BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN BẢO ANH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,

KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO

ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN BẢO ANH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,

KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO

ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM QUANG HUY

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự

hướng dẫn của TS. Phạm Quang Huy. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong

đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.

Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác

giả thu thập được từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham

khảo. Một số quan điểm, nhận xét, đánh giá của tác giả khác đều được trích

dẫn và chú thích nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung

luận văn của mình.

Học viên

Nguyễn Bảo Anh

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM

HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT

DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ .............................................................................. 8

1.1. Khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm

vi đất dành cho đƣờng bộ ............................................................................ 8

1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đƣờng bộ ............................................................... 16

1.2.1. Xử phạt vi phạm hành chính ........................................................... 16

1.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ .............................................................................. 19

1.3. Chủ thể, nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử

phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành

cho đƣờng bộ .............................................................................................. 21

1.3.1. Chủ thể của hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ. ............................................................... 21

1.3.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ ................................................................ 22

1.3.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc

phục hậu quả về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

................................................................................................................... 26

1.3.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ ...................................................... 27

1.3.5. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ ...................................................... 30

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 33

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ

DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG

BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................... 34

2.1. Tổng quan về Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ............................. 34

2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư ..................................................................... 34

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ........................................................... 35

2.2. Tình hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đƣờng bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh .............. 36

2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................... 38

2.4. Nguyên nhân vi phạm. ........................................................................ 43

2.4.1. Nguyên nhân trong thiếu sót xử lý vi phạm hành chính ................. 43

2.4.2. Chủ thể tham gia xử phạt trên thực tế khác biệt với quy định pháp

luật. ............................................................................................................ 47

2.4.3. Quy định xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ bị chồng chéo. ....................................... 50

2.4.4. Quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số chủ thể quản lý

không phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về trình

tự, thủ tục. ................................................................................................. 55

2.4.5. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thi hành quyết định xử

phạt vi phạm hành chính còn chưa hiệu quả. ............................................ 57

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 59

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ

DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG

BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................... 61

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ......................................................... 62

3.1.1. Bổ sung các trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất

dảnh cho đường bộ .................................................................................... 62

3.1.2. Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt ........................................ 66

3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật ........................................................... 68

3.2.1. Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện công tác xử phạt vi phạm

hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ 68

3.2.2. Mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ

thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính. ................................ 70

3.2.3. Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử lý

các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ. .................................................................................................. 71

3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp

luật. ............................................................................................................ 75

Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 77

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng Tên bảng Trang

Bảng 2.1 Tình hình xử phạt vi phạm hành chính 42

trong lĩnh vực giao thông đường bộ của

Ủy ban nhân dân Quận 1 từ năm 2016-2018

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những hoạt động quan trọng

trong công tác quản lý hành chính của nhà nước về mọi lĩnh vực trong đời

sống. Bất kể quốc gia nào trên thế giới, không phân biệt thể chế chính trị,

trình độ phát triển kinh tế đều tập trung quản lý nền hành chính một cách hiệu

quả nhất nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm hành chính gây ảnh hưởng đến

hoạt động quản lý. Hoạt động quản lý hành chính rất đa dạng bao trùm lên

nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, giao thông, y tế… Trong số các

lĩnh vực nêu trên thì hoạt động quản lý trong lĩnh vực giao thông, cụ thể là

lĩnh vực giao thông đường bộ lại là một trong những lĩnh vực thường xuyên

xảy ra vi phạm chủ yếu xoay quanh các vi phạm về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ. Đây là một trong những loại vi phạm xảy ra

phổ biến trong lĩnh vực này và hiện đang nhận được sự quan tâm chỉ đạo của

các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương và trong thời gian qua đã

có những sự kiện nổi bật trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước,

tiêu biểu là công tác ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị của Ủy ban nhân dân

Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 1 dẫn

đầu đoàn công tác kể từ ngày 16/01/2017 và kéo theo đó là công cuộc ra quân

chấn chỉnh trật tự đô thị của các quận, huyện trong địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh và cả các tỉnh, thành phố khác trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên tình

trạng vi phạm các quy định về việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành

cho đường bộ vẫn còn tiếp tục xảy ra.

Các hành vi vi phạm về việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành

cho đường bộ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một quốc gia. Hoạt

động quản lý tốt sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của chính quốc gia đó và

ngược lại sẽ kiềm hãm sự phát triển. Các quốc gia trên thế giới hiện nay như

2

Pháp, Đức, Nhật Bản… đều quản lý việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ một cách hiệu quả đảm bảo đường thông, hè thoáng hạn

chế xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này như bán hàng

rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các

tuyến phố có quy định cấm bán hàng; sử dụng trái phép lòng đường đô thị, hè

phố để họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa chữa

phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo;

xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản trở

giao thông… (Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ và đường sắt)

Ở Việt Nam, hoạt động quản lý, xử phạt trong lĩnh vực này luôn được

chú trọng đối với các cấp chính quyền. Tuy nhiên, trải qua một quá trình hình

thành và phát triển lâu dài của lịch sử, tình trạng vi phạm pháp luật về việc sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ vẫn xảy ra cho đến nay.

Điều này gây ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là đối

với các cơ quan nhà nước tại các thành phố trực thuộc trung ương trong giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Tình trạng vi phạm sẽ làm ảnh

hưởng đến bộ mặt của các thành phố trực thuộc trung ương – nơi tập trung

nhiều nguồn lực phát triển nhất. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm trong sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ sẽ khiến cho ý thức

chấp hành pháp luật của người dân bị giảm đi, qua đó có tác động tiêu cực đối

với công tác quản lý nhà nước.

Chính vì những bất cập này đặt ra nhu cầu cần phải tìm hiểu và nghiên

cứu để từ đó đề xuất các phương hướng nhằm hoàn thiện các quy định về

quản lý việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại các

cấp chính quyền. Trong đó, nghiên cứu các quy định về việc xử phạt các hành

3

vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ nhằm phát hiện những mặt được và mặt chưa được của pháp luật hiện

hành, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động quản lý về việc

sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ và tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân trong việc thực thi pháp luật.

Nguyên nhân nêu trên cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài

“Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chính Minh” làm luận văn

thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ là một trong các lĩnh vực được sự quan tâm nghiên cứu

của nhiều nhà khoa học cũng bởi chính sự quan trọng của nó trong hoạt động

quản lý nhà nước. Qua việc tìm hiểu và khảo sát các công trình nghiên cứu

khoa học liên quan đến lĩnh vực trên, tác giả nhận thấy có một số công trình

tiêu biểu, cụ thể như sau:

Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn

và phương pháp hoàn thiện” của Vũ Thanh Nhàn (2010). Luận văn tập trung

nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật trong

lĩnh vực này.

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Đông (2011), “Xử lý vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh)”. Tác

giả nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ, đồng thời phân tích thực trạng xử lý vi phạm

4

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh và

giải pháp hoàn thiện.

Các công trình nêu trên tập trung chủ yếu nghiên cứu các thực trạng và

một số vấn đề pháp lý trong hoạt động quản lý giao thông đường bộ và xử

phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường bộ. Các vấn đề này sẽ là

nguồn tư liệu cho đề tài của tác giả về phân tích một số nội dung liên quan

đến xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành

cho đường bộ - vốn là bộ phận của giao thông đường bộ.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ nêu trên còn một

số công trình nghiên cứu khác có nội dung bao hàm lĩnh vực quản lý nhà

nước về giao thông đường bộ như các loại sách, báo và tạp chí khoa học pháp

lý có liên quan như:

Tạp chí Luật học số 9/2013, tr. 41: “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Những bất cập và hướng hoàn

thiện”, của Cao Vũ Minh (2013). Tác giả phân tích những điểm bất cập trong

Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 04 năm 2010 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ về việc

trích tiền phạt cho lực lượng cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông, thẩm

quyền xử phạt… về đề xuất sửa đổi một số quy định liên quan đến vấn đề

trên.

Trần Sơn Hà (2012), “Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong xử lý vi

phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ”, Quản lý nhà nước. Học viện

Hành chính, số 8/2012, tr. 50. Tác giả tập trung phân tích các quy định trong

việc xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ rồi đề xuất các

phương hướng nhằm cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.

Các bài báo, tạp chí nêu trên đều phân tích một mặt nhất định trong hoạt

động xử lý vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

5

bộ; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và đây cũng là một trong các nội dung

mà tác giả phân tích trong đề tài luận văn của mình.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại chưa phát hiện một công trình

nghiên cứu chuyên sâu về các quy định liên quan đến xử phạt vi phạm hành

chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Do đó, tác

giả chọn đề tài này để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Thông qua việc nghiên cứu luận văn, tác giả phân tích được các vấn đề

lý luận về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ. Từ đó làm rõ các mặt được và mặt chưa

được về các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động xử phạt vi phạm

hành chính, để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện

hệ thống pháp luật. Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết được

các vấn đề sau:

Một là, làm rõ các cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành

chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo pháp

luật hiện hành.

Hai là, phải phân tích được những điểm tích cực, những điểm hạn chế

bất cập trong quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ.

Ba là, nêu ra được một số kiến nghị, giải pháp thiết thực để hoàn thiện

xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng. Mỗi loại hành vi

6

đều có một mức xử phạt khác nhau và sẽ có những cơ quan khác nhau có

thẩm quyền đối với các loại vi phạm này.

- Phạm vi nghiên cứu: Ủy ban nhân dân Quận 1 là cơ quan đã có đóng

góp tích cực trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ, chấn chỉnh trật tự đô thị của Đoàn liên

ngành Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận

1 dẫn đầu và hoạt động này đã kéo theo sự ra quân rầm rộ trên phạm vi cả

nước. Căn cứ Điều 70 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

và đường sắt thì chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng bao gồm

các chủ thể như Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát

phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính, Trưởng

Công an cấp xã;… Tuy nhiên tại Ủy ban nhân dân Quận 1, chủ thể tham gia

công tác kiểm tra, chủ yếu trong lĩnh vực nêu trên chính là Đội Quản lý trật tự

đô thị thuộc Phòng Quản lý đô thị Quận 1.

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, tác giả chỉ tập trung phân

tích việc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay vì đây là giai đoạn quyết liệt trong công

tác chấn chỉnh trật tự đô thị của Quận 1 nói riêng và cả nước nói chung. Do

đó, phân tích việc xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở khách quan để đánh giá được tình hình xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: Để hoàn thành tốt công trình nghiên cứu này, tác

giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ

7

nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và

Nhà nước trong việc xây dựng và thi hành pháp luật.

- Phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh phương pháp luận, tác giả còn sử

dung một số phương pháp khoa học như: phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử.

Cụ thể:

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: là các phương pháp được sử dụng

chủ yếu xuyên suốt trong luận văn nhằm làm sáng rõ vấn đề lý luận, cơ sở

pháp lý trong việc xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ đó phát hiện những bất cập, hạn chế và đề xuất phương án giải quyết.

+ Phương pháp lịch sử, so sánh: tác giả chủ yếu sử dụng để so sánh, đối

chiếu, xem xét các quy định giữa quá khứ và hiện tại để tìm ra các mặt tích

cực, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp

lý về xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện

chính sách pháp luật về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ; là tài liệu tham khảo cho

công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói

chung và về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng.

8

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM

HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI

ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ

1.1. Khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đƣờng bộ

Để tìm hiểu rõ khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ thì trước tiên phải phân tích được khái niệm

vi phạm hành chính dựa trên cơ sở luật định.

Vi phạm hành chính là một loại hành vi vi phạm pháp luật xảy ra khá

phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện

nay. Hành vi này mang tính chất thường xuyên, xảy ra với số lượng tương đối

lớn đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích của Nhà

nước, tập thể, cá nhân trong từng lĩnh vực cụ thể.

Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh

Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã chỉ rõ:

“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý

hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội

phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.

Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh Xử lý vi

phạm hành chính năm 2002 đều không trực tiếp đưa ra khái niệm cụ thể về vi

phạm hành chính mà chỉ thể hiện một cách gián tiếp thông qua khái niệm về

xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên về cơ bản, tác giả nhận thấy quan

điểm về vi phạm hành chính trong thời kỳ này cũng gồm các đặc trưng như

khái niệm vi phạm hành chính trong Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính

năm 1989: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện có lỗi cố ý hoặc vô ý; xâm

9

phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo

quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính (Khoản 2, Điều 1 Pháp

lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành

chính năm 2002).

Hiện nay khái niệm “vi phạm hành chính” được quy định rõ ràng tại

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 với nội dung cụ thể như sau: “Vi

phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy

định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo

quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Đối chiếu với

các quy định trước đây về khái niệm “vi phạm hành chính”, các khái niệm về

thuật ngữ này đều bao gồm một số đặc trưng cơ bản như sau:

Một là, vi phạm hành chính là hành vi có lỗi;

Hai là, chủ thể thực hiện là cá nhân, tổ chức;

Ba là, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không

phải là tội phạm;

Bốn là, vi phạm hành chính phải bị xử phạt hành chính (tức là phải chịu

một hoặc nhiều hình thức xử phạt đã được quy định trong Luật Xử lý vi phạm

hành chính 2012 như cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép,

chứng chỉ hành nghề có thời hạn…).

Khái niệm về vi phạm hành chính đã được “luật hóa” từ năm 1989 tuy

nhiên sau nhiều lần sửa đổi quy định pháp luật thì nội hàm của thuật ngữ này

về cơ bản vẫn mang bốn đặc trưng nêu trên. Tuy nhiên, một số nhà nghiên

cứu cho rằng khái niệm này không bộc lộ rõ được bản chất của vi phạm hành

chính. Trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia do PGS.TS Nguyễn Cửu Việt làm chủ biên lại cho rằng việc ấn định

khách thể của vi phạm hành chính là hoạt động quản lý nhà nước như tại

Khoản 1, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thực chất không nói lên

10

được khách thể của vi phạm mà chỉ nói lên được tính trái luật của hành vi, bởi

ở đây khách thể của vi phạm pháp luật luôn là quan hệ xã hội chứ khách thể

không thể là “quy định của pháp luật về quản lý nhà nước”. Hơn thế, nội hàm

của “quản lý nhà nước” là vô cùng rộng, chính vì vậy khi đồng nhất khách thể

của vi phạm hành chính với “trật tự quản lý nhà nước” dễ tạo ra sự lúng túng

khi tiếp cận khái niệm khoa học, bởi suy cho cùng tất cả các ngành luật đều

bảo vệ “trật tự quản lý nhà nước”.

Bên cạnh đó, việc các nhà làm luật sử dụng cụm từ “mà không phải là tội

phạm” để xác định hành vi nào là hành vi bị xử lý hành chính, thay vì bị xử lý

hình sự khi hành vi đó vi phạm các “quy định về quản lý nhà nước” dễ làm

cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhầm tưởng mình có thẩm

quyền để xác định hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi phạm

pháp luật hình sự (tội phạm), bởi trên thực tế việc xác định hành vi nào là vi

phạm hành chính, hành vi nào là tội phạm thuộc thẩm quyền của các nhà làm

luật chứ không phải của chủ thể áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, định nghĩa

khái niệm của ngành luật này thông qua khái niệm của một ngành luật khác là

không nên [16, tr. 496].

Tiếp nhận quan điểm trên, tác giả nhận thấy khái niệm vi phạm hành

chính hiện nay còn một số hạn chế trong kỹ thuật lập pháp. Thiết nghĩ quy

định khái niệm vi phạm hành chính nên theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn

Cửu Việt và quy định như sau: “vi phạm hành chính là hành vi (hành động

hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có

năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự

nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà nước, tổ chức và cá nhân;

xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân

mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính” [16,

tr. 536].

11

Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật do đó nó gồm các

yếu tố cấu thành như sau: Mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể và khách

thể.

Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài

của hành vi vi phạm hành chính bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân

quả giữa hành vi và hậu quả, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm hành

chính.

Mặt chủ quan là thái độ tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi vi

phạm hành chính bao gồm các yếu tố như lỗi, động cơ và mục đích. Yếu tố lỗi

là yếu tố cơ bản nhất của mặt chủ quan. Lỗi chính là trạng thái tâm lý của

người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm và hậu

quả của hành vi đó. Lỗi trong vi phạm hành chính được thể hiện dưới hai hình

thức: lỗi cố ý (cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (vô ý vì cẩu thả, vô ý

vì quá tự tin). Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành

vi vi phạm hành chính. Mục đích là những gì mà chủ thể mong muốn đạt

được khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực trách

nhiệm pháp lý thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Cá nhân là chủ thể của

vi phạm hành chính bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài có

năng lực trách nhiệm pháp lý. Yếu tố để xác định năng lực trách nhiệm pháp

lý của cá nhân là độ tuổi và không bị mắc các bệnh làm mất khả năng nhận

thức hành vi. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì các chủ thể bị xử

phạt vi phạm hành chính bao gồm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử

phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi

trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính.

12

Đối với tổ chức, năng lực trách nhiệm pháp lý xuất hiện từ khi tổ chức

được thành lập một cách hợp pháp. Tổ chức cũng là chủ thể của vi phạm hành

chính.

Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh

trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được pháp luật bảo vệ bị hành

vi vi phạm hành chính xậm hại. Các quan hệ xã hội có thể bị vi phạm hành

chính xâm phạm rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu xã hội

chủ nghĩa, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,...

Trên cơ sở phân tích khái niệm về vi phạm hành chính, có thể khái quát

vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ cơ bản như sau: là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp

luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính

hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý,

sở hữu của nhà nước, tổ chức và cá nhân; xâm phạm các quyền, tự do và lợi

ích hợp pháp của con người, của công dân về việc sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ mà theo quy định của pháp luật phải chịu

trách nhiệm hành chính.

Để phân tích được cụ thể các loại hành vi vi phạm hành chính về sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ thì trước tiên phải

nghiên cứu các thuật ngữ “đường bộ”. “đất dành cho đường bộ”, “sử dụng” và

“khai thác”

Về mặt thuật ngữ, khái niệm “đường bộ” theo Từ điển Tiếng Việt do GS.

Hoàng Phê làm chủ biên được hiểu là “đường đi trên đất liền, dùng cho người

đi bộ và cho xe cộ” [9, tr. 357-359]. Mặc dù được diễn giải một cách cơ bản

tuy nhiên cách định nghĩa trên đã phần nào cho thấy được phạm vi cũng như

chức năng của đường bộ. Theo cách diễn giải trên có thể hiểu đường bộ là

13

khoảng không gian trên đất liền có chức năng phục vụ cho người trong mục

đích di chuyển từ nơi này đến nơi khác.

Về mặt pháp lý, khái niệm “đường bộ” được quy định tại Khoản 1, Điều

3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008: “Đường bộ gồm đường, cầu đường

bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Quy định hiện hành không giải thích

cụ thể thế nào là đường bộ mà chỉ liệt kê các bộ phận của đường bộ. Tuy

nhiên, nếu so sánh về chức năng chính của các bộ phận này thì cũng thấy rõ

chức năng của đường bộ cũng phục vụ cho mục đích giao thông. Bên cạnh đó,

đối với các đô thị thì đường bộ có tên gọi khác là đường phố bao gồm lòng

đường và hè phố (Khoản 8, Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2001).

Đối với thuật ngữ “đất dành cho đường bộ”. Quy định pháp luật như sau:

“Phạm vi đất dành cho đường bộ gồm đất của đường bộ và đất hành lang an

toàn đường bộ” (Khoản 1 Điều 43 Luật Giao thông đường bộ năm 2008).

Trong đó, “đất của đường bộ” được quy định như sau: “đất của đường bộ là

phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng và phần đất dọc hai bên

đường bộ để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ” (Khoản 4, Điều 3

Luật Giao thông đường bộ năm 2008).

Căn cứ cơ sở pháp lý nêu trên có thể nhận thấy về cơ bản đất của đường

bộ là phần đất bao gồm công trình đường bộ và phần đất dọc hai bên đường

bộ. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008 thì:

“công trình đường bộ gồm đường bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đèn

tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu, rào chắn, đảo giao thông, dải

phân cách, cột cây số, tường, kè, hệ thống thoát nước, trạm kiểm tra tải trọng

xe, trạm thu phí và các công trình, thiết bị phụ trợ đường bộ khác”. Trên cơ

sở quy định của pháp luật, phạm vi đất dành cho đường bộ tương đối rộng là

tổng thể các thành phần của đường bộ, và các công trình trên nó như nơi dừng

xe, vạch kẻ đường, đèn tín hiệu, dải phân cách… Các thành phần này kết hợp

14

lại tạo thành một cảnh quan rộng lớn trên đường bộ bên cạnh chức năng phục

vụ giao thông còn nhiều chức năng khác tùy thuộc vào chức năng riêng lẻ của

các thành phần trong phạm vi đất dành cho đường bộ.

Thuật ngữ “sử dụng” và “khai thác” trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng

Phê làm chủ biên định nghĩa như sau: “sử dụng là đem dùng vào mục đích

nào đó” và “khai thác là tiến hành hoạt động để thu lấy những nguồn lợi sẵn

có trong trong thiên nhiên hoặc phát hiện và sử dụng những cái có ích còn ẩn

giấu hoặc chưa được tận dụng” [9, tr. 490, 876].

Từ việc nghiên cứu các thuật ngữ nêu trên, có thể xem xét việc sử dụng,

khai thác trên phạm vi đất dành cho đường bộ là các hoạt động của cá nhân,

tổ chức với mục đích là thu lấy các nguồn lợi trong phạm vi phần đất dọc hai

bên đường bộ như vỉa hè và phần đất mà các công trình đường bộ được xây

dựng trên đó.

Hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ được

quy định cụ thể tại Chương 6 Nghị định 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010

của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông

đường bộ và được bổ sung tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-CP

ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định

11/2010/NĐ-CP. Căn cứ cơ sở pháp lý nêu trên, hành vi sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ gồm một số hành vi sau: Sử dụng tạm

thời một phần hè phố, lòng đường không vào mục đích giao thông hoặc làm

nơi trông, giữ xe; Sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa; Xây dựng

các công trình thiết yếu; Sử dụng đất dành cho đường bộ; Khai thác, sử dụng

trong phạm vi đất hành lang an toàn đường bộ; Đấu nối vào quốc lộ và thi

công công trình trên đường bộ đang khai thác.

Trong đó, các trường hợp sử dụng tạm thời một phần vỉa hè ngoài mục

đích giao thông được quy định cụ thể tại Điều 25 Nghị định 11/2010/NĐ-CP

15

ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng

giao thông đường bộ được bổ sung tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định

100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi một số điều của

Nghị định 11/2010/NĐ-CP, bao gồm các hoạt động như:

Một là, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước. Thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 30 ngày; trường hợp

thời gian sử dụng tạm thời lớn hơn 30 ngày phải được Bộ Giao thông vận tải

(đối với quốc lộ) hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với các hệ thống đường

địa phương) chấp thuận;

Hai là, tổ chức đám tang và điểm trông, giữ xe phục vụ đám tang của hộ

gia đình; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 48 giờ, trường hợp đặc

biệt không được quá 72 giờ;

Ba là, tổ chức đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới của hộ

gia đình; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 48 giờ;

Bốn là, điểm trông, giữ xe phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao, diễu

hành, lễ hội; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá thời gian tổ chức

hoạt động văn hóa đó;

Năm là, điểm trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ thi

công công trình của hộ gia đình; thời gian sử dụng từ 22 giờ đêm ngày hôm

trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau;

Sáu là, sử dụng tạm thời một phần hè phố để trông, giữ xe có thu phí;

Hành vi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa

dạng. Các chủ thể trong quá trình thực hiện các hành vi trong lĩnh vực này

nếu xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà

nước, tổ chức và cá nhân; xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của

con người, của công dân thì phải thì bị xem làm vi phạm hành chính về sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ.

16

1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ

1.2.1. Xử phạt vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính là hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Mặc

dù, xét về tính chất chưa đến mức phải xem là tội phạm nhưng hành vi vi

phạm hành chính lại xâm phạm đến hoạt động quản lý của nhà nước làm ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, để hạn chế

cũng như thực hiện biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm, Nhà nước

đã sử dụng một công cụ thực thi pháp luật đó chính là xử phạt vi phạm hành

chính để ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối các chủ thể vi phạm pháp luật

hành chính.

Từ ngữ “xử phạt vi phạm hành chính” được quy định tại Khoản 2, Điều

2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 với nội dung như sau: “xử phạt vi

phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử

phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi

vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính”

Từ quy định nêu trên có thể hiểu xử phạt vi phạm hành chính là hoạt

động của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được quyền ban

hành quyết định áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu

quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi vi phạm hành chính mà

theo quy định pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì xử phạt vi

phạm hành chính bao gồm hai hình thức: hình thức phạt chính và hình thức

phạt bổ sung.

Hình thức phạt chính được áp dụng một cách độc lập, một hành vi vi

phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức phạt chính mà không cần phải

17

áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo, nhưng chỉ có thể áp dụng một

trong những hình thức phạt chính không thể áp dụng một lúc nhiều hình thức

phạt chính đối với hành vi vi phạm hành chính. Hình thức phạt bổ sung không

được áp dụng một cách độc lập, mà được áp dụng chung với một hình thức

phạt chính nào đó.

Hình thức xử phạt chỉ được áp dụng dưới hình thức phạt chính bao gồm

cảnh cáo và phạt tiền:

Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính

không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng

hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do

người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo

được quyết định bằng văn bản. Cảnh cáo trong xử phạt vi phạm hành chính và

cảnh cáo theo Bộ luật Hình sự, Luật Cán bộ, công chức có sự khác nhau:

Trong luật hình sự, cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm

trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt

(Điều 34 Bộ luật Hình sự 2015). Trong Luật Cán bộ, công chức, cảnh cáo là

một hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức khi vi phạm quy định của

Luật Cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Phạt tiền là hình thức xử phạt vi phạm hành chính mà người vi phạm

phải nộp phạt bằng tiền mặt. Mỗi loại hành vi vi phạm sẽ có khung tiền phạt

khác nhau. Phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính khác với phạt tiền

trong Bộ luật Hình sự. Trong xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền là hình

thức phạt chính, chủ yếu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Còn

trong Bộ luật Hình sự, phạt tiền là hình thức phạt chính hoặc có thể là hình

phạt bổ sung do Tòa án quyết định.

Hình thức xử phạt có thể có thể được áp dụng dưới hình thức xử phạt bổ

sung hoặc hình thức xử phạt chính bao gồm: Tước quyền sử dụng giấy phép,

18

chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch

thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành

chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính) hoặc

Trục xuất (Mục 1, Chương I Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).

Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình

thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các

hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị

tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không

được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Không thể áp dụng biện pháp này nếu người vi phạm hành chính và sự việc vi

phạm không liên quan đến việc sử dụng giấy phép đó.

Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối

với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp như: hoạt động

gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng

đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép (Đình chỉ

một phần hoạt động) hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc hoạt

động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép và hoạt

động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả

nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật tự, an

toàn xã hội (Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động).

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân

sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi

phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do

lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức. Biện pháp này chỉ được áp dụng khi chủ thể vi

phạm sử dụng vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi

phạm hành chính.

19

Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi

phạm hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

Ngoài các hình thức mang tính chất xử phạt nêu trên, Luật Xử lý vi

phạm hành chính 2012 còn quy định các biện pháp mang tính chất “khôi

phục” nhằm khôi phục lại các thiệt hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra

mà theo quy định của Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 gọi là các

biện pháp khắc phục hậu quả. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:

Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc tháo dỡ công trình, phần công

trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;

Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan

dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;... hoặc các biện pháp

khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định. Mỗi vi phạm hành chính,

ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính

có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Trong một số

trường hợp mà chủ thể có thẩm quyền xử phạt không ban hành quyết định xử

phạt thì có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như một hình thức áp

dụng độc lập (Khoản 2, Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).

Để ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm hành

chính mà người có thẩm quyền có thể áp dụng các hình thức xử phạt và biện

pháp khắc phục hậu quả nêu trên để kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm

và khôi phục lại các thiệt hại do chủ thể vi phạm hành chính gây ra.

1.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ

Căn cứ các phân tích về nội dung vi phạm hành chính về sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ và xử phạt vi phạm hành chính, có

20

thể suy luận xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ là: việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình

thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với các cá nhân, tổ chức vi

phạm hành chính trong một số hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ như sử dụng tạm thời một phần hè phố, lòng đường không

vào mục đích giao thông, sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa, xây

dựng các công trình thiết yếu,… mà theo quy định pháp luật phải bị xử phạt vi

phạm hành chính.

Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ được quy định cụ thể tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-

CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt gồm một số hành vi như

sau: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị,

trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng; Chiếm dụng lòng đường

đô thị hoặc hè phố làm nơi trông, giữ xe; Sử dụng trái phép lòng đường đô thị,

hè phố để: Họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa

chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển quảng

cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản

trở giao thông;…. Mọi chủ thể vi phạm hành chính trong việc sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đều bị xử phạt vi phạm hành chính

bằng hình thức phạt tiền và đồng thời phải thực hiện các biện pháp khắc phục

hậu quả tùy loại hành vi tương ứng.

21

1.3. Chủ thể, nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử

phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành

cho đƣờng bộ

1.3.1. Chủ thể của hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Căn cứ vào các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ được quy định tại Điều 12 Nghị định

46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, theo tác giả có

thể phân loại chủ thể của hành vi vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực

này gồm một số loại như sau:

Một là, cá nhân, tổ chức kinh doanh, buôn bán trên lòng đường, vỉa hè.

Dựa trên cở sở phân tích các khái niệm nêu trên có thể thấy sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ chính là các chủ thể thu lấy các nguồn

lợi trong phạm vi phần đất dọc hai bên đường bộ như vỉa hè và phần đất mà

các công trình đường bộ được xây dựng trên đó. Điển hình cho việc thu lợi

này chính là thông qua các hoạt động như kinh doanh, buôn bán trên lòng

đường, vỉa hè. Một số hành vi vi phạm chủ yếu đối với cá nhân, tổ chức kinh

doanh, buôn bán trên lòng đường, vỉa hè phải bị xử phạt vi phạm hành chính

như: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị,

trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng; Họp chợ, mua, bán hàng

hóa trong phạm vi đất của đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị; Họp chợ;

kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy

móc, thiết bị; rửa xe; Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố làm nơi

trông, giữ xe;...

Hai là, cá nhân, tổ chức có hành vi xây dựng trái quy định. Trong quá

trình xây dựng, các chủ thể này đã có hành vi khai thác trái phép các nguồn

22

lợi từ việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Một số

hành vi tiêu biểu trong hoạt động này như: Xây dựng nhà ở, công trình kiên

cố khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ; Mở đường nhánh đấu

nối trái phép vào đường chính; Dựng biển quảng cáo trên đất hành lang an

toàn đường bộ khi chưa được cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền đồng

ý bằng văn bản hoặc dựng biển quảng cáo trên phần đất dọc hai bên đường bộ

dùng để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ; Tự ý đào, đắp, san, lấp

mặt bằng trong: Hành lang an toàn đường bộ, phần đất dọc hai bên đường bộ

dùng để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ;…

Ba là, cá nhân, tổ chức có hành vi gây mất mỹ quan đô thị. Việc xả thải,

đổ rác, vật liệu xây dựng trên lòng đường, hè phố là một trong những hành vi

phổ biến của các chủ thể nói trên. Tiêu biểu cho các hành vi vi phạm này

được quy định cụ thể như sau: Đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi

quy định; Phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên đường bộ; Xả nước

thải xây dựng từ các công trình xây dựng ra đường phố.

1.3.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Quy định pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về nguyên tắc xử

phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ nhưng về cơ bản các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành

chính đối với bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều phải đảm bảo thống nhất với các

nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính

2012, cụ thể phải đảm bảo các nguyên tắc như sau:

Một là, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời

và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải

được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;

23

Nguyên tắc này thể hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tồ chức và

cá nhân trong việc đề cao ý thức phòng chống các hành vi vi phạm hành

chính, tự giác tham gia phát hiện và tố giác vi phạm hành chính. Người có

thẩm quyền phải luôn luôn trên tinh thần cảnh giác không để vi phạm hành

chính xảy ra trong phạm vi quản lý của mình. Chẳng hạn đối với một số hành

vi trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ như: sử

dụng trái phép lòng đường đô thị, hè phố để họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn

uống; chiếm dụng lòng đường hoặc hè phố làm nơi trông giữ xe… người có

trách nhiệm quản lý phải có biện pháp xử phạt tức thời, không bao che, dung

túng cho hành vi vi phạm và buộc chủ thể vi phạm phải trả lại nguyên trạng

không gian đường bộ như tình trạng trước khi có hành vi vi phạm.

Hai là, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng,

công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định

của pháp luật;

Xử phạt nhanh chóng chính là yêu cầu cần thiết trong hoạt động xử phạt

vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền phải xác minh đầy đủ các tình tiết

chứng minh hành vi vi phạm của chủ thể vi phạm trong thời gian sớm nhất để

đảm bảo hiệu quả xử phạt. Ví dụ đối với các hành vi sử dụng trái phép lòng

đường, hè phố để kinh doanh dịch vụ ăn uống, cần phải xử phạt ngay khi các

chủ thể có hành vi vi phạm nếu không sẽ không có tác dụng răn đe. Nếu xử

phạt chậm trễ các chủ thể đã có thể chiếm lợi ích từ chính hành vi vi phạm do

mình gây ra và không những thể còn khiến hành vi đó được phổ biến rộng rãi

hơn làm ảnh hưởng công tác quản lý nhà nước.

Bên cạnh việc xử phạt nhanh chóng còn phải đảm bảo công khai, khách

quan, đúng thẩm quyền, công bằng và đúng quy định pháp luật. Đây là những

nguyên tắc tất yếu trong việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước. Đảm

24

bảo công tác xử phạt vi phạm hành chính phải đúng trình tự, thủ tục luật định

để tránh các trường hợp oan sai, không đúng người, đúng tội.

Ba là, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức

độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng

nặng;

Mỗi hành vi vi phạm đều có đặc thù riêng và có phạm vi ảnh hưởng khác

nhau. Do đó tùy thuộc vào các yếu tố như tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm,

đối tượng vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng mà các hình thức xử

phạt và biện pháp khắc phục hậu quả cũng khác nhau. Ví dụ hành vi chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố dưới 05 m2 làm nơi trông, giữ xe (Phạt

tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức) còn nếu chiếm dụng từ 05 m2 đến dưới 10 m2 sẽ có mức xử phạt cao hơn (Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến

6.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 8.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối

với tổ chức) (Điểm c, Khoản 4 và Điểm g, Khoản 5, Điều 12 Nghị định

46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt). Nguyên tắc này

gắn liền với nguyên tắc công khai, khách quan nêu trên.

Bốn là, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành

chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt

một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi

người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người

thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều

lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;

Nguyên tắc này khẳng định chỉ khi nào hành vi vi phạm hành chính được

pháp luật quy định thì mới có thể xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp

nếu chủ thể thực hiện hành vi gây ảnh hưởng đến hoạt động quản nhà nước

25

tuy nhiên quy định pháp luật lại không quy định về hành vi đó phải bị xử phạt

hành chính thì không thể xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi nói trên.

Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần mà không được

xử phạt từ hai lần trở lên. Trường hợp nhiều người cùng thực hiện một hành

vi vi phạm hành chính (có thể hiểu là vi phạm có tổ chức) thì mỗi người sẽ bị

xử phạt riêng (mỗi người sẽ có quyết định xử phạt vi phạm hành chính riêng

biệt).

Việc một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính sẽ bị xử

phạt về từng hành vi vi phạm là phù hợp. Tuy nhiên nguyên tắc quy định một

người vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm thì

quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 lại xem đây là một tình tiết

tăng nặng chứ không phải bị xử phạt từng hành vi vi phạm. Nguyên tắc này

dường như không phù hợp trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Khoản 6, Điều 2

Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 giải thích như sau: “Vi phạm hành chính

nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành

chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa

bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý”. Trường hợp này khi áp dụng hình thức

xử phạt chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng và chỉ xử lý một lần chứ không bị xử

phạt đối với từng hành vi vi phạm [7, tr. 98].

Năm là, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi

phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông

qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;

Nguyên tắc này thể hiện trách nhiệm chứng minh lỗi vi phạm là thuộc về

người có thẩm quyền xử phạt. Khi nào chưa chứng minh được lỗi vi phạm

thuộc về người bị nghi là vi phạm hành chính thì không được xử phạt vi phạm

hành chính.

26

Sáu là, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền

đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân;

Nguyên tắc quy định mức phạt tiền của tổ chức bằng 02 lần mức phạt

tiền đối với cá nhân có thể hiểu quan điểm của nhà làm luật cho rằng hành vi

vi phạm của tổ chức gây hậu quả lớn hơn cá nhân và khả năng kinh tế để chịu

trách nhiệm đối với các mức phạt tiền cũng lớn hơn so với cá nhân vì vậy khi

tổ chức vi phạm hành chính thì mức xử phạt phải gấp đôi cá nhân.

1.3.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc

phục hậu quả về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ đều bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều

12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi này chủ yếu là

hình thức phạt tiền (đối với tổ chức vi phạm thì mức phạt gấp 02 lần). Bên

cạnh việc xử phạt tiền thì một số loại hành vi còn phải áp dụng các biện pháp

khắc phục hậu quả buộc phải dỡ bỏ các công trình xây dựng trái phép, biển

quảng cáo, di dời cây trồng trái phép, thu dọn rác, vật tư, vật liệu, chất phế

thải, hàng hóa, máy móc, thiết bị, các loại vật dụng và khôi phục lại tình trạng

ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra (Khoản 9, Điều 12 Nghị

định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt). Ứng với

từng loại hành vi mà các biện pháp khắc phục hậu quả sẽ khác nhau. Chẳng

hạn, hành vi xây dựng nhà ở, công trình kiên cố khác trái phép trong phạm vi

đất dành cho đường bộ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo hình thức phạt

tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 30.000.000

đồng đến 40.000.000 đồng đối với tổ chức và bị áp dụng biện pháp khắc phục

27

hậu quả như buộc phải dỡ bỏ các công trình xây dựng trái phép và khôi phục

lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.

Mục đích của hình thức xử phạt tiền và áp dụng các biện pháp khắc phục

hậu quả kể trên chủ yếu để người vi phạm hành chính phải có trách nhiệm đối

với hành vi của mình gây ra và phải trả lại tình trạng ban đầu trước khi có

hành vi vi phạm gây ra để khôi phục không gian trong phạm vi đất dành cho

đường bộ. Nếu chỉ xử phạt tiền mà không buộc chủ thể vi phạm khắc phục

hậu quả thì sẽ dễ xảy ra trường hợp phạt tiền để được tiếp tục thực hiện hành

vi vi phạm.

1.3.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Chủ thể xử lý vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ rất đa dạng. Mỗi chủ thể sẽ có thẩm quyền xử phạt đối

với các loại hành vi khác nhau được phân định cụ thể tại Điều 70 Nghị định

46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt với nội dung

như sau:

Thứ nhất, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt tất

cả hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ. Việc phân định thẩm quyền xử phạt giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân các

cấp phụ thuộc vào mức phạt tiền của hành vi vi phạm.

Đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thì Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt phạt tiền đến 4.000.000 đồng đối với hành

vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ của cá nhân (8.000.000 đồng

đối với tổ chức vi phạm). Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền

xử phạt theo hình thức phạt tiền đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân và

40.000.000 đồng đối với tổ chức. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm

28

quyền xử phạt theo hình thức phạt tiền đến 40.000.000 đồng đối với cá nhân

và 80.000.000 đồng đối với tổ chức. Đối chiếu với quy định xử phạt vi phạm

hành chính vể sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ thì

mức phạt cao nhất 20.000.000 đồng đối với cá nhân và 40.000.000 đồng đối

với tổ chức vì vậy các hành vi này chủ yếu do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

xã và cấp huyện xử lý.

Thứ hai, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động,

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cũng có thẩm quyền xử phạt đối

với tất cả hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ. Mức xử phạt tiền của các lực lượng này được xử phạt đến

8.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường

bộđối với cá nhân vi phạm. Do đó trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ các chủ thể này chỉ có thể xử phạt đối với các

hành vi vi phạm từ Khoản 1 đến Khoản 6, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP

ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt mà không thể xử phạt đối với các hành vi như: Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố từ 20 m2 trở lên làm

nơi trông, giữ xe; Dựng biển quảng cáo trên đất hành lang an toàn đường bộ

khi chưa được cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản

hoặc dựng biển quảng cáo trên phần đất dọc hai bên đường bộ dùng để quản

lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ; Xây dựng nhà ở, công trình kiên cố

khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ hoặc Mở đường nhánh

đấu nối trái phép vào đường chính.

Thứ ba, Trưởng Công an cấp xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành

chính đối với các hành vi vi phạm tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Điều 12

Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt do thẩm

29

quyền xử phạt của Trưởng Công an cấp xã chỉ có thể xử phạt với mức tiền

phạt đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân và 4.000.000 đối với tổ chức (Khoản

3, Điều 72 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và

đường sắt). Một số hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của

Trưởng Công an cấp xã tiêu biểu như sau: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa

nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm

bán hàng; Chiếm dụng dải phân cách giữa của đường đôi làm nơi: Bày, bán

hàng hóa; để vật liệu xây dựng; Chiếm dụng dải phân cách giữa của đường

đôi làm nơi để xe, trông, giữ xe…

Thứ tư, Thanh tra giao thông vận tải trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ

được giao có thẩm quyền xử phạt đối với tất cả hành vi vi phạm về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Thanh tra viên thuộc Sở Giao

thông vận tải chỉ có thẩm quyền xử phạt đến 400.000 đồng đối với cá nhân và

800.000 đồng đối với tổ chức còn Chánh Thanh tra sở Giao thông vận tải

được xử phạt đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân và 40.000.000 đồng đối

với tổ chức.

Thứ năm, Thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường chỉ có thẩm quyền

xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi được quy định Điểm đ, Khoản 2,

và Điểm a, Khoản 5, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016

của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ và đường sắt như: Đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng

nơi quy định; Đổ, để trái phép vật liệu, chất phế thải trong phạm vi đất dành

cho đường bộ.

30

1.3.5. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ được áp dụng theo quy định của Luật Xử lý

vi phạm hành chính 2012 với một số trình tự như sau:

Đầu tiên, khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ, người có thẩm quyền đang thi

hành công vụ phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính trừ trường hợp

xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng khi xử phạt

cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối

với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi

phạm hành chính tại chỗ. Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ

sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản (Điều

56, 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012). Nếu hành vi vi phạm không

thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản thì khi phát

hiện hành vi vi phạm người có thẩm quyền đang thi hành công vụ buộc phải

lập biên bản vi phạm hành chính.

Sau đó sẽ phải thực hiện xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành

chính và ra quyết định xử phạt trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản

vi phạm hành chính. Trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời vi phạm hành

chính hoặc để bảo đảm việc thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính,

người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp tạm giữ tang vật, phương

tiện vi phạm hành chính (Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).

Tiếp theo, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử

phạt vi phạm hành chính, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được người

có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt phải được giao trực tiếp hoặc gửi qua

bưu điện bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị xử

31

phạt biết. Trường hợp giao trực tiếp mà cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình

không nhận quyết định thì người có thẩm quyền lập biên bản về việc không

nhận quyết định có xác nhận của chính quyền địa phương và được coi là

quyết định đã được giao. Đối với trường hợp gửi qua bưu điện bằng hình thức

bảo đảm, nếu sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt đã được

gửi qua đường bưu điện đến lần thứ ba mà bị trả lại do cá nhân, tổ chức vi

phạm cố tình không nhận; quyết định xử phạt đã được niêm yết tại nơi cư trú

của cá nhân, trụ sở của tổ chức bị xử phạt hoặc có căn cứ cho rằng người vi

phạm trốn tránh không nhận quyết định xử phạt thì được coi là quyết định đã

được giao. Điều này nhằm ngăn ngừa trường hợp từ chối nhận quyết định xử

phạt hoặc trốn tránh không nhận quyết định xử phạt của chủ thể vi phạm.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm

hành chính thì chủ thể vi phạm phải thực hiện theo nội dung của quyết định

xử phạt (trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn

thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó). Trường hợp cá

nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi

phạm hành chính thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt.

Cuối cùng, người vi phạm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành

chính bằng hình thức nộp tiền phạt và thực hiện một số biện pháp khắc phục

hậu quả (tùy loại hành vi cụ thể mà biện pháp khắc phục hậu quả sẽ khác

nhau). Nếu không tự nguyện thi hành thì mới ra quyết định cưỡng chế. Cá

nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí cho các hoạt động cưỡng

chế. Nếu cá nhân, tổ chức không tự nguyện hoàn trả hoặc hoàn trả chưa đủ

chi phí cưỡng chế thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có thể ra

quyết định cưỡng chế bằng các biện pháp như: Khấu trừ một phần lương hoặc

một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm;

Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; Thu tiền,

32

tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm

hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ

chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản (Mục 5, Chương 4 Nghị định

166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi

hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính).

Dựa theo quy trình nêu trên có thể thấy thời gian từ lúc người có thẩm

quyền lập biên bản vi phạm hành chính đến đến khi để áp dụng biện pháp

cưỡng chế đối với các trường hợp không tự nguyện thi hành quyết định xử

phạt vi phạm hành chính phải mất tối thiểu 19 ngày. Theo quan điểm của tác

giả thì trình tự xử lý vi phạm hành chính như trên không phù hợp trong việc

xử lý đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ vì tính chất của các hành vi này cần phải

được xử lý nhanh chóng triệt để nhằm răn đe người vi phạm.

Từ các phân tích nêu trên có thể thấy công tác xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ là hết sức quan trọng. Vì các hành vi trên chủ yếu xâm phạm trong phạm

vi lòng đường, vỉa hè – vốn là một phần quan trọng trong cấu trúc không

gian đô thị. Càng giảm được các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này sẽ góp

phần giúp cho đường thông, hè thoáng tạo đà thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, liên quan đến mọi tầng lớp dân cư, mọi chủ thể

trong xã hội, cho nên việc xử phạt vi phạm hành chính hiệu quả trong lĩnh

vực này sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội. Đồng thời tăng cường hiệu quả

quản lý nhà nước, tạo điều kiện để tài sản, tính mạng và mọi lợi ích chính

đáng khác của các chủ thể được đảm bảo ổn định.

33

Tiểu kết chƣơng 1

Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm

vi đất dành cho đường bộ là một trong những vấn đề phức tạp có ảnh hưởng

đến sự phát triển kinh tế và xã hội. Qua các phân tích về cơ sở pháp lý liên

quan đến xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ có thể rút ra một số kết luận như sau:

1. Khái niệm liên quan đến các thuật ngữ vi phạm hành chính, xử phạt vi

phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

còn một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp.

2. Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ tương đối đa dạng và phân thành nhiều mức xử phạt

khác nhau.

3. Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này

cũng rất nhiều. Tùy loại hành vi cụ thể mà mỗi loại chủ thể sẽ có thẩm quyền

xử phạt khác nhau căn cứ vào mức tiền phạt ứng với các hành vi vi phạm.

4. Nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ được áp dụng theo quy định

của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng

đối với sự phát triển của đất nước. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này sẽ

gây ảnh hưởng tiêu cực đến cả một quốc gia vì phạm vi đất dành cho đường

bộ là nơi có mục đích phục vụ cho các hoạt động giao thông, bố trí hệ thống

hạ tầng kỹ thuật… nhằm phục vụ cho đời sống của người dân trong phạm vi

đó.

34

Chương 2:

THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ

SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO

ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Tổng quan về Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư

Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm

Quận Nhất và Quận Nhì (Sài Gòn cũ) được sáp nhập vào năm 1976 là một

trung tâm kinh tế trọng điểm của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 1 có diện tích khoảng 7,7211 km2, bao gồm 10 phường. Phía Bắc giáp quận Bình

Thạnh, quận Phú Nhuận, lấy rạch Thị Nghè làm ranh giới và giáp Quận 3, lấy

đường Hai Bà Trưng và đường Nguyễn Thị Minh Khai làm ranh giới. Phía

Đông giáp Quận 2, lấy sông Sài Gòn làm ranh giới. Phía Tây giáp Quận 5, lấy

đường Nguyễn Văn Cừ làm ranh giới. Phía Nam giáp Quận 4, lấy rạch Bến

Nghé làm ranh giới [11].

Xét về diện tích thì diện tích Quận 1 chiếm 0,35% diện tích Thành phố

Hồ Chí Minh, đứng hàng thứ năm về diện tích trong số 12 quận nội thành.

Diện tích sông rạch chiếm 8,1% và diện tích xây dựng chiếm 57,27% diện

tích quận và thuộc loại hàng đầu so với các quận, huyện khác.

Về mặt dân cư, theo số liệu thống kê từ Niên giám thống kê năm 2017

của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh thì dân số trung bình tại Quận 1 là 211.220 người và mật độ dân số 27.325 người/km2 [3, tr. 49] có xu hướng gia

tăng so với năm 2016 (dân số trung bình là 208.475 người và mật độ dân số là 25.049 người/km2).

Do giáp sông Sài Gòn và có nhiều kênh rạch nên Quận 1 có hệ thống

giao thông thủy bộ khá quan trọng và lâu đời của Thành phố Hồ Chí Minh nói

35

riêng và cả nước nói chung. Là nơi tập trung các hệ thống sông ngòi kênh

rạch, là nơi có các hệ thống bến cảng khá quan trọng trong quá trình phát triển

hiện nay cũng như trong tương lai của quận.

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội

Quận 1 có nhiều ưu thế thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, đặc biệt

các ngành kinh tế như dịch vụ, du lịch, thương mại, đầu tư và xuất nhập khẩu.

Quận 1 có 128 cơ quan ban ngành Thành phố, Trung ương trú đóng, đặc biệt

là một số cơ quan quan trọng như: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính

phủ, Ủy ban nhân dân Thành phố, Sở Công an, Sở Ngoại vụ, và Sở, Ban,

Ngành... các cơ quan báo đài của Đảng, Đoàn thể thuộc Thành phố, Trung

ương. Về lĩnh vực ngoại giao, Quận 1 là nơi trú đóng của 28 cơ quan là lãnh

sự quán hoặc đại diện của các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đặc

biệt là lãnh sự quán các nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc,

Canada... Hoạt động dịch vụ - tài chính - ngân hàng trên địa bàn Quận 1 đã

hình thành trong lịch sử và diễn ra phong phú, đa dạng như hoạt động của các

ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính: công ty dịch vụ chứng

khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán... số lượng khách hàng chiếm gần

90% của Thành phố. Về hoạt động dịch vụ du lịch - thương mại phát triển đa

dạng, Quận 1 là nơi tập trung nhiều khách sạn và doanh nghiệp từ khắp nơi

trong và ngoài nước đến quan hệ giao dịch. Quận hiện có nhiều tổ chức hoạt

động văn hóa nghệ thuật phục vụ nhu cầu giải trí cho nhân dân, đồng thời

cũng là những cơ sở phúc lợi văn hóa quan trọng. Bên cạnh đó Quận 1 cũng

là nơi tập trung nhiều danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử nổi tiếng

cũng như những công trình văn hóa tồn tại cả hàng trăm năm.

Những thuận lợi về mặt vị trí địa lý, dân cư và kinh tế - xã hội khiến

cho Quận 1 trở thành đầu tàu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng

chính vì vậy nên chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Quận 1

36

nói riêng đều quan tâm đến công tác quản lý, chấn chỉnh trật tự đô thị để đảm

bảo giao thông Quận 1 thuận lợi, hạn chế các trường hợp vi phạm về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ để Quận 1 xứng đáng là trung

tâm của Thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. Tình hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đƣờng bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Xuất phát từ tính chất đặc thù của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là

trung tâm kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, số lượng các cao ốc

văn phòng, công ty lớn đa quốc gia chủ yếu tập trung tại khu vực Quận 1.

Chính vì vậy mà lượng người tập trung đến Quận 1 để làm việc tương đối lớn

kéo theo nhiều hoạt động kinh doanh mua bán hoặc dịch vụ xoay quanh Quận

1 để phục vụ cho nhu cầu sống của người dân sinh sống và làm việc tại đây.

Tuy nhiên, không phải chủ thể nào kinh doanh mua bán hoặc dịch vụ đều tuân

thủ các quy định của pháp luật. Trong quá trình khai thác các nguồn lợi từ

phạm vi đất dành cho đường bộ để phục vụ riêng cho cá nhân, các chủ thể này

đã vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP

ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Vấn đề chấn chỉnh trật tự đô thị luôn được chính quyền Quận 1 quan

tâm. Quận 1 có thể được xem là bộ mặt của Thành phố Hồ Chí Minh vì vậy

công tác ra quân kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành dành cho đường bộ được thực hiện thường xuyên. Nổi

bật là công cuộc ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị của Đoàn kiểm tra liên

ngành Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận

1 lãnh đạo trực tiếp. Hoạt động ra quân của Ủy ban nhân dân Quận 1 đã phần

nào giảm tải được số lượng hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm

37

vi đường bộ tại Quận 1. Theo Ủy ban nhân dân Quận 1 báo cáo về kết quả đạt

được sau một thời gian ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị như sau: [13]

Tình hình trật tự tại các tuyến đường thông thoáng; tình trạng dừng, đỗ

xe ô tô trái quy định, mua bán hàng rong và tiểu tiện nơi công cộng giảm đáng

kể. Các bãi giữ xe trên vỉa hè chấp hành nghiêm các quy định về sử dụng diện

tích, thu phí đúng giá; các quán nhậu trước 22 giờ 00 sắp xếp gọn trong nhà;

quản lý được tình hình không để xảy ra các trường hợp lập bãi xe tự phát và

thu tiền quá giá quy định. Người dân đã ý thức chấp hành các quy định pháp

luật về trật tự, an toàn giao thông, đô thị, tự giác thu dọn, tháo dỡ các vật cản,

vật dụng và các Cấp ủy, Ban điều hành khu phố, tổ dân phố cũng đồng tình

hưởng ứng chủ trương di dời các chốt dân phòng trên vỉa hè. Tuy nhiên, bên

cạnh các kết quả đạt được thì công tác chấn chỉnh trật tự đô thị tại Quận 1 vẫn

có một số tồn tại như:

Tình trạng tái lấn chiếm tại một số khu vực như: đường Hoàng Sa (sau

22 giờ 00), đường Bà Lê Chân (khu vực chợ Tân Định), khu vực Chợ Bến

Thành, đường Bùi Viện, Bệnh viện Từ Dũ…; Tình trạng xe 03, 04 bánh thô

sơ buôn bán dưới lòng đường tại một số phường như phường Cầu Ông

Lãnh…; một số hàng ăn, quán nhậu về đêm vẫn tiếp tục cố tình bày bàn ghế

lấn chiếm vỉa hè khi các lực lượng kiểm tra đã mỏng như đường Hoàng Sa

thuộc phường Tân Định…

Từ kết quả báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 có thể thấy được tình

hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ tại Quận 1 chủ yếu là các hành vi vi phạm hành chính từ các chủ thể

kinh doanh mua bán trên lòng đường, vỉa hè như: bán hàng rong hoặc bán

hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy

định cấm bán hàng; họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa;

sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; Chiếm dụng lòng đường đô

38

thị hoặc hè phố làm nơi trông, giữ xe;… Bởi chính vì Quận 1 là nơi thu hút

kinh tế của cả Thành phố Hồ Chí Minh nên việc kinh doanh mua bán trên

lòng đường, vỉa hè trái quy định xảy ra rất phổ biến. Hiện tại căn cứ theo

Quyết định số 699/QĐ-UBND ngày 06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh ban hành danh mục các tuyến đường cho phép sử dụng tạm

thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh

dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì tại Quận 1 chỉ cho phép sử dụng tạm

thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí hoặc cho phép đỗ xe

dưới lòng đường có thu phí chứ không cho phép sử dụng tạm thời một phần

vỉa hè phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa vì vậy việc kinh doanh

trên vỉa hè tại Quận 1 đều trái quy định pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề kinh

doanh mua bán trên vỉa hè đã tồn tại từ rất lâu đời và đã hình thành thói quen

cho người dân vì vậy hành vi này là rất phổ biến. Bên cạnh đó, lợi nhuận thu

được từ việc mua bán trên vỉa hè là rất cao nên tình trạng tái vi phạm sau khi

bị xử phạt vi phạm hành chính thường xuyên xảy ra.

2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh

Mặc dù quy định của pháp luật về việc xử phạt vi phạm hành chính về sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đã được quy định từ rất

lâu. Thế nhưng các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn xảy ra

ngày càng nhiều hơn bất chấp việc hàng năm các cơ quan quản lý đều ra quân

chấn chỉnh trật tự đô thị. Việc xử phạt không hiệu quả sẽ khiến cho các hành

vi vi phạm ngày càng xuất hiện nhiều hơn làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Ban Bí Thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW ngày

04 tháng 9 năm 2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

39

bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa

và khắc phục ùn tắc giao thông. Trong đó, có các nội dung nâng cao trách

nhiệm của chính quyền các cấp và đơn vị chức năng về quản lý hành lang an

toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, quản lý vỉa hè,

đường phố và an toàn giao thông cầu, đường, hầm; xác định rõ trách nhiệm

của các cấp chính quyền trong việc quản lý đường, hè phố; xử lý nghiêm các

vi phạm chiếm dụng trái phép hè phố, đậu đỗ xe trái quy định và những vi

phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ùn tắc giao thông; đi đôi với việc sắp xếp

nơi trông giữ xe, xây dựng các bãi đỗ xe, điểm đỗ xe ngầm hoặc nhiều tầng.

Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành

Chỉ thị số 22/CT-UBND ngày 29/12/2016 về thực hiện công tác quản lý, sử

dụng lòng lề đường, vỉa hè trên địa bàn thành phố. Trong đó khẳng định tình

trạng buôn bán lấn chiếm trái phép long lề đường vẫn còn diễn biến phức tạp,

ảnh hưởng đến trật tự, mỹ quan đô thị và tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn

giao thông. Một trong những nguyên nhân chính là ý thức chấp hành pháp

luật của một bộ phận người dân còn hạn chế; bên cạnh đó, một số cấp ủy

đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa thật sự quan tâm

trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm quy định trong công tác quản

lý, lòng đường. Do đó tiếp tục giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện

tiếp tục thực hiện công tác chấn chỉnh trật tự đô thị.

Trên tinh thần thực hiện chỉ thị trên, trong giai đoạn gần đây, tình hình

xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ được các ngành chức năng, chính quyền các cấp tăng

cường kiểm tra, xử lý. Điển hình là hoạt động ra quân lập lại trật tự lòng

đường, vỉa hè của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với sự

tham gia của rất nhiều lực lượng.

40

Dựa trên phân tích về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với

các hành vi vi phạm trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ có thể thấy chủ thể có quyền thực hiện công tác kiểm tra đối với

lĩnh vực này tương đối đa dạng. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích các báo cáo

của Ủy ban nhân dân Quận 1 có thể phân định được những lực lượng chức

năng nào thực hiện chủ yếu công việc kiểm tra về các hành vi vi phạm trong

việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Theo đó tại Ủy

ban nhân dân Quận 1, các chủ thể xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực này

chủ yếu là lực lượng Công an, Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 và Ủy ban

nhân dân 10 phường thuộc địa bàn Quận 1. Nhìn chung các chủ thể giúp việc

cho Ủy ban nhân dân Quận 1 chỉ xoay quanh lực lượng Công an và Đội Quản

lý trật tự đô thị.

Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 là một bộ phận của Phòng Quản lý đô

thị Quận 1 có chức năng giúp Ủy ban nhân dân Quận 1 thực hiện công tác

quản lý nhà nước về trật tự đô thị, vệ sinh môi trường, tổ chức thi hành các

quyết định hành chính và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban

nhân dân Quận 1 giao (Điều 1 Quyết định số 03/2017/QĐ-UBND ngày

12/12/2017 của Ủy ban nhân dân Quận 1 ban hành quy chế tổ chức và hoạt

động của Phòng Quản lý đô thị Quận 1). Nhiệm vụ chủ yếu của Đội Quản lý

trật tự đô thị Quận 1 được quy định dựa trên Quyết định số 55/2013/QĐ-

UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban

hành quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận

- huyện. Nội dung về chức năng nhiệm vụ chủ yếu bao gồm một số hoạt động

tiêu biểu như: xây dựng chương trình, kế hoạch về tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật trong lĩnh vực quản lý trật tự đô thị và kiểm tra việc chấp

hành pháp luật trên các lĩnh vực quản lý trật tự đô thị, vệ sinh môi trường trên

địa bàn, tham mưu Trưởng Phòng Quản lý đô thị trình Chủ tịch (hoặc Phó

41

Chủ tịch) Ủy ban nhân dân Quận 1 phê duyệt và tổ chức thực hiện; Tham

mưu trình Chủ tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Ủy ban nhân dân Quận 1 kế hoạch tổ

chức kiểm tra, kịp thời phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính và yêu cầu

tổ chức, cá nhân đình chỉ ngay các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực về trật

tự lòng lề đường, nơi công cộng và vệ sinh môi trường trên địa bàn Quận 1;…

(Điều 2 Quyết định số 55/2013/QĐ-UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân

dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động

của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện).

Trong quá trình ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị Quận 1 vào cao điểm 06

tháng đầu năm 2017, Quận 1 cũng thiếu nhân sự cộng tác viên trật tự đô thị

của Quận 1 và 10 phường thuộc Quận 1. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân

Quận 1 thì vào thời điểm này số lượng cộng tác viên chỉ là 234 người/358

định biên được giao, thiếu 124 người vì vậy cũng phần nào khiến cho công

tác lập lại trật tự đô thị có phần bị hạn chế. Tuy nhiên, không vì thiếu nhân sự

mà Quận 1 không ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị.

Trong 06 tháng đầu năm 2017, các lực lượng Công an, Đội Quản lý trật

tự đô thị quận và Ủy ban nhân dân 10 phường thuộc Ủy ban nhân dân Quận 1

đã tăng cường kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính 6.474 trường hợp

vi phạm trên lĩnh vực giao thông đường bộ, vệ sinh môi trường… với tổng số

tiền xử phạt là 3.476.525.000 đồng; tạm giữ 4.774 phương tiện, vật dụng lấn

chiếm lòng đường, vỉa hè. Vận động các hộ dân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn

vị tự giác tháo dỡ 3.447 vật dụng, vật cản trên lòng, lề đường; buộc tháo dỡ

1.924 vật dụng, vật cản [13]. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1 qua các năm 2016

2017 và 2018 được biểu hiện tại bảng 2.1 cụ thể như sau: [12], [14], [15]

Bảng 2.1: Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1 từ năm 2016-2018

42

2016 2017 2018

19.008 18.292 11.774 Tổng số vụ vi phạm

9.908.226.000 12.574.785.000 11.310.400.000 Tổng số tiền xử phạt

15.980 15.640 9.460 Đã thi hành

3.028 2.652 2.314 Chƣa thi hành

(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 về tình hình xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ năm 2016-2018)

Qua số liệu thống kê tại bảng 2.1 có thể thấy hoạt động ra quân chấn

chỉnh, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ vẫn được thực

hiện xuyên suốt các năm. Số vụ vi phạm bị xử lý giảm dần qua các năm 2016,

2017, tuy nhiên lại có sự chênh lệch đáng kể bắt đầu từ năm 2018. Từ số liệu

trên cho thấy hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ được diễn ra thường xuyên. Mặc dù số vụ bị xử lý vào năm 2018 có

suy giảm so với các năm trước do năm 2018 công tác chấn chỉnh trật tự đô thị

đã giảm nhiệt so với năm 2017 (năm tâm điểm của Quận 1 về chấn chỉnh trật

tự đô thị). Số liệu này có thể cho thấy hoặc là tình hình vi phạm trong lĩnh vực

này đã suy giảm hoặc là công tác ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị đã hạ nhiệt

thế nhưng nhìn chung số tiền thu được từ việc xử phạt tương đối lớn. Tuy

vậy, công tác thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vẫn chưa được

giải quyết triệt để, vẫn còn khá nhiều các trường hợp vi phạm hành chính

nhưng không chấp hành. Thông qua các số liệu báo cáo trên có thể thấy được

sự quyết tâm chấn chỉnh tình hình trật tự lòng lề đường của các cấp chính

quyền, điển hình là Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là rất

lớn tuy nhiên tình hình vi phạm trong lĩnh vực này vẫn còn rất cao.

43

2.4. Nguyên nhân vi phạm

Theo tác giả, nguyên nhân xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực này xuất phát từ cả chủ thể vi phạm và chủ thể quản lý với một số nội

dung như sau:

2.4.1. Nguyên nhân trong thiếu sót xử lý vi phạm hành chính

Một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực này được quy định cụ thể tại Điều

12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt,

tiêu biểu như: bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường

đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng...

Xuất phát từ bản chất của hành vi vi phạm, các hành vi nêu trên đều đem

lại lợi ích cho người vi phạm. Chẳng hạn, việc buôn bán hàng rong hoặc bán

hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy

định cấm bán hàng hoặc sử dụng trái phép lòng đường, hè phố để kinh doanh

dịch vụ ăn uống, bày bán hàng hóa… đều đem lại nguồn thu nhập cho chủ thể

vi phạm. Bên cạnh đó, các hình thức buôn bán trên không cần phải tốn chi phí

thuê mặt bằng và nộp thuế cho nguồn ngân sách nhà nước. Một số trường hợp

kinh doanh lấn chiếm lòng đường, vỉa hè là do những người già yếu, nghèo

khó, không có khả năng chuyển đổi sang ngành nghề khác đứng ra kinh

doanh. Chính vì vậy, các chủ thể này coi hoạt động buôn bán của mình là

nguồn sống và tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm bất chấp việc xử lý, cưỡng

chế của chính quyền.

Mặc dù thế việc vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cũng đều bất hợp pháp. Tuy nhiên,

hiện trạng vi phạm hiện nay cũng xuất phát từ một phần thiếu sót của cơ quan

quản lý nhà nước. Chính sự thiếu quyết liệt trong công tác ra quân xử phạt vi

phạm hành chính của các cơ quan chức năng là nguyên nhân dẫn đến tình

44

trạng vi phạm trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ. Nhiều trường hợp xử lý mang tính hình thức, phong trào mà không

giải quyết triệt để để hình thành thói quen của người vi phạm do nghĩ rằng

việc ra quân chỉ thực hiện một thời gian ngắn rồi sau đó lại buôn lỏng quản lý.

Bên cạnh đó, công tác quy hoạch đô thị không hiệu quả đã đem lại một lỗ

hổng tương đối lớn khiến cho các chủ thể buộc phải vi phạm để đáp ứng nhu

cầu của bản thân.

Chẳng hạn đối với hành vi xây, đặt bục bệ; làm mái che bị xử phạt từ

2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến

6.000.000 đồng đối với tổ chức theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 12

Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, do tình

trạng ngập xảy ra buộc các hộ dân phải nâng cốt nền nhà cao hơn rất nhiều so

với mặt đường, vỉa hè. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo số liệu thống kê của

Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước thì tính đến năm 2017 có

179 tuyến hẻm, đường bị ngập nước [10] vì vậy buộc người dân có tâm lý

phải nâng cao nền nhà để tránh ngập nước và phải xây các bục bệ, tam cấp để

thuận tiện trong việc đi lại từ nhà ra đường. Không những thế việc đặt các mái

che để che nắng, che mưa cũng được coi là hành vi vi phạm do quy hoạch

hiện nay vướng phải trường hợp chỉ giới đường đỏ trùng với chỉ giới xây

dựng. Theo quy định tại Mục 2, 8, 10 Chương 2 QCXDVN 01:2008/BXD

ngày 03/04/2008 của Bộ Xây dựng về quy hoạch xây dựng, mái đón là mái

che của cổng, gắn vào tường ngoài nhà và đưa ra tới cổng vào nhà và hoặc

che một phần đường đi từ hè, đường vào nhà; mái hè phố là mái che gắn vào

tường ngoài nhà và che phủ một đoạn vỉa hè. Mái đón, mái hè phố phải đảm

bảo đáp ứng một số yêu cầu như: được thiết kế cho cả dãy phố hoặc cụm nhà,

đảm bảo tạo cảnh quan; đảm bảo tuân thủ các quy định về phòng cháy chữa

45

cháy; ở độ cao cách mặt vỉa hè 3,5m trở lên và đảm bảo mỹ quan đô thị;

không vượt quá chỉ giới đường đỏ; bên trên mái đón, mái hè phố không được

sử dụng vào bất cứ việc gì khác (như làm ban công, sân thượng, sân bày chậu

cảnh...). Do đó việc lắp đặt các mái che vượt quá chỉ giới đường đỏ đều vi

phạm. Tuy nhiên, cũng chính trong quy định của Quy chuẩn xây dựng Việt

Nam số 01:2008/BXD ngày 03/04/2008 của Bộ Xây dựng về quy hoạch xây

dựng lại khuyến khích việc xây dựng mái hè phục vụ công cộng để tạo điều

kiện thuận lợi cho người đi bộ và mái che lại có thể nhô ra khỏi chỉ giới

đường đỏ. Cụ thể, trong trường hợp ở độ cao 3,5m so với mặt hè thì mái đón,

mái hè phố (mái che) có thể nhô ra khỏi chỉ giới đường đỏ và vươn ra độ dài

tới khi cách mép vỉa hè tối thiểu 0,6m nếu mái che là phần nhô ra không cố

định. Tuy nhiên thế nào là mái che là bộ phận cố định của nhà và thế nào là

mái che là phần nhô ra không cố định thì lại không quy định cụ thể. Nếu mái

che là phần nhô ra không cố định nhưng lại để cố định liên tục thì có được

phép không thì lại không có hướng dẫn cụ thể do đó rất khó trong công tác

quản lý. Có thể nói chính sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng và công tác quản lý,

quy hoạch của nhà nước đã hình thành ý thức vi phạm của các chủ thể trong

việc sử dụng lòng đường, vỉa hè.

Đối với hành vi chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố làm nơi

trông, giữ xe bị xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá

nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức (nếu chiếm dụng dưới 05 m2 còn từ 05 m2 trở lên thì có mức phạt khác), bên cạnh xuất phát từ

lợi ích của chủ thể vi phạm nhưng cũng phải nhìn nhận thực tế là nhu cầu sử

dụng phương tiện giao thông như xe ô tô, xe gắn máy ngày càng tăng mà diện

tích phục vụ cho nhu cầu gửi xe tại các bãi xe được cấp phép không đảm bảo

vì vậy vào các dịp lễ, tết lượng xe có nhu cầu được gửi tập trung tại các quận

trung tâm rất đông, điển hình là Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vì vậy theo

46

quy luật cung - cầu cũng làm xuất hiện nhiều bãi xe tự phát trái quy định.

Theo báo cáo của Sở Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh tại Hội thảo

khoa học “Kiểm soát nhu cầu sử dụng xe cá nhân trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh – thực trạng và giải pháp” thì tính đến ngày 15/3/2017, Thành phố

Hồ Chí Minh đang quản lý tổng cộng 7 triệu 976 nghìn 845 phương tiện

(trong đó 637 nghìn 323 ô tô, 7 triệu 339 nghìn 522 xe mô tô – chiếm 92%

tổng số xe); xe mô tô tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2016 và tăng 63,4% so

với cuối năm 2010). Số liệu này chưa tính lượng phương tiện mang biển số

các tỉnh đang lưu thông trên địa bàn thành phố (khoảng trên 01 triệu phương

tiện các loại) [8]. Số lượng phương tiện giao thông cá nhân quá cao so với dân

số Thành phố Hồ Chí Minh (Theo số liệu thống kê từ Niên giám thống kê

năm 2015 của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh thì dân số trung bình là 8.247.829 triệu người với mật độ dân số trung bình là 3.937 người/km2 và có

xu hướng gia tăng. Riêng tại một số quận trung tâm như Quận 1, Quận 3 thì mật độ dân số trung bình là 25,049 và 39.905 người/km2) [2, tr. 25], thêm vào

đó là sự thiếu hụt các bãi giữ xe công cộng ở các khoảng cách tương đối và sự

xuất hiện các bãi xe tự phát không thu các mức phí theo quy định đã khiến

cho người có nhu cầu gửi xe phải gửi tại các bãi xe trái phép và đem lại nguồn

lợi cho chủ thể vi phạm.

Trong bài phát biểu của ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch Ủy ban nhân

nhân Thành phố Hà Nội tại Hội nghị xử lý vỉa hè có nêu lên số liệu thống kê

được “trong hơn 180 quán bia vỉa hè, có hơn 150 quán bia có công an đứng

đằng sau” [4]. Thực trạng này thật đáng báo động và cũng là một trong

những nguyên nhân gây ra tình trạng vi phạm trong việc sử dụng lòng đường,

vỉa hè. Không chỉ riêng Hà Nội mà các thành phố lớn khác cũng xảy ra tình

trạng tương tự. Chẳng hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Ngọc

Tường, Phó ban chuyên trách Ban An toàn giao thông Thành phố Hồ Chí

47

Minh cũng cho biết nguyên nhân buông lỏng để cho tình trạng lấn chiếm vỉa

hè gia tăng có thể là do "bảo kê, bao che và dung túng của người đứng đầu

địa phương; buông lỏng địa bàn, năng lực quản lý yếu kém…”[5]. Những

người có chức vụ cao trong cơ quan hành chính nhà nước cũng đã thừa nhận

một số hiện tượng tiêu cực trong việc quản lý lòng đường, vỉa hè. Chính sự

buông lỏng quản lý, sự bao che và sự khai thác các nguồn lợi từ việc nới lỏng

quản lý của các nhóm lợi ích khiến cho hành vi vi phạm trong lĩnh vực này

càng ngày càng gia tăng. Bởi vì có hành vi vi phạm thì nguồn lợi đem lại từ

hành vi vi phạm đó cho các nhóm lợi ích sẽ ngày càng nhiều. Chính sự bất

bình đẳng trong những trường hợp này dẫn đến tình trạng vi phạm gia tăng.

Do đó để khắc phục tình trạng này thì bản thân các cơ quan có thẩm

quyền xử phạt vi phạm hành chính đều phải công chính, liêm minh không để

phát sinh các trường hợp tiêu cực trong công tác quản lý trật tự đô thị. Bên

cạnh đó, việc quy hoạch đô thị cần phải thực hiện một cách nghiêm túc tránh

việc quy hoạch chỉ nằm trên giấy chứ không triển khai thực hiện trên thực tế.

Đồng thời, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội để người dân không cần thiết

phải lấy cớ “mưu sinh” mà thực hiện hành vi vi phạm.

2.4.2. Chủ thể tham gia xử phạt trên thực tế khác biệt với quy định pháp

luật

Trong công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ. Như đã phân tích, chủ thể có thẩm quyền xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này rất đa dạng. Tuy nhiên lực lượng

kiểm tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này rất hạn chế.

Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, lực lượng chính được giao nhiệm vụ thực

hiện công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị là Đội Quản lý trật tự đô thị

quận – huyện (Điều 1 Quyết định 55/2013/QĐ-UBND ngày 06/12/2013 của

Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế (mẫu) tổ chức và

48

hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện). Lực lượng này có

chức năng kiểm tra, phát hiện, lập biên bản các hành vi vi phạm về trật tự

lòng lề đường, nơi công cộng và vệ sinh môi trường trên địa bàn. Bên cạnh

đó, lực lượng này còn có chức năng theo dõi việc thực hiện các quyết định

hành chính đã ban hành, đôn đốc thực hiện các quyết định đã có hiệu lực thi

hành; đề xuất biện pháp cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế

đối với tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận - huyện không tự giác chấp hành

quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 2 Quyết định 55/2013/QĐ-

UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban

hành Quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận

- huyện). Từ các căn cứ nêu trên có thể thấy hoạt động trong công tác kiểm

tra các vi phạm về quản lý sử dụng đường đô thị trên địa bàn chủ yếu thuộc về

các lực lượng này.

Mặc dù, theo quy định của Quyết định 55/2013/QĐ-UBND ngày

06/12/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế

(mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện thì lực

lượng này có thẩm quyền lập biên bản trong lĩnh vực trật tự lòng lề đường,

nơi công cộng. Tuy nhiên, đối chiếu theo quy định tại Khoản 1, Điều 75 Nghị

định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt về thẩm

quyền lập biên bản vi phạm hành chính thì không bao gồm các lực lượng này.

Theo đó, các chức danh có thẩm quyền xử phạt như Chủ tịch Ủy ban nhân

dân các cấp; Công an nhân dân; Thanh tra chuyên ngành…; công chức, viên

chức được giao nhiệm vụ tuần kiểm là có thẩm quyền lập biên bản trong lĩnh

vực giao thông đường bộ.

Hiện nay, các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô thị vẫn lập biên

bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực này theo chức năng, nhiệm vụ do Ủy

49

ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định. Theo tác giả thì quyết định

của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là không phù hợp với tinh thần

của Nghị định 46/2016/NĐ-CP và thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành

chính chỉ thuộc về các chức danh theo Nghị định này vì trong trường hợp các

văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp

dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn theo quy định tại Khoản 2, Điều

157 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 về áp dụng văn bản

quy phạm pháp luật.

Một số nhận định cho rằng các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô

thị có hoạt động tuần kiểm nên có thẩm quyền lập biên bản. Pháp luật hiện

hành không quy định thế nào là hoạt động tuần kiểm nhưng theo quy định tại

Khoản 2, Điều 3 Thông tư số 47/2012/TT-BGTVT ngày 12/11/2012 của Bộ

Giao thông vận tải quy định về tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao

thông đường bộ có giải thích thuật ngữ tuần kiểm đường bộ là “hoạt động

tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của Khu Quản

lý đường bộ, Sở Giao thông vận tải và cá nhân thuộc cơ quan này khi được

giao nhiệm vụ”. Theo cách giải thích trên thì các công chức, viên chức thuộc

Khu Quản lý đường bộ và Sở giao thông vận tải được giao nhiệm vụ mới có

thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm

kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; lấn chiếm, sử dụng trái phép đất của

đường bộ và hành lang an toàn giao thông đường bộ (Điểm b, Khoản 1, Điều

75 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt).

Do vậy, việc các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô thị lập biên bản vi

phạm hành chính trong lĩnh vực này là không đúng thẩm quyền theo quy định

tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

50

2.4.3. Quy định xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ bị chồng chéo

Một số hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính như: “sử dụng đường đô

thị để họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bày hàng hoá, vật liệu; đổ rác,

phế thải và các hành vi gây mất vệ sinh môi trường đường đô thị; lắp đặt, xây

dựng bục, bệ dắt xe, bậc tam cấp vào nhà và công trình bên đường gây ảnh

hưởng đến hoạt động của phương tiện giao thông và người đi bộ, gây mất mỹ

quan đô thị…” được quy định cụ thể tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP

ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Tuy nhiên, trên thực tế lại phát

sinh trường hợp một loại hành vi vi phạm được điều chỉnh bởi nhiều Nghị

định xử phạt khác nhau, việc này gây mâu thuẫn trong công tác xử phạt vi

phạm hành chính.

Chẳng hạn đối với đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định

(phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân, từ 200.000

đồng đến 400.000 đồng đối với tổ chức). Đây là một trong những hành vi bị

xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ và được quy định cụ thể trong Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày

26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Ngoài việc bị áp dụng các hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức thực hiện

hành vi còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc thu dọn

rác, vật tư, vật liệu, chất phế thải và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị

thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Nếu gây ô nhiễm môi trường phải

thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh việc bị điều chỉnh bởi Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày

26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

51

vực giao thông đường bộ và đường sắt thì hành vi này còn được quy định tại

Điểm c, d, Khoản 1, Điều 7 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật

tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng,

chống bạo lực gia đình. Theo đó, hành vi đổ rác, chất thải hoặc bất cứ vật gì

khác vào hố ga, hệ thống thoát nước công cộng, trên vỉa hè, lòng đường hoặc

để rác, chất thải, xác động vật hoặc bất cứ vật gì khác mà gây ô nhiễm ra nơi

công cộng hoặc chỗ có vòi nước, giếng nước ăn, ao, đầm, hồ mà thường ngày

nhân dân sử dụng trong sinh hoạt làm mất vệ sinh (Phạt cảnh cáo hoặc phạt

tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng). Không những thế, Điểm d, Khoản 1,

Điều 20 Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng

được áp dụng đối với hành vi vi phạm này: “Hành vi vứt, thải rác thải sinh

hoạt trên vỉa hè, đường phố hoặc vào hệ thống thoát nước thải đô thị hoặc hệ

thống thoát nước mặt trong khu vực đô thị” (Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

7.000.000 đồng).

Xét về bản chất của hành vi vi phạm thì các loại hành vi này đều có

những nét tương đồng. Ví dụ hành vi đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng

nơi quy định; hành vi đổ rác, chất thải hoặc bất cứ vật gì khác vào hố ga, hệ

thống thoát nước công cộng, trên vỉa hè, lòng đường hay hành vi vứt, thải rác

thải sinh hoạt trên vỉa hè, đường phố, các hành vi này đều có những nét giống

nhau như đều là để rác trên vỉa hè nhưng mức xử phạt lại khác nhau. Điều này

gây khó khăn cho các lực lượng chức năng trong việc vận dụng quy định để

xử phạt dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện quy định pháp luật để xảy ra

tiêu cực nhằm trực lợi. Thay vì xử phạt theo Nghị định 155/2016/NĐ-CP

ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bảo vệ môi trường mà lại xử phạt theo Nghị định 46/2016/NĐ-

52

CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có mức xử phạt thấp hơn tạo

điều kiện thuận lợi cho người vi phạm. Một hành vi vi phạm chỉ nên được

điều chỉnh bằng một quy định cụ thể không nên quy định ở những văn bản

khác nhau dễ gây nhầm lẫn và tạo sự tùy nghi cho người thực thi công vụ dễ

dẫn đến sự tiêu cực trong việc thực thi nhiệm vụ. Theo tác giả, đối với hành vi

vi phạm nêu trên phải áp dụng bằng Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày

18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực bảo vệ môi trường với mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000

đồng vừa đảm bảo mục đích răn đe ngăn ngừa hành vi vi phạm vừa đảm bảo

đúng tinh thần của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015: “Trong

trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có

quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy

phạm pháp luật ban hành sau”. Các Nghị định trên đều do Chính phủ ban

hành và Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là văn

bản quy phạm pháp luật được ban hành sau, do đó việc áp dụng quy định của

văn bản quy phạm pháp luật này là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng đường đô thị để họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn

uống, bày hàng hoá, vật liệu. Hành vi này bị cấm theo quy định tại Điểm a,

Khoản 2, Điều 35 Luật Giao thông đường bộ 2008 và bị xử phạt vi phạm

hành chính theo quy định của Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016

của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi sử dụng trái

phép lòng đường đô thị, hè phố để: họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày,

bán hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển

hiệu, biển quảng cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt

53

động khác gây cản trở giao thông thì phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến

3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối

với tổ chức (Điểm b, Khoản 4, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày

26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ và đường sắt). Theo quy định này thì chỉ những

trường hợp nào sử dụng lòng đường đô thị, hè phố không được cấp phép thì

mới bị xử phạt do đó các trường hợp sử dụng lòng đường đô thị, hè phố với

mục đích trên nhưng được cấp phép thì sẽ không bị xử phạt vi phạm hành

chính. Điều này trái với quy định tại Khoản 2, Điều 35 Luật Giao thông

đường bộ 2008 và theo quy định tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định

100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính

phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ về nội

dung sử dụng tạm thời một phần hè phố, lòng đường không vào mục đích

giao thông.

Căn cứ quy định nêu trên thì các hoạt động sử dụng tạm thời một phần

hè phố không vào mục đích giao thông chỉ gồm một số hoạt động như: Tổ

chức hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trên đường bộ; Tuyên

truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Tổ chức

đám tang và điểm trông, giữ xe phục vụ đám tang của hộ gia đình; Tổ chức

đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới của hộ gia đình; Điểm

trông, giữ xe phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội; Điểm

trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ thi công công trình của

hộ gia đình. Trường hợp sử dụng tạm thời một phần lòng đường không vào

mục đích giao thông thì chỉ được thực hiện các hành vi sau: Điểm trông, giữ

xe ô tô phục vụ các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội; Điểm trung

chuyển rác thải sinh hoạt của doanh nghiệp vệ sinh môi trường đô thị. Ủy ban

54

nhân dân cấp tỉnh sẽ quy định thủ tục hành chính về cho phép sử dụng tạm

thời hè phố, lòng đường đối với các trường hợp nêu trên.

Đối chiếu với các quy định của Luật Giao thông đường bộ 2008; Nghị

định 100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của

Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ

và Thông tư 04/2008/TT-BXD ngày 20/02/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn

quản lý đường đô thị, nhận thấy được hành vi sử dụng đường đô thị để họp

chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bày hàng hoá, vật liệu là một hành vi bị cấm

và không được cho phép thực hiện. Tuy nhiên, theo quy định tại Điểm g,

Khoản 1, Điều 6 Nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính phủ

về hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng ký

kinh doanh thì trên các khu vực, tuyến đường hoặc phần vỉa hè đường bộ

được cơ quan có thẩm quyền quy hoạch hoặc cho phép sử dụng tạm thời để

thực hiện các hoạt động thương mại thì cá nhân có thể hoạt động thương mại

bằng các hình thức như: buôn bán rong; buôn bán vặt; bán quà vặt; buôn

chuyến, thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe,

trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc

không có địa điểm cố định và các hoạt động thương mại một cách độc lập,

thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác. Bên cạnh đó, ở Thành

phố Hồ Chí Minh cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về

việc cho phép sử dụng vỉa hè để hoạt động kinh doanh, mua bán trên một số

tuyến đường nhất định nhằm hạn chế việc buôn bán tự phát trên vỉa hè, lòng

đường, góp phần đảm bảo mỹ quan và trật tự đô thị trên địa bàn thành phố

(Khoản 4, Điều 6 Quyết định 74/2008/QĐ-UBND ngày 23/10/2008 của Ủy

ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy định về quản lý và sử

dụng lòng đường, vỉa hè trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh). Chẳng hạn ở

55

Thành phố Hồ Chí Minh có 13 tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một

phần vỉa hè phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa gồm 11 tuyến ở

Quận 5 và 02 tuyến ở Quận 6 (Điều 1 Quyết định số 699/QĐ-UBND ngày

06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành danh mục

các tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe

công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho

phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).

Xét về mục đích an sinh xã hội, đây là hoạt động nhằm tạo điều kiện

tăng nguồn thu nhập cho các cá nhân hoạt động kinh doanh và việc quy hoạch

cho phép buôn bán, kinh doạnh tại một số khu vực nhất định sẽ đảm bảo công

tác quản lý của nhà nước và trật tự buôn bán trên lòng đường vỉa hè. Mặc dù

việc quy hoạch, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh, buôn bán trên vỉa hè

mang tính nhân văn, đảm bảo an sinh xã hội tuy nhiên trái với tinh thần của

Luật Giao thông đường bộ vì vậy việc cho buôn bán trên vỉa hè hay không thì

đã mâu thuẫn từ trong nội bộ các văn bản quy định pháp luật.

2.4.4. Quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số chủ thể quản lý không

phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về trình tự, thủ tục

Công tác xử lý vi phạm hành chính là một trong những nhiệm vụ quan

trọng của cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính

có tác dụng răn đe, phòng ngừa các trường hợp vi phạm và bảo đảm việc thực

thi pháp luật của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình xử lý các vi

phạm hành chính liên quan đến việc sử dụng lòng đường, vỉa hè lại có một số

trường hợp xử lý trái với trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Xử lý vi

phạm hành chính. Trong chiến dịch ra quân chấn chỉnh vỉa hè của Ủy ban

nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Đoàn liên ngành đã vận động các

hộ dân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị tự giác tháo dỡ 3.447 vật dụng, vật cản

56

trên lòng, lề đường; buộc tháo dỡ 1.924 vật dụng, vật cản [13]. Việc buộc

tháo dỡ các vật dụng, vật cản lấn chiếm không gian vỉa hè gây cản trở giao

thông là biện pháp phù hợp quy định. Căn cứ quy định tại Điểm b, Khoản 4

và Khoản 9, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

và đường sắt, hành vi “xây, đặt bục bệ; làm mái che gây cản trở giao thông”

sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ

4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức và bị áp dụng các biện

pháp khắc phục hậu quả khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi

phạm hành chính gây ra. Tuy nhiên trong quá trình xử lý, Đoàn liên ngành

Quận 1 đã cưỡng chế buộc tháo dỡ các vật dụng, vật cản lấn chiếm vỉa hè mà

không xử lý đúng trình tự, thủ tục như Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Theo nội dung quy trình xử lý vi phạm hành chính mà tác giả đã phân

tích thì để cưỡng chế hành chính đối hành vi “xây, đặt bục bệ; làm mái che

gây cản trở giao thông” phải tốn một khoảng thời gian tối thiểu 19 ngày. Mặc

dù việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là mang tính linh động nhằm giải quyết

nhanh gọn việc lấn chiếm vỉa hè để trả lại không gian cho người đi bộ của

Đoàn liên ngành là hợp tình tuy nhiên lại không phù hợp với quy định của

pháp luật.

Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đã cho thấy những tồn tại trong

công tác công tác xử phạt vi phạm hành chính liên quan sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ của cơ quan hành chính nhà nước. Sự

tiêu cực của một bộ phận cá nhân, tổ chức trong việc lấn chiếm lòng đường

vỉa hè để trục lợi, công tác quy hoạch, quản lý của cơ quan nhà nước và các

mẫu thuẫn trong các quy định hiện hành là một trong những nguyên nhân dẫn

đến tình hình vi phạm như hiện nay. Do đó cần phải có một số biện pháp để

57

nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ.

2.4.5. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thi hành quyết định

xử phạt vi phạm hành chính còn chưa hiệu quả

Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về nội dung Luật Xử

lý vi phạm hành chính, Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ và đường sắt còn chưa sâu rộng. Các hành vi vi phạm về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng do vậy để người

dân nắm bắt được đầy đủ các trường hợp được phép hoặc không được phép

khi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đòi hỏi các cấp

chính quyền phải nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền. Bên cạnh những

hoạt động tuyên truyền mang nặng tính hình thức như phát xe loa, tuyên

truyền miệng, phát tài liệu cho các người dân thì cần phải tuyên truyền các

hình thức mang tính trực quan hơn để người dân nhận thức được hành vi của

mình. Các lực lượng chức năng cần phải xử lý vi phạm hành chính một cách

khách quan, đây cũng là một công cụ tuyên truyền hiệu quả. Trên thực tế, có

những trường hợp vi phạm tuy nhiên lực lượng chức năng vì một số lý do nào

đó có thể là “người quen” đối với các chủ thể vi phạm nên không xử lý. Điều

này khiến cho các chủ thể khác vì thế mà vi phạm theo. Sự thiếu khách quan

trong công tác xử lý vi phạm hành chính cũng phần nào khiến cho công tác

tuyên truyền pháp luật chưa đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thì công tác thi

hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cũng chưa đạt hiệu quả cao. Căn

cứ các số liệu theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 thì số lượng các

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính chưa được thi hành chiếm tỷ lệ tương

đối cao. Chẳng hạn năm 2017, số lượng quyết định xử phạt vi phạm hành

58

chính chưa được thi hành là 2.652/18.292 (chiếm 14.5%) và năm 2018 số

lượng quyết định xử phạt vi phạm hành chính chưa được thi hành là

2.314/11.774 (chiếm khoảng 19.6%) [15]. Từ đây có thể thấy được công tác

thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn chưa đạt hiệu quả cao.

Các chủ thể vi phạm hành chính bị xử phạt nhưng không chấp hành quyết

định xử phạt vi phạm hành chính. Lý do không chấp hành theo Ủy ban nhân

dân Quận 1 là do người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc không có điều kiện

thi hành. Mặc dù Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định các trường

hợp cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi cá nhân,

tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng không tự nguyện chấp hành

như: Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài

khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với

số tiền phạt để bán đấu giá; Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế

thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác

đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài

sản; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, Ủy ban nhân

dân Quận 1 chỉ mới áp dụng được hình thức khấu trừ tiền từ tài khoản của cá

nhân, tổ chức vi phạm và buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Các

biện pháp cưỡng chế khác trên thực tế khó thực hiện.

Những khó khăn trong công tác cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt

vi phạm hành chính cũng phần nào khiến hoạt động xử phạt vi phạm hành

chính chưa có hiệu quả. Khiến cho chủ thể vi phạm hành chính không có ý

thức chấp hành pháp luật.

59

Tiểu kết chƣơng 2

Vấn đề vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ đã là một hiện tượng xảy ra từ lâu đời và là một trong những vấn đề cần

phải quan tâm của lãnh đạo chính quyền các cấp. Qua các phân tích nêu trên,

tác giả rút ra được một số kết luận như sau:

1. Thực trạng về công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy sự quyết tâm của lãnh đạo trong công

tác chấn chỉnh trật tự đô thị bằng việc tăng cường ra quân xử lý các trường

hợp vi phạm. Mặc dù vậy tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này vẫn liên tiếp

xảy ra.

2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình vi phạm hành chính gồm một

số nguyên nhân như sau: một số hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai

thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đem lại nguồn lợi lớn cho chủ thể

vi phạm; các chủ thể vi phạm được sự bao che của cơ quan quản lý nhà nước;

công tác quản lý và quy hoạch của cơ quan quản lý nhà nước; quy định của

pháp luật trong quản lý lòng đường, vỉa hè vẫn còn một số tồn tại gây ảnh

hưởng đến hiệu quả quản lý; quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan

đến việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số

chủ thể quản lý không phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành

chính về trình tự, thủ tục;….

Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm

vi đất dành cho đường bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Từ một số thực trạng xử

lý của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có thể thấy được sự chồng chéo từ

các quy định của pháp luật cho đến công tác quản lý thực tiễn nên tình trạng

vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn còn xảy ra. Vì vậy, nhu cầu đặt ra

cần phải có một số biện pháp thật sự thuyết phục và hiệu quả để giảm thiểu

60

tình trạng nêu trên. Có như thế thì mới đảm bảo được đường thông, hè thoáng,

bộ mặt Quận 1 được cải thiện và ý thức thượng tôn pháp luật của người dân

mới ngày càng được nâng cao.

61

Chương 3:

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,

KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ TẠI

QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất

nước đặc biệt tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn

mạnh do đó cần phải duy trì chấn chỉnh công tác xử phạt vi phạm để bảo đảm

cho phạm vi đất ở đường bộ được không bị vi phạm. Các thành phần của

đường bộ như lòng đường và vỉa hè có ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp của một

thành phố. Nếu con đường và vỉa hè trong thành phố đẹp đẽ, an toàn thì thành

phố đó cũng mang những đặc trưng tương tự và ngược lại. Người dân chính là

các chủ thể mang lại vẻ đẹp cho lòng đường và vỉa hè từ các hoạt động phong

phú của họ trên lòng đường, vỉa hè bên cạnh hoạt động giao thông. Trong bối

cảnh một số quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực trên vẫn còn mâu

thuẫn, do đó tác giả nhận thấy cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định giải

quyết mâu thuẫn, chồng chéo liên quan đến công tác xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực này và bổ sung một số quy định nhằm đảm bảo tính logic

chặt chẽ của pháp luật.

Trên cơ sở phân tích thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí

Minh, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

62

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

3.1.1. Bổ sung các trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ

Như đã phân tích, hoạt động sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành

cho đường bộ chỉ bao gồm một số hành vi như: Sử dụng tạm thời một phần hè

phố, lòng đường không vào mục đích giao thông hoặc làm nơi trông, giữ xe;

Sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa; Xây dựng các công trình thiết

yếu; Sử dụng đất dành cho đường bộ; Khai thác, sử dụng trong phạm vi đất

hành lang an toàn đường bộ; Đấu nối vào quốc lộ và thi công công trình trên

đường bộ đang khai thác.

Hoạt động sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ ở

Việt Nam rất phong phú bao gồm một số hoạt động như: bán hàng rong, làm

nơi trông giữ xe, họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa;

sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; diễn ra các hoạt động văn

hóa… Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cạnh việc sử

dụng lòng đường, vỉa hè với mục đích giao thông thì chỉ có một số trường

hợp được phép sử dụng tạm thời lòng đường, vỉa hè không vì mục đích giao

thông như sau: tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật

của Nhà nước; tổ chức đám tang, đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ

đám tang, đám cưới của hộ gia đình hoặc phục vụ hoạt động văn hóa, thể

thao, diễu hành, lễ hội; trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ

thi công công trình của hộ gia đình; trung chuyển rác thải sinh hoạt của doanh

nghiệp vệ sinh môi trường đô thị. (Khoản 4, Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-

CP ngày 03 tháng 09 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ

quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ).

63

Tuy nhiên, ở Thành phố Hồ Chí Minh lại cho phép sử dụng một phần

lòng đường, vỉa hè với các mục đích khác các trường hợp Chính phủ quy

định. Ví dụ như Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết

định số 699/QĐ-UBND ngày 06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh ban hành danh mục các tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời

một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh

dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ Quyết định trên thì có thể thấy

ở Thành phố Hồ Chí Minh, các trường hợp sử dụng, khai thác trong phạm vi

đất dành cho đường bộ được mở rộng hơn so với quy định của Chính phủ.

Không những vậy một số tỉnh thành khác cũng quy định theo hướng mở rộng

hơn ví dụ như ở Thành phố Đà Nẵng được phép sử dụng tạm thời vỉa hè để

kinh doanh buôn bán; tập kết vật liệu xây dựng; làm mặt bằng tập kết máy

móc, thiết bị, phục vụ thi công các công trình xây dựng; lắp đặt các công trình

phục vụ công cộng; lắp đặt trạm chờ xe buýt theo tuyến xe buýt được duyệt;

lắp đặt quảng cáo… (Khoản 1, Điều 4 Quyết định 55/2014/QĐ-UBND ngày

31/12/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng quy định về quản lý và

sử dụng tạm thời vỉa hè ngoài mục đích giao thông trên tuyến đường thuộc

địa bàn Thành phố Đà Nẵng). Chính sự mâu thuẫn giữa các quy định này làm

xuất hiện các luồng ý kiến về việc chỉ cho phép sử dụng lòng đường, vỉa hè

đối với các trường hợp theo quy định của Chính phủ hoặc là cho phép sử

dụng theo quy định đặc thù của các thành phố. Theo tác giả thì các hoạt động

sử dụng lòng đường, vỉa hè với mục đích khác với Chính phủ quy định của

các thành phố là không phù hợp. Căn cứ quy định Khoản 2, Điều 157 của

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 về áp dụng văn bản quy

phạm pháp luật thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy

định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý

64

cao hơn. Do đó các quyết định của các thành phố quy định các trường hợp

khác với quy định của Chính phủ thì đều không phù hợp.

Bản thân tác giả nhận thấy tùy theo tính đặc thù của các thành phố mà

nên có quy định thêm các trường hợp được phép sử dụng tạm thời lòng

đường, vỉa hè không vì mục đích giao thông và trên thực tế hiện nay các

trường hợp sử dụng lòng đường, vỉa hè rất đa dạng không phải chỉ có một số

trường hợp theo quy định của Chính phủ. Vì vậy, để thống nhất công tác quản

lý từ trung ương đến địa phương trong hoạt động quản lý lòng đường, vỉa hè,

tác giả nhận thấy nên bổ sung thêm một số trường hợp nêu trên hoặc phân

cấp, phân quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phép quy định chi tiết

các trường hợp này tùy theo tính đặc thù của địa phương để đảm bảo tính

thống nhất chặt chẽ của pháp luật. Về cơ bản các trường hợp xử phạt vi phạm

hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo

quy định của Chính phủ đã có những hành vi này mà trên thực tế thì một số

tỉnh thành lại cho phép thực hiện các hành vi sử dụng tạm thời lòng đường,

vỉa hè không vì mục đích giao thông khác. Thiết nghĩ nên bổ sung các trường

hợp sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ để thống nhất từ

trung ương đến địa phương. Và khi công nhận các trường hợp này, các tỉnh,

thành sẽ dựa trên tình hình đặc thù địa phương mà cho phép một số nơi được

thực hiện. Khi đã quy định rõ các địa điểm được phép sử dụng các hành vi kể

trên thì công tác xử phạt vi phạm hành chính cũng dễ dàng hơn và đảm bảo cả

về tính hợp tình và hợp lý.

Kinh nghiệm của một số quốc gia cũng như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn

Quốc, Singapore cũng quy hoạch các khu vực, tuyến đường được phép buôn

bán trực tiếp trên vỉa hè. Người đi bộ vừa có thể tham quan, đi làm sẵn tiện

ghé vào mua sắm. Trong khi đó người kinh doanh phải đóng tiền mặt bằng

cho Chính phủ [1]. Người khai thác sử dụng vỉa hè để sinh lời thì phải trả tiền

65

vào công quỹ, không có chuyện sử dụng miễn phí. Số tiền thu được dùng để

duy tu, bảo trì vỉa hè, đường sá và cảnh quan, môi trường. Ở Singapore và

Bangkok việc thu phí cao hay thấp tùy thuộc vào 03 điều kiện là: vị trí, mức

doanh thu thực tế và diện tích mặt bằng, cũng như khoảng thời gian chiếm

dụng. Nếu cửa hàng ở khu vực kinh doanh sầm uất, ở trục đường thương mại,

ở phố cổ, như vỉa hè khu kinh doanh sầm uất bậc nhất Orchard (Singapore),

Pathumwan (Bangkok) thì giá rất cao và ngược lại.

Thạc sĩ Parisa (nghiên cứu sinh của Trường Chulalongkorn, chuyên

nghiên cứu về kinh tế vỉa hè) cho biết một công ty kinh doanh sử dụng phần

trước của tòa nhà ở khu phố cổ Khaosan (cũng là khu du lịch) phải trả tới

30.000 baht/tháng, tương đương 20 triệu đồng Việt Nam.

Ngoài khoản tiền này, chủ những tòa nhà thương mại sử dụng mặt bằng

vỉa hè trong nhiều thời gian cho xe, hàng hóa ra vào thì phải trả thêm mỗi tháng từ 10.000 -12.000 baht nữa. Trong khi một chỗ trống khoảng 02 m2 trên

vỉa hè ở khu vực trung tâm kinh doanh thuận lợi cho người bán hàng (thường

là một xe đẩy tay) có giá một tháng là 3.500 baht, tương đương 2,3 triệu đồng

Việt Nam. Giá cho thuê vỉa hè ở Bangkok căn cứ theo tình hình doanh thu

theo mỗi 06 tháng. Điều này có nghĩa là cửa hàng nào có doanh thu cao, sử

dụng mặt bằng lớn, chiếm dụng lâu thì phải đóng phí cao hơn cho dù cửa

hàng không ở khu vực trung tâm.

Tại Singapore và Bangkok, phí sử dụng vỉa hè do chính quyền thu trực

tiếp hay gián tiếp qua mạng. Việc thu loại phí này ở Bangkok là do cơ quan

thuế của các quận thu hằng tháng tại chỗ và xuất hóa đơn tài chính. Ở

Singapore, chỉ có người kinh doanh có nhà mới được thuê phần vỉa hè phía

trước để kinh doanh, nhưng không tránh được những trường hợp thuê vỉa hè

xong cho người khác thuê lại để hưởng chênh lệch [6].

66

Từ một số ví dụ nêu trên cũng có thể thấy vấn đề sử dụng tạm thời lòng

đường, vỉa hè không vì mục đích giao thông như cho phép kinh doanh tại một

số tuyến đường đã được quy hoạch sẽ là phù hợp vừa đảm bảo tính nhân văn

vừa đem lại một số lợi ích cho cơ quan nhà nước và cũng dễ kiểm tra xử lý

đối với các khu vực ngoài danh mục được phép kinh doanh vỉa hè.

3.1.2. Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt

Bên cạnh đó, trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cần sửa đổi nội dung quy định

về thẩm quyền lập biên bản hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

Như phân tích ở phần thực trạng, các lực lượng chịu trách nhiệm chủ yếu

trong việc kiểm tra các vi phạm hành chính liên quan đến công tác này là lực

lượng đặc thù ở thành phố như Đội Quản lý trật tự đô thị tuy nhiên theo nội

dung về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính của Nghị định

46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì các thành

viên thuộc các lực lượng này không được quy định thẩm quyền lập biên bản

vi phạm hành chính vì các lực lượng này không phải là lực lượng được giao

nhiệm vụ tuần kiểm theo tinh thần của Khoản 2, Điều 3 Thông tư số

47/2012/TT-BGTVT ngày 12/11/2012 của Bộ Giao thông vận tải quy định về

tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ mặc dù các lực

lượng này được Ủy ban nhân dân thành phố cho phép lập biên bản vi phạm

hành chính đối với các lĩnh vực này. Do đó, việc lập biên bản vi phạm hành

chính của các lực lượng này trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt là

không phù hợp. Thiết nghĩ thực trạng hiện nay các lực lượng này cũng đã

thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính đối với các lĩnh

vực này vì vậy cần phải sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm

67

hành chính tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ

quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và

đường sắt theo hướng cho phép các lực lượng này có quyền lập biên bản vi

phạm hành chính bằng việc sửa đổi tương tự quy định của Khoản 2, Điều 59

Nghị định 121/2013/NĐ-CP ngày 10/10/2013 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản;

khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng

kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở về thẩm quyền lập biên bản vi

phạm hành chính:“Công chức thuộc Ủy ban nhân dân các cấp được giao

nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quy

định tại Nghị định này”. Quy định như thế sẽ mở rộng được phạm vi các đối

tượng có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và Ủy ban nhân dân

các cấp sẽ linh động hơn trong việc phân công nhiệm vụ cho các lực lượng

chức năng trong việc kiểm tra xử lý các vi phạm vì về bản chất các lực lượng

như Đội Quản lý trật tự đô thị đã thực hiện việc lập biên bản vi phạm hành

chính theo quyết định quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân Thành phố

Hồ Chí Minh.

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định như trên sẽ khắc phục được sự mâu

thuẫn, chồng chéo trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan

đến việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Ngoài ra,

quy định theo hướng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa

phương sẽ góp phần nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động quản lý

nhà nước mang tính đặc thù của từng vùng lãnh thổ khác nhau, qua đó góp

phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các tỉnh nói riêng và đất nước nói

chung.

68

3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật

3.2.1. Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện công tác xử phạt vi phạm

hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những nhiệm vụ hàng đầu

trong việc phát triển đất nước của các cấp chính quyền từ địa phương đến

trung ương. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng cơ quan hành chính nhà

nước mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Chỉ thị 18-CT/TW ngày

04/09/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường

sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông cũng đã xác định đây

trách nhiệm cấp ủy đảng, người đứng đầu chính quyền các cấp, các đoàn thể,

tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân với mục tiêu thực hiện toàn

diện, đồng bộ, liên tục các chủ trương, giải pháp nhằm tạo chuyển biến mạnh

mẽ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phấn đấu hằng năm kiềm

chế, làm giảm từ 5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường

thủy nội địa và giảm ùn tắc giao thông đường bộ. Để cụ thể hóa nội dung của

Chỉ thị 18-CT/TW, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ban hành Chỉ

thị số 11-CT/TW ngày 10/3/2017 về tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xác định người đứng đầu cấp ủy, chính

quyền các cấp phải chịu trách nhiệm cao nhất trong việc bảo đảm trật tự đô

thị, khi để xảy ra tình trạng vi phạm quy định về buôn bán lấn chiếm trái phép

lòng đường, vỉa hè trên địa bàn quản lý. Trong đó, Công an, Đội Quản lý trật

tự đô thị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải thực hiện kiểm

tra xử lý triệt để các điểm lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè gây mất trật tự an

toàn giao thông; xử lý nghiêm các trường hợp để phương tiện không đúng nơi

quy định; kiểm tra, kiểm soát và xử lý kịp thời tình trạng người ăn xin, buôn

bán hàng rong, nạn chèo kéo khách du lịch, làm ảnh hưởng đến an toàn của

69

du khách, an ninh trật tự; thực hiện thường xuyên công tác duy tu, sửa chữa

và đầu tư, nâng cấp vỉa hè các tuyến đường, xử lý kịp thời những bất cập bảo

đảm cho người bộ hành lưu thông an toàn trên địa bàn quản lý. Quy hoạch,

sắp xếp, bố trí các khu vực chợ, tái bố trí tiểu thương, người dân buôn bán tại

những khu vực quy định; yêu cầu các cá nhân, đơn vị trong quá trình hoạt

động kinh doanh phải bố trí, sắp xếp chỗ đậu xe bảo đảm không lấn chiếm trái

phép lòng đường, vỉa hè gây mất trật tự an toàn giao thông (Mục 1, 2 Chỉ thị

số 11-CT/TW ngày 10/3/2017 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về tăng

cường công tác quản lý trật tự đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).

Từ các nội dung trên có thể xác định Công an, Đội Quản lý trật tự đô

thị và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là những người chịu

trách nhiệm chính trong công tác chấn chỉnh trật tự đô thị tại địa phương. Do

đó, cần phải quy trách nhiệm rõ ràng đối với các đối tượng này khi để xảy ra

các tình trạng vi phạm tại địa phương. Những trường hợp ko đảm bảo các

nhiệm vụ được giao nêu trên sẽ bị chịu trách nhiệm xử lý kỷ luật. Bởi vì tình

trạng buông lỏng quản lý khiến tình trạng vi phạm về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ có thể được xem là hành vi trốn tránh trách

nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao theo quy định tại Khoản 1, Điều 18 về

những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ

tại Luật Cán bộ, công chức 2008.

Căn cứ nội dung của các quy định trên có thể nhận thấy việc chấn chỉnh

trật tự đô thị là một trong những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp

luật của nhà nước ràng buộc các chủ thể có chức năng xử phạt vi phạm hành

chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ phải chịu

trách nhiệm trong hoạt động thực thi nhiệm vụ. Do đó, cần đảm bảo cơ chế

trách nhiệm phải được thực thi trên thực tế nhằm hạn chế các trường hợp

buông lỏng quản lý khiến cho tình trạng tái vi phạm diễn ra sau khi đã chấn

70

chỉnh một thời gian làm lãng phí sức người và tài sản của nhà nước khiến các

chủ thể vi phạm không chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách

của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

3.2.2. Mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ

thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính

Mặc dù Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có quy định cơ

quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng phương

tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an

toàn giao thông và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Điều 5 Nghị định

165/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử

dụng và danh mục phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng để

phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi

trường lại quy định chỉ có một số chủ thể sau được trang bị phương tiện, thiết

bị kỹ thuật nghiệp vụ như: Lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ; Lực

lượng Cảnh sát giao thông đường sắt; lực lượng Cảnh sát đường thủy; Lực

lượng Thanh tra chuyên ngành và cơ quan được giao thực hiện chức năng

thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải; Lực lượng Cảnh sát phòng chống

tội phạm về môi trường; Lực lượng Thanh tra chuyên ngành và cơ quan được

giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường.

Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định các cơ quan, người có thẩm

quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng, phương tiện, thiết bị kỹ

thuật nghiệp phụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao

thông nhưng Nghị định hướng dẫn của Chính phủ lại không quy định hết tất

cả chủ thể có thẩm quyền xử phạt mà chỉ giới hạn ở các lực lượng Cảnh sát

giao thông hoặc Thanh tra chuyên ngành… bất kể theo quy định của pháp luật

chủ thể có thẩm quyền xử phạt còn bao gồm Chủ tịch Ủy ban nhân dân các

cấp. Điều này làm hạn chế khả năng áp dụng vào thực tiễn trong công tác xử

71

phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1.

Trên thực tế, Ủy ban nhân dân Quận 1 có trang bị hệ thống camera an

ninh, giám sát ở hầu hết các tuyến đường trọng điểm của Quận 1, thông qua

hệ thống camera có thể dễ dàng giám sát các chủ thể có hành vi vi phạm và

đây cũng là căn cứ hiệu quả để xác minh các hành vi vi phạm của chủ thể vi

phạm tránh các trường hợp “chối tội” của các chủ thể. Chẳng hạn đối với

hành vi đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định (Phạt tiền từ

300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân, từ 600.000 đồng đến

800.000 đồng đối với tổ chức), muốn xác định được chủ thể có vi phạm hay

không cần phải có hình ảnh chứng minh. Mặc dù trên thực tế, nếu các lực

lượng chức năng phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính vẫn có thể xử

phạt được. Tuy nhiên, đối với các trường hợp phát hiện nhưng không có hình

ảnh chứng minh mà các chủ thể vi phạm cố tình chối bỏ hành vi của mình thì

cũng rất khó xử lý. Do đó, thiết nghĩ cần phải quy định thêm các đối tượng

được xử phạt vi phạm hành chính thông qua việc áp dụng phương tiện, thiết

bị kỹ thuật, nghiệp vụ. Nếu lực lượng chức năng thuộc Ủy ban nhân dân Quận

1 được phép sử dụng theo đúng tinh thần của Luật Xử lý vi phạm hành chính

thì sẽ nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính vì trên Quận 1 có rất nhiều

tuyến đường được trang bị camera an ninh có chức năng giám sát trật tự, an

toàn xã hội. Trường hợp nếu được tận dụng lợi thế đó thì tiết kiệm thời gian,

công sức cho lực lượng xử lý vi phạm hành chính.

3.2.3. Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử

lý các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ.

Trong quá trình xử lý vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ thì công tác tuần tra, kiểm tra có vai trò rất

72

quan trọng. Thông qua hoạt động tuần tra, kiểm tra có thể kịp thời phát hiện,

ngăn chặn của hành vi vi phạm hành chính. Không những thế, chính những

hoạt động kiểm tra, xử lý là cơ sở, tiền đề để các chủ thể quản lý phát hiện

được những bất cập trong công tác quản lý và đề xuất những kiến nghị nhằm

khắc phục những hạn chế trong quá trình xử lý vi phạm hành chính và hoàn

thiện hệ thống pháp luật hơn.

Không những thế hoạt động tuần tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính

lại là một trong những công cụ hiệu quả trong việc tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật. Chính sự chế tài của pháp luật tác động trực tiếp đến các

chủ thể vi phạm sẽ dần dần hình thành ý thức chấp hành pháp luật của các chủ

thể vi phạm. Tuy nhiên, để sự chế tài này mang lại hiệu quả cao đòi hỏi công

tác ra quân xử lý phải thật sự khách quan, minh bạch không để xảy ra các hiện

tượng tiêu cực trong khi xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, công tác

kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ phải huy động nhiều lực lượng cùng tham gia. Như đã

phân tích, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này rất đa

dạng không phải chỉ có lực lượng của Ủy ban nhân dân Quận 1 mới có thẩm

quyền xử lý. Vì vậy, để đảm bảo công tác này đạt hiệu quả cao thì cần phải có

sự phối hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng chức năng có thẩm quyền. Đồng

thời, công tác xử phạt phải thực hiện thường xuyên chứ không phải theo

phong trào làm cho chủ thể vi phạm ỷ lại, bất chấp chính quyền xử phạt tạo

thành thói quen xấu của chủ thể vi phạm. Hoạt động kiểm tra thường xuyên sẽ

góp phần giảm thiểu tình trạng tùy tiện, quan liêu, trong hoạt động xử phạt vi

phạm hành chính góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Công tác chấn chỉnh trật tự đô thị không phải chỉ là nhiệm vụ riêng lẻ

của các cơ quan nhà nước mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Do đó,

bên cạnh công tác kiểm tra xử lý, các cơ quan chức năng cần phải tranh thủ sự

73

ủng hộ của người dân và tuyên truyền người dân không nên giao dịch, mua

bán đối với các chủ thể vi phạm trong lĩnh vực này và vận động nhắc nhở các

chủ thể vi phạm từng bước thay đổi. Bên cạnh việc tăng cường công tác ra

quân tuần tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm. Các cơ quan cấp trên cũng

cần thường xuyên giám sát việc thực thi nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành

chính của các cơ quan cấp dưới. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Quận 1 phải

thường xuyên kiểm tra, giám sát hiệu quả làm việc của Ủy ban nhân dân 10

phường thuộc Quận 1. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc

thực thi nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban ban nhân dân

phường và quận. Xử lý nghiêm đối với các trường hợp buông lỏng quản lý

của cơ quan cấp dưới. Bên cạnh đó, đối với các địa phương có khó khăn trong

công tác xử phạt vi phạm hành chính do tính phức tạp của vụ việc thì Ủy ban

nhân dân Quận 1 cũng phải có sự hỗ trợ về mặt lực lượng. Ngoài hoạt động

giám sát của cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp dưới, để nâng cao hiệu

quả công tác giám sát cũng cần phải phát huy hiệu quả giám sát của các đại

biểu Hội đồng nhân dân và hoạt động phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp.

Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người được cử tri địa phương tín

nhiệm để bầu làm đại biểu, do đó đại biểu Hội đồng nhân dân chính là những

người được cử tri địa phương tin tưởng và gửi gắm những tâm tư, nguyện

vọng của mình vào người đại biểu. Vì vậy, các đại biểu Hội đồng nhân dân

phải hoạt động một cách thực chất, thường xuyên lắng nghe ý kiến của cử tri

và đi giám sát thực tiễn đối với công tác quản lý địa phương của cơ quan hành

chính các cấp để từ đó phản ánh chân thật các hoạt động của địa phương góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý địa phương.

Đồng thời phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

và đạo đức công vụ của đội ngũ thực hiện nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành

74

chính để tránh các trường hợp xử lý oan sai, không đúng trình tự thủ tục luật

định của các đội ngũ này. Trong bối cảnh phải thực hiện chủ trương tinh giản

biên chế thì số lượng đội ngũ thực hiện kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về

sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đã thiếu so với biên

chế định biên được giao thì theo chủ trương này số lượng càng phải giảm hơn

nữa. Cụ thể thành viên Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 không được quá 15

người và không được bố trí quá 05 người tại các phường thuộc Quận 1 theo

quy định tại Nghị quyết số 24/2017/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 của Hội

đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về số lượng thành viên Đội Quản lý

trật tự đô thị, mức lương đối với lực lượng cộng tác viên Đội Quản lý trật tự

đô thị. Do vậy, phải nâng chất của đội ngũ thành viên Đội Quản lý trật tự đô

thị để nâng cao hiệu quả công tác trật tự đô thị. Định kỳ hàng quý hoặc 06

tháng nên sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình thực hiện công tác này trên địa

bàn Quận 1 để động viên khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích tốt. Đồng

thời nghiêm khắc xử lý các cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ được giao, vi

phạm trình tự xử phạt vi phạm hành chính hoặc có hành vi tiêu cực trong quá

trình thực thi công vụ vì đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tình

trạng vi phạm khó suy giảm. Nếu triệt tiêu được các hành vi tiêu cực trong

quá trình xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ thì hiệu quả quản lý nhà nước sẽ nâng cao, góp phần giảm

thiểu các hành vi vi phạm pháp luật và giáo dục được ý thức tuân thủ pháp

luật của người dân.

Hoạt động tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử lý các trường hợp vi phạm

hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ có ý

nghĩa rất quan trọng. Nếu các hoạt động nêu trên được thực hiện một cách

hiệu quả đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất xuyên suốt các cấp chính quyền

75

thì chắc chắn sẽ giảm thiểu các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực

này.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng

pháp luật

trong việc giáo dục sự hiểu biết pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật của người dân. Công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao sẽ góp phần giảm

thiểu các trường hợp vi phạm pháp luật của người dân. Do đó cần phải thường

xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền về các nội dung liên quan đến sử dụng,

khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cho người dân. Công tác

tuyên truyền cần phải đảm bảo hoạt động một cách hiệu quả, sâu rộng, lan tỏa

đến từng tổ dân phố để người dân kịp thời nắm bắt các chủ trương, chính sách

của Đảng và nhà nước.

Đổi mới hình thức cũng như nội dung tuyên truyền pháp luật để tạo sự

thu hút đối với người dân. Bên cạnh hình thức tuyên truyền miệng cần phải

kết hợp với các hình thức khác như tổ chức hội thi, sân chơi pháp luật để tạo

sự đa dạng trong công tác tuyên truyền cho người dân có nhiều cách tiếp cận

các quy định của pháp luật. Đồng thời có thể lập fanpage tuyên truyền trên

một số trang mạng xã hội để nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân, đặc

biệt là các đối tượng trẻ tuổi thường xuyên truy cập trang mạng xã hội. Việc

cập nhật các thông tin tuyên truyền tích cực trên các phương tiện thông tin đại

chúng, các trang mạng xã hội, sẽ phản bác được những luận điệu xuyên tạc,

kích động của các thế lực thù địch đặc biệt trong bối cảnh hiện nay có nhiều

đối tượng lợi dụng các trang mạng xã hội để lôi kéo, kích động người dân

chống đối với các chính sách chấn chỉnh trật tự đô thị của Ủy ban nhân dân

Quận 1 nói riêng và cả nước nói chung.

76

Không chỉ đổi mới một số phương thức tuyên truyền, tác giả nhận thấy

cần phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn của đội ngũ báo cáo viên,

tuyên truyền viên đặc biệt là nâng cao kỹ năng thuyết trình để thu hút những

người tham gia buổi tuyên truyền. Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn

để nâng cao kỹ năng cũng như kiến thức cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên

truyền viên. Bên cạnh đội ngũ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật mang

tính chính thống như báo cáo viên, tuyên truyền viên, thì mỗi người cán bộ,

công chức cũng phải đóng vai như là một tuyên truyền viên để tuyên truyền

đồng thời vận động những chủ thể đang vi phạm về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ kịp thời chấm dứt các hành vi vi phạm và

phản ánh lên các cơ quan chức năng để kịp thời xử phạt vi phạm hành chính

đối với các hành vi chống đối. Phạm vi chủ thể tuyên truyền cần phải mở rộng

ra đến tận các khu phố, tổ dân phố, vì đây là những người gần dân nhất. Họ là

những hàng xóm của các chủ thể vi phạm, do đó Ban điều hành khu phố, tổ

dân phố phải được quán triệt cụ thể các nội dung về các chính sách của nhà

nước để tuyên truyền sâu rộng trên từng địa bàn khu dân cư. Chính họ là

những người tuyên truyền hiệu quả nhất.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật rất quan trọng để góp

phần giảm thiếu các vi phạm hành chính và nâng cao sự hiểu biết pháp luật

của người dân. Vì vậy, cần huy động mọi nguồn lực xã hội để hoạt động

tuyền truyền ngày một hiệu quả hơn.

77

Tiểu kết chƣơng 3

Vấn đề vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường

bộ đã là một hiện tượng xảy ra từ lâu đời và là một trong những vấn đề cần

phải quan tâm của lãnh đạo chính quyền các cấp. Qua các phân tích nêu trên,

tác giả rút ra được một số kết luận như sau:

1. Thực trạng về xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong

phạm vi đất dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ

Chí Minh đã cho thấy sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo trong công tác chấn

chỉnh trật tự đô thị bằng việc tăng cường ra quân xử lý các trường hợp vi

phạm. Mặc dù vậy tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này tại Ủy ban nhân dân

Quận 1 vẫn tiếp tục xảy ra.

2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình vi phạm hành chính gồm một

số nguyên nhân như sau: một số hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai

thác trái phép lòng đường, vỉa hè đem lại nguồn lợi lớn cho chủ thể vi phạm;

các chủ thể vi phạm được sự bao che của cơ quan quản lý nhà nước; công tác

quản lý và quy hoạch của cơ quan quản lý nhà nước; quy định của pháp luật

trong lĩnh vực này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; quy trình xử lý vi phạm

hành chính của một số chủ thể quản lý không phù hợp với quy định của Luật

Xử lý vi phạm hành chính về trình tự, thủ tục và một số biện pháp cưỡng chế

thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn khó triển khai thực hiện

trên thực tế.

3. Một số các giải pháp để góp phần làm hiệu quả công tác xử phạt vi

phạm hành chính của các cấp chính quyền ngày càng tốt hơn như bổ sung các

trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ;

Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ, đường sắt; Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện

công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

78

dành cho đường bộ; Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát

việc xử lý các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất

dành cho đường bộ và mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện,

thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính.

79

KẾT LUẬN

Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm

vi đất dành cho đường bộ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh

tế - xã hội của quốc gia. Trong phạm vi quyền hạn được giao, Ủy ban nhân

dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm phải quản lý lĩnh vực

này một cách hiệu quả nhất thông qua các hoạt động như tuyên truyền, phổ

biến giáo dục pháp luật trên địa bàn; tổ chức kiểm tra, xử phạt các hành vi vi

phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

trên địa bàn mình quản lý theo quy định của pháp luật;… Mặc dù các cấp

chính quyền vẫn luôn tăng cường quản lý việc sử dụng, khai thác lòng đường,

vỉa hè, chấn chỉnh trật tự đô thị, tuy nhiên, các vi phạm trong lĩnh vực này vẫn

không ngừng xảy ra. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã trình bày được một

số nội dung như sau:

1. Khái quát một số cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành

chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ như phân

tích, diễn giải các khái niệm về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính

trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Đồng

thời phân tích được trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các hình

thức xử phạt và thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này.

2. Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm

hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Tác

giả đã nêu lên được một số đặc điểm về vị trí, địa lý và dân cư của Ủy ban

nhân dân Quận 1. Đồng thời nêu được thực trạng trong hoạt động xử phạt vi

phạm hành chính và một số nguyên nhân gây ra hạn chế, bất cập trong hoạt

động xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm

vi đất dành cho đường bộ của pháp luật.

80

3. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và hạn chế trong hoạt động xử

phạt vi phạm hành chính về sử dụng và khai thác trong phạm vi đất dành cho

đường bộ, tác giả đã nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và

nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí

Minh trong việc quản lý và xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả rút ra được kết luận như sau:

Thứ nhất, hoạt động của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí

Minh trong công tác xử phạt các vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác

trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất quan trọng, cấp thiết. Tuy nhiên, các

văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nội dung này còn nhiều hạn chế và

bất cập. Bên cạnh các vấn đề pháp lý thì phương thức thực hiện quản lý của

Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh còn chưa hiệu quả khiến

cho tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại với số

lượng các hành vi vi phạm tương đối lớn.

Thứ hai, cần phải sửa đổi một số quy định của pháp luật để khắc phục

các hạn chế mà tác giả đã nêu trong bài luận văn. Bên cạnh đó, cũng cần phải

xem xét việc thay đổi phương thức quản lý, xử phạt vi phạm hành chính về sử

dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo một xu hướng mới

phù hợp hơn.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS Trần Vĩnh An, Cho thuê vỉa hè, nên hay không?, đăng trên website

http://nld.com.vn/kinh-te/cho-thue-via-he-nen-hay-khong-

170318220927254.htm, ngày 18/03/2017.

2. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Niên giám thống kê

Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thông kê.

3. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Niên giám thống kê

Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thông kê.

4. Mai Hà, “Chủ tịch TP.Hà Nội: 'Hơn 150 quán bia vỉa hè có công an

đứng sau”, đăng trên website: http://thanhnien.vn/doi-song/chu-tich-tpha-noi-

hon-150-quan-bia-via-he-co-cong-an-dung-sau-806129.html, ngày 04/3/2017.

5. Trung Hiếu, “Lấn chiếm vỉa hè TP.HCM có thể 'do bao che của người

đứng đầu địa phương', đăng trên website: https://thanhnien.vn/thoi-su/lan-

chiem-via-he-tphcm-co-the-do-bao-che-cua-nguoi-dung-dau-dia-phuong-

967958.html, ngày 30/5/2018.

6. TS Nguyễn Minh Hòa, Bangkok, Singapore cho thuê vỉa hè như thế

nào?, đăng trên website https://tuoitre.vn/bangkok-singapore-cho-thue-via-he-

nhu-the-nao-1330590.htm, ngày 13/06/2017.

7. PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp (2012), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi

phạm hành chính năm 2012, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ

Chí Minh.

8. Nguyên Huy, Thành phố Hồ Chí Minh bàn cách hạn chế xe máy,

phương tiện cá nhân, Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên website

http://congan.com.vn/giao-thong-24h/tp-hcm-ban-cach-han-che-xe-may-

phuong-tien-ca-nhan_37514.html, ngày 20/04//2017.

9. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

82

10. Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước Thành phố Hồ

Chí Minh (2017), Thông tin tiếp về tình hình ngập nước đến đầu năm 2017,

đăng trên website: http://www.ttcn.hochiminhcity.gov.vn/ban-tin-chuyen-

nganh/-/ext/articleview/article/452300/10182, ngày 03/05/2017.

11. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2007), Vài nét về Quận 1, đăng trên

website: http://www.quan1.hochiminhcity.gov.vn/GIOI-THIEU/Tong-quan-

dia-ly-lich-su/ctl/Detail/mid/11406&ArticleID=ARTICLE15092649, ngày

11/06/2007.

12. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2016), Báo cáo số 359/BC-UBND ngày

07/10/2016 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ.

13. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2017), Báo cáo số 180/BC-UBND ngày

29/06/2017 về kết quả thực hiện lập lại trật tự lòng, lề đường trên địa bàn

Quận 1 06 tháng đầu năm 2017.

14. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2017), Báo cáo số 378/BC-UBND ngày

09/10/2017 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ.

15. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2019), Báo cáo số 15/BC-UBND ngày

10/01/2019 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ.

16. PGS.TS Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.