VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NHƯ QUỲNH

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NHƯ QUỲNH

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

Hà Nội, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi

dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Văn Tuyến. Các kết quả được

trình bày trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu

nào khác. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn mang tính chất tham khảo và

được trích từ nguồn thông tin chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn

thành các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định

của Học viện Khoa học Xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Vì vậy, tôi đề nghị Học viện Khoa học Xã hội – Viện hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam xem xét, quyết định cho tôi được bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN NHƯ QUỲNH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .. ........................................................................................................ 1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .............................................................. 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại............................................................................................. 6

1.1.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ..................................................................................................................... 6

1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại .................................................................................................. 8

1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại .................................................................................. 10

1.2.1. Căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ................................................................. 10

1.2.2. Quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ................................................................................................ 13

Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT ............. 17

2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ............................................................................... 17

2.1.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ............................................................................... 17

2.1.2. Thực trạng quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ........................................................................ 19

2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ................................................................. 23

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ............................................................. 26

2.2.1. Khái quát về tình hình xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ....................................................................................... 27

2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ..................................... 29

2.2.3. Những bất cập và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ............... 32

Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ..................................................................................................... 49

3.1. Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ......................................... 49

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại .................................................................. 49

3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ............................................ 57

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ....................................................................... 59

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ........................................................................ 59

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ............................................ 61

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ Luật Dân sự

Nghị định 11 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng

02 năm 2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định

số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của chính

phủ về giao dịch bảo đảm

Nghị định 163 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29

tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm

Nghị quyết 42 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017

của Quốc Hội về thí điểm xử lý nợ xấu

Ngân hàng Nhà nước NHNN

Ngân hàng thương mại NHTM

Tòa án nhân dân TAND

Tổ chức tín dụng TCTD

Tài sản bảo đảm TSBĐ

VAMC Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản

của các tổ chức tín dụng Việt Nam

VCCB Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt

TTLT 16 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN

ngày 06 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên

và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng

dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Chi tiết về tình hình dư nợ, nợ quá hạn (NQH) và nợ xấu (NX) tại

VCCB được chia theo nhóm nợ, loại hình qua hai năm 2018-2019 như sau: 29

Bảng 2.2. Tình hình thực tế xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ xấu năm 2017,

2018 tại VCCB ................................................................................................ 32

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với xu thế phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế thế giới,

Việt Nam đã nỗ lực cải cách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

chung và chính sách pháp luật về tín dụng nói riêng để tạo đà thúc đẩy sự phát

triển của nền kinh tế thị trường theo hướng hội nhập quốc tế.

Trong bối cảnh tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu phát

triển lành mạnh của nền kinh tế, vấn đề xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng cũng

đã và đang được triển khai một cách mạnh mẽ mà bằng chứng là việc ban hành

Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc

thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng. Nghị quyết này đã một lần nữa công

nhận “quyền thu giữ tài sản bảo đảm” để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, phương thức thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu chỉ thành công

trong một số trường hợp hạn hữu, chẳng hạn như trường hợp khách hàng hợp

tác, tài sản bảo đảm không có tranh chấp, tài sản bảo đảm là đất trống… Thực

tế những trường hợp này rất ít xảy ra, những vấn đề phổ biến trong quá trình

xử lý tài sản bảo đảm là xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không hợp tác,

trong tình huống này, Tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện khách hàng đến

Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được quyền xử lý tài sản bảo đảm thông qua

cơ quan Thi hành án. Điều này sẽ dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong

quá trình xử lý tài sản bảo đảm của các Tổ chức tín dụng.

Từ thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay

từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Bản Việt” để làm luận văn thạc sĩ luật học của

mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Về tình hình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tìm thấy một số công trình

1

nghiên cứu khoa học chuyên sâu về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của các ngân

hàng thương mại. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình nghiên

cứu tiêu biểu sau đây:

- Luận văn thạc sĩ luật học bảo vệ năm 2018 của Nguyễn Lê Vũ, Trường

Đại học Luật – Đại học Huế với đề tài: “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”;

- Luận văn thạc sĩ năm 2018 của Lương Đình Thí, Học viện khoa học xã

hội – Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam với đề tài: “Thế chấp bằng

quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật

Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng”;

- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của Ngô Ngọc Linh, Khoa Luật –

Trường Đại học Quốc gia Hà Nội viết về đề tài “Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

là bất động sản qua thực tiễn hoạt động tại các tổ chức tín dụng”;

- Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh năm 2014 của Trần Công Sinh,

Đại học Đà Nẵng với đề tài: “Hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài

sản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Chi nhánh Hải

Châu”;

- Bài viết với tựa đề: “Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo bằng tiền vay

là quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số

khuyến nghị” của TS. Đặng Công Tráng (Khoa Luật - Trường Đại học Công

nghiệp Tp. Hồ Chí Minh), Phùng Thùy Dương (Giảng viên Trường Đại học

Trà Vinh) và TS. Hồ Hữu Tuấn (Giảng viên Trường Đại học Công nghiệp Tp.

Hồ Chí Minh).

Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên đây đã giải

quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản về xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay. Tuy nhiên, các công trình này chưa có sự nghiên cứu, liên hệ với

thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng TMCP Bản Việt. Vì thế,

2

công trình nghiên cứu này của tác giả có thể xem là có tính mới, đáp ứng yêu

cầu đối với một luận văn thạc sĩ theo quy định hiện hành.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về xử lý

tài sản bảo đảm tiền vay; thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật

về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung

và Ngân hàng TMCP Bản Việt nói riêng.

Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần nói chung và Ngân

hàng TMCP Bản Việt nói riêng.

- Nhận diện những quy định có tính mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập và

những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, lý thuyết liên quan

đến giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; các quy định pháp

luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

tại các ngân hàng thương mại cổ phần nói chung và Ngân hàng TMCP Bản Việt

nói riêng.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận về xử

lý tài sản bảo đảm tiền vay; thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân

hàng TMCP Bản Việt trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu và thực hiện dựa trên phương pháp phân tích,

3

so sánh đối chiếu, thống kê tình huống, số liệu thực tiễn từ hoạt động xử lý tài

sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần nhằm đưa ra nhận

định và góc nhìn bao quát về hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và từ đó,

đề xuất hướng giải quyết tối ưu khi các ngân hàng thương mại thực hiện việc

xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Khi việc nghiên cứu đề tài mang lại tính hiệu quả trong thực tiễn áp dụng

pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong

quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần,

giải quyết được những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện thì điều

này mang lại những ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng như sau:

Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về

xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại từ những cơ sở lý

luận và thực tiễn áp dụng pháp luật;

Thứ hai, luận văn góp phần hệ thống hóa pháp luật về xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại tạo nên sự thống nhất và đồng bộ

trong quá trình triển khai thực hiện.

Thứ ba, luận văn góp phần phổ biến kiến thức, giúp các bên có liên quan

trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại

hiểu rõ bản chất giao dịch, chức năng và vai trò của mình trong quá trình tham

gia vào giao dịch đó. Từ đó, các bên có liên quan có đủ cơ sở pháp lý để thực

hiện, tuân thủ, tránh việc vi phạm pháp luật và hạn chế các tranh chấp hoặc rủi

ro pháp lý có thể xảy ra trong quá trình giao dịch.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

bao gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và

4

pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của

ngân hàng thương mại và thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Bản Việt.

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN

VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của

ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương

mại

“Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay” không phải là một khái niệm được quy

định cụ thể trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Để đưa ra định nghĩa thuyết phục về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay,

có lẽ trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái niệm tiền đề là “tài sản bảo

đảm tiền vay” và “giao dịch bảo đảm tiền vay”.

Về khái niệm “tài sản bảo đảm”, mặc dù không có một định nghĩa chính

thức về TSBĐ nhưng tại Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015, nhà làm luật Việt Nam

đã đưa ra một số dấu hiệu để xác định thế nào TSBĐ, theo đó:

(i) TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm

giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu;

(ii) TSBĐ có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được;

(iii) TSBĐ có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương

lai;

(iv) Giá trị của TSBĐ có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ

được bảo đảm.

Bên cạnh việc xác định các dấu hiệu của TSBĐ, nhà làm luật còn đưa ra

một số quy định về nghĩa vụ được bảo đảm nhằm làm cơ sở cho việc xác định

mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với nghĩa vụ được bảo đảm. Cụ thể là,

Điều 293 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc

6

toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa

thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được

bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại. Nghĩa

vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc

nghĩa vụ có điều kiện. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa

vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín dụng

với khách hàng, nghĩa vụ được bảo đảm chính là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả

gốc và lãi của khách hàng vay đối với tổ chức tín dụng. Nghĩa vụ này phát sinh

trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn để

thỏa mãn nhu cầu kinh doanh hoặc tiêu dùng và việc thực hiện nghĩa vụ được

bảo đảm bằng tài sản của bên bảo đảm dưới hình thức cầm cố, thế chấp hoặc

bảo lãnh. Trong trường hợp bên vay không trả được nợ cho tổ chức tín dụng thì

TSBĐ sẽ được đưa ra xử lý theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của

pháp luật.

Về lý thuyết, giữa TSBĐ và việc xử lý TSBĐ có mối liên hệ mật thiết

với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ, nếu TSBĐ đáp ứng tốt các điều kiện theo quy

định đối với TSBĐ thì việc xử lý TSBĐ sẽ dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Ngược

lại, nếu TSBĐ không đáp ứng được hoặc chỉ đáp ứng ở mức độ tối thiểu thì

việc xử lý TSBĐ sẽ trở nên khó khăn hơn và thậm chí không thể xử lý được để

thu hồi nợ cho NHTM. Xử lý TSBĐ chính là việc ngân hàng thực hiện các biện

pháp đối với TSBĐ tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ. Trong các văn bản

pháp luật đã ban hành cho tới thời điểm này, chưa có một văn bản nào đưa ra

định nghĩa cụ thể và chính xác về xử lý TSBĐ tiền vay.

Vậy, về phương diện lý thuyết, có thể định nghĩa như thế nào về thuật

ngữ “xử lý tài sản bảo đảm”?

Như đã đề cập ở trên, hiện tại không có một định nghĩa chính thức nào

7

trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định về “xử lý tài sản

bảo đảm”. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu vấn đề này trong các tài liệu đã

được công bố, tác giả luận văn cho rằng có thể đưa ra khái niệm về xử lý tài

sản bảo đảm tiền vay như sau:

Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là việc các bên tham gia giao dịch bảo

đảm áp dụng những cách thức, biện pháp theo thỏa thuận hoặc theo quy định

của pháp luật để xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng

trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa

vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.

1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng

thương mại

Định nghĩa trên đây cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay có

những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, về chủ thể xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

Trên phương diện lý thuyết, do việc bảo đảm tiền vay là nhằm bảo vệ

quyền lợi cho chủ nợ (bên nhận bảo đảm) nên chủ thể tham gia xử lý TSBĐ

tiền vay cũng chủ yếu là chủ nợ - với tư cách là bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên,

do việc xử lý TSBĐ tiền vay còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của

chủ sở hữu TSBĐ (bên bảo đảm) nên về lý thuyết, chủ thể này cũng tham gia

vào quan hệ xử lý TSBĐ, với mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Ngoài ra, trong trường hợp có thỏa thuận, các bên có thể thống nhất lựa

chọn bên thứ ba để tiến hành các hoạt động xử lý TSBĐ (ví dụ: Trung tâm bán

đấu giá tài sản…).

Thứ hai, về thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

Trên nguyên tắc, thời điểm xử lý TSBĐ tiền vay là thời điểm bên vay vi

phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng tín dụng mà bên cho vay không

đồng ý cho gia hạn nợ hoặc cơ cấu nợ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các bên

8

thỏa thuận bên nhận bảo đảm có quyền xử lý TSBĐ tiền vay khi bên vay sử

dụng vốn sai mục đích, do đó tổ chức tín dụng có quyền thu hồi nợ vay trước

hạn và có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi đủ số nợ này (cả gốc và lãi).

Việc xác định thời điểm xử lý TSBĐ tiền vay có ý nghĩa rất quan trọng

đối với các bên tham gia giao dịch bảo đảm, bởi lẽ, thời điểm xử lý TSBĐ tiền

vay cho phép xác định thời điểm thực hiện quyền của bên nhận bảo đảm và

nghĩa vụ của bên bảo đảm đối với TSBĐ.

Thứ ba, về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

Việc xử lý TSBĐ tiền vay có liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên,

trong đó chủ yếu gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Do vậy, hoạt động

này cần tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, cụ thể là:

(i) Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm và

bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý TSBĐ. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử

lý TSBĐ không được gây thiệt hại cho lợi ích của bên bảo đảm (với tư cách là

chủ tài sản) cũng như lợi ích của bên nhận bảo đảm (với tư cách là chủ nợ có

bảo đảm). Việc chuyển giao tài sản để bán, xác định giá bán, tổ chức bán TSBĐ

phải công khai, minh bạch và bám sát cơ chế thị trường nhằm đảm bảo tối ưu

quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên trong giao dịch bảo đảm.

(ii) Nguyên tắc xử lý nhanh chóng, kịp thời, giảm thiểu chi phí trong quá

trình xử lý tài sản. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử lý TSBĐ phải được các bên

liên quan tiến hành một cách nhanh chóng, dứt điểm, không kéo dài, đơn giản

hóa thủ tục nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ đúng trình tự do pháp luật quy

định nhằm giảm thiểu chi phí cho các bên trong quá trình xử lý TSBĐ.

(iii) Nguyên tắc ưu tiên xử lý TSBĐ theo thỏa thuận của các bên, trường

hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ, không thể thực hiện được

thì xử lý theo quy định chung của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên

phải ưu tiên áp dụng các phương thức xử lý TSBĐ đã được thỏa thuận trong

9

giao dịch bảo đảm. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ

ràng, không thể áp dụng được thì mới xử lý theo các phương thức mà pháp luật

đã quy định nhằm đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.

Trong pháp luật thực định Việt Nam hiện nay, nhà làm luật đã quy định

một số nguyên tắc xử lý TSBĐ tại Điều 58 Nghị định số 163. Tuy nhiên, các

nguyên tắc này cần được bàn luận thêm ở chương 2 để làm rõ hơn về tính hợp

lý của nó trong quá trình thực hiện trên thực tế.

Thứ tư, về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

Việc xử lý TSBĐ tiền vay được thực hiện thông qua các phương thức cơ

bản gồm: bán TSBĐ tiền vay cho bên thứ ba để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng;

chuyển quyền sở hữu TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để khấu trừ nợ… Suy cho

cùng, các phương thức xử lý TSBĐ tiền vay thực chất là biến các TSBĐ thành

tiền để thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm hoặc dùng chính TSBĐ để khấu trừ

nợ với bên chủ nợ có bảo đảm.

Thứ năm, về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

Về bản chất, trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay chỉ là các bước cần

thực hiện để xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật hoặc theo các bên thỏa

thuận chứ không phải là thủ tục hành chính vì nó không liên quan đến các cơ

quan hành chính nhà nước.

1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay của ngân hàng thương mại

1.2.1. Căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động

cho vay của ngân hàng thương mại

Về lý thuyết, việc xử lý TSBĐ tiền vay là những hành vi pháp lý của các

bên liên quan như bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm, bên thứ ba được ủy quyền

hoặc được chỉ định xử lý TSBĐ. Do vậy, việc thực hiện các hành vi pháp lý

này sẽ phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định để đảm bảo tính hợp pháp

10

cho việc thực hiện.

Trên nguyên tắc, việc xử lý TSBĐ tiền vay được thực hiện dựa trên cơ

sở pháp lý là các quy định pháp luật và các thỏa thuận giữa bên bảo đảm với

bên nhận bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm về vấn đề xử lý TSBĐ tiền vay. Về

lý thuyết, do việc xử lý TSBĐ tiền vay vốn dĩ liên quan đến quyền lợi tư của

các bên (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) nên cần ưu tiên xử lý theo thỏa

thuận của các bên, trường hợp các bên không có thỏa thuận thì mới xử lý theo

quy định của pháp luật.

Phần dưới đây của luận văn sẽ phân tích rõ hơn về các căn cứ này.

Trước hết, về căn cứ pháp lý là hợp đồng bảo đảm tiền vay.

Hợp đồng bảo đảm tiền vay là văn bản pháp lý thể hiện mối quan hệ bảo

đảm nghĩa vụ dân sự phát sinh giữa bên bảo nhận bảo đảm là ngân hàng với

bên bảo đảm (có thể là người vay hoặc người thứ ba). Đây chính là cơ sở pháp

lý chủ yếu để thực hiện việc xử lý TSBĐ, bởi lẽ trong hợp đồng này các bên

thường thỏa thuận rõ về các trường hợp phải xử lý TSBĐ; điều kiện xử lý

TSBĐ; quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình xử lý TSBĐ; các phương

thức xử lý TSBĐ; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán TSBĐ; hậu quả pháp lý

của việc xử lý TSBĐ; cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc xử lý

TSBĐ tiền vay.

Trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay, các bên phải ưu tiên xử lý TSBĐ

theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay đã ký kết, bao gồm thỏa thuận

về:

(i) các trường hợp xử lý TSBĐ;

(ii) điều kiện xử lý TSBĐ;

(iii) quyền nghĩa vụ của các bên trong việc xử lý TSBĐ;

(iv) các phương thức xử lý TSBĐ; và

(v) thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán TSBĐ.

11

Thứ hai, về căn cứ pháp lý là quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay

Pháp luật quy định một số vấn đề cơ bản về xử lý TSBĐ tiền vay để làm

căn cứ cho việc xử lý TSBĐ trong trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo

đảm không có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng bảo đảm tiền vay.

Thông thường, các quy định cơ bản về xử lý TSBĐ tiền vay thường được pháp

luật quy định bao gồm:

(i) Các quy định về nguyên tắc xử lý TSBĐ tiền vay.

Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay pháp luật quy định các bên phải tuân

thủ một số nguyên tắc khi xử lý TSBĐ tiền vay, cụ thể là: Nguyên tắc thoả

thuận; nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao

dịch bảo đảm tiền vay; nguyên tắc xử lý TSBĐ công khai, khách quan; nguyên

tắc xử lỷ TSBĐ nhanh chóng.

(ii) Các quy định về những trường hợp xử lý TSBĐ tiền vay.

Ở Việt Nam, Điều 299 BLDS 2015 quy định các bên được xử lý TSBĐ

tiền vay trong những trường hợp sau: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo

đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;

bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi

phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; trường hợp khác

do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

(iii) Các quy định về phương thức xử lý TSBĐ tiền vay.

Pháp luật Việt Nam đã quy định một số phương thức xử lý TSBĐ tiền

vay như:

a) bán TSBĐ;

b) bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực

hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;

c) bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người

12

thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; và

d) các phương thức khác do các bên thoả thuận.

Ngoài các trường hợp xử lý tài sản nêu trên, các bên có quyền xử lý tài

sản theo thỏa thuận mà không phụ thuộc vào yếu tố vi phạm hoặc thời hạn của

nghĩa vụ được bảo đảm. Ví dụ: Ngân hàng nhận thế chấp của khách hàng tài

sản và thỏa thuận xử lý TSBĐ, theo đó, ngân hàng nhận chuyển nhượng TSBĐ

đó của khách hàng và thanh toán lại số tiền chênh lệch cho khách hàng mà

không phụ thuộc vào yếu tố vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ hoặc thời hạn trả

nợ hoặc trường hợp pháp luật quy định TSBĐ có nguy cơ bị hư hỏng dẫn đến

bị giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo đảm có quyền xử

lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm

khác về việc xử lý tài sản đó [3, Điều 30].

(iv) Các quy định về trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay.

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay, pháp luật đã có quy định

tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay bao gồm những bước

nào, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan ra sao và hậu quả

pháp lý của các thủ tục đó trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay.

1.2.2. Quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân

hàng thương mại

Về lý thuyết, quan hệ pháp luật về xử lý TSBĐ tiền vay là quan hệ phát

sinh giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm và/hoặc bên thứ ba trong quá

trình xử lý TSBĐ tiền vay. Quan hệ pháp luật này có thể được mô tả bởi các

nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, về căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật

về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại.

Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật về xử lý

TSBĐ tiền vay của NHTM chính là sự kiện pháp lý đã được ghi nhận trong hợp

13

đồng bảo đảm tiền vay hoặc được ghi nhận trong pháp luật thực định. Về thực

chất, những sự kiện pháp lý này chính là các trường hợp được xử lý TSBĐ tiền

vay do các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc do pháp luật quy định, chẳng

hạn như: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; bên có nghĩa vụ phải

thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa

thuận hoặc theo quy định của luật; trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc

luật có quy định.

Thứ hai, về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm

tiền vay của ngân hàng thương mại.

Trên nguyên tắc, quan hệ pháp luật về xử lý TSBĐ tiền vay có thể phát

sinh giữa các chủ thể sau đây: Bên bảo đảm; bên nhận bảo đảm; bên thứ ba

được xác định có quyền tham gia xử lý TSBĐ.

Bên bảo đảm có quyền tham gia quan hệ xử lý TSBĐ tiền vay là bởi vì,

chính họ là chủ sở hữu của TSBĐ, do đó họ đương nhiên có quyền tham gia

vào quan hệ xử lý TSBĐ để thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp

của mình liên quan đến TSBĐ, ví dụ như: có nghĩa vụ chuyển giao TSBĐ cho

bên có quyền xử lý TSBĐ để xử lý, tham gia vào việc định giá TSBĐ cũng như

việc bán TSBĐ nhằm bảo vệ các quyền, lợi ich hợp pháp của mình.

Bên nhận bảo đảm (tổ chức tín dụng) có quyền tham gia quan hệ xử lý

TSBĐ tiền vay là bởi vì, TSBĐ được đưa ra xử lý là tài sản để bảo đảm cho

nghĩa vụ của bên vay đối với chính bên bảo đảm. Do vậy, họ đương nhiên có

quyền tham gia quan hệ xử lý TSBĐ để thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích

hợp pháp của mình phát sinh từ việc xử lý TSBĐ, ví dụ như: quyền yêu cầu

bên bảo đảm hoặc bên cầm giữ tài sản chuyển giao TSBĐ để xử lý; quyền tham

gia vào việc định giá TSBĐ trước khi xử lý; quyền trực tiếp xử lý TSBĐ hoặc

thuê bên thứ ba xử lý TSBĐ (chẳng hạn như trung tâm bán đầu giá tài sản);

14

quyền được hưởng các khoản thanh toán từ tiền bán TSBĐ.

Bên thứ ba được chỉ định tham gia xử lý tài sản về thực chất không có

quyền lợi nào trực tiếp liên quan đến TSBĐ. Tuy nhiên, họ có thể sẽ được pháp

luật chỉ định hoặc các bên liên quan (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) thỏa

thuận giao quyền tổ chức việc xử lý TSBĐ nhằm đảm bảo tính khách quan,

minh bạch và cân bằng lợi ích giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm trong

quá trình xử lý TSBĐ.

Thứ ba, về nội dung của quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay của ngân hàng thương mại.

Về lý thuyết, nội dung của quan hệ xử lý TSBĐ tiền vay của NHTM

chính là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ xử lý TSBĐ tiền

vay, bao gồm quyền và nghĩa vụ của bên bảo đảm; quyền và nghĩa vụ của bên

nhận bảo đảm; quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba được chỉ định xử lý TSBĐ.

Thực tế cho thấy, các quyền nghĩa vụ này thường được pháp luật của các nước

ghi nhận và các bên cũng có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay

để có căn cứ pháp lý cho việc thực hiện trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay.

Chương 2 tiếp theo của luận văn sẽ phân tích rõ hơn về thực trạng các

nhóm quy phạm pháp luật này ở Việt Nam hiện nay để từ đó chỉ ra những hạn

chế, bất cập của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Trên cơ

sở đó, luận văn sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài

sản bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Đề án cơ cấu lại hệ

thống các tổ chức tín dụng gắn liền với xử lý nợ xấu của Chính phủ và Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.

Kết luận chương 1

Tác giả muốn trình bày chi tiết những vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm là

một trong những cách thức để các ngân hàng thương mại vận dụng một cách

linh hoạt, hiệu quả và an toàn nhằm đảm bảo nguồn tín dụng đã cấp cho khách

15

hàng không bị thất thoát, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình

hoạt động kinh doanh cũng như tiêu dùng của khách hàng. Việc nắm bắt tường

tận những nguyên lý cơ bản trong việc nhận bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài

sản bảo đảm một cách rõ ràng và chặt chẽ để có thể áp dụng vào hệ thống quy

định nội bộ của ngân hàng thương mại, áp dụng các quy định của pháp luật đối

với khách hàng và những người có liên quan để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa

vụ dân sự của họ đối với ngân hàng, đồng thời để bảo vệ quyền và lợi ích chính

đáng của ngân hàng, không gây bất lợi đến chủ sở hữu tài sản bảo đảm và phù

hợp quy định pháp luật.

Đồng thời, việc xem xét những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm

tiền vay và pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương

mại tại chương này này cũng là tiền đề để đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu, tổng

hợp những vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn

thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại trong

chương tiếp theo, từ đó tìm ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật

cũng như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền

vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay trong chương 3.

16

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN

VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT

2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân

hàng thương mại ở Việt Nam

2.1.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay của ngân hàng thương mại

Theo quy định của BLDS 2015, việc xử lý TSBĐ tiền vay của NHTM

được thực hiện dựa trên nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên có liên quan (bên bảo đảm,

bên nhận bảo đảm) về việc xử lý tài sản bảo đảm.

Đây là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xử lý

TSBĐ tiền vay. Theo nguyên tắc này, việc xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên

thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên. Nếu không có thỏa thuận thì các bên

mới thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm.

Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm,

của cá nhân, tổ chức có liên quan.

Nguyên tắc này được thiết lập nhằm bảo vệ lợi ích của bên bảo đảm có

tài sản bị đưa ra xử lý, đồng thời bảo đảm sự cân bằng giữa quyền của bên nhận

bảo đảm (NHTM) và bên bảo đảm, trong đó, nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay là

mục tiêu mà pháp luật hướng tới.

Thứ ba, nguyên tắc xử lý TSBĐ phải đảm bảo tính kịp thời, nhanh

chóng, tiết kiệm và giảm thiểu chi phí cho các bên liên quan.

Đây là nguyên tắc rất cần thiết trong việc xử lý TSBĐ tiền vay, nếu được

17

tuân thủ sẽ hạn chế được thiệt hại trong trường hợp TSBĐ bị hư hại, giảm giá

trị hoặc thậm chí làm tăng chi phí trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.

Thứ tư, nguyên tắc xác định rõ và thực hiện đúng thẩm quyền xử lý tài

sản bảo đảm.

Theo Nghị định số 163 và Nghị định số 11, nhà làm luật đã quy định

người xử lý TSBĐ là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy

quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.

Căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, người xử lý

TSBĐ có quyền tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có văn bản ủy quyền

xử lý tài sản của bên bảo đảm.

Thứ năm, nguyên tắc xử lý TSBĐ phải trên cơ sở những nội dung đã

thoả thuận tại các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã được ký kết giữa

NHTM với khách hàng vay và/hoặc (các) bên bảo đảm để thu hồi nợ, không

phải là hoạt động kinh doanh tài sản bảo đảm. Trong thời hạn 03 năm, kể từ

ngày quyết định xử lý TSBĐ là bất động sản, NHTM phải bán, chuyển nhượng

hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định và

mục đích sử dụng tài sản cố định của ngân hàng theo quy định của pháp luật

[16, Điều 132].

Gần đây, nhà làm luật đã ghi nhận tại Điều 3 Nghị quyết 42 về việc thí

điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, trong đó có quy định về một số nguyên

tắc xử lý TSBĐ như sau:

(i) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải bảo đảm công khai,

minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của TCTD, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá

nhân có liên quan;

(ii) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải phù hợp với cơ chế

thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và

18

giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;

(iii) Nguyên tắc không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Cơ

quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong

quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể nhận thấy đây là những nguyên tắc cơ bản và mang tính

tổng quan khi xử lý TSBĐ.

2.1.2. Thực trạng quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay của ngân hàng thương mại

Theo quy định hiện hành, việc xử lý TSBĐ tiền vay sẽ được thực hiện

theo những phương thức cơ bản sau:

Thứ nhất, phương thức bán tài sản bảo đảm cho bên thứ ba.

Việc bán tài sản được thực hiện bằng một trong hai phương thức: Một

là, bên nhận bảo đảm hoặc người được ủy quyền chủ động bán TSBĐ (bán

không thông qua bên thứ ba) hoặc bán đấu giá TSBĐ (bán thông qua bên thứ

ba là doanh nghiệp đấu giá tài sản). Đối với việc bán TSBĐ qua đấu giá thì thực

hiện theo pháp luật về bán đấu giá tài sản.

Đối với việc bán tài sản không qua đấu giá, thực tế khi thực hiện theo

quy định tại Nghị định 163 đã phát sinh vướng mắc như sau: nếu các bên không

thỏa thuận về giá bán TSBĐ tại hợp đồng bảo đảm thì khi bán TSBĐ sẽ xác

định giá bán như thế nào. TTLT 16 (Điều 10) quy định về cách thức xác định

giá bán TSBĐ trong trường hợp bán tài sản không qua đấu giá như sau: ưu tiên

ghi nhận thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không thỏa thuận được

giá bán TSBĐ thì ưu tiên bên bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có

chức năng thẩm định giá để xác định giá bán tài sản. Nếu bên bảo đảm không

chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm có

quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá

bán tài sản.

19

Trong trường hợp không bán được TSBĐ theo giá định giá của cơ quan,

tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ giá

bán tài sản. Việc hạ giá bán tài sản thực hiện liên tục ba (03) lần nhưng mỗi lần

hạ giá bán tài sản không được quá mười phần trăm (10%) giá đã định và phải

cách nhau ít nhất là ba mươi ngày (30) ngày đối với bất động sản và mười lăm

(15) ngày đối với động sản.

Sau ba (03) lần liên tục hạ giá mà vẫn không bán được TSBĐ thì bên

nhận bảo đảm được nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ.

Giá trị TSBĐ trong trường hợp này là mức giá của lần hạ giá cuối cùng, trừ

trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Thứ hai: phương thức bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế

cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.

Để góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc trên thực tế xử lý tài

sản bảo đảm, Nghị định số 11 đã bổ sung quy định về việc xử lý TSBĐ theo

phương thức này như sau:

(i) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng

thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của TSBĐ;

(ii) Trong trường hợp giá trị của TSBĐ lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được

bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên

bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;

(iii) Bên nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ phải

xuất trình văn bản chứng minh quyền được xử lý TSBĐ và kết quả xử lý TSBĐ

cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng

TSBĐ từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm.

Tuy nhiên, Nghị định số 11 không quy định các bên phải ký kết hợp đồng

mua bán, chuyển nhượng trong trường hợp nhận chính TSBĐ để thay thế cho

việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và về bản chất việc nhận chính TSBĐ

20

để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm là biện pháp cấn trừ nợ,

khác với việc mua bán, chuyển nhượng tài sản. Thực tế cho thấy, có nhiều cơ

quan công chứng, đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản yêu cầu TCTD

phải xuất trình hợp đồng mua bán tài sản với chủ sở hữu tài sản thì mới làm thủ

tục công chứng, sang tên cho TCTD.

Xuất phát từ vướng mắc thực tế này, Thông tư liên tịch số 16 đã quy định

rõ thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với tài sản phải đăng ký

quyền sở hữu, quyền sử dụng). Theo đó, hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản thỏa

thuận khác về việc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ

của bên bảo đảm được sử dụng thay thế cho hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển

quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ.

Thứ ba, bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ

người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ.

Do quyền đòi nợ là một loại tài sản đặc biệt nên Điều 59 Nghị định 163

về các phương thức xử lý TSBĐ theo thỏa thuận đã dành riêng khoản 3 để quy

định về phương thức xử lý TSBĐ này. Theo đó, bên nhận thế chấp quyền đòi

nợ nhận các khoản tiền được hiểu là giá trị của khoản nợ đến hạn hoặc tài sản

từ người thứ ba (người có nghĩa vụ trả nợ). Như vậy, phương thức bán trực tiếp

TSBĐ sẽ không phù hợp khi áp dụng để xử lý TSBĐ là quyền đòi nợ, bởi vì dù

tài sản là quyền đòi nợ được thế chấp nhưng chính đối tượng của quyền đòi nợ

tức là khoản tiền sẽ thu được trong tương lai khi đến hạn. Bên nhận bảo đảm

có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài

sản khác.

Trong trường hợp quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn trước nghĩa vụ

được bảo đảm thì nhà làm luật đã quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 22 Nghị

định 163 như sau: bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền từ chối thanh toán cho bên

nhận thế chấp nếu bên nhận thế chấp không cung cấp thông tin về việc thế chấp

21

quyền đòi nợ cho bên có nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, nếu bên nhận thế chấp thận

trọng và đã thực hiện việc thông báo này thì sẽ được quyền yêu cầu bên có

nghĩa vụ trả nợ thanh toán nợ cho mình. Tuy vậy, Điểm a, Khoản 2, Điều 22,

Nghị định 163 lại giới hạn việc thực hiện quyền ưu tiên thanh toán này của bên

nhận thế chấp quyền đòi nợ ở mỗi một trường hợp là khi đến hạn mà bên có

nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn trước quyền đòi nợ được

thế chấp thì nhà làm luật đã quy định tại Điểm a Khoản 2 và 3 Điều 22 Nghị

định 163 như sau: bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền yêu cầu bên có

nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán cho mình khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ (bên

thế chấp) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và bên có nghĩa

vụ trả nợ phải thực hiện việc thanh toán cho bên nhận thế chấp. Trong trường

hợp nghĩa vụ được bảo đảm và quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn cùng một

lúc thì đương nhiên việc áp dụng quy định này không đặt ra vấn đề gì. Tuy vậy

không phải lúc nào thời điểm đến hạn của nghĩa vụ được bảo đảm và thời điểm

đến hạn của quyền đòi nợ cũng trùng nhau.

Trường hợp lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp, theo quy định

Điều 174 BLDS 2005, Điều 107 BLDS 2015, quyền tài sản không được liệt kê

trong danh sách bất động sản nên áp dụng nguyên tắc loại trừ, quyền tài sản

(trong đó có quyền đòi nợ) đều là động sản.

Như vậy, khi áp dụng Khoản 1 Điều 342 của BLDS 2005, Điều 318

BLDS 2015, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên nhận thế chấp sẽ

được nhận cả nợ gốc và tiền lãi của quyền đòi nợ nhằm thanh toán nghĩa vụ

được bảo đảm. Khi quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền, BLDS không

quy định rõ thứ tự việc thanh toán khoản gốc và khoản lãi của nghĩa vụ được

bảo đảm trong trường hợp thanh toán từng phần tức là các khoản tiền thu được

từ việc xử lý quyền đòi nợ không đủ để thanh toán toàn bộ nghĩa vụ được bảo

22

đảm. BLDS chỉ quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay thì

thanh toán cho bên nhận bảo đảm theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi

thường thiệt hại (nếu có).

2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm

tiền vay của ngân hàng thương mại

Trong BLDS năm 2015, nhà làm luật đã quy định cơ bản một số trình tự,

thủ tục mà các NHTM cần tuân thủ trước và trong khi thực hiện xử lý TSBĐ

để thu hồi nợ như sau:

Thứ nhất, thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm.

Theo quy định tại Điều 300, BLDS 2015 quy định: trừ trường hợp TSBĐ

có nguy cơ bị hư hỏng, về nguyên tắc “trước khi xử lý TSBĐ, bên nhận bảo

đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp lý về việc xử lý TSBĐ

cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác”. Vấn đề ở đây là cần

phải hiểu “thời hạn hợp lý” là bao nhiêu ngày? Có sự khác biệt khi TSBĐ là

động sản và khi TSBĐ là bất động sản hay không? Liệu các bên có thể thỏa

thuận rõ một thời hạn thông báo trong hợp đồng bảo đảm? Hơn nữa, khoản 2,

Điều 300 quy định “trường hợp bên nhận bảo đảm không thông báo về việc xử

lý TSBĐ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bảo đảm, các bên cùng

nhận bảo đảm khác”. Dù quy định này không nêu rõ liệu nếu không thực hiện

việc thông báo về việc xử lý TSBĐ thì sẽ có tác động nào đến việc xử lý TSBĐ

nhưng có thể nhận định rằng, việc không thông báo không ảnh hưởng đến quá

trình xử lý bảo đảm và ngân hàng chỉ phải bồi thường thiệt hại nếu như việc

không thực hiện việc thông báo này dẫn tới thiệt hại cho các bên liên quan.

Trên thực tế khi thực hiện thủ tục thông báo trước theo quy định này, các

NHTM gặp không ít khó khăn. Do đa phần khi khoản nợ chuyển quá hạn hoặc

chuyển nợ xấu, bên bảo đảm, Khách hàng không còn hợp tác với Ngân hàng

trong việc xử lý TSBĐ, hoặc một phần Khách hàng, Bên bảo đảm thường xuyên

23

thay đổi địa chỉ cư trú gây khó khăn cho việc thông báo xử lý TSBĐ của ngân

hàng. Các quy định của pháp luật cũng chưa hướng dẫn cụ thể về việc ngân

hàng chỉ cần chứng minh có gửi Thông báo cho khách hàng, bên bảo đảm theo

đúng địa chỉ đã cung cấp trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm hay phải

đảm bảo việc họ phải nhận được Thông báo và biết về việc ngân hàng xử lý

TSBĐ.

Thứ hai, tổ chức định giá tài sản bảo đảm.

Khoản 2, Điều 306, BLDS 2015 đã đặt ra yêu cầu “việc định giá tài sản

bảo đảm phải bảo đảm khách quan, phù hợp với giá thị trường”. Đây là một

yêu cầu phù hợp nhằm tránh việc TSBĐ được định giá dưới mức giá thị trường

(nhất là trong trường hợp bên nhận bảo đảm tự bán TSBĐ để xử lý); và vì thế,

ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bảo đảm. Tuy nhiên, nếu đọc Điều 306 thì

vẫn chưa rõ liệu yêu cầu này có áp dụng cho trường hợp bên nhận bảo đảm và

bên bảo đảm thỏa thuận về giá TSBĐ hay không, nhất là khi mức giá thỏa thuận

rõ ràng thấp hơn mức giá thị trường của TSBĐ? Hơn nữa, do Khoản 3, Điều

306 chỉ nêu chế tài bồi thường thiệt hại áp dụng cho hành vi vi phạm của tổ

chức định giá trong quá trình định giá tài sản, nên liệu có thể hiểu tinh thần của

BLDS 2015 là yêu cầu định giá phù hợp với giá thị trường chỉ áp dụng cho việc

định giá thông qua tổ chức định giá hay không? Thiết nghĩ, cần đi theo hướng

này bởi nó tôn trọng sự thỏa thuận của các bên: ngân hàng chỉ phải bồi thường

thiệt hại nếu bên bảo đảm chứng minh được việc bị cưỡng ép trong việc xác

định giá TSBĐ. Cách tiếp cận này, cũng phù hợp với tinh thần của điểm c,

khoản 3, Điều 104, Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11

năm 2015; theo đó, Tòa án chỉ can thiệp định giá tài sản trong trường hợp “các

bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá

thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm

trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy

24

tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá”.

Thứ ba, giao tài sản bảo đảm để xử lý.

Điều 301 BLDS 2015 quy định “người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao

TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý [...]. Trường hợp người đang giữ tài sản

không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết,

trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Có thể thấy, không nhất thiết

phải quy định về quyền yêu cầu Tòa án can thiệp như trong điều luật này bởi

vì đây là một quyền hiển nhiên được pháp luật thừa nhận: chủ thể của một

quyền nhất định luôn có thể yêu cầu Tòa án can thiệp để thực hiện quyền đó

của mình. Thêm vào đó, điều luật này cũng như khoản 5 Điều 323 (áp dụng đối

với trường hợp thế chấp) chỉ nêu quyền của bên nhận bảo đảm được yêu cầu

bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ TSBĐ giao tài sản đó cho mình để xử lý,

chứ chưa đề cập đến quyền thu giữ TSBĐ để xử lý. Các yếu tố này khiến một

số người lo ngại việc nhà làm luật chủ định bỏ quyền thu giữ TSBĐ để xử lý

của ngân hàng.

Về điểm này cần lưu ý, Điều 307, BLDS 2015 có nhắc đến “chi phí thu

giữ”. Liệu có thể hiểu là điều luật này gián tiếp công nhận quyền thu giữ TSBĐ

để xử lý của bên nhận bảo đảm? Thông thường, bên thứ ba mua TSBĐ thường

chỉ yên tâm mua tài sản (ngay cả khi TSBĐ được bán đấu giá) khi ngân hàng

đang quản lý hay nắm giữ được TSBĐ. Tương tự, quyền thu giữ cũng phát huy

được tác dụng khi bên bảo đảm bỏ trốn hay không hợp tác, khi đó ngân hàng

sẽ lập biên bản thu giữ có xác nhận của cơ quan công quyền và sau đó, tiến

hành bán đấu giá tài sản. Hơn nữa, khả năng tìm kiếm sự hỗ trợ của các cơ quan

công quyền (Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an) trong

việc thu giữ TSBĐ để xử lý cũng không được ghi nhận trong BLDS 2015 trong

khi trong thực tế, một số ngân hàng triển khai một cách khá hiệu quả cơ chế

này. Quy định về trình tự thủ tục thu giữ để xử lý TSBĐ hiện nay được quy

25

định cụ thể, chi tiết hơn tại Nghị quyết 42. Tại Điều 7, Nghị quyết 42 đã quy

định khá chi tiết về trình tự thủ tục thu giữ TSBĐ về: thời gian, địa điểm phải

tiến hành niêm yết, thông báo trước khi thực hiện thủ tục thu giữ TSBĐ, việc

đăng tải thông tin công khai, gửi văn bản, thông báo cho cơ quan có thẩm quyền

(Ủy ban nhân dân, cơ quan Công an) … phải được các NHTM tuân thủ đúng

các thủ tục trên theo quy định của pháp luât [18, Điều 7].

Có thể thấy, các quy định mới của BLDS 2015 về xử lý TSBĐ tuy ít

nhiều có bước đột phá nhưng còn bộc lộ khá nhiều hạn chế. Đây là một điều

thực sự đáng tiếc, nhất là trong bối cảnh ngân hàng còn gặp khá nhiều khó khăn

khi xử lý TSBĐ như hiện nay.

Từ các quy định chung của BLDS 2015, luật chuyên ngành có liên quan

như Luật đấu giá tài sản số 01/2016/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2016 và một

số văn bản hướng dẫn dưới luật, các NHTM đã tự thể chế thành các quy định

cụ thể chi tiết hơn về trình tự thủ tục khi xử lý TSBĐ tiền vay tương ứng theo

từng phương thức xử lý TSBĐ. Ví dụ như: Quyết định số 213/2017/QĐ-TGĐ

của Ngân hàng TMCP Bản Việt, quy định chi tiết về quy trình thu giữ, xử lý

TSBĐ tại Ngân hàng TMCP Bản Việt; Quyết định số 198/2018/QĐ-TGĐ của

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 23 tháng 7 năm 2018

quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, quy trình phát mại tài sản thu hồi nợ thông

qua hình thức đấu giá tài sản; Quy trình số 79/2017/QĐ-MB-AMC ngày 20

tháng 02 năm 2017 của Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản

(MBAMC) Ngân hàng TMCP Quân Đội quy định chi tiết về trình tự, thủ tục

nhận chính TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ của Bên bảo đảm.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

tại ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt

26

2.2.1. Khái quát về tình hình xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của

ngân hàng thương mại

Theo số liệu về tình hình xử lý nợ xấu năm 2018 được Ngân hàng Nhà

nước công bố vào ngày 7/1/2019, [10] trong bài báo “Nợ xấu hệ thống Ngân

hàng giảm mạnh cuối năm 2018” đã nêu rõ ước tính đến cuối tháng 12/2018,

toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 149,22 nghìn tỷ đồng nợ xấu,

tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng là 1,89%, giảm so với mức

2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 2017. Tỷ lệ 1,89% cũng là mức

thấp nhất ghi nhận kể từ năm 2012 đến nay - thời điểm nợ xấu ngân hàng bắt

đầu được nhận diện một cách đầy đủ và sát thực hơn, với các bước nâng cao

tiêu chuẩn phân loại nợ.

Dù chưa cập nhật cụ thể thêm về nợ tiềm ẩn thành nợ xấu, nhưng mức

nợ xấu nội bảng nói trên đã nằm sâu dưới ngưỡng 2%, ngưỡng mà tại Nghị

quyết số 01 vừa ban hành đầu năm 2019 Chính phủ đặt ra yêu cầu hệ thống

ngân hàng phải đảm bảo thực hiện được cho năm nay.

Tính đến hết năm 2018, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD đã giảm

xuống mức 1,89% (so với mức 1,99% cuối năm 2017 và 2,46% cuối năm 2016)

và tỷ lệ nợ xấu gộp khoảng 6,67% tổng dư nợ, giảm mạnh so với mức 10,08%

vào cuối năm 2016 và 7,36% cuối năm 2017. Trong đó, kết quả xử lý nợ xấu

của VAMC cũng khá khả quan; tính đến hết tháng 8/2018, VAMC đã thu hồi

gần 100.000 tỷ đồng trên 227.000 tỷ đồng nợ gốc đã mua. Đặc biệt là tác động

của Nghị quyết 42 tương đối rõ nét. Theo số liệu từ NHNN, tính từ giữa năm

2012 đến hết tháng 6/2018, toàn hệ thống đã xử lý được 785.930 tỷ đồng nợ

xấu, riêng sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 42, toàn hệ thống đã xử lý

được 138.290 tỷ đồng (tương đương tỷ lệ 17,5% của cả 6 năm qua); trong đó

các TCTD đã xử lý được 58.800 tỷ đồng. Với những bước tiến trong công tác

27

xử lý nợ xấu thời gian qua, mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu gộp về 3% đến cuối năm

2020 là khả thi. [9]

Nhìn vào bảng số liệu ở trên đây, chúng ta sẽ thấy rõ hiệu quả về xử lý

nợ xấu mà Nghị quyết 42 mang lại trên toàn hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu

giảm dần từ 2,55% năm 2015, 2,46% năm 2016, 2% vào năm 2017 và chỉ còn

1,89% trong năm 2018.

Ngoài ra, một điểm cần nhấn mạnh và được xem là một điểm đạt được

rất quan trọng mà Nghị quyết 42 mang lại chính là nhận thức của Bên vay, Bên

bảo đảm trong tình hình các TCTD ráo riết áp dụng biện pháp xử lý tài sản. Sẽ

không còn việc các TCTD chỉ trông cậy vào biện pháp tố tụng tại tòa án với

thời gian kéo dài để xử lý tài sản. Theo Nghị quyết 42, quyền chủ động của các

TCTD trong việc xử lý tài sản được khẳng định, các TCTD được phép chủ động

quyết định biện pháp xử lý tài sản, như là bán nợ, thu giữ tài sản cho dù có hay

không có sự đồng ý của Bên vay, Bên bảo đảm. Việc này vô hình trung tạo một

áp lực rất lớn buộc Bên vay, Bên bảo đảm phải có trách nhiệm trong việc trả

28

nợ và phải hợp tác với các TCTD trong quá trình xử lý nợ nếu không muốn mất

tài sản.

2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm

tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt

Ngân hàng TMCP Bản Việt được thành lập vào ngày 25 tháng 12 năm

1992 với tên gọi trước đây là Ngân hàng TMCP Gia Định. Ngày 09 tháng 01

năm 2012, Ngân hàng TMCP Gia Định chính thức thay đổi hệ thống nhận diện

thương hiệu, với tên gọi mới là Ngân hàng TMCP Bản Việt (Tên viết tắt là

VCCB). Trải qua suốt 26 năm hoạt động, dư nợ tính đến thời điểm cuối năm

2018 là 29.471 tỷ đồng của tổng số lượng khoản nợ là 37.015, trong đó khoản

nợ xấu phải xử lý theo quy định của pháp luật (nợ nhóm 3,4,5) là: 589 tỷ đồng.

Bảng 2.1: Chi tiết về tình hình dư nợ, nợ quá hạn (NQH) và nợ xấu

(NX) tại VCCB được chia theo nhóm nợ, loại hình qua hai năm 2018-2019

như sau:

Đơn vị: tỷ đồng

Ngày 31/12/2018 Ngày 28/06/2019

Nhóm nợ Cá Doanh Cá Doanh Tổng Tổng nhân nghiệp nhân nghiệp

1 15,247 13,251 28,497 15,592 14,441 30,033

2 273 74 347 310 78 388

3 73 14 87 85 38 123

4 135 102 236 96 36 132

5 137 129 266 200 216 416

Tổng 15,865 13,570 29,434 16,283 14,809 31,092 cộng

%NQH 3.89% 2.35% 3.18% 4.25% 2.48% 3.41%

%NX 2.17% 1.80% 2.00% 2.34% 1.96% 2.16%

29

(Nguồn: Báo cáo tình hình xử lý nợ của Ngân hàng TMCP Bản Việt)

TSBĐ cho khoản nợ phải xử lý này tính đến 31 tháng 12 năm 2018 là:

17.861 tài sản tương đương với giá trị bảo đảm là 47.900 tỷ đồng (bao gồm các

loại TSBĐ như: Bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, giấy

tờ có giá, quyền đòi nợ, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng…).

Để đảm bảo tuân thủ đúng tỷ lệ nợ xấu theo quy định của Ngân hàng Nhà

nước, cũng như tạo hành lang đảm bảo cho hoạt động thu hồi nợ hiệu quả,

VCCB luôn chú trọng đến việc xây dựng, ban hành các quy định nội bộ dựa

trên các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm để nâng cao hiệu quả

thu hồi nợ như:

(i) Quyết định số 87/2019/QĐ-TGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2019 về việc

ban hành quy định chung về quản lý và thu hồi nợ tại VCCB, theo đó tại Điều

7 đã chi tiết rõ các phương thức xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ tại VCCB

như sau: “Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ: bao gồm nhưng không giới hạn các biện

pháp thu giữ TSBĐ, nhận bàn giao TSBĐ từ KH để quản lý, khai thác, xử lý

TSBĐ, bán TSBĐ để thu hồi nợ. Việc bán tài sản bảo đảm có thể thực hiện

thông qua phương thức bán đấu giá tài sản tại Công ty có chức năng bán đấu

giá hặc bán trực tiếp tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; Nhận chính tài sản bảo

đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm: là biện pháp

VCCB nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của

bên bảo đảm nếu có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm”.

(ii) Quyết định số 213/2017/QĐ-TGĐ của Ngân hàng TMCP Bản Việt,

quy định chi tiết về quy trình thu giữ, xử lý TSBĐ để triển khai chi tiết quy

định mới tại Nghị quyết 42 và BLDS 2015.

Tổng quan tình hình xử lý và thu hồi nợ xấu của VCCB từ năm 2015 đến

nay (bao gồm cả bán nợ cho VAMC) như sau:

30

Đơn vị: tỷ đồng

31/12/2015 31/12/2016 31/12/2017 31/12/2018 30/06/2019

Chỉ tiêu

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

1. Tổng nợ theo TT

02/2013/TT-NHNN

20,2370

24,2498

29,028

35,408

35,585

2. Xử lý nợ xấu

746

235

913

655

118

- Xử lý thông qua

hình thức sử dụng dự

2,9

2,7

0

0

0

phòng rủi ro

- Xử lý thông qua

212

556

110

hình thức khách hàng

trả nợ

127

232

- Xử lý thông qua

hình thức bán phát

4

99

6

mại tài sản bảo đảm

để thu hồi nợ

- Khác (Bán nợ

VAMC, bán nợ cho

cá nhân khác, mua lại

615,6

0

696,1

0

1,0

khoản nợ, bên thứ 3

trả nợ)

(Nguồn: Báo cáo số liệu thu nợ của VCCB từ năm 2015 tới 30/6/2019)

Áp dụng các quy định của pháp luật và quy định nội bộ của VCCB, tình

hình xử lý tài sản bảo đảm và thu hồi nợ của VCCB ngày càng hiệu quả hơn.

Đặc biệt là sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực thi hành, VCCB đã chủ động hơn

trong việc áp dụng phương thức thu giữ để xử lý tài sản bảo đảm, nhằm nhanh

chóng thu hồi nợ xấu. Hiệu quả thu hồi nợ được thể hiện chi tiết về số thu nợ

31

tại VCCB qua hai năm 2017 và 2018 như sau:

Bảng 2.2. Tình hình thực tế xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ xấu năm

2017, 2018 tại VCCB

ĐVT: tỷ đồng

STT Các biện pháp xử lý nợ xấu 2017 2018

Nợ xấu đã bán cho VAMC trước 1 161 271 15/08/2017 (tính theo giá gốc)

1.1 Đôn đốc thu hồi nợ 74 98

1.2 Thu giữ theo Nghị quyết 42 0 74

1.3 Bán theo giá thị trường 8 27

1.4 Khởi kiện khách hàng vay 79 72

2 Nợ xấu cho vay trước 15/08/2017 229 309

2.1 Đôn đốc thu hồi nợ 133 63

2.2 Bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm 81 101

2.3 Thu giữ theo Nghị quyết 42 6 84

2.4 Khởi kiện khách hàng vaỵ 9 61

Tổng nợ xấu thu hồi 390 580

(Nguồn: Số liệu xử lý tài sản bảo đảm và thu hồi nợ của VCCB năm 2017

và 2018)

2.2.3. Những bất cập và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý tài

sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt

Vấn đề xử lý TSBĐ để thu hồi nợ của NHTM đã được quy định cụ thể

trong các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và được quy định tại thể tại

Nghị quyết 42, Luật Các tổ chức tín dụng, BLDS 2015, Nghị định số 163, Nghị

định số 11, Thông tư liên tịch số 16. Tuy nhiên, việc vận dụng các biện pháp

xử lý TSBĐ theo các quy định nêu trên vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề pháp lý

32

mà quyền của các NHTM chưa được bảo về đầy đủ và chính đáng, dẫn đến hệ

quả pháp lý là ngân hàng vẫn không giải quyết xong quyền và nghĩa vụ của các

bên có liên quan đến khoản nợ vay, và ngân hàng không tự mình nhân danh

chủ sở hữu TSBĐ để xử lý TSBĐ một cách nhanh chóng và hợp lý nếu không

nhận được sự đồng thuận của chính chủ sở hữu TSBĐ đó.

Để làm rõ hơn những vấn đề còn tồn đọng tại VCCB, tác giả đã tổng

hợp, phân loại, phân tích và đưa ra những kết luận về những hạn chế bất cập và

khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý TSBĐ tiền vay tại ngân hàng, cụ

thể như sau:

Thứ nhất, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc khi triển khai

thực hiện Nghị quyết 42 nói chung và trong việc thu giữ tài sản bảo đảm nói

riêng.

Không thể phủ nhận rằng việc ban hành Nghị quyết 42 đã tạo điều kiện

thuận lợi cho việc thu giữ cũng như xử lý TSBĐ của ngân hàng thương mại.

Tuy nhiên, một số khó khăn trong quá trình xử lý TSBĐ theo Nghị quyết 42 đã

bộc lộ như:

Một là, vướng mắc từ phía các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Sẽ rất bất ngờ khi việc triển khai Nghị quyết 42 lại gặp khó khăn ở chính

các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định là phải phối hợp với các

TCTD trong quá trình triển khai Nghị quyết 42. Trên thực tế, việc triển khai thu

giữ tài sản hiện nay phải tuân thủ đúng Nghị quyết 42 về việc công khai thông

tin về thời gian và địa điểm thu giữ, phối hợp với cơ quan Công an và Ủy ban

nhân dân cấp phường, xã nơi tiến hành thu giữ tài sản trong việc đảm bảo an

ninh trật tự, chứng kiến và ký biên bản thu giữ. Tuy nhiên, trên thực tế, khi triển

khai thu giữ, xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu theo Nghị quyết 42 tại các địa

phương (ngoại trừ Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội), đặc biệt là

vùng sâu vùng xa vẫn gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tại địa phương vẫn

33

chưa mạnh mẽ áp dụng Nghị quyết 42, đặc biệt trong khâu hỗ trợ ngân hàng

khi thu giữ tài sản trong trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác,

dẫn đến việc không thể triển khai biện pháp thu giữ tài sản một cách mạnh mẽ

tại địa phương. Trên thực tế, các cơ quan địa phương đã quen với cách làm việc

cũ là thông qua thủ tục tố tụng, thi hành án, mặt khác, các cơ quan này cũng

chưa được phổ biến và quán triệt tư tưởng về Nghị quyết 42 nên cũng không

nắm rõ tinh thần của Nghị quyết cũng như chưa gặp và chưa có kinh nghiệm

xử lý các trường hợp thu giữ này. Hầu hết thái độ của các Cơ quan này khi nhận

được yêu cầu trợ giúp từ phía các TCTD là sự nghi ngờ về quyền thu giữ của

các TCTD, lo ngại bị khiếu nại, kiện tụng, phiền phức hoặc quay phim chụp

ảnh từ những người xung quanh trong quá trình thu giữ tài sản. Theo đó, các

TCTD phải chuẩn bị thật kỹ về thủ tục, giải thích kỹ và đầy đủ về căn cứ pháp

lý để các cơ quan tại địa phương hiểu rõ và đồng ý hỗ trợ nhưng không phải

trường hợp nào cũng thành công trên thực tế.

Hai là, vướng mắc do điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết

42 có độ vênh nhất định so với thực tế.

Theo Điều 7 Nghị quyết 42, TCTD phải có thỏa thuận về quyền thu giữ

TSBĐ tại Hợp đồng bảo đảm hoặc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền

thu giữ TSBĐ. Trong khi đó, đa phần các Hợp đồng bảo đảm trước thời điểm

ban hành Nghị quyết 42 đều không để dự liệu trước và chỉ ghi chung chung về

quyền xử lý tài sản của Ngân hàng theo quy định của pháp luật chứ không nêu

rõ biện pháp là thu giữ. Do vậy, nếu Hợp đồng bảo đảm không thỏa thuận cụ

thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận những nội dung không rõ ràng có thể

gây tranh cãi trong quá trình áp dụng thu giữ TSBĐ và phối hợp với các cơ

quan chức năng để thực hiện quyền thu giữ, xử lý TSBĐ. Ngoài ra, theo quy

định tại Điểm d Khoản 2 Điều 7, điều kiện để áp dụng thu giữ theo Nghị quyết

42 là tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ

34

lý hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Trên thực tế, bên vay,

bên bảo đảm thường phát sinh các bản án bên ngoài đối với tài sản hoặc có khi

cố tình tạo ra các tranh chấp liên quan đến tài sản để trốn tránh biện pháp thu

giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng. Trong khi đó, mặc dù tài sản đảm bảo được

thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định pháp luật nhưng các TCTD

không thể áp dụng biện pháp thu giữ theo Nghị quyết 42 vì các tranh chấp “vô

tình hoặc cố ý” của chính bên vay, bên bảo đảm với bên thứ 3 có liên quan đến

tài sản đảm bảo.

Ba là, việc ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ xấu được bảo đảm tại các

TCTD đối với các nghĩa vụ về thuế.

Theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết 42, số tiền thu được từ xử lý

TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, tổ

chức mua, bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác

không có bảo đảm của bên bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, trường hợp bên

chuyển nhượng không hoặc chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan

thuế sẽ không thực hiện được thủ tục chuyển nhượng cho người mua tài sản.

Do đó, các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng TMCP Bản Việt

nói riêng vẫn phải đồng ý việc trích tiền từ việc xử lý TSBĐ để thực hiện nghĩa

vụ thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp mới thực hiện được thủ

tục đăng ký quyền sử dụng cho người mua, nhận chuyển nhượng TSBĐ mặc

dù không đủ thu nợ xấu.

Bốn là, hạn chế, bất cập trong việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải

quyết tranh chấp.

Theo Điều 8 Nghị quyết 42 quy định việc Tòa án được áp dụng thủ tục

rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về

quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Nhưng trên thực tế, việc này không dễ

triển khai như quy định. Mãi đến ngày 15 tháng 5 năm 2018, tức là 09 tháng

35

sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối

cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn về việc áp

dụng thủ tục rút gọn theo Điều 8 Nghị quyết 42. Tuy nhiên, để được áp dụng

thủ tục rút gọn, tài sản đảm bảo phải thỏa các điều kiện theo Nghị quyết 42

[186, Điều 8], trong đó có điều kiện là không có đương sự cư trú ở nước ngoài,

trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận

giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn. Hiện nay, việc Bên vay bỏ trốn, bỏ

đi ra nước ngoài là việc rất dễ dàng và thường xảy ra, do vậy, nếu xảy ra trường

hợp này thì không thể áp dụng thủ tục rút gọn. Hơn nữa, theo quy định tại Bộ

luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên

đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết

theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết

theo thủ tục thông thường [15, Điều 317, 323]. Như vậy, trường hợp bên có

nghĩa vụ trả nợ (khách hàng), chủ sở hữu tài sản (bên bảo đảm) không hợp tác,

thiếu thiện chí hoặc chống đối, thì rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các

tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo

dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu không có hướng dẫn cụ thể với

những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng các thủ tục rút gọn có thể không

phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế như kỳ vọng khi ban hành Nghị

quyết 42. Và trên thực tế, kể từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, Tòa án các cấp

vẫn chưa từng thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn như quy định, thường gây

khó khăn hoặc viện dẫn quy định để không thụ lý giải quyết theo thủ tục rút

gọn.

Năm là, việc xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo Nghị quyết 42 với

tinh thần chỉ áp dụng có tính chất “thí điểm” của cũng là một hạn chế.

Ngay từ tiêu đề của Nghị quyết 42, chúng ta có thể thấy rõ nội dung “thí

điểm giải quyết nợ xấu”. Việc áp dụng “thí điểm” như tinh thần của Nghị quyết

36

mang đến một cái nhìn không chắc chắn cho các Cơ quan quản lý cũng như các

TCTD và bên vay trong quá trình xử lý nợ xấu. Việc thí điểm này có thể thấy

thông qua việc hiệu lực của Nghị quyết 42 chỉ kéo dài 05 năm. Trên thực tế,

bên vay có thể lợi dụng việc đưa ra tranh chấp liên quan đến tài sản để kéo dài

thời gian xử lý cho đến khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực [18, Điều 19].

Ngoài ra, phạm vi xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 cũng bị bó hẹp. Điển

hình là quy định về việc nợ xấu được phép xử lý theo Nghị quyết 42 là nợ phát

sinh trước ngày 15 tháng 8 năm 2017 [18, Điều 4]. Như vậy, việc khoanh vùng

phạm vi giải quyết nợ xấu sẽ hạn chế khá nhiều khả năng giải quyết phần lớn

nợ xấu của các TCTD trên thực tế. Đồng thời, các Cơ quan công quyền tại địa

phương cũng sẽ ít nhiều chùn tay khi phối hợp với các TCTD trong quá trình

thu giữ tài sản vì tính tạm thời và “thí điểm” và chưa được luật hóa rõ ràng của

Nghị quyết 42.

Thứ hai, những hạn chế bất cập và khó khăn, vướng mắc trong việc áp

dụng các biện pháp xử lý tài sản đã được các bên thoả thuận và thống nhất tại

các hợp đồng bảo đảm.

Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu được ban hành và

hiệu lực từ 15 tháng 8 năm 2017 đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành lang

pháp lý xử lý nợ xấu. Nghị quyết đã tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong

xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đó là khẳng định quyền thu giữ TSBĐ

của TCTD và VAMC; cho phép mua bán nợ xấu và tài sản đảm bảo theo giá

thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan

đến TSBĐ. Tuy nhiên, VAMC cũng như tổ chức tín dụng đang gặp một số

vướng mắc trong quá trình triển khai theo Nghị quyết 42, cụ thể:

Một là, việc xác định thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản

thi hành án được hiểu và áp dụng khác nhau. Trong chuyển nhượng dự án bất

động sản cũng gặp vướng mắc. Sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương vẫn chưa

37

đồng đều do cách hiểu khác nhau, nên có nơi hỗ trợ rất tốt, nhưng có nơi vẫn

chưa tích cực. Để giải quyết những vấn đề lớn này cần sự vào cuộc chung của

toàn hệ thống để chỉnh sửa kịp thời các quy định được đặt ra như Bộ Tài chính

có quy định cụ thể về nghĩa vụ thuế như thế nào, Bộ Tài nguyên và Môi trường

có hướng dẫn chuyển nhượng dự án bất động sản.

Hai là, hầu hết các vụ việc đều có liên quan là quyền thu giữ TSBĐ của

TCTD đều gặp khó khăn trong thực tế áp dụng.

Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ TSBĐ đi kèm với điều kiện hồ sơ,

hợp đồng bảo đảm (thế chấp) phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBĐ,

trong khi đó tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, nhiều hợp đồng bảo

đảm chưa có điều khoản này. Vì vậy, các TCTD cần đàm phán với bên vay để

điều chỉnh hợp đồng. Ngoài ra, ngay cả với những khoản vay đáp ứng được

điều kiện này thì việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD vẫn cần

đến sự hỗ trợ của cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy nhiên, đến

nay Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện

cưỡng chế đối với các trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Do

đó, việc thu giữ TSBĐ thành công hay không hiện nay phụ thuộc khá nhiều vào

thiện chí của bên vay, bên bảo đảm. Để quá trình xử lý nợ xấu và thực hiện

Nghị quyết 42 mang lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu đề ra, chính quyền

địa phương và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng, chủ động, tích cực tháo

gỡ các vướng mắc nêu trên. Ngoài ra, các quy định pháp luật hiện hành cho

phép TCTD được phép nhận tài sản thế chấp là bất động sản để thay thế nghĩa

vụ trả nợ nhưng lại bị giới hạn bởi thời gian nắm giữ trong thời hạn 03 năm kể

từ ngày nhận tài sản đảm bảo là bất động sản (Điều 132 Luật Các tổ chức tín

dụng) thì TCTD phải tiến hành chuyển giao tài sản đó. Như vậy, với giới hạn

của Luật Các tổ chức tín dụng không cho phép các TCTD được phép kinh doanh

bất động sản cộng với việc giới hạn thời gian nắm giữ bất động sản không quá

38

ba năm làm cho việc xử lý TSBĐ gặp không ít khó khăn. Đồng thời còn phát

sinh khó khăn, vướng mắc khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng

đất cho người mua tài sản từ việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ, theo đó, tại các

hợp đồng bảo đảm, TCTD và bên bảo đảm thường có điều khoản thỏa thuận về

việc các TCTD được toàn quyền xử lý TSBĐ khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả

nợ. Việc xử lý TSBĐ có thể thông qua bán đấu giá và/hoặc bán trực tiếp. Tuy

nhiên, hiện nay chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn thủ tục sang tên quyền sử

dụng đất cho người mua tài sản từ việc xử lý TSBĐ cũng như việc các Cơ quan

nhà nước có thẩm quyền theo lối mòn suy nghĩ chỉ thực hiện sang tên khi xử lý

TSBĐ bởi cơ quan thi hành án. Đa số các Văn phòng đăng ký đất đai hiện nay

không tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi TCTD tự mình

xử lý TSBĐ mặc dù các TCTD thực hiện đúng các thủ tục đăng ký giao dịch

bảo đảm, đăng ký xử lý TSBĐ theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ ba, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc trong việc xử

lý TSBĐ cho những khoản nợ đã bán cho VAMC.

Quá trình mua bán trên cũng không phải là hình thức mua đứt bán đoạn,

việc theo dõi, đôn đốc thu hồi nợ và xử lý TSBĐ sẽ được ủy quyền cho ngân

hàng. Quá trình xử lý nợ xấu của VAMC vẫn tồn tại nhiều khó khăn, vướng

mắc về cơ chế pháp lý (bao gồm các vướng mắc liên quan đến thẩm quyền xử

lý ngoài phạm vi của NHNN), dẫn đến quá trình xử lý nợ xấu của VAMC chưa

đạt được kết quả như kế hoạch đề ra.

Đối với hoạt động xử lý nợ qua tố tụng, việc kế thừa quyền và nghĩa vụ

theo Hợp đồng mua bán nợ và cơ chế ủy quyền cho các tổ chức tín dụng cũng

gặp không ít khó khăn khi triển khai thực hiện. VAMC mua nợ và được kế thừa

quyền chủ nợ từ TCTD, tuy nhiên, VAMC không phải là đối tượng được nhận

thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của tổ chức kinh tế. Điều

này gây khó khăn cho VAMC và các TCTD khi khách hàng, bên bảo đảm muốn

39

bổ sung, thay thế TSBĐ là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của các

tổ chức kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều Tòa án, cơ quan thi hành án còn lúng túng

và có cách xử lý khác nhau khi xác định tư cách tham gia tố tụng, thi hành án

của VAMC. Thậm chí, có trường hợp các cơ quan nói trên không chấp nhận

cho VAMC kế thừa quá trình tố tụng, thi hành án của TCTD mà yêu cầu VAMC

nộp lại Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành án, xử lý vụ việc lại từ đầu, gây

tốn kém thời gian, chi phí.

Cơ chế ủy quyền giữa VAMC và TCTD là cơ chế đặc thù được quy định

cụ thể trong Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 05 năm 2013 của Chính

phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các

TCTD Việt Nam, Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 6 tháng 9 năm 2013 của

NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản

của các TCTD Việt Nam và không trái với quy định của BLDS 2005. Tuy

nhiên, do hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, sai khác trong cách hiểu

và thực thi của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên việc ủy quyền pháp

nhân cho pháp nhân giữa VAMC và các TCTD lại là nguyên nhân làm phức

tạp thêm các thủ tục, quy trình xử lý nợ xấu, đặc biệt tại các giai đoạn tố tụng

tại Tòa án và thi hành án. Nhiều Tòa án, cơ quan thi hành án không chấp nhận

các Hợp đồng ủy quyền của VAMC, buộc VAMC phải lựa chọn phương thức

ủy quyền cho cá nhân cán bộ của TCTD để tham gia tố tụng tại Tòa án, mặc dù

phương thức này chưa đựng nhiều rủi ro do các cá nhân này không có ràng

buộc với VAMC. Thêm vào đó, mặc dù Hợp đồng ủy quyền ghi rõ TCTD được

VAMC ủy quyền ký Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành án và các văn bản

có liên quan khác, tuy nhiên, một số Tòa án, cơ quan Thi hành án không chấp

nhận hình thức này và yêu cầu VAMC ký Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành

án, khiến cho việc xử lý nợ qua VAMC bằng biện pháp tố tụng, thi hành án

phức tạp và kéo dài hơn. Ngoài ra, còn có các trường hợp như khi tiến hành

40

khởi kiện thì bị đình chỉ do khách hàng không có nơi cư trú ổn định, cố tình

trốn tránh, không hợp tác; TSĐB bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác; tranh

chấp kéo dài liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất, tranh chấp liên quan đến

việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba…

Thứ tư, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc xử lý TSBĐ

thông qua các thủ tục tố tụng, thi hành án dân sự.

Cơ chế xử lý thông qua Tòa án và thi hành án mất rất nhiều thời gian.

Khi Ngân hàng nộp đơn khởi kiện ra Tòa án các cấp thì Tòa án yêu cầu Ngân

hàng cung cấp địa chỉ cư trú của bị đơn. Do đó, nhiều khách hàng cố tình đi

khỏi nơi cư trú nhưng không báo địa chỉ nơi ở mới dẫn tới ngân hàng bị kéo dài

thời gian giải quyết thủ tục tố tụng để thu hồi nợ. Thời gian để giải quyết thu

hồi một khoản nợ xấu theo thủ tục tố tụng trung bình là 1 - 3 năm, có những

khoản nợ phúc tạp có thể kéo dài 5 - 7 năm nhưng ngân hàng vẫn chưa thu hồi

được khoản nợ. Các Bản án, Quyết định của Tòa khi yêu cầu thi hành án thường

kéo dài và mất rất nhiều thời gian. Bởi lẽ, Luật thi hành án chỉ quy định thời

gian kể từ ngày nhận đơn (05 ngày) cơ quan thi hành án phải ra Quyết định

(nhận đơn thi hành án theo đơn yêu cầu hoặc trả đơn) còn lại văn bản không

quy định về thời hạn phải kê biên tài sản cũng như giải quyết dứt điểm đơn yêu

cầu. Việc kê biên, phát mãi tài sản qua thi hành án cũng kéo dài rất lâu vì phụ

thuộc vào ý chí và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng

thời, tâm lý của người mua, nhận chuyển nhượng tài sản không mặn mà trong

việc mua, nhận chuyển nhượng tài sản thông qua bán đấu giá cũng là một trong

những trở ngại của việc xử lý TSBĐ. Ngoài ra, có thể kể đến một số hạn chế,

bất cập và khó khăn, vướng mắc xử lý TSBĐ thông qua các thủ tục tố tụng, thi

hành án dân sự như sau:

Một là, khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự 2008 (đã được sửa

đổi, bổ sung năm 2014) quy định người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp

41

hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả

bán đấu giá tài sản nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán

đấu giá tài sản. Theo quy định này, quyền của TCTD trong việc bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có vi phạm pháp luật trong quá

trình đấu giá tài sản đã bị loại trừ hoặc bị hạn chế.

Hai là, thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản thi hành án

được hiểu và áp dụng khác nhau. Về nguyên tắc, các hợp đồng bảo đảm có hiệu

lực pháp lý như nhau khi phải xử lý để thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó,

các TSBĐ cho nghĩa vụ của người phải thi hành án cần được xử lý đồng thời

khi người được thi hành án yêu cầu. Tuy nhiên, một số cơ quan thi hành án có

quan điểm phải xử lý xong tài sản của khách hàng vay rồi mới tiến hành xử lý

tài sản thi hành án của bên thứ ba hoặc có văn bản đề nghị Tòa án xác định thứ

tự xử lý tài sản trong bản án. Cách làm này khiến quá trình thi hành án và xử lý

tài sản bảo đảm bị kéo dài.

Ba là, việc thực hiện theo phán quyết của Tòa án còn chậm do cách hiểu

khác nhau. Vẫn còn trường hợp quan điểm của Cơ quan Thi hành án theo hướng

chỉ thụ lý và tổ chức thi hành phần bên vay phải trả nợ, mà không thi hành cả

phần xử lý tài sản bảo đảm, do không đúng nội dung của Bản án đã được Toà

án tuyên trước, đó là TCTD được quyền phát mại để thu hồi nợ nếu khách hàng

không thực hiện nghĩa vụ. Cách hiểu khác nhau này khiến việc thi hành án đối

với xử lý tài sản đảm bảo chậm và không nhất quán.

Bốn là, quy định mới về thời hiệu khởi kiện và nguy cơ gia tăng nợ xấu

và không xử lý được TSBĐ. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được

quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp bị xâm phạm và nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể này mất

quyền khởi kiện. Đối với các ngân hàng, do việc xử lý nợ thông qua khởi kiện

là một giải pháp quan trọng để đòi vốn và lãi, nên những thay đổi về thời hiệu

42

khởi kiện sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả của hoạt động này.

Theo quy định hiện hành, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng để yêu cầu

Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng được nâng từ 02 năm theo BLDS 2005

lên thành 03 năm theo BLDS 2015, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết

hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429).

Cần lưu ý Điều 184, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nêu rõ thời hiệu khởi kiện sẽ

được thực hiện theo quy định của BLDS 2015. Hạn chế dễ thấy của BLDS 2015

nằm ở chỗ BLDS 2015 chưa có các quy định cụ thể giúp xác định ngày mà

quyền và lợi ích hợp pháp của bên khởi kiện bị xâm phạm trong quan hệ hợp

đồng, đặc biệt khi hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau hay

đối với nghĩa vụ mà các bên không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định

thời hạn thực hiện. Điều này, sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới việc áp dụng pháp luật

trừ khi ngành Tòa án có các hướng dẫn chi tiết về vấn đề này.

Đối với hợp đồng tín dụng, việc quy định về thời hiệu khởi kiện như trên

sẽ giúp ngân hàng có thêm thời gian để quyết định khởi kiện và đây là một tín

hiệu tốt. Tuy nhiên, Điều 155 BLDS 2015 nêu 4 trường hợp không áp dụng

thời hiệu khởi kiện, bao gồm:

(i) Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản;

(ii) Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu;

(iii) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; và

(iv) Trường hợp khác do luật quy định.

Trong các trường hợp này có thể khởi kiện vào bất cứ thời điểm nào tính

từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể liên quan bị xâm phạm, chứ

không bị hạn chế bởi thời hiệu 03 năm nêu ở trên. Dễ thấy trong danh sách này

không có tranh chấp về đòi lại tài sản được quy định tại Điều 159, Bộ luật tố

tụng dân sự 2004, vốn là cơ sở pháp lý mà ngân hàng dựa vào để yêu cầu Tòa

án không áp dụng thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc của các khoản tín dụng đã cấp

43

cho khách hàng. Điều đó, có nghĩa là theo quy định mới, thời hiệu để ngân hàng

khởi kiện đối với nợ gốc (thường được hiểu là bao gồm cả việc xử lý TSBĐ)

về nguyên tắc chỉ còn là 03 năm, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.

Nói cách khác, dường như sẽ không còn có sự khác biệt về thời hiệu khởi kiện

giữa việc đòi nợ gốc và đòi nợ lãi như hiện nay nữa.

Một số ý kiến cho rằng, có thể coi tranh chấp đòi nợ gốc là một dạng yêu

cầu bảo vệ quyền sở hữu bởi vì tranh chấp về quyền sở hữu tập trung vào tranh

chấp về đòi tài sản trong khi đó, đòi tài sản gắn liền với quyền sở hữu nên chừng

nào quyền sở hữu tồn tại thì quyền đòi tài sản vẫn tồn tại. Tuy vậy, trong quan

hệ vay tài sản, nguyên tắc chung là bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể

từ thời điểm nhận tài sản đó (Điều 464, BLDS 2015), tức là bên vay trở thành

chủ sở hữu của số tiền vay nhận được khi ngân hàng giải ngân. Sau khi đã giải

ngân số tiền vay cho bên vay, cái mà ngân hàng có được chính là quyền được

hoàn trả nợ gốc và lãi quy định trong hợp đồng vay mà xét về bản chất pháp lý

chính là quyền đòi nợ mà ngân hàng có đối với bên vay trên cơ sở hợp đồng

vay này. Việc ngân hàng khởi kiện bên vay chính là để thu hồi nợ hay nói chính

xác hơn là để yêu cầu Tòa án can thiệp để được bên vay thanh toán quyền đòi

nợ của mình đã đến hạn. Nói cách khác, việc ngân hàng thực hiện quyền đòi nợ

gốc dường như không phải là để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Hơn nữa, theo

hướng dẫn hiện hành của Tòa án nhân dân tối cao thì tranh chấp về quyền sở

hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó

và loại tranh chấp này tách bạch với tranh chấp về đòi lại tài sản. Thêm vào đó,

người làm luật chủ ý đưa cụm từ “bảo vệ” trước cụm từ “quyền sở hữu”, có lẽ

là để nhấn mạnh thêm việc tranh chấp liên quan đến việc công nhận quyền sở

hữu (hay một trong các quyền cấu thành quyền sở hữu) đối với tài sản. Chính

vì thế, có vẻ như không thể coi tranh chấp đòi nợ gốc là yêu cầu bảo vệ quyền

sở hữu để hưởng việc không bị hạn chế về thời hiệu khởi kiện. Tuy việc giới

44

hạn thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc không phải là cách tiếp cận mang tính cá

biệt của pháp luật Việt Nam song nếu xét một cách tổng thể, thời hiệu 03 năm

cho việc khởi kiện đòi nợ gốc và lãi đối với một khoản vay là tương đối ngắn

và chưa thực sự phù hợp, bởi vì sau khi bên vay vi phạm nghĩa vụ hoàn trả:

(i) Ngân hàng có thể xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ;

(ii) Sử dụng một số cách thức khác để đòi nợ trước khi tính đến việc khởi

kiện; và

(iii) Trong trường hợp tài trợ dự án bất động sản, thường phải chờ đợi

cho đến khi dự án phát sinh nguồn thu hay tài sản thuộc dự án được hình thành

để khởi kiện đòi nợ (và yêu cầu xử lý TSBĐ nếu có) nếu đó là các tài sản duy

nhất của bên vay.

Pháp luật của một số nước phát triển quy định thời hiệu dài hơn và có sự

phân biệt rõ thời hiệu khởi kiện đối với nợ gốc, lãi và khoản vay có bảo đảm.

Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật nước Anh, nếu hợp đồng vay được lập

dưới dạng văn bản chính thống, thời hiệu khởi kiện sẽ là 12 năm trong khi thời

hiệu này chỉ là 06 năm nếu hợp đồng vay được lập dưới dạng văn bản thông

thường. Đối với khoản vay có bảo đảm, thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc là 12

năm trong khi ngân hàng chỉ có thể khởi kiện trong thời hạn 06 năm đối với dư

nợ lãi. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là từ ngày phát sinh quyền nhận số tiền

liên quan. Theo đó, nếu hợp đồng vay quy định một thời điểm hoàn trả khoản

vay thì thời hiệu sẽ bắt đầu được tính từ thời điểm này; nếu hợp đồng vay quy

định rằng, việc xảy ra hay không xảy ra một sự kiện nhất định làm phát sinh

nghĩa vụ hoàn trả, thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra hay không xảy

ra sự kiện đó. Nếu hợp đồng vay quy định rằng, yêu cầu hoàn trả từ phía bên

cho vay là điều kiện tiên quyết cho quyền được hoàn trả của bên cho vay thì

thời hiệu khởi kiện sẽ không được tính cho tới khi yêu cầu đó được lập. Nếu

hợp đồng vay không quy định ngày hoàn trả và không đặt ra điều kiện theo đó

45

việc trả nợ phụ thuộc vào việc phải có yêu cầu hoàn trả lập bởi bên cho vay hay

đại diện của bên cho vay hay phụ thuôc vào bất cứ điều kiện nào khác thì thời

hiệu khởi kiện sẽ được tính từ ngày mà yêu cầu hoàn trả khoản nợ bằng văn

bản được lập bởi bên cho vay hay đại diện của bên cho vay.

Có thể thấy, trong khi các ngân hàng đang phải tăng cường nhân sự quản

lý rủi ro và vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi đòi nợ bằng phương thức khởi kiện,

quy định mới về thời hiệu của BLDS 2015 có nguy cơ sẽ gia tăng rủi ro không

thu được nợ cho các ngân hàng do hết thời hiệu khởi kiện. Đây không phải là

một tín hiệu tốt cho việc giải quyết nợ xấu trong bối cảnh hiện nay.

Khi thời hiệu khởi kiện bị rút ngắn, ngân hàng cần quản lý tốt hơn các

khoản vay và khi phát hiện vi phạm của bên vay trong việc trả nợ thì phải có

các phương án kịp thời, bao gồm cả việc khởi kiện, tránh tình trạng hết thời

hiệu khởi kiện. Bên cạnh đó, Điều 157, BLDS 2015 cũng quy định thời hiệu

khởi kiện có thể bắt đầu lại trong trường hợp bên vay đã thừa nhận nghĩa vụ trả

nợ hoặc đã thanh toán một phần khoản vay hoặc bên cho vay và bên vay đã tự

hòa giải về việc thanh toán khoản nợ. Khi đó, thời hiệu khởi kiện sẽ bắt đầu lại

kể từ ngày tiếp sau ngày xảy ra một trong số các sự kiện này. Ngân hàng có thể

vận dụng quy định này để tránh tình trạng hết thời hiệu khởi kiện, đặc biệt là

thông qua việc yêu cầu bên vay xác nhận nợ đối với mình hay thanh toán một

phần (dù là phần rất nhỏ) khoản nợ cho mình. Hơn nữa, một trong các điểm

mới của cả BLDS 2015 lẫn Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nằm ở chỗ Tòa án chỉ

áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc

các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ

thẩm ra bản án. Điều đó, có nghĩa là nếu bên vay hay bên bảo đảm không yêu

cầu áp dụng thời hiệu để hưởng lợi từ việc ngân hàng hết thời hiệu khởi kiện

thì Tòa án sẽ vẫn thụ lý và giải quyết tranh chấp.

46

Kết luận chương 2

Trong quá trình hội nhập và phát triển, các văn bản quy phạm pháp luật

của Việt Nam đã dần tiệm cận đến các quy định chung của quốc tế. Tuy nhiên,

để bảo hộ cho nền kinh tế nước nhà, các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp

vẫn giữ nguyên những quan điểm truyền thống bảo vệ quyền và lợi ích của chủ

sở hữu là bên dùng tài sản của chính mình để đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự đối

với NHTM và bỏ qua quyền và lợi ích chính đáng của chính ngân hàng là bên

cho vay tiền, là bên có quyền dân sự hợp pháp. Như thực tế mà tác giả đã trình

bày, việc ban hành và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành đã một

phần dẫn đến nguy cơ mất vốn hoặc thu hồi vốn không đầy đủ cho ngân hàng.

Đồng thời, việc xử lý các khoản nợ quá hạn không dứt điểm, mất vốn một phần

hoặc toàn bộ của ngân hàng vô hình chung dẫn đến hệ quả pháp lý cho những

người có thẩm quyền phê duyệt, thực thi nội bộ về cấp tín dụng (cho vay), về

thẩm định TSBĐ cho khoản vay, về quản lý trước, trong và sau cho vay, về

quản lý TSBĐ và các vấn đề khác có liên quan.

Tại chương này, tác giả đã tập trung phân tích và làm rõ được một số vấn

đề cơ bản, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về việc xử lý tài sản đảm

bảo tiền vay của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng thương

mại cổ phần Bản Việt nói riêng. Với việc phân tích các quy định của pháp luật

hiện hành về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của các ngân hàng thương mại đã

phần nào thấy được các khó khăn, vướng mắc và các tồn tại trên thực tiễn áp

dụng pháp luật qua thực tế xử lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng thương mại

hiện nay, từ đó xác định các định hướng và giải pháp hoàn thiện để pháp luật

ngày càng đi vào thực tiễn.

Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các ngân hàng

thương mại nói chung và cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt nói

riêng, tác giả muốn nhấn mạnh những hạn chế, bất cập và những khó khăn,

47

vướng mắc nêu trên để nhằm mục tiêu đưa ra những định hướng và giải pháp

nâng cao hiệu quả xử lý TSBĐ tiền vay của các ngân hàng thương mại tại

Việt Nam. Điều này sẽ trực tiếp tác động một cách hiệu quả đến sự điều chỉnh

pháp luật nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng.

48

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI

SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở

VIỆT NAM

3.1. Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay của các ngân hàng thương mại

Qua các thời kỳ phát triển đất nước, chúng ta có thể nhìn nhận các quy

định của pháp luật về quyền thu giữ tài sản khi xử lý TSBĐ của các NHTM

đang dần bị thu hẹp, cụ thể là:

Thứ nhất, quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12

năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD (Nghị định 178)

và Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày

23 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ

Công an - Bộ Tài chính - Tổng cục địa chính hướng dẫn việc xử lý TSBĐ tiền

vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng như sau:

- Quyền xử lý TSBĐ của các NHTM được quy định rõ ràng được bảo

đảm bằng quyền lực nhà nước, cụ thể đó là: “Tài sản bảo đảm được xử lý theo

phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng cầm cố,

hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh (sau đây gọi chung là hợp đồng bảo

đảm) giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, bên bảo lãnh (sau đây gọi chung

là bên bảo đảm). Trong trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm

theo phương thức đã thoả thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp

dụng các phương thức xử lý Tài sản bảo đảm”. [Mục II Phần A Thông tư liên

tịch số 03]

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NHTM trong trường hợp nêu trên,

49

Thông tư liên tịch số 03 tiếp tục quy định: “Sau khi hết thời hạn ấn định trong

thông báo áp dụng biện pháp buộc giao tài sản mà bên giữ tài sản bảo đảm

không giao tài sản cho tổ chức tín dụng để xử lý, tổ chức tín đụng tiến hành thu

giữ tài sản bảo đảm cùng với sự hỗ trợ của Uỷ ban nhân dân và cơ quan Công

an.” [Mục XI.2.3 Phần B Thông tư liên tịch số 03].

- Quy định tại Nghị định số 163 về quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

Khi Nghị định số 163 có hiệu lực, quyền thu giữ TSBĐ của bên nhận thế

chấp nói chung và của các NHTM nói riêng đã bị hạn chế. Theo đó, khoản 5

Điều 63 Nghị định số 163 chỉ quy định: “Trong quá trình tiến hành thu giữ tài

sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây

mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì

người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ

quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp

luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền

thu giữ tài sản bảo đảm”.

Như vậy, vai trò của cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ tham

gia để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền

thu giữ TSBĐ mà không tham gia thu hồi TSBĐ cùng các NHTM như quy định

tại Nghị định số 178 và Thông tư liên tịch số 03 đã hết hiệu lực pháp luật. Điều

này sẽ hạn chế quyền của các NHTM trong trường hợp bên bảo đảm cố thủ

trong nhà, không làm mất an ninh trật tự thì cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân

cấp xã cũng không thể tham gia giữ gìn an ninh, trật tự thì các NHTM không

thể thu giữ được TSBĐ để xứ lý nợ, ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ của các

NHTM. Đối với những trường hợp bên bảo đảm vắng mặt, cố tình trốn tránh

không giao tài sản thì Nghị định số 163 và Thông tư liên tịch số 16 không còn

quy định về quyền thu giữ tài sản của các NHTM như quy định tại Nghị định

50

số 178 và Thông tư liên tịch số 03. Trong những trường hợp này xảy ra thì các

NHTM phải khởi kiện ra Tòa án để xử lý TSBĐ và con đường xử lý tài sản

đảm bảo qua tố tụng tại Tòa án, Thi hành án sẽ bị kéo dài và vô cùng khó khăn

cho các NHTM.

- Quy định tại BLDS 2015 về giao tài sản bảo đảm để xử lý.

Điều 301 của BLDS 2015 chỉ quy định “Người đang giữ tài sản bảo đảm

có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một

trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người

đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu

Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.”. Đây là

một một trong những quy định tước đi quyền hợp pháp của bên nhận bảo đảm

nói chung và các NHTM nói riêng. Theo quy định này, không có cơ chế pháp

luật rõ ràng để thực thi một cách hiệu quả quyền xử lý TSBĐ của các NHTM,

khi thu giữ TSBĐ, nếu chủ tài sản không bàn giao tài sản thì NHTM chỉ có

cách khởi kiện ra Tòa án, vai trò của cơ quan công quyền trong việc hỗ trợ

TCTD thu giữ TSBĐ rất mờ nhạt: việc tham gia của cơ quan công an chỉ dừng

lại ở việc giữ gìn an ninh trật tự. Do đó, trường hợp chủ nợ muốn thu giữ được

TSBĐ trên thực tế để phục vụ cho công tác xử lý (cưỡng chế) thì phải có bản

án, có quyết định của Tòa án. Tòa án xử xong phải chờ bản án có hiệu lực

(không bị kháng cáo, kháng nghị), chờ cơ quan thi hành án. Đây là một trong

những quy định ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của NHTM do chịu rủi ro thì việc

biến động TSBĐ, chịu chi phí từ việc khởi kiện, vốn bị tồn đọng,… chưa kể

đến áp lực lên hệ thống cơ quan tài phán dẫn đến chậm trễ trong quá trình xét

xử; đồng thời, là một trong những quy định tạo điều kiện để khách hàng vay

tiếp tục vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các NHTM.

Thứ hai, Nghị định 163 (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11) quy định rõ

người xử lý TSBĐ là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy

51

quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.

Đồng thời, căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, người

xử lý TSBĐ có quyền tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có văn bản ủy

quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm.

Thứ ba, Nghị định 163 quy định các bên có quyền thỏa thuận phương

thức xử lý TSBĐ theo các phương thức sau: Bán tài sản bảo đảm; Bên nhận

bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo

đảm; Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba

trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ và phương thức khác do các bên thoả

thuận.

Đối với phương thức bán TSBĐ: Các bên có thể thỏa thuận thực hiện

bán đấu giá hoặc bán không qua đấu giá. Việc bán TSBĐ qua đấu giá thì thực

hiện theo pháp luật về bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, đối với việc bán tài sản

không qua đấu giá thì trên thực tế khi thực hiện quy định tại Nghị định 163 phát

sinh vướng mắc như sau: Trường hợp các bên không thỏa thuận về giá bán

TSBĐ tại hợp đồng bảo đảm thì khi bán TSBĐ sẽ xác định giá bán TSBĐ như

thế nào. Chính vì vậy, TTLT 16 (Điều 10) đã quy định về cách thức xác định

giá bán TSBĐ trong trường hợp này. Theo đó, ưu tiên ghi nhận thỏa thuận của

các bên, trường hợp các bên không thỏa thuận được giá bán TSBĐ thì ưu tiên

bên bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá

để xác định giá bán tài sản. Nếu bên bảo đảm không chỉ định cơ quan, tổ chức

có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan,

tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá bán tài sản.

Trong trường hợp không bán được TSBĐ theo giá theo định giá của cơ

quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ

giá bán tài sản. Việc hạ giá bán tài sản thực hiện liên tục ba (03) lần nhưng mỗi

lần hạ giá bán tài sản không được quá mười phần trăm (10%) giá đã định và

52

phải cách nhau ít nhất là ba mươi ngày (30) ngày đối với bất động sản và mười

lăm (15) ngày đối với động sản.

Sau ba (03) lần liên tục hạ giá mà vẫn không bán được TSBĐ thì bên

nhận bảo đảm được nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ.

Giá trị TSBĐ trong trường hợp này là mức giá của lần hạ giá cuối cùng, trừ

trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Đối với phương thức nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện

nghĩa vụ của bên bảo đảm: Để hướng dẫn cụ thể hơn về việc xử lý TSBĐ theo

phương thức nhận chính TSBĐ thay cho việc thực hiện nghĩa vụ, Nghị định 11

đã bổ sung quy định khi các bên thỏa thuận về việc nhận chính TSBĐ để thay

thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm thì việc xử lý TSBĐ theo

phương thức này được thực hiện như sau:

(i) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng

thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của TSBĐ;

(ii) Trong trường hợp giá trị của TSBĐ lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được

bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên

bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;

(iii) Bên nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ phải

xuất trình văn bản chứng minh quyền được xử lý TSBĐ và kết quả xử lý TSBĐ

cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng

TSBĐ từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm. Nghị định 11 không quy định

các bên phải ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng trong trường hợp nhận

chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và về

bản chất việc nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên

bảo đảm là biện pháp cấn trừ nợ, khác với việc mua bán, chuyển nhượng tài

sản, tuy nhiên, trên thực tế có nhiều Cơ quan, Văn phòng đăng ký quyền sở

hữu, quyền sử dụng tài sản yêu cầu TCTD phải xuất trình hợp đồng mua bán

53

tài sản với chủ sở hữu tài sản thì mới làm thủ tục đăng bộ, sang tên cho TCTD.

Xuất phát từ vướng mắc thực tế này, TTLT 16 đã quy định rõ thủ tục

chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với tài sản phải đăng ký quyền sở

hữu, quyền sử dụng). Theo đó, hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản thỏa thuận khác

về việc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo

đảm được sử dụng thay thế cho hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở

hữu, quyền sử dụng TSBĐ.

Thứ tư, Điều 63 Nghị định 163 quy định: Trong quá trình tiến hành thu

giữ TSBĐ, nếu bên giữ TSBĐ có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh,

trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý

TSBĐ có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công

an nơi tiến hành thu giữ TSBĐ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh,

trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ TSBĐ. Tuy

nhiên, quy định này chưa thể hiện rõ cơ chế, cách thức để cơ quan công an, Ủy

ban nhân dân cấp xã tham gia giữ gìn an ninh, trật tự. Vì vậy, TTLT 16 (Điều

9) đã quy định hướng dẫn cơ chế để thực thi quy định này như sau: (1) Trước

thời điểm thu giữ TSBĐ ít nhất bảy (07) ngày làm việc, người xử lý TSBĐ có

quyền gửi văn bản thông báo về việc thu giữ TSBĐ đến Ủy ban nhân dân cấp

xã nơi tiến hành thu giữ TSBĐ. Văn bản phải nêu rõ lý do xử lý, thời gian, địa

điểm xử lý, kế hoạch thu giữ tài sản và tài sản dự định thu giữ. (2) Sau khi nhận

được văn bản của người xử lý TSBĐ, Ủy ban nhân dân cấp xã phải kịp thời

thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 5 Điều 63 Nghị định số 163 và Điều

30 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về

việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD

Việt Nam.

Thứ năm, về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất,

54

nhà ở: Bên cạnh quy định tại Nghị định 163 về phương thức xử lý TSBĐ là

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp các bên không có

thỏa thuận về phương thức xử lý và trường hợp xử lý TSBĐ khi chỉ thế chấp

tài sản gắn liền với đất, mà không thế chấp quyền sử dụng đất, Nghị định 11 đã

bổ sung thêm quy định về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất trong trường hợp

chỉ thế chấp quyền sử dụng đất, mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất.

Thứ sáu, trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp

tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản

gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử

dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Các bên có quyền tự thỏa thuận

hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định

giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Số tiền thu được từ việc xử

lý TSBĐ được thanh toán trước cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài

sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản

gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với

đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và

chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền

và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được

chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất. Đồng thời,

đối với việc xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, nhà ở, Nghị định 11 cũng bổ

sung yêu cầu là tổ chức, cá nhân mua TSBĐ hoặc nhận chính TSBĐ để thay

thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được

cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác

gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng được cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn

55

liền với đất thì chỉ được hưởng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở. Tuy

nhiên, trên thực tế, việc thực hiện thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ là

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất gặp nhiều khó khăn do bên thế chấp

không chịu ký tên vào văn bản sang tên, chuyển nhượng cho người mua/nhận

chuyển nhượng TSBĐ. Để tháo gỡ nút thắt này, TTLT 16 quy định: “Trong

trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chứng

minh việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì bên nhận bảo đảm

được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong hồ sơ đề nghị chuyển

quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải bổ sung một (01) bản chính hợp đồng

bảo đảm đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật hoặc

một (01) bản sao hợp đồng bảo đảm được Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực,

tổ chức hành nghề công chứng cấp từ bản chính hoặc văn bản khác chứng minh

có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài

liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ”. Bên cạnh đó, TTLT 16 cũng

quy định việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản được thực hiện

đồng thời với việc xóa đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, không buộc TCTD

xóa đăng ký thế chấp trước khi thực hiện thủ tục sang tên trước bạ, giảm thiểu

rủi ro cho TCTD trước nguy cơ giao dịch có bảo đảm trở thành không có bảo

đảm nếu xóa đăng ký trước khi chuyển nhượng cho người mua nhưng vì lý do

nào đó lại chưa thể sang tên cho người mua. Ngoài ra, TTLT 16 cũng hướng

dẫn việc xử lý TSBĐ đối với một số loại tài sản đặc thù như: Xử lý đối với tài

sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh do

bên thế chấp bán, thay thế tài sản thế chấp không có sự đồng ý của bên nhận

thế chấp trong khi hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm và

giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp có thỏa thuận khi bán, thay thế tài sản

thế chấp phải được sự đồng ý của bên nhận thế chấp; Xử lý tài sản thế chấp là

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp hợp đồng thế chấp

56

đã được đăng ký trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy

định của pháp luật; Xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ, yêu cầu hoàn trả

TSBĐ đang bị cầm giữ trong hợp đồng song vụ để xử lý.

3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài

sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại

Các định hướng cơ bản trong giai đoạn hiện nay bao gồm:

Thứ nhất, các nhà lập pháp cần phải xác định nguyên tắc bảo vệ quyền

lợi của các NHTM khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ hoàn trả nợ vay cho

các NHTM và trong trường hợp phải xử lý TSBĐ cho khoản vay đó, nguyên

tắc pháp lý đó phải được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật,

phải quy định cụ thể đó chính là quyền của các NHTM là “đại diện chủ sở hữu”

đối với tài sản trong trường hợp chưa ghi nhận trên giấy chứng nhận quyền sở

hữu, quyền sử dụng. Đồng thời, để hạn chế việc lạm quyền xử lý TSBĐ trong

trường hợp này, các NHTM cũng phải chịu một chế tài thích hợp nếu trong quá

trình xử lý TSBĐ đảm bảo cho khoản vay, các NHTM vượt quá thẩm quyền xử

lý TSBĐ của mình.

Thứ hai, về quyền thu giữ TSBĐ đã được pháp luật quy định tại Nghị

định số 163. Đến khi ra đời Nghị quyết 42, tất cả các NHTM tưởng chừng pháp

luật đã bảo vệ chính đáng quyền được thu giữ TSBĐ để xử lý nợ và bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho các NHTM. Tuy nhiên, một lần nữa pháp luật

chỉ ghi nhận “quyền thu giữ tài sản” được quy định tại Nghị quyết số 42 vẫn

chưa thể hiện rõ bản chất về quyền của các NHTM trong việc thu giữ TSBĐ

của bên bảo đảm khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với ngân

hàng. Do đó, quyền thu giữ TSBĐ là quyền không thể thiếu của các NHTM khi

tiến hành xử lý TSBĐ và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM

trong trường hợp này, pháp luật cần quy định rõ rằng quyền đương nhiên của

các NHTM mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu TSBĐ. Trường hợp

57

pháp luật vẫn bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản mà không xem xét thấu đấu

về quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM trong trường hợp này sẽ dẫn đến

nguy cơ tất cả các tranh chấp về tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của NHTM

phải được giải quyết bởi ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền và như vậy, nghĩa

vụ và trách nhiệm của khách hàng vay vốn tại các NHTM vẫn chưa được nâng

cao, nợ xấu vẫn tiếp tục được duy trì và tăng cao mà khó xử lý được triệt để.

Thứ ba, tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được

quyền tiếp cận TSBĐ để xử lý nhanh chóng, hợp pháp. Theo đó, bên nhận bảo

đảm có quyền tự mình thu hồi TSBĐ dựa trên nguyên lý “không vi phạm điều

cầm, trái đạo đức xã hội”, có quyền nhận chính TSBĐ, quyền bán TSBĐ mà

không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nếu vi phạm thỏa thuận đã được giao

kết.

Thực tiễn xử lý TSBĐ cho thấy, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý như

hiện nay thì thời gian xử lý TSBĐ sẽ kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng

không được thực hiện nghiêm túc. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự thỏa

thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng, việc đề xuất giải pháp bên nhận

bảo đảm được quyền thu giữ TSBĐ cũng chính là nhằm khắc phục bất cập nêu

trên, đồng thời cũng là giải pháp phù hợp với nguyên tắc trong giao dịch bảo

đảm hiện đại (quyền của chủ nợ có bảo đảm). Dĩ nhiên, trên cơ sở các quy định

chung nhất của BLDS, các văn bản dưới luật sẽ quy định về các điều kiện, trình

tự phải đáp ứng trong quá trình thu giữ TSBĐ để loại bỏ nguy cơ phát sinh

hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ

chức, cá nhân trong xã hội.

Thứ tư, Bộ, Ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực

hiện Nghị quyết 42 và truyền thông xuyên suốt xuống các các Cơ quan chức

năng tại địa phương để các TCTD được hỗ trợ tối đa trong công tác thu giữ tài

sản, nhằm thu hồi nợ một cách nhanh chóng để đảm bảo quyền lợi cho NHTM.

58

Trong đó, văn bản hướng dẫn phải đảm bảo quy định rõ về thời gian xử lý, trách

nhiệm của các Sở ban ngành, Cơ quan địa phương.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

của các ngân hàng thương mại

Một cách khái quát, có thể cho rằng các giải pháp này tập trung vào một

số vấm đề cơ bản sau đây:

Một là, Chính phủ, Quốc hội cân nhắc đến việc Luật hóa Nghị quyết 42,

không để Nghị quyết 42 chỉ tồn tại ở dạng thí điểm và chỉ có hiệu lực 5 năm.

Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể

nhằm tạo một hành lang pháp lý chắc chắn trong thu giữ tài sản để xử lý nợ xấu

của các TCTD. Việc này cũng sẽ giúp các Cơ quan nhà nước tại địa phương có

thể danh chính ngôn thuận hỗ trợ các TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu.

Hai là, để bảo vệ tốt hơn ngân hàng trong việc đòi nợ, Ngân hàng nhà

nước cần xem xét đề xuất sửa Luật các tổ chức tín dụng theo hướng tăng thời

hiệu khởi kiện đối với các hợp đồng tín dụng cho cả dư nợ gốc và lãi cũng như

đối với các khoản vay có bảo đảm.

Ba là, Các quy định pháp luật về tố tụng nên được chỉnh sửa theo hướng

rút ngắn thời gian xử lý, đồng thời tinh gọn thủ tục hành chính để đảm bảo việc

khởi kiện đòi nợ của Ngân hàng theo con đường tố tụng được rút ngắn thời

gian, quy định rõ thời gian xử lý trong quá trình tố tụng, thi hành án kể từ khi

thụ lý của các cơ quan có thẩm quyền. Việc này sẽ tạo thêm nhiều điều kiện

thuận lợi cho các TCTD xử lý tài sản đảm bảo khi các món nợ không đủ điều

kiện áp dụng Nghị quyết 42.

Bốn là, Nghị định số 163 là Nghị định hướng dẫn một số điều của BLDS

năm 2005 về việc xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý TSBĐ (đã hết

59

hiệu lực thi hành và bị thay thế bởi BLDS năm 2015). Do đó, Nghị định số 163

cũng được coi là hết hiệu lực thi hành (Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 09/5/2016

về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2016, trong đó Mục 10 của

Nghị quyết nêu: “Đối với các văn bản quy định chi tiết của các luật, pháp lệnh

đã hết hiệu lực nhưng chưa ban hành kịp thời văn bản thay thế, Chính phủ

thống nhất tiếp tục áp dụng nếu không trái với tinh thần của luật, pháp lệnh

mới ban hành”).

Trên thực tế, nhiều tổ chức tín dụng vẫn căn cứ vào Nghị định số 163 để

xác lập, thực hiện và xử lý TSBĐ vì đây là văn bản quy định chi tiết về vấn đề

này. Mặc dù vậy, các tổ chức tín dụng vẫn rất lo ngại về hiệu lực thi hành của

Nghị định số 163 cũng như giá trị pháp lý của các giao dịch bảo đảm được ký

kết theo hướng dẫn của Nghị định này. Do đó, cần phải có văn bản thay thế

Nghị định số 163 để hướng dẫn chi tiết việc ký kết, thực hiện giao dịch bảo

đảm và xử lý TSBĐ nhằm tạo sự thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật, tránh

rủi ro pháp lý cho các tổ chức tín dụng và các cá nhân, tổ chức có liên quan.

Nghị định mới cần xử lý được bất cập, hạn chế đã nảy sinh trong quá trình triển

khai thực hiện Nghị định 163 cũng như hướng dẫn rõ hơn các nội dung liên

quan của BLDS 2015 về giao dịch bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng để bảo vệ

tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đặc biệt là quyền chủ

nợ của TCTD.

Năm là, Ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua bán

nợ với các tổ chức, cá nhân khác (ngoài việc mua bán nợ với VAMC) để tạo

hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường mua bán nợ của Việt Nam. Hiện

tại, hành lang pháp lý cho việc mua bán nợ với các tổ chức, cá nhân khác còn

khá sơ sài và không rõ ràng trong khi việc mua bán nợ cũng là một phương án

rất hiệu quả được áp dụng, đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Tại Việt Nam,

việc mua bán nợ giữa TCTD và các tổ chức, cá nhân khác vẫn đang được áp

60

dụng nhưng còn khá dè dặt do hành lang pháp lý chưa được hoàn chỉnh. Đồng

thời, xem xét bỏ ngành nghề “dịch vụ mua bán nợ” ra khỏi ngành nghề kinh

doanh có điều kiện; Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế,

tạo hành lang cho thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả. Xây dựng chính

sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp mua bán nợ; có chính

sách mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài; xây dựng chính sách phát triển các

nhà đầu tư có tổ chức cho thị trường mua bán nợ có TSBĐ và cơ chế xử lý

TSBĐ rõ ràng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Sáu là, Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn cụ thể để thực hiện việc thu

thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng

TSBĐ để thu hồi nợ xấu, bảo đảm tính thực thi cho quy định về “thứ tự ưu tiên

thanh toán khi xử lý TSBĐ”, bảo đảm quyền lợi của bên mua TSBĐ. Đồng thời

Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục

chuyển nhượng tài sản, xử lý tài sản khi TSBĐ là các dự án bất động sản có tài

sản hình thành trong tương lai.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại

Tác giả luận văn cho rằng các giải pháp này nên hướng vào một số vấn

đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, các cơ quan chức năng hữu quan cần thường xuyên tập huấn,

phổ biến kiến thức pháp luật đầy đủ cho các cá nhân, người có thẩm quyền

trong việc áp dụng pháp luật, tránh tình trạng hiểu không đúng, không thống

nhất các quy định pháp luật làm cản trở quyền xử lý TSBĐ của các NHTM.

Thứ hai, các NHTM cần xây dựng hệ thống văn bản quy định nội bộ

chặt chẽ, rõ ràng và cụ thể đối với việc cho vay và bảo đảm bằng tài sản của

chính khách hàng vay vốn và/hoặc bằng tài sản của bên thứ ba. Đồng thời, các

NHTM thông qua bộ phận pháp lý của mình và hoặc thuê bên thứ ba là các tổ

61

chức, cá nhân có kiến thức và am hiểu pháp luật như cán bộ ngành Tòa án, Viện

kiểm soát, Thi hành án có kinh nghiệm trong vấn đề xử lý TSBĐ, các giảng

viên tại các Trường Đại học, các Học viện đào tạo về các chức danh tư pháp để

tiến hành tập huấn, đào tạo cho các cán bộ nghiệp vụ tại các NHTM hiểu rõ bản

chất vấn đề và hướng dẫn các cách thức thực hiện hợp tình, hợp lý trong trường

hợp phải xử lý TSBĐ của bên bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho ngân hàng.

Thứ ba, các NHTM thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên,

kịp thời và hiệu quả để hạn chế tình trạng vi phạm các nội dung đã thỏa thuận

với ngân hàng của các khách hàng vay, hạn chế dẫn đến việc xử lý TSBĐ của

bên bảo đảm.

Kết luận chương 3

Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng

cao, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là hết sức lớn. Trong bối cảnh kênh cung cấp

vốn cho nền kinh tế từ thị trường chứng khoán vẫn chưa thật sự hiệu quả, thực

tế cho thấy năng lực tài chính của cá nhân, doanh nghiệp còn hạn chế, hoạt

động chủ yếu dựa vào nguồn tín dụng từ các ngân hàng. Vì vậy, có thể xác định

vốn vay ngân hàng sẽ tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng của nền

kinh tế và để đảm bảo cho hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

an toàn và hiệu quả thì việc xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ

ràng và đảm bảo khả năng xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ là nhu cầu cấp

bách và rất cần thiết.

Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay hiện nay phần này đã tạo

được môi trường pháp lý tương đối an toàn cho ngân hàng thương mại và các

chủ thể khi thiết lập quan hệ giao dịch bảo đảm tiền vay. Bên cạnh những thuận

lợi, thực tiễn xử lý tài sản vẫn phát sinh những khó khăn, vướng mắc nhất định

như đã trình bày trong chương này. Do đó, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp

62

pháp, chính đáng cho các ngân hàng thương mại nói chung và cho ngân hàng

thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng, tác giả muốn đưa ra những giải pháp

nhằm hạn chế, bất cập và những khó khăn, vướng mắc nêu trên để nâng cao

hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, góp phần tìm ra những giải pháp nhằm

hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đối với ngân hàng thương mại cổ phần

Bản Việt nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung.

63

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, với sự gia tăng mạnh của dư nợ tín dụng và

sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, những khó khăn nội tại của nền kinh tế

Việt Nam đã bộc lộ khiến nợ tồn đọng của các doanh nghiệp sản xuất kinh

doanh tăng lên, làm tăng tỉ lệ nợ xấu trong các định chế tài chính, đặc biệt là hệ

thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu ở các tổ chức tín dụng khá cao và có xu hướng

tăng nếu không có những giải pháp xử lý cấp bách, kịp thời. Các giải pháp tình

thế hiện nay và hệ thống khung pháp lý đã được ban hành và có cơ chế riêng

đối với hoạt động xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đối với hoạt động

mua - bán nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến khoản nợ xấu chưa có

môi trường để thực hiện và chưa phát sinh hiệu quả mà vẫn còn nhiều khó khăn,

vướng mắc.

Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của các ngân hàng thương

mại luôn đứng trước nguy cơ rủi ro mà chủ yếu là nguy cơ mất, thất thoát vốn;

giải pháp chính yếu hiện nay trong hoạt động cấp tín dụng (cho vay) của các

ngân hàng là bắt buộc người vay phải có tài sản bảo đảm của chính mình hoặc

bên thứ ba. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, bên cạnh những giải pháp khác thì xử lý

tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cần thiết để các ngân hàng thu hồi

vốn nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại

không mong muốn xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng, bởi vì khi xử lý tài

sản bảo đảm thì có thể nhận định rằng khoản cho vay đó không đạt hiệu quả.

Tuy nhiên, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng không phải lúc nào cũng

được tiến hành một cách thuận lợi mà có những trường hợp các ngân hàng

thương mại buộc phải xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng để thu hồi nợ vay.

Xuất phát từ quá trình hoạt động và những vấn đề xảy ra trong thực tiễn,

qua nghiên cứu, tìm tòi và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, tác giả đề

xuất những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử

64

lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại với mong muốn các

cơ quan lập pháp có cơ sở để xem xét, hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý

luận về cơ chế xử lý tài sản bảo đảm; đánh giá thực trạng về việc xử lý tài sản

bảo đảm tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung và tại ngân hàng

thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng, làm rõ những bất cập, hạn chế và những

nội dung cần xử lý để làm tiền đề điều chỉnh và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật

trong việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho

các ngân hàng thương mại.

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam (2014) Thông tư liên tịch số 06/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN của

Bộ tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm, ban hành ngày 06 tháng 06

năm 2014, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Thông tư liên tịch

số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT của Bộ tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường

hướng dẫn đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, ban

hành ngày 23 tháng 06 năm 2016, Hà Nội.

3. Chính phủ (2012) Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về

sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng

12 năm 2006 của chính phủ về giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 22 tháng 02

năm 2012, Hà Nội.

4. Chính phủ (2006) Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về

giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 29 tháng 12 năm 2006, Hà Nội.

5. Chính phủ (1999) Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về

bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 29 tháng 12 năm

1999, Hà Nội.

6. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn

liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, ban hành ngày 19 tháng 7 năm 2017,

Hà Nội.

7. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (2018), Chỉ thị số 05/CT-NHNN của

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống

các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, ban hành ngày 17 tháng 9 năm 2018,

Hà Nội.

8. Giáo trình Luật dân sự 2015 Tập 1, 2, Trường Đại học Luật Hà Nội,

9. Bùi Đức Giang (2017) “Xử lý tài sản bảo đảm theo Bộ luật Dân sự

NXB Tư pháp.

2015”, Cổng thông tin điện tử Ngân hàng nhà nước Việt Nam,

?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SB

V286858&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=2221717219

7538577#%40%3F_afrLoop%3D22217172197538577%26centerWidth%3D8

0%2525%26dDocName%3DSBV286858%26leftWidth%3D20%2525%26rig

htWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%2

6_adf.ctrl-state%3D1g385k7pc_9>, (29/3/2017).

10. Bùi Đức Giang (2017), “Nhận bảo đảm bằng bất động sản hình thành

trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở”, trang thông tin điện tử

thongtinphapluatdansu,

dong-san-hnh-thnh-trong-tuong-lai-tu-chu-dau-tu-du-n-nh-o/>, (14/8/2017).

11. Thu Hà (2018) "Đã có nhiều bất cập xuất hiện khi triển khai nghị

quyết 42 xử lý nợ xấu", Chuyên trang an ninh tiền tệ,

nhieu-bat-cap-xuat-hien-khi-trien-khai-nghi-quyet-so-42-xu-ly-no-xau-

252418.htm>, (28/8/2018).

12. Trần Thế Hệ (2017) “Bàn về vấn đề thu giữ tài sản bảo đảm để xử

lý”, cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính – Viện Chiến lược và Chính sách tài

chính,

dDocName=MOFUCM102367&dID=106274&_afrLoop=821046126828623

02#!%40%40%3FdID%3D106274%26_afrLoop%3D82104612682862302%

26dDocName%3DMOFUCM102367%26_adf.ctrl-state%3Dynbin1og5_4>

(23/52017).

13. Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Phạm Hồng Minh Hoàng

(2017) “Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các ngân hàng thương

mại”, Tạp chí Tài chính điện tử,

doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-xu-ly-tai-san-bao-dam-tien-vay-tai-cac-

ngan-hang-thuong-mai-129327.html>, (18/9/2017).

14. Nguyễn Thanh Vân (2014), “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền

vay từ thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam",

luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội.

15. Ngô Ngọc Linh (2015) Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động

sản qua thực tiễn hoạt động tại các tổ chức tín dụng, luận văn thạc sĩ, Khoa

Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Cấn Văn Lực (2019) “Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo

nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ”, Trang thông tin điện tử Cafef,

va-de-xuat-thao-go-20190214113235953.chn>, (14/2/2019).

17. Nhất Nam (2019) “Nợ xấu hệ thống Ngân hàng giảm mạnh cuối năm

2018”, Báo điện tử VnEconomy,

hang-giam-manh-cuoi-nam-2018-20190107103714394.htm>, (07/01/2019).

18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016) Thông tư số 39/2016/TT-

NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài đối với khách hàng, ban hành ngày 30/12/2016, Hà Nội.

19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài

chính - Tổng cục địa chính (2001) Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-

BTP-BCA-BTC-TCĐC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ

Công an - Bộ Tài chính - Tổng cục địa chính hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 23 tháng 4

năm 2001, Hà Nội.

20. Quốc hội (2005) Bộ Luật Dân sự số 33/2005/QH11, ban hành ngày

14 tháng 6 năm 2005, Hà Nội.

21. Quốc hội (2015) Bộ Luật Dân sự số 91/2015/QH13, ban hành ngày

24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.

22. Quốc hội (2015) Bộ Luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13, ban hành

ngày 25 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.

23. Quốc hội (2010) Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, ban

hành ngày 16 tháng 6 năm 2010, Hà Nội.

24. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức

tín dụng số 17/2017/QH14, ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2017, Hà Nội.

25. Quốc hội (2017) Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc Hội về thí

điểm xử lý nợ xấu, ban hành ngày 21 tháng 6 năm 2017, Hà Nội.

26. Lương Đình Thí (2018) Thế chấp bằng quyền sử dụng đất ở để đảm

bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực

tiễn Thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện

hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

27. Đặng Công Tráng, Phùng Thùy Dương và Hồ Hữu Tuấn (2017)

“Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo bằng tiền vay là quyền sử dụng đất tại các

ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số khuyến nghị”, Tạp chí Công

thương, số 2/2017, tr.15-20.

28. Nguyễn Lê Vũ (2018) Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, luận văn

thạc sĩ, Trường Đại học Luật – Đại học Huế.

29. Lê Thị Thu Ánh (2015), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm

tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣ ơng mại ở Việt

Nam”, luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc Gia.