56%
Fang Y. [51] Trung Quốc 2009 150 56%
Julkunen H. [85] Phần Lan 2011 26 40%
Tan Y. [140] Trung Quốc 2013 218 42,7%
Orbai A.M. [115] Đa trung tâm 2014 72 41%
Riaz M.O. [124] Pakistan 2016 18 27,7%
Trendelenburg M. [144] Thuỵ Sỹ 2006 38 94,7%
Chi S. [39] Trung Quốc 2015 35 85,7%
Sự khác biệt kết quả về tỉ lệ kháng thể anti-C1q dương tính ở bệnh nhân
viêm thận lupus hoạt động giữa các nghiên cứu trên thế giới do nhiều nguyên nhân.
Do đây là xét nghiệm mới, dẫn đến kháng nguyên C1q được sản xuất tại các phòng
xét nghiệm có nguồn gốc khác nhau (tế bào tuyến ức người, vi khuẩn, plasmid…),
giá trị dương tính (cut-off) theo khuyến cáo của các nhà sản xuất khác nhau, dân số
khác nhau (chủng tộc, đa kiểu hình về miễn dịch di truyền, định nghĩa về tiêu chuẩn
viêm thận lupus hoạt động…), thời điểm lấy máu làm xét nghiệm khác nhau (dẫn
đến khác nhau về độ hoạt động trong quá trình diễn tiến bệnh), kháng thể anti-C1q
110
gắn kết với C1q tạo thành phức hợp miễn dịch lắng đóng tại cầu thận làm giảm
nồng độ trong huyết thanh. Trên thực nghiệm, C1q đóng vai trò thanh lọc phức hợp
miễn dịch và tự kháng nguyên phát sinh trong quá trình chết tế bào theo chương
trình. Vì vậy, kháng thể anti-C1q gắn kết C1q làm giảm quá trình loại bỏ các tế bào
chết theo chương trình này, sẽ trở thành tự kháng nguyên, sinh ra các tự kháng thể
là cơ chế sinh bệnh chính của SLE. Ngoài ra, giảm bổ thể có thể thứ phát do gắn với
kháng thể với vùng collagen của C1q. Những kháng thể này hoặc góp phần vào
hình thành phức hợp miễn dịch lắng đóng tại cầu thận hoặc góp phần hình thành tại
chỗ phức hợp miễn dịch trên màng đáy cầu thận. Việc can thiệp vào quá trình hoạt
hóa hệ thống bổ thể, anti-C1q làm cản trở hoà tan các phức hợp miễn dịch, nên các
phức hợp này càng đến lắng đóng tại cầu thận càng nhiều, càng làm tăng mức độ
tổn thương thận [18], [85], [100], [122], [149]. Theo Bruschi M., kháng thể anti-
C1q IgG4 được chiết xuất từ mô thận BN bị viêm thận lupus cũng có nồng độ cao
đáng kể trong máu [32].
Tóm lại, dựa trên kết quả nghiên cứu của chúng tôi và đối chiếu với hầu hết
các nghiên cứu khác, chúng tôi nhận thấy tại thời điểm mới chẩn đoán, kháng thể
anti-dsDNA và kháng thể anti-C1q có tỉ lệ dương tính rất cao, lên đến 77-78%. Như
vậy, trong quá trình chẩn đoán viêm thận lupus, chúng tôi đề nghị ngoài xét nghiệm
anti-dsDNA có giá trị từ hơn 60 năm qua, được kiểm chứng qua rất nhiều nghiên
cứu, nên làm thêm xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể anti-C1q cũng có giá
trị cao không kém, góp phần bổ sung chẩn đoán lupus đỏ hệ thống, nhất là trong
những trường hợp anti-dsDNA âm tính. Kháng thể anti-nucleosome có thể dương
tính cao trong nhiều trường hợp SLE nói chung khác, nhưng chưa thấy rõ vai trò
của xét nghiệm này trong trường hợp SLE có tổn thương thận. Tuy nhiên, đây cũng
có thể là một công cụ góp phần vào chẩn đoán khi các kháng thể khác âm tính.
Chúng ta biết rằng bệnh lupus ban đỏ hệ thống là bệnh có vai trò của sự hình thành
phức hợp miễn dịch gây tổn thương đa cơ quan. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp
của bệnh có nhiều quyết định kháng nguyên khác nhau, và mỗi bệnh nhân có thể
biểu hiện các kháng thể khác nhau. Kết quả là khi chúng ta có trong tay càng nhiều
111
công cụ chẩn đoán sẽ càng giúp chúng ta chẩn đoán bệnh chính xác, kịp thời và đưa
ra những quyết định điều trị đúng đắn, góp phần cải thiện tiên lượng sống còn thận
cũng như cải thiện tiên lượng sống còn của BN.
4.3 Bàn về liên quan giữa các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-
C1q với tổn thương mô bệnh học thận ở bệnh nhân viêm thận lupus tại
thời điểm nhận vào nghiên cứu
4.3.1 Bàn về đặc điểm giải phẫu bệnh trong nhóm nghiên cứu và mối liên quan
với biểu hiện lâm sàng
Nghiên cứu của chúng tôi có 144 bệnh nhân và được sinh thiết thận 100%, là
tiêu chuẩn vàng trong đánh giá viêm thận lupus. Số lượng bệnh nhân được sinh thiết
thận của chúng tôi khá lớn so với rất nhiều nghiên cứu [12], [13], [28], [33], [39],
[50], [67], [77], [84-86], [99-101], [106], [107], [110], [115], [132], [141], [144],
[158], chỉ ít hơn một số rất ít các nghiên cứu mà thôi [51], [108], [140], [153].
Nghiên cứu chúng tôi có 82/144 (57%) bệnh nhân có viêm thận lupus tăng sinh lan
toả (nhóm IV), đây là nhóm bệnh rất nặng; có 34/144 (23,7%) bệnh nhân viêm thận
lupus tăng sinh khu trú. Chúng tôi xếp chung các BN thuộc nhóm III hoặc nhóm IV,
hoặc nhóm III kết hợp nhóm V, hoặc nhóm IV kết hợp nhóm V thành nhóm viêm
cầu thận tăng sinh là do theo hướng dẫn của Hội Thận học thế giới KDIGO 2012
[87] và EULAR/ERA-EDTA 2019 [53], [91], các BN thuộc nhóm III hoặc nhóm IV
điều trị giống nhau vì kết quả trên sinh thiết thận chỉ là mẫu nhỏ, chưa chắc nhóm
III nhẹ hơn nhóm IV. Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi có 116 BN bị viêm
cầu thận tăng sinh, chiếm tỉ lệ 80,55%, chứng tỏ nhóm BN của chúng tôi mức độ
hoạt động viêm thận rất cao.
Số cầu thận trung vị sinh thiết được là 23 cầu thận trên một mẫu sinh thiết,
trong đó không có mẫu nào có số cầu thận nhỏ hơn 10, đáp ứng đủ tiêu chuẩn để
đọc giải phẫu bệnh [22], [41], [56], [83], [149]. Đây là một số rất có ý nghĩa để
đánh giá kết quả giải phẫu bệnh, đặc biệt là trong trường hợp chúng ta cần đánh giá
phần trăm số cầu thận bị ảnh hưởng để chấm điểm như trong đánh giá chỉ số hoạt
động (AI), chỉ số mạn tính (CI) theo NIH [20], [21], [138]. Thời gian phát hiện
112
viêm thận lupus trước khi vào nghiên cứu có số trung vị là 3 tháng, chứng tỏ chúng
tôi cũng cố gắng sinh thiết thận sớm để có được kết quả chính xác nhất, ít ảnh
hưởng bởi điều trị và góp phần điều trị thích hợp, cải thiện tiên lượng cho BN sau
này.
Chỉ số hoạt động trung bình trong nghiên cứu là 8,5, tức là chỉ số hoạt động
cao, với 64,7% bệnh nhân có chỉ số hoạt động cao (>7). Trong khi chỉ có 12,9%
bệnh nhân có chỉ số mạn tính cao. Như vậy, đa số các BN trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi có chỉ số hoạt động cao, tức là bệnh nặng nhưng có khả năng điều trị
khỏi, chỉ số mạn tính thấp, tức là ít để lại di chứng lâu dài.
Khi đối chiếu đặc điểm lâm sàng với kết quả tổn thương giải phẫu bệnh,
chúng tôi nhận thấy rất khó dự đoán sang thương giải phẫu bệnh nếu chỉ dựa vào
lâm sàng đơn thuần. Chẳng hạn, chúng tôi có những trường hợp tổn thương giải
phẫu bệnh là nhóm I, hoặc nhóm II là những loại tổn thương nhẹ theo phân loại
ISN/RPS 2004, nhưng có tiểu protein rất cao, vượt ngưỡng thận hư. Các trường hợp
này do tổn thương tế bào biểu mô tạng, giống trường hợp sang thương tối thiểu
trong hội chứng thận hư nguyên phát [18], [56], [76], [122], [149]. Mức độ tiểu
protein không khác biệt giữa các loại tổn thương, chỉ có viêm thận lupus nhóm III
có mức độ tiểu protein hơi thấp hơn một chút. Về tỉ lệ tiểu máu, các trường hợp
viêm thận lupus nhóm V có tỉ lệ tiểu máu thấp nhất (47,8%), do đặc điểm giải phẫu
bệnh cơ bản của viêm thận lupus nhóm V là lắng đóng phức hợp miễn dịch dày đặc
dưới lớp tế bào biểu mô làm dày màng đáy dẫn đến biểu hiện lâm sàng chủ yếu sẽ là
tiểu protein với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, viêm thận lupus nhóm V khác
với bệnh cầu thận màng nguyên phát là có lắng đóng phức hợp miễn dịch trong
vùng gian mạch và tăng sinh tế bào gian mạch [18], [21], [56], [122], [149], [151].
Điều này sẽ dẫn đến kết quả là trong viêm thận lupus nhóm V cũng xuất hiện một tỉ
lệ tiểu máu nhất định trên lâm sàng, làm cho các nhà lâm sàng rất khó dự đoán tổn
thương giải phẫu bệnh nếu chỉ dựa vào lâm sàng đơn thuần [18], [41], [122], [149],
[151].
113
Nghiên cứu của chúng tôi xuất phát điểm là toàn các BN viêm thận lupus
hoạt động trên lâm sàng. Kết quả tổn thương mô bệnh học cho thấy có 116 BN có
kết quả viêm thận lupus tăng sinh chiếm tỉ lệ 80,55% và 28 BN viêm thận lupus
không tăng sinh chiếm tỉ lệ 19,45%. Điều này cho thấy viêm thận lupus hoạt động
cũng có thể gặp trong các trường hợp viêm thận lupus không tăng sinh. Khi so sánh
các đặc điểm lâm sàng giữa hai nhóm viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh,
chúng tôi nhận thấy về mức độ tiểu đạm và tỉ lệ bệnh nhân bị hội chứng thận hư
không khác biệt giữa hai nhóm. Sự khác biệt là viêm thận lupus tăng sinh có chỉ số
creatinine huyết thanh tại thời điểm nhận vào nghiên cứu cao hơn, tỉ lệ BN bị suy
thận và tỉ lệ bệnh nhân tiểu máu cao hơn so với nhóm viêm thận lupus không tăng
sinh. Cơn bùng phát kiểu viêm thận thường gặp ở viêm thận lupus tăng sinh hơn so
với nhóm viêm thận lupus không tăng sinh, trong khi cơn bùng phát kiểu protein
không khác biệt giữa hai nhóm. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả ghi nhận
trong y văn cũng như nhiều nghiên cứu [18], [41], [92], [107], [122], [149], [151].
Như vậy, nếu trên lâm sàng BN có biểu hiện viêm thận với tiểu máu, suy thận thì
nhiều khả năng BN có tổn thương mô bệnh học thận là viêm thận lupus tăng sinh
hơn, nhưng không có chiều ngược lại, hoặc nếu BN biểu hiện tiểu protein đơn thuần
cũng khó dự đoán chính xác bệnh nhân có sang thương giải phẫu bệnh nào. Điều đó
cho thấy ngoài biểu hiện lâm sàng, cần tìm kiếm một thông số khác giúp dự đoán
tổn thương giải phẫu bệnh cho bệnh nhân khi vào đợt bùng phát thận.
4.3.2 Bàn về vai trò của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
trong phân biệt viêm thận lupus “tăng sinh” và “không tăng sinh”
Việc tìm kiếm thông số nào là cần thiết để có thể giúp dự đoán tổn thương
mô bệnh học thận, nhằm giúp các nhà lâm sàng có thể ra quyết định điều trị chính
xác trong những trường hợp chưa thể sinh thiết thận ngay. Vì số liệu tập trung chủ
yếu vào viêm thận lupus nhóm III hoặc nhóm IV (đơn thuần hoặc kết hợp các nhóm
khác), các số liệu ở các nhóm còn lại rất nhỏ. Hơn nữa, viêm thận lupus tăng sinh
(nhóm III, nhóm IV theo ISN/RPS 2004 [151]) được xem là những sang thương có
độ hoạt động cao, bệnh cảnh nặng nề, cần phải điều trị tích cực, và theo KDIGO
114
2012 [87] và EULAR/ERA-EDTA 2019 [53], [91], hai phân nhóm III và IV được
điều trị giống nhau. Vì vậy, chúng tôi tiến hành so sánh nồng độ các kháng thể giữa
2 nhóm viêm thận lupus “tăng sinh” và “không tăng sinh”. Kết quả cho thấy nồng
độ của 2 loại kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q trong nhóm viêm thận lupus tăng
sinh đều cao hơn đáng kể so với nhóm không tăng sinh có ý nghĩa thống kê với p
lần lượt là 0,002 và 0,01; tỉ lệ các kháng thể anti-dsDNA, anti-C1q dương tính trong
nhóm viêm cầu thận tăng sinh cao hơn đáng kể so với nhóm viêm cầu thận không
tăng sinh có ý nghĩa thống kê với p lần lượt là 0,002 và 0,023, tỉ số số chênh OR khi
có kháng thể anti-dsDNA, anti-C1q dương tính tiên đoán viêm cầu thận tăng sinh
lần lượt là 3,8 (95% khoảng tin cậy 1,6-9,4); 2,9 (95% khoảng tin cậy 1,2-7,1). Kết
quả của chúng tôi tương tự kết quả của Moroni G. năm 2015 thực hiện trên 107 BN
được sinh thiết thận tại 2 trung tâm của Ý [107]. Trong số này có 26 BN thuộc
nhóm viêm cầu thận không tăng sinh (23,4%), và 85 BN thuộc nhóm viêm cầu thận
tăng sinh (76,6%). Kết quả cũng cho thấy nồng độ cả 2 loại kháng thể này đều cao ở
nhóm viêm cầu thận tăng sinh so với nhóm không tăng sinh. Khi phân tích đơn biến
cả 2 loại kháng thể trên đều có ý nghĩa tiên đoán viêm cầu thận tăng sinh, đặc biệt
nếu kết hợp anti-dsDNA dương tính và/hoặc anti-C1q dương tính có thể tiên đoán
viêm cầu thận tăng sinh rất cao, tỉ số số chênh OR 8,67 (95% khoảng tin cậy 2,03-
37,3) với p=0,005.
Nghiên cứu của tác giả Tan Y. thực hiện năm 2009 [141] trên 83 bệnh nhân
viêm thận lupus tại Trung Quốc có sinh thiết thận cũng cho thấy tỉ lệ kháng thể anti-
C1q dương tính ở nhóm viêm cầu thận tăng sinh cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm viêm cầu thận không tăng sinh (70,7% so với 38%; p = 0,003). Nghiên cứu
của Monova D. năm 2009 [106] thực hiện tại Nga trên 54 BN viêm thận lupus được
chứng minh bằng sinh thiết thận có tiểu đạm lớn hơn 0,5g/ngày và/hoặc tiểu máu
cho thấy tần suất xét nghiệm anti-C1q dương tính cao trong nhóm viêm thận lupus
nhóm IV hơn các nhóm khác có ý nghĩa thống kê (p<0,001); kết quả này cũng trùng
hợp với các nghiên cứu khác như: của tác giả Fang Q.Y. và cộng sự năm 2009 [51]
trên 150 BN có sinh thiết thận; nghiên cứu của Cai X. năm 2010 [33] trên 73 BN
115
viêm thận lupus có sinh thiết thận, nghiên cứu của Tan Y năm 2013 [140] trên 218
BN viêm thận lupus có sinh thiết thận. Nghiên cứu của tác giả Emad G. [50] thực
hiện trên 65 BN viêm thận lupus (trong đó có 15 BN có sinh thiết thận) tại Ai Cập
năm 2020 cho thấy nồng độ kháng thể anti-C1q cũng cao đáng kể ở nhóm viêm thận
lupus tăng sinh (nhóm III hoặc nhóm IV: 226-259,2 U/ml) so với nhóm không tăng
sinh (nhóm II hoặc nhóm V: 93-98 U/ml) có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ kháng thể anti-
nucleosome trong hai nhóm viêm cầu thận tăng sinh và không tăng sinh không khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,051). Kết quả này giống với kết quả của công trình
của Metwally I.M. [103]. Công trình này cho thấy kháng thể anti-nucleosome không
có khả năng phân biệt các phân nhóm giải phẫu bệnh, trong khi kháng thể anti-C1q
có tỉ lệ dương tính cao trong viêm thận lupus nhóm IV. Kết quả này được lặp lại
qua nghiên cứu của Elessawi D. [49] tại Ai Cập trên 30 BN viêm thận lupus, cho
thấy nồng độ kháng thể anti-nucleosome không khác biệt giữa các nhóm theo Bảng
Phân loại của WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), và cũng không cho phép phân biệt
lupus ban đỏ hệ thống có tổn thương thận hay không.
Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi về kháng thể anti-nucleosome khác với kết
quả của tác giả Moroni G năm 2015 [107] tiến hành trên 107 BN viêm thận lupus
được sinh thiết thận. Trong nghiên cứu này, tác giả thấy nồng độ kháng thể anti-
nucleosome trong nhóm viêm thận lupus tăng sinh là 95 U/ml cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với nhóm viêm thận lupus không tăng sinh là 51 U/ml với p =0,04
<0,05. Sự khác biệt này có thể do sử dụng các bộ kit xét nghiệm khác nhau, dân số
nghiên cứu khác nhau về chủng tộc, về biểu hiện lâm sàng, dẫn đến kết quả khác
nhau. Hơn nữa, Moroni G. cũng tìm thấy mặc dù sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
nhưng chỉ số p cũng gần 0,05 và cũng chưa thấy vai trò nổi trội trong phân biệt
viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh như kháng thể anti-C1q và anti-
dsDNA. Nghiên cứu của Carvalho J.F. năm 2008 [34] trên 78 BN viêm thận lupus
hoạt động thấy nồng độ anti-nucleosome cao liên quan với viêm thận lupus tăng
sinh nhóm IV. Nhưng Carvalho J.F. không so sánh trực tiếp nồng độ kháng thể anti-
116
nucleosome giữa hai nhóm viêm thận lupus tăng sinh và không tăng sinh. Yang J.
[152] qua công trình của mình cũng cho thấy nhóm BN có kháng thể anti-dsDNA,
anti-nucleosome, anti-histone dương tính có tỉ lệ viêm thận lupus nhóm IV nhiều
hơn nhóm BN có các kháng thể trên âm tính (p= 0,003).
Kết quả trái chiều của chúng tôi có thể giải thích như các lý giải sau đây.
Nucleosome được giải phóng từ các mảnh vụn của các tế bào chết theo chương
trình, không được thanh lọc bởi bất thường hệ miễn dịch xảy ra trong cơ chế sinh lý
bệnh của SLE. Các tự kháng nguyên này trở thành mục tiêu chính cho tế bào
lympho B và tế bào lympho T. Các nucleosome nhận diện thành phần heparin
sulfate/collagen của màng đáy cầu thận và thúc đẩy gắn kết với kháng thể anti-
nucleosome và các kháng thể có thể gây tổn thương thận khác. Tuy nhiên, một mặt
trong những cơn bùng phát thận, sẽ có nhiều kháng thể anti-nucleosome gắn kết
trong phức hợp miễn dịch tại cầu thận làm cho nồng độ kháng thể trong máu (là cái
mà chúng ta đo lường được) bị giảm xuống, một mặt phức hợp miễn dịch lắng đóng
tại cầu thận lôi kéo C1q đến, nhưng nếu không có hiện diện anti-C1q sẽ giúp điều
hòa bổ thể hiệu quả và không gây nên hiên tượng viêm thận.
Tóm lại, kháng thể anti-dsDNA và kháng thể anti-C1q có nồng độ cao có khả
năng dự đoán viêm thận lupus tăng sinh, trong khi kháng thể anti-nucleosome chưa
thấy rõ vai trò này.
4.3.3 Bàn về mối tương quan giữa nồng độ các kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome, anti-C1q với các chỉ số hoạt động, mạn tính theo NIH
❖ Kháng thể anti-dsDNA
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kháng thể anti-dsDNA có tương
quan với chỉ số hoạt động AI trên mô bệnh học với r = 0,222, p = 0,016. Kháng thể
anti-dsDNA tại thời điểm nhận vào nghiên cứu ở nhóm viêm thận lupus có chỉ số
hoạt động cao cao hơn hẳn nhóm viêm thận lupus có chỉ số hoạt động thấp. Điều
này có kết quả tương đương với rất nhiều nghiên cứu như nghiên cứu của Hung
W.T. năm 2011 [77] có r = 0,474, p<0,05; nghiên cứu của Moroni G. năm 2015
[107] có r = 0,31, p=0,001; nghiên cứu của Yang X.W. năm 2012 [153] trên 136
117
BN viêm thận lupus có sinh thiết thận, với p<0,05. Yang J. [152] qua nghiên cứu
hồi cứu trên 921 BN viêm thận lupus, cho thấy kháng thể anti-dsDNA, anti-
nucleosome tương quan với chỉ số hoạt động AI (r=0,1954; p = 0,0243), nhưng
không tương quan với chỉ số mạn tính CI (r=0,097; p=0,2717).
Nồng độ kháng thể anti-dsDNA không tương quan với chỉ số mạn tính CI.
Kết quả này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trên thế giới [77], [107], [152],
[153]. Điều đó có nghĩa là kháng thể anti-dsDNA tại thời điểm ban đầu cao có thể
phản ánh tình trạng bệnh nặng, mức hoạt động cao nhưng không có nghĩa phản ánh
di chứng lâu dài về sau. Vì vậy, nếu chúng ta phát hiện bệnh và điều trị kịp thời
giúp hồi phục chức năng thận, cải thiện tiên lượng bệnh.
❖ Kháng thể anti-nucleosome
Nghiên cứu của chúng tôi không cho thấy mối tương quan giữa nồng độ
kháng thể anti-nucleosome và chỉ số hoạt động AI trên mô bệnh học thận. Điều này
khác với kết quả của Hung W.T. và cộng sự năm 2011 [77] tại Trung Quốc trên 35
BN viêm thận lupus thể tăng sinh cho thấy mối tương quan giữa nồng độ anti-
nucleosome với độ hoạt động AI với hệ số tương quan r = 0,368, p<0,05. Có thể
giải thích điều này là do toàn bộ số BN trong nghiên cứu của Hung W.T. đều có
viêm cầu thận tăng sinh làm cho mối tương quan rõ hơn. Ngoài ra, đây là nghiên
cứu có số lượng BN nhỏ, thông tin về khoảng thời gian bị bệnh không đầy đủ. Cũng
cần phải ghi nhận là ngay trong nghiên cứu này, kháng thể anti-dsDNA (r = 0,474)
có hệ số tương quan tốt hơn so với kháng thể anti-nucleosome. Nghiên cứu của
Moroni G. [107] năm 2015 cũng cho thấy kháng thể anti-nucleosome tương quan
thuận mặc dù không cao (r = 0,29; p = 0,041) với chỉ số hoạt động AI theo NIH.
Tất cả các nghiên cứu đều thống nhất với kết quả của chúng tôi là kháng thể
anti-nucleosome không có tương quan với độ mạn tính trên mô bệnh học theo NIH
[77], [107].
❖ Kháng thể anti-C1q
Bảng kết quả của chúng tôi cho thấy nồng độ kháng thể anti-C1q có tương
quan thuận mức độ yếu với chỉ số hoạt động AI, với r = 0,216, p = 0,02. Kết quả
118
này trùng hợp với nhiều nghiên cứu trên thế giới như nghiên cứu của Moroni G.
năm 2015 [107] có ý nghĩa tương quan thuận với r = 0,24; p = 0,01; nghiên cứu của
Tan Y. năm 2009 [141] trên 85 BN viêm thận lupus có tương quan thuận với r =
0,321; p = 0,003; nghiên cứu của Monova D. năm 2009 [106] có tương quan khá tốt
với r = 0,53, p< 0,001; nghiên cứu của Fang Q.Y. năm 2009 [51] có tương quan
thuận khá tốt với r = 0,325, p<0,001; nghiên cứu của Cai X. năm 2009 [33] có r =
0,555, p<0,001; nghiên cứu của Tan Y. năm 2013 [140] có r = 0,238 với p<0,001.
Yang X.Q. năm 2012 [153] tiến hành nghiên cứu trên 136 BN viêm thận lupus với
bằng chứng sinh thiết thận, nhận thấy chỉ số AI trong nhóm có kháng thể anti-C1q
dương tính cao hơn rất nhiều so với nhóm có kháng thể anti-C1q âm tính, với
p<0,003.
Phần lớn các nghiên cứu đều cho kết quả giống nghiên cứu của chúng tôi là
kháng thể anti-C1q không có tương quan với chỉ số mạn tính CI [107], [140]. Ngoại
trừ, nghiên cứu của Tan Y. năm 2009 [141] cho kết quả chỉ số mạn tính CI tương
quan nghịch với nồng độ kháng thể anti-C1q với r = -0,221; p = 0,046; nghiên cứu
của Fang Q.Y. năm 2009 [51] tại Trung Quốc với r = -0,266, p< 0,05. Tác giả Yang
X.W. [153] cũng nhận thấy nhóm có kháng thể anti-C1q dương tính lại có chỉ số
mạn tính thấp hơn so với nhóm có kháng thể anti-C1q âm tính. Điều này có thể giải
thích là khi mẫu sinh thiết thận có chỉ số CI cao có nghĩa là những sang thương mạn
tính, không còn hoạt động, không còn khả năng hồi phục nên nồng độ kháng thể
anti-C1q thấp (vốn là một kháng thể được xem là biểu trưng cho sự hoạt động của
viêm thận lupus). Cá biệt có nghiên cứu của Cai X. [33] cho thấy kháng thể anti-
C1q tương quan thuận với chỉ số CI với r = 0,390, p<0,001. Trong nghiên cứu này
tác giả cũng phân tích cho thấy rằng nồng độ kháng thể anti-C1q sau tháng thứ ba
sau điều trị vẫn còn cao có giá trị tiên lượng xấu, không có khả năng đáp ứng hoàn
toàn. Yang X.W. [153] còn nhận thấy nếu kết hợp hai kháng thể anti-dsDNA và
anti-C1q cùng dương tính sẽ cho thấy chỉ số hoạt động thận cao nhất. Khi phân tích
sống còn thận, Ông thấy rằng sự kết hợp hai kháng thể còn cho ý nghĩa tiên lượng
sống còn thận rất xấu.
119
Mặc dù, kháng thể anti-C1q đã nhận được nhiều sự quan tâm trong thời gian
gần đây, nhưng chức năng sinh học vẫn chưa được hiểu biết tường tận. Kháng thể
anti-C1q gắn với C1q sẽ khuếch đại hoạt hóa bổ thể, gây nên hiện tượng viêm và
làm tổn thương cơ quan đích. Mặt khác, kháng thể anti-C1q có thể làm giảm chức
năng sinh lý của C1q, kể cả chức năng hoạt hoá con đường cổ điển của bổ thể, giảm
chức năng thanh lọc các phức hợp miễn dịch và các tế bào chết theo chương trình.
Các nghiên cứu trên súc vật thực nghiệm cho thấy rằng IgG là mục tiêu đối với C1q
và kháng thể anti-C1q chỉ có thể gây bệnh đối với thận trong điều kiện phối hợp với
phức hợp miễn dịch chứa C1q tại cầu thận [41]. Điều này có thể giải thích được tại
sao viêm cầu thận có thể không xảy ra khi chỉ có hiện diện một mình kháng thể
anti-C1q (ở các bệnh nhân bị viêm đa khớp dạng thấp và hội chứng viêm mạch máu
dạng mày đay kèm giảm bổ thể). Lưu ý rằng, có một số bệnh nhân hiện diện cả
kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q nhưng không có tổn thương thận, là do lượng
C1q còn thấp chưa đủ vượt qua ngưỡng hoạt hoá bổ thể [55]. Các đặc điểm mô
bệnh học của viêm thận lupus là hiện diện lắng đóng nhiều loại Immunoglobulin và
bổ thể trong cầu thận. Vì vậy, khi lắng đóng phức hợp miễn dịch chứa đủ IgG và
C1q tại cầu thận, kháng thể anti-C1q sẽ hoạt hoá con đường bổ thể và tạo ra các
cytokine và các yếu tố viêm gây ra tổn thương thận trên lâm sàng [38], [51].
Chúng tôi xin đưa ra chiến lược tiếp cận chẩn đoán viêm thận lupus như sau:
nếu bệnh nhân mới khởi phát viêm thận lupus lần đầu, sau khi chẩn đoán bằng tiêu
chuẩn ACR, nên làm xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể anti-dsDNA và
anti-C1q, tìm cách thực hiện sinh thiết thận sớm nhất có thể được để có chẩn đoán
giải phẫu bệnh chính xác. Việc định lượng nồng độ kháng thể anti-dsDNA và kháng
thể anti-C1q là biện pháp dễ thực hiện, không xâm nhập (nhất là trong tình huống
BN nặng, giảm tiểu cầu, phù nhiều chưa thể sinh thiết thận được ngay), không quá
đắt tiền, là chỉ số cơ bản để có thể đánh giá và so sánh đáp ứng điều trị về sau.
Ngoài ra, khi chưa sẵn có kết quả giải phẫu bệnh, đây cũng là biện pháp giúp dự
đoán sang thương để có thể can thiệp thuốc ức chế miễn dịch kịp thời. Nếu bệnh
nhân bị tái phát viêm thận, chẳng hạn sụt giảm chức năng thận đột ngột, tăng mức
120
đạm niệu, cặn lắng nước tiểu hoạt động trên một bệnh nhân đang điều trị ổn định đã
có sinh thiết thận trước đây, thì nếu các kháng thể này tăng nồng độ trở lại cũng
giúp chúng ta dự đoán sang thương và có quyết định điều trị ngay mà không cần
phải lặp lại sinh thiết thận, vốn là một thủ thuật không phải là không mang đến
những tai biến nghiêm trọng. Hướng dẫn của EULAR/ERA-EDTA 2019 về theo
dõi và điều trị viêm thận lupus cũng khẳng định điều này.
Nghiên cứu của chúng tôi và phần lớn các nghiên cứu khác chưa thấy rõ vai
trò của kháng thể anti-nnucleosome trong dự đoán tổn thương mô bệnh học thận, và
chưa thấy sự tương quan giữa nồng độ chất này và chỉ số hoạt động trên mô học
cũng như chỉ số mạn tính. Một số nghiên cứu có thấy sự tương quan nhưng kết quả
cũng yếu hơn hai kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q.
4.4 Bàn về giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q,
trong theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị
4.4.1 Bàn về đặc điểm các đáp ứng lâm sàng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu ở
lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng
Từ 144 BN đều là viêm thận lupus hoạt động ban đầu, sau thời gian theo dõi
6 tháng, chúng tôi có tất cả 137 BN tiếp tục tham gia nghiên cứu ở lần thăm khám
thứ hai. Có 7 BN không tham gia nghiên cứu ở lần thăm khám thứ hai này, trong đó
có 2 BN tử vong do viêm phổi nặng, 1 BN tử vong do viêm màng não, 4 BN không
liên lạc được. Kết quả sau 6 tháng điều trị theo phác đồ của Hội Thận học thế giới
[87], có 71 BN hay 51,8% thuyên giảm hoàn toàn hay còn gọi là viêm thận lupus
không hoạt động và 66 BN (48,2%) có viêm thận lupus hoạt động ở các mức độ
khác nhau (trong đó đáp ứng một phần có 50 BN, tỉ lệ 36,5%, không đáp ứng là 16
BN, tỉ lệ 11,7%). Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ BN có đáp ứng là
khá cao 88,3% sau 6 tháng điều trị. Tỉ lệ đáp ứng này cũng tương tự y văn với các
phác đồ theo KDIGO 2012 hiện nay [18], [87], [122], [149]. So sánh các đặc điểm
lâm sàng giữa hai lần thăm khám cách nhau 6 tháng, chúng ta thấy có sự cải thiện
đáng kể các chỉ số chẳng hạn như protein niệu 24 giờ giảm từ 4100 mg/24 giờ ở
thời điểm ban đầu T1 xuống còn 350 mg/24 giờ ở lần T2 (p<0,001), tỉ lệ
121
albumin:creatinine niệu giảm từ 3278 mg/g xuống còn 250,5 mg/g (p<0,001),
albumin huyết thanh tăng từ 22,6 g/l ở lần 1 lên 37,6 g/l ở lần 2, chức năng thận cải
thiện với creatinine huyết thanh từ 0,9 mg/dl ở lần 1 xuống còn 0,73 mg/dl ở lần 2
(p<0,001).
Nồng độ bổ thể C3 trong máu tăng từ 50,19 mg/dl ban đầu lên 93,59 mg/dl
có ý nghĩa thống kê với p<0,001; nồng độ bổ thể C4 trong máu cũng tăng từ 9,9
mg/dl ban đầu lên 21,2 mg/dl có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tỉ lệ giảm bổ thể C3
máu giảm xuống đáng kể từ 86,1% xuống 26,3% với p<0,001; giảm bổ thể C4 trong
máu từ 50% xuống 10,9% với p<0,001. Như vậy, nồng độ bổ thể sau 6 tháng điều
trị đều tăng lên có ý nghĩa thống kê song hành với sự cải thiện triệu chứng lâm sàng,
chứng tỏ mức độ hoạt động lupus của nhóm nghiên cứu giảm xuống đáng kể. Kết
quả này cũng cho kết quả tương tự nhiều nghiên cứu [103], [105], [107].
Từ thời điểm nhận vào nghiên cứu, các BN có biểu hiện viêm thận lupus
hoạt động rất mạnh theo tiêu chuẩn BILAG Thận với 95,1% ở mức “A” và 4,9% ở
mức “B”. Sau 6 tháng điều trị, nhóm nghiên cứu của chúng tôi có các mức độ hoạt
động như sau: 19 BN đạt mức “A” (13,9%), 47 BN đạt mức “B” (34,3%), 15 BN
đạt mức “C” (10,9%), 56 BN đạt mức “D” (40,9%). Theo tiêu chuẩn BILAG Thận,
xếp mức “A” hoặc mức “B” vào nhóm “hoạt động” và mức “C” hoặc mức “D” vào
nhóm “không hoạt động”, chúng tôi có kết quả có 66 BN viêm thận lupus hoạt động
theo tiêu chuẩn BILAG (48,2%) và 71 BN viêm thận lupus không hoạt động
(51,8%). Kết quả này cho thấy chỉ số BILAG Thận hoàn toàn trùng hợp với độ hoạt
động viêm thận lupus theo tiêu chuẩn lâm sàng. Chỉ số BILAG có độ nhạy 87% và
độ đặc hiệu 99% khi so với tiêu chuẩn vàng là phải bắt đầu hoặc tăng mức độ điều
trị [145]. Bảng chỉ số này phù hợp với những thay đổi quan trọng của tình trạng
bệnh, nhạy với những thay đổi nhỏ và có thể phân biệt được hoạt động của bệnh và
độ nặng của bệnh. Chỉ số này có thể phát triển dành cho nghiên cứu kết cuộc bệnh,
các thử nghiệm lâm sàng về phương pháp điều trị mới. Trong thực hành lâm sàng,
nó cũng có thể được sử dụng để theo dõi tình trạng bệnh của từng BN do tính chất
122
có thể nhận diện được bệnh đang cải thiện, ổn định, hoặc nặng hơn [65], [122],
[145].
Về đánh giá hoạt động bệnh toàn bộ bằng chỉ số SLEDAI-2K, từ thời điểm
nhận vào nghiên cứu có 98,6% BN có chỉ số SLEDAI-2K cao (≥6), sau 6 tháng
điều trị, chỉ còn 42,3%. Chỉ số SLEDAI-2K trung vị lúc đầu là 20 (tứ phân vị 16-
24), tức mức hoạt động mạnh, giảm xuống còn 4 (tứ phân vị 0-10). Điều đó chứng
tỏ sau 6 tháng điều trị, BN không những giảm về độ hoạt động của viêm thận mà
còn giảm về chỉ số bệnh hoạt động toàn bộ có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết
quả về chỉ số SLEDAI-2K của nhóm nghiên cứu chúng tôi gần giống với kết quả
của Leung Y.Y. [94] thực hiện năm 2007 trên 109 BN viêm thận lupus tại phòng
khám với số trung vị là 5,48 (tứ phân vị 2-8) vì bao gồm cả những BN ở giai đoạn
không hoạt động. Kết quả này tương đối thấp hơn so với kết quả của Hanly J.G.
[71] là 8,5 ± 6,7 thực hiện năm 2016 trên 566 BN viêm thận lupus và nghiên cứu
của Trần Minh Hoàng [5] thực hiện năm 2018 tại Khoa Nội Thận Bệnh viện Chợ
Rẫy trên 112 BN có chỉ số SLEDAI-2K trung vị là 10 (tứ phân vị 6-16). Các nhóm
BN này bao gồm những BN rất nặng cần nhập viện cấp cứu và những BN nhẹ, ổn
định cần nhập viện để truyền cyclophosphamide theo lịch hẹn. Mặc dù chỉ số
SLEDAI-2K dùng để mô tả độ hoạt động của bệnh lupus nhưng tổn thương thận
chiếm phần khá quan trọng trong bảng chấm điểm, chẳng hạn tiểu protein > 0,5
g/ngày, hiện diện tiểu máu, hiện diện tiểu bạch cầu, hiện diện trụ niệu, mỗi thông số
chấm 4 điểm, nên cũng khá tương đồng giữa SLEDAI-2K và viêm thận lupus hoạt
động. Sai lệch giữa hai cách đánh giá chỉ khác biệt trong các trường hợp tiểu protein
đơn độc mà không kèm cặn lắng nước tiểu hoạt động, trong trường hợp này viêm
thận hoạt động rất mạnh nhưng chỉ số SLEDAI-2K chỉ có 4 điểm; hoặc trong các
trường hợp tổn thương ngoài thận nhiều, đặc biệt là các tổn thương thần kinh, mạch
máu có trọng số rất cao, trong khi tổn thương thận ít, hoặc không có. Một số nghiên
cứu cho thấy SLEDAI-2K là chỉ số đáng tin cậy trong đánh giá độ hoạt động của
bệnh lupus ban đỏ hệ thống, nhưng kém hơn BILAG-2004 về khả năng phát hiện
bệnh hoạt động cần điều trị [78], [145].
123
4.4.2 Bàn về giá trị của các kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q
trong theo dõi viêm thận lupus sau 6 tháng điều trị
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ trung vị của cả 3 loại kháng thể
anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q ở lần thăm khám thứ hai đều giảm đáng kể
so với nồng độ của lần thăm khám thứ nhất với p<0,001. Như vậy, chứng tỏ 3 loại
kháng thể này giảm song hành với mức độ hoạt động của bệnh. Tuy nhiên, tại lần
thăm khám thứ hai, trong số 3 kháng thể, kháng thể anti-C1q có nồng độ khác biệt
rõ rệt nhất giữa 3 kiểu đáp ứng lâm sàng (không đáp ứng, đáp ứng không hoàn toàn
và đáp ứng hoàn toàn) có ý nghĩa thống kê với p<0,001; kháng thể anti-dsDNA
đứng thứ hai với p<0,004. Trong đó, nồng độ kháng thể càng thấp khi mức độ đáp
ứng lâm sàng càng nhiều. Điều này chứng tỏ kháng thể anti-C1q và kháng thể anti-
dsDNA có thể phản ánh được các mức độ đáp ứng lâm sàng khác nhau trong quá
trình theo dõi bệnh. Đặc biệt, nồng độ kháng thể anti-C1q trong nhóm không đáp
ứng và nhóm đáp ứng không hoàn toàn có trung vị đều cao hơn ngưỡng chẩn đoán
dương tính của kháng thể này. Khi so sánh nồng độ kháng thể giữa hai nhóm viêm
thận lupus hoạt động và không hoạt động theo tiêu chuẩn lâm sàng, chúng tôi nhận
thấy anti-C1q cũng giữ vai trò nổi trội khi sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê với
p<0,001, anti-dsDNA đứng thứ hai với p=0,003.
Ngược lại, đối với kháng thể anti-nucleosome, chúng tôi không thấy sự khác
biệt về nồng độ kháng thể giữa các nhóm đáp ứng lâm sàng (p=0,05). Nồng độ
trung vị kháng thể trong các nhóm đều thấp hơn ngưỡng chẩn đoán anti-nucleosome
dương tính. Mặc dù vậy, chúng tôi lại nhận thấy sự khác biệt nồng độ kháng thể
anti-nucleosome giữa hai nhóm viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động theo
tiêu chuẩn lâm sàng có ý nghĩa thống kê với p=0,029.
Khi theo dõi dọc nồng độ của 3 loại kháng thể này ở hai lần thăm khám của
từng bệnh nhân, chúng tôi cũng nhận thấy đa số các trường hợp đều có nồng độ
kháng thể giảm sau điều trị tương ứng với đáp ứng lâm sàng trong toàn bộ nhóm
nghiên cứu, cũng như nhóm có đáp ứng lâm sàng có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
124
Đặc biệt, trong nhóm bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn (viêm thận lupus không hoạt
động), chúng tôi nhận thấy sự khác biệt này càng rõ rệt.
Kết quả của chúng tôi tương tự nhiều nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu
của Morini G. năm 2009 [108] trên 228 BN viêm thận lupus được thăm khám 1523
lượt trong thời gian 6 năm tại 2 trung tâm của Ý (gồm 704 lượt đạt thuyên giảm
hoàn toàn, 471 lượt đạt thuyên giảm một phần, 45 cơn bùng phát kiểu viêm thận và
97 cơn bùng phát kiểu tiểu protein) nồng độ kháng thể anti-dsDNA và kháng thể
anti-C1q tăng lên rõ rệt trong các đợt bùng phát kiểu viêm thận và kiểu tiểu protein,
trong khi giá trị này giảm xuống giá trị bình thường ở những lượt khám đạt thuyên
giảm hoàn toàn (p = 0,00001). Kết quả này rõ rệt ở nhóm BN viêm thận lupus tăng
sinh hơn là nhóm viêm thận lupus không tăng sinh.
Nghiên cứu của Manson J.J. năm 2009 [99] thực hiện tại Vương quốc Anh
trên 16 BN viêm thận lupus được theo dõi dọc 2 năm, cũng cho kết quả tương tự;
nồng độ anti-nucleosome và nồng độ anti-dsDNA tăng cao trong những trường hợp
protein niệu cao (p = 0,041 và p = 0,051) và tương quan nghịch với lượng albumin
huyết thanh (p = 0,027 và 0,032). Cả hai kháng thể anti-nucleosome và anti-dsDNA
đều giảm đáng kể trong những đợt thuyên giảm hoàn toàn hơn với so với đợt viêm
thận lupus hoạt động (p = 0,002 và 0,003 theo thứ tự). Nghiên cứu của Zivkovic V.
[159] năm 2014 tại Cộng hoà Séc trên 32 BN viêm thận lupus cho thấy cả 3 kháng
thể đều có thể phân biệt viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động với p<0,01.
Nghiên cứu của Stiborova I. [136] và cộng sự thực hiện năm 2015 tại Cộng hoà Séc
trên 39 BN viêm thận lupus được phân nhóm hoạt động theo tiêu chuẩn BILAG
thận, cho thấy nồng độ kháng thể anti-C1q khác biệt có ý nghĩa thống kê theo các
phân nhóm BILAG (“A”, “B”, “C” hoặc “D”) với p<0,01 và p<0,05.
Nghiên cứu của Moroni G. năm 2015 [107] thực hiện tại Ý trên 107 BN
viêm thận lupus có sinh thiết thận, sau 3, 6 và 12 tháng theo dõi, có 39 BN đạt đáp
ứng hoàn toàn (37,5%) và 65 BN không đáp ứng hoàn toàn (62,5%), trong đó có 46
BN đáp ứng một phần, 13 BN viêm thận kéo dài và 6 BN hội chứng thận hư kéo
dài. Trong nghiên cứu này, Moroni G. cũng thu được kết quả giống như chúng tôi là
125
3 loại kháng thể anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q đều có nồng độ kháng thể
giảm đáng kể so với lúc đầu từ tháng thứ 3 sau điều trị. Tuy nhiên, nghiên cứu viên
còn nhận xét thêm là các chỉ số lâm sàng như mức protein niệu, chức năng thận
chưa thay đổi sau 3 tháng mà bắt đầu thay đổi từ tháng thứ 6.
Nghiên cứu của Monova D. [106] thực hiện tại Nga năm 2009 cũng chứng
minh nồng độ kháng thể anti-C1q cao trong nhóm có tiểu protein ngưỡng thận hư
hơn trong nhóm tiểu đạm dưới ngưỡng thận hư có ý nghĩa thống kê với p< 0,001.
Sau thời gian điều trị 64 ± 4,97 tháng, nồng độ kháng thể này giảm xuống trong hầu
hết các trường hợp. Nghiên cứu của Smykal-Jankowiak K. [132] năm 2011 thực
hiện trên 48 BN viêm thận lupus tại Ba Lan cũng cho kết quả nồng độ anti-dsDNA
và anti-C1q trong nhóm viêm thận lupus hoạt động cao hơn trong nhóm không hoạt
động có ý nghĩa với p lần lượt <0,01 và <0,05. Công trình của tác giả
Trendelenburg M. và cộng sự [144] thực hiện tại Thuỵ Sĩ năm 2006 trên 38 BN
viêm thận lupus tăng sinh, cho thấy anti-C1q có tỉ lệ cao trong viêm thận lupus hoạt
động và sau theo dõi 6-12 tháng, phần lớn các trường hợp có nồng độ kháng thể
anti-C1q giảm sau 6 tháng, chỉ có 3 BN tăng nhẹ nồng độ vào tháng thứ sáu và 2
BN tồn tại dai dẳng nồng độ cao kháng thể này tương ứng với tình trạng không đáp
ứng lâm sàng.
Yang J. [152] hồi cứu trên 921 BN viêm thận lupus người Trung Quốc từ
năm 2002 đến năm 2013 cũng thấy rằng nồng độ kháng thể anti-dsDNA và anti-
nucleosome giảm xuống đáng kể ở giai đoạn phục hồi sau điều trị có ý nghĩa thống
kê. Nghiên cứu của Allawi A.A.D. [14] năm 2018 trên 27 BN viêm thận lupus cũng
cho thấy nồng độ kháng thể anti-nucleosome giảm xuống đáng kể sau 3 tháng điều
trị với cyclophosphamide hoặc mycophenolate mofetil. Tương tự kết quả của chúng
tôi, nghiên cứu hồi cứu trên 52 BN viêm thận lupus của tác giả Bock M. năm 2015
[28] cho thấy kháng thể anti-C1q không những đáp ứng với chỉ số hoạt động toàn
bộ mà còn khuynh hướng giảm nồng độ sau điều trị tích cực có hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho kết quả trái ngược với một phần
của nghiên cứu chúng tôi. Nghiên cứu của Moroni G. năm 2001 [109] thực hiện tại
126
Ý trên 48 BN viêm thận lupus có sinh thiết thận (gồm 38 mẫu có bằng chứng không
hoạt động và 23 mẫu có bằng chứng viêm thận lupus hoạt động), nhận thấy rằng chỉ
có kháng thể anti-C1q liên quan với viêm thận lupus hoạt động khi phân tích đơn
biến (p<0,0001) và phân tích đa biến (p < 0,0001) với độ nhạy 87%, độ đặc hiệu
92% trong khi kháng thể anti-dsDNA thì không. Nghiên cứu của Akhter E. [13]
thực hiện tại Hoa Kỳ năm 2011 trên 49 BN viêm thận lupus (trong đó có 38 BN
được sinh thiết thận) theo dõi tại phòng khám với 131 lần thăm khám. Công trình
này đưa ra kết quả là chỉ có kháng thể anti-C1q liên quan với chỉ số hoạt động thận
SLICC (protein niệu 0,5-1 g/ngày tính 3 điểm, 1-3 g/ngày tính 5 điểm, >3 g/ngày
tính 11 điểm, hồng cầu niệu ≥ 5 /quang trường 40 tính 3 điểm, bạch cầu niệu ≥ 5
/quang trường 40 tính 1 điểm) với p = 0,006 trong khi kháng thể anti-dsDNA làm
bằng phương pháp ELISA (p = 0,5) và kháng thể anti-nucleosome (p = 0,31) thì
không. Nghiên cứu của Grootscholten C. [67] công bố năm 2007 thực hiện tại Đức
trên 52 BN viêm thận lupus và được theo dõi sau 4, 12, 26 và 52 tuần. Kết quả cho
thấy kháng thể anti-nucleosome và kháng thể anti-dsDNA có giảm xuống sau điều
trị nhưng vẫn còn cao hơn ngưỡng xét nghiệm dương tính, trong khi chỉ có kháng
thể anti-C1q là có nồng độ thấp hơn ngưỡng dương tính ở những lần tái khám theo
dõi và không có sự khác biệt giữa các nhóm đáp ứng điều trị nên tác giả kết luận
việc đo lường kháng thể anti-nucleosome và anti-C1q chỉ có giá trị chẩn đoán viêm
thận lupus mà không có giá trị theo dõi diễn tiến bệnh. Marto N. năm 2005 [100]
thực hiện trên 151 BN SLE trong đó có 77 BN viêm thận lupus được đánh giá hoạt
động theo tiêu chuẩn BILAG Thận, thấy kháng thể anti-C1q mặc dù có nồng độ cao
hơn trong nhóm viêm thận lupus hoạt động nhưng sự khác biệt về tỉ lệ kháng thể
dương tính không có ý nghĩa thống kê (p = 0,06). Giải thích điều này, tác giả cho
rằng do những trường hợp hoạt động mà kháng thể anti-C1q âm tính thường có thời
gian điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch lâu, nên có thể giảm nồng độ kháng thể
do tác dụng của thuốc. Nguyên nhân thứ hai là do các kháng thể gắn với C1q hình
thành nên phức hợp miễn dịch lắng đóng trong cầu thận làm nồng độ giảm xuống.
Nghiên cứu của Jia Y. [84] trên 50 BN viêm thận lupus trong đó có 33 BN đang
127
hoạt động và 17 BN không hoạt động, cho thấy kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q
không có khả năng phân biệt viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động. Một
nghiên cứu của Ho A. và cộng sự thực hiện năm 2001 [74] trong một đoàn hệ Lupus
Hopkins trên 53 BN cho thấy một điều nghịch thường là kháng thể anti-dsDNA
giảm khá thấp khi có cơn bùng phát bệnh và càng rõ rệt khi sử dụng phương pháp
ELISA để định lượng nồng độ kháng thể hơn là phương pháp miễn dịch huỳnh
quang trên tế bào Crithidia luciliae. Điều này có thể giải thích do nhiều nguyên
nhân. Thứ nhất, có thể do sự thay đổi liều prednisone cũng như liều thuốc ức chế
miễn dịch làm thay đổi nồng độ kháng thể. Thứ hai, do các kháng thể này lắng đóng
trong phức hợp miễn dịch tại cầu thận, làm giảm nồng độ lưu hành trong máu. Thứ
ba, trong các đợt bùng phát thận, BN thường biểu hiện hội chứng thận hư làm thất
thoát protein trong nước tiểu trong đó có thể bao gồm luôn cả kháng thể anti-
dsDNA. Cuối cùng, biểu hiện bệnh thận còn do kết hợp nhiều yếu tố khác nhau trên
từng cá thể BN chẳng hạn như tuổi, tăng huyết áp, béo phì, các tác động của môi
trường và thuốc men.
Metwally I.M. năm 2019 [103] cũng cho thấy kháng thể anti-C1q rất tốt
trong phân biệt viêm thận lupus hoạt động và không hoạt động, trong khi đối với
kháng thể anti-nucleosome, khả năng này rất hạn chế. Phân tích gộp gồm 26 nghiên
cứu của Bizzaro N. [27] cũng cho thấy kháng thể anti-nucleosome không liên quan
tổn thương thận ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống. Kháng thể anti-nucleosome, có
sự khác biệt rất lớn về kết quả giữa các nghiên cứu hơn so với kháng thể anti-
dsDNA và kháng thể anti-C1q. Điều này có thể do bản chất kháng nguyên, loại xét
nghiệm được sử dụng để định lượng nồng độ anti-nucleosome, tính phản ứng chéo
với kháng thể anti-dsDNA. Nucleosome là các tiểu đơn vị chất nhiễm sắc chứa phân
tử DNA xoắn quanh một lõi protein histone và non-histone. Thuật ngữ “kháng thể
anti-nucleosome” bao gồm nhiều kháng thể khác nhau có tính đặc hiệu khác nhau,
phản ứng với histone, các biến thể histone, protein loại non-histone, cấu trúc DNA
hoặc các quyết định kháng nguyên trong cấu trúc phức tạp của chất nhiễm sắc. Vì
vậy, không thể có tiêu chuẩn thống nhất để định nghĩa kháng nguyên đích của
128
kháng thể anti-nucleosome. Do đó, rất khó chuẩn hoá việc định lượng nồng độ
kháng thể giữa các phòng xét nghiệm và vấn đề sử dụng rộng rãi kháng thể này trên
lâm sàng còn là vấn đề gây tranh cãi [58].
❖ Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của
các xét nghiệm anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q trong chẩn đoán
viêm thận lupus hoạt động trong lần khám theo dõi sau 6 tháng
Chúng tôi tính độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán
âm ở từng loại xét nghiệm trong lần thăm khám theo dõi sau 6 tháng điều trị. Kết
quả cho thấy để chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi bệnh,
kháng thể anti-C1q tỏ ra là xét nghiệm có độ nhạy cao nhất là 62,1%; với độ đặc
hiệu rất tốt là 90%; giá trị tiên đoán dương 85,4%; giá trị tiên đoán âm là 71,9%.
Đứng thứ hai về khả năng chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động là kháng thể anti-
dsDNA với độ nhạy là 43,9%, độ đặc hiệu khá tốt là 87,3%; giá trị tiên đoán dương
là 76,3%; giá trị tiên đoán âm là 62%. Cuối cùng, kháng thể anti-nucleosome có độ
nhạy không cao trong chẩn đoán viêm thận lupus trong quá trình theo dõi với độ
nhạy chỉ có 22,7%; độ đặc hiệu rất tốt đến 94,4%, giá trị tiên đoán dương là 78,9%;
giá trị tiên đoán âm là 56,8%.
So sánh với nghiên cứu của Moroni G. năm 2009 [108] thực hiện tại Ý, kết
quả của chúng tôi gần giống với nghiên cứu này. Moroni G. đã thực hiện theo dõi
kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q ở 228 BN viêm thận lupus được chứng minh
bằng sinh thiết thận với 1523 lần đánh giá, phân tích tiêu chuẩn viêm thận hoạt
động gần giống với chúng tôi. Đây là một nghiên cứu có cỡ mẫu rất lớn, rất có ý
nghĩa với bệnh nhân SLE. Kết quả của công trình này cho thấy kháng thể anti-C1q
có độ nhạy cao nhất với mức 80,5%; kháng thể anti-dsDNA đứng thứ hai ở mức
70%; độ đặc hiệu có kém hơn kết quả của chúng tôi với kháng thể anti-C1q là 71%;
anti-dsDNA là 67%; giá trị tiên đoán dương cho kết quả không tốt với anti-C1q là
38%; anti-dsDNA là 31%. Ngược lại, nghiên cứu này lại cho thấy giá trị tiên đoán
âm rất tốt với kháng thể anti-C1q là 94%; anti-dsDNA là 91%; điều này có nghĩa là
nếu BN có kết quả âm tính hai kháng thể trên thì viêm thận lupus hoạt động gần
129
như không xảy ra. Như vậy, nhìn chung kết quả nghiên cứu của chúng tôi gần giống
với kết quả của Moroni G., những khác biệt ở một số thông số là do dân số nghiên
cứu khác nhau (chủng tộc, mức độ biểu hiện bệnh khác nhau), thiết kế khác nhau
(tác giả Moroni G. theo dõi nhiều lần xét nghiệm và đánh giá cộng gộp trong khi
chúng tôi phân tích cắt ngang tại một thời điểm), bộ kit xét nghiệm khác nhau (do
phòng xét nghiệm của tác giả tự sản xuất), ngưỡng dương tính của xét nghiệm khác
nhau… Năm 2015, Orbai A.M. [115] phân tích cắt ngang 72 BN viêm thận lupus
được chứng minh bằng sinh thiết thận từ 25 điểm nghiên cứu trên thế giới với nhiều
chủng tộc khác nhau, cho thấy kháng thể anti-C1q chẩn đoán viêm thận lupus hoạt
động với độ nhạy là 41%, độ đặc hiệu là 85%. Trong nghiên cứu này, Orbai A.M.
cũng chứng minh nếu cả 3 xét nghiệm huyết thanh học gồm kháng thể anti-dsDNA,
anti-C1q dương tính, nồng độ bổ thể trong máu thấp thì tỉ số số chênh OR viêm thận
lupus hoạt động gấp 15 lần so với trường hợp cả 3 xét nghiệm này âm tính (OR
=14,9; 95% khoảng tin cậy 5,8 – 38,4; p<0,001). Công trình này cũng nêu lên vấn
đề sự khác biệt về kết quả giữa các nghiên cứu là do cấu trúc kháng nguyên đích
khác nhau. Hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp dùng toàn bộ phân tử C1q
làm kháng nguyên và dùng hệ đệm có lực kéo ion cao để ngăn cản tương tác không
đặc hiệu giữa đầu hình cầu của phân tử C1q và kháng thể. Trong nghiên cứu của
Orbai A.M., người ta sử dụng phần collagen thuần nhất làm kháng nguyên trong xét
nghiệm ELISA nên tránh được tương tác không đặc hiệu nói trên [115].
Phân tích gộp của Yin Y. [155] năm 2012 gồm 9 nghiên cứu có 1317 BN
viêm thận lupus, với đủ các nghiên cứu từ các nước Châu Âu, Nam Mỹ, Bắc Mỹ,
Châu Á Thái Bình Dương, nghiên cứu về giá trị của kháng thể anti-C1q trong chẩn
đoán viêm thận lupus hoạt động. Kết quả cho thấy độ nhạy là 74%, độ đặc hiệu là
77%; diện tích dưới đường cong của xét nghiệm này là 0,8378. Phân tích gộp của
Eggleton P. và cộng sự [48] năm 2014 gồm 9 nghiên cứu có 517 BN (249 BN viêm
thận lupus hoạt động và 268 BN viêm thận lupus không hoạt động) từ nhiều chủng
tộc khác nhau, đánh giá kháng thể anti-C1q là biện pháp chẩn đoán viêm thận lupus
hoạt động. Kết quả cho thấy độ nhạy của xét nghiệm này là 75,7%, độ đặc hiệu
130
80%. Như vậy, kết quả của chúng tôi cũng không quá xa khoảng giá trị của hai phân
tích gộp trên.
Về giá trị của kháng thể anti-nucleosome trong phân biệt viêm thận lupus
hoạt động và không hoạt động. Kết quả rất khác biệt nhau giữa các nghiên cứu.
Nghiên cứu của Bigler C. [24] năm 2008 có độ nhạy 88,6%; độ đặc hiệu 22%; giá
trị tiên đoán dương 40,3%; giá trị tiên đoán âm 76,5%; diện tích dưới đường cong
0,581 (95% khoảng tin cậy 0,47-0,7); nghiên cứu của Gutierrez-Adrianzen O.A.
năm 2006 [68] có độ nhạy 32-67,5%; độ đặc hiệu 46,2-67,3%. Nghiên cứu của Mok
C.C. và cộng sự năm 2010 [105] có kết quả độ nhạy cao nhất là anti-dsDNA là
75%; thứ hai là anti-C1q 53%; cuối cùng là anti-nucleosome 47%. Về độ đặc hiệu,
kháng thể anti-C1q cao nhất 84%; tiếp theo là anti-nucleosome 57%; cuối cùng là
anti-dsDNA 49%. Nghiên cứu hồi cứu của Yang J. [152] trên 921 BN viêm thận
lupus từ năm 2002 đến năm 2013 cho thấy kháng thể anti-nucleosome có khả năng
chẩn đoán viêm thận lupus hoạt động với độ nhạy 70,8% và độ đặc hiệu 71,4%
tương tự kháng thể anti-dsDNA lần lượt là 70% và 78%. Sự khác biệt số liệu giữa
các nghiên cứu là do khác biệt về dân số nghiên cứu, bộ kit xét nghiệm (nguồn
kháng nguyên khác nhau), chuẩn hoá giữa các phòng xét nghiệm khác nhau.
Khi phân tích hồi qui logistic đa biến các biến số danh định gồm kháng thể
anti-dsDNA, anti-nucleosome, anti-C1q dương tính, giảm bổ thể C3/máu, giảm bổ
thể C4/máu, chúng tôi thấy chỉ có kháng thể anti-C1q dương tính và giảm bổ thể C3
trong máu có ý nghĩa tiên đoán độc lập viêm thận lupus hoạt động ở lần khám theo
dõi sau 6 tháng có ý nghĩa thống kê lần lượt là p<0,001 với OR là 7,2 (95% khoảng
tin cậy là 2,6-20,4); và p= 0,006 với OR là 5 (95% khoảng tin cậy là 1,6-16). Kết
quả của chúng tôi gần giống với các nghiên cứu khác. Nghiên cứu của Metwally
I.M. [103] thực hiên tại Ai Cập năm 2019 cho thấy giảm bổ thể C4/máu (p<0,001;
OR = 14), giảm bổ thể C3/máu (p<0,001; OR = 5,57) và kháng thể anti-C1q dương
tính (p = 0,007; OR = 3,6) là yếu tố nguy cơ độc lập tiên đoán viêm thận lupus hoạt
động trong khi kháng thể anti-nucleosome không có tính chất này. Moroni G. [108]
năm 2009 nghiên cứu trên 228 BN viêm thận lupus khi phân tích đa biến cũng cho
131
kết quả mô hình tiên đoán cơn bùng phát thận tốt nhất là kháng thể anti-C1q dương
tính (p<0,0005; OR: 11,8; 95% khoảng tin cậy: 4,9-8,1); giảm bổ thể C3 /máu
(p<0,0005; OR: 2,99; 95% khoảng tin cậy 1,5-5,8); giảm bổ thể C4/máu (p<0,005;
OR: 3,3; 95% khoảng tin cậy: 1,7-6,5). Như vậy, một lần nữa cho thấy rằng kháng
thể anti-C1q tốt hơn kháng thể anti-dsDNA và anti-nucleosome trong chẩn đoán
viêm thận lupus hoạt động trong quá trình theo dõi bệnh.
Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi và so sánh với các nghiên cứu
khác trên thế giới, chúng tôi nhận thấy trong số 3 kháng thể, anti-C1q tỏ ra là kháng
thể nổi trội nhất trong chẩn đoán và theo dõi độ hoạt động viêm thận lupus trên lâm
sàng, kế đến là anti-dsDNA đứng hàng thứ hai. Kháng thể anti-nucleosome chưa
thấy rõ vai trò rõ ràng trong phân biệt các kiểu đáp ứng lâm sàng sau điều trị nhưng
cũng có giá trị phân biệt viêm thận lupus hoạt động hay không hoạt động. Như vậy,
chúng ta có thể làm xét nghiệm anti-C1q và anti-dsDNA trước để tiết kiệm chi phí
vào thời điểm mới chẩn đoán và trong quá trình theo dõi mỗi 3-6 tháng. Nếu cả hai
xét nghiệm âm tính mới làm thêm kháng thể anti-nucleosome.
132
HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU
Với nguồn lực và thời gian có hạn, trước một bệnh cảnh phức tạp, đa dạng,
mạn tính kéo dài nhiều năm như bệnh viêm thận lupus, chắc chắn chúng tôi không
tránh khỏi những mặt hạn chế. Mặc dù cố gắng kiểm soát, liên lạc thường xuyên,
tạo sự tin tưởng để bệnh nhân tái khám, chúng tôi vẫn có một số ít bệnh nhân không
liên lạc được, không theo dõi tiếp.
Nghiên cứu thực hiện tại 3 bệnh viện khác nhau, nên các xét nghiệm về sinh
hoá máu, nước tiểu, có thể sử dụng các phương pháp khác nhau, nên có thể gây ra
sai lệch kết quả, mặc dù cả 3 bệnh viện đều đạt tiêu chuẩn ISO 15189:2012 và
thường xuyên thực hiện nội kiểm, ngoại kiểm quốc tế.
Không phải tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán lần đầu, nên kết quả nồng
độ kháng thể có thể phần nào ảnh hưởng bởi điều trị.
Nghiên cứu không thực hiện sinh thiết thận lần 2 ở lần khám theo dõi sau 6
tháng để có tiêu chuẩn vàng về mô bệnh học ở lần khám theo dõi.
133
KẾT LUẬN
Trong khoảng thời gian từ tháng 04 năm 2014 đến tháng 03 năm 2019, có tất
cả 144 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu cắt ngang ban đầu, được sinh thiết
thận; sau đó có 137 bệnh nhân tiếp tục được theo dõi và tái khám sau 6 tháng. Các
kết quả chính của nghiên cứu như sau:
1. Tại thời điểm nhận vào nghiên cứu, bệnh nhân viêm thận lupus hoạt động có
tỉ lệ dương tính với các kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q khá cao (lần lượt
là 78,5% và 77,8%), trong khi kháng thể anti-nucleosome có tỉ lệ bệnh nhân
dương tính thấp hơn là 55%.
2. Kháng thể anti-dsDNA và anti-C1q có khả năng phân biệt viêm thận lupus
tăng sinh và không tăng sinh trên giải phẫu bệnh, tương quan yếu với chỉ số
hoạt động AI theo NIH trên mô bệnh học thận trong khi kháng thể anti-
nucleosome không có khả năng này.
3. Trong quá trình theo dõi, kháng thể anti-C1q, anti-dsDNA có khả năng phân
biệt các kiểu đáp ứng điều trị, có nồng độ giảm tương ứng với đáp ứng điều
trị trong khi kháng thể anti-nucleosome không có khả năng này. Khi phân
tích đơn biến, các kháng thể anti-C1q, anti-dsDNA, anti-nucleosome dương
tính đều liên quan với viêm thận lupus hoạt động với OR lần lượt là 15; 5,4;
4,9. Khi phân tích đa biến, chỉ có kháng thể anti-C1q và giảm bổ thể C3
trong máu có ý nghĩa tiên đoán độc lập viêm thận lupus hoạt động. Xét
nghiệm định lượng nồng độ kháng thể anti-C1q tỏ ra là xét nghiệm tốt nhất
với độ nhạy 62,1%; độ đặc hiệu 90%; giá trị tiên đoán dương 85,4%; giá trị
tiên đoán âm 71,9%. Đứng thứ hai là xét nghiệm kháng thể anti-dsDNA với
các giá trị lần lượt là: 43,9%; 87,3%; 76,3%; 62%. Cuối cùng là xét nghiệm
kháng thể anti-nucleosome với các giá trị lần lượt là 22,7%; 94,4%; 78,9%;
56,8%.
134
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu và tổng hợp y văn, chúng tôi xin đề xuất bổ sung các
xét nghiệm miễn dịch trong qui trình chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân viêm thận
lupus như sau:
Tại thời điểm mới chẩn đoán, nên làm thường qui các xét nghiệm định lượng
nồng độ kháng thể anti-dsDNA, anti-C1q, bổ thể C3 trong máu, C4 trong máu, sau
đó làm sinh thiết thận. Trong những trường hợp chưa thể sinh thiết thận được ngay
như bệnh nhân có bệnh cảnh đe dọa tính mạng, phù nhiều, rối loạn đông cầm máu,
có thể trì hoãn sinh thiết thận và tiên đoán kiểu tổn thương giải phẫu bệnh tăng sinh
hay không tăng sinh, mức độ hoạt động của viêm thận thông qua sự tăng cao nồng
độ kháng thể anti-C1q và anti-dsDNA để có biện pháp điều trị ức chế miễn dịch kịp
thời.
Trong quá trình theo dõi, sau mỗi 3-6 tháng hoặc bất cứ khi nào nghi ngờ đợt
bùng phát viêm thận lupus, làm lại xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể anti-
dsDNA, anti-C1q, bổ thể C3, C4 trong máu, để có thể phát hiện sớm đợt bùng phát
lupus cũng như tăng giảm liều thuốc ức chế miễn dịch thích hợp để đạt được hiệu
quả điều trị mà ít tác dụng phụ nhất.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN
1. Huỳnh Ngọc Phương Thảo. “Đánh giá chỉ số hoạt động, mạn tính NIH trong
viêm thận do lupus”. Y học TP Hồ Chí Minh (2018), Phụ bản tập 22, số 2: tr.
277-283.
2. Huỳnh Ngọc Phương Thảo, Trần Thị Bích Hương. “Giá trị của xét nghiệm tự
kháng thể Anti-dsDNA trong chẩn đoán độ hoạt động của viêm thận do
lupus”. Y học TP Hồ Chí Minh (2019), Phụ bản tập 23, số 1: tr. 226-231.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Kháng Chiến (1988), “Những kết quả bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm
lâm sàng và miễn dịch trong viêm cầu thận Lupus”, Luận án Phó tiến sĩ Y học.
Học Viện Quân Y.
2. Lê Hữu Doanh, Đào Thị Trang (2014), “Mối liên quan giữa kháng thể kháng
nhân và kháng chuỗi kép DNA với mức độ nặng của bệnh Lupus đỏ hệ
thống”, Tạp chí nghiên cứu Y học, 91(Phụ trương 5), tr. 47-51.
3. Nguyễn Thị Ngọc Dung, Huỳnh Thoại Loan, Lê Khánh Diệu (2011), “Đánh giá
mức độ hoạt tính của bệnh lupus đỏ hệ thống ở trẻ em theo thang điểm
SLEDAI và ECLAM ”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(3), Tr. 45-49.
4. Lê Thuý Hằng (2016), “Đánh giá mức độ hoạt động của viêm thận lupus bằng
thang điểm SLEDAI có đối chiếu với tổn thương mô bệnh học”, Đại học Y Hà
Nội.
5. Trần Minh Hoàng (2018), “Ứng dụng thang điểm SLEDAI-2K trong đánh giá
hoạt tính của lupus ở bệnh nhân viêm thận lupus”, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ
nội trú. Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
6. Đặng Thu Hương, Nguyễn Tất Thắng (2013), “Tỉ lệ kháng thể kháng nucleosome
trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống - Mối tương quan giữa kháng thể kháng
nucleosome với ANA, Anti-dsDNA và độ hoạt động của bệnh”, Y học TP. Hồ
Chí Minh, Tập 17 (Phụ bản số 1), tr. 294-300.
7. Trần Thị Bích Hương, Nguyễn Ngọc Lan Anh, Nguyễn Minh Tuấn (2019), “Hồi
phục chức năng thận ở bệnh nhân suy thận tiến triển nhanh do viêm cầu thận
tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Chuyên đề Tiết niệu - Thận
học, Tập 23 (Số 3), tr. 336.
8. Trần Thị Bích Hương, Trần Hiệp Đức Thắng, Nguyễn Ngọc Lan Anh (2015),
“Đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học thận của suy thận tiến triển nhanh ở
người trưởng thành tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh,
chuyên đề Thận - Niệu, 19 (4), tr. 474-482.
9. Trần Thị Bích Hương, Trần Văn Vũ, Nguyễn Ngọc Lan Anh (2016), “Nghiên
cứu hiệu quả và tính an toàn của Pulse Methylprednisolone và
Cyclophosphamide truyền tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận tiến triển nhanh”, Y
học TP. Hồ Chí Minh, chuyên đề Niệu - Thận, Tập 20 (Số 4), Tr. 179.
10. Nguyễn Quốc Tuấn (1991), “Góp phần nghiên cứu các kháng thể kháng chuỗi
kép DNA, các thành phần kháng nguyên nhân khác và mối liên quan của
chúng với một số biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân lupus đỏ hệ thống”, Luận án
Phó tiến sĩ Y học Dị ứng Miễn dịch. Học Viện Quân Y.
11. Trần Văn Vũ (2006), “Tương quan giữa lâm sàng, sinh hoá và miễn dịch trong
viêm thận lupus”, Luận văn Thạc sỹ y học. Đại học Y Dược TPHCM.
TIẾNG ANH
12. Abdalla M.A., Elmofty S.A., Elmaghraby A.A., et al. (2018), “Anti-nucleosome
antibodies in systemic lupus erythematosus patients: Relation to anti-double
stranded deoxyribonucleic acid and disease activity”, Egyptian
Rheumatologist, 40, pp. 29-33.
13. Akhter E., Burlingame R.W., Seaman A.L. (2011), “Anti-C1q antibodies have
higher correlation with flares of lupus nephritis than other serum markers”,
Lupus, 20, pp. 1267-1274.
14. Allawi A.A.D., Alwan T.S., Albedri K., et al. (2018), “Role of Anti-Nuclesome
antibodies in Diagnosis and evaluation of both Disease activity and response
to therapy in lupus nephritis”, J Pharm Sci & Res, 10 (2), pp. 425-430.
15. Almaani S., Meara A., Rovin B.H., et al. (2017), “Update on Lupus Nephritis”,
Clin J Am Soc Nephrol, 12, pp. 825-835.
16. Almeida de Jesus A., Campos L.M.A., Liphaus B.L., et al. (2012), “Anti-C1q,
anti-chromatin/nucleosome, and anti-ds DNA antibodies in juvenile systemic
lupus erythematosus patients”, Rev Bras Rheumatol, 52(6), pp. 971-981.
17. Amoura Z., Koutouzov S., Chabre S., et al. (2000), “Presence of anti-
nucleosome antibodies in a restricted set of connective tissue diseases. Anti-
nucleosome antibodies of the IgG C3 subclass are markers of renal
pathogenicity in systemic lupus erythematosus”, Arthritis Rheum, 43, pp. 76-
84.
18. Appel G.B., Radhakrishnan J., D’Agati V. (2016), “Secondary Glomerular
Disease”, In: Skorecki K., et al. (eds), Brenner & Rector ’s The Kidney, V2,
pp. 1091 - 1106, Elservier.
19. Aringer M., Costenbader K., Daikh D., et al. (2019), “2019 European League
Against Rhaumatism/American College of Rheumatology Classification
Criteria for Systemic Lupus Erythematosus”, Arthritis & Rheumatology, 71
(9), pp. 1400-1412.
20. Austin H.A. 3rd, Muenz L.R., Joyce K.M., et al. (1984), “Diffuse proliferative
lupus nephritis: Identification of specific pathologic features affecting renal
outcome”, Kidney Int, 25, pp. 689-695.
21. Bajema I.M., Wilhelmus S., Alpers C.E., et al. (2018), “Revision of the
International Society of Nephrology/Renal Pathology Society classification for
lupus nephritis: clarification of definitions, and modified National Institutes of
Health activity and chronicity indices”, Kidney Int, 93, pp. 789-796.
22. Bertsias G.K., Tektonidou M., Amoura Z., et al. (2012), “Joint European
League Against Rheumatism and European Renal Association-European
Dialysis and Transplant Association (EULAR/ERA-EDTA) recommendations
for the management of adult and paediatric lupus nephritis”, Ann Rheum Dis,
71, pp. 1771-1782.
23. Biesen R., Dahnrich C., Rosemann A., et al. (2011), “Anti-dsDNA-NcX ELISA:
dsDNA-loaded nucleosomes improve diagnosis and monitoring of disease
activity in systemic lupus erythematosus”, Arthritis Res Ther, 13, R26.
24. Bigler C., Lopez-Trascasa M., Potlukova E., et al. (2008), “Antinucleosome
antibodies as a marker of active proliferative lupus nephritis”, Am J Kidney
Dis, 51, pp. 624-629.
25. Bigler C., Schaller M., Perahud I., et al. (2009), “Autoantibodies against
complement C1q specifically target C1q bound on Early Apoptotic cells”, J
Immunol, 183, pp. 3512-3521.
26. Birmingham D.J., Bitter J.E., Ndukwe E.G., et al. (2016), “Relationship of
circulating anti-C3b and anti-C1q IgG to lupus nephritis and its flare”, Clin J
Am Soc Nephrol, 7 (11), pp. 47-53.
27. Bizzaro N., Villalta D., Giavarina D., et al. (2012), “Are anti-nucleosome
antibodies a better diagnostic marker than anti-dsDNA antibodies for systemic
lupus erythematosus? a systematic review and a study of metaanalysis”,
Autoimmun Rev, 12 (2), pp. 97-106.
28. Bock M., Heijnen I., Trendelenburg M., et al. (2015), “Anti-C1q Antibodies as a
follow-up marker in SLE patients”, PloS ONE, 10 (4), e0123572.
29. Bomback A.S., D’Agati V. (2018), “Chapter 25: Systemic Lupus Erythematosus
and the Kidney”, In: Gilbert S. J., Weiner D.E. (eds), National Kidney
Foundation ’s Primer on Kidney Diseases, pp. 245-251, Elsevier.
30. Braun A., Sis J., Max R., et al. (2007), “Anti-chromatin and anti-C1q antibodies
in systemic lupus erythematosus compared to other systemic autoimmune
diseases”, Scand J Rheumatol, 36, pp. 291-298.
31. Bruns A., Blass S., Hausdorf G., et al. (2000), “Nucleosome are major T and B
cell autoantigens in systemic lupus erythematosus”, Arthritis Rheum, 43(10),
pp. 2307-2315.
32. Bruschi M., Galetti M., Sinico R.A., et al. (2015), “Glomerular Autoimmune
Multicomponents of Human Lupus Nephritis In Vivo (2): Planted Antigens”, J
Am Soc Nephrol, 26, pp. 1905-1924.
33. Cai X., Yang X., Lian X., et al. (2010), “Correlation between serum Anti-C1q
antibody levels and renal pathological characteristics and prognostic
significance of anti-C1q antibody in Lupus nephritis”, J Rheumatol, 37, pp.
759-65.
34. Carvalhlo J.F., Viana V.S.T., Borba E.F., et al. (2008), “High-titer
antichromatin antibody is associated with proliferative class 4 of lupus
nephritis”, Clin Rheumatol, 27, pp. 1417-1421.
35. Caster D.J., Merchant M.L., Klein J.B., et al. (2018), “Precision medicine in
lupus nephritis: can biomarkers get us there?”, Transl Res, 201, pp. 26-39.
36. Cervera R., Khamashta M.A., Font J., et al. (2003), “Morbidity and mortality in
systemic lupus erythematosus during a 10-year period: a comparison of early
and late manifestations in a cohort of 1000 patients”, Medicine (Baltimore), 82
(5), pp. 299-308.
37. Cervera R., Vinas O., Ramos-Casals M., et al. (2003), “Anti-chromatin
antibodies in systemic lupus erythematosus: a useful marker for lupus
nephropathy”, Ann Rheum Dis, 62, pp. 431-434.
38. Chen P.C., Wang C.R., Liu M.F., et al. (2002), “Correlation between the Renal
C1q Deposition and Serum Anti-C1q Antibody: a potential role of Anti-C1q
antibody in Lupus nephritis”, Asian Pac J Aller Immunol, 20, pp. 223-227.
39. Chi S., Yu Y., Chi J., et al. (2015), “Antibodies against C1q are a valuable
serological marker for identification of systemic lupus erythematosus patients
with active lupus nephritis”, Hindawi Disease Markers, 2015, Article ID
450351.
40. Chowdhary V.R. (2017), “Broad concepts in management of systemic lupus
erythematosus”, Mayo clinic Proceedings, 92 (5), pp. 744-761.
41. Colvin R.B., Chang A.C. (2016), “Systemic Lupus Erythematosus”, In: Colvin
R. B., Chang A. C. (eds), Diagnostic pathology: Kidney Diseases, pp. 148-
165, Elsevier.
42. Cozzani E., Drosera M., Gasparini G., et al. (2014), “Serology of Lupus
Erythematosus: Correlation between Immunopathological Features and
Clinical Aspects”, Autoimmune Diseases, 2014(Article ID 321359).
43. Dall’Era M., Cisternas M.G., Snipes K., et al. (2017), “The Incidence and the
Prevalence of Systemic Lupus Erythematosus in San Francisco County,
California. The California Lupus Surveillance Project”, Arthritis Rheum, 69
(10), pp.1996-2005.
44. Damoiseaux J., Andrade L.E.C., Carballo O.G., et al. (2019), “Clinical
relevance of HEp-2 indirect immunofluorescent patterns: the International
Consensus on ANA patterns (ICAP) perspective”, Ann Rheum Dis, 78, pp.
879-889.
45. De Rosa M., Azzato F., Toblli J.E., et al. (2018), “A prospective observational
cohort study highlights kidney biopsy findings of lupus nephritis patients in
remission who flare following withdrawal of maintenance therapy”, Kidney
Int, 94, pp. 788-794.
46. Dema B., Charles N. (2016), “Autoantibodies in SLE: Specificities, Isotypes
and Receptors”, Antibodies, 5 (2); doi:10.3390/antib5010002.
47. Duzgun N., Sahin M., Genc Y., et al. (2007), “Antinucleosome Antibodies and
Systemic Lupus Erythematosus”, Ann N Y Acad Sci, 1109, pp. 421-428.
48. Eggleton P., Ukoumunne O.C., Cottrell I., et al. (2014), “Autoantibodies against
C1q as a diagnostic measure of Lupus nephritis: Systematic review and Meta-
analysis”, J Clin Cell Immunol, 5 (210); doi: 10.4172/2155-9899.1000210.
49. Elessawi D.F., MAhmoud G.A., El-Sawy W.S., et al. (2019), “Antinucleosome
antibodies in systemic lupus erythematosus patients: Relation to disease
activity and lupus nephritis”, The Egyptian Rheumatologist, 41, pp. 31-34.
50. Emad G., Al-Barshomy S.M. (2020), “Anti-C1q antibodies in lupus nephritis
and their correlation with the disease activity”, Saudi J Kidney Dis Transpl,
31(2), pp. 342-352.
51. Fang Q.Y., Yu F., Tan Y., et al. (2009), “Anti-C1q antibodies and IgG subclass
distribution in sera from Chinese patients with lupus nephritis”, Nephrol Dial
Transplant, 24, pp. 172-178.
52. Fanouriakis A., Kostopoulou M., Alunno A., et al. (2019), “2019 update of the
EULAR recommendations for the management of systemic lupus
erythematosus”, Ann Rheum Dis, 0, pp. 1-10.
53. Fanouriakis A., Kostopoulou M., Cheema K., et al. (2020), “2019 Update of the
Joint European League Against Rheumatism and European Renal Association
- European Dialysis and Transplantation Association (EULAR/ERA-EDTA)
recommendations for the management of lupus nephritis”, Ann Rheum Dis, 79,
pp. 713-723.
54. Ferretti C., La Cava A. (2016), “Overview of the pathogenesis of lupus
erythematosus”, In: Tsokos G. C. (ed.), Systemic Lupus Erythematosus: Basic,
applied and clinical aspects, pp. 55-62, Elsevier.
55. Flierman R., Daha M.R. (2007), “Pathogenic role of anti-C1q autoantibodies in
the development of lupus nephritis - a hypothesis”, Mol Immunol, 44, pp. 133-
138.
56. Fogo A.B., Kashgarian M. (2017), “Lupus Nephritis”, In: Fogo A.B.,
Kashgarian M. (eds), Diagnostic Atlas of Renal Pathology, pp. 190-209,
Elsevier.
57. Fu S.M., Dai C., Wang H., et al. (2016), “Mechanisms of Renal Damage in
Systemic Lupus Erythematosus”, In: Tsokos G.C.(ed.), Systemic Lupus
Erythematosus: basic, applied and clinical aspects, pp. 282-291, Elsevier.
58. Gargiulo M.L.A., Khoury M., Gomez G., et al. (2018), “Cut-off values of
Immunological tests to identify patients at high risk of severe lupus nephritis”,
Medicina (Buenos Aires), 78, pp. 329-335.
59. Gawad E.R.A., Mansour A.I., Aziz Y.A.A., et al. (2014), “Role of Anti-
nucleosome Antibodies in the Diagnosis of Systemic Lupus Erythematosus
and as A Marker for Lupus Nephropathy”, The Egyptian Journal of
Immunology, 21(1), pp. 57-65.
60. Gensous N., Marti A., Barbnetche T., et al. (2017), “Predictive biological
markers of systemic lupus erythematosus flares: a systemic literature review”,
Arthritis Res Ther, 19, pp. 238.
61. Ghiggeri G.M., D’Alessandro M., Bartolomeo D., et al. (2019), “An Update on
antibodies to Necleosome Components as Biomarkers of Systemic Lupus
erythematosus and Lupus Flares”, Int J Mol Sci, 20 (5799);
doi:10.3390/ijms20225799.
62. Gladman D.D., Ibanez D., Urowitz M.B., et al. (2002), “Systemic lupus
erythematosus disease activity index 2000 ”, J Rheumatol, 29, pp. 288-91.
63. Goilav B., Putterman C. (2015), “The role of Anti-DNA antibodies in the
development of lupus nephritis: a complementary, or alternative, viewpoint?”,
Semin Nephrol, 35, pp. 439-443.
64. Goilav B., Putterman C., Rubinstein T.B., et al. (2015), “Biomarkers for kidney
involvement in pediatric lupus”, Biomark Med, 9 (6), pp. 529-543.
65. Gordon C., Amissah-Arthur M.B., Gayed M., et al. (2018), “The British Society
for Rheumatology guideline for the management of systemic lupus
erythematosus in adults”, Rheumatology, 57 (1), pp. e1-e45.
66. Gordon C., Jayne D., Pusey C., et al. (2009), “European consensus statement on
the terminology used in the management of lupus glomerulonephritis”, Lupus,
18, pp. 257-263.
67. Grootscholten C., Dieker J.WC., McGrath F.D., et al. (2007), “A prospective
study of anti-chromatin and anti-C1q autoantibodies in patients with
proliferative lupus nephritis treated with cyclophosphamide pulses or
azathioprine/methylprednisolone”, Ann Rheum Dis, 66, pp. 693-696.
68. Gutierrez-Adrianzen O.A., Koutouzov S., Mota R.M.S., et al. (2006),
“Diagnostic value of Anti-Nucleosome antibodies in the assessment of
Disease activity of systemic lupus erythematosus: A prospective study
comparing Anti-nucleosome with Anti-dsDNA antibodies”, J Rheumatol, 33,
pp. 1538-44.
69. Hahn B.H. (2018), “Chapter 349: Systemic Lupus Erythematosus”, In: Jameson
J.L., et al.(eds), Harrison’s Principles of Internal Medicine, pp. 2515-2526,
Mc Graw Hill.
70. Hahn B.H., McMahon M.A., Wilkinson A., et al. (2012), “ American College of
Rheumatology guidelines for screening, treatment, and management of lupus
nephritis”, Arthritis Care Res, 64, pp.797-808.
71. Hanly J.G., O’Keeffe A.G., Su L., et al (2016), “The frequency and outcome of
lupus nephritis: results from an international inception cohort study”,
Rheumatology, 55, pp. 252-262.
72. Heidenreich U., Mayer G., Herold M., et al. (2009), “Sensitivity and specificity
of autoantibody tests in the differential diagnosis of lupus nephritis”, Lupus,
18, pp. 1276-1280.
73. Ho A., Barr S.G., Magder L.S., et al. (2001), “A decrease in complement is
associated with increased renal and hematologic activity in patients with
systemic lupus erythematosus”, Arthritis Rheum, 44, pp. 2350-7.
74. Ho A., Magder L.S., Barr S.G., et al. (2001), “Decrease in anti-double-stranded
DNA levels are associated with concurrent flares in patients with systemic
lupus erythematosus”, Arthritis Rheum, 44, pp. 2342-9.
75. Hochberg M.C. (1997), “Updating the American College of Rheumatology
revised criteria for the classification of systemic lupus erythematosus”,
Arthritis Rheum, 40, pp. 1725.
76. Hu W., Chen Y., Wang S., et al. (2016), “Clinical - morphological features and
outcomes of lupus podocytopathy”, Clin J Am Soc Nephrol, 11, pp. 585-592.
77. Hung W.T., Chen Y.M., Lan J.L., et al. (2011), “antinucleosome antibodies as a
potential biomarker for the evaluation of renal pathological activity in patients
with proliferative lupus nephritis”, Lupus, 20, pp. 1404-1410.
78. Isenberg D.A., Allen E., Farewell V., et al. (2011), “An assessment of disease
flare in patients with systemic lupus erythematosus: a comparision of BILAG
2004 and the flare version of SLEDAI”, Ann Rheum Dis, 70, pp. 54-9.
79. Isenberg D.A., Manson J.J., Ehrenstein M.R., et al. (2007), “Fifty years of anti-
dsDNA antibodies: are we approaching journey ’s end?”, Rheumatology, 46,
pp. 1052-1056.
80. Isenberg D.A., Rahman A., Allen E., et al. (2005), “BILAG 2004: Development
and initial validation of an updated version of British Isles Lupus Assessment
Group’s disease activity index for patients with systemic lupus
erythematosus”, Rheumatology (Oxford), 44, pp. 902-906.
81. Izmirly P.M., Wan I., Sahl S., et al. (2017), “The Incidence and Prevalence of
Systemic Lupus Erythematosus in New York County (Manhattan), New York.
The Manhattan Lupus Surveillance Program”, Arthritis Rheum, 69 (10), pp.
2006-2017.
82. Jaekell H.P., Trabandt A., Grobe N., et al. (2006), “Anti-dsDNA antibodies
subtypes and anti-C1q antibodies: toward a more reliable diagnosis and
monitoring of lupus erythematosus and lupus nephritis”, Lupus, 15, pp. 335-
45.
83. Jaryal A., Vikrant S. (2017), “Current status of lupus nephritis”, Indian J Med
Res, 145, pp. 167-178.
84. Jia Y., Zhao L., Wang C., et al. (2018), “Anti-Double-Stranded DNA Isotypes
and Anti-C1q Antibody improve the Diagnostic specificity of Systemic Lupus
Erythematosus”, Hindawi Disease Markers, Article ID 4528547;
https//doi.org/10.1155/2018/4528547.
85. Julkunen H., Ekblom-Kullberg S., Miettinen A., et al. (2012), “Nonrenal and
renal activity of systemic lupus erythematosus: a comparison of two anti-C1q
and five anti-dsDNA assays and complement C3 and C4”, Rheumatol Int, 32
(8), pp. 2445-51.
86. Katsumata Y., Miyake Y., Okamoto Y., et al. (2011), “Anti-C1q Antibodies are
associated with Systemic Lupus Erythematosus Global activity but not
Specifically with Nephritis”, Arthritis Rheum, 63 (8), pp. 2436-2444.
87. KDIGO (2012), “Glomerulonephritis Work Group. KDIGO Clinical practice
guideline for Glomerularnephritis. Chapter 12: Lupus nephritis”, Kidney Int, 2,
pp. 139-274.
88. KDIGO (2012), “Clinical Practice Guideline for Acute Kidney Injury”, Kidney
Int Suppl, 2 (1), pp. 8-12.
89. KDIGO (2013), “Clinical Practice Guideline for the Evaluation and
Management of Chronic Kidney Disease”, Kidney Int Supple 3, 1, pp. 19-62.
90. Kiss E., Lakos G., Szegedi G., et al (2009), “Anti-nucleosome antibody, a
reliable indicator for lupus nephritis”, Autoimmunity, 42 (5), pp. 393-398.
91. Kostopoulou M., Fanouriakis A., Cheema K., et al. (2020), “Management of
lupus nephritis: a systematic literature review informing the 2019 update of
the joint EULAR and European Renal Association - European Dialysis and
Transplant Association (EULAR/ERA-EDTA) recommendations”, RMD
Open, 6, e001263.
92. Kudose S., Santoriello D., Bomback A.S., et al. (2019), “Sensitivity and
Specificity of Pathologic Findings to Diagnose Lupus Nephritis”, CJASN, 14,
pp. 1605-1615.
93. Lemerle J., Brooks W.H., Renaudineau Y., et al. (2017), “Anti-DNA and Anti-
Nucleosome Antibodies: an update”, Lupus Open Access, 2 (2), e105.
94. Leung Y.Y., Szeto C.C., Tam L.S., et al. (2007), “Urine protein-to-creatinine
ratio in an untimed urine collection is a reliable measure of proteinuria in
lupus nephritis”, Rheum (Oxford), 46, pp. 649-652.
95. Li T., Prokopec S.D., Morrison S., et al. (2015), “Anti-nucleosome antibodies
outperform traditional biomarkers as longitudinal indicators of disease activity
in systemic lupus erythematosus”, Rheumatol, 54, pp. 449-457.
96. Malvar A., Alberton V., Lococo B., et al. (2020), “Kidney biopsy-based
management of maintenance immunosuppression is safe and may ameliorate
flare rate in lupus nephritis”, Kidney Int, 97, pp. 156-162.
97. Malvar A., Pirruccio P., Alberton V., et al. (2017), “Histologic versus clinical
remission in proliferative lupus nephritis”, Nephrol Dial Transplant, 32, pp.
1338-1344.
98. Manson J., Rahman A. (2006), “Association of Antinucleosome antibodies with
Disease Flare in Serology active clinical quiescent patients with systemic
lupus erythematosus”, Arthritis Rheum, 55, pp. 900-904.
99. Manson J.J., Ma A., Rogers P., et al. (2009), “Relationship between anti-
dsDNA, anti-nucleosome and anti-alpha-actinin antibodies and markers of
renal disease in patients with lupus nephritis: a prospective longitudinal
study”, Arthritis Res Ther, 11, R154.
100. Marto N., Bertolaccini M. (2005), “Anti-C1q antibodies in nephritis:
correlation between titres and renal disease activity and positive predictive
value in systemic lupus erythematosus”, Ann Rheum Dis, 64, pp. 444-448.
101. Matrat A., Veysseyer-Balter C., Trolliet P., et al. (2011), “Simultaneous
detection of anti-C1q and anti-double stranded DNA autoantibodies in lupus
nephritis: predictive value for renal flares”, Lupus, 20, pp. 28-34.
102. Mehra S., Fritzler M.J. (2014), “The spectrum of Anti-Chromatin/Nucleosome
autoantibodies: Independent and Interdependent biomarkers of Disease”, J
Immunol Res, 2014, Article ID 368274.
103. Metwally I.M., Eesa N.N., Yacoub M.H., et al. (2019), “Association of anti-
nucleosome and anti C1q antibodies with lupus nephritis in an Egyptian cohort
of patients with systemic lupus erythematosus”, Advances in Rheumatology,
59 (10); https://doi.org/10.1186/s42358-019-0054-z.
104. Mihaylova G., Vasilev V., Kosturkova M.B., et al. (2020), “Long Non-Coding
RNAs as New Biomarkers in Lupus Nephritis: A connection between present
and future”, Cureus, 12 (7), e9003; doi: 10.7759/cures.9003.
105. Mok C.C., Ho L.Y., Leung H.W., et al. (2010), “Performance of anti-C1q,
antinucleosome, and anti-dsDNA antibodies for detecting concurrent disease
activity of systemic lupus erythematosus”, Transl Res, 156, pp. 320-5.
106. Monova D., Monov S., Argirova T., et al. (2009), “Significance of anti-C1q
antibodies in lupus nephritis”, BANTAO J, 7(2), pp. 14-17.
107. Moroni G., Quaglini S., Radice A., et al. (2015), “The value of a panel of
autoantibodies for predicting the activity of Lupus nephritis at time of Renal
Biopsy”, J Immunol, Article ID 106904, 8 pages.
108. Moroni G., Radice A., Giammarresi G., et al. (2009), “Are laboratory tests
useful for monitoring the activity of lupus nephritis? A 6-year prospective
study in a cohort of 228 patients with lupus nephritis”, Ann Rheum Dis, 68, pp.
234-237.
109. Moroni G., Trendelenburg M., Del Papa N., et al. (2001), “Anti-C1q antibodies
may help in diagnosing a renal flare in lupus nephritis”, Am J Kidney Dis, 37,
pp. 490-498.
110. Moura C.G., Lima I., Barbosa L., et al. (2009), “Anti-C1q antibodies:
Association with nephritis and disease activity in systemic lupus
erythematosus”, J Clin Lab Anal, 23, pp. 19-23.
111. Munroe M.E., James J.A. (2015), “Genetics of lupus nephritis: clinical
implications”, Semin Nephrol, 35, pp. 396-409.
112. Nachman P.H. (2018), “Repeat kidney biopsy for lupus nephritis: an important
step forward”, Kidney Int, 94, pp. 659-661.
113. Ng K.P., Manson J.J., Rahman A., et al. (2006), “Association of
Antinucleosome Antibodies with disease flare in serologically active clinically
quiescent patients with systemic lupus erythematosus”, Arthritis Care Res, 55
(6), pp. 900-904.
114. Oelzner P., Deliyska B., Funfstuck R., et al. (2003), “Anti-C1q antibodies and
antiendothelial cell antibodies in systemic lupus erythematosus - relationship
with disease activity and renal involvement”, Clin Rheumatol, 22, pp. 271-
278.
115. Orbai A.M., Truedsson L., Sturfelt G., et al. (2015), “Anti-C1q antibodies in
systemic lupus erythematosus”, Lupus, 24, pp. 42-49.
116. Parikh S.V., Almaani S., Brodsky S., et al. (2020), “Update on Lupus
Nephritis: Core Curriculum 2020”, Am J Kidney Dis, 76(2), pp. 265-281.
117. Parikh S.V., Rovin B.H. (2016), “Current and Emerging Therapies for Lupus
Nephritis”, J Am Soc Nephrol, 27, pp. 2929-2939.
118. Petri M., Orbai A.M., Alarcon G.S., et al. (2012), “Derivation and validation of
the Systemic Lupus International Collaborating Clinics classification criteria
for systemic lupus erythematosus”, Arthritis Rheum 64, pp. 2677-2686.
119. Pons-Estel B.A., Bonfa E., Soriano E.R., et al. (2018), “First Latin American
clinical practice guidelines for the treatment of systemic lupus erythematosus:
LAtin American Group for the Study of Lupus (GLADEL, Grupo Latino
Americano de Estudio del Lupus)- Pan- American League of Associations of
Rheumatology (PANLAR)”, Ann Rheum Dis, 77(11), pp. 1549-1557.
120. Pradhan V.D., Patwardhan M.M., Ghosh K., et al. (2010), “Anti-nucleosome
antibodies as a disease marker in systemic lupus erythematosus and its
correlation with disease activity and other autoantibodies”, Indian J Dermatol
Venereol Leprol, 76 (2), pp. 145-9.
121. Qi S., Chen Q., Xu D., et al. (2018), “Clinical application of protein
biomarkers in lupus erythematosus and lupus nephritis”, Lupus, 27, pp. 1582-
1590.
122. Radhakrishnan J., Appel G.B., D’Agati V., et al. (2020), “Systemic Lupus
Erythematosus”, In: Yu A., et al.(eds), Brenner & Rector’s THE KIDNEY, pp.
1092-1106, Elsevier.
123. Rees F., Doherty M., Grainge M., et al. (2016), “The incidence and prevalence
of systemic lupus erythematosus in the UK, 1999-2012”, Ann Rheum Dis, 75,
pp. 136-141.
124. Riaz M.O., Ahmed T.A., Bashir M.M., et al. (2016), “Correlation of anti-C1q
antibodies with disease activity in patients with systemic lupus
erythematosus”, Pak Armed Forces Med J, 66(6), pp. 831-836.
125. Rijnink E.C., Teng Y.K.O., Kraaaij T., et al. (2018), “Validation of Systemic
Lupus International Collaborating Clinics classification criteria in a cohort of
patients with full house glomerular deposits”, Kidney Int, 93, pp. 214-220.
126. Rodrigues-Jimenez N.A., Perez-Guerrero E.E., et al. (2020), “Anti-nucleosome
antibodies increase the risk of renal relapse in a prospective cohort of patients
with clinical inactive systemic lupus erythematosus”, Scientific reports, 10
(12698); https://doi.org/10.1038/s41598-020-69608-5.
127. Rovin B.H., Ayoub I. (2016), “The clinical evaluation of Kidney Disease in
Systemic Lupus Erythematosus”, In: Tsokos G.C.(ed.), Systemic lupus
erythematosus: basic, applied and clinical aspects, pp. 341-349, Elsevier.
128. Rovin B.H., Caster D.J., Cattran D.C., et al. (2019), “Management and
treatment of glomerular diseases (part 2): conclusions from a Kidney Disease:
Improving Global Outcomes (KDIGO) Controversies Conference”, Kidney
Int, 95, 281-295.
129. Samy H., Hend H., Sameh M., et al. (2010), “Anti-nucleosome antibodies may
predict lupus nephritis and severity of disease in systemic lupus
erythematosus”, Ind Rheumatol, 5(4), pp. 165-170.
130. Simon J.A., Cabiedes J., Ortis E., et al. (2004), “Anti-nucleosome antibodies in
patients with systemic lupus erythematosus of recent onset. Potential utility as
a diagnostic tool and disease activity marker”, Rheumatol 43, pp. 220-224.
131. Sinico R.A., Radice A., Ikehata M., et al. (2005), “Anti-C1q Autoantibodies in
Lupus nephritis: Prevalence and clinical significance”, Ann N Y Acad Sci,
1050, pp. 193-200.
132. Smykal-Jankowiak K., Niemir Z.I., Polcyn-Adamczak M., et al. (2011), “Do
circulating antibodies against C1q reflect the activity of lupus nephritis”, Pol
Arch Med Wewn, 121(9), pp. 287-295.
133. Souza A., da Silva L.M., Oliveira F.R., et al. (2009), “Anti-nucleosome and
anti-chromatin antibodies are present in active systemic lupus erythematosus
but not in the cutaneous form of the disease”, Lupus, 18, pp. 223-229.
134. Sprangers B., Monahan M., Appel G.B., et al. (2012), “Diagnosis and
traetment of lupus nephritis flares - an update”, Nat Rev Nephrol, 8, 709-717.
135. Sprangers B., Monahan M., Appel G.B., et al. (2012), “Diagnosis and
treatment of lupus nephritis flares - an update”, Nat Rev Nephrol, 8(12), pp.
709-717.
136. Stiborova I., Kral V., Rovensky J., et al. (2015), “Clinical significance of anti-
C1q antibodies in SLE”, Acta Fac Pharm Univ Comen LXII, Suppl XI, pp. 15-
20.
137. Stillman I.E. (2016), “The Pathology of Lupus Nephritis”, In: Tsokos
G.C.(ed.), Systemic lupus erythematosus: Basic, applied and clinical aspects,
pp. 351-371, Elsevier.
138. Stokes M.B., Nasr S.H., D’Agati V., et al. (2017), “Systemic Lupus
Erythematosus and other Autoimmune Diseases (Mixed connective tissue
disease, Rheumatoid Arthritis and Sjogren’s syndrome)”, In: Z. et al.(ed.),
Silva’s diagnostic renal pathology, Cambridge University Press,
139. Su Y., Jia R.L., Han L., et al. (2007), “Role of anti-nucleosome antibody in the
diagnosis of systemic lupus erythematosus”, Clin Immunol, 122, pp. 115-120.
140. Tan Y., Wu L.H., Yu F., et al. (2013), “Serum levels and renal deposition of
C1q complement component and its antibodies reflect disease activity of lupus
nephritis”, BMC Nephrology, 14 (63).
141. Tan Y., Zhou W., Yu F., et al. (2009), “Detection of anti-C1q antibodies and
anti-C1q globular head domain antibodies in sera from Chinese patients with
lupus nephritis”, Mol Immunol, 46, pp. 2178-2182.
142. Tektonidou M.G., Dasgupta A., Ward M.M., et al. (2016), “Risk of end-stage
renal disease in patients with lupus nephritis, 1971-2015: a systematic review
and Bayesian meta-analysis”, Arthritis Rheum, 68, pp. 1432-1441.
143. Teruel M., Alarcon-Riquelme M.E. (2016), “The genetic basis of systemic
lupus erythematosus: What are the risk factors and what have we learned”, J
Autoimmun, 74, pp. 161.
144. Trendelenburg M., Lopez-Trascasa M., Potlukova E., et al. (2006), “High
prevalence of anti-C1q antibodies in biopsy-proven active lupus nephritis”,
Nephrol Dial Transplant, 21, pp. 3115-3121.
145. Tsokos G.C. (2016), “Appendis”, In: Tsokos G.C.(ed.), Systemic Lupus
Erythematosus: Basic, applied and clinical aspects, Elsevier,
146. Vilalata D., Bizzaro N., Bassi N., et al. (2013), “Anti-dsDNA antibodies
isotypes in systemic lupus erythematosus: IgA in addition to IgG anti-dsDNA
help to identify glomerulonephritis and active disease”, PloS ONE, 8
(e71458).
147. Villalta D., Romelli P.B., Savina C., et al. (2003), “Anti-dsDNA antibody
avidity determination by a simple reliable ELISA method for SLE diagnosis
and monitoring”, Lupus, 12, pp. 31-36.
148. Villegas-Zambrano N.V., Martinez-Taboada V.M., Boliva A., et al. (2009),
“Correlation between clinical activity and serological markers in a wide cohort
of patients with systemic lupus erythematosus”, Contemporary Challenges in
Autoimmunity: Ann NY Acad Sci, 1173, pp. 60-66.
149. Wadhwani S., Jayne D., Rovin B.H., et al. (2019), “Lupus Nephritis”, In:
Feehally J., et al.(eds), Comprehensive clinical nephrology, pp. 1465-1468,
Elsevier.
150. Wang X., Xia Y. (2019), “Anti-double Stranded DNA Antibodies: Origin,
Pathogenicity, and targeted therapies”, Front Immunol, 10: 1667.
151. Weening J.J., D’Agati V.D., Schwartz M.M., et al. (2004), “The classification
of glomerulonephritis in systemic lupus erythematosus revisited”, Kidney Int,
65, pp. 521-530.
152. Yang J., Xu Z., Sui M., et al. (2015), “Co-Positivity for Anti-dsDNA, -
Nucleosome and -Histone antibodies in lupus nephritis is indicative of high
serum levels and severe nephropathy”, PloS ONE, 10(10), e0140441.
153. Yang X.W., Tan Y., Yu F., et al. (2012), “Combination of anti-C1q and anti-
dsDNA antibodies is associated with higher renal disease activity and predicts
renal prognosis of patients with lupus nephritis”, Nephrol Dial Transplant, 27,
pp. 3552-3559.
154. Yap D.Y.H., Chan T.M. (2015), “Lupus nephritis in Asia: clinical features and
Management”, Kidney Dis, 1, pp. 100-109.
155. Yin Y., Wu X., Shan G., et al. (2012), “Diagnostic value of serum anti-C1q
antibodies in patients with lupus nephritis: meta-analysis”, Lupus, 21, pp.
1088-1097.
156. Yu F., Haas M., Glassock R. (2017), “Redefining lupus nephritis: clinical
implications of pathophysiologic subtypes”, Nat Rev Nephrol, 13, pp. 483-
495.
157. Yung S., Chan T.M. (2015), “Mechanisms of kidney injury in lupus nephritis -
the role of anti-dsDNA antibodies”, Front Immunol, 6(475); doi:
10.3389/fimmu.2015.00475.
158. Zhang C.Q., Ren L., Gao F., et al. (2011), “Anti-C1q antibodies are associated
with systemic lupus erythematosus disease activity and lupus nephritis in
northeast of China”, Clin Rheumatol, 30, pp. 967-973.
159. Zivkovic V., Stankovic A., Cvetkovic T., et al. (2014), “Anti-dsDNA, Anti-
Nucleosome and Anti-C1q antibodies as Disease activity markers in patients
with systemic lupus erythematosus”, Srp Arh Celok Lek, 142(7), pp. 431-436.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THU THẬP SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
I. Hành chánh
Họ tên:
(Viết tắt)
Năm sinh:
Giới:
Số hồ sơ:
Số nhập viện:
Mã số nghiên cứu:
Địa chỉ liên lạc:
Điện thoại:
Nghề nghiệp:
Cân nặng
Chiều cao
Diện tích da
II. Tiền sử
lần đầu: có
Không
tái phát: có
Không
Số lần tái phát:
Thời gian từ lúc khởi bệnh:
Thuốc đã được sử dụng trước đây kèm liều đang dùng:
corticosteroide …………., methylprenisolone truyền tĩnh mạch…………,
cylophosphamide………………………………, azathioprine………………..,
cyclosporin A………………….., mycophenolate mofetil…………………,
tacrolimus…................………………..,
hydroxychoroquine………………,
rituximab……………………………………………………………………..
III. Lâm sàng:
Các cơ quan bị tổn thương: Da , khớp , viêm màng phổi , viêm màng
ngoài tim , thiếu máu tán huyết , giảm bạch cầu , giảm tiểu cầu , thận ,
thần kinh , tim , ggan , viêm ruột , viêm mạch máu , hội chứng anti-
phospholipid .
- Tăng huyết áp: Có Không
IV. Cận lâm sàng
1. Sinh thiết thận: Có ngày sinh thiết
Mã số:
Số cầu thận:
Phân lọai ISN/RPS 2004:
Chỉ số họat động NIH
Chỉ số mạn tính:
Miễn dịch hùynh quang:
Các tổn thương mô học khác:
2. Các xét nghiệm:
Lần 1
Lần 2
Ghi chú
Ngày:
Ngày:
Đạm niệu que nhúng
Albumin:creatinine niệu
Đạm niệu 24giờ
Hồng cầu/NT (que nhúng)
Hồng cầu/NT (cặn lắng)
Hồng cầu/NT (Cặn Addis)
Bạch cầu/NT (que nhúng)
Bạch cầu/NT (cặn lắng)
Bạch cầu/NT (Cặn Addis)
Trụ niệu
Creatinine HT
eGFR
Albumin HT
Protein HT
C3/máu
C4/máu
BILAG-2004
SLEDAI-2K
ANA
Anti-dsDNA
Anti-nucleosome
Anti-C1q
PHỤ LỤC 2
THÔNG TIN DÀNH CHO ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
VÀ PHIẾU ĐỒNG Ý THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tên nghiên cứu: Giá trị của các xét nghiệm tự kháng thể: Anti-dsDNA, Anti- nucleosome, và Anti-C1q trong chẩn đoán và theo dõi độ hoạt động của viêm thận do Lupus. Nhà tài trợ: Không có .................................................................................................... Nghiên cứu viên chính: Huỳnh Ngọc Phương Thảo Đơn vị chủ trì: Bộ môn Nội – Khoa Y – Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh I.THÔNG TIN VỀ NGHIÊN CỨU Mục đích và tiến hành nghiên cứu
Viêm thận do Lupus là bệnh lý phức tạp, nặng nề, có tỉ lệ tử vong và tỉ lệ bệnh phối hợp cao, có thể dẫn đến suy thận mạn giai đoạn cuối. Bệnh diễn tiến thành từng đợt bùng phát xen kẽ lui bệnh. Sinh thiết thận là công cụ chẩn đoán và tiên lượng bệnh quan trọng nhưng không thể lặp lại nhiều lần. Vì vậy, chúng tôi mong muốn tìm ra một loại xét nghiệm máu mới có khả năng theo dõi độ hoạt động của bệnh.
Khoảng 130 bệnh nhân được chẩn đoán viêm thận do Lupus, đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được lấy 3ml máu xét nghiệm các kháng thể nêu trên tại 3 thời điểm: lúc mới vào, sau 3 tháng, sau 6 tháng. Bệnh nhân sẽ được sinh thiết thận chẩn đoán lần đầu nếu ở dạng bệnh hoạt động. Sau đó, ghi nhận kết quả và phân tích mối liên quan giữa nồng độ kháng thể và độ hoạt động của bệnh. Lợi ích:
Người tham gia sẽ được thăm khám, chăm sóc chu đáo theo đúng phác đồ của bệnh viện, và góp công sức vào quá trình nghiên cứu khoa học nhằm góp phần hoàn thiện chẩn đoán.
Người tham gia nghiên cứu không được bồi dưỡng tiền thù lao cũng như không nhận bồi thường về chi phí đi lại, hoặc mất thu nhập. Người tham gia nghiên cứu phải trả cho các xét nghiệm thường qui trong quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh, chỉ được miễn phí trong các xét nghiệm mới đưa vào nghiên cứu. Các nguy cơ và bất lợi
Các nguy cơ từ nghiên cứu không khác biệt với nhóm không tham gia nghiên cứu. Nguy cơ tai biến từ sinh thiết thận là 1%, và đây là thủ thuật thường qui trong quá trình chẩn đoán bệnh chứ không phải xét nghiệm phát sinh trong quá trình nghiên cứu. Người liên hệ • Huỳnh Ngọc Phương Thảo, số điện thoại: 0918196969
Sự tự nguyện tham gia
• Người tham gia được quyền tự quyết định, không hề bị ép buộc tham gia
• Người tham gia có thể rút lui ở bất kỳ thời điểm nào mà không bị ảnh hưởng
gì đến việc điều trị/chăm sóc mà họ đáng được hưởng.
• Trong trường hợp là người vị thành niên, suy giảm trí tuệ hoặc mất khả năng,
việc lấy bản chấp thuận tham gia từ người đại diện hợp pháp.
Tính bảo mật
Các thông tin cá nhân của người tham gia nghiên cứu sẽ được giữ bảo mật tuyệt đối.
II. CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tôi đã đọc và hiểu thông tin trên đây, đã có cơ hội xem xét và đặt câu hỏi về
thông tin liên quan đến nội dung trong nghiên cứu này. Tôi đã nói chuyện trực tiếp
với nghiên cứu viên và được trả lời thỏa đáng tất cả các câu hỏi. Tôi nhận một bản
sao của Bản Thông tin cho đối tượng nghiên cứu và chấp thuận tham gia nghiên
cứu này. Tôi tự nguyện đồng ý tham gia.
Chữ ký của người tham gia:
Họ tên___________________ Chữ ký___________________
Ngày tháng năm_________________
Chữ ký của người làm chứng hoặc của người đại diện hợp pháp (nếu áp dụng):
Họ tên___________________ Chữ ký ___________________
Ngày tháng năm_________________
Chữ ký của Nghiên cứu viên/người lấy chấp thuận:
Tôi, người ký tên dưới đây, xác nhận rằng bệnh nhân/người tình nguyện tham
gia nghiên cứu ký bản chấp thuận đã đọc toàn bộ bản thông tin trên đây, các
thông tin này đã được giải thích cặn kẽ cho Ông/Bà và Ông/Bà đã hiểu rõ bản chất,
các nguy cơ và lợi ích của việc Ông/Bà tham gia vào nghiên cứu này.
Họ tên ___________________ Chữ ký___________________
Ngày tháng năm_________________
PHỤ LỤC 3
BẢNG ĐÁNH GIÁ ĐỘ HOẠT ĐỘNG SLEDAI-2K
STT Giá trị Triệu chứng Định nghĩa Điểm
1 8 Co giật Mới xuất hiện. Loại trừ các nguyên
nhân chuyển hoá, nhiễm trùng, do
thuốc
2 8 Rối loạn tâm thần Rối loạn hành vi do mất khả năng
nhận thức thực tế; bao gồm: ảo giác,
tư duy không liên quan, tư duy
nghèo nàn, suy nghĩ không logic,
hành vi bất thường, mất khả năng
phối hợp, hội chứng căng trương
lực; loại trừ do urê huyết cao hoặc
do thuốc
3 8 Tổn thương não Rối loạn chức năng thần kinh như
thực thể mất định hướng, mất trí nhớ hoặc
các biểu hiện khác xuất hiện đột
ngột hoặc diễn tiến từng cơn; bao
gồm: rối loạn tri giác kèm giảm khả
năng tập trung, mất khả năng chú ý
với môi trường xung quanh đi kèm
với ít nhất 2 triệu chứng sau: rối
loạn nhận thức, lời nói không mạch
lạc, mất ngủ hoặc ngủ gà, tăng hoặc
giảm các hoạt động tâm thần vận
động. Loại trừ nguyên nhân chuyển
hoá, nhiễm trùng, do thuốc
4 8 Rối loạn thị giác Tổn thương võng mạc do Lupus.
Bao gồm tổn thương võng mạc do
tắc mạch, xuất huyết võng mạc, xuất
tiết hay xuất huyết màng bồ đào,
viêm thần kinh thị. Loại trừ nguyên
nhân tăng huyết áp, nhiễm trùng
hoặc do thuốc
5 8 Tổn thương thần Bệnh thần kinh cảm giác hoặc vận
kính sọ động mới xuất hiện do tổn thương
thần kinh sọ
6 8 Đau đầu Đau đầu nặng và kéo dài, có thể do
migrain nhưng kháng với các thuốc
giảm đau có chất gây nghiện
7 8 Tai biến mạch Tai biến mạch máu não mới xuất
máu não hiện. Loại trừ do xơ vữa động mạch
8 8 Viêm mạch máu Loét, hoại thư, xuất hiện những nốt
ở đầu chi đau, nhồi máu quanh
móng, hoặc bằng chứng mô học
hoặc chụp động mạch cho thấy viêm
mạch máu
9 4 Viêm khớp Ít nhất hai khớp bị đau kèm với các
dấu hiệu viêm tại chỗ (đau, sưng,
hoặc tràn dịch khớp)
10 4 Viêm cơ Đau, yếu gốc cơ kèm tăng CPK và
hoặc aldolase hoặc những thay đổi
trên điện cơ hoặc sinh thiết cho thấy
dấu hiệu của viêm cơ trên sinh thiết
Trụ niệu Trụ hồng cầu, trụ hạt, trụ 4 11
hemoglobin
Tiểu máu >5 hồng cầu/quang trường phóng 4 12
đại cao. Loại trừ nguyên nhân do
sỏi, nhiễm trùng, hoặc nguyên nhân
khác
Đạm niệu > 0,5 g/24 giờ. 4 13
Tiểu mủ >5 bạch cầu/quang trường phóng đại 4 14
cao. Loại trừ do nhiễm khuẩn đường
tiết niệu
Phát ban da mới Phát ban dạng viêm 2 15
Rụng tóc Rụng tóc bất thường từng mảng 2 16
hoặc lan tỏa
Loét niêm mạc Loét niêm mạc miệng hoặc niêm 2 17
mạc mũi
Viêm màng phổi Đau ngực kiểu viêm màng phổi kèm 2 18
tiếng cọ màng phổi, hoặc tràn dịch,
hoặc dày màng phổi
19 2 Viêm màng Đau ngực kiểu màng ngoài tim kèm
ngoài tim ít nhất một trong các triệu chứng
sau: tiếng cọ, tràn dịch màng ngoài
tim, hoặc xác nhận bằng ECG hoặc
siêu âm tim
20 2 Bổ thể Giảm CH50, C3 hoặc C4 máu dưới
giới hạn bình thường của phòng xét
nghiệm
21 2 Anti-dsDNA Tăng trên giới hạn bình thường của
phòng xét nghiệm
22 1 Sốt >380C, loại trừ nguyên nhân nhiễm
trùng
23 1 Giảm tiểu cầu <100000/mm3, loại trừ do thuốc
24 1 Giảm bạch cầu <3000/mm3, loại trừ do thuốc
Tổng điểm
PHỤ LỤC 4
BẢNG CHỈ SỐ BILAG THẬN 2004
Nhóm A: Hiện diện ít nhất 2 trong các triệu chứng sau đây, trong đó ít nhất phải có
một trong các triệu chứng (1), (4) và (5):
(1) Đạm niệu tăng (nặng) được định nghĩa như sau:
-Protein niệu trên que nhúng nước tiểu ≥ 2+ (chỉ sử dụng nếu các phương
pháp ước lượng protein niệu khác không có sẵn) ; HOẶC
- Protein niệu 24 giờ >1 g, chỉ số này không cải thiện ≥25% so với lần trước;
HOẶC
- Tỉ lệ protein: creatinine niệu> 100 mg/mmol, chỉ số này không cải thiện ≥
25% so với lần trước; HOẶC
- Tỉ lệ albumin:creatinine niệu>100 mg/mmol, chỉ số này không cải thiện
≥25% so với lần trước.
(2) Tăng huyết áp tiến triển
(3) Suy thận tiến triển (nặng) được định nghĩa như sau:
- Creatinine huyết tương>130 µmol/l và tăng > 130% so với giá trị trước
đó; HOẶC
- Độ lọc cầu thận <80 ml/phút/1,73m2 da và chỉ số này <67% so với giá trị
trước đó; HOẶC
- Độ lọc cầu thận < 50 ml/phút/1,73m2 da, chỉ số này lần cuối cùng>50
ml/phút/1,73m2 da hoặc chưa có.
(4) Cặn lắng nước tiểu hoạt động
(5) Bằng chứng mô học của viêm thận hoạt động trong vòng 3 tháng qua
(6) Hội chứng thận hư
Nhóm B: khi có bất cứ triệu chứng nào sau đây:
(1) 1 triệu chứng thuộc nhóm A
(2) Protein niệu không thỏa tiêu chuẩn thuộc nhóm A
- Protein niệu trên que nhúng 1-2+, chỉ áp dụng khi các phương pháp đo
lường khác không có sẵn ; HOẶC
- Protein niệu 24 giờ ≥ 0,5 g, chỉ số này không cải thiện≥ 25% so với lần
trước; HOẶC
- Tỉ lệ protein: creatinine niệu > 50 mg/mmol, chỉ số này không cải thiện ≥
25% so với lần trước; HOẶC
- Tỉ lệ albumin: creatinine niệu> 50 mg/mmol, chỉ số này không cải thiện ≥
25% so với lần trước.
(3) Creatinine huyết tương > 130 µmol/l và tăng ≥ 115% nhưng ≤ 130% so với
giá trị trước đó.
Nhóm C: khi có bất cứ triệu chứng nào sau đây:
(1) Protein niệu tăng nhẹ hoặc ổn định được định nghĩa như sau:
- Protein niệu trên que nhúng ≥1+ nhưng không thỏa tiêu chuẩn của nhóm
A và nhóm B (chỉ áp dụng khi các phương pháp đo lường khác không có
sẵn) ; HOẶC
- Protein niệu 24 giờ > 0,25 g, nhưng không thỏa tiêu chuẩn thuộc nhóm A
và B; HOẶC
- Tỉ lệ Protein:creatinine niệu>25 mg/mmol nhưng không thỏa tiêu chuẩn
thuộc nhóm A và B; HOẶC
- Tỉ lệ albumin:craetinine niệu > 25 mg/mmol nhưng không thỏa tiêu
chuẩn thuộc nhóm A và B.
(2) Tăng huyết áp (giá trị ghi nhận được >140/90 mmHg), không thỏa tiêu chuẩn
thuộc nhóm A và B, được định nghĩa là:
- Tăng huyết áp tâm thu ≥30 mmHg
- Tăng huyết áp tâm trương ≥ 15 mmHg
Nhóm D: Trước đây có tổn thương, hiện giờ đã khỏi
Nhóm E: Trước đây chưa có tổn thương.
Ghi chú: mặc dù tỉ lệ protein: creatinine niệu khác với tỉ lệ albumin: creatinine niệu
nhưng ở đây dùng cùng một điểm cắt giá trị.
PHỤ LỤC 5
MẪU KẾT QUẢ SINH THIẾT THẬN
PHỤ LỤC 6
Danh sách bệnh nhân
PHỤ LỤC 7
Chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong Nghiên cứu Y Sinh học Đại học
Y Dược TP Hồ Chí Minh