VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NHƯ QUỲNH
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NHƯ QUỲNH
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Văn Tuyến. Các kết quả được
trình bày trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào khác. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn mang tính chất tham khảo và
được trích từ nguồn thông tin chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Học viện Khoa học Xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Vì vậy, tôi đề nghị Học viện Khoa học Xã hội – Viện hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam xem xét, quyết định cho tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN NHƯ QUỲNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .. ........................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .............................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ..................................................................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại .................................................................................................. 8
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại .................................................................................. 10
1.2.1. Căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ................................................................. 10
1.2.2. Quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ................................................................................................ 13
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT ............. 17
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ............................................................................... 17
2.1.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ............................................................................... 17
2.1.2. Thực trạng quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ........................................................................ 19
2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ................................................................. 23
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ............................................................. 26
2.2.1. Khái quát về tình hình xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ....................................................................................... 27
2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ..................................... 29
2.2.3. Những bất cập và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt ............... 32
Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ..................................................................................................... 49
3.1. Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ......................................... 49
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại .................................................................. 49
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ............................................ 57
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ....................................................................... 59
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ........................................................................ 59
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ............................................ 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ Luật Dân sự
Nghị định 11 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng
02 năm 2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định
số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của chính
phủ về giao dịch bảo đảm
Nghị định 163 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29
tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm
Nghị quyết 42 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017
của Quốc Hội về thí điểm xử lý nợ xấu
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Tòa án nhân dân TAND
Tổ chức tín dụng TCTD
Tài sản bảo đảm TSBĐ
VAMC Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản
của các tổ chức tín dụng Việt Nam
VCCB Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt
TTLT 16 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN
ngày 06 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên
và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng
dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Chi tiết về tình hình dư nợ, nợ quá hạn (NQH) và nợ xấu (NX) tại
VCCB được chia theo nhóm nợ, loại hình qua hai năm 2018-2019 như sau: 29
Bảng 2.2. Tình hình thực tế xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ xấu năm 2017,
2018 tại VCCB ................................................................................................ 32
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với xu thế phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế thế giới,
Việt Nam đã nỗ lực cải cách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và chính sách pháp luật về tín dụng nói riêng để tạo đà thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế thị trường theo hướng hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu phát
triển lành mạnh của nền kinh tế, vấn đề xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng cũng
đã và đang được triển khai một cách mạnh mẽ mà bằng chứng là việc ban hành
Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc
thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng. Nghị quyết này đã một lần nữa công
nhận “quyền thu giữ tài sản bảo đảm” để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, phương thức thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu chỉ thành công
trong một số trường hợp hạn hữu, chẳng hạn như trường hợp khách hàng hợp
tác, tài sản bảo đảm không có tranh chấp, tài sản bảo đảm là đất trống… Thực
tế những trường hợp này rất ít xảy ra, những vấn đề phổ biến trong quá trình
xử lý tài sản bảo đảm là xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không hợp tác,
trong tình huống này, Tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện khách hàng đến
Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được quyền xử lý tài sản bảo đảm thông qua
cơ quan Thi hành án. Điều này sẽ dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình xử lý tài sản bảo đảm của các Tổ chức tín dụng.
Từ thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Bản Việt” để làm luận văn thạc sĩ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về tình hình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tìm thấy một số công trình
1
nghiên cứu khoa học chuyên sâu về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của các ngân
hàng thương mại. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu sau đây:
- Luận văn thạc sĩ luật học bảo vệ năm 2018 của Nguyễn Lê Vũ, Trường
Đại học Luật – Đại học Huế với đề tài: “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”;
- Luận văn thạc sĩ năm 2018 của Lương Đình Thí, Học viện khoa học xã
hội – Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam với đề tài: “Thế chấp bằng
quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật
Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng”;
- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của Ngô Ngọc Linh, Khoa Luật –
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội viết về đề tài “Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
là bất động sản qua thực tiễn hoạt động tại các tổ chức tín dụng”;
- Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh năm 2014 của Trần Công Sinh,
Đại học Đà Nẵng với đề tài: “Hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài
sản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Chi nhánh Hải
Châu”;
- Bài viết với tựa đề: “Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo bằng tiền vay
là quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số
khuyến nghị” của TS. Đặng Công Tráng (Khoa Luật - Trường Đại học Công
nghiệp Tp. Hồ Chí Minh), Phùng Thùy Dương (Giảng viên Trường Đại học
Trà Vinh) và TS. Hồ Hữu Tuấn (Giảng viên Trường Đại học Công nghiệp Tp.
Hồ Chí Minh).
Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên đây đã giải
quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay. Tuy nhiên, các công trình này chưa có sự nghiên cứu, liên hệ với
thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng TMCP Bản Việt. Vì thế,
2
công trình nghiên cứu này của tác giả có thể xem là có tính mới, đáp ứng yêu
cầu đối với một luận văn thạc sĩ theo quy định hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay; thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung
và Ngân hàng TMCP Bản Việt nói riêng.
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần nói chung và Ngân
hàng TMCP Bản Việt nói riêng.
- Nhận diện những quy định có tính mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập và
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, lý thuyết liên quan
đến giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; các quy định pháp
luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại các ngân hàng thương mại cổ phần nói chung và Ngân hàng TMCP Bản Việt
nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận về xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay; thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân
hàng TMCP Bản Việt trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu và thực hiện dựa trên phương pháp phân tích,
3
so sánh đối chiếu, thống kê tình huống, số liệu thực tiễn từ hoạt động xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần nhằm đưa ra nhận
định và góc nhìn bao quát về hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và từ đó,
đề xuất hướng giải quyết tối ưu khi các ngân hàng thương mại thực hiện việc
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Khi việc nghiên cứu đề tài mang lại tính hiệu quả trong thực tiễn áp dụng
pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong
quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần,
giải quyết được những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện thì điều
này mang lại những ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng như sau:
Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật;
Thứ hai, luận văn góp phần hệ thống hóa pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại tạo nên sự thống nhất và đồng bộ
trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ ba, luận văn góp phần phổ biến kiến thức, giúp các bên có liên quan
trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại
hiểu rõ bản chất giao dịch, chức năng và vai trò của mình trong quá trình tham
gia vào giao dịch đó. Từ đó, các bên có liên quan có đủ cơ sở pháp lý để thực
hiện, tuân thủ, tránh việc vi phạm pháp luật và hạn chế các tranh chấp hoặc rủi
ro pháp lý có thể xảy ra trong quá trình giao dịch.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay và
4
pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của
ngân hàng thương mại và thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Bản Việt.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN
VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của
ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương
mại
“Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay” không phải là một khái niệm được quy
định cụ thể trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Để đưa ra định nghĩa thuyết phục về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay,
có lẽ trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái niệm tiền đề là “tài sản bảo
đảm tiền vay” và “giao dịch bảo đảm tiền vay”.
Về khái niệm “tài sản bảo đảm”, mặc dù không có một định nghĩa chính
thức về TSBĐ nhưng tại Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015, nhà làm luật Việt Nam
đã đưa ra một số dấu hiệu để xác định thế nào TSBĐ, theo đó:
(i) TSBĐ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm
giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu;
(ii) TSBĐ có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được;
(iii) TSBĐ có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương
lai;
(iv) Giá trị của TSBĐ có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ
được bảo đảm.
Bên cạnh việc xác định các dấu hiệu của TSBĐ, nhà làm luật còn đưa ra
một số quy định về nghĩa vụ được bảo đảm nhằm làm cơ sở cho việc xác định
mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với nghĩa vụ được bảo đảm. Cụ thể là,
Điều 293 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc
6
toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa
thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được
bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại. Nghĩa
vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc
nghĩa vụ có điều kiện. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa
vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín dụng
với khách hàng, nghĩa vụ được bảo đảm chính là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả
gốc và lãi của khách hàng vay đối với tổ chức tín dụng. Nghĩa vụ này phát sinh
trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn để
thỏa mãn nhu cầu kinh doanh hoặc tiêu dùng và việc thực hiện nghĩa vụ được
bảo đảm bằng tài sản của bên bảo đảm dưới hình thức cầm cố, thế chấp hoặc
bảo lãnh. Trong trường hợp bên vay không trả được nợ cho tổ chức tín dụng thì
TSBĐ sẽ được đưa ra xử lý theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của
pháp luật.
Về lý thuyết, giữa TSBĐ và việc xử lý TSBĐ có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ, nếu TSBĐ đáp ứng tốt các điều kiện theo quy
định đối với TSBĐ thì việc xử lý TSBĐ sẽ dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Ngược
lại, nếu TSBĐ không đáp ứng được hoặc chỉ đáp ứng ở mức độ tối thiểu thì
việc xử lý TSBĐ sẽ trở nên khó khăn hơn và thậm chí không thể xử lý được để
thu hồi nợ cho NHTM. Xử lý TSBĐ chính là việc ngân hàng thực hiện các biện
pháp đối với TSBĐ tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ. Trong các văn bản
pháp luật đã ban hành cho tới thời điểm này, chưa có một văn bản nào đưa ra
định nghĩa cụ thể và chính xác về xử lý TSBĐ tiền vay.
Vậy, về phương diện lý thuyết, có thể định nghĩa như thế nào về thuật
ngữ “xử lý tài sản bảo đảm”?
Như đã đề cập ở trên, hiện tại không có một định nghĩa chính thức nào
7
trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định về “xử lý tài sản
bảo đảm”. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu vấn đề này trong các tài liệu đã
được công bố, tác giả luận văn cho rằng có thể đưa ra khái niệm về xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay như sau:
Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là việc các bên tham gia giao dịch bảo
đảm áp dụng những cách thức, biện pháp theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật để xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng
trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.
1.1.2. Đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng
thương mại
Định nghĩa trên đây cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay có
những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Trên phương diện lý thuyết, do việc bảo đảm tiền vay là nhằm bảo vệ
quyền lợi cho chủ nợ (bên nhận bảo đảm) nên chủ thể tham gia xử lý TSBĐ
tiền vay cũng chủ yếu là chủ nợ - với tư cách là bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên,
do việc xử lý TSBĐ tiền vay còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu TSBĐ (bên bảo đảm) nên về lý thuyết, chủ thể này cũng tham gia
vào quan hệ xử lý TSBĐ, với mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Ngoài ra, trong trường hợp có thỏa thuận, các bên có thể thống nhất lựa
chọn bên thứ ba để tiến hành các hoạt động xử lý TSBĐ (ví dụ: Trung tâm bán
đấu giá tài sản…).
Thứ hai, về thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Trên nguyên tắc, thời điểm xử lý TSBĐ tiền vay là thời điểm bên vay vi
phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng tín dụng mà bên cho vay không
đồng ý cho gia hạn nợ hoặc cơ cấu nợ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các bên
8
thỏa thuận bên nhận bảo đảm có quyền xử lý TSBĐ tiền vay khi bên vay sử
dụng vốn sai mục đích, do đó tổ chức tín dụng có quyền thu hồi nợ vay trước
hạn và có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi đủ số nợ này (cả gốc và lãi).
Việc xác định thời điểm xử lý TSBĐ tiền vay có ý nghĩa rất quan trọng
đối với các bên tham gia giao dịch bảo đảm, bởi lẽ, thời điểm xử lý TSBĐ tiền
vay cho phép xác định thời điểm thực hiện quyền của bên nhận bảo đảm và
nghĩa vụ của bên bảo đảm đối với TSBĐ.
Thứ ba, về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Việc xử lý TSBĐ tiền vay có liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên,
trong đó chủ yếu gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Do vậy, hoạt động
này cần tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, cụ thể là:
(i) Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm và
bên nhận bảo đảm trong quá trình xử lý TSBĐ. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử
lý TSBĐ không được gây thiệt hại cho lợi ích của bên bảo đảm (với tư cách là
chủ tài sản) cũng như lợi ích của bên nhận bảo đảm (với tư cách là chủ nợ có
bảo đảm). Việc chuyển giao tài sản để bán, xác định giá bán, tổ chức bán TSBĐ
phải công khai, minh bạch và bám sát cơ chế thị trường nhằm đảm bảo tối ưu
quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên trong giao dịch bảo đảm.
(ii) Nguyên tắc xử lý nhanh chóng, kịp thời, giảm thiểu chi phí trong quá
trình xử lý tài sản. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử lý TSBĐ phải được các bên
liên quan tiến hành một cách nhanh chóng, dứt điểm, không kéo dài, đơn giản
hóa thủ tục nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ đúng trình tự do pháp luật quy
định nhằm giảm thiểu chi phí cho các bên trong quá trình xử lý TSBĐ.
(iii) Nguyên tắc ưu tiên xử lý TSBĐ theo thỏa thuận của các bên, trường
hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ, không thể thực hiện được
thì xử lý theo quy định chung của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên
phải ưu tiên áp dụng các phương thức xử lý TSBĐ đã được thỏa thuận trong
9
giao dịch bảo đảm. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ
ràng, không thể áp dụng được thì mới xử lý theo các phương thức mà pháp luật
đã quy định nhằm đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
Trong pháp luật thực định Việt Nam hiện nay, nhà làm luật đã quy định
một số nguyên tắc xử lý TSBĐ tại Điều 58 Nghị định số 163. Tuy nhiên, các
nguyên tắc này cần được bàn luận thêm ở chương 2 để làm rõ hơn về tính hợp
lý của nó trong quá trình thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Việc xử lý TSBĐ tiền vay được thực hiện thông qua các phương thức cơ
bản gồm: bán TSBĐ tiền vay cho bên thứ ba để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng;
chuyển quyền sở hữu TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để khấu trừ nợ… Suy cho
cùng, các phương thức xử lý TSBĐ tiền vay thực chất là biến các TSBĐ thành
tiền để thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm hoặc dùng chính TSBĐ để khấu trừ
nợ với bên chủ nợ có bảo đảm.
Thứ năm, về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Về bản chất, trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay chỉ là các bước cần
thực hiện để xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật hoặc theo các bên thỏa
thuận chứ không phải là thủ tục hành chính vì nó không liên quan đến các cơ
quan hành chính nhà nước.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Căn cứ pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại
Về lý thuyết, việc xử lý TSBĐ tiền vay là những hành vi pháp lý của các
bên liên quan như bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm, bên thứ ba được ủy quyền
hoặc được chỉ định xử lý TSBĐ. Do vậy, việc thực hiện các hành vi pháp lý
này sẽ phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định để đảm bảo tính hợp pháp
10
cho việc thực hiện.
Trên nguyên tắc, việc xử lý TSBĐ tiền vay được thực hiện dựa trên cơ
sở pháp lý là các quy định pháp luật và các thỏa thuận giữa bên bảo đảm với
bên nhận bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm về vấn đề xử lý TSBĐ tiền vay. Về
lý thuyết, do việc xử lý TSBĐ tiền vay vốn dĩ liên quan đến quyền lợi tư của
các bên (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) nên cần ưu tiên xử lý theo thỏa
thuận của các bên, trường hợp các bên không có thỏa thuận thì mới xử lý theo
quy định của pháp luật.
Phần dưới đây của luận văn sẽ phân tích rõ hơn về các căn cứ này.
Trước hết, về căn cứ pháp lý là hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là văn bản pháp lý thể hiện mối quan hệ bảo
đảm nghĩa vụ dân sự phát sinh giữa bên bảo nhận bảo đảm là ngân hàng với
bên bảo đảm (có thể là người vay hoặc người thứ ba). Đây chính là cơ sở pháp
lý chủ yếu để thực hiện việc xử lý TSBĐ, bởi lẽ trong hợp đồng này các bên
thường thỏa thuận rõ về các trường hợp phải xử lý TSBĐ; điều kiện xử lý
TSBĐ; quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình xử lý TSBĐ; các phương
thức xử lý TSBĐ; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán TSBĐ; hậu quả pháp lý
của việc xử lý TSBĐ; cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc xử lý
TSBĐ tiền vay.
Trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay, các bên phải ưu tiên xử lý TSBĐ
theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay đã ký kết, bao gồm thỏa thuận
về:
(i) các trường hợp xử lý TSBĐ;
(ii) điều kiện xử lý TSBĐ;
(iii) quyền nghĩa vụ của các bên trong việc xử lý TSBĐ;
(iv) các phương thức xử lý TSBĐ; và
(v) thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán TSBĐ.
11
Thứ hai, về căn cứ pháp lý là quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay
Pháp luật quy định một số vấn đề cơ bản về xử lý TSBĐ tiền vay để làm
căn cứ cho việc xử lý TSBĐ trong trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo
đảm không có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Thông thường, các quy định cơ bản về xử lý TSBĐ tiền vay thường được pháp
luật quy định bao gồm:
(i) Các quy định về nguyên tắc xử lý TSBĐ tiền vay.
Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay pháp luật quy định các bên phải tuân
thủ một số nguyên tắc khi xử lý TSBĐ tiền vay, cụ thể là: Nguyên tắc thoả
thuận; nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao
dịch bảo đảm tiền vay; nguyên tắc xử lý TSBĐ công khai, khách quan; nguyên
tắc xử lỷ TSBĐ nhanh chóng.
(ii) Các quy định về những trường hợp xử lý TSBĐ tiền vay.
Ở Việt Nam, Điều 299 BLDS 2015 quy định các bên được xử lý TSBĐ
tiền vay trong những trường hợp sau: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;
bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi
phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; trường hợp khác
do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.
(iii) Các quy định về phương thức xử lý TSBĐ tiền vay.
Pháp luật Việt Nam đã quy định một số phương thức xử lý TSBĐ tiền
vay như:
a) bán TSBĐ;
b) bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực
hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
c) bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người
12
thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; và
d) các phương thức khác do các bên thoả thuận.
Ngoài các trường hợp xử lý tài sản nêu trên, các bên có quyền xử lý tài
sản theo thỏa thuận mà không phụ thuộc vào yếu tố vi phạm hoặc thời hạn của
nghĩa vụ được bảo đảm. Ví dụ: Ngân hàng nhận thế chấp của khách hàng tài
sản và thỏa thuận xử lý TSBĐ, theo đó, ngân hàng nhận chuyển nhượng TSBĐ
đó của khách hàng và thanh toán lại số tiền chênh lệch cho khách hàng mà
không phụ thuộc vào yếu tố vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ hoặc thời hạn trả
nợ hoặc trường hợp pháp luật quy định TSBĐ có nguy cơ bị hư hỏng dẫn đến
bị giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo đảm có quyền xử
lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm
khác về việc xử lý tài sản đó [3, Điều 30].
(iv) Các quy định về trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay.
Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay, pháp luật đã có quy định
tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục xử lý TSBĐ tiền vay bao gồm những bước
nào, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan ra sao và hậu quả
pháp lý của các thủ tục đó trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay.
1.2.2. Quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân
hàng thương mại
Về lý thuyết, quan hệ pháp luật về xử lý TSBĐ tiền vay là quan hệ phát
sinh giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm và/hoặc bên thứ ba trong quá
trình xử lý TSBĐ tiền vay. Quan hệ pháp luật này có thể được mô tả bởi các
nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại.
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật về xử lý
TSBĐ tiền vay của NHTM chính là sự kiện pháp lý đã được ghi nhận trong hợp
13
đồng bảo đảm tiền vay hoặc được ghi nhận trong pháp luật thực định. Về thực
chất, những sự kiện pháp lý này chính là các trường hợp được xử lý TSBĐ tiền
vay do các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc do pháp luật quy định, chẳng
hạn như: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; bên có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của luật; trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc
luật có quy định.
Thứ hai, về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay của ngân hàng thương mại.
Trên nguyên tắc, quan hệ pháp luật về xử lý TSBĐ tiền vay có thể phát
sinh giữa các chủ thể sau đây: Bên bảo đảm; bên nhận bảo đảm; bên thứ ba
được xác định có quyền tham gia xử lý TSBĐ.
Bên bảo đảm có quyền tham gia quan hệ xử lý TSBĐ tiền vay là bởi vì,
chính họ là chủ sở hữu của TSBĐ, do đó họ đương nhiên có quyền tham gia
vào quan hệ xử lý TSBĐ để thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của mình liên quan đến TSBĐ, ví dụ như: có nghĩa vụ chuyển giao TSBĐ cho
bên có quyền xử lý TSBĐ để xử lý, tham gia vào việc định giá TSBĐ cũng như
việc bán TSBĐ nhằm bảo vệ các quyền, lợi ich hợp pháp của mình.
Bên nhận bảo đảm (tổ chức tín dụng) có quyền tham gia quan hệ xử lý
TSBĐ tiền vay là bởi vì, TSBĐ được đưa ra xử lý là tài sản để bảo đảm cho
nghĩa vụ của bên vay đối với chính bên bảo đảm. Do vậy, họ đương nhiên có
quyền tham gia quan hệ xử lý TSBĐ để thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình phát sinh từ việc xử lý TSBĐ, ví dụ như: quyền yêu cầu
bên bảo đảm hoặc bên cầm giữ tài sản chuyển giao TSBĐ để xử lý; quyền tham
gia vào việc định giá TSBĐ trước khi xử lý; quyền trực tiếp xử lý TSBĐ hoặc
thuê bên thứ ba xử lý TSBĐ (chẳng hạn như trung tâm bán đầu giá tài sản);
14
quyền được hưởng các khoản thanh toán từ tiền bán TSBĐ.
Bên thứ ba được chỉ định tham gia xử lý tài sản về thực chất không có
quyền lợi nào trực tiếp liên quan đến TSBĐ. Tuy nhiên, họ có thể sẽ được pháp
luật chỉ định hoặc các bên liên quan (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) thỏa
thuận giao quyền tổ chức việc xử lý TSBĐ nhằm đảm bảo tính khách quan,
minh bạch và cân bằng lợi ích giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm trong
quá trình xử lý TSBĐ.
Thứ ba, về nội dung của quan hệ pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của ngân hàng thương mại.
Về lý thuyết, nội dung của quan hệ xử lý TSBĐ tiền vay của NHTM
chính là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ xử lý TSBĐ tiền
vay, bao gồm quyền và nghĩa vụ của bên bảo đảm; quyền và nghĩa vụ của bên
nhận bảo đảm; quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba được chỉ định xử lý TSBĐ.
Thực tế cho thấy, các quyền nghĩa vụ này thường được pháp luật của các nước
ghi nhận và các bên cũng có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay
để có căn cứ pháp lý cho việc thực hiện trong quá trình xử lý TSBĐ tiền vay.
Chương 2 tiếp theo của luận văn sẽ phân tích rõ hơn về thực trạng các
nhóm quy phạm pháp luật này ở Việt Nam hiện nay để từ đó chỉ ra những hạn
chế, bất cập của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Trên cơ
sở đó, luận văn sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Đề án cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng gắn liền với xử lý nợ xấu của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.
Kết luận chương 1
Tác giả muốn trình bày chi tiết những vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm là
một trong những cách thức để các ngân hàng thương mại vận dụng một cách
linh hoạt, hiệu quả và an toàn nhằm đảm bảo nguồn tín dụng đã cấp cho khách
15
hàng không bị thất thoát, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động kinh doanh cũng như tiêu dùng của khách hàng. Việc nắm bắt tường
tận những nguyên lý cơ bản trong việc nhận bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài
sản bảo đảm một cách rõ ràng và chặt chẽ để có thể áp dụng vào hệ thống quy
định nội bộ của ngân hàng thương mại, áp dụng các quy định của pháp luật đối
với khách hàng và những người có liên quan để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa
vụ dân sự của họ đối với ngân hàng, đồng thời để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của ngân hàng, không gây bất lợi đến chủ sở hữu tài sản bảo đảm và phù
hợp quy định pháp luật.
Đồng thời, việc xem xét những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay và pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương
mại tại chương này này cũng là tiền đề để đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu, tổng
hợp những vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn
thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại trong
chương tiếp theo, từ đó tìm ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền
vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay trong chương 3.
16
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẢN VIỆT
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của ngân hàng thương mại
Theo quy định của BLDS 2015, việc xử lý TSBĐ tiền vay của NHTM
được thực hiện dựa trên nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên có liên quan (bên bảo đảm,
bên nhận bảo đảm) về việc xử lý tài sản bảo đảm.
Đây là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xử lý
TSBĐ tiền vay. Theo nguyên tắc này, việc xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên
thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên. Nếu không có thỏa thuận thì các bên
mới thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm.
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm,
của cá nhân, tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc này được thiết lập nhằm bảo vệ lợi ích của bên bảo đảm có
tài sản bị đưa ra xử lý, đồng thời bảo đảm sự cân bằng giữa quyền của bên nhận
bảo đảm (NHTM) và bên bảo đảm, trong đó, nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay là
mục tiêu mà pháp luật hướng tới.
Thứ ba, nguyên tắc xử lý TSBĐ phải đảm bảo tính kịp thời, nhanh
chóng, tiết kiệm và giảm thiểu chi phí cho các bên liên quan.
Đây là nguyên tắc rất cần thiết trong việc xử lý TSBĐ tiền vay, nếu được
17
tuân thủ sẽ hạn chế được thiệt hại trong trường hợp TSBĐ bị hư hại, giảm giá
trị hoặc thậm chí làm tăng chi phí trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
Thứ tư, nguyên tắc xác định rõ và thực hiện đúng thẩm quyền xử lý tài
sản bảo đảm.
Theo Nghị định số 163 và Nghị định số 11, nhà làm luật đã quy định
người xử lý TSBĐ là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy
quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.
Căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, người xử lý
TSBĐ có quyền tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có văn bản ủy quyền
xử lý tài sản của bên bảo đảm.
Thứ năm, nguyên tắc xử lý TSBĐ phải trên cơ sở những nội dung đã
thoả thuận tại các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã được ký kết giữa
NHTM với khách hàng vay và/hoặc (các) bên bảo đảm để thu hồi nợ, không
phải là hoạt động kinh doanh tài sản bảo đảm. Trong thời hạn 03 năm, kể từ
ngày quyết định xử lý TSBĐ là bất động sản, NHTM phải bán, chuyển nhượng
hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định và
mục đích sử dụng tài sản cố định của ngân hàng theo quy định của pháp luật
[16, Điều 132].
Gần đây, nhà làm luật đã ghi nhận tại Điều 3 Nghị quyết 42 về việc thí
điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, trong đó có quy định về một số nguyên
tắc xử lý TSBĐ như sau:
(i) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải bảo đảm công khai,
minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan;
(ii) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải phù hợp với cơ chế
thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và
18
giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;
(iii) Nguyên tắc không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong
quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể nhận thấy đây là những nguyên tắc cơ bản và mang tính
tổng quan khi xử lý TSBĐ.
2.1.2. Thực trạng quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của ngân hàng thương mại
Theo quy định hiện hành, việc xử lý TSBĐ tiền vay sẽ được thực hiện
theo những phương thức cơ bản sau:
Thứ nhất, phương thức bán tài sản bảo đảm cho bên thứ ba.
Việc bán tài sản được thực hiện bằng một trong hai phương thức: Một
là, bên nhận bảo đảm hoặc người được ủy quyền chủ động bán TSBĐ (bán
không thông qua bên thứ ba) hoặc bán đấu giá TSBĐ (bán thông qua bên thứ
ba là doanh nghiệp đấu giá tài sản). Đối với việc bán TSBĐ qua đấu giá thì thực
hiện theo pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Đối với việc bán tài sản không qua đấu giá, thực tế khi thực hiện theo
quy định tại Nghị định 163 đã phát sinh vướng mắc như sau: nếu các bên không
thỏa thuận về giá bán TSBĐ tại hợp đồng bảo đảm thì khi bán TSBĐ sẽ xác
định giá bán như thế nào. TTLT 16 (Điều 10) quy định về cách thức xác định
giá bán TSBĐ trong trường hợp bán tài sản không qua đấu giá như sau: ưu tiên
ghi nhận thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không thỏa thuận được
giá bán TSBĐ thì ưu tiên bên bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có
chức năng thẩm định giá để xác định giá bán tài sản. Nếu bên bảo đảm không
chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm có
quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá
bán tài sản.
19
Trong trường hợp không bán được TSBĐ theo giá định giá của cơ quan,
tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ giá
bán tài sản. Việc hạ giá bán tài sản thực hiện liên tục ba (03) lần nhưng mỗi lần
hạ giá bán tài sản không được quá mười phần trăm (10%) giá đã định và phải
cách nhau ít nhất là ba mươi ngày (30) ngày đối với bất động sản và mười lăm
(15) ngày đối với động sản.
Sau ba (03) lần liên tục hạ giá mà vẫn không bán được TSBĐ thì bên
nhận bảo đảm được nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Giá trị TSBĐ trong trường hợp này là mức giá của lần hạ giá cuối cùng, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ hai: phương thức bên nhận bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.
Để góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc trên thực tế xử lý tài
sản bảo đảm, Nghị định số 11 đã bổ sung quy định về việc xử lý TSBĐ theo
phương thức này như sau:
(i) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng
thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của TSBĐ;
(ii) Trong trường hợp giá trị của TSBĐ lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được
bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên
bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
(iii) Bên nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ phải
xuất trình văn bản chứng minh quyền được xử lý TSBĐ và kết quả xử lý TSBĐ
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng
TSBĐ từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm.
Tuy nhiên, Nghị định số 11 không quy định các bên phải ký kết hợp đồng
mua bán, chuyển nhượng trong trường hợp nhận chính TSBĐ để thay thế cho
việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và về bản chất việc nhận chính TSBĐ
20
để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm là biện pháp cấn trừ nợ,
khác với việc mua bán, chuyển nhượng tài sản. Thực tế cho thấy, có nhiều cơ
quan công chứng, đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản yêu cầu TCTD
phải xuất trình hợp đồng mua bán tài sản với chủ sở hữu tài sản thì mới làm thủ
tục công chứng, sang tên cho TCTD.
Xuất phát từ vướng mắc thực tế này, Thông tư liên tịch số 16 đã quy định
rõ thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng). Theo đó, hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản thỏa
thuận khác về việc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
của bên bảo đảm được sử dụng thay thế cho hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển
quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ.
Thứ ba, bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ
người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ.
Do quyền đòi nợ là một loại tài sản đặc biệt nên Điều 59 Nghị định 163
về các phương thức xử lý TSBĐ theo thỏa thuận đã dành riêng khoản 3 để quy
định về phương thức xử lý TSBĐ này. Theo đó, bên nhận thế chấp quyền đòi
nợ nhận các khoản tiền được hiểu là giá trị của khoản nợ đến hạn hoặc tài sản
từ người thứ ba (người có nghĩa vụ trả nợ). Như vậy, phương thức bán trực tiếp
TSBĐ sẽ không phù hợp khi áp dụng để xử lý TSBĐ là quyền đòi nợ, bởi vì dù
tài sản là quyền đòi nợ được thế chấp nhưng chính đối tượng của quyền đòi nợ
tức là khoản tiền sẽ thu được trong tương lai khi đến hạn. Bên nhận bảo đảm
có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài
sản khác.
Trong trường hợp quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn trước nghĩa vụ
được bảo đảm thì nhà làm luật đã quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 22 Nghị
định 163 như sau: bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền từ chối thanh toán cho bên
nhận thế chấp nếu bên nhận thế chấp không cung cấp thông tin về việc thế chấp
21
quyền đòi nợ cho bên có nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, nếu bên nhận thế chấp thận
trọng và đã thực hiện việc thông báo này thì sẽ được quyền yêu cầu bên có
nghĩa vụ trả nợ thanh toán nợ cho mình. Tuy vậy, Điểm a, Khoản 2, Điều 22,
Nghị định 163 lại giới hạn việc thực hiện quyền ưu tiên thanh toán này của bên
nhận thế chấp quyền đòi nợ ở mỗi một trường hợp là khi đến hạn mà bên có
nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn trước quyền đòi nợ được
thế chấp thì nhà làm luật đã quy định tại Điểm a Khoản 2 và 3 Điều 22 Nghị
định 163 như sau: bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền yêu cầu bên có
nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán cho mình khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ (bên
thế chấp) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và bên có nghĩa
vụ trả nợ phải thực hiện việc thanh toán cho bên nhận thế chấp. Trong trường
hợp nghĩa vụ được bảo đảm và quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn cùng một
lúc thì đương nhiên việc áp dụng quy định này không đặt ra vấn đề gì. Tuy vậy
không phải lúc nào thời điểm đến hạn của nghĩa vụ được bảo đảm và thời điểm
đến hạn của quyền đòi nợ cũng trùng nhau.
Trường hợp lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp, theo quy định
Điều 174 BLDS 2005, Điều 107 BLDS 2015, quyền tài sản không được liệt kê
trong danh sách bất động sản nên áp dụng nguyên tắc loại trừ, quyền tài sản
(trong đó có quyền đòi nợ) đều là động sản.
Như vậy, khi áp dụng Khoản 1 Điều 342 của BLDS 2005, Điều 318
BLDS 2015, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên nhận thế chấp sẽ
được nhận cả nợ gốc và tiền lãi của quyền đòi nợ nhằm thanh toán nghĩa vụ
được bảo đảm. Khi quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền, BLDS không
quy định rõ thứ tự việc thanh toán khoản gốc và khoản lãi của nghĩa vụ được
bảo đảm trong trường hợp thanh toán từng phần tức là các khoản tiền thu được
từ việc xử lý quyền đòi nợ không đủ để thanh toán toàn bộ nghĩa vụ được bảo
22
đảm. BLDS chỉ quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay thì
thanh toán cho bên nhận bảo đảm theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại (nếu có).
2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay của ngân hàng thương mại
Trong BLDS năm 2015, nhà làm luật đã quy định cơ bản một số trình tự,
thủ tục mà các NHTM cần tuân thủ trước và trong khi thực hiện xử lý TSBĐ
để thu hồi nợ như sau:
Thứ nhất, thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 300, BLDS 2015 quy định: trừ trường hợp TSBĐ
có nguy cơ bị hư hỏng, về nguyên tắc “trước khi xử lý TSBĐ, bên nhận bảo
đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp lý về việc xử lý TSBĐ
cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác”. Vấn đề ở đây là cần
phải hiểu “thời hạn hợp lý” là bao nhiêu ngày? Có sự khác biệt khi TSBĐ là
động sản và khi TSBĐ là bất động sản hay không? Liệu các bên có thể thỏa
thuận rõ một thời hạn thông báo trong hợp đồng bảo đảm? Hơn nữa, khoản 2,
Điều 300 quy định “trường hợp bên nhận bảo đảm không thông báo về việc xử
lý TSBĐ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bảo đảm, các bên cùng
nhận bảo đảm khác”. Dù quy định này không nêu rõ liệu nếu không thực hiện
việc thông báo về việc xử lý TSBĐ thì sẽ có tác động nào đến việc xử lý TSBĐ
nhưng có thể nhận định rằng, việc không thông báo không ảnh hưởng đến quá
trình xử lý bảo đảm và ngân hàng chỉ phải bồi thường thiệt hại nếu như việc
không thực hiện việc thông báo này dẫn tới thiệt hại cho các bên liên quan.
Trên thực tế khi thực hiện thủ tục thông báo trước theo quy định này, các
NHTM gặp không ít khó khăn. Do đa phần khi khoản nợ chuyển quá hạn hoặc
chuyển nợ xấu, bên bảo đảm, Khách hàng không còn hợp tác với Ngân hàng
trong việc xử lý TSBĐ, hoặc một phần Khách hàng, Bên bảo đảm thường xuyên
23
thay đổi địa chỉ cư trú gây khó khăn cho việc thông báo xử lý TSBĐ của ngân
hàng. Các quy định của pháp luật cũng chưa hướng dẫn cụ thể về việc ngân
hàng chỉ cần chứng minh có gửi Thông báo cho khách hàng, bên bảo đảm theo
đúng địa chỉ đã cung cấp trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm hay phải
đảm bảo việc họ phải nhận được Thông báo và biết về việc ngân hàng xử lý
TSBĐ.
Thứ hai, tổ chức định giá tài sản bảo đảm.
Khoản 2, Điều 306, BLDS 2015 đã đặt ra yêu cầu “việc định giá tài sản
bảo đảm phải bảo đảm khách quan, phù hợp với giá thị trường”. Đây là một
yêu cầu phù hợp nhằm tránh việc TSBĐ được định giá dưới mức giá thị trường
(nhất là trong trường hợp bên nhận bảo đảm tự bán TSBĐ để xử lý); và vì thế,
ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bảo đảm. Tuy nhiên, nếu đọc Điều 306 thì
vẫn chưa rõ liệu yêu cầu này có áp dụng cho trường hợp bên nhận bảo đảm và
bên bảo đảm thỏa thuận về giá TSBĐ hay không, nhất là khi mức giá thỏa thuận
rõ ràng thấp hơn mức giá thị trường của TSBĐ? Hơn nữa, do Khoản 3, Điều
306 chỉ nêu chế tài bồi thường thiệt hại áp dụng cho hành vi vi phạm của tổ
chức định giá trong quá trình định giá tài sản, nên liệu có thể hiểu tinh thần của
BLDS 2015 là yêu cầu định giá phù hợp với giá thị trường chỉ áp dụng cho việc
định giá thông qua tổ chức định giá hay không? Thiết nghĩ, cần đi theo hướng
này bởi nó tôn trọng sự thỏa thuận của các bên: ngân hàng chỉ phải bồi thường
thiệt hại nếu bên bảo đảm chứng minh được việc bị cưỡng ép trong việc xác
định giá TSBĐ. Cách tiếp cận này, cũng phù hợp với tinh thần của điểm c,
khoản 3, Điều 104, Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11
năm 2015; theo đó, Tòa án chỉ can thiệp định giá tài sản trong trường hợp “các
bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá
thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm
trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy
24
tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá”.
Thứ ba, giao tài sản bảo đảm để xử lý.
Điều 301 BLDS 2015 quy định “người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao
TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý [...]. Trường hợp người đang giữ tài sản
không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết,
trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Có thể thấy, không nhất thiết
phải quy định về quyền yêu cầu Tòa án can thiệp như trong điều luật này bởi
vì đây là một quyền hiển nhiên được pháp luật thừa nhận: chủ thể của một
quyền nhất định luôn có thể yêu cầu Tòa án can thiệp để thực hiện quyền đó
của mình. Thêm vào đó, điều luật này cũng như khoản 5 Điều 323 (áp dụng đối
với trường hợp thế chấp) chỉ nêu quyền của bên nhận bảo đảm được yêu cầu
bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ TSBĐ giao tài sản đó cho mình để xử lý,
chứ chưa đề cập đến quyền thu giữ TSBĐ để xử lý. Các yếu tố này khiến một
số người lo ngại việc nhà làm luật chủ định bỏ quyền thu giữ TSBĐ để xử lý
của ngân hàng.
Về điểm này cần lưu ý, Điều 307, BLDS 2015 có nhắc đến “chi phí thu
giữ”. Liệu có thể hiểu là điều luật này gián tiếp công nhận quyền thu giữ TSBĐ
để xử lý của bên nhận bảo đảm? Thông thường, bên thứ ba mua TSBĐ thường
chỉ yên tâm mua tài sản (ngay cả khi TSBĐ được bán đấu giá) khi ngân hàng
đang quản lý hay nắm giữ được TSBĐ. Tương tự, quyền thu giữ cũng phát huy
được tác dụng khi bên bảo đảm bỏ trốn hay không hợp tác, khi đó ngân hàng
sẽ lập biên bản thu giữ có xác nhận của cơ quan công quyền và sau đó, tiến
hành bán đấu giá tài sản. Hơn nữa, khả năng tìm kiếm sự hỗ trợ của các cơ quan
công quyền (Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an) trong
việc thu giữ TSBĐ để xử lý cũng không được ghi nhận trong BLDS 2015 trong
khi trong thực tế, một số ngân hàng triển khai một cách khá hiệu quả cơ chế
này. Quy định về trình tự thủ tục thu giữ để xử lý TSBĐ hiện nay được quy
25
định cụ thể, chi tiết hơn tại Nghị quyết 42. Tại Điều 7, Nghị quyết 42 đã quy
định khá chi tiết về trình tự thủ tục thu giữ TSBĐ về: thời gian, địa điểm phải
tiến hành niêm yết, thông báo trước khi thực hiện thủ tục thu giữ TSBĐ, việc
đăng tải thông tin công khai, gửi văn bản, thông báo cho cơ quan có thẩm quyền
(Ủy ban nhân dân, cơ quan Công an) … phải được các NHTM tuân thủ đúng
các thủ tục trên theo quy định của pháp luât [18, Điều 7].
Có thể thấy, các quy định mới của BLDS 2015 về xử lý TSBĐ tuy ít
nhiều có bước đột phá nhưng còn bộc lộ khá nhiều hạn chế. Đây là một điều
thực sự đáng tiếc, nhất là trong bối cảnh ngân hàng còn gặp khá nhiều khó khăn
khi xử lý TSBĐ như hiện nay.
Từ các quy định chung của BLDS 2015, luật chuyên ngành có liên quan
như Luật đấu giá tài sản số 01/2016/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2016 và một
số văn bản hướng dẫn dưới luật, các NHTM đã tự thể chế thành các quy định
cụ thể chi tiết hơn về trình tự thủ tục khi xử lý TSBĐ tiền vay tương ứng theo
từng phương thức xử lý TSBĐ. Ví dụ như: Quyết định số 213/2017/QĐ-TGĐ
của Ngân hàng TMCP Bản Việt, quy định chi tiết về quy trình thu giữ, xử lý
TSBĐ tại Ngân hàng TMCP Bản Việt; Quyết định số 198/2018/QĐ-TGĐ của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 23 tháng 7 năm 2018
quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, quy trình phát mại tài sản thu hồi nợ thông
qua hình thức đấu giá tài sản; Quy trình số 79/2017/QĐ-MB-AMC ngày 20
tháng 02 năm 2017 của Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản
(MBAMC) Ngân hàng TMCP Quân Đội quy định chi tiết về trình tự, thủ tục
nhận chính TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ của Bên bảo đảm.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt
26
2.2.1. Khái quát về tình hình xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Theo số liệu về tình hình xử lý nợ xấu năm 2018 được Ngân hàng Nhà
nước công bố vào ngày 7/1/2019, [10] trong bài báo “Nợ xấu hệ thống Ngân
hàng giảm mạnh cuối năm 2018” đã nêu rõ ước tính đến cuối tháng 12/2018,
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 149,22 nghìn tỷ đồng nợ xấu,
tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng là 1,89%, giảm so với mức
2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 2017. Tỷ lệ 1,89% cũng là mức
thấp nhất ghi nhận kể từ năm 2012 đến nay - thời điểm nợ xấu ngân hàng bắt
đầu được nhận diện một cách đầy đủ và sát thực hơn, với các bước nâng cao
tiêu chuẩn phân loại nợ.
Dù chưa cập nhật cụ thể thêm về nợ tiềm ẩn thành nợ xấu, nhưng mức
nợ xấu nội bảng nói trên đã nằm sâu dưới ngưỡng 2%, ngưỡng mà tại Nghị
quyết số 01 vừa ban hành đầu năm 2019 Chính phủ đặt ra yêu cầu hệ thống
ngân hàng phải đảm bảo thực hiện được cho năm nay.
Tính đến hết năm 2018, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD đã giảm
xuống mức 1,89% (so với mức 1,99% cuối năm 2017 và 2,46% cuối năm 2016)
và tỷ lệ nợ xấu gộp khoảng 6,67% tổng dư nợ, giảm mạnh so với mức 10,08%
vào cuối năm 2016 và 7,36% cuối năm 2017. Trong đó, kết quả xử lý nợ xấu
của VAMC cũng khá khả quan; tính đến hết tháng 8/2018, VAMC đã thu hồi
gần 100.000 tỷ đồng trên 227.000 tỷ đồng nợ gốc đã mua. Đặc biệt là tác động
của Nghị quyết 42 tương đối rõ nét. Theo số liệu từ NHNN, tính từ giữa năm
2012 đến hết tháng 6/2018, toàn hệ thống đã xử lý được 785.930 tỷ đồng nợ
xấu, riêng sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 42, toàn hệ thống đã xử lý
được 138.290 tỷ đồng (tương đương tỷ lệ 17,5% của cả 6 năm qua); trong đó
các TCTD đã xử lý được 58.800 tỷ đồng. Với những bước tiến trong công tác
27
xử lý nợ xấu thời gian qua, mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu gộp về 3% đến cuối năm
2020 là khả thi. [9]
Nhìn vào bảng số liệu ở trên đây, chúng ta sẽ thấy rõ hiệu quả về xử lý
nợ xấu mà Nghị quyết 42 mang lại trên toàn hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu
giảm dần từ 2,55% năm 2015, 2,46% năm 2016, 2% vào năm 2017 và chỉ còn
1,89% trong năm 2018.
Ngoài ra, một điểm cần nhấn mạnh và được xem là một điểm đạt được
rất quan trọng mà Nghị quyết 42 mang lại chính là nhận thức của Bên vay, Bên
bảo đảm trong tình hình các TCTD ráo riết áp dụng biện pháp xử lý tài sản. Sẽ
không còn việc các TCTD chỉ trông cậy vào biện pháp tố tụng tại tòa án với
thời gian kéo dài để xử lý tài sản. Theo Nghị quyết 42, quyền chủ động của các
TCTD trong việc xử lý tài sản được khẳng định, các TCTD được phép chủ động
quyết định biện pháp xử lý tài sản, như là bán nợ, thu giữ tài sản cho dù có hay
không có sự đồng ý của Bên vay, Bên bảo đảm. Việc này vô hình trung tạo một
áp lực rất lớn buộc Bên vay, Bên bảo đảm phải có trách nhiệm trong việc trả
28
nợ và phải hợp tác với các TCTD trong quá trình xử lý nợ nếu không muốn mất
tài sản.
2.2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt
Ngân hàng TMCP Bản Việt được thành lập vào ngày 25 tháng 12 năm
1992 với tên gọi trước đây là Ngân hàng TMCP Gia Định. Ngày 09 tháng 01
năm 2012, Ngân hàng TMCP Gia Định chính thức thay đổi hệ thống nhận diện
thương hiệu, với tên gọi mới là Ngân hàng TMCP Bản Việt (Tên viết tắt là
VCCB). Trải qua suốt 26 năm hoạt động, dư nợ tính đến thời điểm cuối năm
2018 là 29.471 tỷ đồng của tổng số lượng khoản nợ là 37.015, trong đó khoản
nợ xấu phải xử lý theo quy định của pháp luật (nợ nhóm 3,4,5) là: 589 tỷ đồng.
Bảng 2.1: Chi tiết về tình hình dư nợ, nợ quá hạn (NQH) và nợ xấu
(NX) tại VCCB được chia theo nhóm nợ, loại hình qua hai năm 2018-2019
như sau:
Đơn vị: tỷ đồng
Ngày 31/12/2018 Ngày 28/06/2019
Nhóm nợ Cá Doanh Cá Doanh Tổng Tổng nhân nghiệp nhân nghiệp
1 15,247 13,251 28,497 15,592 14,441 30,033
2 273 74 347 310 78 388
3 73 14 87 85 38 123
4 135 102 236 96 36 132
5 137 129 266 200 216 416
Tổng 15,865 13,570 29,434 16,283 14,809 31,092 cộng
%NQH 3.89% 2.35% 3.18% 4.25% 2.48% 3.41%
%NX 2.17% 1.80% 2.00% 2.34% 1.96% 2.16%
29
(Nguồn: Báo cáo tình hình xử lý nợ của Ngân hàng TMCP Bản Việt)
TSBĐ cho khoản nợ phải xử lý này tính đến 31 tháng 12 năm 2018 là:
17.861 tài sản tương đương với giá trị bảo đảm là 47.900 tỷ đồng (bao gồm các
loại TSBĐ như: Bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, giấy
tờ có giá, quyền đòi nợ, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng…).
Để đảm bảo tuân thủ đúng tỷ lệ nợ xấu theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước, cũng như tạo hành lang đảm bảo cho hoạt động thu hồi nợ hiệu quả,
VCCB luôn chú trọng đến việc xây dựng, ban hành các quy định nội bộ dựa
trên các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm để nâng cao hiệu quả
thu hồi nợ như:
(i) Quyết định số 87/2019/QĐ-TGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2019 về việc
ban hành quy định chung về quản lý và thu hồi nợ tại VCCB, theo đó tại Điều
7 đã chi tiết rõ các phương thức xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ tại VCCB
như sau: “Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ: bao gồm nhưng không giới hạn các biện
pháp thu giữ TSBĐ, nhận bàn giao TSBĐ từ KH để quản lý, khai thác, xử lý
TSBĐ, bán TSBĐ để thu hồi nợ. Việc bán tài sản bảo đảm có thể thực hiện
thông qua phương thức bán đấu giá tài sản tại Công ty có chức năng bán đấu
giá hặc bán trực tiếp tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; Nhận chính tài sản bảo
đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm: là biện pháp
VCCB nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
bên bảo đảm nếu có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm”.
(ii) Quyết định số 213/2017/QĐ-TGĐ của Ngân hàng TMCP Bản Việt,
quy định chi tiết về quy trình thu giữ, xử lý TSBĐ để triển khai chi tiết quy
định mới tại Nghị quyết 42 và BLDS 2015.
Tổng quan tình hình xử lý và thu hồi nợ xấu của VCCB từ năm 2015 đến
nay (bao gồm cả bán nợ cho VAMC) như sau:
30
Đơn vị: tỷ đồng
31/12/2015 31/12/2016 31/12/2017 31/12/2018 30/06/2019
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
1. Tổng nợ theo TT
02/2013/TT-NHNN
20,2370
24,2498
29,028
35,408
35,585
2. Xử lý nợ xấu
746
235
913
655
118
- Xử lý thông qua
hình thức sử dụng dự
2,9
2,7
0
0
0
phòng rủi ro
- Xử lý thông qua
212
556
110
hình thức khách hàng
trả nợ
127
232
- Xử lý thông qua
hình thức bán phát
4
99
6
mại tài sản bảo đảm
để thu hồi nợ
- Khác (Bán nợ
VAMC, bán nợ cho
cá nhân khác, mua lại
615,6
0
696,1
0
1,0
khoản nợ, bên thứ 3
trả nợ)
(Nguồn: Báo cáo số liệu thu nợ của VCCB từ năm 2015 tới 30/6/2019)
Áp dụng các quy định của pháp luật và quy định nội bộ của VCCB, tình
hình xử lý tài sản bảo đảm và thu hồi nợ của VCCB ngày càng hiệu quả hơn.
Đặc biệt là sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực thi hành, VCCB đã chủ động hơn
trong việc áp dụng phương thức thu giữ để xử lý tài sản bảo đảm, nhằm nhanh
chóng thu hồi nợ xấu. Hiệu quả thu hồi nợ được thể hiện chi tiết về số thu nợ
31
tại VCCB qua hai năm 2017 và 2018 như sau:
Bảng 2.2. Tình hình thực tế xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ xấu năm
2017, 2018 tại VCCB
ĐVT: tỷ đồng
STT Các biện pháp xử lý nợ xấu 2017 2018
Nợ xấu đã bán cho VAMC trước 1 161 271 15/08/2017 (tính theo giá gốc)
1.1 Đôn đốc thu hồi nợ 74 98
1.2 Thu giữ theo Nghị quyết 42 0 74
1.3 Bán theo giá thị trường 8 27
1.4 Khởi kiện khách hàng vay 79 72
2 Nợ xấu cho vay trước 15/08/2017 229 309
2.1 Đôn đốc thu hồi nợ 133 63
2.2 Bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm 81 101
2.3 Thu giữ theo Nghị quyết 42 6 84
2.4 Khởi kiện khách hàng vaỵ 9 61
Tổng nợ xấu thu hồi 390 580
(Nguồn: Số liệu xử lý tài sản bảo đảm và thu hồi nợ của VCCB năm 2017
và 2018)
2.2.3. Những bất cập và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt
Vấn đề xử lý TSBĐ để thu hồi nợ của NHTM đã được quy định cụ thể
trong các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và được quy định tại thể tại
Nghị quyết 42, Luật Các tổ chức tín dụng, BLDS 2015, Nghị định số 163, Nghị
định số 11, Thông tư liên tịch số 16. Tuy nhiên, việc vận dụng các biện pháp
xử lý TSBĐ theo các quy định nêu trên vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề pháp lý
32
mà quyền của các NHTM chưa được bảo về đầy đủ và chính đáng, dẫn đến hệ
quả pháp lý là ngân hàng vẫn không giải quyết xong quyền và nghĩa vụ của các
bên có liên quan đến khoản nợ vay, và ngân hàng không tự mình nhân danh
chủ sở hữu TSBĐ để xử lý TSBĐ một cách nhanh chóng và hợp lý nếu không
nhận được sự đồng thuận của chính chủ sở hữu TSBĐ đó.
Để làm rõ hơn những vấn đề còn tồn đọng tại VCCB, tác giả đã tổng
hợp, phân loại, phân tích và đưa ra những kết luận về những hạn chế bất cập và
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xử lý TSBĐ tiền vay tại ngân hàng, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc khi triển khai
thực hiện Nghị quyết 42 nói chung và trong việc thu giữ tài sản bảo đảm nói
riêng.
Không thể phủ nhận rằng việc ban hành Nghị quyết 42 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thu giữ cũng như xử lý TSBĐ của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, một số khó khăn trong quá trình xử lý TSBĐ theo Nghị quyết 42 đã
bộc lộ như:
Một là, vướng mắc từ phía các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Sẽ rất bất ngờ khi việc triển khai Nghị quyết 42 lại gặp khó khăn ở chính
các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định là phải phối hợp với các
TCTD trong quá trình triển khai Nghị quyết 42. Trên thực tế, việc triển khai thu
giữ tài sản hiện nay phải tuân thủ đúng Nghị quyết 42 về việc công khai thông
tin về thời gian và địa điểm thu giữ, phối hợp với cơ quan Công an và Ủy ban
nhân dân cấp phường, xã nơi tiến hành thu giữ tài sản trong việc đảm bảo an
ninh trật tự, chứng kiến và ký biên bản thu giữ. Tuy nhiên, trên thực tế, khi triển
khai thu giữ, xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu theo Nghị quyết 42 tại các địa
phương (ngoại trừ Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội), đặc biệt là
vùng sâu vùng xa vẫn gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tại địa phương vẫn
33
chưa mạnh mẽ áp dụng Nghị quyết 42, đặc biệt trong khâu hỗ trợ ngân hàng
khi thu giữ tài sản trong trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác,
dẫn đến việc không thể triển khai biện pháp thu giữ tài sản một cách mạnh mẽ
tại địa phương. Trên thực tế, các cơ quan địa phương đã quen với cách làm việc
cũ là thông qua thủ tục tố tụng, thi hành án, mặt khác, các cơ quan này cũng
chưa được phổ biến và quán triệt tư tưởng về Nghị quyết 42 nên cũng không
nắm rõ tinh thần của Nghị quyết cũng như chưa gặp và chưa có kinh nghiệm
xử lý các trường hợp thu giữ này. Hầu hết thái độ của các Cơ quan này khi nhận
được yêu cầu trợ giúp từ phía các TCTD là sự nghi ngờ về quyền thu giữ của
các TCTD, lo ngại bị khiếu nại, kiện tụng, phiền phức hoặc quay phim chụp
ảnh từ những người xung quanh trong quá trình thu giữ tài sản. Theo đó, các
TCTD phải chuẩn bị thật kỹ về thủ tục, giải thích kỹ và đầy đủ về căn cứ pháp
lý để các cơ quan tại địa phương hiểu rõ và đồng ý hỗ trợ nhưng không phải
trường hợp nào cũng thành công trên thực tế.
Hai là, vướng mắc do điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm theo Nghị quyết
42 có độ vênh nhất định so với thực tế.
Theo Điều 7 Nghị quyết 42, TCTD phải có thỏa thuận về quyền thu giữ
TSBĐ tại Hợp đồng bảo đảm hoặc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền
thu giữ TSBĐ. Trong khi đó, đa phần các Hợp đồng bảo đảm trước thời điểm
ban hành Nghị quyết 42 đều không để dự liệu trước và chỉ ghi chung chung về
quyền xử lý tài sản của Ngân hàng theo quy định của pháp luật chứ không nêu
rõ biện pháp là thu giữ. Do vậy, nếu Hợp đồng bảo đảm không thỏa thuận cụ
thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận những nội dung không rõ ràng có thể
gây tranh cãi trong quá trình áp dụng thu giữ TSBĐ và phối hợp với các cơ
quan chức năng để thực hiện quyền thu giữ, xử lý TSBĐ. Ngoài ra, theo quy
định tại Điểm d Khoản 2 Điều 7, điều kiện để áp dụng thu giữ theo Nghị quyết
42 là tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ
34
lý hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Trên thực tế, bên vay,
bên bảo đảm thường phát sinh các bản án bên ngoài đối với tài sản hoặc có khi
cố tình tạo ra các tranh chấp liên quan đến tài sản để trốn tránh biện pháp thu
giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng. Trong khi đó, mặc dù tài sản đảm bảo được
thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định pháp luật nhưng các TCTD
không thể áp dụng biện pháp thu giữ theo Nghị quyết 42 vì các tranh chấp “vô
tình hoặc cố ý” của chính bên vay, bên bảo đảm với bên thứ 3 có liên quan đến
tài sản đảm bảo.
Ba là, việc ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ xấu được bảo đảm tại các
TCTD đối với các nghĩa vụ về thuế.
Theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết 42, số tiền thu được từ xử lý
TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, tổ
chức mua, bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác
không có bảo đảm của bên bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, trường hợp bên
chuyển nhượng không hoặc chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan
thuế sẽ không thực hiện được thủ tục chuyển nhượng cho người mua tài sản.
Do đó, các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng TMCP Bản Việt
nói riêng vẫn phải đồng ý việc trích tiền từ việc xử lý TSBĐ để thực hiện nghĩa
vụ thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp mới thực hiện được thủ
tục đăng ký quyền sử dụng cho người mua, nhận chuyển nhượng TSBĐ mặc
dù không đủ thu nợ xấu.
Bốn là, hạn chế, bất cập trong việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải
quyết tranh chấp.
Theo Điều 8 Nghị quyết 42 quy định việc Tòa án được áp dụng thủ tục
rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về
quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Nhưng trên thực tế, việc này không dễ
triển khai như quy định. Mãi đến ngày 15 tháng 5 năm 2018, tức là 09 tháng
35
sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn về việc áp
dụng thủ tục rút gọn theo Điều 8 Nghị quyết 42. Tuy nhiên, để được áp dụng
thủ tục rút gọn, tài sản đảm bảo phải thỏa các điều kiện theo Nghị quyết 42
[186, Điều 8], trong đó có điều kiện là không có đương sự cư trú ở nước ngoài,
trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận
giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn. Hiện nay, việc Bên vay bỏ trốn, bỏ
đi ra nước ngoài là việc rất dễ dàng và thường xảy ra, do vậy, nếu xảy ra trường
hợp này thì không thể áp dụng thủ tục rút gọn. Hơn nữa, theo quy định tại Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên
đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường [15, Điều 317, 323]. Như vậy, trường hợp bên có
nghĩa vụ trả nợ (khách hàng), chủ sở hữu tài sản (bên bảo đảm) không hợp tác,
thiếu thiện chí hoặc chống đối, thì rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các
tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo
dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu không có hướng dẫn cụ thể với
những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng các thủ tục rút gọn có thể không
phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế như kỳ vọng khi ban hành Nghị
quyết 42. Và trên thực tế, kể từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, Tòa án các cấp
vẫn chưa từng thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn như quy định, thường gây
khó khăn hoặc viện dẫn quy định để không thụ lý giải quyết theo thủ tục rút
gọn.
Năm là, việc xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo Nghị quyết 42 với
tinh thần chỉ áp dụng có tính chất “thí điểm” của cũng là một hạn chế.
Ngay từ tiêu đề của Nghị quyết 42, chúng ta có thể thấy rõ nội dung “thí
điểm giải quyết nợ xấu”. Việc áp dụng “thí điểm” như tinh thần của Nghị quyết
36
mang đến một cái nhìn không chắc chắn cho các Cơ quan quản lý cũng như các
TCTD và bên vay trong quá trình xử lý nợ xấu. Việc thí điểm này có thể thấy
thông qua việc hiệu lực của Nghị quyết 42 chỉ kéo dài 05 năm. Trên thực tế,
bên vay có thể lợi dụng việc đưa ra tranh chấp liên quan đến tài sản để kéo dài
thời gian xử lý cho đến khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực [18, Điều 19].
Ngoài ra, phạm vi xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 cũng bị bó hẹp. Điển
hình là quy định về việc nợ xấu được phép xử lý theo Nghị quyết 42 là nợ phát
sinh trước ngày 15 tháng 8 năm 2017 [18, Điều 4]. Như vậy, việc khoanh vùng
phạm vi giải quyết nợ xấu sẽ hạn chế khá nhiều khả năng giải quyết phần lớn
nợ xấu của các TCTD trên thực tế. Đồng thời, các Cơ quan công quyền tại địa
phương cũng sẽ ít nhiều chùn tay khi phối hợp với các TCTD trong quá trình
thu giữ tài sản vì tính tạm thời và “thí điểm” và chưa được luật hóa rõ ràng của
Nghị quyết 42.
Thứ hai, những hạn chế bất cập và khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng các biện pháp xử lý tài sản đã được các bên thoả thuận và thống nhất tại
các hợp đồng bảo đảm.
Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu được ban hành và
hiệu lực từ 15 tháng 8 năm 2017 đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành lang
pháp lý xử lý nợ xấu. Nghị quyết đã tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đó là khẳng định quyền thu giữ TSBĐ
của TCTD và VAMC; cho phép mua bán nợ xấu và tài sản đảm bảo theo giá
thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan
đến TSBĐ. Tuy nhiên, VAMC cũng như tổ chức tín dụng đang gặp một số
vướng mắc trong quá trình triển khai theo Nghị quyết 42, cụ thể:
Một là, việc xác định thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản
thi hành án được hiểu và áp dụng khác nhau. Trong chuyển nhượng dự án bất
động sản cũng gặp vướng mắc. Sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương vẫn chưa
37
đồng đều do cách hiểu khác nhau, nên có nơi hỗ trợ rất tốt, nhưng có nơi vẫn
chưa tích cực. Để giải quyết những vấn đề lớn này cần sự vào cuộc chung của
toàn hệ thống để chỉnh sửa kịp thời các quy định được đặt ra như Bộ Tài chính
có quy định cụ thể về nghĩa vụ thuế như thế nào, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có hướng dẫn chuyển nhượng dự án bất động sản.
Hai là, hầu hết các vụ việc đều có liên quan là quyền thu giữ TSBĐ của
TCTD đều gặp khó khăn trong thực tế áp dụng.
Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ TSBĐ đi kèm với điều kiện hồ sơ,
hợp đồng bảo đảm (thế chấp) phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBĐ,
trong khi đó tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, nhiều hợp đồng bảo
đảm chưa có điều khoản này. Vì vậy, các TCTD cần đàm phán với bên vay để
điều chỉnh hợp đồng. Ngoài ra, ngay cả với những khoản vay đáp ứng được
điều kiện này thì việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD vẫn cần
đến sự hỗ trợ của cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy nhiên, đến
nay Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện
cưỡng chế đối với các trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Do
đó, việc thu giữ TSBĐ thành công hay không hiện nay phụ thuộc khá nhiều vào
thiện chí của bên vay, bên bảo đảm. Để quá trình xử lý nợ xấu và thực hiện
Nghị quyết 42 mang lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu đề ra, chính quyền
địa phương và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng, chủ động, tích cực tháo
gỡ các vướng mắc nêu trên. Ngoài ra, các quy định pháp luật hiện hành cho
phép TCTD được phép nhận tài sản thế chấp là bất động sản để thay thế nghĩa
vụ trả nợ nhưng lại bị giới hạn bởi thời gian nắm giữ trong thời hạn 03 năm kể
từ ngày nhận tài sản đảm bảo là bất động sản (Điều 132 Luật Các tổ chức tín
dụng) thì TCTD phải tiến hành chuyển giao tài sản đó. Như vậy, với giới hạn
của Luật Các tổ chức tín dụng không cho phép các TCTD được phép kinh doanh
bất động sản cộng với việc giới hạn thời gian nắm giữ bất động sản không quá
38
ba năm làm cho việc xử lý TSBĐ gặp không ít khó khăn. Đồng thời còn phát
sinh khó khăn, vướng mắc khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho người mua tài sản từ việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ, theo đó, tại các
hợp đồng bảo đảm, TCTD và bên bảo đảm thường có điều khoản thỏa thuận về
việc các TCTD được toàn quyền xử lý TSBĐ khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả
nợ. Việc xử lý TSBĐ có thể thông qua bán đấu giá và/hoặc bán trực tiếp. Tuy
nhiên, hiện nay chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn thủ tục sang tên quyền sử
dụng đất cho người mua tài sản từ việc xử lý TSBĐ cũng như việc các Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo lối mòn suy nghĩ chỉ thực hiện sang tên khi xử lý
TSBĐ bởi cơ quan thi hành án. Đa số các Văn phòng đăng ký đất đai hiện nay
không tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi TCTD tự mình
xử lý TSBĐ mặc dù các TCTD thực hiện đúng các thủ tục đăng ký giao dịch
bảo đảm, đăng ký xử lý TSBĐ theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc trong việc xử
lý TSBĐ cho những khoản nợ đã bán cho VAMC.
Quá trình mua bán trên cũng không phải là hình thức mua đứt bán đoạn,
việc theo dõi, đôn đốc thu hồi nợ và xử lý TSBĐ sẽ được ủy quyền cho ngân
hàng. Quá trình xử lý nợ xấu của VAMC vẫn tồn tại nhiều khó khăn, vướng
mắc về cơ chế pháp lý (bao gồm các vướng mắc liên quan đến thẩm quyền xử
lý ngoài phạm vi của NHNN), dẫn đến quá trình xử lý nợ xấu của VAMC chưa
đạt được kết quả như kế hoạch đề ra.
Đối với hoạt động xử lý nợ qua tố tụng, việc kế thừa quyền và nghĩa vụ
theo Hợp đồng mua bán nợ và cơ chế ủy quyền cho các tổ chức tín dụng cũng
gặp không ít khó khăn khi triển khai thực hiện. VAMC mua nợ và được kế thừa
quyền chủ nợ từ TCTD, tuy nhiên, VAMC không phải là đối tượng được nhận
thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của tổ chức kinh tế. Điều
này gây khó khăn cho VAMC và các TCTD khi khách hàng, bên bảo đảm muốn
39
bổ sung, thay thế TSBĐ là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của các
tổ chức kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều Tòa án, cơ quan thi hành án còn lúng túng
và có cách xử lý khác nhau khi xác định tư cách tham gia tố tụng, thi hành án
của VAMC. Thậm chí, có trường hợp các cơ quan nói trên không chấp nhận
cho VAMC kế thừa quá trình tố tụng, thi hành án của TCTD mà yêu cầu VAMC
nộp lại Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành án, xử lý vụ việc lại từ đầu, gây
tốn kém thời gian, chi phí.
Cơ chế ủy quyền giữa VAMC và TCTD là cơ chế đặc thù được quy định
cụ thể trong Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 05 năm 2013 của Chính
phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các
TCTD Việt Nam, Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 6 tháng 9 năm 2013 của
NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản
của các TCTD Việt Nam và không trái với quy định của BLDS 2005. Tuy
nhiên, do hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, sai khác trong cách hiểu
và thực thi của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên việc ủy quyền pháp
nhân cho pháp nhân giữa VAMC và các TCTD lại là nguyên nhân làm phức
tạp thêm các thủ tục, quy trình xử lý nợ xấu, đặc biệt tại các giai đoạn tố tụng
tại Tòa án và thi hành án. Nhiều Tòa án, cơ quan thi hành án không chấp nhận
các Hợp đồng ủy quyền của VAMC, buộc VAMC phải lựa chọn phương thức
ủy quyền cho cá nhân cán bộ của TCTD để tham gia tố tụng tại Tòa án, mặc dù
phương thức này chưa đựng nhiều rủi ro do các cá nhân này không có ràng
buộc với VAMC. Thêm vào đó, mặc dù Hợp đồng ủy quyền ghi rõ TCTD được
VAMC ủy quyền ký Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành án và các văn bản
có liên quan khác, tuy nhiên, một số Tòa án, cơ quan Thi hành án không chấp
nhận hình thức này và yêu cầu VAMC ký Đơn khởi kiện, Đơn yêu cầu thi hành
án, khiến cho việc xử lý nợ qua VAMC bằng biện pháp tố tụng, thi hành án
phức tạp và kéo dài hơn. Ngoài ra, còn có các trường hợp như khi tiến hành
40
khởi kiện thì bị đình chỉ do khách hàng không có nơi cư trú ổn định, cố tình
trốn tránh, không hợp tác; TSĐB bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác; tranh
chấp kéo dài liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất, tranh chấp liên quan đến
việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba…
Thứ tư, những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc xử lý TSBĐ
thông qua các thủ tục tố tụng, thi hành án dân sự.
Cơ chế xử lý thông qua Tòa án và thi hành án mất rất nhiều thời gian.
Khi Ngân hàng nộp đơn khởi kiện ra Tòa án các cấp thì Tòa án yêu cầu Ngân
hàng cung cấp địa chỉ cư trú của bị đơn. Do đó, nhiều khách hàng cố tình đi
khỏi nơi cư trú nhưng không báo địa chỉ nơi ở mới dẫn tới ngân hàng bị kéo dài
thời gian giải quyết thủ tục tố tụng để thu hồi nợ. Thời gian để giải quyết thu
hồi một khoản nợ xấu theo thủ tục tố tụng trung bình là 1 - 3 năm, có những
khoản nợ phúc tạp có thể kéo dài 5 - 7 năm nhưng ngân hàng vẫn chưa thu hồi
được khoản nợ. Các Bản án, Quyết định của Tòa khi yêu cầu thi hành án thường
kéo dài và mất rất nhiều thời gian. Bởi lẽ, Luật thi hành án chỉ quy định thời
gian kể từ ngày nhận đơn (05 ngày) cơ quan thi hành án phải ra Quyết định
(nhận đơn thi hành án theo đơn yêu cầu hoặc trả đơn) còn lại văn bản không
quy định về thời hạn phải kê biên tài sản cũng như giải quyết dứt điểm đơn yêu
cầu. Việc kê biên, phát mãi tài sản qua thi hành án cũng kéo dài rất lâu vì phụ
thuộc vào ý chí và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng
thời, tâm lý của người mua, nhận chuyển nhượng tài sản không mặn mà trong
việc mua, nhận chuyển nhượng tài sản thông qua bán đấu giá cũng là một trong
những trở ngại của việc xử lý TSBĐ. Ngoài ra, có thể kể đến một số hạn chế,
bất cập và khó khăn, vướng mắc xử lý TSBĐ thông qua các thủ tục tố tụng, thi
hành án dân sự như sau:
Một là, khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự 2008 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2014) quy định người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp
41
hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả
bán đấu giá tài sản nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán
đấu giá tài sản. Theo quy định này, quyền của TCTD trong việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có vi phạm pháp luật trong quá
trình đấu giá tài sản đã bị loại trừ hoặc bị hạn chế.
Hai là, thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản thi hành án
được hiểu và áp dụng khác nhau. Về nguyên tắc, các hợp đồng bảo đảm có hiệu
lực pháp lý như nhau khi phải xử lý để thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó,
các TSBĐ cho nghĩa vụ của người phải thi hành án cần được xử lý đồng thời
khi người được thi hành án yêu cầu. Tuy nhiên, một số cơ quan thi hành án có
quan điểm phải xử lý xong tài sản của khách hàng vay rồi mới tiến hành xử lý
tài sản thi hành án của bên thứ ba hoặc có văn bản đề nghị Tòa án xác định thứ
tự xử lý tài sản trong bản án. Cách làm này khiến quá trình thi hành án và xử lý
tài sản bảo đảm bị kéo dài.
Ba là, việc thực hiện theo phán quyết của Tòa án còn chậm do cách hiểu
khác nhau. Vẫn còn trường hợp quan điểm của Cơ quan Thi hành án theo hướng
chỉ thụ lý và tổ chức thi hành phần bên vay phải trả nợ, mà không thi hành cả
phần xử lý tài sản bảo đảm, do không đúng nội dung của Bản án đã được Toà
án tuyên trước, đó là TCTD được quyền phát mại để thu hồi nợ nếu khách hàng
không thực hiện nghĩa vụ. Cách hiểu khác nhau này khiến việc thi hành án đối
với xử lý tài sản đảm bảo chậm và không nhất quán.
Bốn là, quy định mới về thời hiệu khởi kiện và nguy cơ gia tăng nợ xấu
và không xử lý được TSBĐ. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được
quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm và nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể này mất
quyền khởi kiện. Đối với các ngân hàng, do việc xử lý nợ thông qua khởi kiện
là một giải pháp quan trọng để đòi vốn và lãi, nên những thay đổi về thời hiệu
42
khởi kiện sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả của hoạt động này.
Theo quy định hiện hành, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng để yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng được nâng từ 02 năm theo BLDS 2005
lên thành 03 năm theo BLDS 2015, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết
hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429).
Cần lưu ý Điều 184, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nêu rõ thời hiệu khởi kiện sẽ
được thực hiện theo quy định của BLDS 2015. Hạn chế dễ thấy của BLDS 2015
nằm ở chỗ BLDS 2015 chưa có các quy định cụ thể giúp xác định ngày mà
quyền và lợi ích hợp pháp của bên khởi kiện bị xâm phạm trong quan hệ hợp
đồng, đặc biệt khi hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau hay
đối với nghĩa vụ mà các bên không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định
thời hạn thực hiện. Điều này, sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới việc áp dụng pháp luật
trừ khi ngành Tòa án có các hướng dẫn chi tiết về vấn đề này.
Đối với hợp đồng tín dụng, việc quy định về thời hiệu khởi kiện như trên
sẽ giúp ngân hàng có thêm thời gian để quyết định khởi kiện và đây là một tín
hiệu tốt. Tuy nhiên, Điều 155 BLDS 2015 nêu 4 trường hợp không áp dụng
thời hiệu khởi kiện, bao gồm:
(i) Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản;
(ii) Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu;
(iii) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; và
(iv) Trường hợp khác do luật quy định.
Trong các trường hợp này có thể khởi kiện vào bất cứ thời điểm nào tính
từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể liên quan bị xâm phạm, chứ
không bị hạn chế bởi thời hiệu 03 năm nêu ở trên. Dễ thấy trong danh sách này
không có tranh chấp về đòi lại tài sản được quy định tại Điều 159, Bộ luật tố
tụng dân sự 2004, vốn là cơ sở pháp lý mà ngân hàng dựa vào để yêu cầu Tòa
án không áp dụng thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc của các khoản tín dụng đã cấp
43
cho khách hàng. Điều đó, có nghĩa là theo quy định mới, thời hiệu để ngân hàng
khởi kiện đối với nợ gốc (thường được hiểu là bao gồm cả việc xử lý TSBĐ)
về nguyên tắc chỉ còn là 03 năm, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
Nói cách khác, dường như sẽ không còn có sự khác biệt về thời hiệu khởi kiện
giữa việc đòi nợ gốc và đòi nợ lãi như hiện nay nữa.
Một số ý kiến cho rằng, có thể coi tranh chấp đòi nợ gốc là một dạng yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu bởi vì tranh chấp về quyền sở hữu tập trung vào tranh
chấp về đòi tài sản trong khi đó, đòi tài sản gắn liền với quyền sở hữu nên chừng
nào quyền sở hữu tồn tại thì quyền đòi tài sản vẫn tồn tại. Tuy vậy, trong quan
hệ vay tài sản, nguyên tắc chung là bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể
từ thời điểm nhận tài sản đó (Điều 464, BLDS 2015), tức là bên vay trở thành
chủ sở hữu của số tiền vay nhận được khi ngân hàng giải ngân. Sau khi đã giải
ngân số tiền vay cho bên vay, cái mà ngân hàng có được chính là quyền được
hoàn trả nợ gốc và lãi quy định trong hợp đồng vay mà xét về bản chất pháp lý
chính là quyền đòi nợ mà ngân hàng có đối với bên vay trên cơ sở hợp đồng
vay này. Việc ngân hàng khởi kiện bên vay chính là để thu hồi nợ hay nói chính
xác hơn là để yêu cầu Tòa án can thiệp để được bên vay thanh toán quyền đòi
nợ của mình đã đến hạn. Nói cách khác, việc ngân hàng thực hiện quyền đòi nợ
gốc dường như không phải là để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Hơn nữa, theo
hướng dẫn hiện hành của Tòa án nhân dân tối cao thì tranh chấp về quyền sở
hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó
và loại tranh chấp này tách bạch với tranh chấp về đòi lại tài sản. Thêm vào đó,
người làm luật chủ ý đưa cụm từ “bảo vệ” trước cụm từ “quyền sở hữu”, có lẽ
là để nhấn mạnh thêm việc tranh chấp liên quan đến việc công nhận quyền sở
hữu (hay một trong các quyền cấu thành quyền sở hữu) đối với tài sản. Chính
vì thế, có vẻ như không thể coi tranh chấp đòi nợ gốc là yêu cầu bảo vệ quyền
sở hữu để hưởng việc không bị hạn chế về thời hiệu khởi kiện. Tuy việc giới
44
hạn thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc không phải là cách tiếp cận mang tính cá
biệt của pháp luật Việt Nam song nếu xét một cách tổng thể, thời hiệu 03 năm
cho việc khởi kiện đòi nợ gốc và lãi đối với một khoản vay là tương đối ngắn
và chưa thực sự phù hợp, bởi vì sau khi bên vay vi phạm nghĩa vụ hoàn trả:
(i) Ngân hàng có thể xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ;
(ii) Sử dụng một số cách thức khác để đòi nợ trước khi tính đến việc khởi
kiện; và
(iii) Trong trường hợp tài trợ dự án bất động sản, thường phải chờ đợi
cho đến khi dự án phát sinh nguồn thu hay tài sản thuộc dự án được hình thành
để khởi kiện đòi nợ (và yêu cầu xử lý TSBĐ nếu có) nếu đó là các tài sản duy
nhất của bên vay.
Pháp luật của một số nước phát triển quy định thời hiệu dài hơn và có sự
phân biệt rõ thời hiệu khởi kiện đối với nợ gốc, lãi và khoản vay có bảo đảm.
Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật nước Anh, nếu hợp đồng vay được lập
dưới dạng văn bản chính thống, thời hiệu khởi kiện sẽ là 12 năm trong khi thời
hiệu này chỉ là 06 năm nếu hợp đồng vay được lập dưới dạng văn bản thông
thường. Đối với khoản vay có bảo đảm, thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc là 12
năm trong khi ngân hàng chỉ có thể khởi kiện trong thời hạn 06 năm đối với dư
nợ lãi. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là từ ngày phát sinh quyền nhận số tiền
liên quan. Theo đó, nếu hợp đồng vay quy định một thời điểm hoàn trả khoản
vay thì thời hiệu sẽ bắt đầu được tính từ thời điểm này; nếu hợp đồng vay quy
định rằng, việc xảy ra hay không xảy ra một sự kiện nhất định làm phát sinh
nghĩa vụ hoàn trả, thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra hay không xảy
ra sự kiện đó. Nếu hợp đồng vay quy định rằng, yêu cầu hoàn trả từ phía bên
cho vay là điều kiện tiên quyết cho quyền được hoàn trả của bên cho vay thì
thời hiệu khởi kiện sẽ không được tính cho tới khi yêu cầu đó được lập. Nếu
hợp đồng vay không quy định ngày hoàn trả và không đặt ra điều kiện theo đó
45
việc trả nợ phụ thuộc vào việc phải có yêu cầu hoàn trả lập bởi bên cho vay hay
đại diện của bên cho vay hay phụ thuôc vào bất cứ điều kiện nào khác thì thời
hiệu khởi kiện sẽ được tính từ ngày mà yêu cầu hoàn trả khoản nợ bằng văn
bản được lập bởi bên cho vay hay đại diện của bên cho vay.
Có thể thấy, trong khi các ngân hàng đang phải tăng cường nhân sự quản
lý rủi ro và vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi đòi nợ bằng phương thức khởi kiện,
quy định mới về thời hiệu của BLDS 2015 có nguy cơ sẽ gia tăng rủi ro không
thu được nợ cho các ngân hàng do hết thời hiệu khởi kiện. Đây không phải là
một tín hiệu tốt cho việc giải quyết nợ xấu trong bối cảnh hiện nay.
Khi thời hiệu khởi kiện bị rút ngắn, ngân hàng cần quản lý tốt hơn các
khoản vay và khi phát hiện vi phạm của bên vay trong việc trả nợ thì phải có
các phương án kịp thời, bao gồm cả việc khởi kiện, tránh tình trạng hết thời
hiệu khởi kiện. Bên cạnh đó, Điều 157, BLDS 2015 cũng quy định thời hiệu
khởi kiện có thể bắt đầu lại trong trường hợp bên vay đã thừa nhận nghĩa vụ trả
nợ hoặc đã thanh toán một phần khoản vay hoặc bên cho vay và bên vay đã tự
hòa giải về việc thanh toán khoản nợ. Khi đó, thời hiệu khởi kiện sẽ bắt đầu lại
kể từ ngày tiếp sau ngày xảy ra một trong số các sự kiện này. Ngân hàng có thể
vận dụng quy định này để tránh tình trạng hết thời hiệu khởi kiện, đặc biệt là
thông qua việc yêu cầu bên vay xác nhận nợ đối với mình hay thanh toán một
phần (dù là phần rất nhỏ) khoản nợ cho mình. Hơn nữa, một trong các điểm
mới của cả BLDS 2015 lẫn Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nằm ở chỗ Tòa án chỉ
áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc
các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án. Điều đó, có nghĩa là nếu bên vay hay bên bảo đảm không yêu
cầu áp dụng thời hiệu để hưởng lợi từ việc ngân hàng hết thời hiệu khởi kiện
thì Tòa án sẽ vẫn thụ lý và giải quyết tranh chấp.
46
Kết luận chương 2
Trong quá trình hội nhập và phát triển, các văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam đã dần tiệm cận đến các quy định chung của quốc tế. Tuy nhiên,
để bảo hộ cho nền kinh tế nước nhà, các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp
vẫn giữ nguyên những quan điểm truyền thống bảo vệ quyền và lợi ích của chủ
sở hữu là bên dùng tài sản của chính mình để đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự đối
với NHTM và bỏ qua quyền và lợi ích chính đáng của chính ngân hàng là bên
cho vay tiền, là bên có quyền dân sự hợp pháp. Như thực tế mà tác giả đã trình
bày, việc ban hành và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành đã một
phần dẫn đến nguy cơ mất vốn hoặc thu hồi vốn không đầy đủ cho ngân hàng.
Đồng thời, việc xử lý các khoản nợ quá hạn không dứt điểm, mất vốn một phần
hoặc toàn bộ của ngân hàng vô hình chung dẫn đến hệ quả pháp lý cho những
người có thẩm quyền phê duyệt, thực thi nội bộ về cấp tín dụng (cho vay), về
thẩm định TSBĐ cho khoản vay, về quản lý trước, trong và sau cho vay, về
quản lý TSBĐ và các vấn đề khác có liên quan.
Tại chương này, tác giả đã tập trung phân tích và làm rõ được một số vấn
đề cơ bản, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về việc xử lý tài sản đảm
bảo tiền vay của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng thương
mại cổ phần Bản Việt nói riêng. Với việc phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của các ngân hàng thương mại đã
phần nào thấy được các khó khăn, vướng mắc và các tồn tại trên thực tiễn áp
dụng pháp luật qua thực tế xử lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng thương mại
hiện nay, từ đó xác định các định hướng và giải pháp hoàn thiện để pháp luật
ngày càng đi vào thực tiễn.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các ngân hàng
thương mại nói chung và cho Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt nói
riêng, tác giả muốn nhấn mạnh những hạn chế, bất cập và những khó khăn,
47
vướng mắc nêu trên để nhằm mục tiêu đưa ra những định hướng và giải pháp
nâng cao hiệu quả xử lý TSBĐ tiền vay của các ngân hàng thương mại tại
Việt Nam. Điều này sẽ trực tiếp tác động một cách hiệu quả đến sự điều chỉnh
pháp luật nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng.
48
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TÀI
SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
3.1. Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của các ngân hàng thương mại
Qua các thời kỳ phát triển đất nước, chúng ta có thể nhìn nhận các quy
định của pháp luật về quyền thu giữ tài sản khi xử lý TSBĐ của các NHTM
đang dần bị thu hẹp, cụ thể là:
Thứ nhất, quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12
năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD (Nghị định 178)
và Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày
23 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ
Công an - Bộ Tài chính - Tổng cục địa chính hướng dẫn việc xử lý TSBĐ tiền
vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng như sau:
- Quyền xử lý TSBĐ của các NHTM được quy định rõ ràng được bảo
đảm bằng quyền lực nhà nước, cụ thể đó là: “Tài sản bảo đảm được xử lý theo
phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng cầm cố,
hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh (sau đây gọi chung là hợp đồng bảo
đảm) giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, bên bảo lãnh (sau đây gọi chung
là bên bảo đảm). Trong trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm
theo phương thức đã thoả thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp
dụng các phương thức xử lý Tài sản bảo đảm”. [Mục II Phần A Thông tư liên
tịch số 03]
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NHTM trong trường hợp nêu trên,
49
Thông tư liên tịch số 03 tiếp tục quy định: “Sau khi hết thời hạn ấn định trong
thông báo áp dụng biện pháp buộc giao tài sản mà bên giữ tài sản bảo đảm
không giao tài sản cho tổ chức tín dụng để xử lý, tổ chức tín đụng tiến hành thu
giữ tài sản bảo đảm cùng với sự hỗ trợ của Uỷ ban nhân dân và cơ quan Công
an.” [Mục XI.2.3 Phần B Thông tư liên tịch số 03].
- Quy định tại Nghị định số 163 về quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Khi Nghị định số 163 có hiệu lực, quyền thu giữ TSBĐ của bên nhận thế
chấp nói chung và của các NHTM nói riêng đã bị hạn chế. Theo đó, khoản 5
Điều 63 Nghị định số 163 chỉ quy định: “Trong quá trình tiến hành thu giữ tài
sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây
mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì
người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ
quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp
luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền
thu giữ tài sản bảo đảm”.
Như vậy, vai trò của cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ tham
gia để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền
thu giữ TSBĐ mà không tham gia thu hồi TSBĐ cùng các NHTM như quy định
tại Nghị định số 178 và Thông tư liên tịch số 03 đã hết hiệu lực pháp luật. Điều
này sẽ hạn chế quyền của các NHTM trong trường hợp bên bảo đảm cố thủ
trong nhà, không làm mất an ninh trật tự thì cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân
cấp xã cũng không thể tham gia giữ gìn an ninh, trật tự thì các NHTM không
thể thu giữ được TSBĐ để xứ lý nợ, ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ của các
NHTM. Đối với những trường hợp bên bảo đảm vắng mặt, cố tình trốn tránh
không giao tài sản thì Nghị định số 163 và Thông tư liên tịch số 16 không còn
quy định về quyền thu giữ tài sản của các NHTM như quy định tại Nghị định
50
số 178 và Thông tư liên tịch số 03. Trong những trường hợp này xảy ra thì các
NHTM phải khởi kiện ra Tòa án để xử lý TSBĐ và con đường xử lý tài sản
đảm bảo qua tố tụng tại Tòa án, Thi hành án sẽ bị kéo dài và vô cùng khó khăn
cho các NHTM.
- Quy định tại BLDS 2015 về giao tài sản bảo đảm để xử lý.
Điều 301 của BLDS 2015 chỉ quy định “Người đang giữ tài sản bảo đảm
có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người
đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.”. Đây là
một một trong những quy định tước đi quyền hợp pháp của bên nhận bảo đảm
nói chung và các NHTM nói riêng. Theo quy định này, không có cơ chế pháp
luật rõ ràng để thực thi một cách hiệu quả quyền xử lý TSBĐ của các NHTM,
khi thu giữ TSBĐ, nếu chủ tài sản không bàn giao tài sản thì NHTM chỉ có
cách khởi kiện ra Tòa án, vai trò của cơ quan công quyền trong việc hỗ trợ
TCTD thu giữ TSBĐ rất mờ nhạt: việc tham gia của cơ quan công an chỉ dừng
lại ở việc giữ gìn an ninh trật tự. Do đó, trường hợp chủ nợ muốn thu giữ được
TSBĐ trên thực tế để phục vụ cho công tác xử lý (cưỡng chế) thì phải có bản
án, có quyết định của Tòa án. Tòa án xử xong phải chờ bản án có hiệu lực
(không bị kháng cáo, kháng nghị), chờ cơ quan thi hành án. Đây là một trong
những quy định ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của NHTM do chịu rủi ro thì việc
biến động TSBĐ, chịu chi phí từ việc khởi kiện, vốn bị tồn đọng,… chưa kể
đến áp lực lên hệ thống cơ quan tài phán dẫn đến chậm trễ trong quá trình xét
xử; đồng thời, là một trong những quy định tạo điều kiện để khách hàng vay
tiếp tục vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các NHTM.
Thứ hai, Nghị định 163 (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11) quy định rõ
người xử lý TSBĐ là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy
51
quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.
Đồng thời, căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, người
xử lý TSBĐ có quyền tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có văn bản ủy
quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm.
Thứ ba, Nghị định 163 quy định các bên có quyền thỏa thuận phương
thức xử lý TSBĐ theo các phương thức sau: Bán tài sản bảo đảm; Bên nhận
bảo đảm nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm; Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba
trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ và phương thức khác do các bên thoả
thuận.
Đối với phương thức bán TSBĐ: Các bên có thể thỏa thuận thực hiện
bán đấu giá hoặc bán không qua đấu giá. Việc bán TSBĐ qua đấu giá thì thực
hiện theo pháp luật về bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, đối với việc bán tài sản
không qua đấu giá thì trên thực tế khi thực hiện quy định tại Nghị định 163 phát
sinh vướng mắc như sau: Trường hợp các bên không thỏa thuận về giá bán
TSBĐ tại hợp đồng bảo đảm thì khi bán TSBĐ sẽ xác định giá bán TSBĐ như
thế nào. Chính vì vậy, TTLT 16 (Điều 10) đã quy định về cách thức xác định
giá bán TSBĐ trong trường hợp này. Theo đó, ưu tiên ghi nhận thỏa thuận của
các bên, trường hợp các bên không thỏa thuận được giá bán TSBĐ thì ưu tiên
bên bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá
để xác định giá bán tài sản. Nếu bên bảo đảm không chỉ định cơ quan, tổ chức
có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan,
tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá bán tài sản.
Trong trường hợp không bán được TSBĐ theo giá theo định giá của cơ
quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ
giá bán tài sản. Việc hạ giá bán tài sản thực hiện liên tục ba (03) lần nhưng mỗi
lần hạ giá bán tài sản không được quá mười phần trăm (10%) giá đã định và
52
phải cách nhau ít nhất là ba mươi ngày (30) ngày đối với bất động sản và mười
lăm (15) ngày đối với động sản.
Sau ba (03) lần liên tục hạ giá mà vẫn không bán được TSBĐ thì bên
nhận bảo đảm được nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Giá trị TSBĐ trong trường hợp này là mức giá của lần hạ giá cuối cùng, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Đối với phương thức nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ của bên bảo đảm: Để hướng dẫn cụ thể hơn về việc xử lý TSBĐ theo
phương thức nhận chính TSBĐ thay cho việc thực hiện nghĩa vụ, Nghị định 11
đã bổ sung quy định khi các bên thỏa thuận về việc nhận chính TSBĐ để thay
thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm thì việc xử lý TSBĐ theo
phương thức này được thực hiện như sau:
(i) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng
thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của TSBĐ;
(ii) Trong trường hợp giá trị của TSBĐ lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được
bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên
bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
(iii) Bên nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ phải
xuất trình văn bản chứng minh quyền được xử lý TSBĐ và kết quả xử lý TSBĐ
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng
TSBĐ từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm. Nghị định 11 không quy định
các bên phải ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng trong trường hợp nhận
chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và về
bản chất việc nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên
bảo đảm là biện pháp cấn trừ nợ, khác với việc mua bán, chuyển nhượng tài
sản, tuy nhiên, trên thực tế có nhiều Cơ quan, Văn phòng đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng tài sản yêu cầu TCTD phải xuất trình hợp đồng mua bán
53
tài sản với chủ sở hữu tài sản thì mới làm thủ tục đăng bộ, sang tên cho TCTD.
Xuất phát từ vướng mắc thực tế này, TTLT 16 đã quy định rõ thủ tục
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với tài sản phải đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng). Theo đó, hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản thỏa thuận khác
về việc nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm được sử dụng thay thế cho hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở
hữu, quyền sử dụng TSBĐ.
Thứ tư, Điều 63 Nghị định 163 quy định: Trong quá trình tiến hành thu
giữ TSBĐ, nếu bên giữ TSBĐ có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh,
trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý
TSBĐ có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công
an nơi tiến hành thu giữ TSBĐ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh,
trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ TSBĐ. Tuy
nhiên, quy định này chưa thể hiện rõ cơ chế, cách thức để cơ quan công an, Ủy
ban nhân dân cấp xã tham gia giữ gìn an ninh, trật tự. Vì vậy, TTLT 16 (Điều
9) đã quy định hướng dẫn cơ chế để thực thi quy định này như sau: (1) Trước
thời điểm thu giữ TSBĐ ít nhất bảy (07) ngày làm việc, người xử lý TSBĐ có
quyền gửi văn bản thông báo về việc thu giữ TSBĐ đến Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi tiến hành thu giữ TSBĐ. Văn bản phải nêu rõ lý do xử lý, thời gian, địa
điểm xử lý, kế hoạch thu giữ tài sản và tài sản dự định thu giữ. (2) Sau khi nhận
được văn bản của người xử lý TSBĐ, Ủy ban nhân dân cấp xã phải kịp thời
thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 5 Điều 63 Nghị định số 163 và Điều
30 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về
việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD
Việt Nam.
Thứ năm, về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất,
54
nhà ở: Bên cạnh quy định tại Nghị định 163 về phương thức xử lý TSBĐ là
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp các bên không có
thỏa thuận về phương thức xử lý và trường hợp xử lý TSBĐ khi chỉ thế chấp
tài sản gắn liền với đất, mà không thế chấp quyền sử dụng đất, Nghị định 11 đã
bổ sung thêm quy định về xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất trong trường hợp
chỉ thế chấp quyền sử dụng đất, mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất.
Thứ sáu, trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp
tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử
dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Các bên có quyền tự thỏa thuận
hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định
giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Số tiền thu được từ việc xử
lý TSBĐ được thanh toán trước cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài
sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với
đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và
chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền
và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được
chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất. Đồng thời,
đối với việc xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, nhà ở, Nghị định 11 cũng bổ
sung yêu cầu là tổ chức, cá nhân mua TSBĐ hoặc nhận chính TSBĐ để thay
thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
55
liền với đất thì chỉ được hưởng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc thực hiện thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ là
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất gặp nhiều khó khăn do bên thế chấp
không chịu ký tên vào văn bản sang tên, chuyển nhượng cho người mua/nhận
chuyển nhượng TSBĐ. Để tháo gỡ nút thắt này, TTLT 16 quy định: “Trong
trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chứng
minh việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì bên nhận bảo đảm
được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong hồ sơ đề nghị chuyển
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải bổ sung một (01) bản chính hợp đồng
bảo đảm đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật hoặc
một (01) bản sao hợp đồng bảo đảm được Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực,
tổ chức hành nghề công chứng cấp từ bản chính hoặc văn bản khác chứng minh
có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài
liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ”. Bên cạnh đó, TTLT 16 cũng
quy định việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản được thực hiện
đồng thời với việc xóa đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, không buộc TCTD
xóa đăng ký thế chấp trước khi thực hiện thủ tục sang tên trước bạ, giảm thiểu
rủi ro cho TCTD trước nguy cơ giao dịch có bảo đảm trở thành không có bảo
đảm nếu xóa đăng ký trước khi chuyển nhượng cho người mua nhưng vì lý do
nào đó lại chưa thể sang tên cho người mua. Ngoài ra, TTLT 16 cũng hướng
dẫn việc xử lý TSBĐ đối với một số loại tài sản đặc thù như: Xử lý đối với tài
sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh do
bên thế chấp bán, thay thế tài sản thế chấp không có sự đồng ý của bên nhận
thế chấp trong khi hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm và
giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp có thỏa thuận khi bán, thay thế tài sản
thế chấp phải được sự đồng ý của bên nhận thế chấp; Xử lý tài sản thế chấp là
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp hợp đồng thế chấp
56
đã được đăng ký trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy
định của pháp luật; Xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ, yêu cầu hoàn trả
TSBĐ đang bị cầm giữ trong hợp đồng song vụ để xử lý.
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại
Các định hướng cơ bản trong giai đoạn hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, các nhà lập pháp cần phải xác định nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi của các NHTM khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ hoàn trả nợ vay cho
các NHTM và trong trường hợp phải xử lý TSBĐ cho khoản vay đó, nguyên
tắc pháp lý đó phải được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật,
phải quy định cụ thể đó chính là quyền của các NHTM là “đại diện chủ sở hữu”
đối với tài sản trong trường hợp chưa ghi nhận trên giấy chứng nhận quyền sở
hữu, quyền sử dụng. Đồng thời, để hạn chế việc lạm quyền xử lý TSBĐ trong
trường hợp này, các NHTM cũng phải chịu một chế tài thích hợp nếu trong quá
trình xử lý TSBĐ đảm bảo cho khoản vay, các NHTM vượt quá thẩm quyền xử
lý TSBĐ của mình.
Thứ hai, về quyền thu giữ TSBĐ đã được pháp luật quy định tại Nghị
định số 163. Đến khi ra đời Nghị quyết 42, tất cả các NHTM tưởng chừng pháp
luật đã bảo vệ chính đáng quyền được thu giữ TSBĐ để xử lý nợ và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các NHTM. Tuy nhiên, một lần nữa pháp luật
chỉ ghi nhận “quyền thu giữ tài sản” được quy định tại Nghị quyết số 42 vẫn
chưa thể hiện rõ bản chất về quyền của các NHTM trong việc thu giữ TSBĐ
của bên bảo đảm khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với ngân
hàng. Do đó, quyền thu giữ TSBĐ là quyền không thể thiếu của các NHTM khi
tiến hành xử lý TSBĐ và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM
trong trường hợp này, pháp luật cần quy định rõ rằng quyền đương nhiên của
các NHTM mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu TSBĐ. Trường hợp
57
pháp luật vẫn bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản mà không xem xét thấu đấu
về quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM trong trường hợp này sẽ dẫn đến
nguy cơ tất cả các tranh chấp về tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của NHTM
phải được giải quyết bởi ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền và như vậy, nghĩa
vụ và trách nhiệm của khách hàng vay vốn tại các NHTM vẫn chưa được nâng
cao, nợ xấu vẫn tiếp tục được duy trì và tăng cao mà khó xử lý được triệt để.
Thứ ba, tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được
quyền tiếp cận TSBĐ để xử lý nhanh chóng, hợp pháp. Theo đó, bên nhận bảo
đảm có quyền tự mình thu hồi TSBĐ dựa trên nguyên lý “không vi phạm điều
cầm, trái đạo đức xã hội”, có quyền nhận chính TSBĐ, quyền bán TSBĐ mà
không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nếu vi phạm thỏa thuận đã được giao
kết.
Thực tiễn xử lý TSBĐ cho thấy, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý như
hiện nay thì thời gian xử lý TSBĐ sẽ kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng
không được thực hiện nghiêm túc. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự thỏa
thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng, việc đề xuất giải pháp bên nhận
bảo đảm được quyền thu giữ TSBĐ cũng chính là nhằm khắc phục bất cập nêu
trên, đồng thời cũng là giải pháp phù hợp với nguyên tắc trong giao dịch bảo
đảm hiện đại (quyền của chủ nợ có bảo đảm). Dĩ nhiên, trên cơ sở các quy định
chung nhất của BLDS, các văn bản dưới luật sẽ quy định về các điều kiện, trình
tự phải đáp ứng trong quá trình thu giữ TSBĐ để loại bỏ nguy cơ phát sinh
hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội.
Thứ tư, Bộ, Ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện Nghị quyết 42 và truyền thông xuyên suốt xuống các các Cơ quan chức
năng tại địa phương để các TCTD được hỗ trợ tối đa trong công tác thu giữ tài
sản, nhằm thu hồi nợ một cách nhanh chóng để đảm bảo quyền lợi cho NHTM.
58
Trong đó, văn bản hướng dẫn phải đảm bảo quy định rõ về thời gian xử lý, trách
nhiệm của các Sở ban ngành, Cơ quan địa phương.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
của các ngân hàng thương mại
Một cách khái quát, có thể cho rằng các giải pháp này tập trung vào một
số vấm đề cơ bản sau đây:
Một là, Chính phủ, Quốc hội cân nhắc đến việc Luật hóa Nghị quyết 42,
không để Nghị quyết 42 chỉ tồn tại ở dạng thí điểm và chỉ có hiệu lực 5 năm.
Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể
nhằm tạo một hành lang pháp lý chắc chắn trong thu giữ tài sản để xử lý nợ xấu
của các TCTD. Việc này cũng sẽ giúp các Cơ quan nhà nước tại địa phương có
thể danh chính ngôn thuận hỗ trợ các TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu.
Hai là, để bảo vệ tốt hơn ngân hàng trong việc đòi nợ, Ngân hàng nhà
nước cần xem xét đề xuất sửa Luật các tổ chức tín dụng theo hướng tăng thời
hiệu khởi kiện đối với các hợp đồng tín dụng cho cả dư nợ gốc và lãi cũng như
đối với các khoản vay có bảo đảm.
Ba là, Các quy định pháp luật về tố tụng nên được chỉnh sửa theo hướng
rút ngắn thời gian xử lý, đồng thời tinh gọn thủ tục hành chính để đảm bảo việc
khởi kiện đòi nợ của Ngân hàng theo con đường tố tụng được rút ngắn thời
gian, quy định rõ thời gian xử lý trong quá trình tố tụng, thi hành án kể từ khi
thụ lý của các cơ quan có thẩm quyền. Việc này sẽ tạo thêm nhiều điều kiện
thuận lợi cho các TCTD xử lý tài sản đảm bảo khi các món nợ không đủ điều
kiện áp dụng Nghị quyết 42.
Bốn là, Nghị định số 163 là Nghị định hướng dẫn một số điều của BLDS
năm 2005 về việc xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý TSBĐ (đã hết
59
hiệu lực thi hành và bị thay thế bởi BLDS năm 2015). Do đó, Nghị định số 163
cũng được coi là hết hiệu lực thi hành (Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 09/5/2016
về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2016, trong đó Mục 10 của
Nghị quyết nêu: “Đối với các văn bản quy định chi tiết của các luật, pháp lệnh
đã hết hiệu lực nhưng chưa ban hành kịp thời văn bản thay thế, Chính phủ
thống nhất tiếp tục áp dụng nếu không trái với tinh thần của luật, pháp lệnh
mới ban hành”).
Trên thực tế, nhiều tổ chức tín dụng vẫn căn cứ vào Nghị định số 163 để
xác lập, thực hiện và xử lý TSBĐ vì đây là văn bản quy định chi tiết về vấn đề
này. Mặc dù vậy, các tổ chức tín dụng vẫn rất lo ngại về hiệu lực thi hành của
Nghị định số 163 cũng như giá trị pháp lý của các giao dịch bảo đảm được ký
kết theo hướng dẫn của Nghị định này. Do đó, cần phải có văn bản thay thế
Nghị định số 163 để hướng dẫn chi tiết việc ký kết, thực hiện giao dịch bảo
đảm và xử lý TSBĐ nhằm tạo sự thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật, tránh
rủi ro pháp lý cho các tổ chức tín dụng và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Nghị định mới cần xử lý được bất cập, hạn chế đã nảy sinh trong quá trình triển
khai thực hiện Nghị định 163 cũng như hướng dẫn rõ hơn các nội dung liên
quan của BLDS 2015 về giao dịch bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng để bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đặc biệt là quyền chủ
nợ của TCTD.
Năm là, Ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua bán
nợ với các tổ chức, cá nhân khác (ngoài việc mua bán nợ với VAMC) để tạo
hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường mua bán nợ của Việt Nam. Hiện
tại, hành lang pháp lý cho việc mua bán nợ với các tổ chức, cá nhân khác còn
khá sơ sài và không rõ ràng trong khi việc mua bán nợ cũng là một phương án
rất hiệu quả được áp dụng, đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Tại Việt Nam,
việc mua bán nợ giữa TCTD và các tổ chức, cá nhân khác vẫn đang được áp
60
dụng nhưng còn khá dè dặt do hành lang pháp lý chưa được hoàn chỉnh. Đồng
thời, xem xét bỏ ngành nghề “dịch vụ mua bán nợ” ra khỏi ngành nghề kinh
doanh có điều kiện; Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế,
tạo hành lang cho thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả. Xây dựng chính
sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp mua bán nợ; có chính
sách mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài; xây dựng chính sách phát triển các
nhà đầu tư có tổ chức cho thị trường mua bán nợ có TSBĐ và cơ chế xử lý
TSBĐ rõ ràng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Sáu là, Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn cụ thể để thực hiện việc thu
thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng
TSBĐ để thu hồi nợ xấu, bảo đảm tính thực thi cho quy định về “thứ tự ưu tiên
thanh toán khi xử lý TSBĐ”, bảo đảm quyền lợi của bên mua TSBĐ. Đồng thời
Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục
chuyển nhượng tài sản, xử lý tài sản khi TSBĐ là các dự án bất động sản có tài
sản hình thành trong tương lai.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại
Tác giả luận văn cho rằng các giải pháp này nên hướng vào một số vấn
đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng hữu quan cần thường xuyên tập huấn,
phổ biến kiến thức pháp luật đầy đủ cho các cá nhân, người có thẩm quyền
trong việc áp dụng pháp luật, tránh tình trạng hiểu không đúng, không thống
nhất các quy định pháp luật làm cản trở quyền xử lý TSBĐ của các NHTM.
Thứ hai, các NHTM cần xây dựng hệ thống văn bản quy định nội bộ
chặt chẽ, rõ ràng và cụ thể đối với việc cho vay và bảo đảm bằng tài sản của
chính khách hàng vay vốn và/hoặc bằng tài sản của bên thứ ba. Đồng thời, các
NHTM thông qua bộ phận pháp lý của mình và hoặc thuê bên thứ ba là các tổ
61
chức, cá nhân có kiến thức và am hiểu pháp luật như cán bộ ngành Tòa án, Viện
kiểm soát, Thi hành án có kinh nghiệm trong vấn đề xử lý TSBĐ, các giảng
viên tại các Trường Đại học, các Học viện đào tạo về các chức danh tư pháp để
tiến hành tập huấn, đào tạo cho các cán bộ nghiệp vụ tại các NHTM hiểu rõ bản
chất vấn đề và hướng dẫn các cách thức thực hiện hợp tình, hợp lý trong trường
hợp phải xử lý TSBĐ của bên bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho ngân hàng.
Thứ ba, các NHTM thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên,
kịp thời và hiệu quả để hạn chế tình trạng vi phạm các nội dung đã thỏa thuận
với ngân hàng của các khách hàng vay, hạn chế dẫn đến việc xử lý TSBĐ của
bên bảo đảm.
Kết luận chương 3
Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng
cao, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là hết sức lớn. Trong bối cảnh kênh cung cấp
vốn cho nền kinh tế từ thị trường chứng khoán vẫn chưa thật sự hiệu quả, thực
tế cho thấy năng lực tài chính của cá nhân, doanh nghiệp còn hạn chế, hoạt
động chủ yếu dựa vào nguồn tín dụng từ các ngân hàng. Vì vậy, có thể xác định
vốn vay ngân hàng sẽ tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng của nền
kinh tế và để đảm bảo cho hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
an toàn và hiệu quả thì việc xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ
ràng và đảm bảo khả năng xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ là nhu cầu cấp
bách và rất cần thiết.
Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay hiện nay phần này đã tạo
được môi trường pháp lý tương đối an toàn cho ngân hàng thương mại và các
chủ thể khi thiết lập quan hệ giao dịch bảo đảm tiền vay. Bên cạnh những thuận
lợi, thực tiễn xử lý tài sản vẫn phát sinh những khó khăn, vướng mắc nhất định
như đã trình bày trong chương này. Do đó, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp
62
pháp, chính đáng cho các ngân hàng thương mại nói chung và cho ngân hàng
thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng, tác giả muốn đưa ra những giải pháp
nhằm hạn chế, bất cập và những khó khăn, vướng mắc nêu trên để nâng cao
hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, góp phần tìm ra những giải pháp nhằm
hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đối với ngân hàng thương mại cổ phần
Bản Việt nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung.
63
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, với sự gia tăng mạnh của dư nợ tín dụng và
sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, những khó khăn nội tại của nền kinh tế
Việt Nam đã bộc lộ khiến nợ tồn đọng của các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh tăng lên, làm tăng tỉ lệ nợ xấu trong các định chế tài chính, đặc biệt là hệ
thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu ở các tổ chức tín dụng khá cao và có xu hướng
tăng nếu không có những giải pháp xử lý cấp bách, kịp thời. Các giải pháp tình
thế hiện nay và hệ thống khung pháp lý đã được ban hành và có cơ chế riêng
đối với hoạt động xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đối với hoạt động
mua - bán nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến khoản nợ xấu chưa có
môi trường để thực hiện và chưa phát sinh hiệu quả mà vẫn còn nhiều khó khăn,
vướng mắc.
Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của các ngân hàng thương
mại luôn đứng trước nguy cơ rủi ro mà chủ yếu là nguy cơ mất, thất thoát vốn;
giải pháp chính yếu hiện nay trong hoạt động cấp tín dụng (cho vay) của các
ngân hàng là bắt buộc người vay phải có tài sản bảo đảm của chính mình hoặc
bên thứ ba. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, bên cạnh những giải pháp khác thì xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cần thiết để các ngân hàng thu hồi
vốn nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại
không mong muốn xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng, bởi vì khi xử lý tài
sản bảo đảm thì có thể nhận định rằng khoản cho vay đó không đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng không phải lúc nào cũng
được tiến hành một cách thuận lợi mà có những trường hợp các ngân hàng
thương mại buộc phải xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng để thu hồi nợ vay.
Xuất phát từ quá trình hoạt động và những vấn đề xảy ra trong thực tiễn,
qua nghiên cứu, tìm tòi và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, tác giả đề
xuất những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử
64
lý tài sản bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại với mong muốn các
cơ quan lập pháp có cơ sở để xem xét, hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý
luận về cơ chế xử lý tài sản bảo đảm; đánh giá thực trạng về việc xử lý tài sản
bảo đảm tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung và tại ngân hàng
thương mại cổ phần Bản Việt nói riêng, làm rõ những bất cập, hạn chế và những
nội dung cần xử lý để làm tiền đề điều chỉnh và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
trong việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
các ngân hàng thương mại.
65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (2014) Thông tư liên tịch số 06/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN của
Bộ tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm, ban hành ngày 06 tháng 06
năm 2014, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Thông tư liên tịch
số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT của Bộ tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường
hướng dẫn đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, ban
hành ngày 23 tháng 06 năm 2016, Hà Nội.
3. Chính phủ (2012) Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng
12 năm 2006 của chính phủ về giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 22 tháng 02
năm 2012, Hà Nội.
4. Chính phủ (2006) Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 29 tháng 12 năm 2006, Hà Nội.
5. Chính phủ (1999) Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 29 tháng 12 năm
1999, Hà Nội.
6. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn
liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, ban hành ngày 19 tháng 7 năm 2017,
Hà Nội.
7. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (2018), Chỉ thị số 05/CT-NHNN của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, ban hành ngày 17 tháng 9 năm 2018,
Hà Nội.
8. Giáo trình Luật dân sự 2015 Tập 1, 2, Trường Đại học Luật Hà Nội,
9. Bùi Đức Giang (2017) “Xử lý tài sản bảo đảm theo Bộ luật Dân sự
NXB Tư pháp.
2015”, Cổng thông tin điện tử Ngân hàng nhà nước Việt Nam,
?leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SB V286858&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=2221717219 7538577#%40%3F_afrLoop%3D22217172197538577%26centerWidth%3D8 0%2525%26dDocName%3DSBV286858%26leftWidth%3D20%2525%26rig htWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%2 6_adf.ctrl-state%3D1g385k7pc_9>, (29/3/2017). 10. Bùi Đức Giang (2017), “Nhận bảo đảm bằng bất động sản hình thành trong tương lai từ chủ đầu tư dự án nhà ở”, trang thông tin điện tử thongtinphapluatdansu, dong-san-hnh-thnh-trong-tuong-lai-tu-chu-dau-tu-du-n-nh-o/>, (14/8/2017). 11. Thu Hà (2018) "Đã có nhiều bất cập xuất hiện khi triển khai nghị quyết 42 xử lý nợ xấu", Chuyên trang an ninh tiền tệ, nhieu-bat-cap-xuat-hien-khi-trien-khai-nghi-quyet-so-42-xu-ly-no-xau- 252418.htm>, (28/8/2018). 12. Trần Thế Hệ (2017) “Bàn về vấn đề thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý”, cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính – Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, dDocName=MOFUCM102367&dID=106274&_afrLoop=821046126828623 02#!%40%40%3FdID%3D106274%26_afrLoop%3D82104612682862302% 26dDocName%3DMOFUCM102367%26_adf.ctrl-state%3Dynbin1og5_4> (23/52017). 13. Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Phạm Hồng Minh Hoàng (2017) “Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các ngân hàng thương mại”, Tạp chí Tài chính điện tử, doi/trao-doi-binh-luan/thuc-trang-xu-ly-tai-san-bao-dam-tien-vay-tai-cac- ngan-hang-thuong-mai-129327.html>, (18/9/2017). 14. Nguyễn Thanh Vân (2014), “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay từ thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam", luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội. 15. Ngô Ngọc Linh (2015) Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản qua thực tiễn hoạt động tại các tổ chức tín dụng, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 16. Cấn Văn Lực (2019) “Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ”, Trang thông tin điện tử Cafef, va-de-xuat-thao-go-20190214113235953.chn>, (14/2/2019). 17. Nhất Nam (2019) “Nợ xấu hệ thống Ngân hàng giảm mạnh cuối năm 2018”, Báo điện tử VnEconomy, hang-giam-manh-cuoi-nam-2018-20190107103714394.htm>, (07/01/2019). 18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016) Thông tư số 39/2016/TT- NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, ban hành ngày 30/12/2016, Hà Nội. 19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính - Tổng cục địa chính (2001) Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN- BTP-BCA-BTC-TCĐC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính - Tổng cục địa chính hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 23 tháng 4 năm 2001, Hà Nội. 20. Quốc hội (2005) Bộ Luật Dân sự số 33/2005/QH11, ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005, Hà Nội. 21. Quốc hội (2015) Bộ Luật Dân sự số 91/2015/QH13, ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội. 22. Quốc hội (2015) Bộ Luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13, ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015, Hà Nội. 23. Quốc hội (2010) Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2010, Hà Nội. 24. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng số 17/2017/QH14, ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2017, Hà Nội. 25. Quốc hội (2017) Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc Hội về thí điểm xử lý nợ xấu, ban hành ngày 21 tháng 6 năm 2017, Hà Nội. 26. Lương Đình Thí (2018) Thế chấp bằng quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 27. Đặng Công Tráng, Phùng Thùy Dương và Hồ Hữu Tuấn (2017) “Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo bằng tiền vay là quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số khuyến nghị”, Tạp chí Công thương, số 2/2017, tr.15-20. 28. Nguyễn Lê Vũ (2018) Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật – Đại học Huế. 29. Lê Thị Thu Ánh (2015), “Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp của bên thứ ba tại ngân hàng thƣ ơng mại ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc Gia.