ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ========

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

ĐỀ TÀI:

XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị XHCN Mã số: 05.02.01

Người hướng dẫn : PGS.TS. PHÍ MẠNH HỒNG

HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN ...

.............................................................................................................................. 6

1.1. Khái quát về lý thuyết lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu nông

sản ....................................................................................................... 6

1.2. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ............................................................................... 10

1.3. Thị trường nông sản thế giới và tiềm năng xuất khẩu nông sản

của Việt Nam .................................................................................... 14

1.4. Kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản ... 25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG SẢN

CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA .......................................................... 37

2.1. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian qua

........................................................................................................... 37

2.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu hàng

nông sản chủ yếu của Việt Nam ....................................................... 62

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KINH TẾ CHỦ YẾU

ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ...................................................................................................................... 76

3.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước và một số quan điểm định hướng

chủ yếu đới với xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam ........................ 76

3.2. Một số giải pháp chủ yếu ........................................................... 86

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

(Xếp theo thứ tự a, b, c,...)

AFTA : Khu vực tự do kinh tế ASEAN

ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á

ASEM : Diễn đàn hợp tác Á - Âu

APEC : Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương

CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Doha : Vòng đàm phán về giảm các dạng trợ cấp xuất khẩu nhằm

hỗ trợ cho các nước đang phát triển (khởi động từ năm 2001).

: Liên minh Châu Âu EU

: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

: Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc FAO

: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT

: Tổng sản phẩm quốc nội GDP

: Quĩ tiền tệ quốc tế IMF

: Hiệp hội cà phê thế giới ICO

: Nhà xuất bản Nxb

NSXK : Nông sản xuất khẩu

KNXK : Kim ngạch xuất khẩu

: Nguồn vốn cam kết viện trợ tự nguyện của các Chính phủ ODA

: Phát triển nông thôn PTNT

: Đô la Mỹ USD

: Bộ Nông nghiệp Mỹ USDA

: Xuất khẩu nông sản XKNS

: Tổ chức thương mại thế giới WTO

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Sau 20 năm đổi mới cơ chế kinh tế với các chính sách mở cửa đa

phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế và thực hiện chương

trình khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta, nền kinh tế Việt Nam

nói chung, kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có những bước phát

triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao và

khá ổn định: bình quân hàng năm tăng 5,75% trong giai đoạn 1991-2002, riêng

năm 2005 ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng giá trị sản xuất nông

nghiệp cả nước Việt Nam vẫn tăng 3,2%. Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh

của các vùng sinh thái, đã hình thành được nhiều vùng chuyên canh sản xuất

nông sản xuất khẩu có qui mô lớn như: lúa gạo ở đồng bằng sông Hồng và

đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, chè

ở vùng trung du miền núi phía Bắc. Sự phát triển vượt bậc của hoạt động xuất

khẩu nông sản của Việt Nam trong nhiều năm qua là một trong những thành

tựu nổi bật nhất của công cuộc đổi mới đất nước. Trị giá xuất khẩu hàng nông

sản năm 2000 là 2.563,4 triệu USD, đến năm 2003 tăng lên 2.672 triệu USD,

năm 2004 là 3.383,6 triệu USD, năm 2005 là 4.467,4 triệu USD, trị giá xuất

khẩu hàng nông lâm sản năm 2006 là 6266,1 triệu USD. XKNS hiện là nguồn

thu ngoại tệ lớn của đất nước, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá.

Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu và cơ cấu thị trường cũng đã có những

thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng hoá đã qua chế biến tăng khá nhanh, thị

trường xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng đã có những thay đổi

tích cực. Trong nhiều năm liền xuất khẩu đã trở thành động lực chính của tăng

trưởng GDP và xuất khẩu nông sản đã góp phần đáng kể vào quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhờ đó tạo ra sự chuyển biến

mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá,

khẳng định rõ vị trí của nền nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

1

Một số nông sản của Việt nam đã khẳng định được vị thế trên thế giới

cả về số lượng và chất lượng: Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu

gạo, cà phê, điều nhân, đứng đầu về xuất khẩu hạt tiêu, thứ 7 thế giới về xuất

khẩu chè.

Tuy đạt được nhiều thành tựu nổi bật, nhưng cho đến nay xuất khẩu của

Việt Nam còn khá nhỏ bé, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2005

đạt 32.447,1 triệu USD, trong khi đó nông sản chiếm 4.467,4 triệu USD, thấp

hơn nhiều so với các nước trong khu vực (Thái Lan, Philippin, Ân Độ,...) [41, 435]

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại, nhất là sau khi

Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt

– Mỹ (2001), và trở thành thành viên của WTO kinh tế Việt Nam tuy có nhiều

cơ hội phát huy lợi thế so sánh, mở rộng thị trường, nhưng cũng đang gặp

nhiều khó khăn và thách thức trước sự cạnh tranh quốc tế gay gắt do chúng ta

chưa có mấy lợi thế về trình độ sản xuất, về chủng loại hàng hoá, về kinh

nghiệm trong thương mại quốc tế. Vì thế việc tiếp tục đổi mới chính sách để

khai thác các lợi thế về tiềm năng nhằm phát triển sản xuất, nâng cao khả năng

cạnh tranh và hiệu quả kinh tế các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu là một

trong các vấn đề trọng yếu để Việt Nam phát triển nền kinh tế, mở rộng thị

trường và hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế chung của khu vực và

thế giới.

Trước tình hình đó, Nhà nước cần tìm ra những giải pháp thiết thực để

đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt

là khi gia nhập WTO. Cho nên, việc phân tích thực trạng, vạch ra hạn chế và

tìm ra những giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam hiện

nay là rất quan trọng. Chính vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài “Xuất khẩu hàng nông

sản ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” cho luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Xung quanh đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có

một số công trình và bài viết tiêu biểu sau:

“Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế” Nxb CTQG 2003 của tác giả GSTS Chu Văn Cấp (chủ biên).

2

“Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Việt Nam trong thương mại

quốc tế” của tác giả Thân Danh Phúc- Tạp chí kinh tế và phát triển, số 31, 1999.

“Một số giải pháp tạo bước đột phá trong xuất khẩu nông sản ở Việt

nam”- Tạp chí kinh tế và dự báo, số 3 năm 2000.

“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Việt nam và chương trình

đẩy mạnh xuất khẩu nông sản” tác giả Nguyễn Hữu Khải, Nxb Thống kê 2003.

“Làm thế nào để thực hiện quy hoạch nông sản xuất khẩu”, Th.S Trịnh

Thị Ái Hoa - Số 3/2006 Tạp chí Kinh tế và dự báo.

“Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của hàng

nông sản xuất khẩu trong thời gian tới” của tác giả Nguyễn Đình Long – Kỷ

yếu khoa học nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông sản, 2002.

“Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nông sản ở

đồng bằng sông Hồng” Luận văn tiến sĩ của tác giả Hoàng Văn Phấn.

“Đổi mới một số chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản

của nước ta hiện nay” Luận văn thạc sỹ của tác giả Trịnh Thị Ái Hoa, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.

Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu khoa học khác đi sâu nghiên cứu

từng loại nông sản xuất khẩu riêng biệt của nước ta thời gian vừa qua như: lúa

gạo, cà phê, điều,...(xin xem thêm trong phần tài liệu tham khảo).

Nhìn chung vấn đề xuất khẩu nông sản của Việt nam đã được nhiều nhà

khoa học nghiên cứu và đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên

trong bối cảnh mới, đặc biệt là khi Việt Nam vừa gia nhập WTO, ngày càng

hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thì càng có nhiều vấn đề mới cần giải

quyết. Trong luận văn này tác giả sẽ đi sâu giải quyết những vấn đề đặt ra có

tính thời sự hơn đối với hoạt động xuất khẩu nông sản, đặc biệt là một số mặt

hàng chủ lực của Việt Nam, và nêu lên những nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh

xuất khẩu nông sản hiệu quả hơn trong thời gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của đề tài:

Trên cơ sở phân tích một cách hệ thống vai trò, đặc điểm, thực trạng

của xuất khẩu nông sản Việt Nam, thời cơ, thách thức trong điều kiện hội nhập

3

kinh tế quốc tế, luận văn cố gắng đề xuất những nhóm giải pháp chủ yếu nhằm

đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong quá trình thực

hiện CNH, HĐH đất nước, và để hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài:

Thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ vai trò của xuất khẩu nông sản trong quá trình CNH, HĐH

trong các nước đang phát triển.

- Khảo cứu, phân tích kinh nghiệm một số nước trên thế giới làm cơ sở

kinh nghiệm cho Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.

- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

trong thời gian qua, nhất là thời kỳ 1991 đến nay.

- Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu nông

sản có hiệu quả hơn trong thời gian tới ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Luận văn lấy việc phân tích những vấn đề kinh tế chủ yếu của XKNS,

phân tích vai trò, định hướng và những giải pháp phát triển xuất khẩu hàng

nông sản làm đối tượng nghiên cứu. Do điều kiện có hạn nên luận văn chỉ

nghiên cứu ba loại nông sản trong các loại NSXK chủ lực Việt Nam đó là: gạo,

cà phê, chè. Ba loại nông sản này được chọn là do: gạo là hàng xuất khẩu chủ

lực tập trung ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, đứng thứ

hai thế giới, tỷ trọng xuất khẩu chiếm 20% khối lượng gạo sản xuất ra. Cà phê

là hàng nông sản quan trọng thứ hai của Việt Nam sau lúa gạo, tập trung ở Tây

Nguyên, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê. Việc sản xuất cà

phê hầu hết dành cho xuất khẩu (95%) là nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước.

Hiện nay hai mặt hàng này được Chính phủ phân vào nhóm nông sản có khả

năng cạnh tranh. Kim ngạch xuất khẩu gạo và cà phê thường chiếm khoảng từ

50% đến 70% tổng KNXK nông sản của ta.

Mặt hàng chè được trồng chủ yếu ở khu vực trung du, miền núi phía

Bắc và Lâm Đồng, mặc dù KNXK chưa lớn nhưng cũng xếp thứ bảy trong các

4

nước xuất khẩu chè lớn của thế giới. Xuất khẩu chè chiếm tỷ trọng 75% đến

85% lượng chè sản xuất. Chè của Việt Nam thuộc nhóm NSXK có khả năng

cạnh tranh có điều kiện, mặt khác chè lại thuộc nhóm cây “xoá đói giảm

nghèo” của Việt Nam. Vì thế cùng với gạo và cà phê, chè cũng trở thành mặt

hàng nông sản có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành nông

nghiệp và phát triển nông thôn. Hơn nữa ba loại cây lại nằm ở ba miền Bắc,

Trung, Nam có thể khái quát cho tình hình XKNS ở Việt Nam.

Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn

đề cơ bản và chủ yếu để phân tích, lấy địa bàn cả nước làm không gian nghiên

cứu, hướng sự phân tích tập trung vào thời kỳ 1991 đến nay, vì từ năm 1991

XKNS bắt đầu có sự tăng trưởng mạnh, đạt giá trị lớn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Luận văn vận dụng các phương pháp của khoa kinh tế chính trị: duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử. Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu, luận văn

chú trọng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh để phục

vụ cho việc nghiên cứu.

Về thực tiễn, luận văn xuất phát từ tình hình xuất khẩu của nông sản

Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong khu vực,...

6. Đóng góp mới của luận văn:

- Phân tích thực trạng XKNS, đưa ra các đánh giá cần thiết, đặc biệt

làm rõ những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với lĩnh vực xuất khẩu nông sản.

- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy mạnh hoạt động

XKNS trong thời gian tới của Việt Nam.

7. Kết cấu luận văn

Tên luận văn : “Xuất khẩu hàng nông sản ở Việt nam trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế”

Kết cấu:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, về nội

dung, luận văn được chia làm 3 chương 8 tiết.

Chương 1: Một số vấn đề chung về xuất khẩu hàng nông sản.

5

Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam

trong thời gian qua.

Chương 3: Một số quan điểm và các giải pháp kinh tế chủ yếu để đẩy

mạnh xuất khẩu hàng nông sản trong thời gian tới.

6

NỘI DUNG

CHƢƠNG1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG

NÔNG SẢN

1.1. Khái quát về lý thuyết lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản

Mỗi quốc gia đều chỉ có những nguồn lực nhất định. Để sản xuất ra một

mặt hàng nào đó với số lượng bao nhiêu, nhiều hay ít so với những mặt hàng

khác thì nền kinh tế phải có sự lựa chọn để phân bổ các nguồn lực một cách

hợp lý. Xét trên góc độ hiệu quả kinh tế, đương nhiên mỗi quốc gia cần lựa

chọn việc sản xuất ra những mặt hàng có lợi thế so sánh lớn nhất để trao đổi

với nhau, nhờ đó có thể tận dụng và phát huy được các lợi thế sẵn có và tiết

kiệm được nguồn lực, nâng cao hiệu qủa sản xuất.

Từ thế kỷ XVIII, các nhà khoa học người Anh là Ađam Smith và

David Ricacdo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối, đến

nay các lý thuyết này vẫn là lý thuyết nền tảng của thương mại quốc tế.

1.1.1. Lợi thế tuyệt đối

Ađam Smith (1723-1770), nhà kinh tế học cổ điển người Anh trong

nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng : “Thương mại quốc tế mang lại lợi ích

cho các quốc gia bắt nguồn từ nguyên tắc phân công”. Ông là nhà kinh tế đầu

tiên trên thế giới nhận thấy phân công quốc tế, tiến bộ kinh tế và đầu tư là

những động lực của phát triển kinh tế. Ađam Smith cũng đã phê phán những

mặt hạn chế của Chủ nghĩa trọng thương và chứng minh rằng thương mại quốc

tế đã giúp cho các nước tăng được giá trị tài sản của mình trên nguyên tắc phân

công quốc tế. Ađam Smith cho rằng mỗi quốc gia cần chuyên môn hóa vào

những ngành sản xuất mà mình có lợi thế tuyệt đối.

Những tiêu chuẩn quyết định cho sự lựa chọn ngành được chuyên môn

hoá trong phân công quốc tế là những điều kiện tự nhiên về địa lý và khí hậu

mà chỉ nước đó mới có mà thôi. Nói cách khác, theo ông, sự khác nhau về

điều kiện tự nhiên là nguyên nhân của thương mại quốc tế và quyết định cơ cấu

thương mại quốc tế.

7

Theo Ađam Smith, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực và tài

nguyên sẵn có của mình như : đất đai, lao động, nguồn vốn, khoa học, công

nghệ và kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh,...Như vậy các quốc gia cần tiến

hành sản xuất chuyên môn hoá những mặt hàng nào đó mà họ có lợi thế tuyệt

đối về các nguồn lực, sau đó tiến hành trao đổi với các nước thì hai bên đều có

lợi. Ông cho rằng, hai quốc gia trao đổi thương mại với nhau là dựa trên cơ sở

tự nguyện và cùng có lợi (vì nếu không có lợi thì các quốc gia sẽ từ chối tham

gia), lợi ích của thương mại bắt nguồn từ lợi thế tuyệt đối của một quốc gia. Từ

lập luận đó Ađam Smith chủ trương là phải tự do kinh doanh vì mỗi cá nhân

và doanh nghiệp đều có mục đích thu lợi nhuận tối ưu. Do vậy việc cho phép

tự do kinh doanh sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Trong quá trình trao đổi

thương mại, nguồn lực của các nước sẽ được lựa chọn sử dụng có hiệu quả cao

hơn, tổng sản phẩm của toàn thế giới sẽ gia tăng và bằng cách đó mọi người

dân của các nước đều được tiêu dùng nhiều loại sản phẩm theo mức mong

muốn lớn hơn thông qua thương mại quốc tế. Như vậy, sản xuất chuyên môn

hoá dựa vào lợi thế tuyệt đối trong thương mại quốc tế đảm bảo có lợi cho các

nước.

Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần của thương

mại quốc tế. Bởi lẽ trên thực tế, nếu như ở một vài quốc gia nào đó vì không có

những tài nguyên thiên nhiên dồi dào và không có các tiềm năng to lớn như các

nước khác thì liệu những quốc gia đó sẽ không thể tham gia vào thương mại

quốc tế hay sao? Chính vì vậy, việc đẩy mạnh thương mại quốc tế của nhiều

nước phát triển vốn dĩ nghèo tài nguyên thiên nhiên như : Nhật, Thụy Sĩ, Áo,...

sẽ không thể giải thích được bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Vì sự hạn chế của

lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình hình phát triển mạnh mẽ của thương mại

quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi thế tương đối.

1.1.2. Lợi thế tƣơng đối

Trên cơ sở kế thừa và phê phán lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađam

Smith, David Ricacdo đã xây dựng nên học thuyết về lợi thế so sánh hay còn

gọi là học thuyết lợi thế tương đối. Ông cho rằng sự khác biệt giữa các nước

không chỉ về điều kiện tự nhiên mà còn về điều kiện sản xuất nói chung nhưng

8

đều có lợi khi chuyên môn hoá sản xuất một sản phẩm nào đó và cùng tham gia

vào thương mại quốc tế. Nguyên tắc này chỉ ra rằng : một nước (hoặc một

người) có thể nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của mình bằng cách

chuyên môn hoá vào việc sản xuất những hàng hoá có năng suất tương đối cao

hơn. Điều đó có nghĩa là bất cứ quốc gia nào cũng có lợi khi tham gia vào

thương mại quốc tế dù rằng quốc gia đó có hay không có các điều kiện tự nhiên

thuận lợi hơn hẳn các nước khác.

Theo David Ricacdo thì trong qúa trình tham gia thương mại quốc tế,

các quốc gia sẽ lựa chọn sản xuất loại hàng hoá và dịch vụ có lợi nhất cho xuất

khẩu và nhập khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ, mà việc sản xuất chúng có

nhiều bất lợi. Xét cho cùng, lợi thế so sánh là do có sự khác biệt quốc tế về

năng suất lao động tương đối.

Theo thuyết “lợi thế tương đối” chuyên môn hoá quốc tế không nhất

thiết phải tập trung vào các ngành có lợi thế tuyệt đối, nó chỉ đòi hỏi có được

lợi thế tương đối mà thôi. Tuy nhiên, mô hình của David Ricacdo cũng còn hạn

chế ở chỗ: ông đã dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hoá lý thuyết về giá

trị lao động để chứng minh cho qui luật này. Nhưng trên thực tế, lao động

không phải là đồng nhất, những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác

nhau với những mức lương khác nhau. Hơn nữa, hàng hoá được làm ra không

chỉ do một yếu tố lao động mà còn có sự tham gia của nhiều yếu tố nữa như:

đất đai, vốn, khoa học - công nghệ. Mặt khác, mô hình David Ricacdo cũng bỏ

qua vai trò về lợi thế nhờ qui mô. Lý thuyết “lợi thế so sánh” hay “lợi thế

tương đối” mới chỉ ra được cơ sở và nguyên tắc của sự trao đổi và phân công

lao động quốc tế, còn cơ chế hoạt động của nó như thế nào trên thực tế chưa

được nghiên cứu kỹ. Chính vì vậy, lý thuyết này đã được nhiều nhà khoa học

khác nghiên cứu và phát triển thêm.

Nhằm hoàn thiện lý thuyết chung về kinh tế quốc tế Haberler đã đưa ra

lý thuyết về chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội của một sản phẩm được hiểu là số

lượng sản phẩm khác phải hy sinh để dành tài nguyên cho sản xuất thêm một

đơn vị sản phẩm đó. Chi phí cơ hội tăng tức là một quốc gia phải hy sinh nhiều

hơn để dành tài nguyên cho việc sản xuất một đơn vị sản phẩm.

9

Theo Haberler, chi phí cơ hội ở từng quốc gia có sự khác nhau và điều

này làm cơ sở phát sinh thương mại quốc tế. Để tham gia vào thương mại quốc

tế, mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất một loại sản phẩm, nhưng do

chi phí cơ hội tăng nên quá trình chuyên môn hoá sẽ chỉ diễn ra cho đến khi giá

cả so sánh ở các quốc gia là như nhau. Điều này giải thích tại sao các nước đều

chuyên môn hoá không hoàn toàn vào một sản phẩm mà còn sản xuất các sản phẩm

khác nữa.

Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, dưới tác động của nhiều nhân tố,

mà trước hết là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, kinh tế thế giới và phân

công lao đông quốc tế có những biến đổi sâu sắc. Trong tình hình đó, hai nhà

kinh tế Thuỵ Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã hoàn thiện thêm lý

thuyết lợi thế so sánh, chỉ ra cơ chế hoạt động của “lợi thế tương đối” theo

nguyên tắc sự cân bằng giá cả của các yếu tố sản xuất. Căn cứ vào yếu tố sản

xuất, các quốc gia sẽ được phân thành hai nhóm :

- Nhóm các quốc gia có lợi thế về nguồn lao động, tư liệu sản xuất và

điều kiện tự nhiên (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, năng lượng,...)

- Nhóm các quốc gia có lợi thế về vốn, khoa học công nghệ.

Căn cứ vào vai trò hiệu quả sinh lợi thì ngành kinh tế được phân thành

hai loại :

- Ngành có khả năng tạo ra hiệu quả sinh lợi cao.

- Ngành không có nhiều khả năng tạo ra hiệu quả sinh lợi cao.

Lý thuyết Heckscher-Ohlin phát biểu như sau: Một quốc gia sẽ xuất

khẩu sản phẩm mà nó sử dụng tập trung các yếu tố ở quốc gia đó tương đối dư

thừa, nhập khẩu những sản phẩm mà nó sử dụng tập trung các yếu tố ở quốc

gia đó tương đối khan hiếm.

Như vậy, lý thuyết Heckscher-Ohlin đã giải thích được sự khác nhau

trong giá cả sản phẩm so sánh. Nói cách khác lợi thế so sánh giữa các quốc gia

chính là sự khác nhau giữa các yếu tố dư thừa tương đối hay nguồn lực vốn có

của mỗi quốc gia.

Lý thuyết về lợi thế tương đối là có căn cứ khoa học và được kiểm

nghiệm trên thực tế, do đó cần được nghiên cứu vận dụng một cách sáng tạo

10

vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong quá trình đổi mới chính sách ngoại

thương và kinh tế đối ngoại. Đây là một trong những căn cứ quan trọng trong

việc nghiên cứu nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

và cơ cấu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nếu bỏ qua lợi thế so sánh thì có thể

phải trả giá đắt về mức sống và tăng trưởng kinh tế.

1.2. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản trong quá trình Công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Xuất khẩu hàng nông sản là việc một nước mang hàng hoá nông sản

của đất nước bán ra thị trường ngoài nước. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập

kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá

kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tuỳ

thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự

phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế

giới vào quốc gia đó.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở những nước trong

khu vực (Malaysia, Singapor, Hàn Quốc, Thái Lan..) có điều kiện tương đồng

như ở Việt Nam đã chỉ rõ nhờ có chính sách đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở

phát huy các lợi thế và tiềm năng của đất nước mà đã đạt được những thành

tựu to lớn, đưa đất nứơc nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành

những quốc gia phát triển, có nền kinh tế giàu có, hiện đại. Do vậy xuất khẩu là

đòn bẩy quan trọng của tăng trưởng kinh tế, xã hội.

Việt Nam là nước có đủ 4 yếu tố rất cơ bản về lợi thế trong hoạt động

XKNS bao gồm: vị trí địa lý, nguồn lực lao động dồi dào, tài nguyên thiên

nhiên thuận lợi, chính sách đổi mới và sự ổn định nền kinh tế vĩ mô. Chính vì

vậy Đảng và Nhà nước cho rằng : XKNS là một bộ phận quan trọng trong

chiến lược xuất khẩu Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đó cũng là một bộ phận

trọng yếu của vấn đề đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Giải quyết tốt vấn đề

này là một yêu cầu có tính quyết định của Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp.

Ở những nước đang phát triển, CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm để

đưa nền kinh tế lạc hậu, dựa chủ yếu vào nông nghiệp thành nền kinh tế công

11

nghiệp phát triển. Xuất khẩu hàng nông sản là một cách thức quan trọng để thúc

đẩy Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển.

Xuất khẩu nông sản cho phép các nước đang phát triển phát huy tốt

nhất những lợi thế so sánh ban đầu của mình (là nước nông nghiệp, có nguồn

lao động rẻ), do đó làm cho tiến trình CNH, HĐH diễn ra hiệu quả hơn.

Những khía cạnh cụ thể thể hiện vai trò của XKNS là:

1.2.1. Xuất khẩu nông sản tăng cƣờng quĩ ngoại tệ cho các nƣớc

đang phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy tích lũy vốn phục vụ cho quá trình

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Kinh tế học đã cho thấy quá trình tái sản xuất gồm 4 khâu :

Sản xuất - Phân phối - Trao đổi - Tiêu dùng

Trong đó ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng nằm ở khâu

trao đổi. Muốn quá trình trao đổi thông suốt, với qui mô lớn, tốc độ nhanh, đòi

hỏi lực lượng sản xuất của nước đó phải phát triển. Ở Việt Nam, nông nghiệp

là ngành truyền thống, luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP: nếu tính từ

năm 1986 đến năm 2005, năm cao nhất chiếm 46,3% (1998), và thấp nhất là

năm 2001 cũng chiếm 23,3%. Bước đi ban đầu của hoạt động xuất khẩu là phải

tập trung vào những mặt hàng nông sản. Đây là một hướng đi tất yếu, phù hợp

khách quan, phát huy được lợi thế so sánh của chúng ta. Chính vì vậy, nhóm

hàng nông sản chiếm trung bình hơn 20% trong tổng KNXK của cả nước giai

đoạn 1991 - 2005. Không những thế, một số nông sản thực phẩm còn được

xuất khẩu ở mức thứ 2, thứ 3 trên thế giới như: gạo, cà phê, hồ tiêu, điều (năm

2005 gạo, cà phê xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới).

Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần,

sản xuất nông nghiệp còn mang tính chất của một nền sản xuất nhỏ. Để nâng

cao hiệu quả sản xuất và XKNS , chúng ta cần đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH

nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Song với nội lực hiện tại của đất nước,

thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết

bị, công nghệ mới là rất quan trọng.

Xuất khẩu đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào việc tạo ra

nguồn vốn bằng ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị nông nghiệp.

12

Năm 1995 kim ngạch nông sản xuất khẩu đạt 1745,8 triệu USD, năm 2000 đạt

2563,4 triệu USD và tổng kim ngạch 5 năm (1995 - 2000) đạt 15.122,8 triệu

USD, tới năm 2005 KNXK nông sản đạt 4467,4 triệu USD. Đây là con số

không nhỏ chút nào và cũng không dễ có chút nào, nếu phải so sánh với con số

của ODA hoặc FDI. Điều này không những nói về mặt lượng mà còn nói lên

đây chính là nguồn vốn của chính chúng ta, mà nếu đi vay, thì tất yếu trước hay

sau cũng phải trả bằng cách này hay cách khác.

1.2.2. Xuất khẩu nông sản đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Hàng NSXK tăng không chỉ đem lại nhiều ngoại tệ mà còn tạo thêm

công ăn việc làm trong nước thông qua các hoạt động thu, gom, vận chuyển,

phân loại, chế biến hàng nông sản ở vùng, địa phương. Điều này sẽ thúc đẩy

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế quốc dân theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ

trọng nông nghiệp. Đây là những mặt chủ yếu của công cuộc CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn.

Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế :

Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất

vượt quá nhu cầu nội địa, tức là xuất khẩu những gì ta có. Trong trường hợp

nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn

chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu

rất nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, không có tác dụng chuyển dịch cơ cấu

kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển .

Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan

trọng để tổ chức sản xuất, nhằm xuất khẩu những gì mà thị trường thế giới cần.

Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản

xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản

xuất sản phẩm.

1.2.3. Xuất khẩu nông sản thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh hơn,

tạo thu nhập cho nông dân, tích cực tạo ra việc làm, góp phần xóa đói giảm

nghèo, thực hiện công bằng xã hội.

13

Ở Việt Nam, sau những năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp có bước

phát triển về chất. Điều đó không chỉ biểu hiện ở chỗ tạo thêm nhiều việc làm

trong nông nghiệp, nông thôn, làm tăng thu nhập của các tầng lớp trong nông

thôn, mà còn góp phần từng bước khắc phục tình trạng đói nghèo. Năm 1993 tỉ

lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 58%, giảm xuống còn 19,5% năm 2004, đến cuối

năm 2005 còn 7% (theo tiêu chuẩn cũ). Số lao động được giải quyết việc làm

trong năm 2006 là 668,5 nghìn lượt người. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành

thành thị đã giảm từ 5,3% năm 2005 xuống 4,4% năm 2006. Tỷ lệ hộ nghèo

theo tiêu chuẩn mới đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 19% năm 2006.

Cũng trong năm 2006 cả nước đã xây dựng mới được 5 vạn căn nhà và sửa

chữa 3 vạn ngôi nhà tình nghĩa và tình thương cho các hộ chính sách và hộ

nghèo với tổng trị giá trên 440 tỷ đồng. Đó cũng chính là những thành tựu rất

cơ bản và cũng rất quan trọng của nông nghiệp Việt Nam trong những năm vừa

qua.

1.2.4. Xuất khẩu nông sản khuyến khích khu vực công nghiệp (trƣớc

hết là công nghiệp chế biến nông sản), dịch vụ (các dịch vụ tài chính - ngân

hàng, dịch vụ hỗ trợ xã hội) phát triển. Đồng thời với quá trình phát triển thị

trường các sản phẩm nông sản sẽ là việc hình thành và phát triển thị trường

công nghệ đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả các sản

phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển.

1.2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế

đối ngoại, tăng cƣờng địa vị kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trƣờng thế

giới.

Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại -

kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác bao

gồm các hình thức sau : xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu lao động, đầu tư quốc

tế, dịch vụ - du lịch, hợp tác sản xuất kinh doanh,...

Ở Việt Nam, trước những năm 1980 các hình thức quan hệ này còn rất

mới mẻ và hầu như chưa phát triển mạnh. Sau những năm đổi mới cơ chế kinh

tế Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường củng cố và phát triển nhiều hình thức

quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó hình thức xuất khẩu hàng hoá phát triển

14

nhanh và ổn định. Nhờ vây, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 150

nước và lãnh thổ, hoạt động thương mại đã đạt được những kết quả to lớn,

củng cố vị trí và uy tín của mình trong cộng đồng các nước.

Có thể khẳng định rằng : xuất khẩu chính là cơ sở để đẩy mạnh phát

triển kinh tế đất nước và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam.

Đối với những nước có lợi thế về đất đai, thời tiết, khí hậu và các nguồn

lực khác thì nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong việc sản xuất NSXK, nhất

là các nước đi lên từ ngành nông nghiệp như Việt Nam. Cho đến nay, xét trên

nhiều chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới.

Để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang tầm với các quốc gia khác

trong khu vực, chúng ta cần phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền

vững trong một thời gian tương đối dài.

Định hướng thay thế nhập khẩu, như kinh nghiệm của nhiều nước đã

chỉ ra, có thể mang lại tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian nhưng không

thật bền vững. Đến một giai đoạn nhất định do sức mua của thị trường nội địa

hạn chế sẽ không cho phép tiếp tục phát triển sản xuất trên qui mô tối ưu, gây

ảnh hưởng tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng. Phát triển kinh tế theo hướng xuất

khẩu, do lấy đích là thị trường ngoài nước, sẽ có nhiều khả năng tránh được trở

ngại trên. Sản xuất sẽ phát triển tới quy mô kinh tế tối ưu, các nguồn lực được

sử dụng hợp lý, qua đó đảm bảo một tốc độ cao và bền vững.

Đối với Việt Nam, chiến lược hợp lý nhất cần được ưu tiên trong thời

gian tới vẫn sẽ là “hướng về xuất khẩu”. Cần nhất quán coi xuất khẩu là hướng

ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại. Như vậy là tất cả các

hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, trước

hết tập trung vào các ngành chủ lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá.

1.3. Thị trường nông sản thế giới và tiềm năng xuất khẩu nông sản

của Việt Nam.

1.3.1. Thị trƣờng nông sản thế giới

Sau khủng hoảng kinh tế ở Châu Á 1997, kinh tế thế giới đã có những

biến động lớn và sa sút hơn nhiều so với những năm trước 1997 - năm được coi

là thành công nhất về phương diện kinh tế thế giới. Về mặt hàng nông sản thực

15

phẩm, buôn bán trên thế giới tăng thêm khoảng 84 tỷ USD trong thập kỷ qua.

Giá ngũ cốc, lúa mì, ngô biến động theo xu hướng giảm xuống do cung lớn

hơn cầu. Trong khi đó khối lượng gạo xuất khẩu của thế giới tăng lên chút ít:

trong giai đoạn 1990 -1995 dao động từ 15-20 triệu tấn năm (năm cao nhất là

1995 đạt 21 triệu tấn); giai đoạn 1996-2000 lượng gạo buôn bán trên thị trường

thế giới là 20,4 triệu tấn/năm (năm cao nhất là 1998 với 24,5 triệu tấn, năm

2000 là 21,2 triệu tấn); năm 2005 tăng lên đạt 29,21 triệu tấn. Nhu cầu tiêu thụ

gạo toàn cầu năm 2005 là 415,1 triệu tấn.

Trung Quốc là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới chiếm 1/3 lượng gạo

toàn cầu. Xuất khẩu gạo năm 1994 của Trung Quốc đạt 1,5 triệu tấn, song

những năm sau đó giảm nhiều do nhu cầu về gạo trong nước rất lớn. Từ năm

1998 trở lại đây sản lượng gạo Trung Quốc không đủ tiêu dùng, Trung Quốc

đang chuyển sang nhập khẩu gạo vì nhu cầu trong nước ngay càng tăng trong

khi nguồn cung không đáp ứng đủ mức cầu ấy. Năm 2005/2006 sản lượng gạo

của Trung Quốc đạt 126,4 triệu tấn nhưng vẫn không đủ mức tiêu dùng.

Nước xuất khẩu gạo lớn nhất là Thái Lan với khối lượng gạo xuất khẩu

khoảng 7 triệu tấn gạo/năm. Gạo phẩm chất tốt của Thái Lan rất dễ chiếm lĩnh

thị trường thế giới (gạo thơm Hương Nhài chiếm 20% trong tổng lượng gạo

xuất khẩu, chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ, luôn cạnh tranh với gạo chất lượng cao

của Mỹ). Còn gạo chất lượng thấp và gạo tấm thì bị gạo của Việt Nam cạnh

tranh. Mỹ là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới, hàng năm xuất khoảng

2,5 - 3,0 triệu tấn, chủ yếu cạnh tranh trên thị trường gạo chất lượng cao. Các

nước xuất khẩu gạo lớn khác bao gồm : Ấn Độ, Pakistan, Úc, Uruguay, Ai

Cập, Myanmar.

Trung Đông là thị trường chủ yếu tiêu thụ gạo chất lượng cao với lượng

nhập khẩu hàng năm khoảng 3,5 triệu tấn. Iran là nước nhập khẩu gạo lớn nhất

thế giới, cho dù đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh sản xuất trong nước. Năm 1997

Iran nhập tới 1,4 triệu tấn gạo, năm 1998 Saudi Arabia nhập khẩu khoảng 0,7

triệu tấn, còn Iraq nhập 0,6 triệu tấn. Do ảnh hưởng của trận động đất, sóng

thần xảy ra cuối năm 2004 tại một số nước Nam Á và Đông Nam Á, nhu cầu

nhập khẩu gạo của Philippin, Bangladesh, cũng như của các nước Châu Phi,

16

Trung Mỹ tăng mạnh, khiến cho giá gạo trên thị trường thế giới năm 2005 liên

tục tăng và giữ ở mức cao.

- Về cà phê : các nước sản xuất chủ yếu là Brazin chiếm 30% sản lượng

cà phê thế giới, Colombia - 20%, tiếp theo là Inđonêxia, Việt Nam. Tổng diện

tích cà phê thế giới niên vụ 1998/1999 khoảng 11,5 triệu ha, sản lượng là 6,5

triệu tấn. Sản lượng cà phê dành cho xuất khẩu khá cao, chiếm khoảng 80%

sản lượng sản xuất ra. Kim ngạch xuất khẩu cà phê thế giới tăng dần qua các

năm: năm 1991 mới chỉ đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 1995 đã tăng lên 11 tỷ

USD và năm 1999 đạt 14 tỷ USD. Kể từ năm 2001 khi lượng cung cà phê trên

thế giới tăng mạnh (do thời tiết thuận lợi, cây cà phê ở Braxin bước vào kỳ

tăng trưởng nhất), nên giá cả cà phê giảm mạnh ảnh hưởng lớn đến kim ngạch

xuất khẩu. Tình trạng này kéo dài đến hết năm 2004. Năm 2005 được coi là

một năm sáng sủa đối với ngành cà phê thế giới, việc khủng hoảng thừa cung

đã dần được khống chế. Trên thị trường thế giới năm 2005, giá cà phê cả

Arabica và Robusta đều đã cải thiện đáng kể. Braxin và Việt Nam là hai nước

có ảnh hưởng quyết định đến diễn biến giá cà phê thế giới.

Diễn biến giá cả cà phê thế giới rất phức tạp, lên xuống thất thường,

dao động từ 1500 đến 3200 USD/tấn (thời điểm cao nhất là tháng 9/1994 với

giá là 4260 USD/tấn cà phê Arabica giảm xuống còn 1450 USD/tấn vào tháng

8/ 2000, còn giá cà phê Robusta là 623 USD/tấn). Cuối năm 2005, giá cà phê

liên tục giữ ở mức cao, cà phê Arabica là 2175 USD/tấn, cà phê Robusta là

1115 USD/tấn (do ảnh hưởng bởi nguồn tin sản lượng hạn chế ở hầu hết các

nước sản xuất, vì thời tiết xấu). Các nước nhập khẩu cà phê chủ yếu là Anh,

Đức, Bỉ, Bắc Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Pháp, Phần Lan...với cơ cấu nhập

khẩu theo chiều hướng tăng tỷ trọng cà phê Arabica (cà phê ngon), giảm tỷ

trọng cà phê Robusta.

- Về chè: Cho đến nay, chè được sản xuất ở 39 nước thuộc cả 5 châu

lục, trong đó chủ yếu là sản xuất ở Châu Á (80% chè thế giới). Tổng sản phẩm

(chè chế biến/ chè khô) được sản xuất ra đến nay đạt trên dưới 3 triệu tấn/ năm

(năm 2003: 3.149.356 tấn, năm 2004: 3.326.085 tấn, năm 2005: 3.376.031 tấn).

17

Các nước sản xuất chè chủ yếu lần lượt là: Ấn Độ, Trung Quốc,

Sirilanka, Kenya, Inđônêxia, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Nhật Bản, 8 nước này

chiếm 88% tổng sản lượng chè toàn thế giới.

Các nước sản xuất lớn nhất đồng thời là các nước xuất khẩu hàng đầu

(trừ Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản tiêu thụ nội địa nhiều nên không là những nước

xuất khẩu hàng đầu). Trong 10 năm (1996 - 2005), các nhà xuất khẩu chè hàng

đầu thế giới là: Sirilanka, Trung Quốc, Kenya, Ấn Độ, Inđônêxia. Việt Nam

nằm trong 6 quốc gia xuất khẩu chè hàng đầu thế giới trong những năm 2000 -

2005, năm 2006 đứng thứ 7.

Năm 2004 toàn thế giới xuất khẩu 1.536.141 tấn (46,2% tổng sản

phẩm), năm 2005: 1.557.614 tấn (46,3% tổng sản phẩm). Riêng châu Á đã xuất

khẩu năm 2004: 967.427 tấn, 2005 : 983.803 tấn.

Chè được xuất khẩu sang khoảng 140 nước nhưng tập trung ở 26 nước,

nhiều nhất ở các quốc gia thuộc châu Á, châu Phi (châu Á tiêu thụ trên 70%

sản lượng chè thế giới, phần lớn do thói quen tiêu dùng của người dân). Năm

1995, toàn thế giới nhập 1.047,5 triệu kg chè, thì đến năm 2000 đã nhập 1.215

triệu kg, và đến năm 2003 là 1.319 triệu kg, mức tăng 26% (3,25%/ năm). Năm

2004, toàn thế giới nhập 1.423 triệu kg, năm 2005 là 1.401 triệu kg. Tổng giá

trị nhập khẩu toàn thế giới 5 năm (2001 - 2005) ước từ 2,7 – 2,9 tỷ USD/năm.

Hiện nay trong tổng sản phẩm xuất khẩu tỷ lệ chè đen là 60%, chè xanh là

40%. Trong đó, chè xanh được tiêu dùng chủ yếu ở châu Á và Bắc Phi, chè đen

được tiêu dùng chủ yếu ở châu Âu, châu Mỹ, châu Đại Dương và các nước

Trung Đông.

Tóm lại, nền kinh tế thế giới và hoại động thương mại quốc tế từ sau

năm 1997 đã có xu hướng giảm xuống do tác động của các cuộc khủng hoảng

kinh tế. Hiện nay tuy đà tăng trưởng kinh tế và thương mại đã được khôi phục

lại, song mức độ tăng trưởng cũng như giá cả hàng hoá NSXK còn thấp và

chưa thể đạt được cao như mức độ của những năm trước 1997. Ví dụ như : Giá

chè bình quân trên thị trường thế giới ở thập niên cuối thế kỷ XX có xu hướng

giảm và những năm gần đây, xu hướng phục hồi vẫn chậm. Trong 10 năm qua

(1995 - 2005), giá bình quân giảm trung bình 1000 USD/tấn, do sức ép của

18

quan hệ cung cầu (cung tăng nhưng cầu tăng rất hạn chế). Vấn đề giá cả hiện

nay đang gây sức ép đối với một số nước “mới trỗi dậy” về sản xuất chè, dù

phát triển mạnh nhưng vẫn theo chiều rộng (số lượng), và mới chỉ bước đầu

quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu như Việt Nam.

* Xu hướng thương mại hàng nông sản thế giới

Nhu cầu tiêu thụ nông sản phụ thuộc vào các yếu tố: tăng dân số, tăng

trưởng kinh tế, quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Sau đây là một

số xu hướng chính ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ nông sản thế giới:

- Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm (thập kỷ 80 là 1,7%/năm, đến giai

đoạn 2000- 2010 và 2020 ước tính sẽ duy trì ở mức 1,1%/năm), song qui mô

dân số tăng sẽ làm cho nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản tăng. (Bộ Nông

nghiệp Mỹ ước tính tăng dân số quyết định 70% tăng nhu cầu tiêu thụ lương

thực, còn lại 30% là yếu tố thu nhập, và các yếu tố khác). Năm 2004, Liên Hợp

Quốc dự báo giai đoạn 1999-2010, dân số thế giới sẽ tăng 1,3% hàng năm,

giảm xuống từ mức tăng 1,5% của thập kỷ trước. Đối với những nước đang

phát triển, tăng trưởng dân số dự báo sẽ chậm dần, ở mức 1,6% hàng năm; ở

những nứơc phát triển là 0,3%, và ở những nước đang trong thời kỳ quá độ là

0,04%. Trong đó, các quốc gia đang phát triển sẽ đóng góp 97% vào tăng

trưởng dân số thế giới. Dài hạn, Liên Hợp Quốc dự báo dân số thế giới sẽ tăng

thêm 2,5 tỷ người vào năm 2020, trong đó riêng Châu Á là 1,5 tỷ.

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ có xu hướng tăng lên sau giai

đoạn trì trệ 1997 - 2001. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), giai đoạn 1991 -

2000, tốc độ tăng trưởng GDP thế giới 2,8%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 là

2,3%/năm và 2006 - 2013 là 3,2%/năm. Trong đó, các nước đang phát triển sẽ

duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao trên 5%/năm trong dài hạn. Như

vậy, thị trường hàng nông sản thế giới đang có xu hướng chuyển dần về khu

vực các nước đang phát triển, nhất là các nước ở khu vực châu Á. Mặt khác,

quá trình đô thị hóa cùng với tăng thu nhập dẫn đến nhu cầu tăng nhanh các

sản phẩm từ thịt chế biến, dầu, mỡ, sữa trong nhóm các nước đang phát triển.

- Xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động

lớn của quá trình toàn cầu hóa và mở cửa thị trường. Các hiệp định thương mại

19

song phương và đa phương - ảnh hưởng đến nông nghiệp nói chung và mậu

dịch nông nghiệp nói riêng. Một trong những nhân tố quan trọng đó là quá

trình mở rộng EU, các hiệp định thương mại giữa EU và các nước đang phát

triển sẽ giúp cho hàng nông sản các nước đang phát triển tiếp cận thị trường

này nhiều hơn. Tháng 8/2004 WTO đã đạt được thỏa thuận khung về nông

nghiệp, thực hiện các cam kết xóa bỏ trợ cấp nông sản tại các nước giàu và cắt

giảm hàng rào thuế quan trên toàn thế giới.

- Giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới luôn biến

động và xảy ra thường xuyên, chủ yếu là do bất ổn định của sản xuất nông

nghiệp (phụ thuộc vào thiên nhiên). Các sản phẩm trồng trọt và sản phẩm thô

có biên độ dao động cao hơn các sản phẩm chăn nuôi và sản phẩm chế biến.

- USDA(2004) dự báo, giai đoạn 1999- 2010 sản xuất và nhu cầu toàn

cầu của một số mặt hàng nông sản chính sẽ tăng trưởng vào khoảng 1,6%/năm

(0,3%/ đầu người). Dự báo giai đoạn 1999- 2010, ở các quốc gia đang phát

triển, sản xuất và tiêu dùng đối với một số mặt hàng nông sản chính sẽ tăng

khoảng 2%/năm, giảm đáng kể so với mức 3,2% của những năm 1990. Như

vậy, so với thập kỷ 90, mức tăng trưởng có xu hướng giảm.

Mặc dù quá trình tự do hóa thương mại được đẩy mạnh song thương

mại toàn cầu của một số mặt hàng nông sản chính tăng trưởng mạnh những

năm 90 sẽ chững lại. Thương mại một số mặt hàng giảm mạnh là : thịt, hoa

quả, một số đồ uống nhiệt đới và phần lớn các mặt hàng nông sản dưới dạng

nguyên liệu thô.

Dự báo, hầu hết thị trường các nước sẽ gần như ở trạng thái cân bằng

vào thời điểm 2010, nhưng vẫn còn nhiều bất ổn phụ thuộc vào điều kiện biến

động của thời tiết, khí hậu. Xu hướng giá trong dài hạn tiếp tục giảm về mặt

tuyệt đối, sự dao động về giá các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới

luôn ở mức độ cao và xảy ra thường xuyên, bởi nguyên nhân chủ yếu là sự bất

ổn định của sản xuất nông nghiệp (sự phụ thuộc vào thiên nhiên).

Nhu cầu về hàng nông sản của các nước đang phát triển sẽ tăng mạnh.

Nguyên nhân chính là GDP bình quân đầu người tăng nên nhu cầu tiêu dùng

cũng tăng lên. Ngược lại, đối với các nước phát triển, mức tăng về cầu lại được

20

dự báo là giảm do mức tiêu dùng hiện tại tương đối cao và tăng trưởng dân số

có xu hướng chậm hơn. Nhu cầu của nhóm lương thực cơ bản ở các nước đang

phát triển được dự báo là tăng 2%/năm trong giai đoạn 1999 - 2010, chậm hơn

so với con số tăng trưởng 3,2% của những năm 90. Ngược lại, nhu cầu tiêu

dùng lương thực ở các nước phát triển được dự báo sẽ tăng 0,9%/ năm, và đối

với các nền kinh tế đang trong giai đoạn quá độ là 1,3%/năm. Tuy nhiên, nhập

khẩu của các nước đang phát triển đối với các mặt hàng được dự báo là sẽ tăng

2,4%/năm trong giai đoạn 1999 - 2010, do đó, sẽ tăng thị phần nhập khẩu hàng

nông sản của họ.

+ Về gạo: Tháng 12 năm 2006, Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo tổng sản

lượng gạo thế giới năm 2006/2007 sẽ đạt 416,379 triệu tấn, tăng 0,21% so với

415,49 triệu tấn của năm 2005/2006. Trong đó, sản lượng gạo của các nước sẽ

đạt như sau (đơn vị: triệu tấn): Banglađét 29,10; Trung Quốc 128,00; Ấn Độ

91,09; Inđônêxia 35,09; Thái Lan 18,25; Việt Nam 22,54. Tổng mức tiêu dùng

gạo toàn cầu năm 2006/2007 dự báo đạt 418,192 triệu tấn, tăng so với 413,215

triệu tấn của năm 2005/2006, và sẽ vượt mức sản lượng, làm cho giá gạo xuất

khẩu tăng lên.

Theo dự báo ngày 13 -10 - 2006 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA),

tổng mậu dịch gạo thế giới năm 2007 sẽ đạt 28,085 triệu tấn, điều chỉnh tăng

225 ngàn tấn so với dự báo hồi tháng 9/2006, và chỉ giảm nhẹ so với 28,141

triệu tấn dự tính đạt của năm 2006. Xuất khẩu gạo của các nước trong năm

2007 sẽ đạt như sau (đơn vị: triệu tấn): Achentina 0,4; Braxin 0,15;

Cămpuchia 0,15; Ấn Độ 4,3; Thái Lan 8,25; Việt Nam 4,7; Mỹ 3,0; Trung

Quốc 1,0; Pakixtan 2,9. Nhập khẩu gạo trong năm 2007 của một số nước dự

báo sẽ đạt như sau (đơn vị: triệu tấn): Bănglađét 0,60; Braxin 0,65; Canađa

0,35; Trung Quốc 0,80; Cuba 0,70; Hồng Công 0,315; Inđônêxia 0,60; Iran

0,90; Irắc 1,2; Nhật Bản 0,65; Malaixia 0,775; Mêhicô 0,60; Nigêria 1,7;

Inđônêxia 1,65; Arập Xêút 1,0; Xênêgan 0,85; Nam Phi 0,80.

Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết, sản lượng gạo toàn cầu vụ 2007/2008 đạt

420,8 triệu tấn gạo trong khi đó tiêu thụ ước đạt 424,5 triệu tấn. Nguồn cung

thiếu hụt so với nhu cầu gần 4 triệu tấn, đây sẽ là yếu tố thúc đẩy giá gạo tiếp

21

tục tăng cao trong thời gian tới. Sắp tới gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo chất

lượng cao. Thị trường xuất khẩu có khả năng mở rộng : Trung Đông, Châu Á,

Mỹ, EU, và các nước Irắc, Cuba, Philippin, Inđônêxia, Malayxia, Singapo.

+ Về cà phê: Tháng 12/2006 Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo tổng sản

lượng cà phê thế giới năm 2006/2007 sẽ đạt 128,6 triệu bao (bao 60 kg), tăng

14,9 triệu bao so với năm 2005/06. Trong đó, sản lượng cà phê sẽ đạt 46,5 triệu

bao, tăng 10,4 triệu bao so với năm 2005/2006. Sản lượng cà phê Việt Nam sẽ

đạt 16,5 triệu bao; Côlômbia 12,2 triệu bao; Inđônêxia 7,1 triệu bao.

Tổng xuất khẩu cà phê trên thế giới năm 2006/2007 dự báo sẽ tăng 8,5

triệu bao (10%) so với năm 2005/06. Trong đó xuất khẩu của Braxin sẽ đạt

27,0 triệu bao và của Việt Nam sẽ đạt 19,8 triệu bao của cuối niên vụ 2005/06. + Về chè: Sản lượng chè năm 2006 giảm sút chủ yếu do hạn hán tại các

nước sản xuất. Sản lượng chè quí I năm 2007 cũng cho thấy xu hướng giảm sút

trong cả năm (ở các nước sản xuất chè lớn: Ấn Độ, Sirilanka, Kenya,...) do

điều kiện thời tiết bất lợi. Tuy nhiên, theo các báo cáo quốc tế, sản lượng chè

thế giới tiếp tục cao hơn so với nhu cầu tiêu thụ, do đó giá chè xuất khẩu cũng

không tăng đáng kể. Trong tương lai, các nước sẽ tập trung sản xuất chè chất

lượng cao, đồng thời giảm diện tích canh tác, từ đó nâng giá chè xuất khẩu lên cao.

Theo dự báo của FAO (tháng 11/2006), tốc độ tăng trưởng thị trường

xuất khẩu chè đen toàn cầu dự báo sẽ tăng 1,3%/năm, đạt 1,4 triệu tấn vào năm

2016 so với tổng lượng chè đen là 2,17 triệu tấn. Kenya là một trong 3 nước

sản xuất chè đen lớn nhất thế giới cùng với Ấn Độ và Sirilanka được dự báo,

trong vòng 10 năm tới xuất khẩu chè đen của Kenya được củng cố bởi sản

phẩm có chất lượng cao sẽ tăng 1,8%/năm, đạt 375 ngàn tấn vào năm 2016.

- Tổ chức lương thực thế giới (FAO) và Tổ chức hợp tác và phát triển

kinh tế (OECD) vừa công bố báo cáo chung “Triển vọng Nông nghiệp 2006 -

2015” cho biết buôn bán nông sản từ nay đến năm 2015 vẫn tiếp tục bị cản trở

do các nước phát triển còn áp dụng trợ giá nông nghiệp và dựng các rào cản

thương mại, vòng đàm phán Doha khởi động từ năm 2001 đang có nguy cơ đổ vỡ.

Nhìn chung, tuy không đạt được mức độ tăng trưởng như thời kì 1991-

1997 nhưng thương mại thế giới trong những năm đầu thế kỷ 21 vẫn sáng sủa

22

hơn thời kì 1998 -2000. Môi trường thương mại thế giới trong những năm tới

cũng tỏ ra khả quan hơn, tuy khó có cơ sở để hy vọng vào một sự khởi sắc

ngay lập tức sau cuộc khủng hoảng vừa qua. Kinh tế thế giới sẽ phục hồi

nhưng với tốc độ chậm khiến cho thương mại thế giới nói riêng sẽ khó có thể

sôi động như thời kì trước năm 1998.

1.3.2. Tiềm năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam

Qua phân tích nghiên cứu, các nhà kinh tế học cho rằng Việt Nam có

đủ 4 yếu tố rất cơ bản về lợi thế trong các hoạt động xuất khẩu nông sản, bao

gồm: vị trí địa lí, nguồn lực lao động, tài nguyên thiên nhiên, chính sách đổi

mới và sự ổn định nền kinh tế vĩ mô.

- Vị trí địa lí: Việt Nam nằm ở vòng cung châu Á - Thái Bình Dương,

nơi diễn ra những dòng giao lưu kinh tế sôi động nhất và đầy hứa hẹn cho

những bước phát triển trong tương lai, như một vòng xung động lực cho quá

trình tạo thế và đà phát triển. Việt Nam nằm trên các tuyến giao thông quan

trọng và có hệ thống cảng biển là cửa ngõ không chỉ đối với nền kinh tế Việt

Nam mà còn đối với nền kinh tế của nhiều quốc gia khác.

- Điều kiện tự nhiên khí hậu và sinh thái của Việt Nam khá đa dạng và

phong phú. Với sự hình thành 7 vùng sinh thái nhau, mỗi vùng có những nét

đặc thù và những thế mạnh (lợi thế) riêng trong phát triển sản xuất nông

nghiệp, với việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi... mà thiên nhiên đã ban tặng

cho Việt Nam. Đặc biệt có những tiểu vùng “sinh thái - khí hậu đặc thù” cho

phép phát triển một số cây đặc sản có giá trị cao, mà ít nơi có được, tạo cho

nông sản Việt Nam có năng suất sinh học cao và những đặc trưng về “hương vị

- chất lượng” tự nhiên, được thế giới ưa thích, là những lợi thế trong cạnh tranh

về tính độc đáo của nông sản Việt Nam. Ở một số vùng đã hội tụ được nhiều

điều kiện thuận lợi cho việc bố trí cây trồng vật nuôi có giá trị xuất khẩu lớn:

+ Vùng cà phê Tây Nguyên: Cà phê Robusta của Việt Nam được trồng

trên diện đất đỏ bazan, với độ cao từ 400 - 700 mét ở vùng cao nguyên Tây

Nguyên, được xếp vào loại có hương vị đậm đà. Theo đánh giá của Hiệp hội tổ

chức của những nước trồng cà phê, cà phê Việt Nam có chất lượng tốt nhất nhì

thế giới, có trên 100 hương vị tự nhiên, chất lượng không thua kém cà phê

23

Braxin và các nước Nam Mỹ khác. Thế giới ngày càng thích sử dụng cà phê

Việt Nam. Với điều kiện sinh thái thuận lợi năng suất cà phê Việt Nam đạt loại

nhóm cao nhất thế giới (năng suất bình quân đạt 1,3 tấn/ha, gấp 2,3 lần năng

suất bình quân thế giới).

+ Vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng: được

đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế giới. Độ màu mỡ và những đặc điểm thời

tiết khí hậu - mùa vụ cho phép ở ĐBSCL và ĐBSH sản xuất lúa quanh năm (3

vụ) trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc chủng, lại

có năng suất cao. Có thể nói sản xuất lúa Việt Nam không thua kém gì với Thái

Lan mà còn đáp ứng được tính đa dạng về chủng loại và phẩm cấp gạo cho thị

hiếu tiêu dùng đa dạng hiện nay trên thế giới.

+ Vùng Đông Nam Bộ: hiện nay được đánh giá là vùng có nền kinh tế

nông nghiệp giàu có của cả nước, nằm trong khu vực kinh tế công nghiệp -

dịch vụ và đô thị lớn nhất của Việt Nam, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa

dạng cho phép bố trí nhiều cây trồng vật nuôi có hiệu quả, nhất là một số cây

như: cao su, cà phê, điều, lúa, ngô, sắn, đậu đỗ các loại

+ Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Là vùng có điều kiện tự nhiên,

sinh thái khá đặc thù, địa hình phức tạp bị chia cắt nhiều. Là vùng có tiềm năng

kinh tế đa dạng cho phép bố trí sản xuất nhiều cây trồng vật nuôi có hiệu quả,

nhất là một số cây như: chè, cà phê, ngô, sắn, đậu đỗ các loại.

Với những đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp có nhiều thuận lợi cơ

bản, chứa đựng những “tiềm năng” về lợi thế cạnh tranh của nông sản trên thị

trường. Đó là: năng suất, chất lượng và chi phí sản xuất thấp,… Nhờ lợi thế

vốn có, mà trong nhiều năm qua tuy xuất khẩu nông sản ở dạng nguyên liệu

thô hoặc có sơ chế, nhưng vẫn có lãi - Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào:

Năm 2006 dân số Việt Nam là 84,1 triệu người, trong đó 22,7 triệu người sống

ở thành thị; 61,4 triệu người sống ở nông thôn (chiếm 60% dân số). Ngành

nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh

doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng năm nước ta

phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động.

Người Việt Nam không chỉ đông mà còn thông minh, có khả năng tiếp thu

24

nhanh chóng khoa học công nghệ. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam lại

rẻ, thấp hơn nhiều lần so với các nước khác trong khu vực: chỉ bằng khoảng

1/3 Thái Lan, 1/30 của Đài Loan, 1/26 của Singapor. Tất nhiên lợi thế này sẽ

không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới .

- Đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước

Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (từ Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI năm 1986) đến nay, nền kinh tế - xã hội Việt Nam đã đạt được

những thành tựu đáng kể. Kinh tế nông nghiệp không ngừng tăng trưởng, đời

sống nông thôn từng bước được khởi sắc, nền kinh tế - xã hội trở nên năng

động và linh hoạt. Kinh tế đối ngoại được tăng cường và phát triển trên mọi

lĩnh vực: hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, hợp tác và tham gia vào các tổ

chức quốc tế. Chính sự ổn định về chính trị và đổi mới các chính sách đã tạo cơ

hội cho quá trình phát triển nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện đường lối

đổi mới luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện các chính sách, tạo môi trường

kinh tế thuận lợi, cho yêu cầu của sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã hội.

Sau 20 năm qua thực hiện chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc

trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn, sản xuất nông nghiệp ở nước ta phát

triển ổn định và tăng trưởng nhanh. Nông nghiệp Việt Nam từng bước chuyển

từ sản xuất tự túc, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng và hướng

mạnh ra xuất khẩu. Trong 9 năm qua (từ 1990-1999), KNXK nông lâm sản đã

tăng 3,3 lần, từ 909 triệu USD lên trên dưới 3 tỷ USD. Một số mặt hàng đã có

khả năng cạnh tranh và chiếm vị thế đáng kể trên thị trường thế giới như : gạo,

cà phê, điều, tiêu...và có tỷ lệ xuất khẩu cao : cà phê, điều, tiêu trên dưới 95%,

cao su 85%, chè 65%, lúa gạo 20%...

Một số thị trường lớn của nông lâm sản xuất khẩu Việt Nam :

Trung Quốc (cả HongKong): Thị trường lớn, gần, tiêu thụ rất nhiều loại

nông sản, thị hiếu gần với sản phẩm của nước ta. Kim ngạch xuất sang Trung

Quốc thường đạt khoảng 400 - 500 triệu USD/năm. Các mặt hàng xuất khẩu

chủ yếu là cao su trên 100.000 tấn; gạo từ vài chục ngàn tấn đến vài trăm ngàn

tấn; hạt điều khoảng 10.000 tấn; rau quả các loại trên 100 triệu USD,...

25

Các nước ASEAN: Gần nước ta về địa lý, nên nhu cầu và thị hiếu tiêu

dùng nông sản gần gũi với Việt Nam. Gạo là mặt hàng chính xuất sang 3 nước:

Indonexia, Malaysia và Philippiness với sản lượng từ 1 triệu tới 3 triệu tấn mỗi

năm. Các mặt hàng khác: cao su, hồ tiêu, hạt điều, cà phê,... xuất sang các

nước này chủ yếu qua trung gian Singapore, Thái Lan... Tổng kim ngạch xuất

khẩu năm 2000 sang ASEAN đạt gần 500 triệu USD.

Các nước Trung Đông (Iraq, Iran...) đang tiêu thụ nhiều loại nông sản

của Việt Nam như : gạo, chè, quế,... Kim ngạch đạt gần 200 triệu USD/năm.

Các nước EU: Với thị trường này, kim ngạch xuất khẩu khoảng 300 -

350 triệu USD/năm; chủ yếu là cà phê, gạo, cao su, hồ tiêu, hạt điều, chè, và

một số quả nhiệt đới đã chế biến.Nga và các nước Đông Âu: Hiện nay, XKNS

sang các nước này giảm đi so với trước do rủi ro cao, phải cạnh tranh với nhiều

nước như EU, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ... KNXK đạt khoảng 50 - 60 triệu USD/năm,

chủ yếu là gạo, cao su, cà phê, chè, thịt, hồ tiêu, rau quả...Đây là các thị trường

truyền thống đã từng tiêu thụ một lượng lớn hàng nông sản Việt Nam, nhưng

số lượng nhập khẩu nông sản đã giảm từ sau sự kiện 1991, đến nay các thị

trường này đang phục hồi do nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng. Vì thế chính

sách hỗ trợ xuất khẩu vào thị trường này đối với một số mặt hàng như thịt, rau

quả, gia vị, chè...là cần thiết.

Mỹ: KNXK mới đạt trên 100 triệu USD/năm, trong đó cà phê, điều, hồ

tiêu chiếm khoảng gần 90%. Dung lượng lớn, chủng loại đa dạng và yêu cầu

về tiêu chuẩn, chất lượng không quá khắt khe như các nước phát triển khác.

Hiệp định thương mại Việt- Mỹ một điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản

Việt Nam xâm nhập thị trường này. Việc Mỹ thông qua Quy chế thương mại

bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam trong năm 2006 càng tạo thêm cơ

hội cho việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.

Nhật : KNXK nông sản Việt Nam vào thị trường này mới ở mức 40 -

50 triệu USD/năm với các mặt hàng chủ yếu là: cà phê, cao su, chè, tơ tằm và

một số rau quả chế biến, nấm, điều, lâm sản,... Nhật là thị trường đòi hỏi chất

lượng cao, nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh dịch tễ, hàng rào

bảo hộ cho sản xuất nông nghiệp rất cao.

26

1.4. Kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong sản xuất nông nghiệp,

đặc biệt đối với lĩnh vực XKNS như: Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia,...

cho thấy Chính phủ các nước rất quan tâm tới việc phát triển các ngành nông

sản xuất khẩu. Đặc biệt nhiều nước xây dựng những chiến lược riêng đối với

từng ngành có lợi thế, để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả. Sự quan tâm đó

thể hiện thông qua các chủ trương phát triển các vùng sản xuất tập trung cho

xuất khẩu, hay nói cách khác là xúc tiến việc sản xuất trên qui mô lớn, tạo lợi

thế về qui mô. Các đơn vị sản xuất qui mô lớn sẽ được hình thành hệ thống

ngành sản xuất gắn liền với các cơ sở sản xuất. Các thương nhân cũng rất tự

nguyện đầu tư công nghệ, các phương tiện chế biến và tiếp thị cho các chủ

trang trại nhỏ để nắm nguồn hàng, hình thành một cách có hệ thống để thực

hiện chiến lược ngành hàng và tạo vị thế nâng cao sức cạnh tranh.

1.4.1. Kinh nghiệm của Đài Loan:

Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá ở Đài Loan, nông nghiệp vẫn còn

chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thu nhập quốc dân. Đài Loan chọn nông

nghiệp, nông thôn làm xuất phát điểm để phát triển kinh tế: trong thời điểm

tương đồng và với những điều kiện tương đồng (những năm 50-60, bắt đầu thời

kì xây dựng đất nước sau chiến tranh). Trong khi nhiều nước khác lựa chọn

con đường “đi trước, đón đầu” bằng việc phát triển công nghệ (kết quả là đã

thất bại), Đài Loan lại xác định “lấy nông nghiệp làm nền tảng phát triển kinh

tế”. Đây là lựa chọn chính xác, đặt nền móng cho hàng loạt thành công sau

này,…

Đài Loan ý thức rất mạnh về tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc

tế đến phát triển kinh tế trong nước: ngay từ những năm 60, Đài Loan đã đặc

biệt chú trọng vấn đề xuất khẩu, xác định rõ thế mạnh xuất khẩu trong từng

giai đoạn, chú trọng xây dựng thị trường xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu. Cùng

với nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm có vai trò quan trọng trong

xuất khẩu thu ngoại tệ - một hoạt động cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá,

làm tăng giá trị sản xuất và nâng cao lợi nhuận trong tiêu thụ. Được đảm bảo

về thu nhập, nông dân yên tâm sản xuất và có thể cung cấp nguyên liệu đều

27

đặn cho ngành chế biến nông sản (giai đoạn này, nông sản là nguồn xuất khẩu

chính, chiếm gần 92% tổng giá trị xuất khẩu). Xuất khẩu chủ yếu của ngành

chế biến thực phẩm Đài Loan là công nghệ đồ hộp thực phẩm (dứa hộp, nước

uống hộp, thịt hộp,…) với giá trị xuất khẩu chiếm tới 90% toàn ngành. Để đảm

bảo uy tín của ngành công nghệ chế biến đồ hộp và tránh tình trạnh hỗn loạn

trong sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ Đài Loan đã đặt ra những tiêu chuẩn về

các cơ sở đóng hộp và tiêu chuẩn cho xuất khẩu. Đến nay ngành chế biến thực

phẩm đồ hộp có cả một hệ thống và mạng lưới rất hữư hiệu với công nghệ tiên

tiến đáp ứng thoả mãn các điều kiện để tham gia xuất khẩu.

Trước đây, ở Đài Loan nhiều cây trồng như: cây dứa thường được trồng

xen trong các vườn cây ăn quả như một thứ cây trồng phụ, do vậy chất lượng

qủa rất kém và hay bị sâu bệnh. Thực hiện chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ

cho sản xuất với trợ giúp kỹ thuật và vốn, tín dụng của các tổ chức nông nghiệp

Chính phủ, việc trồng chuyên canh, thâm canh dứa với những qui trình kỹ

thuật cẩn thận đã được sự chỉ đạo quản lý chặt chẽ dưới sự hỗ trợ của Chính

Phủ có hiệu quả kinh tế cho nông dân. Thêm vào đó là Chính phủ có những

khoản trợ giá cho những nông trường dứa lớn, có phần thưởng cho dứa chất

lượng cao đã khuyến khích được việc sản xuất theo mục tiêu.

Để khắc phục tình trạnh các nhà máy đóng hộp cạnh tranh trong việc

mua nguyên liệu - kết quả là có một số quả không đủ phẩm chất tiêu chuẩn

xuất khẩu lọt vào hộp dẫn đến chất lượng thấp của sản phẩm đồ hộp, mỗi nhà

máy được giao một hạn ngạch sản xuất dưạ trên ước tính về thu hoạch quả và

con số xuất khẩu của nhà máy đóng hộp đó. Chỉ có những nhà máy nào có cơ

sở cung cấp nguyên liệu của chính mình mới có thể tham gia vào hoạt động

xuất khẩu.

Vào thời kỳ khan hiếm trong những dịp mùa vụ đã hình thành những

nhà trung gian đầu cơ tích trữ hàng. Đối phó với tình hình này, các công ty lớn

thường lập hệ thống thu mua riêng của mình. Các công ty (caphê, cao su, hoa

quả) của Đài Loan đã thành lập “Văn phòng nông trại trung tâm”. Văn phòng

này có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về tình hình mùa màng. Hệ thống thu mua

từ nông dân được thành lập ở những vùng trồng. Hệ thống này đã chứng minh

28

được tính hiệu quả trong việc thu mua nguyên liệu và sự nhạy cảm trong giải

quyết các biến động của sản xuất và thị trường.

Đối với các nhà trung gian vì mục tiêu kiếm lời vẫn có các hiện tượng

mua “non” ngay cả khi nông sản còn xanh hoặc mới khi vào mùa, gây ảnh

hưởng đến chất lượng và giá cả. Chính phủ đã có tác động đến việc hình thành

những hợp đồng chung về thu mua nguyên liệu giữa các nhà máy đóng hộp và

chế biến xuất khẩu và phân phối nguyên liệu cho các nhà máy dưới cùng một

tổ chức “Hiêp hội ngành”, tránh những hiện tượng tập trung đầu cơ, tích trữ

hàng hóa, làm biến động giá cả thị trường.

Chính phủ cũng như các công ty kinh doanh rất chú trọng đến công tác

nghiên cứu khoa học. Các kết quả nghiên cứu được phổ biến cho các nhà sản

xuất, công chúng qua các tạp chí cũng như các cuộc trình diễn.

Do tiến bộ kĩ thuật nông nghiệp, các loại sản phẩm mới được mở rộng,

nông sản xuất khẩu đã được đa dạng hóa, chủ yếu có hoa cây cảnh, cây giống,

thóc gạo đã qua gia công chế biến, thực phẩm đã qua xử lý,...Trong tương lai,

các sản phẩm trên vẫn là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của Đài Loan.

Kinh nghiệm thành công trong ngành chế biến cho thấy Chính phủ có

vai trò rất quan trọng phát triển nông nghiệp. Bên cạnh việc liên kết có tính

chiến lược giữa những nhà sản xuất, quyền lực của Chính phủ giúp xây dựng

nên những luật lệ cơ bản, những tiêu chuẩn kỹ thuật, những yêu cầu cần thiết

về xuất khẩu và nhiều biện pháp khác, để giúp các nhà sản xuất đi đúng hướng.

Hỗ trợ của Chính phủ còn thể hiện sự đầu tư cho những nghiên cứu cơ bản

giúp xây dựng một nền tảng cho ưu thế cạnh tranh lâu dài.

Ngoài ra chính quyền Đài Loan đặc biệt chú trộng tới hoạt động

maketting nông sản, coi đây là hoạt động mang tính quyết định trong tổng thể

phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu song song với củng cố thị trường

trong nước. Nhìn chung hệ thống maketting nông sản Đài Loan đã đạt trình độ

cao. Đài Loan đã có hệ thống đường xá thuận tiện, đường sắt, đường không để

vận chuyển nông sản từ nông trại tới các tỉnh và thành phố. Điều này giúp cho

hàng hóa được vận chuyển xa hơn nữa từ nông trại sản xuất tới tận nơi tiêu thụ.

Các máy móc tiết kiệm lao động trong các nhà máy chế biến liên tục được cải

29

tiến, quy mô nhà máy mở rộng, giúp nâng cao hiệu quả của hệ thống

maketting.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ “đặt nền móng cho phát triển kinh tế”,

nhường chỗ cho tỷ trọng ngày càng tăng của các ngành công nghiệp và dịch

vụ, sau năm 1965 tỷ lệ và giá trị NSXK đã giảm đáng kể trong tổng giá trị xuất

khẩu (từ 60% năm 1965 xuống còn 21%năm 1970, còn 5% năm 1995 và

2,55% năm 1999). Điều đáng chú ý là: mặc dù tỷ trọng giảm nhưng kim ngạch

XKNS vẫn tăng đều đặn với tốc độ cao. (năm 1965 KNXK nông sản là 260,1

triệu NT; 1995: 5619,2 triệu NT, 1999: 3101,6 triệu NT). Hiện nay Đài Loan

có nền kinh tế nông nghiệp tương đối phát triển ở khu vực Châu Á.

1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là nước có đất tự nhiên rộng và số dân cao nhất thế giới,

nhưng đất canh tác so với diện tích tự nhiên nhỏ (10,8%), đất canh tác bình

quân đầu người rất thấp (0,11 ha/người). Tuy vậy, nông nghiệp của Trung

Quốc trong thời gian dài liên tiếp được mùa và đã đạt được những thành tựu rất

quan trọng: Trung Quốc là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới chiếm 1/3 lượng

gạo toàn cầu. Xuất khẩu gạo năm 1994 của Trung Quốc đạt 1,5 triệu tấn, song

những năm sau đó giảm nhiều do nhu cầu về gạo trong nước rất lớn. Từ năm

1998 trở lại đây sản lượng gạo Trung Quốc không đủ tiêu dùng. Diện tích

trồng lúa của Trung Quốc có xu hướng giảm kể từ niên vụ 1999/2000 và do đó,

xuất khẩu cũng bắt đầu giảm, chuyển sang nhập khẩu thuần. (2002 xuất khẩu

2,0 triệu tấn gạo; 2005: 0,75 triệu tấn; 2006: 0,6 triệu tấn).

Trung Quốc là một trong những cái nôi của cây chè, cũng là nước sản

xuất chè lâu đời. Đến nay, Trung Quốc là nước có tổng diện tích trồng chè lớn

nhất thế giới (khoảng 1,1 triệu ha, diện tích thu hoạch hoặc kinh doanh: 898

ngàn ha, năm 2003), có trên 1000 giống chè được trồng ở đây. Trung Quốc là

nước sản xuất chè xanh lớn nhất thế giới (75% thị phần chè xanh thế giới, sản

lượng khoảng 500.000 tấn/năm). Trung Quốc cũng là nước sản xuất và xuất

khẩu chè lớn thứ hai trên thế giới, sau Ấn Độ. Phần lớn việc mua bán chè xanh

được thực hiện giữa các thương nhân Trung Quốc ở trong nước và Hoa Kiều ở

nước ngoài, hình thành một cộng đồng sản xuất và kinh doanh chè xanh trên

30

thế giới. Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một lợi thế rất lớn của nước này

trong việc thâm nhập thị trường chè các nước phát triển. Ngay từ năm 2000,

trong 30 thị trường chè lớn nhất của Trung Quốc đã có đến 7 thị trường tiêu thụ

với khối lượng lớn (từ hơn 10.000 tấn đến 43.000 tấn), bao gồm Morocco,

Nhật Bản, Hoa Kỳ, Uzbekistan, Senegal, Pháp, Hồng Kông; trong đó, có

những thị trường khó tính như Nhật Bản đã mua tới trên 3,2 vạn tấn với mức

giá trung bình khá cao (2.249 USD/tấn). Đáng chú ý là, chỉ riêng thị trường

này đã và mang lại thu nhập ngoại tệ tới gần 74 triệu USD, cao hơn toàn bộ

xuất khẩu và thu nhập ngoại tệ về chè của Việt Nam cùng thời điểm (Việt

Nam: 55.700 ngàn tấn, trị giá 69,6 triệu USD).

Các loại cây trồng như đậu đỗ, rau quả của Trung Quốc cũng chiếm tỷ

trọng lớn về diện tích gieo trồng và sản lượng. Đặc biệt các loại cây công

nghiệp như cây có đường (mía), cây lấy sợi (bông), cây có dầu và các cây công

nghiệp khác cũng đươc trồng chủ yếu ở Trung Quốc.

Sở dĩ đạt được những thành tựu quan trọng trong sản xuất và XKNS vì

Trung Quốc đã tập trung đầu tư có hiệu quả và áp dụng một số chính sách phù

hợp cho lĩnh vực này. Biểu hiện :

+ Trung Quốc đã giải quyết tốt vấn đề ruộng đất, một vấn đề hết sức

nhạy cảm đối với nông dân và nông thôn, phát triển kinh tế hộ nông dân với

các mô hình phong phú dựa trên quyền tự chủ sản xuất của nông hộ (khoán sản

phẩm), tạo ra bước phát triển mới trong nông nghiệp.

+ Trung Quốc đã có sự điều chỉnh về các hình thức tổ chức sản xuất:

sau khi giải thể các công xã nhân dân, khi hộ nông dân trở thành các chủ thể

mới của sản xuất nông nghiệp, Trung Quốc đã hình thành các tổ chức dịch vụ

phục vụ nông nghiệp (các hợp tác xã tín dụng, mua bán, công ty cổ phần làm

dịch vụ cung cấp vật tư, kỹ thuật cho nông dân).

+ Trung Quốc là nước đi sau trong hiện đại hoá nông nghiệp so với các

nước ở khu vực Bắc Á, nhưng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Bởi vì,

Trung Quốc đã nhận thức tầm quan trọng của hiện đại hoá nông nghiệp và đã

có sự đầu tư thích đáng cho nông nghiệp. Trung Quốc đã đầu tư Nghiên cứu và

ứng dụng rộng rãi các giống lai, góp phần đưa sản lượng nông nghiệp tăng

31

nhanh. Từ năm 2004 Trung Quốc đã nghiên cứu ra loại giống lúa biến đổi gien

nhằm giúp cho cây trồng chống lại sâu bệnh có khả năng chịu đựng một loại

thuốc diệt cỏ có tên là Roundup, có thể tăng năng suất 20%. Tuy dân số đông,

nhưng Trung Quốc vẫn đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp, vì Trung Quốc đã

lựa chọn chiến lược phát triển nông thôn theo hứơng công nghiệp hoá với khẩu

hiệu “ly nông, bất ly hương”, hình thành nên các vùng công nghiệp mới ở các

vùng nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để thu hút lao động

nông nghiệp.

+ Trung Quốc đã dùng sức mạnh tổng hợp để phát triển các cơ sở hạ

tầng cho nông nghiệp, nông thôn, trong đó vừa phát huy nguồn vốn ngân sách

Nhà nước, vừa phát huy nguồn nhân lực ở nông thôn bằng các chiến dịch xây

dựng thuỷ lợi, giao thông.

+ Trung Quốc đã có những chính sách khuyến khích sản xuất nông

nghiệp theo hướng xuất khẩu, như tập trung sản xuất các sản phẩm có ưu thế

như ngũ cốc, cây công nghiệp (chè) chăn nuôi đại gia súc và chăn nuôi lợn, tập

trung nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, đặc biệt đã có

những ưu tiên cho những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao như các loại

giống lai (lúa lai, ngô lai), áp dụng chính sách “tam nông” trong nông nghiệp

(năm 2004). Chính phủ Trung Quốc tăng cường định hướng thị trường cho

người sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra hàng rào hạn chế áp lực cạnh tranh từ

bên ngoài, tạo mọi điều kiện cho việc tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua

hợp đồng phát triển.

+ Có những chính sách ưu tiên cho XKNS như : chính sách hạ thấp

thuế xuất khẩu, đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu, kể cả hình thức xuất khẩu

phi mậu dịch; hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu được tiếp cận các dịch vụ tín

dụng, bảo hiểm, miễn giảm thuế giá trị gia tăng,...

1.4.3. Kinh nghiệm của Malaysia:

Trong những cố gắng xúc tiến phát triển nhanh chóng công nghiệp,

Chính phủ Malaysia đưa ra những khuyến khích về mặt tài chính đầy sức hấp

dẫn, những khuyến khích đầu tư, khuyến khích về thuế nhằm hỗ trợ và bảo hộ

cho người sản xuất.

32

Malaysia có thế mạnh và tiềm năng về sản xuất chế biến cao su. Chính

vì vậy Chính phủ đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp

như : hỗ trợ tài chính, công nghệ, kỹ thuật,... Các vụ chức năng trực thuộc Bộ

Nông nghiệp còn thực hiện các dịch vụ tư vấn cho sản xuất và tiếp thị cho các nhà

quản lý.

Ở Malayxia còn có Hội đồng ngành cây cao su được thành lập nhằm

mục đích xúc tiến sự liên kết giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Mạng lưới của

Hội đồng gồm các đại diện của các Bộ, Cục, các Công ty, các Trường đại học

và các đơn vị tư nhân có liên quan tới sự phát triển của ngành cao su, tạo nên

liên kết có trách nhiệm trong sản xuất - nghiên cứu và xuất khẩu.

Malaysia còn thực hiện những chính sách khuyến khích về tài chính và

tiền tệ nhằm phát triển việc trồng, chế biến, xuất khẩu các loại nông sản có lợi

thế trên qui mô lớn. Các công ty (bao gồm các hợp tác xã, các tổ hợp nông

nghiệp, các nông hội, các công ty cổ phần,...) muốn tham gia vào việc trồng

cây để bán đều có quyền được hưởng các khuyến khích vể thuế (ví dụ : các đơn

vị mới tham gia kinh doanh được khuyến khích miễn giảm thuế trong 5 năm kể

từ khi bắt đầu thực hiện).

Đối với các dự án nông nghiệp đã được chấp thuận, nghĩa là đã được

Bộ tài chính thông qua, chi phí cơ bản ban đầu cũng được khấu trừ trong

trường hợp: khai hoang, trồng mới, xây dựng đường xá, cầu cống ở nông thôn,

xây dựng công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu. Các dự án này có quyền được

hưởng chính sách thuế đặc biệt, trong đó Chính phủ quy định rõ đối với từng

loại cây, khoảng thời gian và diện tích tối thiểu được hưởng.

Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ đã đưa ra những khuyến khích trợ

giúp xuất khẩu như: trợ giúp phí tổn khi xúc tiến việc XKNS, trợ giúp các nhà

xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường mới, trợ giúp trong việc xây dựng các

kho chứa, bảo quản và tín dụng đổi mới công nghệ. Đối với lĩnh vực chế biến,

Chính phủ áp dụng những khuyến khích như: với công ty mới thành lập, được

hưởng sự giảm thuế trong 5 năm đầu, kể từ ngày bắt đầu sản xuất. Vấn đề này

được Bộ Thương mại và Công nghiệp họp bàn và xác định trên cơ sở các tiêu

chuẩn về giá trị của tài sản chung (bao gồm cả đất đai); số nhân công cố định

33

trong thời gian dài; và tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - kỹ thuật của đất

nước. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm đã chế biến (như các nhà xuất khẩu, các

công ty chế biến, các công ty thương mại) được hưởng chính sách khuyến

khích như trợ cấp xuất khẩu, cấp vốn tín dụng xuất khẩu với lãi suất có thể

giúp cho họ cạnh tranh hữu hiệu hơn trên thị trường quốc tế. Chính phủ cũng

miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp và chế biến

nông sản.

1.4.4. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực ASEAN, có diện tích

canh tác 19,62 tr. ha, gấp 2,62 lần nước ta (bình quân đất canh tác trên đầu

người gấp 4 lần so với Việt Nam). Cách đây 25 năm Thái Lan là một nước

nông nghiệp lạc hậu, nhưng hiện nay là một nước phát triển trong khu vực, có

mức thu nhập bình quân đầu người cao gấp nhiều lần Việt Nam. Bằng chính

sách đổi mới Thái Lan đã chấp nhận những biện pháp đặc biệt để giải quyết

tình hình tụt hậu của đất nước. Trong kế hoạch 5 năm (1977 - 1981), Chính

phủ triển khai chiến lược Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, thực hiện

chủ trương đa dạng hoá nền kinh tế hướng vào sản xuất sản phẩm cho xuất

khẩu. Do vậy tiềm năng trong nông nghiệp được khai thác và phát huy triệt để,

sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn (vào những năm

đầu thập niên 80), Thái Lan đã là một nước xuất khẩu gạo, sắn, cao su, mía

đường thuộc vào những nước hàng đầu thế giới.

Ở Thái Lan công nghiệp chế biến nông sản khá phát triển. Nhờ vậy, giá

trị nông sản được nâng cao và hàng hoá trở nên có sức cạnh tranh hơn trên thị

trường thế giới. Hiện nay nông sản Thái Lan tương đối có uy tín và đang được

tiêu thụ trên 100 nước khắp các châu lục trên thế giới. Thái Lan dẫn đầu thế

giới về xuất khẩu gạo: năm 2001, chiếm 31% thị phần xuất khẩu gạo của thế

giới và đạt mức cao nhất 37% vào năm 2004 (trong khi đó, thị phần xuất khẩu

gạo của Việt Nam là 14% năm 2001, và đạt mức 16% năm 2004).

Trong thành công của chiến lược XKNS, phải kể đến sự đóng góp to

lớn của phát triển công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm, nâng cao được chất

lượng sản phẩm, vì thế nông sản của Thái Lan có sức cạnh tranh cao và khá ổn

34

định. Thái Lan rất chú trọng đầu tư trang thiết bị dây chuyền công nghệ chế

biến tiên tiến, đảm bảo điều kiện vận tải, kỹ thuật đóng gói hiện đại và đặc biệt thoả

mãn được các yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn chất lượng của EU, Mỹ, Nhật.

Ngoài ra, Chính phủ cũng chú trọng đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp như

cố gắng ổn định giá vật tư, cho vay vốn ưu đãi lãi suất thấp. Chính phủ cho

rằng đó là những khoản đầu tư then chốt để chuyển dịch cơ cấu theo định

hướng phát triển. Từ những vấn đề trên cho thấy vai trò chính sách rất quan

trọng đối với việc tạo lập những ngành và sản phẩm mũi nhọn, để tăng sức

cạnh tranh trên thương trường. Ta có thể rõ vấn đề này đối với sản xuất lúa gạo

Thái Lan: Thái Lan là nước có tiềm năng sản xuất lúa tương đương với nước

ta, song KNXK gạo của Việt Nam chỉ bằng 50 -60% kim ngạch xuất khẩu gạo

của Thái Lan. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thành công trong lĩnh vực

xuất khẩu gạo của Thái Lan là:

Thái Lan chú ý nâng cao năng suất và sản lượng, giảm tối đa chi phí

nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới; đổi mới cơ cấu sản xuất

nông nghiệp, trong đó, chú trọng tới khâu xử lý sau thu hoạch, bảo quản, tập

kết hàng. Thái Lan động viên nông dân thay đổi tập quán canh tác, hạn chế sử

dụng hóa chất nhằm bảo vệ môi trường và phù hợp yêu cầu, tiêu chuẩn của thị

trường những quốc gia phát triển.

Thái Lan chấn chỉnh hệ thống thông tin, dữ liệu nông nghiệp để phục

vụ tốt khâu lựa chọn cây trồng thay vì thói quen thuần túy dựa theo biến động

giá hàng để sản xuất. Trong đó, quan tâm tới thông tin về nhu cầu của các thị

trường cũng như diễn biến của các đối thủ cạnh tranh.

Thái Lan xây dựng hệ thống báo động tự động thương mại. Bộ thương

mại chủ trương đóng các cơ quan thương vụ thường trú ở các địa điểm trên thế

giới, đặc biệt là ở những quốc gia bạn hàng quan trọng, bám sát thị hiếu của

người tiêu dùng, phát hiện sớm những nảy sinh bất lợi cho hàng nông sản của

Thái và những điều chỉnh chính sách nhập khẩu của nước sở tại. Mọi phát hiện

về các dấu hiệu bất thường sẽ được báo cáo ngay về Bộ Thương mại để thông

báo đến các nhà xuất khẩu có liên quan. Với hình thức này, Thái Lan hy vọng

giảm thiệt hại cho doanh nghiệp của Thái Lan cũng như góp phần cảnh báo để

35

các nhà sản xuất kịp thời có biện pháp điều chỉnh thích hợp, đảm bảo sản phẩm

đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Thái Lan thực hiện liên kết thành công với các quốc gia nông nghiệp

khác để giữ giá NSXK trên thị trường thế giới.

Chính phủ Thái Lan còn có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu

gạo như: bỏ chế độ hạn ngạch; không thu thuế xuất khẩu, nhà xuất khẩu chỉ

phải nộp thuế lợi tức nếu có; tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh

được vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi; khi cần thiết được Chính phủ hỗ trợ

việc xuất khẩu, định hướng thị trường chủ yếu, can thiệp để ký những hợp

đồng lớn,....Với những chính sách hỗ trợ cần thiết cho các ngành XKNS, Thái

Lan đã nâng cao được khả năng cạnh tranh và vị thế của mình trên thị trường

quốc tế.

***

Từ kinh nghiệm của các nước trong quá trình phát triển nông nghiệp và

xây dựng các ngành hàng NSXK cho thấy, sự tăng trưởng của nền nông nghiệp

nói chung, của các ngành NSXK nói riêng, ở các nước này đều dựa vào 4 yếu

tố cơ bản: chính sách; khoa học và công nghệ; vốn đầu tư và thị trường. Trong

đó yếu tố chính sách và khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định, tạo nên

những động lực cho sự phát triển. Có thể rút ra một số nhận xét sau :

1. Thành công của các nước này, trước hết là ở chỗ đã xác định đúng vị

trí đặc biệt quan trọng của nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm điểm khởi đầu để

phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Chính phủ các nước đã kiên trì theo

đuổi chiến lược đó. Tập trung nỗ lực cho phát triển nông nghiệp để tạo đà và

đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chiến lược CNH, HĐH hướng ra

xuất khẩu.

- Thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở phát huy các

lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu là con

đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nông nghiệp, trong đó chú

trọng tới việc phát huy lợi thế về quy mô tạo thành những vùng chuyên canh

tập trung sản xuất lớn, có tỷ suất hàng hoá cao.

36

- Trong điều kiện các tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng,

thì trọng tâm của chính sách kinh tế nhằm hiện đại hoá đất nước theo hướng

chuyển sang các ngành sản phẩm công nghệ cao được các nước theo đuổi.

Chính phủ các quốc gia có chính sách đầu tư kịp thời và đồng bộ cho công

nghệ chế biến, đổi mới công nghệ sinh học, bảo quản và đa dạng hoá các sản

phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của

người tiêu dùng, hạ giá thành sản phẩm. Các nước còn chú ý tới thông tin về

nhu cầu của các thị trường cũng như diễn biến của các đối thủ cạnh tranh để

phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị hiếu của thị trường về hình thức,

chất lượng của hàng hoá nhằm nâng cao lợi thế trong cạnh tranh. Ngoài ra

Chính phủ còn có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp phục

vụ XKNS.

2. Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục tiêu đã đề

ra trong từng thời kỳ nhất định. Đặc biệt đối với các NSXK, các nước bước đầu

đều có chính sách bảo hộ các chương trình hỗ trợ đặc biệt, để tạo dựng ngành

hàng xuất khẩu như: chương trình trợ giúp khoa học công nghệ, vốn,...

3. Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều

tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả: ổn định giá vật tư, liên kết giữ giá

NSXK,...

4. Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất -

tiêu thụ - xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường mới.

Đồng thời rất chú ý công tác đào tạo, được xem là một trong những nhân tố

quyết định thành công và ngày nay càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh

nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới mọi hoạt động

của nền kinh tế - xã hội.

Tóm lại, với yêu cầu phân tích khái quá nhận thức về XKNS và tình hình XKNS trên thế giới, chương 1 đã làm rõ: XKNS là một hoạt động kinh tế rất quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. XKNS cho phép các nước đang phát triển phát huy tốt nhất những lợi thế so sánh ban đầu của mình, do đó làm cho tiến trình CNH, HĐH diễn ra hiệu quả hơn. Sự gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế, quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại tác động đến xu hướng thương mại hàng nông sản trên thế giới, làm cho việc

37

XKNS thường xuyên có nhiều biến động, đem đến nhiều thách thức cho các quốc gia có tham gia XKNS. Việt Nam là một nước nông nghiệp có đầy đủ các yếu tố thuận lợi trong các hoạt động XKNS. Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình đổi mới đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh XKNS. Một trong những biện pháp cần thiết để thúc đẩy hoạt động XKNS đó là học hỏi và vận dụng kinh nghiệm của các nước khác trong điều kiện của đất nước mình, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.

38

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG

SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

2.1. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian qua.

2.1.1. Động thái của xuất khẩu nông sản trong thời gian qua.

Là một nước nông nghiệp đang tiến trình CNH, HĐH, xuất khẩu nông

sản chiếm vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu nước ta. Đẩy

mạnh XKNS có ý nghĩa kinh tế xã hội vô cùng to lớn đối với đời sống hàng

chục triệu bà con nông dân.

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập

khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của qúa trình hội nhập quốc tế

và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Hoạt

động xuất nhập khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn lực,

tạo thêm vốn đầu tư đối với công nghệ, tăng thêm việc làm thúc đẩy nhanh quá

trình CNH, HĐH đất nước. Trong hơn 15 năm qua, lĩnh vực XKNS của Việt

Nam đã giành được nhiều thành tựu đáng kể, tổng kim ngạch XKNS của cả

nước ngày một tăng, năm sau tăng hơn năm trước. Nếu như năm 1991 tổng

KNXK cả nước đạt 2087,1 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 14482,7 triệu USD

tăng gấp 6,94 lần, năm 2005 là 32442,0 triệu USD tăng gấp 15,5 lần so với

năm 1991. Trong đó KNXK hàng nông sản năm 1991 đạt 628,0 triệu USD đến

năm 2003 là 2672,0 triệu USD tăng gấp 4,25 lần so với năm 1991. Riêng năm

2005, xuất khẩu được cả mùa lẫn giá ở hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực:

KNXK nông lâm sản đạt 5663,8 triệu USD, tăng gần 29% so với KNXK nông

lâm sản năm 2004. Năm 2006 tuy có nhiều khó khăn vì sản lượng nhiều mặt

hàng nông sản tới ngưỡng song KNXK nông, lâm, thủy sản vẫn tăng được

18,6% (hơn 1,4 tỷ USD). Tuy nhiên yếu tố giá (mà chủ yếu là giá thế giới tăng

mà ta đã tận dụng được) đã đóng góp tới gần 58% mức tăng nói trên. Năm

2006, xuất khẩu một số mặt hàng nông sản tăng mạnh, do phát triển nông

nghiệp đúng hướng, đồng thời giá thế giới tăng cao, có thêm cao su và cà phê

đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (trong đó kim ngạch cao su tăng cao

nhất +58,3%; cà phê tăng tới 49,9% hoàn toàn do được lợi về giá).

39

Biểu 2.1: Trị giá xuất khẩu nông sản Việt Nam:

Đơn vị tính: triệu USD

Hàng nông sản

Tỷ trọng

Năm Tổng số Tốc độ tăng hàng nông

Trị giá trưởng sản/ tổng

KNXK (%) số(%)

2087,1 628,0 30,1 1991

2580,7 827,6 31,78 32,1 1992

2985,2 919,7 11,13 30,8 1993

4054,3 1280,2 39,2 31,6 1994

5448,9 1745,8 36,37 32,0 1995

7255,9 2159,6 23,70 29,8 1996

9185,0 2231,4 3,33 24,3 1997

9360,3 2274,3 1,92 24,3 1998

11541,4 2545,9 11,94 22,1 1999

14482,7 2563,4 0,7 17,7 2000

15029,0 2421,3 - 5,5 16,1 2001

16706,1 2396,6 -1,02 14,3 2002

20149,3 2672,0 11,5 13,3 2003

26485,0 3383,6 26,6 12,8 2004

32447,1 4467,4 32,0 13,8 2005

Nguồn: [42, 435]

39826,2 6266,1 15,7 2006 (*)

(*) : Hàng nông lâm sản xuất khẩu

Bảng trên cho thấy, trị giá xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày

càng tăng, với tốc độ tăng trưởng KNXK tăng liên tục từ năm 1991 đến năm

2000 (cao nhất là năm 1994), nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 1992

đến 2000 là 17,65%. Những năm đầu thế kỷ 21 tốc độ tăng trưởng kim ngạch

XKNS có giảm mạnh, nhưng được phục hồi vào năm 2003 và tiếp tục tăng

40

trưởng cho đến nay, đặc biệt là năm 2005, KNXK nông sản đã lên đến 4,5 tỷ

USD (tăng 32% so với năm 2004), cao nhất từ khi Việt Nam tham gia vào thị

trường XKNS hàng hóa, thể hiện sự phát triển nhanh chóng của sản xuất

hướng ra xuất khẩu. (Năm 2006, KNXK nông lâm sản đạt gần 6,2 tỷ USD)

Kim ngạch XKNS đóng góp rất lớn vào tổng giá trị KNXK của cả

nước. Nhìn vào biểu 1 cho thấy XKNS chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hàng

hóa xuất khẩu cả nước: nếu như năm 1991 hàng NSXK chiếm tỷ trọng 30,1%

đến năm 1994 là 39,2%, chiếm tỷ trọng cao nhất trong các năm, sau đó giảm

dần xuống còn 11,93% năm 2004 và tăng lên 13,8% năm 2005. Năm 2006,

KNXK nông lâm sản chiếm 15,7%.

Biểu 2.2: Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước.

Nhóm hàng 1991- 1995 1996- 2000 2001- 2005

Hàng CN và khoáng sản 30,4 31,4 33,1

Hàng CN nhẹ và TTCN 21,4 34,8 40,4

Hàng nông sản và NSCB 31,5 22,7 15,3

Hàng lâm sản 4,0 1,8 1,1

Hàng thủy sản 12,8 9,2 10,1

Nguồn: [43,15]

Như vậy, kể từ năm 1991 cơ cấu hàng NSXK thay đổi đáng kể, có xu

hướng giảm dần tỷ lệ trong tổng KNXK hàng hóa. Điều này thể hiện sự thay

đổi theo chiều hướng tiến bộ trong cơ cấu kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát

triển của đất nước theo hướng CNH, HĐH.

Xét về thị trường xuất khẩu trong những năm qua có thể thấy đã có sự

chuyển hướng rõ rệt. Nếu như từ năm 1992 trở về trước nông sản Việt Nam

chủ yếu được xuất khẩu sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu khác thì đến

nay, hàng nông sản Việt Nam đã được xuất khẩu sang khoảng 100 quốc gia và

vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều mặt hàng đã có thị trường ổn định và có bạn

hàng lớn. Tuy nhiên, một mặt do thị hiếu, nền văn hóa có nhiều nét tương

đồng, mặt khác công nghiệp chế biến phát triển chậm, xuất khẩu đi vào các thị

trường xa còn hạn chế, nên thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên

41

dưới 70%) tổng lượng xuất khẩu nông lâm sản của nước ta, với các thị trường

chính như: Trung Quốc (rau quả, hạt tiêu, hạt điều, cao su...), Đài Loan (rau

quả, chè...), Philippin, Inđônêxia và Malaiaxia (gạo), Nhật Bản (rau quả chế

biến, đồ gỗ, chè...), Irắc ( gạo, chè, dầu thực vật, sữa...). Thị trường Châu Âu

thường nhập khẩu các sản phẩm như cà phê, mật ong, rau quả chế biến, đồ gỗ.

Thị trường Mỹ với các sản phẩm nhập khẩu chính là cà phê, hạt điều, hạt tiêu,

nước dứa, đồ gỗ có những chuyển biến tích cực kể từ khi hiệp định thương mại

Việt - Mỹ có hiệu lực. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đã và đang tích

cực xâm nhập và khai thác thị trường các nước Châu Phi với các mặt hàng gạo,

chè,...

Xuất khẩu nông, lâm sản ngày càng tăng về khối lượng, đa dạng hóa

mặt hàng, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm nên đã thu hẹp được

khoảng cách chênh lệch giữa giá nông sản xuất khẩu của nước ta với giá thế

giới. Trong cơ cấu xuất khẩu, tỷ trọng hàng nông sản chế biến tăng hơn trước

chiếm khoảng 40% số lượng hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu hàng hóa đã

chuyển dần từ gián tiếp sang trực tiếp, làm tăng hiệu quả XKNS và góp phần

phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.

2.1.2. Xuất khẩu một số nông sản chủ yếu:

a) Lúa gạo:

- Tình hình sản xuất : Lúa là cây trồng chính của Việt Nam, trong 20

năm đổi mới (1986- 2005) sản xuất lúa tăng trưởng liên tục cả diện tích, năng

suất và sản lượng. Nhất là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng

4 năm 1988) nền nông nghiệp nói chung và ngành sản xuất lương thực nói

riêng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Năm 1991,diện tích gieo trồng lúa

chỉ có 6302,8 nghìn ha, năng suất bình quân 31,13 tạ/ha/vụ và sản lượng đạt

19621,9 nghìn tấn. Đến năm 2000 ba con số tương ứng đã lên tới 7666,3 nghìn

ha, 42,43 tạ/ha/vụ và 32,5 triệu tấn. Đến năm 2004 là 7445,3 nghìn ha: 48,55

tạ/ha/vụ và 36,1 triệu tấn, năm 2005 là 7329,2 nghìn ha: 48,85 tạ/ha/vụ và 35,8

triệu tấn. Năm 2006, sản lượng lúa giảm nhẹ so với năm trước do diện tích

giảm 5,2 nghìn ha và năng suất chỉ tương đương năm trước. Sản xuất lúa gạo

nước ta đứng thứ 5 Châu Á và thế giới, sản lượng lúa còn tiếp tục tăng trong

42

những năm tới vì tiềm năng tăng năng suất vẫn còn, lợi thế sản xuất vẫn tiếp tục

được phát huy và lúa gạo vẫn là cây trồng số một, có lợi thế cả về xuất khẩu.

Biểu 2.3: Diện tích và sản lượng lúa cả năm:

Năm Nghìn ha Năng suất tạ/ha Nghìn tấn

1991 31,13 6302,8 19621,9

1995 36,90 6765,6 24963,7

1996 37,69 7003,8 26396,7

1997 38,77 7099,7 27523,9

1998 39,59 7362,7 29145,5

1999 41,02 7653,6 31393,8

2000 42,43 7666,3 32529,5

2001 42,85 7492,7 32108,4

2002 45,90 7504,3 3447,2

2003 46,39 7452,2 34568,8

2004 48,55 7445,3 36148,9

2005 48,85 7329,2 35832,9

2006 48,9 7323,4 35826,8

Nguồn: [42,230]

- Tình hình xuất khẩu : Trước đây, Việt Nam là nước thiếu lương thực

triền miên phải nhập khẩu bình quân năm khoảng 0,5 triệu tấn gạo. Kể từ năm

1989 nước ta chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới với số lượng

xuất khẩu 1,42 triệu tấn thu về 290 triệu USD, là nước xuất khẩu thứ 3 thế giới

chỉ sau Mỹ, Thái Lan và hiện nay đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2

thế giới về sản lượng.

Biểu 2.4: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam.

43

1

1

1

2

2

2

2

2

Năm

1991

1995

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1032,9

1987,9

4508,3

3476,7

3720,7

3236,2

3810,4

4063,1

5200

4700,0

Nghìn tấn

234,5

530,0

1025,1

667,8

623,5

726,3

719,9

950,4

1399,0

1298,0

Triệu USD

Nguồn: [42,440]

Khối lượng và KNXK mặt hàng gạo Việt Nam nhìn chung không

ngừng tăng lên. Nếu so với năm 1991 thì năm 1995 khối lượng gạo xuất khẩu

tăng 1,9 lần; KNXK tăng 2,3 lần. Sang năm 1999 sản lượng xuất khẩu tăng

đáng kể và KNXK đạt trên 1 tỷ USD, cao nhất kể từ khi xuất khẩu gạo đến

năm 2004. Năm 2000 do khối lượng gạo xuất khẩu giảm mạnh (hơn 1 triệu

tấn) nên KNXK cũng bị ảnh hưởng, giảm 36,6% so với năm 1999. Năm 2001

là năm xuất khẩu gạo của chúng ta tiếp tục giảm sút về kim ngạch mặc dù khối

lượng gạo xuất khẩu của chúng ta tăng nhẹ. Nguyên nhân là do chúng ta đã

không tận dụng được xu thế đi lên của thị trường gạo thế giới vào những tháng

cuối năm 2001. Tháng 3, 4 năm 2001 do cả Việt Nam (đồng bằng sông Cửu

Long) và Thái Lan đều ở vào vụ thu hoạch chính nên giá gạo trên thị trường

thế giới giảm mạnh. Giá xuất khẩu gạo FOB 5% tấm của Việt Nam giảm 15 -

21 USD/tấn, phổ biến ở mức 148- 152 USD/tấn. Nhiều hợp đồng gạo xuất

khẩu của Việt Nam cũng được ký kết trong tháng 5 và tháng 6. Những tháng

cuối năm lũ sớm và kéo dài ở đồng bằng sông Cửu Long, mưa bão ở miền

Trung làm nhu cầu gạo tăng, nông dân hạn chế bán ra. Trong khi đó, nhu cầu

mua gạo ở các doanh nghiệp để thực hiện các hợp đồng đã ký tăng vì vậy làm

giá gạo trong nước tăng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo bị thua lỗ hàng

chục tỷ đồng bởi phải mua gạo với giá cao để thực hiện các hợp đồng đã ký kết

với mức giá thấp của quý 2 năm 2001. Bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất

khẩu lại không tận dụng được cơ hội giá gạo thị trường thế giới tăng (Quý IV

năm 2001 giá gạo thế giới tăng từ 8- 12 USD/tấn so với quý II năm 2001), vì

không có gạo để ký kết các hợp đồng mới. Trong năm 2002 xuất nhập khẩu

gạo đạt 3,24 triệu tấn giảm 18% nhưng trị giá đạt 726,3 ttriệu USD lại tăng so

với năm 2001. Nguyên nhân làm cho lượng gạo xuất khẩu bị giảm sút có một

phần quan trọng là do nguồn gạo năm 2001 chưa xuất khẩu được chuyển sang

44

đầu năm 2002, nhưng chủ yếu do đứng trước khả năng hạn hán kéo lớn và kéo

dài, những người có lượng thóc gạo hàng hóa tích trữ lớn chờ giá lên cao. Điều

này tiếp tục chứng tỏ tính thụ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp

xuất khẩu gạo. Năm 2003 sản lượng gạo xuất khẩu tăng lên 3,8 triệu tấn nhưng

giá giảm mạnh nên trị giá lại sụt giảm chỉ đạt 719,9 triệu USD. Năm 2004 sản

lượng và KNXK đều tăng lên, nhất là về giá đã giúp cho trị giá xuất khẩu gạo

đạt 950,4 triệu USD. Năm 2005, lần đầu tiên xuất khẩu gạo Việt Nam đạt mức

5 triệu tấn, thu về cho đất nước trên 1,39 tỷ USD, với mức giá gạo bình quân

đạt 269 USD/tấn. Đây là mức cao nhất đạt được trên cả 3 chỉ tiêu: sản lượng,

kim ngạch và giá cả xuất khẩu, kể từ khi Việt Nam chính thức tham gia thị

trường gạo thế giới. So với năm 2004 lượng gạo xuất khẩu tăng hơn 1 triệu tấn

(25%), kim ngạch tăng lên hơn 400 triệu USD (45%) và giá cả tăng 35

USD/tấn (15%). Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, sản xuất lúa gặp

nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt 36 triệu tấn lúa. Đây là năm thứ 17

Việt Nam liên tục xuất khẩu gạo và là năm thứ 3 đạt lượng gạo xuất khẩu trên

4 triệu tấn, năm thứ 2 đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD và giữ vững vị trí thứ 2 về

xuất khẩu gạo trên thế giới. Năm 2006, cả nước đã xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo,

đạt KNXK gần 1,3 tỷ USD, giảm 5% về lượng và 6,8% về trị giá.

- Điểm mạnh của nước ta trong xuất khẩu gạo những năm qua là sự ổn

định cao so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của FAO về khu vực

Châu Á - Thái Bình Dương: ở Châu Á, ngoài cường quốc xuất khẩu gạo Thái

Lan, còn có 3 nước khác có khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu

gạo là Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Song những năm qua lượng gạo xuất

khẩu của cả 3 nước này đều không ổn định: Ấn Độ có năm xuất khẩu gạo gần 5

triệu tấn (1995) vươn lên vị trí thứ 2 sau Thái Lan, nhưng các năm khác lại đạt

rất thấp, phổ biến trên dưới 1 triệu tấn: năm 1993 là 767 nghìn tấn; năm 1994

là 890 nghìn tấn; năm 1997 dưới 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của Trung Quốc

năm cao nhất là 1,6 triệu tấn (1994), năm 1993 xuất khẩu 1,5 triệu tấn, các năm

khác khoảng 1 triệu tấn, năm 1998 sản lượng lương thực đạt mức kỷ lục 490 triệu

tấn nhưng xuất khẩu gạo vẫn không đạt 1 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của Pakistan,

năm cao nhất 1,8 triệu tấn (1995), các năm khác trên dưới 1 triệu tấn. [4, 239]

45

- Trên thị trường những nước xuất khẩu gạo thường xuyên là Thái Lan,

Mỹ, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan trong đó Thái Lan vẫn đứng đầu với khối

lượng xuất khẩu hàng năm khoảng 5,5- 6 triệu tấn. Việt Nam 3,5- 4,0 triệu tấn,

Mỹ khoảng 2,3- 3,0 triệu tấn. Theo số liệu thống kê của FAO, giá gạo xuất

khẩu trên thế giới có xu hướng sụt giảm kể từ 1997 đến nay. Giá gạo của Việt

Nam thường thấp hơn giá gạo của Thái Lan và các nước khác.

Biểu 2.5: Giá gạo xuất khẩu.

Đơn vị tính: USD/tấn

Năm Thái Lan Mỹ Việt

Nam

1991 276 337 227

1992 177 340 214

1993 261 287 209

1994 321 360 214

1995 315 323 266

1996 367 390 284

1997 388 406 245

1998 321 388 273

1999 285 354 227

2000 267 306 191

2001 205 274 167

2002 222 237 224

2003* 218 272 189

Nguồn: Faostat citation, 2004(* do Tổng cục thống kê cung cấp).

Biểu đồ để so sánh giá gạo xuất khẩu

46

Trong những năm qua, gạo Thái Lan có giá trị cao hơn giá gạo của Việt Nam từ 25- 30% (so với Mỹ sự chênh lệch này càng cao hơn). Đây vừa là một lợi thế của ta vừa thể hiện sự hạn chế về chất lượng gạo Việt Nam. Các yếu tố khác như cơ cấu, chủng loại, năng lực tiếp thị kinh doanh,... cũng tác động đến mức giá xuất khẩu. Do đó, mặc dù là nước xuất khẩu gạo lớn, tới hơn 60 nước trên thế giới nhưng thị trường chủ yếu của Việt Nam những năm qua là những thị trường dễ tính như các nước Châu Á (60- 70%), Châu Phi và Trung Đông; chưa chiếm được vị trí quan trọng tại những thị trường đòi hỏi gạo cao cấp như: Mỹ, Nhật, Châu Âu, Singapor vì xét về phẩm cấp thì chất lượng gạo Việt Nam không bằng của Thái Lan. Thậm chí chúng ta còn nhập khẩu một khối lượng nhỏ gạo của Thái Lan cho nhu cầu tiêu dùng cao cấp tại các nhà hàng, khách sạn. Biểu 2.6: Thị trường xuất khẩu chính của gạo Việt Nam. Đơn vị: - Lượng: nghìn tấn - Trị giá: triệu USD

1991

1995

2000

2005

6 tháng đầu năm 2006

Stt

Tên Nước

S. Lượng

trị giá

S. Lư- ợng

trị giá

trị giá

1

S. L- ượng 120,6

trị giá 36,4

S. Lượng 524,5

trị giá 92,7

S. L- ượng 1631,3

Philippin

462,3 1090,3

308,0

2

Malaixia

41,5

10,6

153,0

39,0

258,1

46,4

452,2

116,4 274,4

75,7

3

Cu Ba

14,4

2,4

159,6

41,9

168,8

31,7

248,5

63,0

4

Nhật Bản

60,5

15,3

0,4

0,1

13,2

2,8

196,8

54,4

128,6

33,4

5

Inđônêxia

59,3

12,3

111,8

32,5

288,8

49,6

98,3

27,3

90,6

25,9

6

Singapor

172,9

39,8

217,0

56,8

227,3

39,8

41,6

10,5

65,4

16,3

7

Nam Phi

77,6

11,5

252,7

57,3

57,9

13,5

8

Irắc

91,2

26,9

561,3

157,5 7,0

1,8

53,4

13,2

47

9

46,2

14,3

10

Thổ Nhĩ Kỳ Nga

28,4

8,0

76,1

14,3

59,7

15,1

45,8

12,8

Nguồn: [43, 141]; [30, tr25,26]

Đối với thị trường có một sự đáng quan tâm là vào quý II năm 1994 gạo

xuất khẩu của Việt Nam đã xâm nhập thị trường Mỹ, một thị trường khó tính

với hệ thống pháp luật, kinh tế thương mại rất nghiêm ngặt. Cho đến nay, sau

khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì cơ hội thâm nhập thị

trường này càng lớn. Tuy nhiên, việc xuất khẩu gạo của Việt Nam hầu hết là

qua khâu trung gian do đó bị thua thiệt về giá và chưa tạo được bạn hàng vững

chắc. Vì thế, mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu gạo về lượng đứng thứ 2 trên

thế giới nhưng xét về giá trị thì Việt Nam chưa đạt được vị trí đó.

So sánh KNXK gạo của Mỹ, Thái Lan, Việt Nam cho chúng ta thấy

KNXK gạo của Việt Nam thường thấp hơn so với KNXK gạo của Mỹ trong

những năm qua.

Đơn vị tính: Triệu USD.

Biểu 2.7: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan, Mỹ và Việt Nam.

Thái Lan Việt Nam

Mỹ 783,03 760,98 850,01

1064,41

Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 1261,03 1509,38 1400,82 1686,75 2071,75 2143,09 2303,56 2197,39 2072,81 1769,94 1710,97 1761,64 2898,65 235,77 418,02 364,32 426,24 351,93 861,75 876,33 1026,48 1031,35 678,01 632,36 735,27 728,89 962,08 1056,27 1081,72 987,85 1253,27 991,95 885,14 775,08 832,54 1090,50 1234,41

Lưu ý: Vì số liệu của FAO lấy từ các nguồn không chính thức nên có khác với số liệu của NGTK.

Nguồn: FAO Stat Division 2006.

48

b)Mặt hàng cà phê:

- Tình hình sản xuất:

Cà phê của Việt Nam là một loại cây công nghiệp được trồng nhiều

nhất ở vùng Tây Nguyên, và vùng Đông Nam Bộ, chiếm tới 80 - 90% diện tích

và 85- 98% sản lượng cà phê của cả nước. Vùng cà phê Tây Nguyên là vùng

chuyên canh tập trung lớn nhất của cả nước gồm có 5 tỉnh (Đắc Lắc, Gia Lai.

Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Nông) chiếm tới 55% diện tích và 60% sản lượng

so với cả nước. Chất lượng cà phê Tây Nguyên thơm ngon được thị trường thế

giới ưa thích. Việt Nam là một trong 3 nước sản xuất cà phê lớn nhất khu vực.

Trong những năm gần đây sản xuất cà phê ở nước ta đã có những tiến bộ vượt

bậc, có tính bùng nổ, đặc biệt là năng suất rất cao so với thế giới. Năm 1988

Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức cà phê quốc tế (gọi tắt là ICO). Hiện

nay Việt Nam đã thành lập một số trung tâm giống cà phê, chủ yếu trồng cà

phê Robusta, còn lại là cà phê Arabica.

Biểu 2.8: Diện tích trồng và sản lượng cà phê cả năm. Đơn vị tính: - Diện tích:nghìn ha, Sản lượng: nghìn tấn

49

Năm Diện tích

1990 1991 1992 199 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 119,3 115,1 103,7 101,3 123,9 186,4 254,2 340,3 370,6 477,7 561,9 565,3 522,2 510,2 496,8 497,4 488,6 Sản lượng cà phê nhân 92,0 100,0 119,2 136,1 180,0 218,0 616,9 420,5 427,4 553,2 802,5 840,6 699,5 793,7 836,0 752,1 853,5 Nguồn: [42,

279]

Nhìn vào bảng ta thấy diện tích trồng cà phê ở Việt Nam tăng rất

nhanh: năm 1991 diện tích là 115,1 nghìn ha, sản lượng đạt 100 nghìn tấn

nhưng đến năm 2000 diện tích trồng cà phê đã lên đến 561,9 nghìn ha và sản

lượng đạt 802,5 nghìn tấn; năm 2005 là 491 nghìn ha và sản lượng đạt 767,7

nghìn tấn tăng gần gấp 4 lần so với năm 1991 về diện tích và 6,7 lần về sản

lượng thu hoạch. Sản lượng cà phê năm 2006 đạt 853,5 nghìn tấn, tăng 13,5%

so với năm 2005.

Hiện tại Việt Nam đang là nhà sản xuất đứng thứ 2 trên thế giới sau

Braxin, và là nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối (Robusta). Năng

suất cà phê Việt Nam cao nhất thế giới (năng suất bình quân đạt 1,3 tấn/ha, gấp

2,3 lần năng suất bình quân thế giới) nhờ có những điều kiện khí hậu và môi

trường thuận lợi: khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất đai màu mỡ (phần lớn là đất đỏ

bazan phù hợp với sự phát triển của cây cà phê), lượng mưa phân bố đều các

tháng trong năm nhất là vào thời kỳ cây cà phê sinh trưởng mạnh

50

- Tình hình xuất khẩu:

Cà phê là mặt hàng nông sản quan trọng thứ hai của Việt Nam sau lúa

gạo. Khác với gạo, cà phê hầu hết dành cho xuất khẩu: có tới 95% sản lượng

xuất khẩu còn lại 5- 10 % sản lượng tiêu thụ nội địa. Hiện nay Việt Nam là một

trong những nước đứng đầu trên thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta. Năm

2004 sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam lên tới 976,2 nghìn tấn, năm

2005 là khoảng 912,7 nghìn tấn. Nếu so với các năm trước đó, tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu cà phê của nước ta là khá cao: năm 1991 sản lượng xuất khẩu

đạt 93,5 nghìn tấn nhân khô, năm 1995 đạt 248,1 nghìn tấn, năm 2000 là 733,9

nghìn tấn, năm 2001 là 931,1 nghìn tấn sau đó giảm đần ở các năm 2002 là

722,2 nghìn tấn, năm 2003 là 749,4 nghìn tấn nhưng tăng nhanh vào các năm

2004 và 2005.

Đơn vị tính: - Sản lượng: nghìn tấn.

- Trị giá: triệu USD

- giá xuất khẩu : USD/tấn

Năm

1991

1995

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

6

2006

tháng

đầu

năm

2006

Sản

93,5

248,1 482,3 733,9 931,1 722,2 749,4 976,2 912,7

507,4

980,9

lượng

Trị giá

76,3

598,1 584,9 501,4 391,2 321,6 504,9 641,0 717,92 581,7 1.003,0

Giá XK

trung

816

2410,7

1213

683

420

445

673

657

810

1146

1022

bình

Nguồn: [42,439]; Bộ NN và PTNT

Biểu 2.9: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam

Trong giai đoạn 1995- 2000 không chỉ khối lượng mà cả KNXK cà phê

của Việt Nam ngày càng tăng một cách vững chắc. Năm 1989 Việt Nam mới

xuất khẩu được 48,72 triệu USD thì trong vòng 10 năm sau đến năm 1999

KNXK cà phê đã tăng gấp 10 lần (xuất khẩu đạt 482,3 triệu USD). Tuy nhiên,

do giá cà phê suy giảm qua các năm, đặc biệt từ năm 1999 trở lại đây, nên mặc

dù lượng xuất khẩu tăng lên nhưng KNXK tăng không đáng kể thậm chí còn bị

51

giảm xuống. Chẳng hạn năm 2000 sản lượng xuất khẩu cà phê đạt 734,9 nghìn

tấn, tăng 50,4% so với năm 1999 nhưng kim ngạch chỉ còn 501,4 triệu USD,

giảm 14%; năm 2001 lượng cà phê xuất khẩu tiếp tục tăng đạt 931,1 nghìn tấn,

tăng 27% so với năm 2000 nhưng KNXK tiếp tục giảm chỉ còn 391,2 triệu

USD, tương đương 78% của năm 2000. Nguyên nhân của tình trạng này là do

xu hướng giảm giá kỷ lục của thị trường cà phê thế giới. Liên tục từ năm 2000

đến nay, chúng ta đã thi hành một loạt các biện pháp hỗ trợ cho ngành cà phê:

mua tạm trữ (riêng năm 2001 đã mua tạm trữ 150.000 tấn), hỗ trợ lãi suất ngân

hàng đối với kinh doanh cà phê, giãn nợ, cho vay mới, thưởng KNXK đối với

mặt hàng cà phê. Đồng thời, Chính phủ đã hỗ trợ trực tiếp cho nông dân để

giảm bớt các chi phí đầu vào như: miễn thuế sử dụng đất (năm 2001), cho vay

mới để chăm sóc vườn cà phê, khoanh nợ trong thời hạn 3 năm cho người

trồng, chăm sóc, thu mua và chế biến cà phê ... Từ năm 2003 trị giá xuất khẩu

cà phê đã tăng cao trở lại đạt 504,9 triệu USD, tăng 36,3% so với năm 2002 (về

sản lượng tăng nhẹ 3,8%, giá xuất khẩu trung bình tăng 51,2% so với năm

2002). Năm 2004 KNXK đạt 641,0 triệu USD tăng 27%, về sản lượng đạt

976,2 nghìn tấn, tăng 30% so với năm 2003 tấn. Năm 2005 lượng xuất khẩu có

giảm do điều kiện thời tiết khí hậu khô hạn làm giảm sản lượng cà phê thu

hoạch, chỉ đạt 880 nghìn tấn ít hơn 10% so với năm 2004 nhưng lại tăng về

KNXK, đạt 717,9 triệu USD tăng 12,0% so với năm 2004 do giá xuất khẩu

trung bình tăng lên 810USD/tấn. Sang năm 2006 chỉ trong vòng 6 tháng đầu

năm đã xuất khẩu 507,4 nghìn tấn với kim ngạch xuất khẩu đạt 581,7 triệu

USD, giá xuất khẩu tăng đạt trên 1000 USD/tấn do tác động của giá cà phê trên

thị trường thế giới tăng khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước. Mục tiêu xuất

khẩu năm 2006 của Việt Nam là xuất khẩu 920 nghìn tấn với trị giá khoảng

770 triệu USD. Trên thực tế, năm 2006, KNXK cà phê Việt Nam tăng tới

49,9% so với năm 2005, đạt hơn 1 tỷ USD (hoàn toàn do được lợi về giá), đưa

cà phê xếp vào 9 loại hàng hóa xuất khẩu với giá trị đạt trên 1 tỷ USD của Việt

Nam.

Về thị trường xuất khẩu: Trước những năm 1990 thị trường xuất khẩu

cà phê của Việt Nam chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu theo các

hiêp định và xuất qua trung gian. Những năm gần đây cà phê Việt Nam đã có

52

vị trí nhất định và uy tín ngày càng tăng trên thị trường cà phê trong khu vực

và trên thế giới. Đến nay cà phê Việt Nam đã có mặt ở 70 nước và vùng lãnh

thổ, chủ yếu là các nước Mỹ, Nhật, Đức, Hàn Quốc, EU,... Đặc biệt, tháng 10

năm 1994, cà phê Việt Nam đã có mặt ở Mỹ và đến nay các doanh nghiệp xuất

khẩu cà phê đã thiết lập quan hệ với nhiều công ty của Mỹ. Năm 2000 xuất

khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ đạt mức 113,5 nghìn tấn gấp 2,9 lần năm

1995 chiếm 15,5% thị phần xuất khẩu cà phê của cả năm. Đến năm 2001, xuất

khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ đạt mức 146,0 nghìn tấn, tăng 28,6% so

với năm 2000, nhưng năm 2002 xuất khẩu sang thị trường này lại giảm còn

90,1 nghìn tấn, giảm 38,3% so với năm 2001. Tới năm 2004 chỉ còn xuất được

16,1 nghìn tấn với kim KNXK đạt 16,9 triệu USD, thấp nhất kể từ khi xuất

khẩu cà phê sang Mỹ. Đến năm 2005 lượng xuất khẩu mặt hàng này đã tăng

nhanh lên 117,7 nghìn tấn, gấp 7,3 lần so với năm 2004, và xu hướng này đang

tiếp tục vào năm 2006. Xuất khẩu cà phê Việt Nam chủ yếu là cà phê hạt, cà

phê chế biến mới chỉ xuất khẩu được 10% trong đó chủ yếu là xuất khẩu loại

cà phê vối Robusta giá trị không cao. Hiện nay mặt hàng này nằm trong nhóm

“top ten” về xuất khẩu ở Việt Nam và chiếm khoảng 10% thị phần thế giới.

Nhìn chung, Việt Nam chưa có khách hàng và thị trường cà phê ổn

định, (kể cả những khách hàng quen biết ta cũng đều mới thực hiện hợp đồng

bán hàng chuyến). Nhiều giao dịch xuất khẩu được thực hiện thông qua một số

ít các công ty thương mại lớn của nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt

Nam. Điều đó làm hạn chế khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường của doanh

nghiệp. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường bị ép giá và phải chấp nhận

các điều kiện khác không có lợi. Giá cà phê Việt Nam chịu ảnh hưởng của giá

cà phê trên thế giới, tuy nhiên vẫn còn thấp khi chỉ đạt 65- 85% giá cà phê của

Hiệp hội cà phê quốc tế (ICO). Chính vì thế, mặc dù là nước xuất khẩu cà phê

lớn thứ hai trên thế giới về lượng, nhưng về giá trị chỉ đứng hàng thứ tư sau

Braxin, Đức và Côlômbia.

53

IN TRANG BIEU LV

Đơn vị tính: - Lượng: nghìn tấn

- Trị giá: triệu USD.

6 tháng đầu năm2006

Biểu 2.10: Thị trường xuất khẩu chính của cà phê Việt Nam.

Nước

Năm 1991

Năm 1995

Năm 2000

Năm 2005

L

Trị

Thị

Lư-

Trị

Thị

Lư-

Trị

Thị

Lư-

Trị giá

Thị

Lợng

Trị

Thị

ượng

giá

phần %

ợng

giá

phần %

ợng

giá

phần %

ợng

phần %

giá

phần %

Tổng số

100%

248,1

598,1

100%

733,9

501,4

100%

880,0

717,92

100%

507,4

581,7

100%

9

76,3

3,5

Đức

1

1,4

2,0

15,0

36,2

66

82,2

52,6

11,2

92,1

76,1

10,5

74,1

87,0

14,6

,9

Mỹ

38,6

90,1

15,6

113,5

70,9

15,5

117,7

97,5

13,4

51,8

59,5

10,2

TâyBan Nha

1,6

3,6

6,4

28,3

17,7

3,9

63,9

53,8

7,3

41,1

46,2

8,1

Italia

2,7

6,5

1,1

34,9

24,3

4,8

62,6

54,2

7,1

30,5

35,4

6,0

Anh

12,6

28,6

5,1

54,8

39,2

7,5

46,4

36,7

5,3

20,2

22,8

4,0

Nhật Bản

15,5

41,0

6,2

27,21

21,3

3,7

29,4

25,9

3,3

17,7

22,8

3,7

Hàn Quốc

3,4

8,3

1,4

6,9

4,2

9,4

23,0

18,2

2,6

18,6

20,8

3,7

Thụy Sỹ

0

0,7

1,0

21,9

54,3

8,8

140,0

101,0

19,1

27,1

19,5

3,18

16,5

18,4

3,3

,9

Hà Lan

4,1

9,6

1,7

49,3

34,9

6,7

19,4

16,8

2,2

16,4

18,8

3,2

Pháp

1

9,0

12,0

17,0

38,5

6,9

15,8

10,1

2,2

27,5

22,7

3,1

12,0

13,5

2,4

1,3

Nguồn: - Trang 140- 164” xuất khẩu Việt Nam 20 năm đổi mới”

- Tạp chí” sản xuất thị trường nông nghiệp và phát triển nông thôn”

cuối tháng 7 năm 2006.

54

Biểu 2.11: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam, Braxin, Côlômbia. (IN

- KNXK: triệu USD.

- Giá XKBQ: USD/tấn

Năm

Việt Nam

Braxin

Côlômbia

S. Lượng

K

Giá BQ

KNXK

Giá BQ

KNXK

Giá BQ

S.Lượng

S.Lượng

NXK

1991

1.205

7

93.5

6.25

1,250.64

1,507.20

765.77

1,398.65

0.816

1.826

1992

0.933

9

116.18

1.49

1,217.07

1,135.38

998.2

1,324.49

0.787

1.327

1993

1.105

1

122

11

1,181.76

1,306.40

820.65

1,209.40

0.91

1.474

1994

2.402

3

176.4

28

1,076.17

2,585.42

711.97

2,102.93

1.859

2.954

1995

2.675

5

248.1

96

920.61

2,462.39

591.3

1,953.66

2.402

3.304

1996

2.197

4

283.7

20

971.72

2,135.14

642.13

1,706.14

1.48

2.657

1997

2.95

4

391.63

97.54

1,062.23

3,133.35

661.89

2,422.14

1.27

3.659

1998

2.304

5

382

93.79

1,130.50

2,604.67

680.76

2,038.81

1.554

2.995

1999

1.724

5

482

84.9

1,429.02

2,463.88

605.08

1,419.11

1.213

2.345

2000

1.578

4

733.9

99.65

1,130.68

1,784.56

557.62

1,185.48

0.681

2.126

2001

0.976

3

931.2

91.33

1,451.29

1,417.08

602.36

858.97

0.42

1.426

2002

0.791

3

718.58

22.31

1,751.39

1,384.80

622.85

864.76

0.449

1.388

2003

0.973

5

749.2

04.89

1,588.69

1,546.41

621.08

890.71

0.674

1.434

2004

1.273

5

974.8

04.89

1,616.73

2,057.88

611.07

1,054.93

0.518

1.726

2005

976.37

1,616,27

665.96

TRONG TRANG BIEU LUAN VAN) Đơn vị tính: - Sản lượng: nghìn tấn.

55

Nguồn : Fao, 200

Việc so sánh sản lượng và KNXK cà phê của Việt Nam với đối thủ cạnh

tranh Braxin, Côlômbia cho ta thấy điều đó. Braxin liên tục là nước dẫn đầu thế

giới về sản lượng và KNXK, nhưng xét về giá xuất khẩu lại chưa thể bằng được

Côlômbia. Ví dụ: năm 2000 về lượng chúng ta xuất khẩu 733,9 nghìn tấn lớn hơn

176,28 nghìn tấn so với lượng xuất khẩu cùng năm của Côlômbia, nhưng về giá trị

cà phê Việt Nam lại chưa bằng một nửa trị giá xuất khẩu của Colômbia (trị giá

xuất khẩu cà phê của Việt Nam là 499,65 triệu USD, trị giá xuất khẩu của

Côlômbia là 1185,48 triệu USD).

Trong khi đó, năm 2000 Braxin xuất khẩu 1130,68 nghìn tấn cà phê, đạt

kim ngạch 1784,56 triệu USD gấp hai lần Côlômbia và 1,5 lần Việt Nam về

lượng, gấp 3,6 lần Việt Nam và 1,5 lần Côlômbia về kim ngạch, song về giá mới

bằng 2/3 giá xuất khẩu của Côlômbia, gấp 2,3 lần giá xuất khẩu của Việt Nam.

Tình trạng đó cũng diễn ra tương tự ở các năm khác. Sự chênh lệch về giá

khiến cho Việt Nam dù có lượng xuất khẩu cao nhưng nguồn thu ngoại tệ lại

không nhiều bằng một số nước có lượng xuất khẩu ít. Nguyên nhân của tình trạng

này một phần là do giá sản xuất của cà phê Việt Nam vào loại thấp nhất thế giới,

mặt khác Việt Nam lại chủ yếu xuất khẩu loại cà phê vối Robusta chưa chế biến

giá trị thấp hơn cà phê chè Arabica. Ngoài ra do trình độ tiếp thị và khâu bảo quản

chế biến sau thu hoạch còn kém, độ ẩm trong cà phê còn cao,... dẫn tới giá cà phê

của Việt Nam được bán với giá thấp hơn giá trung bình của thế giới.

c) Chè.

- Tình hình sản xuất :

Chè cùng với cà phê, cao su được coi là những cây công nghiệp dài ngày

có giá trị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Chè đã tự khẳng định vị trí của mình

không chỉ bằng việc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn là mặt hàng

xuất khẩu quan trọng.

Nước ta từ lâu đã được coi là một trong những vùng có điều kiện khí hậu

thổ nhưỡng rất phù hợp để phát triển cây chè và nó đã có lịch sử phát triển hàng

56

trăm năm nay. Cây chè được trồng ở phần lớn các khu miền núi trung du phía Bắc

như: Quảng Ninh; Hưng Yên; Lạng Sơn; Hà Tây;... và ở phía Nam tập trung chủ

yếu ở Cao nguyên Lâm Đồng. Chè là cây dễ trồng lại phù hợp với đất đồi núi, ít

mưa, không tranh chấp với cây lương thực khác, có tác dụng chống xói mòn, bảo

vệ môi trường, sử dụng nhiều nhân công rẻ ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm

nghèo ở các tỉnh này nói riêng và đất nước nói chung. Chất lượng chè của Việt

Nam khá cao, đạt các chỉ tiêu chất lượng quốc tế về lượng Vitamin, chất hòa tan,

catechin, caphein,... không thua kém gì so với chè của Ấn Độ, Trung Quốc,

Sirilanka...

Trong 20 năm đổi mới 1986- 2005, thực hiện chủ trương gắn sản xuất với

chế biến và xuất khẩu, sản xuất chè của nước ta đã có bước phát triển khá nhanh.

Nếu như những năm 1990, 1991, diện tích trồng chè búp mới có 60,0 nghìn ha,

sản lượng là 149 nghìn tấn chè búp thì đến năm 2000 đã lên tới 87,7 nghìn ha,

314,7 nghìn tấn. Năm 2004 con số tương ứng là 120,8 nghìn ha, 513,8 nghìn tấn;

năm 2005 là 122,5 nghìn ha, 570,0nghìn tấn (gấp hai lần về diện tích trồng và 3,6

lần về sản lượng so với năm 1991). Năm 2006, sản lượng chè đạt 612,1 nghìn tấn,

tăng 7,4% so với năm 2005

.

57

Đơn vị: - Sản lượng: nghìn tấn

- Diện tích: nghìn ha.

Biểu 2.12: Diện tích gieo trồng và sản lượng chè cả năm.

Năm Diện tích chè sản lượng chè búp

tươi

1990 145,1 60,0

1991 148,8 60,0

1992 163,0 62,9

1993 169,8 63,4

1994 189,2 67,3

1995 180,9 66,7

1996 210,5 74,8

1997 235,0 78,6

1998 254,5 77,4

1999 316,5 84,8

2000 314,7 87,7

2001 340,1 98,3

2002 423,6 109,3

2003 448,6 116,3

2004 513,8 120,8

2005 570,0 122,5

Nguồn: [42, 279-280]

2006 612,1 122,7

Năng suất chè Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ bằng 52% năng

suất bình quân Châu Á và 50% năng suất thế giới (1997). [22, 122]

Năm 1999 năng suất chè của Việt Nam đạt 3,68 tấn chè tươi/ha trong khi

năng suất chè của Silanka là 5,4 tấn chè tươi/ha, Ấn Độ là 7,8 tấn chè tươi/ha,

Malaysia là 10,3 tấn chè tươi/ha. Chè Việt Nam đứng thứ 10 thế giới về sản

58

lượng. Sản lượng chè búp tươi năm 2000 là 314,7 nghìn tấn, đến năm 2004 là

513,8 nghìn tấn, năm 2005 là 570 nghìn tấn, năm 2006 là 612,1 nghìn tấn. Xu

hướng này vẫn còn tiếp tục tăng lên trong những năm tiếp theo.

- Tình hình xuất khẩu:

Hiện nay, Việt Nam được xếp vào hàng thứ 8 thế giới về sản xuất chè, là

một trong những nước đứng đầu thế giới về diện tích trồng chè và sản lượng chè.

Khoảng trên 50% sản lượng chè Việt Nam sản xuất thường được mang ra trao đổi

trên thị trường thế giới, chiếm khoảng 2- 3% thị phần chè xuất khẩu của thế giới.

Mặc dù khối lượng xuất khẩu chè của Việt Nam không phải là lớn, nhưng Việt

Nam có lợi thế về chè xanh. Việt Nam được xếp vào nước xuất khẩu chè lớn thứ 7

của thế giới và Bộ thương mại Việt Nam xếp chè là ngành có năng lực cạnh tranh

trung bình.

Biểu 2.13: Số lượng và khả năng xuất khẩu chè của Việt Nam.

- KNXK: triệu USD.

- Giá XKBQ: USD/tấn

Đơn vị tính: - Sản lượng: nghìn tấn.

Số lượng Kim ngạch Giá xuất khẩu Năm

1995 18,8 24,7 1314

1996 20,8 28,7 1379

1997 33,0 48,3 1464

1998 33,0 50,5 1530

1999 36,0 45,1 1253

2000 55,7 69,6 1250

2001 68,0 78,1 1149

2002 77,0 83,0 1078

2003 58,6 58,4 997

2004 94,3 95,6 1014

2005 87,9 96,9 1102

59

6 tháng đầu 43,8 43,5 993

Nguồn: [43, 100-149] Tổng cục thống kê

năm 2006

Nhìn chung cả kim ngạch và khối lượng xuất khẩu chè của Việt Nam còn

nhỏ bé (mặc dù tiềm năng sản xuất và xuất khẩu rất lớn). Khối lượng và KNXK

chè hàng năm đều tăng lên, song không nhiều. Năm 1999, kim ngạch giảm mạnh

từ 50,5 triệu USD năm 1998 còn 45,1 triệu USD do giá chè giảm (năm 1998 giá

chè xuất khẩu là 1530 USD/tấn, nhưng năm 1999 chỉ đạt 1253 USD/tấn). Tuy

nhiên, từ năm 2000 sản lượng xuất khẩu chè Việt Nam tăng nhanh đã giúp KNXK

chè của Việt Nam tiếp tục tăng: năm 2000 KNXK đạt 69,6 triệu USD với sản

lượng 55,7 nghìn tấn. Năm 2001 con số tương ứng là 78,1 triệu USD tăng 12% so

với năm 2000 và sản lượng đạt 68,0 nghìn tấn tăng 22% so với năm 2000. Năm

2002 KNXK đạt 83,0 triệu USD tăng 6%, sản lượng đạt 77,0 nghìn tấn tăng 13%

so với năm 2001. Nhưng đến năm 2003 mức xuất khẩu chè sụt giảm mạnh xuống

còn 58,6 nghìn tấn, kim ngạch đạt 58,4 triệu USD (do có chiến tranh Irắc). Sang

năm 2004 sản lượng xuất khẩu chè đạt 94,3 nghìn tấn, tăng 60%; kim ngạch đạt

95,6 triệu USD tăng 63% so với năm 2003; năm 2005 sản lượng chè xuất khẩu

giảm 6,4 nghìn tấn nhưng KNXK lại tăng nhẹ 1,3 triệu USD. Năm 2006 ngành

chè Việt Nam đã vượt qua được nhiều khó khăn để đạt được những tiến bộ trong

sản xuất, kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Lần đầu tiên KNXK chè

vượt qua mức 100 triệu USD và đạt tới gần 110 triệu USD, tăng 10 triệu USD so

với năm 2005. Bước vào năm 2007 (năm đầu tiên chính thức hội nhập), mức thuế

xuất nhập khẩu chè có thể lên tới 150%, cộng với những chính sách hỗ trợ của

nông nghiệp đối với cây chè dần phải cắt giảm, do đó việc xuất khẩu chè gặp

nhiều khó khăn hơn. Ngành chè Việt Nam đang bị Anh, EU, và nhiều nước khác

cảnh báo có dư lượng thuốc trừ sâu vượt mức cho phép nhiều lần. Tuy nhiên, tình

hình xuất khẩu chè trong quí I năm 2007 của cả nước vẫn tương đối khả quan với

KNXK ước tính lên tới 21 triệu USD, sản lượng xấp xỉ 21 nghìn tấn, tăng 2% về

60

trị giá và 4% về sản lượng so với cùng kỳ năm 2006. Ngành chè Việt Nam phấn

đấu đưa KNXK chè năm 2007 lên 140 triệu USD.

Về thị trường xuất khẩu:

Năm 2005 sản phẩm chè của Việt Nam đã được xuất khẩu sang 57 quốc

gia và vùng lãnh thổ thì năm 2006 đã có mặt ở 63 thị trường trên thế giới, nhưng

các sản phẩm chè của Việt Nam vẫn chiếm vị trí khiêm tốn. Do xuất khẩu chủ yếu

dưới dạng sơ chế, chất lượng chè không cao nên KNXK đạt thấp, thị trường xuất

khẩu chưa thực sự vững chắc. Trước kia, chè của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu

sang thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Tình hình kinh tế, chính trị, xã

hội ở khu vực này có nhiều biến động làm ta mất phần lớn thị trường xuất khẩu

(60%). Sau khi chuyển đổi cơ chế, hiệp hội chè Việt Nam (VITAS) đã nhanh

chóng thành lập công ty cổ phần chè Việt - Anh tại Luân Đôn, nhằm thúc đẩy xuất

khẩu chè sang các nước thuộc khối liên hiệp Anh. Đây là một liên doanh có ý

nghĩa để xâm nhập vào các thị trường khó tính và có nhu cầu lớn như: Anh, Đức,

Irắc, Nhật Bản,.... Mặt khác chúng ta cũng giữ vững những thị trường truyền

thống của Việt Nam trước kia, đặc biệt là các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Năm

2002, Việt Nam xuất khẩu 77 nghìn tấn chè, trong đó các nước nhập khẩu chính

gồm Irắc (chiếm 20,5%); Đài Loan ( gần 18%); Nga (gần 5%)... Năm 2003 lượng

xuất khẩu sang thị trường Irắc giảm mạnh gây ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất

khẩu cả năm, chúng ta dã cố gắng duy trì và mở rộng các thị trường khác: Đài

Loan (gần 25%); Nga (6,4%), Nhật (5,9);... Hiện nay chúng ta đang xuất khẩu

nhiều nhất tới Pakistan, Ấn Độ, Nga, Trung Quốc và Đài Loan.

61

Biểu 2.14: Thị trường xuất khẩu chính của chè Việt Nam 6 tháng đầu

năm 2006.

Tên Tấn Nghìn USD Thị phần(%) S

tt nước

Tổng 43814 43508 100% 1

số

2 Đài 17,9 7838 8668

Loan

3 ấn 14,8 6488 4675

Độ

4 Nga 9,3 4083 3953

5 Trung Quốc 7,1 3132 3259

6 Ba 2,7 1200 956

Lan

7 Mala 1187 508 2,7

ixia

8 Hà 2,6 1159 1228

Lan

9 Inđô 2,5 1084 792

nêxia

1 Irắc 2,3 999 1309

0

1 Đức 2,1 901 982

Nguồn: [30, 26]

1

Việt Nam hiện nay đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau và xuất

khẩu ra thế giới 6 loại chè, phần lớn vẫn là chè đen (gần 60%), còn lại là chè xanh

và một số ít các loại chè khác nhau. Một số các loại chè Việt Nam được ưa

62

chuộng trên thị trường thế thế giới là chè ô long, chè nhài. Hiện nay thị trường

Đài Loan đang tiêu thụ rất mạnh chè ô long chất lượng cao của Việt Nam. Tuy

nhiên, thị trường chè xuất khẩu của Việt Nam chưa thực sự ổn định, do chất lượng

chè Việt Nam không cao và được bán dưới dạng nguyên liệu là chính. Công nghệ

chế biến chè còn lạc hậu, quy mô nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, làm

giảm uy tín chè xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới (với 33 tỉnh có trồng

chè, tổng diện tích cây chè ở Việt Nam khoảng 125.000 nghìn ha, lượng chè

nguyên liệu đạt khoảng 577.000 tấn, chỉ bằng một nửa công suất của 600 doanh

nghiệp chế biến chè hiện có). Mặt khác việc xây dựng thương hiệu cho chè cũng

chưa được quan tâm. Chỉ mới gần đây, chè của Việt Nam mới được các nhà nhập

khẩu biết đến với biểu tượng chè Balá - tên giao dịch là Vinatea, còn hầu hết chè

Việt Nam xuất khẩu phải qua trung gian, mang thương hiệu của nước khác, dẫn

đến thực tế là cho dù 80% sản lượng chè thành phẩm được xuất khẩu, chúng ta

đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu chè nhưng bức tranh tổng thể về xuất khẩu chè

của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm đáng lo ngại, nhất là trong giai đoạn đất nước

thực hiện các cam kết với WTO.

Trên thế giới, những nước sản xuất chè lớn nhất là Ấn Độ, Trung Quốc,

Sirilanka, Kenya, Banglades chiếm tới 72-76% sản lượng chè thế giới. Đồng thời

năm nước này là những nước xuất khẩu chè lớn tới 78- 80% thị phần thế giới.

Việt Nam là nước xuất khẩu chè đứng thứ 7 trên thế giới. So sánh xuất khẩu chè

của Việt Nam với đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, Sirilanka chúng ta thấy sản

lượng xuất khẩu chè của Việt Nam còn rất nhỏ bé so với các nước Ấn Độ,

Sirilanka: Năm 1991 chỉ bằng 3% sản lượng xuất khẩu chè của Sirilanka, và bằng

3,7% của Ấn Độ. Năm 1995 có tăng lên, hai nước kia lại giảm xuống, nhưng sản

lượng xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 12% của Ấn Độ, và bằng 10,5%

Sirilanka. Năm 2000 Việt Nam tiếp tục tăng sản lượng xuất khẩu (gấp 3 lần năm

1995), nhưng cũng chỉ bằng 19,3% Sirilanka và bằng 27% của Ấn Độ; năm 2004

Việt Nam tăng xuất khẩu gấp 1,8 lần năm 2000 nhưng cũng mới bằng 57% Ấn Độ

và bằng 33,2% của Sirilanka. Sản lượng xuất khẩu thấp dẫn tới KNXK thấp là

63

bình thường. Tuy nhiên ở đây đáng chú ý là giá chè xuất khẩu của Việt Nam còn

quá thấp, mới chỉ bằng một nửa hoặc thấp hơn giá chè xuất khẩu của Ấn Độ và

Sirilanka, bởi chất lượng chè của Việt Nam thấp. Do đó, muốn tăng KNXK và sản

lượng xuất khẩu chè cho tương xứng với tiềm năng thì phải làm sao để tăng được

chất lượng chè Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu.

64

- KNXK: triệu USD.

- Giá XKBQ: USD/tấn

Biểu 2.15: Tình hình xuất khẩu chè của Ấn Độ, Silanka, Việt Nam. Đơn vị tính: - Sản lượng: nghìn tấn.

Sirilanka

ViÖt Nam

Ấn §é

Năm

S.

Giá

Giá

KNXK Giá BQ S.lượng KNXK

S.Lượng KNXK

Lượng

BQ

BQ

1991 216.4

496.7

2.01

7

2.295 212.4 428.83

9

7.95

9.22 1.16

3

1992 168.0

371.0

181.6

1.24

1.88

9

2.208

8

342.58

6

12.97 16.12

3

7

1993 154.2

338.9

135.1

0.95

1.96

3

2.197

9

265.08

1

21.2

20.3

8

8

1994 151.4

312.1

115.5

1.09

1.82

5

2.061

2

211.05

7

23.5

25.8

8

5

1995 158.7

363.0

178.4

2.09

1.01

5

2.287

9

373.12

18.8

19

1

6

1996 139.5

290.3

219.4

1.44

2.15

8

2.081

3

472.65

4

20.8

30

2

5

1997

268.5

1.46

2.69

193.7 506.6 2.615

6

723.12

3

32.9

48.24

6

1998

553.1

268.5

2.80

210.4

4

2.629

6

754.02

8

33

50.5 1.53

1999 179.3

414.6

268.5

2.28

1.25

1

2.312

6

612.3

36

45.15

4

3

2000 202.3

440.1

269.3

1.25

2.56

2

2.175

2

691.19

6

55.6

69.6

2

7

2001 180.1

382.9

288.2

1.15

2.39

9

2.126

2

689.22

1

67.9

78.41

5

5

2002

342.0

294.9

1.06

2.23

184.4

3

1.855

2

659.75

7

77

82

5

2003 177.7

351.7

291.8

0.97

2.34

8

1

1.978

1

683.14

1

59.8

58.39

6

65

2004 175.8

351.7

298.3

0.96

2.48

1

2.317

8

740.75

3

99.4

95.55

1

9

2005 161.5

406.5

277.0

2.60

4

2.517

7

721.8

5

95.74

2

Nguån: Fao. 2006, 2007

66

2.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu hàng

nông sản chủ yếu của Việt Nam

2.2.1. Những thành tựu và các chính sách liên quan đến XKNS

Nông nghiệp Việt Nam những năm qua đã đạt được những thành tựu

đáng kể: chuyển từ nền nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa theo

định hướng thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nâng cao thu nhập

và đời sống cho đại bộ phận dân cư, đồng thời hướng mạnh ra xuất khẩu. Tình

hình XKNS đã có sự cải thiện cơ bản.

Nông lâm sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng khoảng 30% khối lượng hàng

nông sản thực phẩm sản xuất ra, tỷ lệ này biến đổi tùy theo từng ngành hàng: lúa

gạo 20%, rau quả 15%, cà phê 95%, cao su 85%, hạt điều 90%, chè 75%, hạt tiêu 98%.

XKNS trong những năm qua đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự

tăng trưởng xuất khẩu chung và phát triển nền kinh tế đất nước, có những năm

chiếm trên 30% tổng KNXK hàng hóa của cả nước (1991- 1995), sau đó tỷ trọng

hàng NSXK giảm dần, giai đoạn những năm 1996 - 2000 còn 22,7%, giai đoạn

2001- 2005 chỉ còn 15,3%. Nhiều mặt hàng có lượng và giá trị xuất khẩu cao

như gạo, cà phê, hạt tiêu, điều nhân... đã khẳng định vị thế của XKNS Việt Nam

trên thị trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã vươn lên chiếm vị trí thứ nhất trên

thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; thứ 2 về xuất khẩu gạo (sau Thái Lan), hạt điều

(sau Ấn Độ), cà phê (sau Braxin); đứng thứ 3 về xuất khẩu cao su (sau Thái Lan

và Malaysia); đứng thứ 7 về xuất khẩu chè. KNXK những mặt hàng như cao su,

lâm sản... tăng vượt hẳn so với những năm trước do có sự cải thiện về chất lượng

hàng hoá và có thị trường: năm 2003, KNXK cao su gấp 2,2 lần so với năm

1996, lâm sản tăng gấp 2,8 lần.

67

Biểu 2.16: Tốc độ tăng tưởng bình quân 5 năm (%) và trị giá bình

quân năm của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.

- 2005 (triệu USD)

Mặt 1986-1990 1991- 1995 1996- 2000 2001- 2005 Trị giá BQ năm 1996

hàng

Gạo 4,7 16, 574,7 11, 93,

1 7 6

Cà phê -3,5 8,0 337,1 45, 37,

3 2

11, Chè 0,5 22, 6,9 62,1

Nguồn: Tổng cục Thống kê

9 4

- Tổng KNXK nông sản tăng nhanh trong thời gian qua, giai đọan 1991-

2000 KNXK nông sản tăng bình quân 17,85/năm sau đó giảm nhẹ vào năm 2001-

2002, và hồi phục nhanh kể từ năm 2003- 2004. Đến năm 2005 giá trị xuất khẩu

nông sản đã đạt gần 5,7 tỷ USD. KNXK nông sản ngày một tăng, thể hiện sự phát

triển nhanh chóng của sản xuất nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Trong khi đó tỷ

trọng nông nghiệp trong GDP giảm (từ 42,1% năm 1989 xuống còn 24,8% năm

1998 và 23% năm 2000, 21% năm 2005). Điều này thể hiện sự thay đổi theo chiều

hướng tiến bộ trong cơ cấu của nền kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất

nước theo hướng CNH, HĐH. Đồng thời XKNS vẫn tiếp tục đóng vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy tiến

trình CNH, HĐH.

Cùng với sự chuyển đổi về thị trường xuất khẩu hàng hóa nói chung, thị

trường nông sản cũng dịch chuyển dần từ thị trường khu vực tiền Rúp (thị trường

các nước xã hội chủ nghĩa, Liên Xô cũ, và các nước Đông Âu) sang thị trường khu

68

vực II (tiền USD). Đổi mới và năng động trong quá trình tìm kiếm thiết lập và mở

rộng thị trường, đến nay hàng hóa nông sản Việt Nam đã xâm nhập được hầu hết

các thị trường trên thế giới. Hiện nay hàng nông lâm sản Việt Nam được xuất khẩu

sang khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhiều mặt hàng đã có thị

trường ổn định và có bạn hàng lớn. Ví dụ: gạo Việt Nam từ năm 1990 - 1992 chỉ

xuất khẩu sang được 15 nước, đồng thời phải qua trung gian thì đến năm 2000 đã

có mặt trên 50 nước và nay là hơn 60 nước; cà phê năm 2000 là trên 40 nước, nay

khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ, chè năm 2000 là 42 nước, nay đã sang 57 nước

và vùng lãnh thổ,... Sự thay đổi đó tuy có khác nhau theo các loại sản phẩm và hiệu

quả của nó và còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng dù sao cũng khẳng định xu

hướng mở rộng thị trường cho các hàng hóa nông sản.

Tuy nhiên, một mặt do thị hiếu, nền văn hoá có nhiều nét tương đồng, mặt

khác công nghiệp chế biến chậm phát triển, xuất khẩu đi các thị trường xa còn hạn

chế, nên thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên dưới 70%) tổng lượng

XKNS của nước ta, với các thị trường chính như: Trung Quốc (rau quả, hạt tiêu,

hạt điều, cao su...), Đài Loan (rau quả, chè...), Philipin, Inđônêsia và Malaysia

(gạo), Nhật Bản (rau quả chế biến, chè...), Irắc (gạo, chè, dầu thực vật, sữa). Các

thị trường khác cũng đang được các doanh nghiệp XKNS Việt Nam chú ý và mở

rộng khai thác.

Xuất khẩu nông, lâm sản ngày càng tăng về khối lượng, đa dạng hoá mặt

hàng, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm nên đã thu hẹp được khoảng cách

chênh lệch giữa giá NSXK với giá thế giới. Trong cơ cấu xuất khẩu, tỷ trọng hàng

nông sản chế biến tăng hơn trước, từ 8% năm 1991 tới nay chiếm hơn 40% số

lượng hàng hóa xuất khẩu. Điều đó minh chứng cho mối quan hệ mật thiết gắn bó

giữa quá trình CNH, HĐH với XKNS: KNXK được nâng cao, hàm lượng chế biến

trong nông sản tăng lên rất nhiều nên có thể cạnh tranh được với những hàng hóa

của các nước khác, giá bán của các sản phẩm này sẽ cao hơn so với những sản

phẩm trước đây chỉ mới qua sơ chế do đó KNXK sẽ tăng lên. Ngược lại khi KNXK

69

tăng có nghĩa là chúng ta thu được nhiều ngoại tệ để quay trở lại thực hiện CNH,

HĐH. Hình thức xuất khẩu hàng hoá cũng đã chuyển dần từ gián tiếp sang trực

tiếp, làm tăng hiệu quả XKNS và góp phần phát triển kinh tế đất nước đồng thời

thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế thế giới

XKNS trong thời gian qua không chỉ đem lại nhiều ngoại tệ mà còn tạo

thêm công ăn việc làm trong nước thông qua các hoạt động thu gom, vận chuyển,

phân loại, chế biến hàng nông sản ở vùng, địa phương. Điều này sẽ thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và

dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Mặt khác, XKNS góp phần làm cải thiện đời

sống nhân dân đóng góp tích cực vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Chính

phủ, vì đa số người nghèo và lực lượng lao động là trong ngành nông nghiệp.

Năm 2001 ngành nông nghiệp tạo công ăn việc làm cho khoảng 24 triệu người

(chiếm 70% lực lượng lao động so với 80% trong tổng số 12 triệu hộ gia đình

nông thôn phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ dân

số sống ở mức dưới nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc tế giảm một nửa từ 58% năm

1993 xuống còn 29% năm 2004 (FAO, 2005), GDP bình quân đầu người tăng từ

200 USD lên 400 USD và đạt 600 USD trong năm 2005 (song vẫn là một trong

những nước nghèo nhất ở Đông Á).

Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng

và Chính phủ và sự phối hợp linh hoạt, kịp thời của các cấp, các ngành trong

việc cụ thể hoá các chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao tính cạnh tranh

của hàng hóa, tích cực khai thác, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản.

Nhận định của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng, cải cách chính

sách đã đóng góp khoảng 50% trong thành tựu của đất nước nói chung và cho

nông nghiệp nói riêng.

Chính sách của Nhà nước thay đổi phù hợp với yêu cầu phát triển của

từng giai đoạn: trong thập niên 90, Việt Nam chủ yếu tập trung vào tăng trưởng

sản lượng nhằm thoả mãn nhu cầu trong nước, thay thế hàng nhập khẩu; từ năm

70

2000, đã có sự điều chỉnh theo hướng phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu thị

trường cả trong và ngoài nước. Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP, ban hành ngày

15/6/2000 về một số chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu

thụ sản phẩm nông nghiệp đã đề ra phương hướng phát triển lâu dài và tích cực

đối với nền kinh tế đất nước, trong đó có kinh tế nông nghiệp; tạo ra bước

chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; công tác khuyến nông,

khoa học kỹ thuật, cảiS tiến công nghệ được quan tâm; sản xuất từng bước được

điều chỉnh theo yêu cầu thị trường, tăng nguồn hàng hoá chất lượng cao và góp

phần tăng nhanh KNXK.

Trong lưu thông và tiêu thụ nông sản cũng có những đổi mới quan trọng

trong hệ thống chính sách: bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính, quan liêu trong quản

lý kinh doanh thương mại trong nước và các cơ chế, chính sách hạn chế xuất

nhập khẩu; cho phép tự do lưu thông nông sản hàng hóa; khuyến khích và tạo

điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, nhất là thành phần tư nhân, tham gia tiêu

thụ nông sản hàng hoá.

Năm 2002, Chính phủ đã ban hành QĐ số 80/2002/QĐ - TTg để khuyến

khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký hợp đồng tiêu thụ nông

sản hàng hoá với người sản xuất, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản,

tạo nguồn hàng ổn định cho thị trường.

Các chính sách về xuất khẩu được thay đổi theo hướng chuyển từ bảo hộ

trong nước sang khuyến khích xuất khẩu: Bỏ cơ chế hạn ngạch, đầu mối xuất

khẩu đối với các mặt hàng trọng yếu như gạo, đường, phân bón, cà phê ... (năm

1996 bỏ đầu mối xuất khẩu cà phê, năm 1998 bỏ đầu mối xuất nhập khẩu, năm

2001 bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với gạo); Thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu

(1999), Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (2001) để khuyến khích hoạt động xuất

khẩu (thưởng theo kim ngạch và thành tích xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân

hàng,...); Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại cả ở cấp trung ương và địa

phương, thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia...

71

Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg, ngày 04/04/2001 về Quản lý xuất khẩu,

nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 của Thủ tướng Chính phủ là bước tiến

quan trọng trong cải cách chính sách thương mại; ban hành quy chế điều hành

xuất nhập khẩu ổn định và lâu dài hơn trước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ

động hơn trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh; tạo

hành lang thông thoáng trong hoạt động xuất nhập khẩu; giảm bớt các hàng rào

phi thuế quan, tăng những công cụ kinh tế phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế

quốc tế.

Các biện pháp quản lý xuất khẩu chuyển dần từ quản lý hành chính sang

tiêu chuẩn chất lượng. Các doanh nghiệp được hướng dẫn áp dụng chặt chẽ các

tiêu chuẩn hàng hoá, thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm soát chất lượng hàng hoá

xuất khẩu. Vấn đề nhãn mác, chất lượng hàng hoá được đặc biệt quan tâm.

Về phía Chính phủ, đã và đang tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác song

phương và đa phương, từng bước đàm phán tham gia các tổ chức thương mại

quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xâm nhập thị trường nước ngoài;

khuyến khích các chương trình hợp tác quốc tế và các hoạt động ngoại giao

hướng tới mở rộng quan hệ thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ nông lâm

sản của Việt Nam. Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Việt

Nam cũng soạn thảo nhiều luật lệ, chính sách mới cho phù hợp với thông lệ quốc

tế. Nghị định của chính phủ về quy chế tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia

(CNT), chống bán phá giá, chống độc quyền... Quyền hạn và trách nhiệm của các

cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Việt Nam tại nước ngoài được tăng

cường, góp phần tích cực trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.

2.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu nông sản:

Sau khủng khoảng kinh tế năm 1998 -1999, tăng trưởng kinh tế của nhiều

nước bị đình trệ làm giảm nhu cầu nhập khẩu; nguồn cung nhiều mặt hàng nông

sản trên thị trường thế giới lại lớn hơn cầu... làm cho giá của hầu hết các mặt

hàng nông sản trên thế giới giảm nghiêm trọng. Trong xu thế giảm giá chung, giá

72

xuất khẩu những mặt hàng nông sản có khối lượng và kim ngạch lớn của nước ta

như gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, cao su... đều giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng

trưởng KNXK của toàn ngành. Nếu so sánh KNXK năm 2003 với năm 1998 (là

năm giá cả nhiều mặt hàng nông sản khá cao), yếu tố giảm giá làm thiệt hại về

giá trị trên 1,3 tỷ USD. Giá hạt điều xuất khẩu có năm đạt 5.968 USD/tấn (năm

1999), năm 2002 giảm xuống mức thấp nhất 3.358 USD/tấn; cà phê năm cao

nhất đạt trên 2.400 USD/tấn (1995), từ năm 1999 bắt đầu giảm mạnh, năm 2001

xuống mức thấp nhất là 420,2 USD/tấn; giá tiêu năm 1998 đạt 4.271 USD/tấn,

đầu năm 2004 chỉ còn khoảng 1.200 - 1.300 USD/tấn; mức giá chè xuất khẩu cao

nhất là 1.521,1 USD (1998), đến nay chỉ còn trên dưới 1.000 USD/tấn...

Xuất khẩu nông sản chưa thực sự đạt hiệu quả cao do:

- Thứ nhất: Khả năng cạnh tranh của nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam

trên thị trường thế giới còn thấp, mẫu mã, chủng loại đơn điệu. Một số nông sản

chưa có chất lượng cao do hạn chế trong việc nghiên cứu và đưa giống mới ưu

việt hơn vào canh tác hay chưa áp dụng những thành tựu của công nghệ sinh học

vào sản xuất. Ngay cả một số nông sản chủ lực của Việt Nam như gạo, mặc dù

đứng thứ 2 thế giới nhưng xét về mặt chất lượng lại kém xa gạo Thái Lan. Gạo

xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là loại gạo trắng (95%), phẩm cấp trung bình và

thấp do đó về lượng thì xuất khẩu nhiều nhưng giá trị KNXK lại đạt thấp. Trong

khi nhu cầu thị trường thế giới, nhất là Mỹ, Nhật, EU lại cần gạo thơm ngon, dài,

chất lượng cao. Ví dụ năm 2005, công ty Minh Các (nhãn hiệu gạo Kim Kê) dù

đã nhận được hợp đồng xuất khẩu gạo đi Mỹ, khách hàng đã đồng ý bao gói, quy

cách, nhưng khi so sánh với gạo Thái Lan thì họ lại chê không nhập nữa. Cà phê

xuất khẩu của Việt Nam cũng đứng thứ 2 trên thế giới nhưng giá trị chưa tương

xứng với tiềm năng, do Việt Nam chủ yếu xuất khẩu loại cà phê vối Robusta

(chiếm 90%) giá trị thấp.

Biểu 2.17: Các loại gạo của Việt Nam so với gạo Thái Lan:

Loại gạo Việt Nam Thái Lan

73

Chất lượng cao 45%( trong đó 5% 66%(trong số

(5- 10% tấm) là gạo đặc sản) 100% gạo, gạo thơm

chiếm 48- 50%)

Chất lượng trung 20% 10%

bình (15-20% tấm)

Chất lượng kém 35% 24%

Nguồn: Bộ Nông nghiệp - PTNT

(25-35% tấm)

Đối với mặt hàng chè cũng vậy, theo đánh giá của các cơ quan chuyên

môn hiện nay giống chè Việt Nam rất nhiều: giống chè trung du chiếm 59% diện

tích; giống chè Shan chiếm 27,3% diện tích và gần đây chúng ta mới nhập một số

giống chè của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản,... nhưng trong sản xuất, gieo

trồng đại trà vẫn là giống chè địa phương, mặc dù đây không phải là những giống

chè có chất lượng, năng suất cao (ước tính chỉ có khoảng trên 10%); chè Việt

Nam trồng chủ yếu bằng hạt, trong khi đó thế giới chủ yếu trồng bằng khóm, điều

này ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất cũng như chất lượng xuất khẩu.

- Thứ 2: Thị trường XKNS của ta chưa được thiết lập bền vững, thậm chí

một số thị trường cũ bị co hẹp lại, một phần do việc thu thập và xử lý thông tin thị

trường chậm và không đồng bộ nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động điều hành xuất

khẩu. Ví dụ: Irắc trước đây nhập khẩu gạo Việt Nam với khối lượng rất lớn năm

1995 nhập 91,2 nghìn tấn, năm 2000 lên 561,3 nghìn tấn thì đến năm 2005 chỉ còn

7,0 nghìn tấn; Thụy Sỹ năm 2000 nhập 140 nghìn tấn cà phê của Việt Nam, thì

năm 2005 chỉ còn 27,1 nghìn tấn. Thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam so với

thế giới vẫn còn nhỏ, dàn trải, doanh nghiệp chưa tạo cho mình được thị trường

trọng điểm. Thị trường xuất khẩu chè từ một nghìn tấn trở lên chỉ đếm trên đầu

ngón tay, trong khi thị trường dưới 100 tấn chiếm khoảng một nửa.

- Thứ 3: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thay đổi chậm, chủ yếu xuất khẩu

hàng thô và sơ chế giá trị gia tăng thấp, nhiều sản phẩm được bảo quản bằng các

phương pháp thủ công, không qua công nghệ chế biến và bảo quản hiện đại. Ví dụ

74

: hạt tiêu của Việt Nam là mặt hàng nông sản có vị trí đứng đầu thế giới, mỗi năm

sản xuất khoảng 100.000 tấn hạt tiêu, chiếm 30% sản lượng thế giới với kim

ngạch mang về mỗi năm hơn 150 triệu USD, thế nhưng tỷ lệ sản phẩm cao, tức đã

qua chế biến chỉ khoảng 35%, còn 65% vẫn là “hàng thô”. Nếu xuất khẩu hạt tiêu

qua chế biến giá xuất khẩu sẽ cao hơn gấp 1,7 lần so với hạt tiêu nguyên liệu thô,

tức kim ngạch có thể còn cao hơn nữa. Xuất khẩu cà phê gần 100% được bán dưới

dạng thô cho các nhà chế biến. Xuất khẩu chè dưới dạng nguyên liệu là chính...

Chính vì vậy giá trị sản phẩm thấp, dẫn tới trị giá XKNS chưa tăng tương ứng với

vị trí của mình.

Công nghệ chế biến cũng là vấn đề cần bàn. Theo số liệu thống kê hiện

nay, cả nước có khoảng gần 600 doanh nghiệp chế biến chè chuyên nghiệp. Tuy

một số cơ sở được trang bị mới, xây dựng chế độ quản lý chất lượng ISO, song

hiện vẫn còn rất nhiều cơ sở chế biến quy mô nhỏ, các lò chế biến thủ công hộ gia

đình phục vụ cho thị trường nội địa với công nghệ chế biến lạc hậu. Thực tế cho

thấy, công nghệ hiện có của các cơ sở này đều được nhập từ Liên Xô cũ, chưa kể

hầu hết các dây chuyền, thiết bị đã thay thế bằng các phụ tùng trong nước nhiều

lần, không bảo đảm tính đồng bộ. Mặc dù những năm gần đây Việt Nam đã đầu tư

những dây chuyền chế biến chè hiện đại hơn của Ấn Độ, song vẫn còn lạc hậu so

với các nước tiên tiến. Đấy cũng là một trong những nguyên nhân chính làm giảm

uy tín chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới, hàng nông sản của

Việt Nam chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị

trường khó tính như : Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Nhiều mặt hàng khác cũng trong

tình trạng tương tự, hệ thống nhà máy xay xát đánh bóng gạo xuất khẩu những

năm gần đây tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số

lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở các thành phố lớn, như: Tp Hồ Chí Minh; Cần

Thơ; Mỹ Tho;... Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều lúa hàng hóa

phục vụ xuất khẩu khác như ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng đồng bằng sông

Hồng, duyên hải Nam Trung Bộ.... lại không có các nhà máy chế biến và đánh

bóng gạo xuất khẩu hiện đại.

75

- Thứ 4: Cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu còn yếu cả về hệ thống kho

tàng bảo quản, hải cảng chuyên dụng, hệ thống thương mại chưa được xây dựng

đồng bộ... đã ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa và tiến độ thực hiện xuất khẩu.

Theo nghiên cứu sơ bộ, tỷ lệ hao hụt của lúa hè thu có vụ lên khoảng 10-

15%. Tại đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng lương thực nói chung và lượng

lúa xuất khẩu nói riêng rất lớn trong khi hệ thống kho tàng để tồn trữ, bảo quản

đạt tiêu chuẩn lại quá ít, đa số do người dân tự bảo quản. Theo ước tính của Bộ

nông nghiệp và phát triển nông thôn, thất thoát nông sản dạng hạt bình quân vào

khoảng 18%/năm, dạng củ và quả trên 22%/năm. Đây là tỷ lệ khá cao so với mức

hao hụt bình quân 10% của các nước khác trong khu vực. Công nghiệp chế biến

yếu và tổn thất sau thu hoạch lớn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, giá thành và

sức cạnh tranh của sản phẩm NSXK.

Cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền

nông nghiệp hàng hóa, vẫn còn 50% đường xã, 30% đường huyện và đường nông

thôn vùng cao đi lại khó khăn. Cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại như chợ, cửa

hàng, bến bãi và phương tiện giao thông phục vụ buôn bán còn thiếu,... Những trở

ngại này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngoại thương, tới khả năng xuất

khẩu của các vùng kinh tế nông thôn.

- Thứ 5: Công tác tiêu chuẩn chất lượng, thương hiệu, nhãn mác và uy tín

hàng hóa Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo được hình ảnh đẹp

về hàng hóa Việt Nam đới với khách quốc tế. Một số chủng loại nông phẩm như

rau quả tươi và rau tươi có thị trường nhập khẩu song phần lớn không đáp ứng

được yêu cầu của nước nhập khẩu do dư lượng kháng sinh trong sản phẩm quá

cao hay đã sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản thực vật độc hại.

Hiện nay, 90% nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường nước ngoài

qua trung gian dưới các thương hiệu của các nước khác nên người tiêu dùng thế

giới chưa biết nhiều về những nét đặc thù của nông sản Việt Nam. Nhiều mặt

hàng nông sản của Việt Nam có vị trí cao trên thị trường thế giới, như đứng đầu

về hồ tiêu, thứ 2 là gạo và cà phê, các sản phẩm khác như hạt điều, chè, xuất khẩu

76

thuỷ sản đều ở mức cao, song theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hầu

hết các mặt hàng nông sản xuất ra nước ngoài đều được bán dưới dạng thô hoặc

sơ chế nên chưa tạo giá trị cao để tăng lợi nhuận cho nông dân. Thêm vào đó,

nông sản Việt Nam chủ yếu xuất ra thị trường nước ngoài là chưa có thương hiệu,

nên thiệt hại hàng trăm triệu USD mỗi năm. Đắc Lắc là địa phương sản xuất và

xuất khẩu cà phê lớn nhất nước, lượng xuất khẩu hàng năm đạt 400.000 tấn. Chủ

tịch UBND tỉnh Đắc Lắc Nguyễn Văn Lạng thừa nhận “cái giá mà Đắc Lắc hiện

đang phải trả là chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm cà phê”. Gần

100% được bán dưới dạng thô cho các nhà chế biến, sau đó sản phẩm cà phê được

mang thương hiệu khác trước khi đến tay người tiêu dùng. Tính sơ bộ mỗi năm,

địa phương này “mất ăn” khoảng 100 triệu USD từ tiền xuất khẩu cà phê. Hồ tiêu,

chè, ... của Việt Nam cũng rơi vào tình trạng tương tự, vì vậy mà giá bán nông sản

của Việt Nam thương thấp hơn các nước khác. Theo tiến sĩ Võ Mai, chủ tịch hiệp hội

trái cây Việt Nam “Hậu quả không những thiệt hại về tiền mà còn làm thiệt hại về tên

tuổi”.

Việt Nam chưa có nhiều vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế

biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ

đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém

hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều

đó làm cho giá XKNS Việt Nam thấp hơn các nước khác. Vì vậy, xây dựng

thương hiệu cho nông sản Việt Nam đang là vấn đề cấp bách nhằm giảm thiệt hại

cho nông dân, doanh nghiệp và nâng cao vị thế của nông sản Việt Nam trên thị

trường quốc tế

- Thứ 6: Nguồn tài chính của Nhà nước và doanh nghiệp còn hạn hẹp. Nhà

nước cũng đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn về đầu tư phát triển sản xuất

như: đầu tư thủy lợi, cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, đầu tư vào các vùng sản

xuất chuyên canh, vùng nguyên liệu; đầu tư vào các chương trình mục tiêu lớn

của quốc gia... nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển nông nghiệp,

đặc biệt đối vơí các ngành sản xuất- chế biến xuất khẩu. Theo Bộ Nông nghiệp -

77

PTNT, thì tới năm 2010, hàng năm cần 1,2-1,5 tỷ USD; trong giai đoạn 2010-

2020, mỗi năm cần 2-3 tỷ USD để xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu,

xây dựng các cơ sở công nghiệp nông nghiệp và nông thôn, nhưng khả năng đáp

ứng đang còn là khoảng cách khá lớn (mức độ đáp ứng mới chỉ đạt 45-50%). Dù

nông nghiệp đóng góp khoảng 23,7% GDP và thu hút 70% lực lượng lao động

(2000), nhưng sự đầu tư của nhà nước vào khu vực nông nghiệp chưa tương xứng

với nó, chỉ chiếm 12,7% tổng đầu tư của ngân sách nông nghiệp.

Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp, nhất là vào mùa thu hoạch là

phổ biến, nên họ không chủ động được nguồn hàng và khả năng đầu tư cho sản

xuất, chế biến hạn hẹp. Tiềm lực vốn và tài chính còn yếu đã phần nào hạn chế

khả năng cạnh tranh, đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất trên quy mô lớn. Do

vậy dẫn đến việc mất khả năng cạnh tranh giá, thời điểm, chất lượng và bạn hàng

(thị trường),...

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp còn thiếu những cán bộ có đủ năng lực

chuyên môn. Khả năng nắm bắt, phân tích thông tin và dự báo giá cả thị trường

trong nước và thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn yếu dẫn đến

tình trạng giá thấp thì ký hợp đồng nhiều, đến khi giá cả cao lại không còn hàng

để bán hoặc phải chịu lỗ do hợp đồng đã ký,...(ví dụ vụ cà phê năm 2006). Vai trò

của hiệp hội ngành hàng trong việc hướng dẫn và phối hợp các doanh nghiệp còn

mờ nhạt. Các hoạt động xúc tiến thương mại hàng nông sản với người nước ngoài

mới bắt đầu được quan tâm, chưa làm được nhiều... đã hạn chế khả năng tiếp cận

và chiếm lĩnh thị trường và chủ động đặt giá của các doanh nghiệp Việt Nam khi

đàm phán hợp đồng xuất khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam thường bị thua thiệt cả

khi giá cả thấp cũng như cao.

- Thứ 7: XKNS còn nhiều hạn chế, một phần do cơ chế, chính sách liên quan đến xuất khẩu chưa thực sự phát huy hiệu quả, nhất là trong khu vực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn của nhà nước. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhưng không cụ thể hóa, mức độ phát huy còn rất hạn chế do không đủ các nguồn lực về tài chính, việc quản lý, thủ tục rườm rà, khó vận

78

dụng (ví dụ: Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng chưa cụ thể hóa chế tài xử phạt các trường hợp vi phạm hợp đồng nên khi triển khai còn gặp rất nhiều lúng túng, hiệu lực không cao). Một số chính sách (thuế nhập khẩu, quản lý xuất nhập khẩu...) vẫn dựa vào mục tiêu thay thế hàng nhập khẩu nhưng chưa khuyến khích phát triển các ngành có lợi thế so sánh để đẩy mạnh xuất khẩu. Nhà nước đã xây dựng chính sách quy hoạch vùng sản xuất NSXK nhưng việc thực hiện còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng sản xuất vượt kế hoạch ảnh hưởng đến môi trường, gây tác động giảm giá nông sản. Nhiều địa phương không thực hiện quy hoạch sản xuất NSXK, do chính quyền chỉ hô hào không chịu trách nhiệm đến đầu ra của sản phẩm. Khi bán nông sản cho nhà máy lại dễ bị ép cấp, ép giá,...vì thế nông dân vẫn tự quyết định theo những thông tin mà họ có được. Trong khi đó nhà máy chế biến NSXK thiếu nguyên liệu, do đó mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản chất lượng cao khó thực hiện. Ví dụ: để nâng cao chất lượng hạt gạo Việt Nam, mới đây Bộ nông nghiệp - PTNT chủ trương xây dựng một số vùng chuyên canh sản xuất, xuất khẩu gạo, theo đó 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được chọn làm vùng chuyên canh gồm: An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ thực hiện ngay trong vụ đông xuân 2006- 2007. Tuy nhiên việc thực hiện chủ trương này vấp phải nhiều khó khăn như: chưa có đủ giống, công ty lương thực không bao tiêu với giá cao trong khi chi phí sản xuất cao,... nên nhiều địa phương tỏ ra dè dặt. Trong lúc chúng ta loay hoay với chương trình thì tiến trình hội nhập AFTA và WTO ngày càng được đẩy mạnh. Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long cảnh báo: “Khi hội nhập, gạo thơm của Thái Lan, Ấn Độ.... sẽ tràn vào Việt Nam gây khó khăn không nhỏ. Vấn đề cấp bách là phải sản xuất nhiều loại gạo thơm ngon, đủ sức cạnh tranh cả ba mặt: chất lượng, giá cả, thương hiệu”.

Ngoài ra, các chính sách của Nhà nước thời gian qua mới chỉ tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, chưa chú trọng nhiều đến đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin, dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông sản.

79

Tóm lại, nông nghiệp Việt Nam với những nỗ lực của mình, đang trên đà

hòa nhập vào xu thế chung của nông nghiệp toàn cầu và khu vực. Xuất khẩu đã tạo

điều kiện đưa hàng nông sản Việt Nam xuất hiện trên mọi nơi trên thế giới. Từ một

nước nhập khẩu gạo, đền nay gạo xuất khẩu Việt Nam đã đứng thứ 2 trên thế giới,

cà phê với vị trí thứ 3, .... Đây là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao vị thế của

Việt Nam trong các hiệp hội quốc tế như: FAO, ICO,...Các lĩnh vực sản xuất hàng

nông sản, sản phẩm trực tiếp của người nông dân Việt Nam đã, đang trực tiếp gắn

với người tiêu dùng trên toàn thế giới. Đây cũng là điều kiện quan trọng củng cố vị

trí Việt Nam trên thị trường thế giới, uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế

như: IMF, WB, tại các khối liên kết kinh tế khu vực như: ASEAN, APEC ngày

càng cao đang tạo điều kiện tốt để Việt Nam gia nhập WTO- tổ chức lớn nhất về

thương mại quốc tế.

Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được

khai thác, nhưng hoạt động XKNS còn gặp phải nhiều vấn đề bất cập như: sản

phẩm nông nghiệp chất lượng chưa cao, công nghệ chế biến còn lạc hậu, thương

hiệu xuất khẩu gần như không có,... cho nên giá trị xuất khẩu đạt được chưa tương

xứng với tiềm năng XKNS của nước ta, làm thua thiệt cho nông dân và các nhà

doanh nghiệp. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau,

vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt

điểm, đồng bộ và toàn diện. Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên

nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta

có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những

bất lợi này có thể trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa NSXK của nước ta

trong bối cảnh tự do hóa thương mại toàn cầu.

80

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KINH TẾ

CHỦ YẾU ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN TỚI.

3.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước và một số quan điểm định hướng

chủ yếu đới với xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.

3.1.1. Bối cảnh chung:

Từ nửa sau thế kỷ XX, thế giới bước vào thời kỳ phát triển đột biến với sự

xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và việc ứng dụng những

thành tựu của cuộc cách mạng đó vào sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ là một trong những nguồn khởi phát dẫn tới chủ nghĩa tư bản hiện đại

và cũng chính từ cuộc cách mạng này đã làm xuất hiện xu thế toàn cầu hóa chi

phối sự phát triển và biến đổi của thế giới ngày nay.

Toàn cầu hóa là một hiện tượng xã hội phức tạp, một xu thế khách quan,

tất yếu, phổ biến của sự phát triển lịch sử. Sự xuất hiện xu thế toàn cầu hóa nằm

trong lôgic vận động nội tại của sự phát triển lịch sử thế giới. Dưới tác động của

81

cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt sự bùng nổ trong lĩnh vực tin

học, điện tử và tiếp theo đó là một loạt lĩnh vực khác làm cho lực lượng sản xuất

có bước phát triển nhảy vọt, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng và khoa học

không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như dự đoán trước đây của C.

Mác, mà còn là nguồn lực quyết định sự phát triển, đưa nền kinh tế thế giới

chuyển lên một giai đoạn mới, một giai đoạn mà các nhà kinh tế các nước, nhất là

các nước phát triển, mô tả dưới các tên gọi khác nhau như: “Nền kinh tế tri thức”,

“Nền kinh tế mới”, “Nền kinh tế điện tử”, “Nền kinh tế số”,...

Quá trình toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi các yếu tố mới như:

- Mạng lưới thông tin toàn cầu (điện thoại, fax, internet...), nếu như năm

1991 mới có 31 nước trên thế giới nối mạng Internet thì đến năm 1997 đã có 197

nước, năm 1996 có 76,5 triệu người sử dụng internet thì năm 2005 trên thế giới đã

có khoảng 1 tỷ người sử dụng Internet.

- Mạng lưới và hệ thống đại siêu thị toàn cầu. Các mạng lưới này giúp các

xí nghiệp dù ở quy mô nào cũng có thể đưa ra mục tiêu chiến lược là bán hàng ở

khắp mọi nơi có thể bán trên thế giới. Sự tiện lợi này càng tăng lên với sự xuất

hiện của thương mại điện tử, đây là một hình thức mua bán rất mới và tốc độ phát

triển nhanh chóng với số người sử dụng ngày càng tăng và doanh thu đạt được

ngày càng lớn.

- Hệ thống và mạng lưới các trụ sở lao động toàn cầu được hình thành, ở

đó hàng hóa được sản xuất, thông tin được xử lý và mọi dịch vụ được cung cấp.

- Hệ thống và mạng lưới tài chính toàn cầu, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu

chuyển các nguồn vốn dưới nhiều các hình thức, quy mô lớn trên phạm vi toàn

cầu. Hiện nay, tổng giá trị các giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày trên toàn cầu

đã diễn ra với tốc độ “ ánh sáng” vượt quá 3500 tỷ USD.

- Cho đến nay sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia mạnh mẽ hơn

nhiều so với trước. Những công ty xuyên quốc gia hàng đầu giữ vai trò trọng yếu

trong lĩnh vực mậu dịch quốc tế, tiền tệ quốc tế, đầu tư quốc tế, sản xuất, kinh

doanh quốc tế. Hiện nay về cơ bản hình thành một cấu trúc kinh tế thế giới, trong

82

đó các công ty xuyên quốc gia kiểm soát khoảng 1/2 sức sản xuất công nghiệp của

thế giới; về tiêu thụ chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch mậu dịch thế giới ,...

Rõ ràng toàn cầu hóa kinh tế là nhân tố có tầm quan trọng to lớn trong

việc thúc đẩy qúa trình sản xuất và lưu thông hàng hóa của toàn nhân loại. Ở đó

các công ty xuyên quốc gia là chủ thể kinh tế có vai trò to lớn tạo cơ hội thuận lợi

cho việc giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, đặc

biệt là lĩnh vực kinh tế. Cơ hội thuận lợi được nhìn nhận qua các khía cạnh như:

- Toàn cầu hóa, thông qua xóa bỏ các rào cản, đã tạo điều kiện cho các

quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản

lý tiên tiến, ứng dụng ngay vào quá trình phát triển nền kinh tế và tận dụng được

lợi thế so sánh của quốc gia mình, sức mạnh cạnh tranh hàng hóa được nâng cao,

tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được

phân bổ một cách hiệu quả hơn. Tiến trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả

các nước, nhất là những nước đang phát triển trong quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa trên cơ sở ứng dụng những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa

học- công nghệ. Toàn cầu hóa cũng mở ra khả năng cho các quốc gia chậm phát

triển nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình

thành một cơ cấu kinh tế- xã hội hiệu quả, đẩy nhanh và rút ngắn tiến trình hiện

đại hóa. Toàn cầu hóa làm tăng mối quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

các quốc gia, còn giúp các nước đang phát triển thúc đẩy quá trình cải cách trong

nước, buộc các nước này phải đẩy nhanh hơn nữa các cuộc cải cách trong nước,

thay đổi chính sách kinh tế cho phù hợp, tránh nguy cơ tụt hậu.

Ngoài những tác động tích cực, toàn cầu hóa sẽ làm tăng sức ép cạnh

tranh một cách gay gắt, trong khi năng lực kinh tế của các nước đang phát triển

còn nhiều hạn chế. Toàn cầu hóa dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước

đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa còn gây ra

những hậu quả mang tính phi kinh tế, đó là các vấn đề như nguy cơ gia tăng bất

bình đẳng xã hội, lan tràn dịch bệnh, phổ biến các loại hình văn hóa phẩm đồi

trụy,...

83

Qui trình toàn cầu hóa kinh tế đã thu hút đông đảo các quốc gia tham gia

vào các quá trình mở cửa nền kinh tế, với những cấp độ hội nhập ngày càng sâu

rộng hơn. Nói cách khác hội nhập kinh tế quốc tế là hệ quả tất yếu của toàn cầu

hóa kinh tế, là sản phẩm vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau diễn ra ở nhiều cấp

độ quy mô và phương thức mà trọng tâm là mở cửa kinh tế thông qua đổi mới và

điều chỉnh các luật lệ, chính sách, cơ chế tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế của

mỗi nước cho phù hợp với thông lệ quốc tế, khu vực, nhằm huy động tốt nhất nội

lực, ngoại lực, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất

có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Nói tới hội nhập kinh tế quốc tế là nói tới việc tham gia các tổ chức kinh tế

khu vực và thế giới, đó là các tổ chức kinh tế toàn cầu như: Tổ chức thương mại

thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), và trên 100 tổ chức kinh tế khu vực

như: Liên lục địa (ASEM), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định thương mại tự do

Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC),

Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN),... Sự liên kết thương mại toàn cầu

được diễn ra trong khuôn khổ các hiệp định quốc tế WTO, các hoạt động đầu tư,

liên kết tài chính, dịch vụ cũng diễn ra trên các châu lục thông qua các quan hệ

song phương và đa phương, đa chiều.Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc

gia đều theo đuổi những mục tiêu và những lợi ích khác nhau thậm chí đối lập

nhau. Các nước phát triển không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận mà còn tìm mọi

cách để chi phối thị trường thế giới. Trong khi đó các nước đang phát triển và

chậm phát triển muốn tranh thủ và lợi dụng quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội

nhập kinh tế quốc tế để có điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập

của mình. Điều này cũng được thể hiện rõ trong tiến trình đàm phán Urugoay

(1993) và Doha nhằm mở rộng hơn nữa thị trường của các nước thành viên, thực

hiện tự do hóa thương mại dịch vụ,... thúc đẩy thương mại lành mạnh, tăng cường

cạnh tranh công bằng, tạo môi trường kinh doanh ổn định.

Mậu dịch hàng nông sản là vấn đề rất được quan tâm trong hiệp định hàng

nông sản qua vòng đàm phán Urugoay. Mục đích của hiệp định đã được nêu rõ

84

“Hiệp định hàng nông sản được xây dựng nhằm mục tiêu lâu dài thiết lập một hệ

thống thương mại nông sản bình đẳng và theo định hướng thị trường, giảm đáng

kể và nhanh chóng hỗ trợ, bảo hộ nông nghiệp”. Với 21 điều khoản được đưa ra,

Hiệp định về hàng nông sản của vòng đàm phán Urugoay đã thiết lập lại trật tự và

cạnh tranh công bằng, bước đầu tạo ra những quy định cụ thể trong việc mở rộng

thị trường thông qua thực hiện cơ chế “thuế hóa” và được cắt giảm theo thời gian

nhất định, cạnh tranh xuất khẩu, trợ cấp nội địa qua các cam kết về thâm nhập thị

trường nâng đỡ thị trường nội địa nhằm trợ giúp kinh tế nông thôn.

Mới đây hơn, tổ chức thương mại thế giới mở vòng đàm phán Doha với

mục tiêu giảm nhẹ các rào cản thương mại, cắt giảm trợ cấp, thúc đẩy thương mại

tự do và đẩy mạnh việc thâm nhập vào các thị trường toàn cầu. Các phiên đàm

phán đã diễn ra từ tháng 11/2001 nhưng cho tới nay vẫn chưa kết thúc mà có nguy

cơ sụp đổ. Các nhà đàm phán đã cố gắng tạo ra một khuôn khổ cho sự tự do hóa

thương mại nông sản và hàng công nghiệp - điều mà họ chưa đạt được trong 5

năm qua. Muốn đạt được thỏa thuận này cần đẩy mạnh việc giảm trợ cấp nông sản

hơn nữa và giảm thuế quan của liên minh Châu Âu (EU) và các nền kinh tế mới

nổi. Tuy nhiên, các nước đang phát triển cho rằng các nước phương Tây bảo hộ

quá mức cho nông sản của mình, tạo môi trường cạnh tranh không công bằng,

thậm chí từ chối mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu từ các nước nghèo hơn,

đặc biệt là Mỹ yêu cầu tự do hóa quá cao với các nước khác, trong khi bản thân

nước này thực hiện tự do hóa quá ít.

Mỗi năm Mỹ chi 1,3 tỷ USD trợ cấp cho một vụ canh tác lúa trị giá 1,8 tỷ

USD. Những trợ cấp đó cho phép bán phá giá 4,7 triệu tấn gạo trên thị trường thế

giới với giá thấp hơn 34% chi phí sản xuất gây phương hại cho các nước nghèo

như: Haiti, Gana và Honduras. Phil Bloomet, người đứng đầu cuộc vận động hãy

làm cho thương mại được công bằng của Oxfam quốc tế cho rằng “Đây là một ví

dụ về những luật lệ được dàn xếp, nhưng đồng thời họ lại trợ cấp ồ ạt sản xuất

thừa và bán phá giá”. Nếu không có sự trợ cấp đó thóc gạo của Mỹ sẽ không thể

cạnh tranh nổi. Các nước nghèo buộc phải cạnh tranh với Mỹ, tệ hại hơn, họ ít có

85

cơ hội tự bảo vệ trước tình trạng bán phá giá. Nếu các nước giàu ở vào thế thượng

phong tại WTO thì các nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Nicaragua và Ai Cập nằm

trong số 13 nước đang phát triển buộc phải cắt giảm thuế đánh vào các mặt hàng

gạo và sẽ trở nên dễ tổn thương trước hàng nông sản rẻ tiền. Trong lúc đó, ngành

xuất khẩu thóc gạo Mỹ lại được lợi nhờ dễ tiếp cận hơn đến các thị trường của

các nước nghèo, những nước buộc phải giảm thuế nhập khẩu gạo (Haiti) từ 35%

xuống còn 5% dưới sức ép của IMF. Vượt ra ngoài WTO, các nước giàu còn tiếp

tục sử dụng Ngân hàng thế giới (WB) và các hiệp định thương mại khu vực để ép

các nước đang phát triển mở cửa thị trường sớm hơn, rồi bán phá giá nông sản

thừa, phá hoại kế sinh nhai của nông dân nghèo.

Tổ chức lương thực thế giới (FAO) và tổ chức Hợp tác và phát triển kinh

tế (OECD) vừa công bố báo cáo chung “Triển vọng nông nghiệp 2006- 2015”,

cho biết buôn bán nông sản từ nay đến 2015 vẫn tiếp tục bị cản trở do các nước

phát triển còn áp dụng trợ giá nông nghiệp dùng các rào cản thương mại, vòng

đàm phán thương mại Doha khởi khởi động từ năm 2001 đang có nguy cơ đổ vỡ.

Như vậy toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra nhiều

thuận lợi, cũng tạo ra nhiều thách thức mới cho các nước đang phát triển. Châu Á-

Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động, trong đó Trung Quốc có

vai trò ngày càng lớn. Sau khi khủng hoảng tài chính- kinh tế, nhiều nước

ASEAN và Đông Á đang khôi phục và phát triển với khả năng cạnh tranh mới.

Tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong hợp tác phát triển kinh

tế, đồng thời cũng gia tăng sức ép cạnh tranh cả trong và ngoài khu vực.

3.1.2. Việt Nam trong xu thế hội nhập.

Đối với Việt Nam, trong cương lĩnh xây dựng đất nước, Đại hội Đảng

Việt Nam lần thứ VII đã chỉ rõ đường lối đổi mới của Việt Nam hòa trong xu thế

chung của sự phát triển thế giới: Việt Nam đổi mới và thực hiện đường lối mở

cửa, đường lối đối ngoại hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển. Việt Nam

sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương với tất cả các nước. Đại hội Đảng

VIII tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội

86

dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hội Đảng nhấn mạnh “phải xây dựng

một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu,

đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu

quả. Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu,

xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại quốc

tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước

đi thích hợp”. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định “Việt Nam sẵn sàng là

bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình

độc lập và phát triển”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X “chủ động và tích cực

hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực

khác. Việt Nam là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia

tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.

Thông qua đổi mới, Việt Nam đã cải thiện một cách căn bản diện mạo và

mối quan hệ của mình với cộng đồng quốc tế. Tiến trình đổi mới là tiến trình từng

bước đưa Việt Nam hội nhập quốc tế một cách thành công và thu hút mối quan

tâm đầu tư, hợp tác ngày càng tăng của các nước vào Việt Nam.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có nhiều yếu tố thuận

lợi, nhiều thời cơ cho sự phát triển, nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với

nhiều khó khăn thách thức. Vì vậy yêu cầu là phải biết tranh thủ thời cơ phát huy

các lợi thế và tránh đi những quan hệ bất lợi để xác định sự phát triển kinh tế đất

nước theo đúng hướng đã định.

Trải qua 20 năm đổi mới cơ chế kinh tế và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã

đạt được một số kết quả bước đầu trong quá trình hội nhập. Việt Nam đã trở thành

thành viên chính thức của ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998), Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA), Hiệp định khung về thương mại

và đầu tư ASEAN- Mỹ (TIFA ASEAN- Mỹ), quan hệ đối tác kinh tế thân cận

ASEAN- Ấn Độ (AICEP), trở thành quan sát viên WTO và hiện nay đã chính

thức gia nhập WTO vào cuối năm 2006. Tính đến đầu năm 2005, nước ta đã thiết

lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, có quan hệ thương mại với trên 160

87

nước và nền kinh tế. Việt Nam đã ký 90 Hiệp định thương mại song phương,

trong đó gần 80 nước đã cho Việt Nam hưởng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc

(MFN), 46 Hiệp định đầu tư, 40 Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (theo thời báo

kinh tế Việt Nam). Từ năm 2001 đến năm 2005 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu

của Việt Nam đã tăng 15,5 lần và đạt 32,442 tỷ USD vào năm 2005.

Việt Nam cũng thu hút được ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài. Việc kí

kết các hiệp định về ODA được duy trì đều đặn với tổng giá trị cam kết là 32,5 tỷ

USD (từ 1993 đến 2005 ), ký kết hiệp định là 24,7 tỉ và giải ngân đạt 15,8 tỉ USD,

tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng, xã hội, đào tạo nguồn nhân lực,

xóa đói giảm ngèo, tăng cường thể chế và bảo vệ môi trường.

Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký trong 5 năm

(2001 đến 2005) đạt 20,9 tỉ USD (năm 2001 vốn FDI đăng kí mới và tăng thêm là

3,2 tỉ USD, năm 2002 là 3 tỉ, năm 2003 là 3,2 tỉ, năm 2004 là 4,5 tỉ, năm 2005 là

6,8 tỉ), vượt trên 39% so với kế hoạch, tổng vốn thực hiện 14,3 tỉ USD, vượt 30%

so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước (1996 - 2000). Năm 2005, các

doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng KNXK, đóng góp

gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động

trực tiêp và hàng triệu lao động gián tiếp.

Theo Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2006 là năm

gặt hái nhiều thành công với tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt kỷ lục

9,927 tỷ USD. Với con số này, FDI năm 2006 tăng 70,69% so với năm 2005 và

vượt 52,7% kế hoạch đầu năm đề ra (6,5 tỷ USD). Tính đến đầu năm 2007, cả

nước hiện có 6.813 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký

trên 60 tỷ USD, trong đó có 28,6 tỷ USD đã thực hiện.

Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép

Việt Nam thu hút được vốn đầu tư mà còn dựa vào đó chúng ta đã nắm bắt được

những công nghệ - kỹ thuật và khoa học quản lý tiên tiến, từng bước tạo ra một

đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ phù hợp với trình độ phát triển nền công

nghiệp hiện đại. Với việc tích cực và chủ động hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu

88

đã góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam,

không những phá bỏ được thế bao vây và cô lập của thế giới mà còn góp phần

nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực cũng như trên thế giới .

Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào

tháng 11 năm 2006. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập vào thị trường nông

sản thế giới. Tham gia vào WTO, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường cho

XKNS; các doanh nghiệp sản xuất có điều kiện trang bị những thiết bị, vật tư đầu

vào chất lượng cao, giá thành thấp phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần hạ giá

thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm,…Tuy nhiên nông nghiệp Việt Nam

phải đối đầu với nhiều thách thức mới rất phức tạp và khó khăn, một khi gia nhập

WTO, trước hết Việt Nam phải mở cửa cho hàng ngoại tràn vào, như vậy Việt

Nam phải cạnh tranh vừa ở sân nhà vừa ở thị trường quốc tế. Báo cáo của FAO

(năm 2003) cho biết chỉ riêng khu vực Châu Á đã có gần 1 tỉ tấn nông sản đang

chờ để cạnh tranh một khi Việt Nam mở cửa. Trong khi đó XKNS của Việt Nam

còn nhiều yếu kém như khối lượng, chất lượng chưa tạo lập được thị trường ổn

định và thiếu bạn hàng lớn, giá cả thường xuyên biến động gây không ít khó khăn

cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng,...Còn thị trường nhập khẩu hiện nay lại

đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn mới như chất lượng và an toàn vệ sinh ngày càng gay gắt.

Những thời cơ thách thức mới đòi hỏi Việt Nam cần phải phát huy hết các lợi thế

và tiềm năng trong sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đổi mới

kinh tế, đổi mới thể chế, chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả

hàng hóa NSXK trên thị trường. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc để Việt Nam hội

nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực.

3.1.3. Một số quan điểm định hƣớng đối với xuất khẩu nông sản.

Lâu nay sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề rộng

trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng hơn mặt

chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nông

sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu thị trường khác nhau, hiệu quả xuất khẩu

thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa, hạn chế khả năng

89

thâm nhập và củng cố vị thế XKNS trên thị trường thế giới. Sức cạnh tranh thấp

kém của nông sản là thách thức lớn nhất với nông nghiệp Việt Nam trong tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện nay kinh tế thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều

sâu dựa vào yêú tố vốn khoa học và công nghệ ... là chính. Trong khi đó ở nước ta

yếu tố vốn, khoa học công nghệ...còn nhiều bất cập và hạn chế làm cho nền kinh

tế vừa trong tình trạng thiếu vốn đầu tư, vừa ứ đọng vốn do hiệu quả đầu tư phát

triển theo chiều rộng đạt kết quả thấp.

Để khắc phục tình trạng trên, nhằm đẩy mạnh hoạt động XKNS của Việt

Nam trong quá trình hội nhập, nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng như vị thế của

Việt Nam trên thị trường quốc tế, cần phải quán triệt các quan điểm định hướng

sau đây:

- Thứ nhất: Sản xuất, xuất khẩu phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, thị

trường là căn cứ chủ yếu để xây dựng chiến lựơc kinh doanh đối với từng ngành

hàng và từng sản phẩm .Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình CNH,

HĐH sản xuất. Điều này hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến

lược dựa trên cơ sở khả năng để hoạch định phương hướng sản xuất (kiểu cũ là

chỉ sản xuất những gì ta có lợi thế, kiểu mới là sản xuất cái thị trường cần).

Trên cơ sơ phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu theo hướng đa dạng

hóa và đa phương hóa, coi trọng công tác dự báo nhu cầu cụ thể của thị trường

đảm bảo khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng

chất lượng, thời gian và chi phí từ đó xác định thị trường trọng điểm, dung lượng

trao đổi và tính ổn định với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, đem lại

hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và định hướng qui hoạch sản xuất một

cách đồng bộ bao gồm các yếu tố sản xuất và thị trường trong các vùng chuyên

canh xuất khẩu. Thị trường cần được xem như là những nhân tố bên trong, là động

lực để tăng trưởng và phát triển, phân bố lại các nguồn lực xã hội.

90

- Thứ hai: Thúc đẩy sản xuất, XKNS phát huy lợi thế so sánh của từng

vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả góp phần tăng

nhanh khả năng xuất khẩu thực hiện chiến lược CNH, HĐH.

Quán triệt quan điểm này cần phải phân tích và tìm ra những nông sản có

ưu thế trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế

so sánh tìm ra những sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành

thấp so với thế giới. Đồng thời tập trung kỹ thuật và công nghệ thực hiện quá trình

CNH, HĐH nền sản xuất nông nghiệp.

- Thứ ba : Thúc đẩy sản xuất, XKNS phải trên cơ sở sản xuất hàng hóa và

ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công

nghệ cao, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản. Quá trình sản xuất - chế biến -

tổ chức XKNS, cần chú ý ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học từ khâu chọn

giống đến khâu gieo trồng, thu hoạch, thu mua, bảo quản, chế biến, đóng gói, tiếp

thị, tìm kiếm thị trường. Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế

biến bảo quản, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mặt hàng, hạn chế tổn thất

sau thu hoạch, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

- Thứ tư : Để thúc đẩy sản xuất - XKNS , cần có sự hỗ trợ của Nhà nước,

các ngành có liên quan, để tạo lập những ngành hàng có sức cạnh tranh trên thị

trường thế giới. Kinh doanh trong môi trường kinh tế thế giới để thúc đẩy sản xuất

nông sản phải xuất phát từ động lực trực tiếp của người kinh doanh thông qua sự

kích thích về lợi ích vật chất và nhu cầu phát triển của chính họ, song cần có môi

trường thuận lợi bằng hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích của nông nghiệp

trong lĩnh vưc kinh doanh để nhanh chóng tạo lập được các ngành sản xuất xuất

khẩu mạnh có vị thế trên thị trường

- Thứ năm : Thúc đẩy sản xuất, XKNS phải trên cơ sở phát huy sức mạnh

tổng hợp và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, xuất khẩu,

tham gia tiêu thụ nông sản và cung cấp vật tư nông nghiệp. Trên cơ sở tạo hành

lang pháp lý về cả chính sách cơ chế quản lý và thủ tục hành chính thông thoáng

91

đồng bộ có sức hấp dẫn, thu hút mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham

gia vào thị trường.

3.2. Một số giải pháp chủ yếu:

Từ việc phân tích thực trạng XKNS Việt Nam trong chương 2 và một số

kinh nghiệm XKNS của một số nước trên thế giới đã được nghiên cứu ở chương

trước, ở mục này sẽ đưa ra một số giải pháp thúc đẩy XKNS của Việt Nam trong

giai đoạn từ nay đến năm 2010, giai đoạn mà XKNS Việt Nam chuẩn bị tích cực

cho việc hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại thị trường nông sản của

mình.

3.2.1. Giải pháp về sản xuất:

Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với nhu

cầu thị trường. Quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung hướng về xuất khẩu.

Hiện nay chủ trương của Chính phủ về chuyển dịch cơ cấu sản xuất là rất

rõ ràng, từ Nghị quyết 09/2000/NQ- CP ngày 15/06/2000 về một số chủ trương và

chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đến các

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về định hướng dài hạn phát triển kinh tế xã

hội các vùng đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, trong đó có đề cập rõ

đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong vùng. Vấn đề quan trọng là tổ chức

thực hiện thành công chủ trương này bởi lẽ đây là giải pháp vừa có tính cấp bách

trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài. Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã

có chỉ đạo cụ thể tại Nghị quyết 05/2002/NQ- CP ngày 24/04/2002 của Chính

phủ, trong đó nhấn mạnh: “Công tác quy hoạch để chuyển dịch cơ cấu kinh tế

phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước, thế mạnh và

chỗ yếu của sản phẩm nước ta trong từng giai đoạn, từ đó xác định lộ trình nâng

cao khả năng cạnh tranh cho từng sản phẩm ở từng vùng khác nhau” và “tập trung

thực hiện quy hoạch, nhanh chóng xây dựng chương trình đầu tư gắn với các

doanh nghiệp và các hộ sản xuất”. Việc thực hiện chủ trương này sẽ góp phần hạn

chế tính tự phát trong sản xuất của nông dân ta thường dẫn đến lúc thì quá thừa,

lúc thì quá thiếu; từng bước xóa bỏ cách làm ăn của người sản xuất nhỏ, dần dần

92

hình thành lối sống công nghiệp trong dân. Mặt khác nó góp phần ổn định hóa

nguồn cung nông sản thế giới, hạn chế giảm giá nông sản gây bất lợi cho người

sản xuất và cho lợi ích quốc gia. Nhà nước có thêm nguồn thu từ thuế xuất khẩu

để đầu tư trở lại cho sản xuất những nông sản đó để nâng cao cất lượng nông sản

thay vì phát triển số lượng hoặc đầu tư vào lĩnh vực khác có hiệu quả hơn. Công

tác quy hoạch sản xuất cần dựa trên những vùng sinh thái sẵn có theo điều kiện

thời tiết khí hậu của từng vùng, kết hợp đặc điểm sinh thái của từng loại giống, để

có kế hoạch trồng ở đâu có hiệu quả nhất, tạo vùng nguyên liệu cao cho chế biến

và xuất khẩu. Nội dung quy hoạch, kế hoạch cụ thể, đầu tư vốn và khoa học kỹ

thuật cho vùng nguyên liệu phải bám sát nhu cầu của thị trường thế giới trong

từng giai đoạn. Quy hoạch là căn cứ quan trọng trong chủ động tạo nguồn hàng

năm, là cơ sở để ký kết các hợp đồng XKNS, đây là điều kiện quan trọng để thích

ứng thị trường quốc tế, đặc biệt về chất lượng.

Trước mắt, cần khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng lúa xuất khẩu chất

lượng cao với khoảng 1 triệu ha ở đồng bằng sông Cửu Long và khoảng 300

nghìn ha ở đồng bằng sông Hồng, dự kiến hàng năm làm ra khoảng 70% gạo xuất

khẩu có chất lượng cao; vùng cà phê thâm canh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và

Trung Bộ khoảng 300 nghìn ha; vùng cao su Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và

Trung Bộ khoảng 700 nghìn ha; vùng chè thâm canh miền núi phía Bắc khoảng

100 nghìn ha; vùng điều tập trung thâm canh duyên hải miền Trung, Nam Trung

Bộ với diện tích khoảng 350 nghìn ha;...

Trên cơ sở các vùng sản xuất, tiến hành xây dựng các chương trình dự án

cụ thể phát triển từng mặt hàng, ngành hàng để thu hút vốn đầu tư trên từng vùng

cụ thể. Cần có những chính sách ưu tiên xác thực để khuyến khích và hấp dẫn mọi

thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế vùng.

3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng nông sản

Trong hội nhập kinh tế quốc tế, nông sản hàng hóa của ta phải cạnh tranh

ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới và khu vực và ngay cả trên thị trường

nội địa với nông sản của các nước khác. Yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi trong

93

cạnh tranh là chất lượng và giá hàng hóa. Nếu nhu cầu nông sản Việt Nam không

có sự thay đổi về chất thì chắc chắn sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường thế giới.

Vì vậy phải nhanh chóng bằng mọi biện pháp có thể được nâng cao chất lượng

hàng NSXK, đó là vấn đề sống còn trong quá trình cạnh tranh quốc tế, hội nhập

kinh tế và thị trường thế giới.

Thứ nhất: Trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung cho công tác nghiên

cứu lai tạo giống thay giống cũ bằng giống mới, tạo ra những giống mới có năng

suất và chất lượng. Có thể nhập khẩu các loại giống nông sản của thế giới đáp ứng

cho chế biến và xuất khẩu. Đồng thời phải nâng cao trình độ canh tác, kỹ thuật

của các doanh nghiệp và hộ sản xuất... để nâng cao độ đồng đều về năng suất, chất

lượng hàng nông sản. Nhà nước cần tăng cường đầu tư vào công tác thủy lợi,

đường xá và các yếu tố cơ sở hạ tầng khác, đẩy mạnh công tác khuyến nông để

phổ biến các quy trình kỹ thuật hiệu quả tới người sản xuất.

Thứ hai: Xây dựng bổ sung và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng

quốc gia và chất lượng ngành nông nghiệp lấy tiêu chuẩn quốc tế làm chuẩn, làm

mục tiêu để từng bước phấn đấu đạt các tiêu chuẩn đó. Mặt khác cũng cần xây

dựng hành lang pháp lý cho công tác quản lý chất lượng sản phẩm từ trung ương

đến địa phương, phổ biến cho nhà sản xuất, kinh doanh đều được biết (tránh tình

trạng như hiện nay, nhiều khi việc đánh giá chất lượng nông sản không thống nhất

dẫn đến hiện tượng các nhà máy ép cấp, ép giá hàng hóa đối với người nông dân,

hoặc tình trạng người xuất khẩu cố tình trộn sản phẩm có phẩm cấp thấp với sản

phẩm có phẩm cấp cao để bán theo loại sản phẩm có phẩm cấp cao....).

Thứ ba: Cần tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ bảo quản, chế biến sau

thu hoạch.

Đây là khâu rất yếu hiện nay, nên những năm tới cần giải quyết theo các

hướng: Nâng cấp các nhà máy chế biến nông sản hiện có, trong đó những nhà

máy quá lạc hậu thì nên rà soát lại, nếu cần thiết có thể đóng cửa để tăng chất

lượng đồng đều của sản phẩm. Ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên

tiến để đổi mới công nghệ chế biến, đẩy mạnh công tác chế biến và tinh chế nông

94

sản (chế biến sâu), đa dạng hóa các sản phẩm chế biến nhằm đáp ứng nhu cầu và

thị hiếu của thị trường, đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực

phẩm. Bên cạnh đó lựa chọn bao bì, bao gói cũng rất quan trọng. Cần chú ý

nghiên cứu, sản xuất nhiều loại bao bì, bao gói khác nhau nhằm bảo quản tốt nhất

cho chất lượng nông sản hàng hóa bên trong.

Hàng nông sản, hầu hết sinh trưởng, phân bố, canh tác rải rác, mang tính

chất sản xuất nhỏ. Do vậy, thời gian và chi phí thu gom, vận chuyển đến cầu cảng

để xuất khẩu khá lớn. Trong khi đó cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải của Việt

Nam có thể nói vào loại xấu nhất thế giới, ảnh hưởng không ít đến chất lượng

hàng hóa. Vì vậy, để nâng cao chất lượng hàng NSXK, cần phải tổ chức lại khâu

bảo quản hàng hóa, sửa chữa, nâng cấp và xây dựng một hệ thống kho tàng vừa an

toàn, vừa sạch sẽ vệ sinh từ nơi sản xuất đến nơi chế biến, từ nơi chế biến đến các

nhà máy sản xuất ra các sản phẩm hoặc đến các kho cảng để xuất khẩu. Nếu công

tác này làm tốt, chắc chắn NSXK của Việt Nam sẽ tăng lên cả về chất lượng lẫn số lượng.

3.2.3. Về tổ chức thu mua nông sản

Cần nâng cao phương thức giao dịch thương mại nông nghiệp hiện đại, thể

hiện qua sự gắn kết giữa người sản xuất và người xuất khẩu bằng các hợp đồng

tiêu thụ sản phẩm từ đầu vụ (nên phát triển loại hợp đồng giao sau). Theo phương

thức này, người kinh doanh xuất khẩu có thể yên tâm nhận được hàng theo đúng

yêu cầu chất lượng, người nông dân được bảo đảm lợi ích vật chất khi thu hoạch

(đầu ra), nhất là vùng quy hoạch nông sản của Nhà nước. Bên cạnh đó, người sản

xuất còn có thể được hỗ trợ về tín dụng, vật tư đầu vào, quy trình chăm sóc... từ

phía doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng tư thương thao túng thị trường, ép

cấp, ép giá đối với nông dân.

95

3.2.4. Giải pháp về thị trƣờng:

Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về XKNS như hiện nay

và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị

trường ngoài nước.

Tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường. Thị

trường Châu Á hiện nay chiếm khoảng 60-70% lượng NSXK của Việt Nam.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục duy trì và phát triển thị trường này. Các

thị trường khác như: Mỹ, EU, Châu Phi... cũng cần được mở rộng. Để phát triển

thị trường XKNS trong những năm tới, cần chú ý những giải pháp:

- Thứ nhất: Tăng cường công tác thị trường và xúc tiến thương mại theo

hướng đa dạng hóa chủ thể tham gia, có sự kết hợp giữa Nhà nước, Hiệp hội

ngành hàng và các địa phương. Theo hướng đó Nhà nước sẽ tập trung đàm phán

mở rộng thị trường, phát hiện những hàng rào từ phiá đối tác để tìm cách tháo gỡ.

Các hiệp hội ngành hàng cần lập quỹ để tăng cường xúc tiến thương mại, nghiên

cứu thị trường và hợp tác quốc tế ở cấp ngành hàng. Các tỉnh, thành phố cũng nên

chủ động dành vốn đầu tư cho công tác xúc tiến thương mại. Đối với những tỉnh,

thành phố lớn có điều kiện như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,

Cần Thơ, Huế,... có thể nghiên cứu phát triển những trung tâm thương mại quốc tế

với quy mô từ nhỏ đến lớn để vừa làm nơi giới thiệu sản phẩm xuất khẩu, tạo điều

kiện các doanh nghiệp xúc tiến thương mại và đầu tư. Về giá, doanh nghiệp cần

tích cực phối hợp tham gia các chương trình xúc tiến thương mại do Trung ương,

hiệp hội và địa phương tổ chức, dành chi phí thỏa đáng cho công tác này.

- Thứ hai: Tăng cường công tác thông tin và dịch vụ về thị trường. Tổ

chức có hiệu quả việc thu thập, xử lý thông tin thị trường trong nước và ngoài

nước để cung cấp cho người sản xuất, kinh doanh, từng bước phát triển thương

mại điện tử hàng hóa nông sản. Cần xây dựng hệ thống báo động thương mại, xây

dựng cơ quan chuyên trách thường trú tại các địa điểm trên thế giới, đặc biệt là

những quốc gia bạn hàng quan trọng bám sát thị hiếu người tiêu dùng dự báo và

phát hiện sớm những nảy sinh bất lợi cho hàng nông sản của Việt Nam và những

96

điều chỉnh chính sách sở tại, để có giải pháp ứng phó kịp thời, bao gồm cả việc

kiềm chế tốc độ bán ra tham gia vào các kế hoạch quốc tế điều tiết nguồn cung

cấp trong các điều kiện cụ thể nhằm tác động vào thị trường và giá có lợi cho ta.

Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, ti vi, mạng truyền

thông...) thông tin cho người sản xuất nắm được tình hình cung cầu giá cả thị

trường trong và ngoài nước đối với hàng nông sản để họ quyết định về qui mô sản

xuất, chất lượng sản phẩm. Duy trì và phát triển trang web bằng tiếng Anh về

nông lâm sản và các doanh nghiệp sản xuất để giới thiệu hàng với thế giới.

- Thứ ba: Tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ thương mại với

các nước thuộc thị trường Châu Á, nơi nhập khẩu 70% tổng lượng KNXK nông

sản của Việt Nam (đặc biệt chú ý là thị trường Trung Quốc, Nhật, Đài Loan, các

nước ASEAN, Trung Đông).

+ Trung Quốc : là thị trường đông dân số, nhu cầu tiêu thụ rất lớn, hiện

nay đang cải cách thể chế kinh tế thương mại, mở cửa thị trường nông sản. Trung

Quốc đã dành cho Việt Nam tối huệ quốc giống như các thành viên WTO. Việt

Nam đang phấn đấu đưa KNXK sang Trung Quốc đạt 700- 800 ngàn USD/ năm.

Để đạt được điều đó chúng ta cần chú trọng: Tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng

như đường xá, kho tàng, bến bãi ... tại khu vực Tây Bắc nước ta để làm bàn đạp

xuất khẩu vào khu vực phía Nam và Tây Nam Trung Quốc; Đẩy mạnh công tác

xúc tiến thương mại, tiếp tục coi Trung Quốc là một trong những thị trường trọng

điểm trong thời gian tới. Cần chú ý đến vai trò chuyển khẩu và tái xuất của thị

trường Hồng Kông với những mặt hàng chất lượng cao; Các ngành hàng nên đặt

văn phòng đại diện ở Hồng Kông để giới thiệu sản phẩm đồng thời theo sát những

thay đổi về chính sách quản lý nhập khẩu hàng hóa của nước bạn, có biện pháp

ứng phó linh hoạt, kịp thời, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh; Các doanh nghiệp

xuất khẩu cần chú ý tìm hiểu những thay đổi về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, nhất

là vấn đề chất lượng và an toàn vệ sinh; Vận dụng linh hoạt cả hai hình thức xuất

khẩu chính ngạch và xuất khẩu qua biên giới.

97

+ Nhật: là thị trường lớn đầy tiềm năng, có nhu cầu hàng hóa đa dạng

nhưng yêu cầu vệ sinh thực phẩm ngặt nghèo lại chưa dành cho Việt Nam qui chế

MFN đầy đủ. Để đẩy mạnh XKNS vào thị trường này các doanh nghiệp cần đẩy

mạnh công tác xúc tiến thương mại (khảo sát thị trường không chỉ ở thành phố lớn

mà cả các địa phương, tham gia hội chợ triển lãm...), cập nhật thông tin thị trường,

nghiên cứu thị hiếu khách hàng, tập trung nâng cao chất lượng hàng hoá và đảm

bảo các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ, tăng khả năng xâm nhập với các mặt hàng

trọng điểm rau quả, sản phẩm gỗ, cà phê, tơ tằm, chè, hạt tiêu, thủ công mỹ nghệ...

Về phía Nhà nước, cần tích cực đàm phán đi tới những thoả thuận nới lỏng một số

biện pháp phi quan thuế đối với hàng nông sản, thực phẩm, hoa quả nhiệt đới...

nhập khẩu từ Việt nam.

+ Đài Loan: là lãnh thổ nhập siêu nông sản, hiện nay Việt Nam chiếm

1,6% kim ngạch XKNS của thị trường này, cho nên đây là một trong những thị

trường xuất khẩu quan trọng và đầy tiềm năng đối với hàng nông sản của Việt

Nam. Để tiếp thị và xâm nhập thị trường này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm

hiểu thông tin về luật định, đầu tư nhiều công sức và kinh phí, hợp tác với các

công ty của nước bạn hoạt động trong lĩnh vực thương mại để bán hàng.

+ Các nước ASEAN: Là thị trường khá lớn với khoảng 500 triệu dân, gần

cận về địa lý, nền văn hóa có nhiều nét tương đồng nên nhu cầu và thị hiếu tiêu

dùng nông sản gần gũi với Việt Nam. Tuy nhiên, do cơ cấu hàng hóa có nhiều

điểm giống nhau, nhưng Việt Nam ở trình độ phát triển thấp hơn nên hàng hóa của

ta chưa xâm nhập được thị trường này. KNXK nông sản sang ASEAN chủ yếu phụ

thuộc mặt hàng gạo nên chưa thực sự ổn định. Hiệp định AFTA tạo cơ hội thuận

lợi cho việc tăng cường thương mại nội ASEAN, như lúa gạo, cà phê, gỗ, phân

bón, các loại vật tư, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến,... Từ ngày 1/7/2003,

tiến trình hội nhập của ta trong AFTA bắt đầu đi vào chiều sâu, việc thực hiện lịch

trình cắt giảm thuế quan CEPT buộc hàng nông sản Việt Nam ngày càng phải cạnh

tranh quyết liệt hơn với hàng hoá các nước trong khu vực cả trên thị trường trong

98

nước và quốc tế. Mặc dù có nhiều thách thức nhưng Việt Nam vẫn có thể tăng

cường thương mại với các nước ASEAN về hàng nông sản. Việt Nam có thể tận

dụng cơ hội khi được hưởng mức thuế ưu đãi của các nước ASEAN - 6 để tăng

xuất khẩu các mặt hàng thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ… Mặt khác, cần tận

dụng vị trí địa lý để đẩy mạnh xuất khẩu sang Lào và Campuchia.

+ Các nước Trung Đông: là thị trường còn nhiều tiềm năng khai thác với

các thị trường trọng tâm: Irắc, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Iran, tiêu

thụ nhiều loại nông sản của ta như gạo, chè, ... nhưng yêu cầu cao về chất lượng,

chặt chẽ về điều kiện nhập khẩu. Từ năm 2003, KNXK nông sản của Việt Nam

sang thị trường này giảm mạnh, do thị trường truyền thống Irắc xảy ra chiến tranh,

gây bất lợi cho XKNS nước ta.

Để ổn định thị trường khu vực, cần tăng cường công tác thông tin, tìm hiểu

nhu cầu, thị hiếu, tập quán buôn bán của từng thị trường; khôi phục lại thị trường

gạo cao cấp Iran; chú trọng phát triển thị trường Đubai (TVQ Ảrập Thống nhất)

(nơi có nền kinh tế mở và môi trường kinh doanh tự do hầu như không có thuế

nhập khẩu đồng thời là cửa ngõ của khu vực Trung Đông và là địa điểm trung

chuyển hàng hoá đi Xi-ri, A-rập Xê-út, châu Phi, châu Âu); xây dựng phương án

khôi phục và phát triển về lâu dài thị trường Irắc để tiếp tục phát huy vai trò là thị

trường trọng điểm đối với hàng nông sản của Việt Nam, nhất là trong điều kiện

hiện nay Liên Hợp quốc không còn thực hiện chương trình đổi dầu lấy lương thực

và có nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh.

- Thứ tư: Bên cạnh đó cần chú ý khai thác, mở rộng vào các thị trường

Châu Âu, đặc biệt là các nước EU với các thị trường trong diện có kim ngạch lớn

như: Đức, Anh, Pháp, Hà Lan... đồng thời tranh thủ ngay các thị trường mới của

EU. Muốn vậy cần tập trung tăng cường quản lý chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật,

vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến khâu chế biến sản phẩm, đáp

ứng thị hiếu tiêu dùng, thực hiện tốt công tác xúc tiến thương mại, tham gia hội

chợ, giới thiệu hàng mẫu vào các siêu thị lớn,... Ngoài ra nhà nước và các doanh

99

nghiệp xuất khẩu cần có chính sách để khôi phục lại thị trường Nga, Đông Âu, vì đây

là thị trường truyền thống đã từng tiêu thụ một lượng lớn hàng nông sản Việt Nam.

- Thứ năm: Cần đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ, một thị trường tiêu thụ lớn

nhất thế giới về hàng hóa và dịch vụ, cũng là nước xuất siêu hàng nông sản. Yêu

cầu về tiêu chuẩn, chất lượng của Mỹ không quá khắt khe như các thị trường EU,

Nhật, Úc,... Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2001) tạo thuận lợi cho những mặt

hàng nông sản của ta xuất sang thị trường này ngày càng lớn. Tuy nhiên, thị

trường này lại quá xa, cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu của ta yếu kém, do vậy

thời gian tới cần chú trọng việc nghiên cứu luật lệ, chính sách thương mại, gắn với

thị trường này.

- Thứ sáu: Thị trường Châu Phi (Nam Phi, Tanrania, Angola, ...) là thị

trường tiềm năng, có nhiều cơ hội cho hàng hóa nông sản của nước ta nhất là gạo.

Thương mại giữa Việt Nam và Châu Phi có một số tiến triển trong thời gian qua

nhưng nhìn chung còn hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên.

Tổng KNXK hàng hóa của Việt Nam sang Châu Phi chỉ chiếm thị phần rất nhỏ

bé, khoảng 0,1% tổng giá trị nhập khẩu của châu lục này.

- Thứ bảy: Xúc tiến nhanh công tác xây dựng thương hiệu cho mặt hàng

nông sản, làm tốt công tác marketing thị trường, xác lập các kênh phân phối có

hiệu quả. Hiện nay 90% nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường nước ngoài

phải qua trung gian dưới những thương hiệu của các nước khác nên người tiêu

dùng nước ngoài vẫn chưa biết nhiều về những nét đặc thù của nông sản Việt

Nam, đó cũng là lý do Việt Nam mất hàng trăm triệu USD vì không có thương

hiệu, hàng nông sản phải bán với giá thấp.

Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, công tác xây dựng thương hiệu nông

sản là rất cần thiết. Phải đầu tư toàn diện, có chiến lược phát triển lâu dài và sự kết

hợp của tất cả các khâu từ việc lựa chọn giống trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch và

bảo quản sau thu hoạch. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà

nông, nhà khoa học, nhà truyền thông, doanh nghiệp Nhà nước. Việt Nam cần xác

định được ưu thế của những nông sản mũi nhọn ở từng khu vực, từng loại hàng

100

hóa, để phát huy thế mạnh và tạo sự độc quyền trên thị trường thế giới, hạn chế sự

thua thiệt về giá, đem lại KNXK cao. Nhà nước cần phối hợp với doanh nghiệp hỗ

trợ xuất khẩu thương hiệu, để hàng Việt được xuất ngoại trên chính thương hiệu

của mình.

3.2.5. Hoàn thiện chính sách:

a) Chính sách về vốn: Để có thể thu hút được lượng vốn đầu tư cần thiết

cho sự phát triên nông nghiệp và XKNS, bên cạnh việc khuyến khích mọi thành

phần kinh tế, đăc biệt là kinh tế tư nhân bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực này, việc thúc

đẩy sự phát triển của thị trường vốn nói chung, thị trường vốn phục vụ khu vực

nông thôn, nông nghiệp nói riêng là rất quan trọng. Chỉ khi thị trường vốn phát

triển, các doanh nghiệp XKNS cũng như các hộ nông dân mới có cơ hội tiếp cận

các nguồn vốn dễ dàng để phát triển sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn ngân sách

Nhà nước cần tập trung vào việc phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn (giao thông,

điện, hệ thống thủy lợi), đầu tư vào các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ

phục vụ nông nghiệp (như nghiên cứu cải tạo giống, ứng dụng các kĩ thuật canh

tác tiến bộ); đầu tư thỏa đáng cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường ở

cả tầm vĩ mô và vi mô, tiêu thụ sản phẩm (như xây dựng các trung tâm thương

mại...) nhằm xây dựng chiến lược thị trường một cách vững chắc; thực hiện các

biện pháp khuyến nông thích hợp. Ngoài ra việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm

thúc đẩy XKNS cũng cần được coi trọng, khuyến khích hơn nữa...

b) Chính sách xuất khẩu: Chính sách xuất khẩu đã có nhiều tiến bộ tạo

điều kiện thông thoáng và môi trường thương mại thuận lợi phù hợp với xu hướng

chung , nhưng trong lĩnh vực này cũng có không ít khó khăn cần tháo gỡ.

Trước hết, cần bãi bỏ giấy kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng

nông sản không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nước quản lý xuất khẩu.

Thứ hai: các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sau khi đăng ký kinh

doanh được tự do giao dịch và quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới và xuất

khẩu. Thứ ba: khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội,

hợp tác để thống nhất về quy cách, hàng hóa, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo đảm

101

thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn bán. Thứ

tư: Tăng cường các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu như: cung cấp miễn phí các thông

tin về thị trường và các văn bản có liên quan đến xuất nhập khẩu cho các doanh

nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, tổ chức hội chợ triển lãm,...

c) Chính sách khoa học công nghệ và đào tạo cán bộ: theo đánh giá của

Bộ Nông nghiệp & PTNT, khoa học công nghệ đã đóng góp tới 30- 35% tăng

trưởng sản lượng nông nghiệp trong thời gian vừa qua và ngày càng khẳng định rõ

vai trò, vị trí quan trọng của khoa học công nghệ là yếu tố động lực trực tiếp của

quá trình CNH, HĐH sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian tới chính sách khoa

học công nghệ trong nông nghiệp cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng

yêu cầu của chiến lược nâng cao chất lượng nông sản trên thị trường.

Cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, thực

hiện các chương trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập khẩu) quốc gia,

tạo một bước có tính đột phá về năng suất, chất lượng, phát triển công nghệ sau

thu hoạch, nghiên cứu kinh tế, thị trường.

Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào sản xuất theo các lĩnh vực ưu tiên.

Tăng cường công tác khuyến nông, đưa nhanh và trực tiếp đến người sản

xuất (hộ nông dân).

Kiện toàn và sắp xếp hệ thống nghiên cứu khoa học, để huy động và phát

huy được sức mạnh trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường đầu

tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học.

Đổi mới công tác quản lý khoa học, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu

trong các đề tài nghiên cứu.

Về đào tạo cán bộ: kinh nghiệm của nhiều nước (Nhật Bản, Singapore...)

cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối

với sự phát triển đất nước. Ngày nay nhân tố này càng có ý nghiã quan trọng trong

bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy

quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất - kinh doanh. Vì vậy để thực hiện

102

thành công các mục tiêu chiến lược... cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ,

doanh nhân có năng lực và đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất

nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quy hoạch và kinh phí đào tạo

đội ngũ cán bộ khoa học nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước. Nghiên cứu

tổ chức những lớp đào tạo bồi dưỡng giám đốc, để hình thành dần đội ngũ doanh

nhân có năng lực có khả năng xử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến

khích doanh nhân giỏi...

Tóm lại, trên đây là hệ thống các quan điểm và một số giải pháp chủ yếu

nhằm đẩy mạnh XKNS Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nội

dung của chương này được trình bày xuất phát từ cơ sở lý luận ở Chương 1 và

thực trạng XKNS ở nước ta thời gian qua, cùng với những tiềm năng XKNS của

Việt Nam. Để hoạt động XKNS của Việt Nam có hiệu quả hơn đòi hỏi phải có sự

kết hợp đồng bộ giữa vai trò của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp, của nhà

khoa học và của nhà nông. Nhà nước phải xây dựng được môi trường kinh doanh

thuận lợi với hệ thống chính sách tác động phù hợp với xu hướng phát triển hàng

nông sản thế giới. Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước các doanh nghiệp sản xuất,

kinh doanh NSXK phải xây dựng cho mình chiến lược sản xuất, chiến lược thị

trường, công nghệ chế biến... nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, gây dựng

thương hiệu sản phẩm của mình sánh ngang với tầm quốc tế. Chỉ có sự nỗ lực

hành động thống nhất của nhà nước và doanh nghiệp, gắn kết từ khâu sản xuất -

chế biến đến khâu xuất khẩu thì việc XKNS của Việt Nam mới đạt được hiệu quả cao,

đảm bảo hội nhập thành công, góp phần hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

103

KẾT LUẬN

Việt Nam là một nước nông nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm năng về vị trí

địa lý, về đất đai, nguồn lao động, về khí hậu thời tiết và các điều kiện sinh thái

khác cho phép phát triển nhiều loại nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn. Đẩy

mạnh xuất khẩu là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta, tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Nhà nước cần có chính

sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh

doanh, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển

mạnh những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường

quốc tế”. Đại hôị Đảng toàn quốc lần thứ X cũng chủ trương: “Đẩy mạnh xuất

khẩu, chủ động về nhập khẩu, hạn chế và thu hẹp dần nhập siêu. Tăng nhanh tỉ

trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng

công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hạn

chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua

chế biến...”. Muốn thực hiện chủ trương đúng đắn đó, chúng ta phải không ngừng

mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, năng cao chất lượng hàng hóa, tạo

uy tín của mình trên thị trường thế giới.

Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội mới

cho thương mại hàng hóa nói chung và thương mại hàng nông sản nói riêng. Nhất

là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, việc này có nhiều tác động tích cực đối với

việc xuất khẩu nông sản, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản của đất

nước; các nhà sản xuất trong nước có điều kiện tiếp cận các nguồn vật tư, thiết bị

phục vụ sản xuất nông nghiệp với giá rẻ, chất lượng tốt, từ đó làm hạ thấp giá

thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của sản phẩm;

góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu nhập của dân cư, mở rộng nhu cầu

sử dụng hàng nông sản chất lượng cao. Mặc dù nông sản hàng hóa là những mặt

hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam, song trên thực tế sức cạnh tranh của hàng

nông sản Việt Nam còn yếu so với nhiều nước xuất khẩu khác: chất lượng sản

104

phẩm chưa cao, chưa chú ý đến sản xuất an toàn và sạch, chưa tạo được nguồn

hàng có chất lượng đều, ổn định sản lượng lớn để xuất khẩu. Các doanh nghiệp

kém nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin thị trường, đối tác và bạn hàng. Nông

sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thường ở dạng thô, sơ chế và gần như không

có thương hiệu nên giá trị thấp... từ đó dẫn đến kim ngạch xuất khẩu nông sản

thấp, thị trường xuất khẩu chưa ổn định, uy tín của nông sản hàng hóa Việt Nam

chưa cao, không tương xứng với những tiềm năng, lợi thế mà ta đang có. Chính vì

vậy, để nâng cao hiệu quả cuả hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam, nông sản

xuất khẩu của Việt Nam phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của mình. Để

làm được việc đó cần có sự phối kết hợp đồng bộ giữa Nhà nước và doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh nhằm đưa ra những chiến lược, giải pháp lựa chọn sản xuất,

chế biến, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường phù hợp,... Sự phối hợp đó sẽ

giúp cho hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam có hiệu quả hơn. Điều đó sẽ

góp phần tích cực cho sự phát triển, chẳng những cuả ngành nông nghiệp mà còn

đảm bảo cho sự phát triển bền vững đối với cả nền kinh tế Việt Nam.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS Chu Văn Cấp (chủ biên), Nâng cao sức cạnh tranh của nền

kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc

gia Hà nội, 2003.

2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Định hướng

chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 của

Việt Nam), Hà nội, tháng 8 năm 2004.

3. Claes Lindahl- Tư vấn cao cấp của trung tâm thương mại quốc tế

ITC (2003) "Tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam ". Sách : Việt Nam với

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì đổi

mới (1986- 2002), Nxb Thống kê, Hà Nội 2003.

5. Bạch Thụ Cường, Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2002.

6. David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, Nxb

Giáo dục, Hà Nội 1995.

7. Th.S Phạm Quang Diệu, Phạm Hoàng Ngân, Nông nghiệp Việt

Nam hội nhập WTO, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới,

số 8 (124)/ 2006, tr54 – 62.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, lần

thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006).

9. Th S Nguyễn Thị Đường, Xuất khẩu hàng nông sản Việt nam vào thị trường

Trung Quốc thực trạng và giải pháp, Tạp chí thương mại số 13/2006, tr 9,10.

10. Đỗ Duy Hà, Tác động và những giải pháp nâng cao khả năng cạnh

tranh của nông sản Việt Nam khi gia nhập WTO, Tạp chí Nông thôn mới,

kỳ 1+2 tháng 11/2006, tr8 -11.

11. Trần Thị Kim Hải, Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị

trường Châu Âu trong những năm gần đây, Tạp chí Thương mại số 32, 2/2003.

12. Bùi Khắc Hiền, Sức cạnh tranh hạt điều xuất khẩu của Việt nam -

thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường Đại học Nông

nghiệp 1, 2004.

13. PGS.TS Hoàng Ngọc Hòa (chủ biên), Phối hợp một số chính sách

kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong

giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà nội 2005.

14. Trịnh Ái Hoa, Đổi mới một số chính sách nhằm thúc đẩy xuất

khẩu hàng nông sản của nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ

khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.

15. Minh Hoài: Xuất khẩu gạo 2005, thành tựu và vấn đề, Tạp chí

thương mại số 5 + 6 +7/2006, tr 10,11,12.

16. M inh Hoài (2007), Nông nghiệp Việt Nam sau khi vào WTO,

Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kỳ 2, tháng 1, tr3 – 7.

17. TS Lê Thị Hường, Một số giải pháp tạo bước đột phá trong xuất

khẩu nông sản Việt Nam,Tạp chí kinh tế và dự báo 2004.

18.TS Nguyễn Hữu Khải, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông nghiệp

nông thôn Việt nam và chương trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, Nxb

Thống kê, Hà nội, 2003.

19. PGS TS Nguyễn Bách Khoa, Chính sách thương mại và marketing

quốc tế các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, Nxb Thống kê, 2004.

20. TS Phí Văn Kỷ, Cây điều Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên

thị trường thế giới.

21. PTS Nguyễn Đình Long, PTS Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Võ

Định, Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất

khẩu Việt nam, Nxb Nông nghiệp, Hà nội 1999.

22. TS Nguyễn Đình Long, Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh

tranh và hiệu quả của hàng nông sản xuất khẩu trong thời gian tới, Kỷ yếu

khoa học nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002.

23. Đoàn Thị Mai, Năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt

nam thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học quốc gia

Hà Nội, 2005.

24. Th.S Trần Hồng Minh, Tác động của hội nhập kinh tế khi Việt

Nam gia nhập WTO, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 9/2006, tr19 – 21.

25. Hoàng Văn Phấn, Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sản xuất và

xuất khẩu nông sản ở đồng bằng sông Hồng, Luận văn tiến sĩ.

26. Thân Danh Phúc, Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Việt Nam

trong thương mại quốc tế, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 31, 1999.

27. Đinh Thị Kim Phượng, Nông nghiệp Trung Quốc sau 5 năm gia

nhập WTO - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Thị trường

Nông sản, số 8 - 12/2006, tr13 - 15.

28. Ngọc Quỳnh, Vai trò của Nhà nước trong việc xúc tiến kinh doanh

nông sản, Tạp chí thương mại số 12/2006, tr 3,4.

29. Tạp chí sản xuất thị trường NN&PTNT số 32 năm 2006: Dự báo

mậu dịch gạo thế giới năm 2006 và 2007, tr 14,15.

30. Tạp chí sản xuất thị trường NN&PTNT số cuối tháng 7 năm 2006,

Thị trường xuất khẩu chính của nông sản Việt Nam 6 tháng đầu năm 2006,

tr 25,26.

31. Tạp chí Kinh tế và dự báo, Một số giải pháp tạo bước đột phá

trong xuất khẩu nông sản ở Việt Nam, số 3 năm 2000.

32. Huỳnh Tham, Phát triển công nghiệp chế biến nông sản trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ

Khoa học kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà nội, 1999.

33. TS Lê Đình Thắng, Chính sách phát triển Nông nghiệp và nông

thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, 2000.

34. Lê Văn Thanh, Xuất khẩu hàng nông sản trong chiến lược đẩy

mạnh xuất khẩu của Việt Nam, Luận án tiến sĩ.

35. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Xuất khẩu tinh chế không dễ, số ra

ngày 27-7- 2006, tr 38, 39.

36. PTS Vũ Hồng Tiến, Những vấn đề cơ bản của lịch sử các học

thuyết kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 1996.

37. Song Toàn, Tạo điều kiện để gạo Việt Nam cạnh tranh thắng lợi

trên thị trường quốc tế, Thương mại Việt Nam số 18/1999.

38. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê, Hà nội, 1999.

39. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà nội, 2000.

40. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê, Hà nội, 2001.

41. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà nội, 2006.

42. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà nội, 2007.

43. Tổng cục Thống kê, Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 20 năm

đổi mới 1986 – 2005, Nxb Thống kê, Hà nội 2006.

44. Nguyễn Xuân Trình, Cảnh báo về sức cạnh tranh của chè Việt

Nam, Tạp chí thương mại số 32, 2002.

45. Trung tâm tin học Nông nghiệp và PTNT, Bản tin phục vụ lãnh

đạo, Thông tin chuyên đề Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: (số 1,6/

2000), (số 6,7,8/ 2004), (số 3,10,12/ 2005), (số 6, 10/2006), (số 1, 6/2007).

46. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: Kỷ yếu diễn đàn

Việt Nam, sẵn sàng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nxb

Khoa học xã hội, Hà nội 2004.

47. Phạm Hồng Tú - Phan Ngọc Bảo, Triển vọng thị trường hàng nông

sản thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam đến 2010, Viện nghiên

cứu thương mại, Hà nội 1999.

48. Nguyễn Thị Tú: Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất

khẩu Việt Nam vào thị trường EU, Luận văn thạc sỹ, 2004.

49. TS Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên): Giáo trình kinh tế đối ngoại Việt

Nam, Nxb CTQG, Hà nội 2005.

50. TS Lê Thị Anh Vân, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu

hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao

động 2003.

51. Viện Kinh tế Nông nghiệp, Bộ NN& PTNT, Báo cáo khoa học

Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy lợi thế nâng cao khả

năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản trong thời gian

tới (gạo, cà phê, cao su, chè, điều), Hà nội 2/2001.

52. Viện Kinh tế Nông nghiệp, Bộ NN & PTNT, Kỷ yếu khoa học

Nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và PTNT(1996 - 2002), Nxb Nông nghiệp,

Hà nội 2002.

53. Vụ kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Nghiên cứu điều kiện

hình thành sàn giao dịch nông sản tại Việt nam, Hà nội, 12/2004.

54. Vụ Kế hoạch, Bộ NNvà PTNT, Đề cương chương trình phát triển

thị trường và xúc tiến thương mại hàng nông lâm sản giai đoạn 2004 -

2010.

55. Phạm Thế Vỹ, Nâng cao hàm lượng “chất xám” trong nông sản

xuất khẩu, Tạp chí Thương mại số 19/ 2002, tr 10 - 11.

56. Thông tin từ các trang web: http//www.agroviet.gov.vn

http//www.goole.com

http//www.vinanet.com.vn

http//www.mard.gov.vn

http//www.ispard.gov.vn

http//www.faostat.org

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one