BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN BẢO ANH
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,
KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO
ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN BẢO ANH
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,
KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO
ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM QUANG HUY
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của TS. Phạm Quang Huy. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong
đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập được từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham
khảo. Một số quan điểm, nhận xét, đánh giá của tác giả khác đều được trích
dẫn và chú thích nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
luận văn của mình.
Học viên
Nguyễn Bảo Anh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT
DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ .............................................................................. 8
1.1. Khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm
vi đất dành cho đƣờng bộ ............................................................................ 8
1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đƣờng bộ ............................................................... 16
1.2.1. Xử phạt vi phạm hành chính ........................................................... 16
1.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ .............................................................................. 19
1.3. Chủ thể, nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành
cho đƣờng bộ .............................................................................................. 21
1.3.1. Chủ thể của hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ. ............................................................... 21
1.3.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ ................................................................ 22
1.3.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc
phục hậu quả về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
................................................................................................................... 26
1.3.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ ...................................................... 27
1.3.5. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ ...................................................... 30
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ
DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG
BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................... 34
2.1. Tổng quan về Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ............................. 34
2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư ..................................................................... 34
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ........................................................... 35
2.2. Tình hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đƣờng bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh .............. 36
2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................... 38
2.4. Nguyên nhân vi phạm. ........................................................................ 43
2.4.1. Nguyên nhân trong thiếu sót xử lý vi phạm hành chính ................. 43
2.4.2. Chủ thể tham gia xử phạt trên thực tế khác biệt với quy định pháp
luật. ............................................................................................................ 47
2.4.3. Quy định xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ bị chồng chéo. ....................................... 50
2.4.4. Quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số chủ thể quản lý
không phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về trình
tự, thủ tục. ................................................................................................. 55
2.4.5. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính còn chưa hiệu quả. ............................................ 57
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 59
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ
DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG
BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................... 61
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ......................................................... 62
3.1.1. Bổ sung các trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất
dảnh cho đường bộ .................................................................................... 62
3.1.2. Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt ........................................ 66
3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật ........................................................... 68
3.2.1. Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện công tác xử phạt vi phạm
hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ 68
3.2.2. Mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính. ................................ 70
3.2.3. Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử lý
các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ. .................................................................................................. 71
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật. ............................................................................................................ 75
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Tình hình xử phạt vi phạm hành chính 42
trong lĩnh vực giao thông đường bộ của
Ủy ban nhân dân Quận 1 từ năm 2016-2018
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những hoạt động quan trọng
trong công tác quản lý hành chính của nhà nước về mọi lĩnh vực trong đời
sống. Bất kể quốc gia nào trên thế giới, không phân biệt thể chế chính trị,
trình độ phát triển kinh tế đều tập trung quản lý nền hành chính một cách hiệu
quả nhất nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm hành chính gây ảnh hưởng đến
hoạt động quản lý. Hoạt động quản lý hành chính rất đa dạng bao trùm lên
nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, giao thông, y tế… Trong số các
lĩnh vực nêu trên thì hoạt động quản lý trong lĩnh vực giao thông, cụ thể là
lĩnh vực giao thông đường bộ lại là một trong những lĩnh vực thường xuyên
xảy ra vi phạm chủ yếu xoay quanh các vi phạm về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ. Đây là một trong những loại vi phạm xảy ra
phổ biến trong lĩnh vực này và hiện đang nhận được sự quan tâm chỉ đạo của
các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương và trong thời gian qua đã
có những sự kiện nổi bật trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước,
tiêu biểu là công tác ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị của Ủy ban nhân dân
Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 1 dẫn
đầu đoàn công tác kể từ ngày 16/01/2017 và kéo theo đó là công cuộc ra quân
chấn chỉnh trật tự đô thị của các quận, huyện trong địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh và cả các tỉnh, thành phố khác trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên tình
trạng vi phạm các quy định về việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành
cho đường bộ vẫn còn tiếp tục xảy ra.
Các hành vi vi phạm về việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành
cho đường bộ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một quốc gia. Hoạt
động quản lý tốt sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của chính quốc gia đó và
ngược lại sẽ kiềm hãm sự phát triển. Các quốc gia trên thế giới hiện nay như
2
Pháp, Đức, Nhật Bản… đều quản lý việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ một cách hiệu quả đảm bảo đường thông, hè thoáng hạn
chế xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này như bán hàng
rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các
tuyến phố có quy định cấm bán hàng; sử dụng trái phép lòng đường đô thị, hè
phố để họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa chữa
phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo;
xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản trở
giao thông… (Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt)
Ở Việt Nam, hoạt động quản lý, xử phạt trong lĩnh vực này luôn được
chú trọng đối với các cấp chính quyền. Tuy nhiên, trải qua một quá trình hình
thành và phát triển lâu dài của lịch sử, tình trạng vi phạm pháp luật về việc sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ vẫn xảy ra cho đến nay.
Điều này gây ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là đối
với các cơ quan nhà nước tại các thành phố trực thuộc trung ương trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Tình trạng vi phạm sẽ làm ảnh
hưởng đến bộ mặt của các thành phố trực thuộc trung ương – nơi tập trung
nhiều nguồn lực phát triển nhất. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm trong sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ sẽ khiến cho ý thức
chấp hành pháp luật của người dân bị giảm đi, qua đó có tác động tiêu cực đối
với công tác quản lý nhà nước.
Chính vì những bất cập này đặt ra nhu cầu cần phải tìm hiểu và nghiên
cứu để từ đó đề xuất các phương hướng nhằm hoàn thiện các quy định về
quản lý việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại các
cấp chính quyền. Trong đó, nghiên cứu các quy định về việc xử phạt các hành
3
vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ nhằm phát hiện những mặt được và mặt chưa được của pháp luật hiện
hành, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động quản lý về việc
sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ và tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân trong việc thực thi pháp luật.
Nguyên nhân nêu trên cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài
“Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chính Minh” làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ là một trong các lĩnh vực được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học cũng bởi chính sự quan trọng của nó trong hoạt động
quản lý nhà nước. Qua việc tìm hiểu và khảo sát các công trình nghiên cứu
khoa học liên quan đến lĩnh vực trên, tác giả nhận thấy có một số công trình
tiêu biểu, cụ thể như sau:
Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn
và phương pháp hoàn thiện” của Vũ Thanh Nhàn (2010). Luận văn tập trung
nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Đông (2011), “Xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh)”. Tác
giả nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ, đồng thời phân tích thực trạng xử lý vi phạm
4
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh và
giải pháp hoàn thiện.
Các công trình nêu trên tập trung chủ yếu nghiên cứu các thực trạng và
một số vấn đề pháp lý trong hoạt động quản lý giao thông đường bộ và xử
phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường bộ. Các vấn đề này sẽ là
nguồn tư liệu cho đề tài của tác giả về phân tích một số nội dung liên quan
đến xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành
cho đường bộ - vốn là bộ phận của giao thông đường bộ.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ nêu trên còn một
số công trình nghiên cứu khác có nội dung bao hàm lĩnh vực quản lý nhà
nước về giao thông đường bộ như các loại sách, báo và tạp chí khoa học pháp
lý có liên quan như:
Tạp chí Luật học số 9/2013, tr. 41: “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Những bất cập và hướng hoàn
thiện”, của Cao Vũ Minh (2013). Tác giả phân tích những điểm bất cập trong
Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 04 năm 2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ về việc
trích tiền phạt cho lực lượng cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông, thẩm
quyền xử phạt… về đề xuất sửa đổi một số quy định liên quan đến vấn đề
trên.
Trần Sơn Hà (2012), “Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong xử lý vi
phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ”, Quản lý nhà nước. Học viện
Hành chính, số 8/2012, tr. 50. Tác giả tập trung phân tích các quy định trong
việc xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ rồi đề xuất các
phương hướng nhằm cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.
Các bài báo, tạp chí nêu trên đều phân tích một mặt nhất định trong hoạt
động xử lý vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
5
bộ; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và đây cũng là một trong các nội dung
mà tác giả phân tích trong đề tài luận văn của mình.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại chưa phát hiện một công trình
nghiên cứu chuyên sâu về các quy định liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Do đó, tác
giả chọn đề tài này để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu luận văn, tác giả phân tích được các vấn đề
lý luận về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ. Từ đó làm rõ các mặt được và mặt chưa
được về các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính, để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết được
các vấn đề sau:
Một là, làm rõ các cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành
chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo pháp
luật hiện hành.
Hai là, phải phân tích được những điểm tích cực, những điểm hạn chế
bất cập trong quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ.
Ba là, nêu ra được một số kiến nghị, giải pháp thiết thực để hoàn thiện
xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng. Mỗi loại hành vi
6
đều có một mức xử phạt khác nhau và sẽ có những cơ quan khác nhau có
thẩm quyền đối với các loại vi phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu: Ủy ban nhân dân Quận 1 là cơ quan đã có đóng
góp tích cực trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ, chấn chỉnh trật tự đô thị của Đoàn liên
ngành Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận
1 dẫn đầu và hoạt động này đã kéo theo sự ra quân rầm rộ trên phạm vi cả
nước. Căn cứ Điều 70 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
và đường sắt thì chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng bao gồm
các chủ thể như Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát
phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính, Trưởng
Công an cấp xã;… Tuy nhiên tại Ủy ban nhân dân Quận 1, chủ thể tham gia
công tác kiểm tra, chủ yếu trong lĩnh vực nêu trên chính là Đội Quản lý trật tự
đô thị thuộc Phòng Quản lý đô thị Quận 1.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, tác giả chỉ tập trung phân
tích việc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay vì đây là giai đoạn quyết liệt trong công
tác chấn chỉnh trật tự đô thị của Quận 1 nói riêng và cả nước nói chung. Do
đó, phân tích việc xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở khách quan để đánh giá được tình hình xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Để hoàn thành tốt công trình nghiên cứu này, tác
giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
7
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và
Nhà nước trong việc xây dựng và thi hành pháp luật.
- Phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh phương pháp luận, tác giả còn sử
dung một số phương pháp khoa học như: phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử.
Cụ thể:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: là các phương pháp được sử dụng
chủ yếu xuyên suốt trong luận văn nhằm làm sáng rõ vấn đề lý luận, cơ sở
pháp lý trong việc xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ đó phát hiện những bất cập, hạn chế và đề xuất phương án giải quyết.
+ Phương pháp lịch sử, so sánh: tác giả chủ yếu sử dụng để so sánh, đối
chiếu, xem xét các quy định giữa quá khứ và hiện tại để tìm ra các mặt tích
cực, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp
lý về xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện
chính sách pháp luật về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ; là tài liệu tham khảo cho
công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng.
8
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI
ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ
1.1. Khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đƣờng bộ
Để tìm hiểu rõ khái niệm vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ thì trước tiên phải phân tích được khái niệm
vi phạm hành chính dựa trên cơ sở luật định.
Vi phạm hành chính là một loại hành vi vi phạm pháp luật xảy ra khá
phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay. Hành vi này mang tính chất thường xuyên, xảy ra với số lượng tương đối
lớn đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích của Nhà
nước, tập thể, cá nhân trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh
Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã chỉ rõ:
“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 đều không trực tiếp đưa ra khái niệm cụ thể về vi
phạm hành chính mà chỉ thể hiện một cách gián tiếp thông qua khái niệm về
xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên về cơ bản, tác giả nhận thấy quan
điểm về vi phạm hành chính trong thời kỳ này cũng gồm các đặc trưng như
khái niệm vi phạm hành chính trong Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
năm 1989: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện có lỗi cố ý hoặc vô ý; xâm
9
phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính (Khoản 2, Điều 1 Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính năm 2002).
Hiện nay khái niệm “vi phạm hành chính” được quy định rõ ràng tại
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 với nội dung cụ thể như sau: “Vi
phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Đối chiếu với
các quy định trước đây về khái niệm “vi phạm hành chính”, các khái niệm về
thuật ngữ này đều bao gồm một số đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, vi phạm hành chính là hành vi có lỗi;
Hai là, chủ thể thực hiện là cá nhân, tổ chức;
Ba là, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm;
Bốn là, vi phạm hành chính phải bị xử phạt hành chính (tức là phải chịu
một hoặc nhiều hình thức xử phạt đã được quy định trong Luật Xử lý vi phạm
hành chính 2012 như cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề có thời hạn…).
Khái niệm về vi phạm hành chính đã được “luật hóa” từ năm 1989 tuy
nhiên sau nhiều lần sửa đổi quy định pháp luật thì nội hàm của thuật ngữ này
về cơ bản vẫn mang bốn đặc trưng nêu trên. Tuy nhiên, một số nhà nghiên
cứu cho rằng khái niệm này không bộc lộ rõ được bản chất của vi phạm hành
chính. Trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia do PGS.TS Nguyễn Cửu Việt làm chủ biên lại cho rằng việc ấn định
khách thể của vi phạm hành chính là hoạt động quản lý nhà nước như tại
Khoản 1, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thực chất không nói lên
10
được khách thể của vi phạm mà chỉ nói lên được tính trái luật của hành vi, bởi
ở đây khách thể của vi phạm pháp luật luôn là quan hệ xã hội chứ khách thể
không thể là “quy định của pháp luật về quản lý nhà nước”. Hơn thế, nội hàm
của “quản lý nhà nước” là vô cùng rộng, chính vì vậy khi đồng nhất khách thể
của vi phạm hành chính với “trật tự quản lý nhà nước” dễ tạo ra sự lúng túng
khi tiếp cận khái niệm khoa học, bởi suy cho cùng tất cả các ngành luật đều
bảo vệ “trật tự quản lý nhà nước”.
Bên cạnh đó, việc các nhà làm luật sử dụng cụm từ “mà không phải là tội
phạm” để xác định hành vi nào là hành vi bị xử lý hành chính, thay vì bị xử lý
hình sự khi hành vi đó vi phạm các “quy định về quản lý nhà nước” dễ làm
cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhầm tưởng mình có thẩm
quyền để xác định hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi phạm
pháp luật hình sự (tội phạm), bởi trên thực tế việc xác định hành vi nào là vi
phạm hành chính, hành vi nào là tội phạm thuộc thẩm quyền của các nhà làm
luật chứ không phải của chủ thể áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, định nghĩa
khái niệm của ngành luật này thông qua khái niệm của một ngành luật khác là
không nên [16, tr. 496].
Tiếp nhận quan điểm trên, tác giả nhận thấy khái niệm vi phạm hành
chính hiện nay còn một số hạn chế trong kỹ thuật lập pháp. Thiết nghĩ quy
định khái niệm vi phạm hành chính nên theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn
Cửu Việt và quy định như sau: “vi phạm hành chính là hành vi (hành động
hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có
năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự
nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà nước, tổ chức và cá nhân;
xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân
mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính” [16,
tr. 536].
11
Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật do đó nó gồm các
yếu tố cấu thành như sau: Mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể và khách
thể.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài
của hành vi vi phạm hành chính bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm hành
chính.
Mặt chủ quan là thái độ tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi vi
phạm hành chính bao gồm các yếu tố như lỗi, động cơ và mục đích. Yếu tố lỗi
là yếu tố cơ bản nhất của mặt chủ quan. Lỗi chính là trạng thái tâm lý của
người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm và hậu
quả của hành vi đó. Lỗi trong vi phạm hành chính được thể hiện dưới hai hình
thức: lỗi cố ý (cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (vô ý vì cẩu thả, vô ý
vì quá tự tin). Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm hành chính. Mục đích là những gì mà chủ thể mong muốn đạt
được khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Cá nhân là chủ thể của
vi phạm hành chính bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài có
năng lực trách nhiệm pháp lý. Yếu tố để xác định năng lực trách nhiệm pháp
lý của cá nhân là độ tuổi và không bị mắc các bệnh làm mất khả năng nhận
thức hành vi. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì các chủ thể bị xử
phạt vi phạm hành chính bao gồm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử
phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi
trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính.
12
Đối với tổ chức, năng lực trách nhiệm pháp lý xuất hiện từ khi tổ chức
được thành lập một cách hợp pháp. Tổ chức cũng là chủ thể của vi phạm hành
chính.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được pháp luật bảo vệ bị hành
vi vi phạm hành chính xậm hại. Các quan hệ xã hội có thể bị vi phạm hành
chính xâm phạm rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu xã hội
chủ nghĩa, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,...
Trên cơ sở phân tích khái niệm về vi phạm hành chính, có thể khái quát
vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ cơ bản như sau: là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp
luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính
hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý,
sở hữu của nhà nước, tổ chức và cá nhân; xâm phạm các quyền, tự do và lợi
ích hợp pháp của con người, của công dân về việc sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ mà theo quy định của pháp luật phải chịu
trách nhiệm hành chính.
Để phân tích được cụ thể các loại hành vi vi phạm hành chính về sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ thì trước tiên phải
nghiên cứu các thuật ngữ “đường bộ”. “đất dành cho đường bộ”, “sử dụng” và
“khai thác”
Về mặt thuật ngữ, khái niệm “đường bộ” theo Từ điển Tiếng Việt do GS.
Hoàng Phê làm chủ biên được hiểu là “đường đi trên đất liền, dùng cho người
đi bộ và cho xe cộ” [9, tr. 357-359]. Mặc dù được diễn giải một cách cơ bản
tuy nhiên cách định nghĩa trên đã phần nào cho thấy được phạm vi cũng như
chức năng của đường bộ. Theo cách diễn giải trên có thể hiểu đường bộ là
13
khoảng không gian trên đất liền có chức năng phục vụ cho người trong mục
đích di chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Về mặt pháp lý, khái niệm “đường bộ” được quy định tại Khoản 1, Điều
3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008: “Đường bộ gồm đường, cầu đường
bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Quy định hiện hành không giải thích
cụ thể thế nào là đường bộ mà chỉ liệt kê các bộ phận của đường bộ. Tuy
nhiên, nếu so sánh về chức năng chính của các bộ phận này thì cũng thấy rõ
chức năng của đường bộ cũng phục vụ cho mục đích giao thông. Bên cạnh đó,
đối với các đô thị thì đường bộ có tên gọi khác là đường phố bao gồm lòng
đường và hè phố (Khoản 8, Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2001).
Đối với thuật ngữ “đất dành cho đường bộ”. Quy định pháp luật như sau:
“Phạm vi đất dành cho đường bộ gồm đất của đường bộ và đất hành lang an
toàn đường bộ” (Khoản 1 Điều 43 Luật Giao thông đường bộ năm 2008).
Trong đó, “đất của đường bộ” được quy định như sau: “đất của đường bộ là
phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng và phần đất dọc hai bên
đường bộ để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ” (Khoản 4, Điều 3
Luật Giao thông đường bộ năm 2008).
Căn cứ cơ sở pháp lý nêu trên có thể nhận thấy về cơ bản đất của đường
bộ là phần đất bao gồm công trình đường bộ và phần đất dọc hai bên đường
bộ. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008 thì:
“công trình đường bộ gồm đường bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đèn
tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu, rào chắn, đảo giao thông, dải
phân cách, cột cây số, tường, kè, hệ thống thoát nước, trạm kiểm tra tải trọng
xe, trạm thu phí và các công trình, thiết bị phụ trợ đường bộ khác”. Trên cơ
sở quy định của pháp luật, phạm vi đất dành cho đường bộ tương đối rộng là
tổng thể các thành phần của đường bộ, và các công trình trên nó như nơi dừng
xe, vạch kẻ đường, đèn tín hiệu, dải phân cách… Các thành phần này kết hợp
14
lại tạo thành một cảnh quan rộng lớn trên đường bộ bên cạnh chức năng phục
vụ giao thông còn nhiều chức năng khác tùy thuộc vào chức năng riêng lẻ của
các thành phần trong phạm vi đất dành cho đường bộ.
Thuật ngữ “sử dụng” và “khai thác” trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng
Phê làm chủ biên định nghĩa như sau: “sử dụng là đem dùng vào mục đích
nào đó” và “khai thác là tiến hành hoạt động để thu lấy những nguồn lợi sẵn
có trong trong thiên nhiên hoặc phát hiện và sử dụng những cái có ích còn ẩn
giấu hoặc chưa được tận dụng” [9, tr. 490, 876].
Từ việc nghiên cứu các thuật ngữ nêu trên, có thể xem xét việc sử dụng,
khai thác trên phạm vi đất dành cho đường bộ là các hoạt động của cá nhân,
tổ chức với mục đích là thu lấy các nguồn lợi trong phạm vi phần đất dọc hai
bên đường bộ như vỉa hè và phần đất mà các công trình đường bộ được xây
dựng trên đó.
Hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ được
quy định cụ thể tại Chương 6 Nghị định 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010
của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ và được bổ sung tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-CP
ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định
11/2010/NĐ-CP. Căn cứ cơ sở pháp lý nêu trên, hành vi sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ gồm một số hành vi sau: Sử dụng tạm
thời một phần hè phố, lòng đường không vào mục đích giao thông hoặc làm
nơi trông, giữ xe; Sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa; Xây dựng
các công trình thiết yếu; Sử dụng đất dành cho đường bộ; Khai thác, sử dụng
trong phạm vi đất hành lang an toàn đường bộ; Đấu nối vào quốc lộ và thi
công công trình trên đường bộ đang khai thác.
Trong đó, các trường hợp sử dụng tạm thời một phần vỉa hè ngoài mục
đích giao thông được quy định cụ thể tại Điều 25 Nghị định 11/2010/NĐ-CP
15
ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ được bổ sung tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định
100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi một số điều của
Nghị định 11/2010/NĐ-CP, bao gồm các hoạt động như:
Một là, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 30 ngày; trường hợp
thời gian sử dụng tạm thời lớn hơn 30 ngày phải được Bộ Giao thông vận tải
(đối với quốc lộ) hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với các hệ thống đường
địa phương) chấp thuận;
Hai là, tổ chức đám tang và điểm trông, giữ xe phục vụ đám tang của hộ
gia đình; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 48 giờ, trường hợp đặc
biệt không được quá 72 giờ;
Ba là, tổ chức đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới của hộ
gia đình; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá 48 giờ;
Bốn là, điểm trông, giữ xe phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao, diễu
hành, lễ hội; thời gian sử dụng tạm thời hè phố không quá thời gian tổ chức
hoạt động văn hóa đó;
Năm là, điểm trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ thi
công công trình của hộ gia đình; thời gian sử dụng từ 22 giờ đêm ngày hôm
trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau;
Sáu là, sử dụng tạm thời một phần hè phố để trông, giữ xe có thu phí;
Hành vi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa
dạng. Các chủ thể trong quá trình thực hiện các hành vi trong lĩnh vực này
nếu xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà
nước, tổ chức và cá nhân; xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của
con người, của công dân thì phải thì bị xem làm vi phạm hành chính về sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ.
16
1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ
1.2.1. Xử phạt vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Mặc
dù, xét về tính chất chưa đến mức phải xem là tội phạm nhưng hành vi vi
phạm hành chính lại xâm phạm đến hoạt động quản lý của nhà nước làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, để hạn chế
cũng như thực hiện biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm, Nhà nước
đã sử dụng một công cụ thực thi pháp luật đó chính là xử phạt vi phạm hành
chính để ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối các chủ thể vi phạm pháp luật
hành chính.
Từ ngữ “xử phạt vi phạm hành chính” được quy định tại Khoản 2, Điều
2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 với nội dung như sau: “xử phạt vi
phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính”
Từ quy định nêu trên có thể hiểu xử phạt vi phạm hành chính là hoạt
động của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được quyền ban
hành quyết định áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu
quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi vi phạm hành chính mà
theo quy định pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì xử phạt vi
phạm hành chính bao gồm hai hình thức: hình thức phạt chính và hình thức
phạt bổ sung.
Hình thức phạt chính được áp dụng một cách độc lập, một hành vi vi
phạm hành chính có thể áp dụng một hình thức phạt chính mà không cần phải
17
áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo, nhưng chỉ có thể áp dụng một
trong những hình thức phạt chính không thể áp dụng một lúc nhiều hình thức
phạt chính đối với hành vi vi phạm hành chính. Hình thức phạt bổ sung không
được áp dụng một cách độc lập, mà được áp dụng chung với một hình thức
phạt chính nào đó.
Hình thức xử phạt chỉ được áp dụng dưới hình thức phạt chính bao gồm
cảnh cáo và phạt tiền:
Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng
hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo
được quyết định bằng văn bản. Cảnh cáo trong xử phạt vi phạm hành chính và
cảnh cáo theo Bộ luật Hình sự, Luật Cán bộ, công chức có sự khác nhau:
Trong luật hình sự, cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt
(Điều 34 Bộ luật Hình sự 2015). Trong Luật Cán bộ, công chức, cảnh cáo là
một hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức khi vi phạm quy định của
Luật Cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Phạt tiền là hình thức xử phạt vi phạm hành chính mà người vi phạm
phải nộp phạt bằng tiền mặt. Mỗi loại hành vi vi phạm sẽ có khung tiền phạt
khác nhau. Phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính khác với phạt tiền
trong Bộ luật Hình sự. Trong xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền là hình
thức phạt chính, chủ yếu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Còn
trong Bộ luật Hình sự, phạt tiền là hình thức phạt chính hoặc có thể là hình
phạt bổ sung do Tòa án quyết định.
Hình thức xử phạt có thể có thể được áp dụng dưới hình thức xử phạt bổ
sung hoặc hình thức xử phạt chính bao gồm: Tước quyền sử dụng giấy phép,
18
chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch
thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính) hoặc
Trục xuất (Mục 1, Chương I Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình
thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các
hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không
được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Không thể áp dụng biện pháp này nếu người vi phạm hành chính và sự việc vi
phạm không liên quan đến việc sử dụng giấy phép đó.
Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối
với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp như: hoạt động
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng
đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép (Đình chỉ
một phần hoạt động) hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc hoạt
động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép và hoạt
động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả
nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật tự, an
toàn xã hội (Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động).
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân
sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi
phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do
lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức. Biện pháp này chỉ được áp dụng khi chủ thể vi
phạm sử dụng vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi
phạm hành chính.
19
Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi
phạm hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài các hình thức mang tính chất xử phạt nêu trên, Luật Xử lý vi
phạm hành chính 2012 còn quy định các biện pháp mang tính chất “khôi
phục” nhằm khôi phục lại các thiệt hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra
mà theo quy định của Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 gọi là các
biện pháp khắc phục hậu quả. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc tháo dỡ công trình, phần công
trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;... hoặc các biện pháp
khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định. Mỗi vi phạm hành chính,
ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Trong một số
trường hợp mà chủ thể có thẩm quyền xử phạt không ban hành quyết định xử
phạt thì có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như một hình thức áp
dụng độc lập (Khoản 2, Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).
Để ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm hành
chính mà người có thẩm quyền có thể áp dụng các hình thức xử phạt và biện
pháp khắc phục hậu quả nêu trên để kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm
và khôi phục lại các thiệt hại do chủ thể vi phạm hành chính gây ra.
1.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ
Căn cứ các phân tích về nội dung vi phạm hành chính về sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ và xử phạt vi phạm hành chính, có
20
thể suy luận xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ là: việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với các cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính trong một số hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ như sử dụng tạm thời một phần hè phố, lòng đường không
vào mục đích giao thông, sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa, xây
dựng các công trình thiết yếu,… mà theo quy định pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ được quy định cụ thể tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-
CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt gồm một số hành vi như
sau: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị,
trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng; Chiếm dụng lòng đường
đô thị hoặc hè phố làm nơi trông, giữ xe; Sử dụng trái phép lòng đường đô thị,
hè phố để: Họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa
chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển hiệu, biển quảng
cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản
trở giao thông;…. Mọi chủ thể vi phạm hành chính trong việc sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đều bị xử phạt vi phạm hành chính
bằng hình thức phạt tiền và đồng thời phải thực hiện các biện pháp khắc phục
hậu quả tùy loại hành vi tương ứng.
21
1.3. Chủ thể, nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành
cho đƣờng bộ
1.3.1. Chủ thể của hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Căn cứ vào các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ được quy định tại Điều 12 Nghị định
46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, theo tác giả có
thể phân loại chủ thể của hành vi vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực
này gồm một số loại như sau:
Một là, cá nhân, tổ chức kinh doanh, buôn bán trên lòng đường, vỉa hè.
Dựa trên cở sở phân tích các khái niệm nêu trên có thể thấy sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ chính là các chủ thể thu lấy các nguồn
lợi trong phạm vi phần đất dọc hai bên đường bộ như vỉa hè và phần đất mà
các công trình đường bộ được xây dựng trên đó. Điển hình cho việc thu lợi
này chính là thông qua các hoạt động như kinh doanh, buôn bán trên lòng
đường, vỉa hè. Một số hành vi vi phạm chủ yếu đối với cá nhân, tổ chức kinh
doanh, buôn bán trên lòng đường, vỉa hè phải bị xử phạt vi phạm hành chính
như: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị,
trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng; Họp chợ, mua, bán hàng
hóa trong phạm vi đất của đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị; Họp chợ;
kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy
móc, thiết bị; rửa xe; Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố làm nơi
trông, giữ xe;...
Hai là, cá nhân, tổ chức có hành vi xây dựng trái quy định. Trong quá
trình xây dựng, các chủ thể này đã có hành vi khai thác trái phép các nguồn
22
lợi từ việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Một số
hành vi tiêu biểu trong hoạt động này như: Xây dựng nhà ở, công trình kiên
cố khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ; Mở đường nhánh đấu
nối trái phép vào đường chính; Dựng biển quảng cáo trên đất hành lang an
toàn đường bộ khi chưa được cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền đồng
ý bằng văn bản hoặc dựng biển quảng cáo trên phần đất dọc hai bên đường bộ
dùng để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ; Tự ý đào, đắp, san, lấp
mặt bằng trong: Hành lang an toàn đường bộ, phần đất dọc hai bên đường bộ
dùng để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ;…
Ba là, cá nhân, tổ chức có hành vi gây mất mỹ quan đô thị. Việc xả thải,
đổ rác, vật liệu xây dựng trên lòng đường, hè phố là một trong những hành vi
phổ biến của các chủ thể nói trên. Tiêu biểu cho các hành vi vi phạm này
được quy định cụ thể như sau: Đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi
quy định; Phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên đường bộ; Xả nước
thải xây dựng từ các công trình xây dựng ra đường phố.
1.3.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Quy định pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về nguyên tắc xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ nhưng về cơ bản các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành
chính đối với bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều phải đảm bảo thống nhất với các
nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính
2012, cụ thể phải đảm bảo các nguyên tắc như sau:
Một là, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời
và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
23
Nguyên tắc này thể hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tồ chức và
cá nhân trong việc đề cao ý thức phòng chống các hành vi vi phạm hành
chính, tự giác tham gia phát hiện và tố giác vi phạm hành chính. Người có
thẩm quyền phải luôn luôn trên tinh thần cảnh giác không để vi phạm hành
chính xảy ra trong phạm vi quản lý của mình. Chẳng hạn đối với một số hành
vi trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ như: sử
dụng trái phép lòng đường đô thị, hè phố để họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn
uống; chiếm dụng lòng đường hoặc hè phố làm nơi trông giữ xe… người có
trách nhiệm quản lý phải có biện pháp xử phạt tức thời, không bao che, dung
túng cho hành vi vi phạm và buộc chủ thể vi phạm phải trả lại nguyên trạng
không gian đường bộ như tình trạng trước khi có hành vi vi phạm.
Hai là, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng,
công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định
của pháp luật;
Xử phạt nhanh chóng chính là yêu cầu cần thiết trong hoạt động xử phạt
vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền phải xác minh đầy đủ các tình tiết
chứng minh hành vi vi phạm của chủ thể vi phạm trong thời gian sớm nhất để
đảm bảo hiệu quả xử phạt. Ví dụ đối với các hành vi sử dụng trái phép lòng
đường, hè phố để kinh doanh dịch vụ ăn uống, cần phải xử phạt ngay khi các
chủ thể có hành vi vi phạm nếu không sẽ không có tác dụng răn đe. Nếu xử
phạt chậm trễ các chủ thể đã có thể chiếm lợi ích từ chính hành vi vi phạm do
mình gây ra và không những thể còn khiến hành vi đó được phổ biến rộng rãi
hơn làm ảnh hưởng công tác quản lý nhà nước.
Bên cạnh việc xử phạt nhanh chóng còn phải đảm bảo công khai, khách
quan, đúng thẩm quyền, công bằng và đúng quy định pháp luật. Đây là những
nguyên tắc tất yếu trong việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước. Đảm
24
bảo công tác xử phạt vi phạm hành chính phải đúng trình tự, thủ tục luật định
để tránh các trường hợp oan sai, không đúng người, đúng tội.
Ba là, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức
độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng
nặng;
Mỗi hành vi vi phạm đều có đặc thù riêng và có phạm vi ảnh hưởng khác
nhau. Do đó tùy thuộc vào các yếu tố như tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm,
đối tượng vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng mà các hình thức xử
phạt và biện pháp khắc phục hậu quả cũng khác nhau. Ví dụ hành vi chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố dưới 05 m2 làm nơi trông, giữ xe (Phạt
tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức) còn nếu chiếm dụng từ 05 m2 đến dưới 10 m2 sẽ có mức xử phạt cao hơn (Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến
6.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 8.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối
với tổ chức) (Điểm c, Khoản 4 và Điểm g, Khoản 5, Điều 12 Nghị định
46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt). Nguyên tắc này
gắn liền với nguyên tắc công khai, khách quan nêu trên.
Bốn là, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành
chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt
một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người
thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều
lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
Nguyên tắc này khẳng định chỉ khi nào hành vi vi phạm hành chính được
pháp luật quy định thì mới có thể xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp
nếu chủ thể thực hiện hành vi gây ảnh hưởng đến hoạt động quản nhà nước
25
tuy nhiên quy định pháp luật lại không quy định về hành vi đó phải bị xử phạt
hành chính thì không thể xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi nói trên.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần mà không được
xử phạt từ hai lần trở lên. Trường hợp nhiều người cùng thực hiện một hành
vi vi phạm hành chính (có thể hiểu là vi phạm có tổ chức) thì mỗi người sẽ bị
xử phạt riêng (mỗi người sẽ có quyết định xử phạt vi phạm hành chính riêng
biệt).
Việc một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính sẽ bị xử
phạt về từng hành vi vi phạm là phù hợp. Tuy nhiên nguyên tắc quy định một
người vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm thì
quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 lại xem đây là một tình tiết
tăng nặng chứ không phải bị xử phạt từng hành vi vi phạm. Nguyên tắc này
dường như không phù hợp trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Khoản 6, Điều 2
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 giải thích như sau: “Vi phạm hành chính
nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành
chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa
bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý”. Trường hợp này khi áp dụng hình thức
xử phạt chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng và chỉ xử lý một lần chứ không bị xử
phạt đối với từng hành vi vi phạm [7, tr. 98].
Năm là, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi
phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
Nguyên tắc này thể hiện trách nhiệm chứng minh lỗi vi phạm là thuộc về
người có thẩm quyền xử phạt. Khi nào chưa chứng minh được lỗi vi phạm
thuộc về người bị nghi là vi phạm hành chính thì không được xử phạt vi phạm
hành chính.
26
Sáu là, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền
đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân;
Nguyên tắc quy định mức phạt tiền của tổ chức bằng 02 lần mức phạt
tiền đối với cá nhân có thể hiểu quan điểm của nhà làm luật cho rằng hành vi
vi phạm của tổ chức gây hậu quả lớn hơn cá nhân và khả năng kinh tế để chịu
trách nhiệm đối với các mức phạt tiền cũng lớn hơn so với cá nhân vì vậy khi
tổ chức vi phạm hành chính thì mức xử phạt phải gấp đôi cá nhân.
1.3.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc
phục hậu quả về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ đều bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều
12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi này chủ yếu là
hình thức phạt tiền (đối với tổ chức vi phạm thì mức phạt gấp 02 lần). Bên
cạnh việc xử phạt tiền thì một số loại hành vi còn phải áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả buộc phải dỡ bỏ các công trình xây dựng trái phép, biển
quảng cáo, di dời cây trồng trái phép, thu dọn rác, vật tư, vật liệu, chất phế
thải, hàng hóa, máy móc, thiết bị, các loại vật dụng và khôi phục lại tình trạng
ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra (Khoản 9, Điều 12 Nghị
định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt). Ứng với
từng loại hành vi mà các biện pháp khắc phục hậu quả sẽ khác nhau. Chẳng
hạn, hành vi xây dựng nhà ở, công trình kiên cố khác trái phép trong phạm vi
đất dành cho đường bộ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo hình thức phạt
tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 30.000.000
đồng đến 40.000.000 đồng đối với tổ chức và bị áp dụng biện pháp khắc phục
27
hậu quả như buộc phải dỡ bỏ các công trình xây dựng trái phép và khôi phục
lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.
Mục đích của hình thức xử phạt tiền và áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả kể trên chủ yếu để người vi phạm hành chính phải có trách nhiệm đối
với hành vi của mình gây ra và phải trả lại tình trạng ban đầu trước khi có
hành vi vi phạm gây ra để khôi phục không gian trong phạm vi đất dành cho
đường bộ. Nếu chỉ xử phạt tiền mà không buộc chủ thể vi phạm khắc phục
hậu quả thì sẽ dễ xảy ra trường hợp phạt tiền để được tiếp tục thực hiện hành
vi vi phạm.
1.3.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Chủ thể xử lý vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ rất đa dạng. Mỗi chủ thể sẽ có thẩm quyền xử phạt đối
với các loại hành vi khác nhau được phân định cụ thể tại Điều 70 Nghị định
46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt với nội dung
như sau:
Thứ nhất, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt tất
cả hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ. Việc phân định thẩm quyền xử phạt giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
cấp phụ thuộc vào mức phạt tiền của hành vi vi phạm.
Đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thì Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt phạt tiền đến 4.000.000 đồng đối với hành
vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ của cá nhân (8.000.000 đồng
đối với tổ chức vi phạm). Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền
xử phạt theo hình thức phạt tiền đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân và
40.000.000 đồng đối với tổ chức. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm
28
quyền xử phạt theo hình thức phạt tiền đến 40.000.000 đồng đối với cá nhân
và 80.000.000 đồng đối với tổ chức. Đối chiếu với quy định xử phạt vi phạm
hành chính vể sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ thì
mức phạt cao nhất 20.000.000 đồng đối với cá nhân và 40.000.000 đồng đối
với tổ chức vì vậy các hành vi này chủ yếu do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã và cấp huyện xử lý.
Thứ hai, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động,
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cũng có thẩm quyền xử phạt đối
với tất cả hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ. Mức xử phạt tiền của các lực lượng này được xử phạt đến
8.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường
bộđối với cá nhân vi phạm. Do đó trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ các chủ thể này chỉ có thể xử phạt đối với các
hành vi vi phạm từ Khoản 1 đến Khoản 6, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP
ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt mà không thể xử phạt đối với các hành vi như: Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố từ 20 m2 trở lên làm
nơi trông, giữ xe; Dựng biển quảng cáo trên đất hành lang an toàn đường bộ
khi chưa được cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản
hoặc dựng biển quảng cáo trên phần đất dọc hai bên đường bộ dùng để quản
lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ; Xây dựng nhà ở, công trình kiên cố
khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ hoặc Mở đường nhánh
đấu nối trái phép vào đường chính.
Thứ ba, Trưởng Công an cấp xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính đối với các hành vi vi phạm tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Điều 12
Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt do thẩm
29
quyền xử phạt của Trưởng Công an cấp xã chỉ có thể xử phạt với mức tiền
phạt đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân và 4.000.000 đối với tổ chức (Khoản
3, Điều 72 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và
đường sắt). Một số hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
Trưởng Công an cấp xã tiêu biểu như sau: Bán hàng rong hoặc bán hàng hóa
nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm
bán hàng; Chiếm dụng dải phân cách giữa của đường đôi làm nơi: Bày, bán
hàng hóa; để vật liệu xây dựng; Chiếm dụng dải phân cách giữa của đường
đôi làm nơi để xe, trông, giữ xe…
Thứ tư, Thanh tra giao thông vận tải trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
được giao có thẩm quyền xử phạt đối với tất cả hành vi vi phạm về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Thanh tra viên thuộc Sở Giao
thông vận tải chỉ có thẩm quyền xử phạt đến 400.000 đồng đối với cá nhân và
800.000 đồng đối với tổ chức còn Chánh Thanh tra sở Giao thông vận tải
được xử phạt đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân và 40.000.000 đồng đối
với tổ chức.
Thứ năm, Thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường chỉ có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi được quy định Điểm đ, Khoản 2,
và Điểm a, Khoản 5, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt như: Đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng
nơi quy định; Đổ, để trái phép vật liệu, chất phế thải trong phạm vi đất dành
cho đường bộ.
30
1.3.5. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ được áp dụng theo quy định của Luật Xử lý
vi phạm hành chính 2012 với một số trình tự như sau:
Đầu tiên, khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ, người có thẩm quyền đang thi
hành công vụ phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính trừ trường hợp
xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng khi xử phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối
với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính tại chỗ. Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ
sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản (Điều
56, 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012). Nếu hành vi vi phạm không
thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản thì khi phát
hiện hành vi vi phạm người có thẩm quyền đang thi hành công vụ buộc phải
lập biên bản vi phạm hành chính.
Sau đó sẽ phải thực hiện xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành
chính và ra quyết định xử phạt trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản
vi phạm hành chính. Trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời vi phạm hành
chính hoặc để bảo đảm việc thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính,
người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp tạm giữ tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính (Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012).
Tiếp theo, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được người
có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt phải được giao trực tiếp hoặc gửi qua
bưu điện bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị xử
31
phạt biết. Trường hợp giao trực tiếp mà cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình
không nhận quyết định thì người có thẩm quyền lập biên bản về việc không
nhận quyết định có xác nhận của chính quyền địa phương và được coi là
quyết định đã được giao. Đối với trường hợp gửi qua bưu điện bằng hình thức
bảo đảm, nếu sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt đã được
gửi qua đường bưu điện đến lần thứ ba mà bị trả lại do cá nhân, tổ chức vi
phạm cố tình không nhận; quyết định xử phạt đã được niêm yết tại nơi cư trú
của cá nhân, trụ sở của tổ chức bị xử phạt hoặc có căn cứ cho rằng người vi
phạm trốn tránh không nhận quyết định xử phạt thì được coi là quyết định đã
được giao. Điều này nhằm ngăn ngừa trường hợp từ chối nhận quyết định xử
phạt hoặc trốn tránh không nhận quyết định xử phạt của chủ thể vi phạm.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm
hành chính thì chủ thể vi phạm phải thực hiện theo nội dung của quyết định
xử phạt (trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn
thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó). Trường hợp cá
nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi
phạm hành chính thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt.
Cuối cùng, người vi phạm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính bằng hình thức nộp tiền phạt và thực hiện một số biện pháp khắc phục
hậu quả (tùy loại hành vi cụ thể mà biện pháp khắc phục hậu quả sẽ khác
nhau). Nếu không tự nguyện thi hành thì mới ra quyết định cưỡng chế. Cá
nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí cho các hoạt động cưỡng
chế. Nếu cá nhân, tổ chức không tự nguyện hoàn trả hoặc hoàn trả chưa đủ
chi phí cưỡng chế thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có thể ra
quyết định cưỡng chế bằng các biện pháp như: Khấu trừ một phần lương hoặc
một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm;
Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; Thu tiền,
32
tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ
chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản (Mục 5, Chương 4 Nghị định
166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính).
Dựa theo quy trình nêu trên có thể thấy thời gian từ lúc người có thẩm
quyền lập biên bản vi phạm hành chính đến đến khi để áp dụng biện pháp
cưỡng chế đối với các trường hợp không tự nguyện thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính phải mất tối thiểu 19 ngày. Theo quan điểm của tác
giả thì trình tự xử lý vi phạm hành chính như trên không phù hợp trong việc
xử lý đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ vì tính chất của các hành vi này cần phải
được xử lý nhanh chóng triệt để nhằm răn đe người vi phạm.
Từ các phân tích nêu trên có thể thấy công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ là hết sức quan trọng. Vì các hành vi trên chủ yếu xâm phạm trong phạm
vi lòng đường, vỉa hè – vốn là một phần quan trọng trong cấu trúc không
gian đô thị. Càng giảm được các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này sẽ góp
phần giúp cho đường thông, hè thoáng tạo đà thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, liên quan đến mọi tầng lớp dân cư, mọi chủ thể
trong xã hội, cho nên việc xử phạt vi phạm hành chính hiệu quả trong lĩnh
vực này sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội. Đồng thời tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước, tạo điều kiện để tài sản, tính mạng và mọi lợi ích chính
đáng khác của các chủ thể được đảm bảo ổn định.
33
Tiểu kết chƣơng 1
Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm
vi đất dành cho đường bộ là một trong những vấn đề phức tạp có ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế và xã hội. Qua các phân tích về cơ sở pháp lý liên
quan đến xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ có thể rút ra một số kết luận như sau:
1. Khái niệm liên quan đến các thuật ngữ vi phạm hành chính, xử phạt vi
phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
còn một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp.
2. Các hành vi vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ tương đối đa dạng và phân thành nhiều mức xử phạt
khác nhau.
3. Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này
cũng rất nhiều. Tùy loại hành vi cụ thể mà mỗi loại chủ thể sẽ có thẩm quyền
xử phạt khác nhau căn cứ vào mức tiền phạt ứng với các hành vi vi phạm.
4. Nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ được áp dụng theo quy định
của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển của đất nước. Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này sẽ
gây ảnh hưởng tiêu cực đến cả một quốc gia vì phạm vi đất dành cho đường
bộ là nơi có mục đích phục vụ cho các hoạt động giao thông, bố trí hệ thống
hạ tầng kỹ thuật… nhằm phục vụ cho đời sống của người dân trong phạm vi
đó.
34
Chương 2:
THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
SỬ DỤNG, KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO
ĐƢỜNG BỘ TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổng quan về Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Vị trí địa lý và dân cư
Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm
Quận Nhất và Quận Nhì (Sài Gòn cũ) được sáp nhập vào năm 1976 là một
trung tâm kinh tế trọng điểm của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 1 có diện tích khoảng 7,7211 km2, bao gồm 10 phường. Phía Bắc giáp quận Bình
Thạnh, quận Phú Nhuận, lấy rạch Thị Nghè làm ranh giới và giáp Quận 3, lấy
đường Hai Bà Trưng và đường Nguyễn Thị Minh Khai làm ranh giới. Phía
Đông giáp Quận 2, lấy sông Sài Gòn làm ranh giới. Phía Tây giáp Quận 5, lấy
đường Nguyễn Văn Cừ làm ranh giới. Phía Nam giáp Quận 4, lấy rạch Bến
Nghé làm ranh giới [11].
Xét về diện tích thì diện tích Quận 1 chiếm 0,35% diện tích Thành phố
Hồ Chí Minh, đứng hàng thứ năm về diện tích trong số 12 quận nội thành.
Diện tích sông rạch chiếm 8,1% và diện tích xây dựng chiếm 57,27% diện
tích quận và thuộc loại hàng đầu so với các quận, huyện khác.
Về mặt dân cư, theo số liệu thống kê từ Niên giám thống kê năm 2017
của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh thì dân số trung bình tại Quận 1 là 211.220 người và mật độ dân số 27.325 người/km2 [3, tr. 49] có xu hướng gia
tăng so với năm 2016 (dân số trung bình là 208.475 người và mật độ dân số là 25.049 người/km2).
Do giáp sông Sài Gòn và có nhiều kênh rạch nên Quận 1 có hệ thống
giao thông thủy bộ khá quan trọng và lâu đời của Thành phố Hồ Chí Minh nói
35
riêng và cả nước nói chung. Là nơi tập trung các hệ thống sông ngòi kênh
rạch, là nơi có các hệ thống bến cảng khá quan trọng trong quá trình phát triển
hiện nay cũng như trong tương lai của quận.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Quận 1 có nhiều ưu thế thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, đặc biệt
các ngành kinh tế như dịch vụ, du lịch, thương mại, đầu tư và xuất nhập khẩu.
Quận 1 có 128 cơ quan ban ngành Thành phố, Trung ương trú đóng, đặc biệt
là một số cơ quan quan trọng như: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính
phủ, Ủy ban nhân dân Thành phố, Sở Công an, Sở Ngoại vụ, và Sở, Ban,
Ngành... các cơ quan báo đài của Đảng, Đoàn thể thuộc Thành phố, Trung
ương. Về lĩnh vực ngoại giao, Quận 1 là nơi trú đóng của 28 cơ quan là lãnh
sự quán hoặc đại diện của các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đặc
biệt là lãnh sự quán các nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc,
Canada... Hoạt động dịch vụ - tài chính - ngân hàng trên địa bàn Quận 1 đã
hình thành trong lịch sử và diễn ra phong phú, đa dạng như hoạt động của các
ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính: công ty dịch vụ chứng
khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán... số lượng khách hàng chiếm gần
90% của Thành phố. Về hoạt động dịch vụ du lịch - thương mại phát triển đa
dạng, Quận 1 là nơi tập trung nhiều khách sạn và doanh nghiệp từ khắp nơi
trong và ngoài nước đến quan hệ giao dịch. Quận hiện có nhiều tổ chức hoạt
động văn hóa nghệ thuật phục vụ nhu cầu giải trí cho nhân dân, đồng thời
cũng là những cơ sở phúc lợi văn hóa quan trọng. Bên cạnh đó Quận 1 cũng
là nơi tập trung nhiều danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử nổi tiếng
cũng như những công trình văn hóa tồn tại cả hàng trăm năm.
Những thuận lợi về mặt vị trí địa lý, dân cư và kinh tế - xã hội khiến
cho Quận 1 trở thành đầu tàu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng
chính vì vậy nên chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Quận 1
36
nói riêng đều quan tâm đến công tác quản lý, chấn chỉnh trật tự đô thị để đảm
bảo giao thông Quận 1 thuận lợi, hạn chế các trường hợp vi phạm về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ để Quận 1 xứng đáng là trung
tâm của Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Tình hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đƣờng bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Xuất phát từ tính chất đặc thù của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là
trung tâm kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, số lượng các cao ốc
văn phòng, công ty lớn đa quốc gia chủ yếu tập trung tại khu vực Quận 1.
Chính vì vậy mà lượng người tập trung đến Quận 1 để làm việc tương đối lớn
kéo theo nhiều hoạt động kinh doanh mua bán hoặc dịch vụ xoay quanh Quận
1 để phục vụ cho nhu cầu sống của người dân sinh sống và làm việc tại đây.
Tuy nhiên, không phải chủ thể nào kinh doanh mua bán hoặc dịch vụ đều tuân
thủ các quy định của pháp luật. Trong quá trình khai thác các nguồn lợi từ
phạm vi đất dành cho đường bộ để phục vụ riêng cho cá nhân, các chủ thể này
đã vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP
ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Vấn đề chấn chỉnh trật tự đô thị luôn được chính quyền Quận 1 quan
tâm. Quận 1 có thể được xem là bộ mặt của Thành phố Hồ Chí Minh vì vậy
công tác ra quân kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành dành cho đường bộ được thực hiện thường xuyên. Nổi
bật là công cuộc ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị của Đoàn kiểm tra liên
ngành Quận 1 do ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận
1 lãnh đạo trực tiếp. Hoạt động ra quân của Ủy ban nhân dân Quận 1 đã phần
nào giảm tải được số lượng hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm
37
vi đường bộ tại Quận 1. Theo Ủy ban nhân dân Quận 1 báo cáo về kết quả đạt
được sau một thời gian ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị như sau: [13]
Tình hình trật tự tại các tuyến đường thông thoáng; tình trạng dừng, đỗ
xe ô tô trái quy định, mua bán hàng rong và tiểu tiện nơi công cộng giảm đáng
kể. Các bãi giữ xe trên vỉa hè chấp hành nghiêm các quy định về sử dụng diện
tích, thu phí đúng giá; các quán nhậu trước 22 giờ 00 sắp xếp gọn trong nhà;
quản lý được tình hình không để xảy ra các trường hợp lập bãi xe tự phát và
thu tiền quá giá quy định. Người dân đã ý thức chấp hành các quy định pháp
luật về trật tự, an toàn giao thông, đô thị, tự giác thu dọn, tháo dỡ các vật cản,
vật dụng và các Cấp ủy, Ban điều hành khu phố, tổ dân phố cũng đồng tình
hưởng ứng chủ trương di dời các chốt dân phòng trên vỉa hè. Tuy nhiên, bên
cạnh các kết quả đạt được thì công tác chấn chỉnh trật tự đô thị tại Quận 1 vẫn
có một số tồn tại như:
Tình trạng tái lấn chiếm tại một số khu vực như: đường Hoàng Sa (sau
22 giờ 00), đường Bà Lê Chân (khu vực chợ Tân Định), khu vực Chợ Bến
Thành, đường Bùi Viện, Bệnh viện Từ Dũ…; Tình trạng xe 03, 04 bánh thô
sơ buôn bán dưới lòng đường tại một số phường như phường Cầu Ông
Lãnh…; một số hàng ăn, quán nhậu về đêm vẫn tiếp tục cố tình bày bàn ghế
lấn chiếm vỉa hè khi các lực lượng kiểm tra đã mỏng như đường Hoàng Sa
thuộc phường Tân Định…
Từ kết quả báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 có thể thấy được tình
hình vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ tại Quận 1 chủ yếu là các hành vi vi phạm hành chính từ các chủ thể
kinh doanh mua bán trên lòng đường, vỉa hè như: bán hàng rong hoặc bán
hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy
định cấm bán hàng; họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa;
sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; Chiếm dụng lòng đường đô
38
thị hoặc hè phố làm nơi trông, giữ xe;… Bởi chính vì Quận 1 là nơi thu hút
kinh tế của cả Thành phố Hồ Chí Minh nên việc kinh doanh mua bán trên
lòng đường, vỉa hè trái quy định xảy ra rất phổ biến. Hiện tại căn cứ theo
Quyết định số 699/QĐ-UBND ngày 06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh ban hành danh mục các tuyến đường cho phép sử dụng tạm
thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh
dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì tại Quận 1 chỉ cho phép sử dụng tạm
thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí hoặc cho phép đỗ xe
dưới lòng đường có thu phí chứ không cho phép sử dụng tạm thời một phần
vỉa hè phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa vì vậy việc kinh doanh
trên vỉa hè tại Quận 1 đều trái quy định pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề kinh
doanh mua bán trên vỉa hè đã tồn tại từ rất lâu đời và đã hình thành thói quen
cho người dân vì vậy hành vi này là rất phổ biến. Bên cạnh đó, lợi nhuận thu
được từ việc mua bán trên vỉa hè là rất cao nên tình trạng tái vi phạm sau khi
bị xử phạt vi phạm hành chính thường xuyên xảy ra.
2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh
Mặc dù quy định của pháp luật về việc xử phạt vi phạm hành chính về sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đã được quy định từ rất
lâu. Thế nhưng các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn xảy ra
ngày càng nhiều hơn bất chấp việc hàng năm các cơ quan quản lý đều ra quân
chấn chỉnh trật tự đô thị. Việc xử phạt không hiệu quả sẽ khiến cho các hành
vi vi phạm ngày càng xuất hiện nhiều hơn làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
Ban Bí Thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW ngày
04 tháng 9 năm 2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
39
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa
và khắc phục ùn tắc giao thông. Trong đó, có các nội dung nâng cao trách
nhiệm của chính quyền các cấp và đơn vị chức năng về quản lý hành lang an
toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, quản lý vỉa hè,
đường phố và an toàn giao thông cầu, đường, hầm; xác định rõ trách nhiệm
của các cấp chính quyền trong việc quản lý đường, hè phố; xử lý nghiêm các
vi phạm chiếm dụng trái phép hè phố, đậu đỗ xe trái quy định và những vi
phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ùn tắc giao thông; đi đôi với việc sắp xếp
nơi trông giữ xe, xây dựng các bãi đỗ xe, điểm đỗ xe ngầm hoặc nhiều tầng.
Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành
Chỉ thị số 22/CT-UBND ngày 29/12/2016 về thực hiện công tác quản lý, sử
dụng lòng lề đường, vỉa hè trên địa bàn thành phố. Trong đó khẳng định tình
trạng buôn bán lấn chiếm trái phép long lề đường vẫn còn diễn biến phức tạp,
ảnh hưởng đến trật tự, mỹ quan đô thị và tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn
giao thông. Một trong những nguyên nhân chính là ý thức chấp hành pháp
luật của một bộ phận người dân còn hạn chế; bên cạnh đó, một số cấp ủy
đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa thật sự quan tâm
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm quy định trong công tác quản
lý, lòng đường. Do đó tiếp tục giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện
tiếp tục thực hiện công tác chấn chỉnh trật tự đô thị.
Trên tinh thần thực hiện chỉ thị trên, trong giai đoạn gần đây, tình hình
xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ được các ngành chức năng, chính quyền các cấp tăng
cường kiểm tra, xử lý. Điển hình là hoạt động ra quân lập lại trật tự lòng
đường, vỉa hè của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với sự
tham gia của rất nhiều lực lượng.
40
Dựa trên phân tích về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với
các hành vi vi phạm trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ có thể thấy chủ thể có quyền thực hiện công tác kiểm tra đối với
lĩnh vực này tương đối đa dạng. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích các báo cáo
của Ủy ban nhân dân Quận 1 có thể phân định được những lực lượng chức
năng nào thực hiện chủ yếu công việc kiểm tra về các hành vi vi phạm trong
việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Theo đó tại Ủy
ban nhân dân Quận 1, các chủ thể xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực này
chủ yếu là lực lượng Công an, Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 và Ủy ban
nhân dân 10 phường thuộc địa bàn Quận 1. Nhìn chung các chủ thể giúp việc
cho Ủy ban nhân dân Quận 1 chỉ xoay quanh lực lượng Công an và Đội Quản
lý trật tự đô thị.
Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 là một bộ phận của Phòng Quản lý đô
thị Quận 1 có chức năng giúp Ủy ban nhân dân Quận 1 thực hiện công tác
quản lý nhà nước về trật tự đô thị, vệ sinh môi trường, tổ chức thi hành các
quyết định hành chính và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận 1 giao (Điều 1 Quyết định số 03/2017/QĐ-UBND ngày
12/12/2017 của Ủy ban nhân dân Quận 1 ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của Phòng Quản lý đô thị Quận 1). Nhiệm vụ chủ yếu của Đội Quản lý
trật tự đô thị Quận 1 được quy định dựa trên Quyết định số 55/2013/QĐ-
UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban
hành quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận
- huyện. Nội dung về chức năng nhiệm vụ chủ yếu bao gồm một số hoạt động
tiêu biểu như: xây dựng chương trình, kế hoạch về tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật trong lĩnh vực quản lý trật tự đô thị và kiểm tra việc chấp
hành pháp luật trên các lĩnh vực quản lý trật tự đô thị, vệ sinh môi trường trên
địa bàn, tham mưu Trưởng Phòng Quản lý đô thị trình Chủ tịch (hoặc Phó
41
Chủ tịch) Ủy ban nhân dân Quận 1 phê duyệt và tổ chức thực hiện; Tham
mưu trình Chủ tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Ủy ban nhân dân Quận 1 kế hoạch tổ
chức kiểm tra, kịp thời phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính và yêu cầu
tổ chức, cá nhân đình chỉ ngay các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực về trật
tự lòng lề đường, nơi công cộng và vệ sinh môi trường trên địa bàn Quận 1;…
(Điều 2 Quyết định số 55/2013/QĐ-UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động
của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện).
Trong quá trình ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị Quận 1 vào cao điểm 06
tháng đầu năm 2017, Quận 1 cũng thiếu nhân sự cộng tác viên trật tự đô thị
của Quận 1 và 10 phường thuộc Quận 1. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân
Quận 1 thì vào thời điểm này số lượng cộng tác viên chỉ là 234 người/358
định biên được giao, thiếu 124 người vì vậy cũng phần nào khiến cho công
tác lập lại trật tự đô thị có phần bị hạn chế. Tuy nhiên, không vì thiếu nhân sự
mà Quận 1 không ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị.
Trong 06 tháng đầu năm 2017, các lực lượng Công an, Đội Quản lý trật
tự đô thị quận và Ủy ban nhân dân 10 phường thuộc Ủy ban nhân dân Quận 1
đã tăng cường kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính 6.474 trường hợp
vi phạm trên lĩnh vực giao thông đường bộ, vệ sinh môi trường… với tổng số
tiền xử phạt là 3.476.525.000 đồng; tạm giữ 4.774 phương tiện, vật dụng lấn
chiếm lòng đường, vỉa hè. Vận động các hộ dân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn
vị tự giác tháo dỡ 3.447 vật dụng, vật cản trên lòng, lề đường; buộc tháo dỡ
1.924 vật dụng, vật cản [13]. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1 qua các năm 2016
2017 và 2018 được biểu hiện tại bảng 2.1 cụ thể như sau: [12], [14], [15]
Bảng 2.1: Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đƣờng bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1 từ năm 2016-2018
42
2016 2017 2018
19.008 18.292 11.774 Tổng số vụ vi phạm
9.908.226.000 12.574.785.000 11.310.400.000 Tổng số tiền xử phạt
15.980 15.640 9.460 Đã thi hành
3.028 2.652 2.314 Chƣa thi hành
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 về tình hình xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ năm 2016-2018)
Qua số liệu thống kê tại bảng 2.1 có thể thấy hoạt động ra quân chấn
chỉnh, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ vẫn được thực
hiện xuyên suốt các năm. Số vụ vi phạm bị xử lý giảm dần qua các năm 2016,
2017, tuy nhiên lại có sự chênh lệch đáng kể bắt đầu từ năm 2018. Từ số liệu
trên cho thấy hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ được diễn ra thường xuyên. Mặc dù số vụ bị xử lý vào năm 2018 có
suy giảm so với các năm trước do năm 2018 công tác chấn chỉnh trật tự đô thị
đã giảm nhiệt so với năm 2017 (năm tâm điểm của Quận 1 về chấn chỉnh trật
tự đô thị). Số liệu này có thể cho thấy hoặc là tình hình vi phạm trong lĩnh vực
này đã suy giảm hoặc là công tác ra quân chấn chỉnh trật tự đô thị đã hạ nhiệt
thế nhưng nhìn chung số tiền thu được từ việc xử phạt tương đối lớn. Tuy
vậy, công tác thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vẫn chưa được
giải quyết triệt để, vẫn còn khá nhiều các trường hợp vi phạm hành chính
nhưng không chấp hành. Thông qua các số liệu báo cáo trên có thể thấy được
sự quyết tâm chấn chỉnh tình hình trật tự lòng lề đường của các cấp chính
quyền, điển hình là Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là rất
lớn tuy nhiên tình hình vi phạm trong lĩnh vực này vẫn còn rất cao.
43
2.4. Nguyên nhân vi phạm
Theo tác giả, nguyên nhân xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực này xuất phát từ cả chủ thể vi phạm và chủ thể quản lý với một số nội
dung như sau:
2.4.1. Nguyên nhân trong thiếu sót xử lý vi phạm hành chính
Một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực này được quy định cụ thể tại Điều
12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt,
tiêu biểu như: bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường
đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng...
Xuất phát từ bản chất của hành vi vi phạm, các hành vi nêu trên đều đem
lại lợi ích cho người vi phạm. Chẳng hạn, việc buôn bán hàng rong hoặc bán
hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy
định cấm bán hàng hoặc sử dụng trái phép lòng đường, hè phố để kinh doanh
dịch vụ ăn uống, bày bán hàng hóa… đều đem lại nguồn thu nhập cho chủ thể
vi phạm. Bên cạnh đó, các hình thức buôn bán trên không cần phải tốn chi phí
thuê mặt bằng và nộp thuế cho nguồn ngân sách nhà nước. Một số trường hợp
kinh doanh lấn chiếm lòng đường, vỉa hè là do những người già yếu, nghèo
khó, không có khả năng chuyển đổi sang ngành nghề khác đứng ra kinh
doanh. Chính vì vậy, các chủ thể này coi hoạt động buôn bán của mình là
nguồn sống và tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm bất chấp việc xử lý, cưỡng
chế của chính quyền.
Mặc dù thế việc vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cũng đều bất hợp pháp. Tuy nhiên,
hiện trạng vi phạm hiện nay cũng xuất phát từ một phần thiếu sót của cơ quan
quản lý nhà nước. Chính sự thiếu quyết liệt trong công tác ra quân xử phạt vi
phạm hành chính của các cơ quan chức năng là nguyên nhân dẫn đến tình
44
trạng vi phạm trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ. Nhiều trường hợp xử lý mang tính hình thức, phong trào mà không
giải quyết triệt để để hình thành thói quen của người vi phạm do nghĩ rằng
việc ra quân chỉ thực hiện một thời gian ngắn rồi sau đó lại buôn lỏng quản lý.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch đô thị không hiệu quả đã đem lại một lỗ
hổng tương đối lớn khiến cho các chủ thể buộc phải vi phạm để đáp ứng nhu
cầu của bản thân.
Chẳng hạn đối với hành vi xây, đặt bục bệ; làm mái che bị xử phạt từ
2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến
6.000.000 đồng đối với tổ chức theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 12
Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, do tình
trạng ngập xảy ra buộc các hộ dân phải nâng cốt nền nhà cao hơn rất nhiều so
với mặt đường, vỉa hè. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo số liệu thống kê của
Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước thì tính đến năm 2017 có
179 tuyến hẻm, đường bị ngập nước [10] vì vậy buộc người dân có tâm lý
phải nâng cao nền nhà để tránh ngập nước và phải xây các bục bệ, tam cấp để
thuận tiện trong việc đi lại từ nhà ra đường. Không những thế việc đặt các mái
che để che nắng, che mưa cũng được coi là hành vi vi phạm do quy hoạch
hiện nay vướng phải trường hợp chỉ giới đường đỏ trùng với chỉ giới xây
dựng. Theo quy định tại Mục 2, 8, 10 Chương 2 QCXDVN 01:2008/BXD
ngày 03/04/2008 của Bộ Xây dựng về quy hoạch xây dựng, mái đón là mái
che của cổng, gắn vào tường ngoài nhà và đưa ra tới cổng vào nhà và hoặc
che một phần đường đi từ hè, đường vào nhà; mái hè phố là mái che gắn vào
tường ngoài nhà và che phủ một đoạn vỉa hè. Mái đón, mái hè phố phải đảm
bảo đáp ứng một số yêu cầu như: được thiết kế cho cả dãy phố hoặc cụm nhà,
đảm bảo tạo cảnh quan; đảm bảo tuân thủ các quy định về phòng cháy chữa
45
cháy; ở độ cao cách mặt vỉa hè 3,5m trở lên và đảm bảo mỹ quan đô thị;
không vượt quá chỉ giới đường đỏ; bên trên mái đón, mái hè phố không được
sử dụng vào bất cứ việc gì khác (như làm ban công, sân thượng, sân bày chậu
cảnh...). Do đó việc lắp đặt các mái che vượt quá chỉ giới đường đỏ đều vi
phạm. Tuy nhiên, cũng chính trong quy định của Quy chuẩn xây dựng Việt
Nam số 01:2008/BXD ngày 03/04/2008 của Bộ Xây dựng về quy hoạch xây
dựng lại khuyến khích việc xây dựng mái hè phục vụ công cộng để tạo điều
kiện thuận lợi cho người đi bộ và mái che lại có thể nhô ra khỏi chỉ giới
đường đỏ. Cụ thể, trong trường hợp ở độ cao 3,5m so với mặt hè thì mái đón,
mái hè phố (mái che) có thể nhô ra khỏi chỉ giới đường đỏ và vươn ra độ dài
tới khi cách mép vỉa hè tối thiểu 0,6m nếu mái che là phần nhô ra không cố
định. Tuy nhiên thế nào là mái che là bộ phận cố định của nhà và thế nào là
mái che là phần nhô ra không cố định thì lại không quy định cụ thể. Nếu mái
che là phần nhô ra không cố định nhưng lại để cố định liên tục thì có được
phép không thì lại không có hướng dẫn cụ thể do đó rất khó trong công tác
quản lý. Có thể nói chính sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng và công tác quản lý,
quy hoạch của nhà nước đã hình thành ý thức vi phạm của các chủ thể trong
việc sử dụng lòng đường, vỉa hè.
Đối với hành vi chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố làm nơi
trông, giữ xe bị xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá
nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức (nếu chiếm dụng dưới 05 m2 còn từ 05 m2 trở lên thì có mức phạt khác), bên cạnh xuất phát từ
lợi ích của chủ thể vi phạm nhưng cũng phải nhìn nhận thực tế là nhu cầu sử
dụng phương tiện giao thông như xe ô tô, xe gắn máy ngày càng tăng mà diện
tích phục vụ cho nhu cầu gửi xe tại các bãi xe được cấp phép không đảm bảo
vì vậy vào các dịp lễ, tết lượng xe có nhu cầu được gửi tập trung tại các quận
trung tâm rất đông, điển hình là Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vì vậy theo
46
quy luật cung - cầu cũng làm xuất hiện nhiều bãi xe tự phát trái quy định.
Theo báo cáo của Sở Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh tại Hội thảo
khoa học “Kiểm soát nhu cầu sử dụng xe cá nhân trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh – thực trạng và giải pháp” thì tính đến ngày 15/3/2017, Thành phố
Hồ Chí Minh đang quản lý tổng cộng 7 triệu 976 nghìn 845 phương tiện
(trong đó 637 nghìn 323 ô tô, 7 triệu 339 nghìn 522 xe mô tô – chiếm 92%
tổng số xe); xe mô tô tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2016 và tăng 63,4% so
với cuối năm 2010). Số liệu này chưa tính lượng phương tiện mang biển số
các tỉnh đang lưu thông trên địa bàn thành phố (khoảng trên 01 triệu phương
tiện các loại) [8]. Số lượng phương tiện giao thông cá nhân quá cao so với dân
số Thành phố Hồ Chí Minh (Theo số liệu thống kê từ Niên giám thống kê
năm 2015 của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh thì dân số trung bình là 8.247.829 triệu người với mật độ dân số trung bình là 3.937 người/km2 và có
xu hướng gia tăng. Riêng tại một số quận trung tâm như Quận 1, Quận 3 thì mật độ dân số trung bình là 25,049 và 39.905 người/km2) [2, tr. 25], thêm vào
đó là sự thiếu hụt các bãi giữ xe công cộng ở các khoảng cách tương đối và sự
xuất hiện các bãi xe tự phát không thu các mức phí theo quy định đã khiến
cho người có nhu cầu gửi xe phải gửi tại các bãi xe trái phép và đem lại nguồn
lợi cho chủ thể vi phạm.
Trong bài phát biểu của ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch Ủy ban nhân
nhân Thành phố Hà Nội tại Hội nghị xử lý vỉa hè có nêu lên số liệu thống kê
được “trong hơn 180 quán bia vỉa hè, có hơn 150 quán bia có công an đứng
đằng sau” [4]. Thực trạng này thật đáng báo động và cũng là một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng vi phạm trong việc sử dụng lòng đường,
vỉa hè. Không chỉ riêng Hà Nội mà các thành phố lớn khác cũng xảy ra tình
trạng tương tự. Chẳng hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Ngọc
Tường, Phó ban chuyên trách Ban An toàn giao thông Thành phố Hồ Chí
47
Minh cũng cho biết nguyên nhân buông lỏng để cho tình trạng lấn chiếm vỉa
hè gia tăng có thể là do "bảo kê, bao che và dung túng của người đứng đầu
địa phương; buông lỏng địa bàn, năng lực quản lý yếu kém…”[5]. Những
người có chức vụ cao trong cơ quan hành chính nhà nước cũng đã thừa nhận
một số hiện tượng tiêu cực trong việc quản lý lòng đường, vỉa hè. Chính sự
buông lỏng quản lý, sự bao che và sự khai thác các nguồn lợi từ việc nới lỏng
quản lý của các nhóm lợi ích khiến cho hành vi vi phạm trong lĩnh vực này
càng ngày càng gia tăng. Bởi vì có hành vi vi phạm thì nguồn lợi đem lại từ
hành vi vi phạm đó cho các nhóm lợi ích sẽ ngày càng nhiều. Chính sự bất
bình đẳng trong những trường hợp này dẫn đến tình trạng vi phạm gia tăng.
Do đó để khắc phục tình trạng này thì bản thân các cơ quan có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính đều phải công chính, liêm minh không để
phát sinh các trường hợp tiêu cực trong công tác quản lý trật tự đô thị. Bên
cạnh đó, việc quy hoạch đô thị cần phải thực hiện một cách nghiêm túc tránh
việc quy hoạch chỉ nằm trên giấy chứ không triển khai thực hiện trên thực tế.
Đồng thời, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội để người dân không cần thiết
phải lấy cớ “mưu sinh” mà thực hiện hành vi vi phạm.
2.4.2. Chủ thể tham gia xử phạt trên thực tế khác biệt với quy định pháp
luật
Trong công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ. Như đã phân tích, chủ thể có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này rất đa dạng. Tuy nhiên lực lượng
kiểm tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này rất hạn chế.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, lực lượng chính được giao nhiệm vụ thực
hiện công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị là Đội Quản lý trật tự đô thị
quận – huyện (Điều 1 Quyết định 55/2013/QĐ-UBND ngày 06/12/2013 của
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế (mẫu) tổ chức và
48
hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện). Lực lượng này có
chức năng kiểm tra, phát hiện, lập biên bản các hành vi vi phạm về trật tự
lòng lề đường, nơi công cộng và vệ sinh môi trường trên địa bàn. Bên cạnh
đó, lực lượng này còn có chức năng theo dõi việc thực hiện các quyết định
hành chính đã ban hành, đôn đốc thực hiện các quyết định đã có hiệu lực thi
hành; đề xuất biện pháp cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế
đối với tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận - huyện không tự giác chấp hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 2 Quyết định 55/2013/QĐ-
UBND ngày 06/12/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban
hành Quy chế (mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận
- huyện). Từ các căn cứ nêu trên có thể thấy hoạt động trong công tác kiểm
tra các vi phạm về quản lý sử dụng đường đô thị trên địa bàn chủ yếu thuộc về
các lực lượng này.
Mặc dù, theo quy định của Quyết định 55/2013/QĐ-UBND ngày
06/12/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế
(mẫu) tổ chức và hoạt động của Đội Quản lý trật tự đô thị quận - huyện thì lực
lượng này có thẩm quyền lập biên bản trong lĩnh vực trật tự lòng lề đường,
nơi công cộng. Tuy nhiên, đối chiếu theo quy định tại Khoản 1, Điều 75 Nghị
định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt về thẩm
quyền lập biên bản vi phạm hành chính thì không bao gồm các lực lượng này.
Theo đó, các chức danh có thẩm quyền xử phạt như Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các cấp; Công an nhân dân; Thanh tra chuyên ngành…; công chức, viên
chức được giao nhiệm vụ tuần kiểm là có thẩm quyền lập biên bản trong lĩnh
vực giao thông đường bộ.
Hiện nay, các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô thị vẫn lập biên
bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực này theo chức năng, nhiệm vụ do Ủy
49
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định. Theo tác giả thì quyết định
của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là không phù hợp với tinh thần
của Nghị định 46/2016/NĐ-CP và thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính chỉ thuộc về các chức danh theo Nghị định này vì trong trường hợp các
văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp
dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn theo quy định tại Khoản 2, Điều
157 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 về áp dụng văn bản
quy phạm pháp luật.
Một số nhận định cho rằng các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô
thị có hoạt động tuần kiểm nên có thẩm quyền lập biên bản. Pháp luật hiện
hành không quy định thế nào là hoạt động tuần kiểm nhưng theo quy định tại
Khoản 2, Điều 3 Thông tư số 47/2012/TT-BGTVT ngày 12/11/2012 của Bộ
Giao thông vận tải quy định về tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ có giải thích thuật ngữ tuần kiểm đường bộ là “hoạt động
tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của Khu Quản
lý đường bộ, Sở Giao thông vận tải và cá nhân thuộc cơ quan này khi được
giao nhiệm vụ”. Theo cách giải thích trên thì các công chức, viên chức thuộc
Khu Quản lý đường bộ và Sở giao thông vận tải được giao nhiệm vụ mới có
thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; lấn chiếm, sử dụng trái phép đất của
đường bộ và hành lang an toàn giao thông đường bộ (Điểm b, Khoản 1, Điều
75 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt).
Do vậy, việc các công chức thuộc Đội Quản lý trật tự đô thị lập biên bản vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này là không đúng thẩm quyền theo quy định
tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
50
2.4.3. Quy định xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ bị chồng chéo
Một số hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính như: “sử dụng đường đô
thị để họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bày hàng hoá, vật liệu; đổ rác,
phế thải và các hành vi gây mất vệ sinh môi trường đường đô thị; lắp đặt, xây
dựng bục, bệ dắt xe, bậc tam cấp vào nhà và công trình bên đường gây ảnh
hưởng đến hoạt động của phương tiện giao thông và người đi bộ, gây mất mỹ
quan đô thị…” được quy định cụ thể tại Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP
ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Tuy nhiên, trên thực tế lại phát
sinh trường hợp một loại hành vi vi phạm được điều chỉnh bởi nhiều Nghị
định xử phạt khác nhau, việc này gây mâu thuẫn trong công tác xử phạt vi
phạm hành chính.
Chẳng hạn đối với đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định
(phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân, từ 200.000
đồng đến 400.000 đồng đối với tổ chức). Đây là một trong những hành vi bị
xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ và được quy định cụ thể trong Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày
26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Ngoài việc bị áp dụng các hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc thu dọn
rác, vật tư, vật liệu, chất phế thải và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị
thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Nếu gây ô nhiễm môi trường phải
thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh việc bị điều chỉnh bởi Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày
26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
51
vực giao thông đường bộ và đường sắt thì hành vi này còn được quy định tại
Điểm c, d, Khoản 1, Điều 7 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng,
chống bạo lực gia đình. Theo đó, hành vi đổ rác, chất thải hoặc bất cứ vật gì
khác vào hố ga, hệ thống thoát nước công cộng, trên vỉa hè, lòng đường hoặc
để rác, chất thải, xác động vật hoặc bất cứ vật gì khác mà gây ô nhiễm ra nơi
công cộng hoặc chỗ có vòi nước, giếng nước ăn, ao, đầm, hồ mà thường ngày
nhân dân sử dụng trong sinh hoạt làm mất vệ sinh (Phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng). Không những thế, Điểm d, Khoản 1,
Điều 20 Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng
được áp dụng đối với hành vi vi phạm này: “Hành vi vứt, thải rác thải sinh
hoạt trên vỉa hè, đường phố hoặc vào hệ thống thoát nước thải đô thị hoặc hệ
thống thoát nước mặt trong khu vực đô thị” (Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
7.000.000 đồng).
Xét về bản chất của hành vi vi phạm thì các loại hành vi này đều có
những nét tương đồng. Ví dụ hành vi đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng
nơi quy định; hành vi đổ rác, chất thải hoặc bất cứ vật gì khác vào hố ga, hệ
thống thoát nước công cộng, trên vỉa hè, lòng đường hay hành vi vứt, thải rác
thải sinh hoạt trên vỉa hè, đường phố, các hành vi này đều có những nét giống
nhau như đều là để rác trên vỉa hè nhưng mức xử phạt lại khác nhau. Điều này
gây khó khăn cho các lực lượng chức năng trong việc vận dụng quy định để
xử phạt dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện quy định pháp luật để xảy ra
tiêu cực nhằm trực lợi. Thay vì xử phạt theo Nghị định 155/2016/NĐ-CP
ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường mà lại xử phạt theo Nghị định 46/2016/NĐ-
52
CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có mức xử phạt thấp hơn tạo
điều kiện thuận lợi cho người vi phạm. Một hành vi vi phạm chỉ nên được
điều chỉnh bằng một quy định cụ thể không nên quy định ở những văn bản
khác nhau dễ gây nhầm lẫn và tạo sự tùy nghi cho người thực thi công vụ dễ
dẫn đến sự tiêu cực trong việc thực thi nhiệm vụ. Theo tác giả, đối với hành vi
vi phạm nêu trên phải áp dụng bằng Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường với mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000
đồng vừa đảm bảo mục đích răn đe ngăn ngừa hành vi vi phạm vừa đảm bảo
đúng tinh thần của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015: “Trong
trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có
quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy
phạm pháp luật ban hành sau”. Các Nghị định trên đều do Chính phủ ban
hành và Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành sau, do đó việc áp dụng quy định của
văn bản quy phạm pháp luật này là phù hợp.
Đối với hành vi sử dụng đường đô thị để họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn
uống, bày hàng hoá, vật liệu. Hành vi này bị cấm theo quy định tại Điểm a,
Khoản 2, Điều 35 Luật Giao thông đường bộ 2008 và bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi sử dụng trái
phép lòng đường đô thị, hè phố để: họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày,
bán hàng hóa; sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; đặt, treo biển
hiệu, biển quảng cáo; xây, đặt bục bệ; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt
53
động khác gây cản trở giao thông thì phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối
với tổ chức (Điểm b, Khoản 4, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày
26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ và đường sắt). Theo quy định này thì chỉ những
trường hợp nào sử dụng lòng đường đô thị, hè phố không được cấp phép thì
mới bị xử phạt do đó các trường hợp sử dụng lòng đường đô thị, hè phố với
mục đích trên nhưng được cấp phép thì sẽ không bị xử phạt vi phạm hành
chính. Điều này trái với quy định tại Khoản 2, Điều 35 Luật Giao thông
đường bộ 2008 và theo quy định tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định
100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính
phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ về nội
dung sử dụng tạm thời một phần hè phố, lòng đường không vào mục đích
giao thông.
Căn cứ quy định nêu trên thì các hoạt động sử dụng tạm thời một phần
hè phố không vào mục đích giao thông chỉ gồm một số hoạt động như: Tổ
chức hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trên đường bộ; Tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Tổ chức
đám tang và điểm trông, giữ xe phục vụ đám tang của hộ gia đình; Tổ chức
đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới của hộ gia đình; Điểm
trông, giữ xe phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội; Điểm
trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ thi công công trình của
hộ gia đình. Trường hợp sử dụng tạm thời một phần lòng đường không vào
mục đích giao thông thì chỉ được thực hiện các hành vi sau: Điểm trông, giữ
xe ô tô phục vụ các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội; Điểm trung
chuyển rác thải sinh hoạt của doanh nghiệp vệ sinh môi trường đô thị. Ủy ban
54
nhân dân cấp tỉnh sẽ quy định thủ tục hành chính về cho phép sử dụng tạm
thời hè phố, lòng đường đối với các trường hợp nêu trên.
Đối chiếu với các quy định của Luật Giao thông đường bộ 2008; Nghị
định 100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của
Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
và Thông tư 04/2008/TT-BXD ngày 20/02/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn
quản lý đường đô thị, nhận thấy được hành vi sử dụng đường đô thị để họp
chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bày hàng hoá, vật liệu là một hành vi bị cấm
và không được cho phép thực hiện. Tuy nhiên, theo quy định tại Điểm g,
Khoản 1, Điều 6 Nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính phủ
về hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng ký
kinh doanh thì trên các khu vực, tuyến đường hoặc phần vỉa hè đường bộ
được cơ quan có thẩm quyền quy hoạch hoặc cho phép sử dụng tạm thời để
thực hiện các hoạt động thương mại thì cá nhân có thể hoạt động thương mại
bằng các hình thức như: buôn bán rong; buôn bán vặt; bán quà vặt; buôn
chuyến, thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe,
trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc
không có địa điểm cố định và các hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác. Bên cạnh đó, ở Thành
phố Hồ Chí Minh cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
việc cho phép sử dụng vỉa hè để hoạt động kinh doanh, mua bán trên một số
tuyến đường nhất định nhằm hạn chế việc buôn bán tự phát trên vỉa hè, lòng
đường, góp phần đảm bảo mỹ quan và trật tự đô thị trên địa bàn thành phố
(Khoản 4, Điều 6 Quyết định 74/2008/QĐ-UBND ngày 23/10/2008 của Ủy
ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy định về quản lý và sử
dụng lòng đường, vỉa hè trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh). Chẳng hạn ở
55
Thành phố Hồ Chí Minh có 13 tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một
phần vỉa hè phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa gồm 11 tuyến ở
Quận 5 và 02 tuyến ở Quận 6 (Điều 1 Quyết định số 699/QĐ-UBND ngày
06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành danh mục
các tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe
công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho
phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).
Xét về mục đích an sinh xã hội, đây là hoạt động nhằm tạo điều kiện
tăng nguồn thu nhập cho các cá nhân hoạt động kinh doanh và việc quy hoạch
cho phép buôn bán, kinh doạnh tại một số khu vực nhất định sẽ đảm bảo công
tác quản lý của nhà nước và trật tự buôn bán trên lòng đường vỉa hè. Mặc dù
việc quy hoạch, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh, buôn bán trên vỉa hè
mang tính nhân văn, đảm bảo an sinh xã hội tuy nhiên trái với tinh thần của
Luật Giao thông đường bộ vì vậy việc cho buôn bán trên vỉa hè hay không thì
đã mâu thuẫn từ trong nội bộ các văn bản quy định pháp luật.
2.4.4. Quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan đến sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số chủ thể quản lý không
phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về trình tự, thủ tục
Công tác xử lý vi phạm hành chính là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
có tác dụng răn đe, phòng ngừa các trường hợp vi phạm và bảo đảm việc thực
thi pháp luật của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình xử lý các vi
phạm hành chính liên quan đến việc sử dụng lòng đường, vỉa hè lại có một số
trường hợp xử lý trái với trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Xử lý vi
phạm hành chính. Trong chiến dịch ra quân chấn chỉnh vỉa hè của Ủy ban
nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Đoàn liên ngành đã vận động các
hộ dân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị tự giác tháo dỡ 3.447 vật dụng, vật cản
56
trên lòng, lề đường; buộc tháo dỡ 1.924 vật dụng, vật cản [13]. Việc buộc
tháo dỡ các vật dụng, vật cản lấn chiếm không gian vỉa hè gây cản trở giao
thông là biện pháp phù hợp quy định. Căn cứ quy định tại Điểm b, Khoản 4
và Khoản 9, Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
và đường sắt, hành vi “xây, đặt bục bệ; làm mái che gây cản trở giao thông”
sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ
4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức và bị áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm hành chính gây ra. Tuy nhiên trong quá trình xử lý, Đoàn liên ngành
Quận 1 đã cưỡng chế buộc tháo dỡ các vật dụng, vật cản lấn chiếm vỉa hè mà
không xử lý đúng trình tự, thủ tục như Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Theo nội dung quy trình xử lý vi phạm hành chính mà tác giả đã phân
tích thì để cưỡng chế hành chính đối hành vi “xây, đặt bục bệ; làm mái che
gây cản trở giao thông” phải tốn một khoảng thời gian tối thiểu 19 ngày. Mặc
dù việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là mang tính linh động nhằm giải quyết
nhanh gọn việc lấn chiếm vỉa hè để trả lại không gian cho người đi bộ của
Đoàn liên ngành là hợp tình tuy nhiên lại không phù hợp với quy định của
pháp luật.
Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đã cho thấy những tồn tại trong
công tác công tác xử phạt vi phạm hành chính liên quan sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ của cơ quan hành chính nhà nước. Sự
tiêu cực của một bộ phận cá nhân, tổ chức trong việc lấn chiếm lòng đường
vỉa hè để trục lợi, công tác quy hoạch, quản lý của cơ quan nhà nước và các
mẫu thuẫn trong các quy định hiện hành là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình hình vi phạm như hiện nay. Do đó cần phải có một số biện pháp để
57
nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ.
2.4.5. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính còn chưa hiệu quả
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về nội dung Luật Xử
lý vi phạm hành chính, Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt còn chưa sâu rộng. Các hành vi vi phạm về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất đa dạng do vậy để người
dân nắm bắt được đầy đủ các trường hợp được phép hoặc không được phép
khi sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đòi hỏi các cấp
chính quyền phải nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền. Bên cạnh những
hoạt động tuyên truyền mang nặng tính hình thức như phát xe loa, tuyên
truyền miệng, phát tài liệu cho các người dân thì cần phải tuyên truyền các
hình thức mang tính trực quan hơn để người dân nhận thức được hành vi của
mình. Các lực lượng chức năng cần phải xử lý vi phạm hành chính một cách
khách quan, đây cũng là một công cụ tuyên truyền hiệu quả. Trên thực tế, có
những trường hợp vi phạm tuy nhiên lực lượng chức năng vì một số lý do nào
đó có thể là “người quen” đối với các chủ thể vi phạm nên không xử lý. Điều
này khiến cho các chủ thể khác vì thế mà vi phạm theo. Sự thiếu khách quan
trong công tác xử lý vi phạm hành chính cũng phần nào khiến cho công tác
tuyên truyền pháp luật chưa đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thì công tác thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cũng chưa đạt hiệu quả cao. Căn
cứ các số liệu theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân Quận 1 thì số lượng các
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính chưa được thi hành chiếm tỷ lệ tương
đối cao. Chẳng hạn năm 2017, số lượng quyết định xử phạt vi phạm hành
58
chính chưa được thi hành là 2.652/18.292 (chiếm 14.5%) và năm 2018 số
lượng quyết định xử phạt vi phạm hành chính chưa được thi hành là
2.314/11.774 (chiếm khoảng 19.6%) [15]. Từ đây có thể thấy được công tác
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn chưa đạt hiệu quả cao.
Các chủ thể vi phạm hành chính bị xử phạt nhưng không chấp hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính. Lý do không chấp hành theo Ủy ban nhân
dân Quận 1 là do người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc không có điều kiện
thi hành. Mặc dù Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định các trường
hợp cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi cá nhân,
tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng không tự nguyện chấp hành
như: Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài
khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với
số tiền phạt để bán đấu giá; Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác
đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài
sản; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, Ủy ban nhân
dân Quận 1 chỉ mới áp dụng được hình thức khấu trừ tiền từ tài khoản của cá
nhân, tổ chức vi phạm và buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Các
biện pháp cưỡng chế khác trên thực tế khó thực hiện.
Những khó khăn trong công tác cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính cũng phần nào khiến hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính chưa có hiệu quả. Khiến cho chủ thể vi phạm hành chính không có ý
thức chấp hành pháp luật.
59
Tiểu kết chƣơng 2
Vấn đề vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ đã là một hiện tượng xảy ra từ lâu đời và là một trong những vấn đề cần
phải quan tâm của lãnh đạo chính quyền các cấp. Qua các phân tích nêu trên,
tác giả rút ra được một số kết luận như sau:
1. Thực trạng về công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy sự quyết tâm của lãnh đạo trong công
tác chấn chỉnh trật tự đô thị bằng việc tăng cường ra quân xử lý các trường
hợp vi phạm. Mặc dù vậy tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này vẫn liên tiếp
xảy ra.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình vi phạm hành chính gồm một
số nguyên nhân như sau: một số hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai
thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đem lại nguồn lợi lớn cho chủ thể
vi phạm; các chủ thể vi phạm được sự bao che của cơ quan quản lý nhà nước;
công tác quản lý và quy hoạch của cơ quan quản lý nhà nước; quy định của
pháp luật trong quản lý lòng đường, vỉa hè vẫn còn một số tồn tại gây ảnh
hưởng đến hiệu quả quản lý; quy trình xử lý vi phạm hành chính liên quan
đến việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ của một số
chủ thể quản lý không phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành
chính về trình tự, thủ tục;….
Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm
vi đất dành cho đường bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Từ một số thực trạng xử
lý của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có thể thấy được sự chồng chéo từ
các quy định của pháp luật cho đến công tác quản lý thực tiễn nên tình trạng
vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn còn xảy ra. Vì vậy, nhu cầu đặt ra
cần phải có một số biện pháp thật sự thuyết phục và hiệu quả để giảm thiểu
60
tình trạng nêu trên. Có như thế thì mới đảm bảo được đường thông, hè thoáng,
bộ mặt Quận 1 được cải thiện và ý thức thượng tôn pháp luật của người dân
mới ngày càng được nâng cao.
61
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ SỬ DỤNG,
KHAI THÁC TRONG PHẠM VI ĐẤT DÀNH CHO ĐƢỜNG BỘ TẠI
QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước đặc biệt tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn
mạnh do đó cần phải duy trì chấn chỉnh công tác xử phạt vi phạm để bảo đảm
cho phạm vi đất ở đường bộ được không bị vi phạm. Các thành phần của
đường bộ như lòng đường và vỉa hè có ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp của một
thành phố. Nếu con đường và vỉa hè trong thành phố đẹp đẽ, an toàn thì thành
phố đó cũng mang những đặc trưng tương tự và ngược lại. Người dân chính là
các chủ thể mang lại vẻ đẹp cho lòng đường và vỉa hè từ các hoạt động phong
phú của họ trên lòng đường, vỉa hè bên cạnh hoạt động giao thông. Trong bối
cảnh một số quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực trên vẫn còn mâu
thuẫn, do đó tác giả nhận thấy cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định giải
quyết mâu thuẫn, chồng chéo liên quan đến công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực này và bổ sung một số quy định nhằm đảm bảo tính logic
chặt chẽ của pháp luật.
Trên cơ sở phân tích thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
62
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
3.1.1. Bổ sung các trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ
Như đã phân tích, hoạt động sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành
cho đường bộ chỉ bao gồm một số hành vi như: Sử dụng tạm thời một phần hè
phố, lòng đường không vào mục đích giao thông hoặc làm nơi trông, giữ xe;
Sử dụng đường bộ vào các hoạt động văn hóa; Xây dựng các công trình thiết
yếu; Sử dụng đất dành cho đường bộ; Khai thác, sử dụng trong phạm vi đất
hành lang an toàn đường bộ; Đấu nối vào quốc lộ và thi công công trình trên
đường bộ đang khai thác.
Hoạt động sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ ở
Việt Nam rất phong phú bao gồm một số hoạt động như: bán hàng rong, làm
nơi trông giữ xe, họp chợ; kinh doanh dịch vụ ăn uống; bày, bán hàng hóa;
sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa xe; diễn ra các hoạt động văn
hóa… Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cạnh việc sử
dụng lòng đường, vỉa hè với mục đích giao thông thì chỉ có một số trường
hợp được phép sử dụng tạm thời lòng đường, vỉa hè không vì mục đích giao
thông như sau: tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; tổ chức đám tang, đám cưới và điểm trông, giữ xe phục vụ
đám tang, đám cưới của hộ gia đình hoặc phục vụ hoạt động văn hóa, thể
thao, diễu hành, lễ hội; trung chuyển vật liệu, phế thải xây dựng để phục vụ
thi công công trình của hộ gia đình; trung chuyển rác thải sinh hoạt của doanh
nghiệp vệ sinh môi trường đô thị. (Khoản 4, Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-
CP ngày 03 tháng 09 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ
quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ).
63
Tuy nhiên, ở Thành phố Hồ Chí Minh lại cho phép sử dụng một phần
lòng đường, vỉa hè với các mục đích khác các trường hợp Chính phủ quy
định. Ví dụ như Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết
định số 699/QĐ-UBND ngày 06/02/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh ban hành danh mục các tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời
một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí, phục vụ kinh doanh
dịch vụ, buôn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ Quyết định trên thì có thể thấy
ở Thành phố Hồ Chí Minh, các trường hợp sử dụng, khai thác trong phạm vi
đất dành cho đường bộ được mở rộng hơn so với quy định của Chính phủ.
Không những vậy một số tỉnh thành khác cũng quy định theo hướng mở rộng
hơn ví dụ như ở Thành phố Đà Nẵng được phép sử dụng tạm thời vỉa hè để
kinh doanh buôn bán; tập kết vật liệu xây dựng; làm mặt bằng tập kết máy
móc, thiết bị, phục vụ thi công các công trình xây dựng; lắp đặt các công trình
phục vụ công cộng; lắp đặt trạm chờ xe buýt theo tuyến xe buýt được duyệt;
lắp đặt quảng cáo… (Khoản 1, Điều 4 Quyết định 55/2014/QĐ-UBND ngày
31/12/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng quy định về quản lý và
sử dụng tạm thời vỉa hè ngoài mục đích giao thông trên tuyến đường thuộc
địa bàn Thành phố Đà Nẵng). Chính sự mâu thuẫn giữa các quy định này làm
xuất hiện các luồng ý kiến về việc chỉ cho phép sử dụng lòng đường, vỉa hè
đối với các trường hợp theo quy định của Chính phủ hoặc là cho phép sử
dụng theo quy định đặc thù của các thành phố. Theo tác giả thì các hoạt động
sử dụng lòng đường, vỉa hè với mục đích khác với Chính phủ quy định của
các thành phố là không phù hợp. Căn cứ quy định Khoản 2, Điều 157 của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 về áp dụng văn bản quy
phạm pháp luật thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý
64
cao hơn. Do đó các quyết định của các thành phố quy định các trường hợp
khác với quy định của Chính phủ thì đều không phù hợp.
Bản thân tác giả nhận thấy tùy theo tính đặc thù của các thành phố mà
nên có quy định thêm các trường hợp được phép sử dụng tạm thời lòng
đường, vỉa hè không vì mục đích giao thông và trên thực tế hiện nay các
trường hợp sử dụng lòng đường, vỉa hè rất đa dạng không phải chỉ có một số
trường hợp theo quy định của Chính phủ. Vì vậy, để thống nhất công tác quản
lý từ trung ương đến địa phương trong hoạt động quản lý lòng đường, vỉa hè,
tác giả nhận thấy nên bổ sung thêm một số trường hợp nêu trên hoặc phân
cấp, phân quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phép quy định chi tiết
các trường hợp này tùy theo tính đặc thù của địa phương để đảm bảo tính
thống nhất chặt chẽ của pháp luật. Về cơ bản các trường hợp xử phạt vi phạm
hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo
quy định của Chính phủ đã có những hành vi này mà trên thực tế thì một số
tỉnh thành lại cho phép thực hiện các hành vi sử dụng tạm thời lòng đường,
vỉa hè không vì mục đích giao thông khác. Thiết nghĩ nên bổ sung các trường
hợp sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ để thống nhất từ
trung ương đến địa phương. Và khi công nhận các trường hợp này, các tỉnh,
thành sẽ dựa trên tình hình đặc thù địa phương mà cho phép một số nơi được
thực hiện. Khi đã quy định rõ các địa điểm được phép sử dụng các hành vi kể
trên thì công tác xử phạt vi phạm hành chính cũng dễ dàng hơn và đảm bảo cả
về tính hợp tình và hợp lý.
Kinh nghiệm của một số quốc gia cũng như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore cũng quy hoạch các khu vực, tuyến đường được phép buôn
bán trực tiếp trên vỉa hè. Người đi bộ vừa có thể tham quan, đi làm sẵn tiện
ghé vào mua sắm. Trong khi đó người kinh doanh phải đóng tiền mặt bằng
cho Chính phủ [1]. Người khai thác sử dụng vỉa hè để sinh lời thì phải trả tiền
65
vào công quỹ, không có chuyện sử dụng miễn phí. Số tiền thu được dùng để
duy tu, bảo trì vỉa hè, đường sá và cảnh quan, môi trường. Ở Singapore và
Bangkok việc thu phí cao hay thấp tùy thuộc vào 03 điều kiện là: vị trí, mức
doanh thu thực tế và diện tích mặt bằng, cũng như khoảng thời gian chiếm
dụng. Nếu cửa hàng ở khu vực kinh doanh sầm uất, ở trục đường thương mại,
ở phố cổ, như vỉa hè khu kinh doanh sầm uất bậc nhất Orchard (Singapore),
Pathumwan (Bangkok) thì giá rất cao và ngược lại.
Thạc sĩ Parisa (nghiên cứu sinh của Trường Chulalongkorn, chuyên
nghiên cứu về kinh tế vỉa hè) cho biết một công ty kinh doanh sử dụng phần
trước của tòa nhà ở khu phố cổ Khaosan (cũng là khu du lịch) phải trả tới
30.000 baht/tháng, tương đương 20 triệu đồng Việt Nam.
Ngoài khoản tiền này, chủ những tòa nhà thương mại sử dụng mặt bằng
vỉa hè trong nhiều thời gian cho xe, hàng hóa ra vào thì phải trả thêm mỗi tháng từ 10.000 -12.000 baht nữa. Trong khi một chỗ trống khoảng 02 m2 trên
vỉa hè ở khu vực trung tâm kinh doanh thuận lợi cho người bán hàng (thường
là một xe đẩy tay) có giá một tháng là 3.500 baht, tương đương 2,3 triệu đồng
Việt Nam. Giá cho thuê vỉa hè ở Bangkok căn cứ theo tình hình doanh thu
theo mỗi 06 tháng. Điều này có nghĩa là cửa hàng nào có doanh thu cao, sử
dụng mặt bằng lớn, chiếm dụng lâu thì phải đóng phí cao hơn cho dù cửa
hàng không ở khu vực trung tâm.
Tại Singapore và Bangkok, phí sử dụng vỉa hè do chính quyền thu trực
tiếp hay gián tiếp qua mạng. Việc thu loại phí này ở Bangkok là do cơ quan
thuế của các quận thu hằng tháng tại chỗ và xuất hóa đơn tài chính. Ở
Singapore, chỉ có người kinh doanh có nhà mới được thuê phần vỉa hè phía
trước để kinh doanh, nhưng không tránh được những trường hợp thuê vỉa hè
xong cho người khác thuê lại để hưởng chênh lệch [6].
66
Từ một số ví dụ nêu trên cũng có thể thấy vấn đề sử dụng tạm thời lòng
đường, vỉa hè không vì mục đích giao thông như cho phép kinh doanh tại một
số tuyến đường đã được quy hoạch sẽ là phù hợp vừa đảm bảo tính nhân văn
vừa đem lại một số lợi ích cho cơ quan nhà nước và cũng dễ kiểm tra xử lý
đối với các khu vực ngoài danh mục được phép kinh doanh vỉa hè.
3.1.2. Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt
Bên cạnh đó, trong công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cần sửa đổi nội dung quy định
về thẩm quyền lập biên bản hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Như phân tích ở phần thực trạng, các lực lượng chịu trách nhiệm chủ yếu
trong việc kiểm tra các vi phạm hành chính liên quan đến công tác này là lực
lượng đặc thù ở thành phố như Đội Quản lý trật tự đô thị tuy nhiên theo nội
dung về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính của Nghị định
46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì các thành
viên thuộc các lực lượng này không được quy định thẩm quyền lập biên bản
vi phạm hành chính vì các lực lượng này không phải là lực lượng được giao
nhiệm vụ tuần kiểm theo tinh thần của Khoản 2, Điều 3 Thông tư số
47/2012/TT-BGTVT ngày 12/11/2012 của Bộ Giao thông vận tải quy định về
tuần tra, kiểm tra bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ mặc dù các lực
lượng này được Ủy ban nhân dân thành phố cho phép lập biên bản vi phạm
hành chính đối với các lĩnh vực này. Do đó, việc lập biên bản vi phạm hành
chính của các lực lượng này trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt là
không phù hợp. Thiết nghĩ thực trạng hiện nay các lực lượng này cũng đã
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính đối với các lĩnh
vực này vì vậy cần phải sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm
67
hành chính tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và
đường sắt theo hướng cho phép các lực lượng này có quyền lập biên bản vi
phạm hành chính bằng việc sửa đổi tương tự quy định của Khoản 2, Điều 59
Nghị định 121/2013/NĐ-CP ngày 10/10/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản;
khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng
kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở về thẩm quyền lập biên bản vi
phạm hành chính:“Công chức thuộc Ủy ban nhân dân các cấp được giao
nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quy
định tại Nghị định này”. Quy định như thế sẽ mở rộng được phạm vi các đối
tượng có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và Ủy ban nhân dân
các cấp sẽ linh động hơn trong việc phân công nhiệm vụ cho các lực lượng
chức năng trong việc kiểm tra xử lý các vi phạm vì về bản chất các lực lượng
như Đội Quản lý trật tự đô thị đã thực hiện việc lập biên bản vi phạm hành
chính theo quyết định quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định như trên sẽ khắc phục được sự mâu
thuẫn, chồng chéo trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Ngoài ra,
quy định theo hướng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa
phương sẽ góp phần nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động quản lý
nhà nước mang tính đặc thù của từng vùng lãnh thổ khác nhau, qua đó góp
phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các tỉnh nói riêng và đất nước nói
chung.
68
3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật
3.2.1. Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện công tác xử phạt vi phạm
hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
trong việc phát triển đất nước của các cấp chính quyền từ địa phương đến
trung ương. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng cơ quan hành chính nhà
nước mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Chỉ thị 18-CT/TW ngày
04/09/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông cũng đã xác định đây
trách nhiệm cấp ủy đảng, người đứng đầu chính quyền các cấp, các đoàn thể,
tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân với mục tiêu thực hiện toàn
diện, đồng bộ, liên tục các chủ trương, giải pháp nhằm tạo chuyển biến mạnh
mẽ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phấn đấu hằng năm kiềm
chế, làm giảm từ 5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thủy nội địa và giảm ùn tắc giao thông đường bộ. Để cụ thể hóa nội dung của
Chỉ thị 18-CT/TW, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ban hành Chỉ
thị số 11-CT/TW ngày 10/3/2017 về tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xác định người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền các cấp phải chịu trách nhiệm cao nhất trong việc bảo đảm trật tự đô
thị, khi để xảy ra tình trạng vi phạm quy định về buôn bán lấn chiếm trái phép
lòng đường, vỉa hè trên địa bàn quản lý. Trong đó, Công an, Đội Quản lý trật
tự đô thị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải thực hiện kiểm
tra xử lý triệt để các điểm lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè gây mất trật tự an
toàn giao thông; xử lý nghiêm các trường hợp để phương tiện không đúng nơi
quy định; kiểm tra, kiểm soát và xử lý kịp thời tình trạng người ăn xin, buôn
bán hàng rong, nạn chèo kéo khách du lịch, làm ảnh hưởng đến an toàn của
69
du khách, an ninh trật tự; thực hiện thường xuyên công tác duy tu, sửa chữa
và đầu tư, nâng cấp vỉa hè các tuyến đường, xử lý kịp thời những bất cập bảo
đảm cho người bộ hành lưu thông an toàn trên địa bàn quản lý. Quy hoạch,
sắp xếp, bố trí các khu vực chợ, tái bố trí tiểu thương, người dân buôn bán tại
những khu vực quy định; yêu cầu các cá nhân, đơn vị trong quá trình hoạt
động kinh doanh phải bố trí, sắp xếp chỗ đậu xe bảo đảm không lấn chiếm trái
phép lòng đường, vỉa hè gây mất trật tự an toàn giao thông (Mục 1, 2 Chỉ thị
số 11-CT/TW ngày 10/3/2017 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về tăng
cường công tác quản lý trật tự đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh).
Từ các nội dung trên có thể xác định Công an, Đội Quản lý trật tự đô
thị và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là những người chịu
trách nhiệm chính trong công tác chấn chỉnh trật tự đô thị tại địa phương. Do
đó, cần phải quy trách nhiệm rõ ràng đối với các đối tượng này khi để xảy ra
các tình trạng vi phạm tại địa phương. Những trường hợp ko đảm bảo các
nhiệm vụ được giao nêu trên sẽ bị chịu trách nhiệm xử lý kỷ luật. Bởi vì tình
trạng buông lỏng quản lý khiến tình trạng vi phạm về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ có thể được xem là hành vi trốn tránh trách
nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao theo quy định tại Khoản 1, Điều 18 về
những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ
tại Luật Cán bộ, công chức 2008.
Căn cứ nội dung của các quy định trên có thể nhận thấy việc chấn chỉnh
trật tự đô thị là một trong những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước ràng buộc các chủ thể có chức năng xử phạt vi phạm hành
chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ phải chịu
trách nhiệm trong hoạt động thực thi nhiệm vụ. Do đó, cần đảm bảo cơ chế
trách nhiệm phải được thực thi trên thực tế nhằm hạn chế các trường hợp
buông lỏng quản lý khiến cho tình trạng tái vi phạm diễn ra sau khi đã chấn
70
chỉnh một thời gian làm lãng phí sức người và tài sản của nhà nước khiến các
chủ thể vi phạm không chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3.2.2. Mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính
Mặc dù Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có quy định cơ
quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an
toàn giao thông và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Điều 5 Nghị định
165/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử
dụng và danh mục phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng để
phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi
trường lại quy định chỉ có một số chủ thể sau được trang bị phương tiện, thiết
bị kỹ thuật nghiệp vụ như: Lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ; Lực
lượng Cảnh sát giao thông đường sắt; lực lượng Cảnh sát đường thủy; Lực
lượng Thanh tra chuyên ngành và cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải; Lực lượng Cảnh sát phòng chống
tội phạm về môi trường; Lực lượng Thanh tra chuyên ngành và cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường.
Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định các cơ quan, người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính được sử dụng, phương tiện, thiết bị kỹ
thuật nghiệp phụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao
thông nhưng Nghị định hướng dẫn của Chính phủ lại không quy định hết tất
cả chủ thể có thẩm quyền xử phạt mà chỉ giới hạn ở các lực lượng Cảnh sát
giao thông hoặc Thanh tra chuyên ngành… bất kể theo quy định của pháp luật
chủ thể có thẩm quyền xử phạt còn bao gồm Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
cấp. Điều này làm hạn chế khả năng áp dụng vào thực tiễn trong công tác xử
71
phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1.
Trên thực tế, Ủy ban nhân dân Quận 1 có trang bị hệ thống camera an
ninh, giám sát ở hầu hết các tuyến đường trọng điểm của Quận 1, thông qua
hệ thống camera có thể dễ dàng giám sát các chủ thể có hành vi vi phạm và
đây cũng là căn cứ hiệu quả để xác minh các hành vi vi phạm của chủ thể vi
phạm tránh các trường hợp “chối tội” của các chủ thể. Chẳng hạn đối với
hành vi đổ rác, xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định (Phạt tiền từ
300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân, từ 600.000 đồng đến
800.000 đồng đối với tổ chức), muốn xác định được chủ thể có vi phạm hay
không cần phải có hình ảnh chứng minh. Mặc dù trên thực tế, nếu các lực
lượng chức năng phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính vẫn có thể xử
phạt được. Tuy nhiên, đối với các trường hợp phát hiện nhưng không có hình
ảnh chứng minh mà các chủ thể vi phạm cố tình chối bỏ hành vi của mình thì
cũng rất khó xử lý. Do đó, thiết nghĩ cần phải quy định thêm các đối tượng
được xử phạt vi phạm hành chính thông qua việc áp dụng phương tiện, thiết
bị kỹ thuật, nghiệp vụ. Nếu lực lượng chức năng thuộc Ủy ban nhân dân Quận
1 được phép sử dụng theo đúng tinh thần của Luật Xử lý vi phạm hành chính
thì sẽ nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính vì trên Quận 1 có rất nhiều
tuyến đường được trang bị camera an ninh có chức năng giám sát trật tự, an
toàn xã hội. Trường hợp nếu được tận dụng lợi thế đó thì tiết kiệm thời gian,
công sức cho lực lượng xử lý vi phạm hành chính.
3.2.3. Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử
lý các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ.
Trong quá trình xử lý vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ thì công tác tuần tra, kiểm tra có vai trò rất
72
quan trọng. Thông qua hoạt động tuần tra, kiểm tra có thể kịp thời phát hiện,
ngăn chặn của hành vi vi phạm hành chính. Không những thế, chính những
hoạt động kiểm tra, xử lý là cơ sở, tiền đề để các chủ thể quản lý phát hiện
được những bất cập trong công tác quản lý và đề xuất những kiến nghị nhằm
khắc phục những hạn chế trong quá trình xử lý vi phạm hành chính và hoàn
thiện hệ thống pháp luật hơn.
Không những thế hoạt động tuần tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính
lại là một trong những công cụ hiệu quả trong việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật. Chính sự chế tài của pháp luật tác động trực tiếp đến các
chủ thể vi phạm sẽ dần dần hình thành ý thức chấp hành pháp luật của các chủ
thể vi phạm. Tuy nhiên, để sự chế tài này mang lại hiệu quả cao đòi hỏi công
tác ra quân xử lý phải thật sự khách quan, minh bạch không để xảy ra các hiện
tượng tiêu cực trong khi xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, công tác
kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ phải huy động nhiều lực lượng cùng tham gia. Như đã
phân tích, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này rất đa
dạng không phải chỉ có lực lượng của Ủy ban nhân dân Quận 1 mới có thẩm
quyền xử lý. Vì vậy, để đảm bảo công tác này đạt hiệu quả cao thì cần phải có
sự phối hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng chức năng có thẩm quyền. Đồng
thời, công tác xử phạt phải thực hiện thường xuyên chứ không phải theo
phong trào làm cho chủ thể vi phạm ỷ lại, bất chấp chính quyền xử phạt tạo
thành thói quen xấu của chủ thể vi phạm. Hoạt động kiểm tra thường xuyên sẽ
góp phần giảm thiểu tình trạng tùy tiện, quan liêu, trong hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Công tác chấn chỉnh trật tự đô thị không phải chỉ là nhiệm vụ riêng lẻ
của các cơ quan nhà nước mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Do đó,
bên cạnh công tác kiểm tra xử lý, các cơ quan chức năng cần phải tranh thủ sự
73
ủng hộ của người dân và tuyên truyền người dân không nên giao dịch, mua
bán đối với các chủ thể vi phạm trong lĩnh vực này và vận động nhắc nhở các
chủ thể vi phạm từng bước thay đổi. Bên cạnh việc tăng cường công tác ra
quân tuần tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm. Các cơ quan cấp trên cũng
cần thường xuyên giám sát việc thực thi nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành
chính của các cơ quan cấp dưới. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Quận 1 phải
thường xuyên kiểm tra, giám sát hiệu quả làm việc của Ủy ban nhân dân 10
phường thuộc Quận 1. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc
thực thi nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban ban nhân dân
phường và quận. Xử lý nghiêm đối với các trường hợp buông lỏng quản lý
của cơ quan cấp dưới. Bên cạnh đó, đối với các địa phương có khó khăn trong
công tác xử phạt vi phạm hành chính do tính phức tạp của vụ việc thì Ủy ban
nhân dân Quận 1 cũng phải có sự hỗ trợ về mặt lực lượng. Ngoài hoạt động
giám sát của cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp dưới, để nâng cao hiệu
quả công tác giám sát cũng cần phải phát huy hiệu quả giám sát của các đại
biểu Hội đồng nhân dân và hoạt động phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người được cử tri địa phương tín
nhiệm để bầu làm đại biểu, do đó đại biểu Hội đồng nhân dân chính là những
người được cử tri địa phương tin tưởng và gửi gắm những tâm tư, nguyện
vọng của mình vào người đại biểu. Vì vậy, các đại biểu Hội đồng nhân dân
phải hoạt động một cách thực chất, thường xuyên lắng nghe ý kiến của cử tri
và đi giám sát thực tiễn đối với công tác quản lý địa phương của cơ quan hành
chính các cấp để từ đó phản ánh chân thật các hoạt động của địa phương góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý địa phương.
Đồng thời phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và đạo đức công vụ của đội ngũ thực hiện nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành
74
chính để tránh các trường hợp xử lý oan sai, không đúng trình tự thủ tục luật
định của các đội ngũ này. Trong bối cảnh phải thực hiện chủ trương tinh giản
biên chế thì số lượng đội ngũ thực hiện kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về
sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ đã thiếu so với biên
chế định biên được giao thì theo chủ trương này số lượng càng phải giảm hơn
nữa. Cụ thể thành viên Đội Quản lý trật tự đô thị Quận 1 không được quá 15
người và không được bố trí quá 05 người tại các phường thuộc Quận 1 theo
quy định tại Nghị quyết số 24/2017/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 của Hội
đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về số lượng thành viên Đội Quản lý
trật tự đô thị, mức lương đối với lực lượng cộng tác viên Đội Quản lý trật tự
đô thị. Do vậy, phải nâng chất của đội ngũ thành viên Đội Quản lý trật tự đô
thị để nâng cao hiệu quả công tác trật tự đô thị. Định kỳ hàng quý hoặc 06
tháng nên sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình thực hiện công tác này trên địa
bàn Quận 1 để động viên khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích tốt. Đồng
thời nghiêm khắc xử lý các cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ được giao, vi
phạm trình tự xử phạt vi phạm hành chính hoặc có hành vi tiêu cực trong quá
trình thực thi công vụ vì đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tình
trạng vi phạm khó suy giảm. Nếu triệt tiêu được các hành vi tiêu cực trong
quá trình xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ thì hiệu quả quản lý nhà nước sẽ nâng cao, góp phần giảm
thiểu các hành vi vi phạm pháp luật và giáo dục được ý thức tuân thủ pháp
luật của người dân.
Hoạt động tuần tra, kiểm tra, giám sát việc xử lý các trường hợp vi phạm
hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ có ý
nghĩa rất quan trọng. Nếu các hoạt động nêu trên được thực hiện một cách
hiệu quả đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất xuyên suốt các cấp chính quyền
75
thì chắc chắn sẽ giảm thiểu các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
này.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng
pháp luật
trong việc giáo dục sự hiểu biết pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của người dân. Công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao sẽ góp phần giảm
thiểu các trường hợp vi phạm pháp luật của người dân. Do đó cần phải thường
xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền về các nội dung liên quan đến sử dụng,
khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ cho người dân. Công tác
tuyên truyền cần phải đảm bảo hoạt động một cách hiệu quả, sâu rộng, lan tỏa
đến từng tổ dân phố để người dân kịp thời nắm bắt các chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước.
Đổi mới hình thức cũng như nội dung tuyên truyền pháp luật để tạo sự
thu hút đối với người dân. Bên cạnh hình thức tuyên truyền miệng cần phải
kết hợp với các hình thức khác như tổ chức hội thi, sân chơi pháp luật để tạo
sự đa dạng trong công tác tuyên truyền cho người dân có nhiều cách tiếp cận
các quy định của pháp luật. Đồng thời có thể lập fanpage tuyên truyền trên
một số trang mạng xã hội để nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân, đặc
biệt là các đối tượng trẻ tuổi thường xuyên truy cập trang mạng xã hội. Việc
cập nhật các thông tin tuyên truyền tích cực trên các phương tiện thông tin đại
chúng, các trang mạng xã hội, sẽ phản bác được những luận điệu xuyên tạc,
kích động của các thế lực thù địch đặc biệt trong bối cảnh hiện nay có nhiều
đối tượng lợi dụng các trang mạng xã hội để lôi kéo, kích động người dân
chống đối với các chính sách chấn chỉnh trật tự đô thị của Ủy ban nhân dân
Quận 1 nói riêng và cả nước nói chung.
76
Không chỉ đổi mới một số phương thức tuyên truyền, tác giả nhận thấy
cần phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên đặc biệt là nâng cao kỹ năng thuyết trình để thu hút những
người tham gia buổi tuyên truyền. Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn
để nâng cao kỹ năng cũng như kiến thức cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên. Bên cạnh đội ngũ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật mang
tính chính thống như báo cáo viên, tuyên truyền viên, thì mỗi người cán bộ,
công chức cũng phải đóng vai như là một tuyên truyền viên để tuyên truyền
đồng thời vận động những chủ thể đang vi phạm về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ kịp thời chấm dứt các hành vi vi phạm và
phản ánh lên các cơ quan chức năng để kịp thời xử phạt vi phạm hành chính
đối với các hành vi chống đối. Phạm vi chủ thể tuyên truyền cần phải mở rộng
ra đến tận các khu phố, tổ dân phố, vì đây là những người gần dân nhất. Họ là
những hàng xóm của các chủ thể vi phạm, do đó Ban điều hành khu phố, tổ
dân phố phải được quán triệt cụ thể các nội dung về các chính sách của nhà
nước để tuyên truyền sâu rộng trên từng địa bàn khu dân cư. Chính họ là
những người tuyên truyền hiệu quả nhất.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật rất quan trọng để góp
phần giảm thiếu các vi phạm hành chính và nâng cao sự hiểu biết pháp luật
của người dân. Vì vậy, cần huy động mọi nguồn lực xã hội để hoạt động
tuyền truyền ngày một hiệu quả hơn.
77
Tiểu kết chƣơng 3
Vấn đề vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường
bộ đã là một hiện tượng xảy ra từ lâu đời và là một trong những vấn đề cần
phải quan tâm của lãnh đạo chính quyền các cấp. Qua các phân tích nêu trên,
tác giả rút ra được một số kết luận như sau:
1. Thực trạng về xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong
phạm vi đất dành cho đường bộ của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh đã cho thấy sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo trong công tác chấn
chỉnh trật tự đô thị bằng việc tăng cường ra quân xử lý các trường hợp vi
phạm. Mặc dù vậy tình trạng vi phạm trong lĩnh vực này tại Ủy ban nhân dân
Quận 1 vẫn tiếp tục xảy ra.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình vi phạm hành chính gồm một
số nguyên nhân như sau: một số hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai
thác trái phép lòng đường, vỉa hè đem lại nguồn lợi lớn cho chủ thể vi phạm;
các chủ thể vi phạm được sự bao che của cơ quan quản lý nhà nước; công tác
quản lý và quy hoạch của cơ quan quản lý nhà nước; quy định của pháp luật
trong lĩnh vực này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; quy trình xử lý vi phạm
hành chính của một số chủ thể quản lý không phù hợp với quy định của Luật
Xử lý vi phạm hành chính về trình tự, thủ tục và một số biện pháp cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn khó triển khai thực hiện
trên thực tế.
3. Một số các giải pháp để góp phần làm hiệu quả công tác xử phạt vi
phạm hành chính của các cấp chính quyền ngày càng tốt hơn như bổ sung các
trường hợp được sử dụng khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ;
Sửa đổi quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ, đường sắt; Quy trách nhiệm các chủ thể thực hiện
công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
78
dành cho đường bộ; Tăng cường hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra, giám sát
việc xử lý các trường hợp vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất
dành cho đường bộ và mở rộng phạm vi đối tượng được sử dụng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ trong xử phạt vi phạm hành chính.
79
KẾT LUẬN
Công tác xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm
vi đất dành cho đường bộ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia. Trong phạm vi quyền hạn được giao, Ủy ban nhân
dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm phải quản lý lĩnh vực
này một cách hiệu quả nhất thông qua các hoạt động như tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật trên địa bàn; tổ chức kiểm tra, xử phạt các hành vi vi
phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ
trên địa bàn mình quản lý theo quy định của pháp luật;… Mặc dù các cấp
chính quyền vẫn luôn tăng cường quản lý việc sử dụng, khai thác lòng đường,
vỉa hè, chấn chỉnh trật tự đô thị, tuy nhiên, các vi phạm trong lĩnh vực này vẫn
không ngừng xảy ra. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã trình bày được một
số nội dung như sau:
1. Khái quát một số cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành
chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ như phân
tích, diễn giải các khái niệm về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính
trong việc sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Đồng
thời phân tích được trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các hình
thức xử phạt và thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này.
2. Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm
hành chính về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ. Tác
giả đã nêu lên được một số đặc điểm về vị trí, địa lý và dân cư của Ủy ban
nhân dân Quận 1. Đồng thời nêu được thực trạng trong hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính và một số nguyên nhân gây ra hạn chế, bất cập trong hoạt
động xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm
vi đất dành cho đường bộ của pháp luật.
80
3. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và hạn chế trong hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính về sử dụng và khai thác trong phạm vi đất dành cho
đường bộ, tác giả đã nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh trong việc quản lý và xử phạt vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả rút ra được kết luận như sau:
Thứ nhất, hoạt động của Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh trong công tác xử phạt các vi phạm hành chính về sử dụng, khai thác
trong phạm vi đất dành cho đường bộ rất quan trọng, cấp thiết. Tuy nhiên, các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nội dung này còn nhiều hạn chế và
bất cập. Bên cạnh các vấn đề pháp lý thì phương thức thực hiện quản lý của
Ủy ban nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh còn chưa hiệu quả khiến
cho tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại với số
lượng các hành vi vi phạm tương đối lớn.
Thứ hai, cần phải sửa đổi một số quy định của pháp luật để khắc phục
các hạn chế mà tác giả đã nêu trong bài luận văn. Bên cạnh đó, cũng cần phải
xem xét việc thay đổi phương thức quản lý, xử phạt vi phạm hành chính về sử
dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ theo một xu hướng mới
phù hợp hơn.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Trần Vĩnh An, Cho thuê vỉa hè, nên hay không?, đăng trên website
http://nld.com.vn/kinh-te/cho-thue-via-he-nen-hay-khong-
170318220927254.htm, ngày 18/03/2017.
2. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Niên giám thống kê
Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thông kê.
3. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Niên giám thống kê
Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản thông kê.
4. Mai Hà, “Chủ tịch TP.Hà Nội: 'Hơn 150 quán bia vỉa hè có công an
đứng sau”, đăng trên website: http://thanhnien.vn/doi-song/chu-tich-tpha-noi-
hon-150-quan-bia-via-he-co-cong-an-dung-sau-806129.html, ngày 04/3/2017.
5. Trung Hiếu, “Lấn chiếm vỉa hè TP.HCM có thể 'do bao che của người
đứng đầu địa phương', đăng trên website: https://thanhnien.vn/thoi-su/lan-
chiem-via-he-tphcm-co-the-do-bao-che-cua-nguoi-dung-dau-dia-phuong-
967958.html, ngày 30/5/2018.
6. TS Nguyễn Minh Hòa, Bangkok, Singapore cho thuê vỉa hè như thế
nào?, đăng trên website https://tuoitre.vn/bangkok-singapore-cho-thue-via-he-
nhu-the-nao-1330590.htm, ngày 13/06/2017.
7. PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp (2012), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh.
8. Nguyên Huy, Thành phố Hồ Chí Minh bàn cách hạn chế xe máy,
phương tiện cá nhân, Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên website
http://congan.com.vn/giao-thong-24h/tp-hcm-ban-cach-han-che-xe-may-
phuong-tien-ca-nhan_37514.html, ngày 20/04//2017.
9. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
82
10. Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước Thành phố Hồ
Chí Minh (2017), Thông tin tiếp về tình hình ngập nước đến đầu năm 2017,
đăng trên website: http://www.ttcn.hochiminhcity.gov.vn/ban-tin-chuyen-
nganh/-/ext/articleview/article/452300/10182, ngày 03/05/2017.
11. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2007), Vài nét về Quận 1, đăng trên
website: http://www.quan1.hochiminhcity.gov.vn/GIOI-THIEU/Tong-quan-
dia-ly-lich-su/ctl/Detail/mid/11406&ArticleID=ARTICLE15092649, ngày
11/06/2007.
12. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2016), Báo cáo số 359/BC-UBND ngày
07/10/2016 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
13. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2017), Báo cáo số 180/BC-UBND ngày
29/06/2017 về kết quả thực hiện lập lại trật tự lòng, lề đường trên địa bàn
Quận 1 06 tháng đầu năm 2017.
14. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2017), Báo cáo số 378/BC-UBND ngày
09/10/2017 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
15. Ủy ban nhân dân Quận 1 (2019), Báo cáo số 15/BC-UBND ngày
10/01/2019 về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
16. PGS.TS Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.