LUẬN VĂN:
Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang
thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước,
được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp
đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt
Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế.
Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu
cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp
thu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn
luyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thị
trường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu lao
động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đến
nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác động
tích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địa
phương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của
Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có
những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động Việt
Nam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao
động tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v... Đặc biệt,
số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nước
này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặn
và giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam
ở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của
Việt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặc
mất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khó
khăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiến
lược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người lao
động cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế,
tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tới
mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời gian
tới.
Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhân
của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạn
chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn
đề "Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng
và giải pháp" được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
XKLĐ, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994):
Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sĩ kinh tế; Trần
Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động
trong giai đoạn 1995-2010 - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số
vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ
kinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu
lao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh
(2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải
pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ
sở, các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của Việt
Nam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh chính sách, cơ chế quản lý hoạt
động XKLĐ. Tuy đề cập đến thực trạng và hướng phát triển XKLĐ của Việt Nam sang
các nước thuộc khu vực Đông Bắc á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhưng các
công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung, tổng quát, chưa đi sâu vào phân
tích, đánh giá đầy đủ về nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài (LĐNN) của khu vực
cũng như hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Hơn
nữa, trong điều kiện nền kinh tế thế giới, khu vực và bản thân Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan cũng luôn hàm chứa những yếu tố có tác động không nhỏ tới việc tuyển dụng LĐNN
ở từng nước, hoạt động XKLĐ của nước ta còn nhiều tồn tại, khó khăn, có nhiều diễn biến
phức tạp chưa giải quyết được thì việc nghiên cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn về
XKLĐ nói chung, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á
nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, để từ đó đưa ra được các giải pháp phù
hợp thúc đẩy hoạt động này tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững.
Do đó, tiếp tục nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt động XKLĐ của Việt
Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á nói riêng là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về XKLĐ
của một số nước và ở nước ta trong thời gian qua, luận văn có mục đích xác định những
quan điểm cơ bản về hoạt động XKLĐ và kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt
động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á trong thời gian tới, góp
phần phát triển hoạt động XKLĐ nói chung của nước ta.
Để thực hiện được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây:
- Phân tích làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ và
vai trò của hoạt động XKLĐ.
- Khái quát những kinh nghiệm của một số nước về XKLĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực Đông Bắc á; rút ra một số kinh nghiệm đối với hoạt động XKLĐ của Việt Nam.
- Phân tích nhu cầu tuyển dụng LĐNN của khu vực Đông Bắc á và nêu phương
hướng XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á.
- Xác định một số quan điểm về hoạt động XKLĐ cần nhận thức đúng; đề xuất
một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế và đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam
sang thị trường khu vực Đông Bắc á.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu XKLĐ với tính chất là một hoạt động xuất khẩu hàng hóa
sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu hình thức XKLĐ trực tiếp:
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước và vùng lãnh thổ ngoài Việt
Nam theo các hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và
nước ngoài, có sự quản lý của nhà nước.
Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á được thực hiện chính
thức từ năm 1992 và chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Vì vậy,
nghiên cứu thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc
á chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu hoạt động XKLĐ trực tiếp của Việt Nam sang các
thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan từ năm 1992 đến năm 2004. Đối tượng nghiên
cứu là hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh
doanh và làm dịch vụ giúp việc tại các nước và vùng lãnh thổ này.
Thuật ngữ xuất khẩu sức lao động và xuất khẩu lao động được dùng tương đương
trong luận văn và đồng nhất về cách hiểu, mặc dù về khía cạnh khoa học, chỉ có sức lao
động mới là hàng hóa và là đối tượng của trao đổi, mua bán, trong đó có xuất khẩu. Người
lao động ở các trình độ, nghề nghiệp khác nhau được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo
các hợp đồng cung ứng lao động được nghiên cứu chung là lao động xuất khẩu (LĐXK).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logíc, có kế thừa những kết quả nghiên cứu của
các công trình nghiên cứu khoa học trước đây để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động XKLĐ.
- Làm rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan và
phương hướng XKLĐ của Việt Nam sang các nước này.
- Tìm ra một số nguyên nhân của thành công và hạn chế trong hoạt động XKLĐ
của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á, rút ra một số kinh nghiệm về hoạt
động XKLĐ của Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế các phát sinh
tiêu cực, đồng thời thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông
Bắc á phát triển trong thời gian tới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính
sách kinh tế - xã hội, nhất là đối với những người làm công tác XKLĐ, các nhà nghiên cứu
và các độc giả quan tâm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Mục lục
Trang
1 Mở đầu
7 Chương 1: những vấn đề lý luận và thực tiễn về xuất khẩu lao
động
7 1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế
27 1.2. Vai trß cña ho¹t ®éng xuÊt khÈu lao ®éng ®èi víi c¸c n-íc h÷u quan
33 1.3. Kinh nghiÖm cña mét sè n-íc trong khu vùc về xuất khẩu lao động
40 Ch-¬ng 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động của việt nam
sang thị trường khu vực đông bắc á
2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuÊt khÈu lao ®éng sang 40
NhËt B¶n, Hµn Quèc, §µi Loan vµ nguyªn nh©n
2.2. Những hạn chế, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu lao động của ViÖt 51
Nam sang NhËt B¶n, Hµn Quèc, §µi Loan vµ nguyªn nh©n
2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động 67
của Việt Nam sang thị trường khu vùc §«ng B¾c á
70 Ch-¬ng 3: một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao
động của việt nam sang thị trường khu vực đông bắc
á
3.1. Nhu cÇu sö dông lao ®éng n-íc ngoµi cña khu vùc §«ng B¾c á vµ 70
ph-¬ng h-íng xuÊt khÈu lao ®éng cña ViÖt Nam sang khu vùc nµy
3.2. Những quan điểm về hoạt động xuất khẩu lao động cần được nhận 76
thức đúng
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động của Việt 82
Nam sang thị trường Đông Bắc á trong thêi gian tíi
100 Kết luận
102 những công trình liên quan đến luận văn đã được công bố
103 Danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1
Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Về Xuất Khẩu LAO Động
1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế
Xuất khẩu lao động là một hoạt động có tính chất phức tạp, nhạy cảm do liên quan
trực tiếp đến con người, tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, quan hệ đối ngoại
cũng như do có nhiều quan điểm và nhận thức khác nhau. Bởi vậy, làm rõ bản chất, đặc
điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ sẽ giúp cho có được một cách nhìn toàn
diện, thống nhất về quan điểm trong lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động XKLĐ ở
nước ta.
1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ XKLĐ
Theo cách hiểu thông thường, việc khảo sát thị trường lao động, tìm kiếm người
sử dụng lao động ở nước ngoài, ký kết các hiệp định hợp tác hoặc hợp đồng lao động, tiến
hành đưa người lao động đi làm việc ở các nước và các hoạt động kèm theo là nội dung
chính của hoạt động XKLĐ. Theo cách hiểu đó, hoạt động XKLĐ bao hàm việc di chuyển
của người lao động từ một nước này đến nước khác làm việc. Tuy nhiên, không phải bất
cứ một sự di chuyển lao động nào như vậy của người lao động đều là hoạt động XKLĐ.
Vấn đề này, ở các quốc gia, thậm chí ở một quốc gia, tùy từng điều kiện cụ thể mà người
ta có các cách hiểu, quan niệm khác nhau. Nhưng nhìn chung, về thực chất, sự di chuyển
này là việc người lao động đi làm thuê cho người sử dụng lao động ở ngoài nước.
Để làm rõ bản chất cũng như đưa ra được khái niệm đầy đủ về hoạt động XKLĐ,
cần xem xét tới một số vấn đề liên quan sau:
Thị trường lao động: Là thị trường trao đổi sức lao động, là một không gian trao
đổi, tiến tới một thỏa thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần sức lao động đó
để sử dụng. Kết quả của sự trao đổi đó là sự thỏa thuận bằng hợp đồng về tiền công cùng
với một số điều kiện khác cho một công việc cụ thể. Thị trường lao động chính là biểu
hiện của sự trao đổi, là mối quan hệ kinh tế cần thiết giữa người sở hữu và người sử dụng
sức lao động. Hàng hóa trên thị trường lao động là sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt,
giá cả của nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung - cầu.
Lao động di cư (migrant worker) chỉ người lao động di chuyển từ nước này sang
nước khác để làm việc, thuộc phạm trù di dân quốc tế (international migration). Di dân
quốc tế bao gồm những vấn đề lớn hơn khái niệm lao động di cư, để chỉ những người hoặc
dòng người di chuyển từ nước này sang nước khác vì nhiều mục đích khác nhau, với nhiều
lứa tuổi khác nhau, trong đó có một bộ phận thuộc lực lượng lao động.
Xuất khẩu lao động: Được hiểu như là công việc đưa người lao động từ một nước
đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn, sử dụng lao động. Nó có liên quan đến các
khái niệm: lao động xuất cư - chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó
tới nước mà họ lao động; lao động nhập cư - chủ yếu đề cập đến người lao động từ nước
ngoài vào một nước nào đó để làm việc; lao động xuất khẩu - đề cập đến người lao động
của một nước có độ tuổi, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau được đưa đi làm việc ở
ngoài nước theo các quy định của pháp luật nước đó.
Trên thế giới, thuật ngữ thông dụng để chỉ sự di chuyển của người lao động ra
khỏi biên giới một nước là lao động di cư hay lao động di trú. Theo Điều 11 của Công ước
số 97 (1949) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khái niệm người lao động di cư chỉ một
người di cư từ nước này sang một nước khác để làm thuê cho người khác [47]. Như vậy,
bất cứ sự di chuyển nào của người lao động từ nước này đến nước khác để làm việc đều
được gọi chung là lao động di cư, không phân biệt hình thức tổ chức và đối tượng tham
gia. Với cách hiểu này, thuật ngữ lao động di cư chỉ phản ánh biểu hiện bề ngoài sự di
chuyển của người lao động đi làm việc ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, chưa thể
hiện được bản chất của nó là quá trình mua bán sức lao động giữa người lao động (người
sở hữu sức lao động) với người thuê lao động (người sử dụng sức lao động). Hơn nữa, khái
niệm cũng bao hàm và không phân biệt các trường hợp di chuyển hợp pháp (có sự quản lý
của nhà nước) và di chuyển bất hợp pháp (nhà nước không kiểm soát được) của người lao
động.
ở Việt Nam, liên quan đến sự di chuyển của người lao động đi làm việc ở nước
ngoài có một số quan niệm, thuật ngữ được sử dụng ở các thời kỳ khác nhau như: hợp tác
quốc tế về lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xuất khẩu
lao động.
Hợp tác quốc tế về lao động hay hợp tác quốc tế về sử dụng lao động là cụm từ
được sử dụng vào những năm 1980, phản ánh hoạt động cung ứng và tiếp nhận lao động
giữa Việt Nam với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước ở châu Phi và Trung
Đông theo các hiệp định chính phủ. Như vậy, hợp tác quốc tế về lao động bao gồm các
hoạt động: đưa lao động Việt Nam sang nước khác làm việc, cung cấp lao động cho nước
ngoài sử dụng ngay trong nước và tiếp nhận LĐNN vào Việt Nam làm việc. Nhưng thực tế
lúc đó chủ yếu là Việt Nam thực hiện cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao động bị thiếu
hụt ở các nước tiếp nhận, được thể hiện dưới hình thức Nhà nước tuyển chọn và trực tiếp
đưa lao động ra nước ngoài nhằm mục đích đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề ở các nước
tiếp nhận trên tinh thần giúp đỡ, hợp tác hữu nghị, chưa chú trọng đến mục đích kinh tế. Vì
vậy, "hợp tác quốc tế về lao động" chỉ được sử dụng với nghĩa hẹp, phù hợp với cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và điều kiện lịch sử lúc đó, không thể hiện được bản
chất của nó đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động trên cơ sở ngang giá và cân
bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia.
Đưa người lao động đi làm việc (có thời hạn) ở nước ngoài: Là cụm từ được sử
dụng vào đầu những năm 1990 thay cho cụm từ hợp tác quốc tế về lao động, gắn liền với
sự thay đổi nhận thức về sức lao động và quan niệm về việc đưa lao động ra nước làm
việc. Sức lao động đã được thừa nhận là một hàng hóa có thể trao đổi, mua bán ở cả trong
và ngoài nước. Hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài là nhằm các mục tiêu: kinh tế
(thu nhập cho người lao động và thu ngoại tệ cho đất nước), xã hội (giải quyết việc làm);
quan hệ quốc tế (hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật), được thực hiện theo các
hình thức tổ chức: hiệp định giữa hai chính phủ (nếu có); các hợp đồng cung ứng lao động
giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và nước ngoài; các hợp đồng lao động giữa người
lao động với các tổ chức kinh tế Việt Nam hoặc các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài
[22]. Nhà nước không trực tiếp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài mà chủ yếu do các
tổ chức kinh tế được cấp phép đảm nhiệm. Hoạt động này đã phản ánh sát thực bản chất
của việc cung ứng và tiếp nhận lao động giữa các quốc gia, đó là sự trao đổi, mua bán hàng
hóa sức lao động nhằm mục đích kinh tế - xã hội, nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Xuất khẩu lao động: Là thuật ngữ hiện được sử dụng phổ biến, có ý nghĩa tương
đương với cụm từ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trong nhiều văn bản pháp luật, tài liệu nghiên cứu về người lao động
đi làm việc ở ngoài nước. Trong cơ chế kinh tế thị trường, XKLĐ phản ánh hoạt động
cung - cầu lao động trên thị trường lao động quốc tế theo các quy luật kinh tế, trên cơ sở
giá cả của hàng hóa sức lao động và lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia; phản ánh
được sự khác biệt giữa hình thức tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc một cách
hợp pháp với các hình thức tổ chức khác.
1.1.1.2. Bản chất của hoạt động XKLĐ
Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Đó cũng là một quá trình nhận thức khách quan
về vai trò của người lao động và sức lao động tiềm ẩn trong các nước dư thừa lao động.
Vấn đề di chuyển lao động và XKLĐ về thực chất là việc đem sức lao động từ một nước
này tới một nước khác nhằm mục đích kinh tế, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất.
Việc di chuyển lao động ban đầu mang tính tự phát còn việc di chuyển lao động trong
XKLĐ lại mang tính tự giác, tức là có việc tổ chức đưa lao động đi và về kèm theo hạch
toán kinh tế, có ý nghĩa chiến lược của một quốc gia. Như vậy, XKLĐ bản thân nó là một
hoạt động nhằm mục đích kinh tế, có liên quan đến nhiều vấn đề nhạy cảm và phức tạp vì
gắn liền với hoạt động của người lao động.
Từ thực tế nêu trên cùng với tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động đã tạo ra sự
phức tạp trong hoạt động XKLĐ, do đó vẫn còn có những điểm khác nhau trong các khái
niệm khi nghiên cứu về hoạt động XKLĐ ở Việt Nam.
Dưới góc độ chuyên ngành kinh tế và tổ chức lao động, theo tác giả Nguyễn
Lương Trào: "Việc tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc được nhà nước xem đó là
một lĩnh vực hoạt động kinh tế hợp pháp và cho phép các tổ chức kinh tế (nhà nước hoặc
tư nhân) thực hiện thì đó chính là hoạt động xuất khẩu lao động" [45, tr. 5].
Trên giác độ phân tích một hoạt động nghiệp vụ ngoại thương, tác giả Nguyễn
Phúc Khanh cho rằng: "Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù của một
quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở hợp đồng có
thời hạn, có tính chất pháp quy được thống nhất giữa quốc gia đưa và nhận lao động" [25,
tr. 10].
Phân tích XKLĐ dưới góc độ quản lý kinh tế, XKLĐ được quan niệm: "Xuất khẩu
lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một
quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định, hợp đồng giữa các nhà nước, tổ chức kinh tế,
pháp nhân, cá nhân của quốc gia xuất khẩu với các quốc gia nhập khẩu" [44, tr. 5].
Có thể thấy, trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, theo cách tiếp cận khác
nhau, người nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau, hoặc có điểm khác nhau trong
quan niệm về XKLĐ. Các khái niệm này nhìn chung đã phản ánh những biểu hiện cụ thể,
mang tính kỹ thuật của hoạt động XKLĐ: cung ứng lao động cho nước ngoài theo các hợp
đồng đã ký kết. Việc phản ánh bản chất của hoạt động XKLĐ mới ở mức độ khái quát
những biểu hiện chung nhất - đó là một hoạt động nhằm mục đích kinh tế qua việc đưa lao
động từ nước này sang nước khác, mà chưa thể hiện được đó là việc bán hàng hóa sức lao
động trong nước cho chủ sử dụng ở nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, được đem ra trao
đổi, mua bán trên thị trường. Nhưng người lao động là chủ sở hữu sức lao động, chỉ bán
giá trị sử dụng của sức lao động và bán nó trong một khoảng thời gian nhất định cho người
mua là người sử dụng lao động, theo những điều kiện đã được thỏa thuận giữa hai bên.
Người mua chỉ được sử dụng sức lao động trong thời gian đã thỏa thuận để thu giá trị
thặng dư do người lao động tạo ra, hết thời hạn này, sự ràng buộc giữa hai bên chấm dứt.
Hoạt động mua bán này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể người lao động
trực tiếp tìm đến người sử dụng hoặc thông qua các môi giới trung gian theo các hợp đồng
cung ứng lao động. Nếu người lao động bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng ở
ngoài nước thì việc mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế, khi đó hoạt động
này vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và do đó, liên quan tới các quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội,… giữa quốc gia mà người lao động đi và quốc gia mà người lao động đến
để làm việc. Để đảm bảo quyền lợi của người lao động cũng như các lợi ích khác của quốc
gia, nhà nước đã phải tham gia vào hoạt động này. Cho đến nay, hầu hết sự di chuyển của
người lao động ra nước ngoài làm việc đều có sự can thiệp của nhà nước, nhưng với các
mức độ khác nhau ở các nước khác nhau. Vì thế trên thế giới người ta thường xếp XKLĐ
vào hoạt động kinh tế đối ngoại hay hoạt động kinh tế quốc tế.
Như vậy có thể thấy, thực chất XKLĐ là hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao
động - một loại hàng hóa đặc biệt, bản chất của hoạt động này là việc bán hàng hóa sức
lao động trong nước cho nước ngoài. Người lao động thông qua các tổ chức môi giới giao
dịch hàng hóa sức lao động, hay các tổ chức XKLĐ, của nhà nước hoặc tư nhân, để bán
sức lao động, đi làm thuê cho chủ sử dụng lao động ở ngoài nước.
Từ những phân tích trên, chúng tôi mạnh dạn tóm lược các nội dung trên và đưa ra
một khái niệm tương đối đầy đủ về XKLĐ như sau:
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội đặc thù, thuộc lĩnh vực hợp
tác kinh tế quốc tế của một quốc gia nhằm thực hiện việc cung ứng hàng hóa sức lao động
cho nhu cầu sử dụng ở nước ngoài theo các hình thức do nhà nước quy định. Đây là một
hình thức giao dịch hàng hóa sức lao động trên thị trường lao động quốc tế, trong đó
người chủ bán hàng hóa sức lao động cho người sử dụng ở nước ngoài thông qua các tổ
chức môi giới trung gian của nhà nước hoặc tư nhân.
1.1.1.3. Đặc điểm của hoạt động XKLĐ
Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó, hoạt động XKLĐ cũng có
những đặc điểm khác với hoạt động xuất khẩu các hàng hóa khác.
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động đặc thù thuộc lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc
tế. Tính đặc thù này được thể hiện hoạt động XKLĐ là một hoạt động nhằm mục đích kinh
tế nhưng mang tính xã hội sâu sắc trong quan hệ với nước ngoài.
Là một hoạt động kinh tế, ở nhiều nước, XKLĐ đã trở thành một giải pháp để giải
quyết việc làm cho lực lượng lao động ngày càng tăng, tích lũy tư bản từ nguồn tiền
chuyển về nước của người lao động đi XKLĐ và các khoản thu khác từ hoạt động này.
Những lợi ích kinh tế này buộc nước XKLĐ phải nỗ lực để có thể chiếm được thị phần
XKLĐ cao nhất. Chính vì vậy, nước XKLĐ phải tính toán sao cho bù đắp được chi phí
trong hoạt động XKLĐ và thu được các lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia, vì vậy
phải có cơ chế thích hợp để tăng tối đa khả năng cung lao động. Mục tiêu kinh tế luôn
được chú trọng trong hoạt động XKLĐ, do đó, mọi chủ trương, chính sách, các biện pháp
quản lý, điều tiết của nhà nước về hoạt động XKLĐ đều bám sát đặc điểm này, định hướng
và bảo đảm cho hoạt động XKLĐ đạt được mục tiêu về lợi ích kinh tế.
Tính chất xã hội của hoạt động XKLĐ bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của hàng
hóa sức lao động. Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong
một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [34, tr. 251]. Vì vậy, xét cả về số lượng và chất lượng,
hàng hóa sức lao động phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân người mang loại hàng hóa này.
Hơn nữa, sức lao động còn bao hàm các yếu tố về lịch sử và tinh thần [34, tr. 257], nên
hàng hóa sức lao động có một đặc tính xã hội riêng có. Người lao động có khả năng tư duy
và tự làm chủ bản thân, mang trong mình các đặc điểm về đạo đức, truyền thống văn hóa,
phong tục tập quán… của một quốc gia, dân tộc, chúng di chuyển cùng người LĐXK. Vì
thế, các chính sách điều tiết hoạt động XKLĐ đều phải kết hợp với các chính sách xã hội
khác, nhất là phải đảm bảo được quyền lợi của người lao động, trong các hiệp định hợp tác
lao động, hợp đồng XKLĐ cũng phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị,
tinh thần, văn hóa, sinh hoạt của người lao động như vấn đề thăm thân, tham gia các hoạt
động văn hóa, lễ hội, sinh hoạt tập thể...
Hoạt động XKLĐ luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của nhà nước - với tư cách là
một chủ thể tham gia vào quá trình này. Nhà nước tham gia vào hoạt động XKLĐ bằng
cách xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động XKLĐ để bảo đảm các lợi ích quốc
gia, quyền lợi của các tổ chức, doanh nghiệp, người lao động tham gia XKLĐ, duy trì và
phát triển quan hệ hợp tác với các nước NKLĐ,... Trong những trường hợp cần thiết, nhà
nước phải trực tiếp giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp XKLĐ
không thể đảm đương được như bảo vệ người lao động ở nước ngoài, đàm phán ký kết các
hiệp định chính phủ về hợp tác lao động với nước ngoài, ký kết các điều ước quốc tế liên
quan đến người lao động, giải quyết các vấn đề tiêu cực trong hoạt động XKLĐ như lao
động vi phạm pháp luật ở nước NKLĐ, lừa đảo trong hoạt động XKLĐ,...
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Đặc điểm này
được thể hiện qua tính chất vô hình không thể chia cắt và tính chất không xác định trong
hoạt động XKLĐ.
+ Tính chất vô hình, không thể chia cắt: Hoạt động dịch vụ thông thường có đặc
điểm không hiện hữu, không tồn tại dưới dạng vật thể, không thể sờ mó, tiếp xúc hay nhìn
thấy được khi ra quyết định sử dụng. Đối với XKLĐ, yếu tố không hiện hữu thể hiện ở
chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đã hoàn thành thủ tục đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài, nó kéo dài từ khi đưa người lao động đi XKLĐ, giúp người lao
động thích nghi với công việc ở nước ngoài cho đến khi người lao động về nước. Các bên
liên quan đến hoạt động XKLĐ có quyền lợi và nghĩa vụ trong suốt thời hạn của hợp đồng,
đồng thời, phải thường xuyên có những hành động để thực hiện nghĩa vụ quy định trong
hợp đồng, hoặc cả trường hợp không quy định trong hợp đồng nhưng có liên quan đến
quyền lợi của người lao động, người cung ứng lao động và người sử dụng lao động [24, tr.
12].
+ Tính chất không xác định: Dịch vụ có tính không đồng nhất, sản phẩm dịch vụ
phi tiêu chuẩn hóa, chất lượng thường không xác định bởi các dịch vụ phụ thuộc vào
người cung cấp chúng. Tính chất không xác định trong hoạt động XKLĐ được quy định
bởi chất lượng hàng hóa sức lao động. Chất lượng của hàng hóa sức lao động được phản
ánh và phụ thuộc vào nguồn lực thể chất và tinh thần của người lao động, hay là khả năng
dẻo dai, bền bỉ trong lao động, khả năng thành thạo và sáng tạo của người lao động cũng
như điều kiện làm việc, sinh hoạt nghỉ ngơi, các hoạt động văn hóa… cho người lao
động. Tuy nhiên, các yếu tố này ở mỗi người, ở mỗi địa phương, khu vực là khác nhau,
có thể thay đổi làm cho chất lượng hàng hóa sức lao động thay đổi theo, không ổn định,
do đó tạo ra tính chất không xác định trong hoạt động XKLĐ.
- Hoạt động XKLĐ có cách tính giá cả hàng hóa xuất khẩu khác biệt. Hàng hóa
xuất khẩu trong hoạt động XKLĐ là sức lao động, giá cả hàng hóa sức LĐXK là biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động của người LĐXK và được xác định trên thị trường lao
động. Giá trị của hàng hóa sức lao động được xác định gồm: giá trị tư liệu sinh hoạt cần
thiết để duy trì sự sống và đảm bảo tái sản xuất sức lao động của bản thân người lao động,
để nuôi sống gia đình, con cái của người lao động và các chi phí đào tạo nghề nghiệp, kỹ
năng lao động, các chi phí để thỏa mãn các nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động
[34, tr. 256-258]. Do đó, ngoài vấn đề phải đảm bảo được sức cạnh tranh trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc tính toán giá cả hàng hóa trong XKLĐ phải tính đúng
và tính đủ các yếu tố hình thành giá trị hàng hóa sức lao động, phải tính toán trong điều
kiện từng thị trường cụ thể, nơi diễn ra việc trao đổi sức lao động vì mỗi thị trường có chi
phí và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Như C.Mác đã chỉ ra "những nhu cầu thiết yếu, cũng
như phương thức thỏa mãn những nhu cầu đó... phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh
của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào những thói quen và những nhu cầu
sinh hoạt" [34, tr. 256].
- Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho ba chủ thể tham gia. Hoạt động
XKLĐ, ngoài sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp XKLĐ, còn có sự tham gia trực
tiếp của người lao động. Người lao động tham gia vào hoạt động XKLĐ với tư cách vừa là
người tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là người trực tiếp mang hàng đi bán, lợi ích của họ là
các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nước ngoài; lợi ích của các doanh nghiệp
XKLĐ chủ yếu là các loại phí trong việc giúp cho người lao động đi làm việc ở nước
ngoài; lợi ích của nhà nước là các khoản ngoại tệ ròng nhận được thông qua các khoản tiền
của người lao động gửi về nước, các khoản phí và thuế từ hoạt động XKLĐ. Vì lợi ích
kinh tế, cả người lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi phạm các quy định của pháp
luật. Do đó, các chính sách điều chỉnh phải đảm bảo được sự hài hòa lợi ích trực tiếp của
các chủ thể tham gia, trong đó phải chú trọng đến lợi ích của người lao động.
- Hoạt động XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất khẩu, việc
thực hiện quyền sử dụng hàng nhập khẩu có thời hạn. Sức lao động gắn chặt với người lao
động, không thể tách rời khỏi cơ thể sống của người lao động và luôn thuộc quyền sở hữu
của người lao động. Người lao động với tư cách là một con người phải thường xuyên duy
trì mối quan hệ đối với sức lao động của mình như là đối với một vật sở hữu của mình hay
như đối với một hàng hóa của bản thân anh ta [34, tr. 252]. Do đó, người lao động chỉ bán
sức lao động của mình và bao giờ cũng chỉ để cho người mua sức lao động sử dụng hay
tiêu dùng sức lao động đem bán trong một thời hạn nhất định, không từ bỏ quyền sở hữu
về sức lao động đó. Nếu người lao động chuyển quyền sở hữu sức lao động của mình cho
người mua, tức người lao động đã "bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì
người lao động sẽ tự bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là một người tự do, anh ta sẽ trở
thành nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hóa, anh ta sẽ trở thành một hàng hóa" [34, tr. 252].
Vì vậy, trong hoạt động XKLĐ không có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa xuất khẩu từ
người bán cho người mua như hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông thường, quyền sở hữu
sức lao động vẫn thuộc về người lao động khi hợp đồng được thực hiện.
Trong khoảng thời gian của hợp đồng XKLĐ, người chủ sử dụng tiến hành khai
thác và sử dụng sức lao động mua về một cách hiệu quả nhất nhằm thu được tối đa giá trị
tăng thêm do sức lao động đó tạo ra. Tuy nhiên, việc sử dụng đó là có giới hạn, phải tuân
theo các điều kiện, thỏa thuận đã ký kết giữa họ và người LĐXK, tuân theo các hiệp định
chính phủ ký kết giữa nước họ với nước XKLĐ và phù hợp với các quy ước, thông lệ quốc
tế về lao động nhập cư. Sau thời hạn hợp đồng, người chủ sử dụng hết quyền sử dụng hàng
hóa sức lao động đó và phải trả người lao động về nước XKLĐ.
- Hoạt động XKLĐ có sự đa dạng về thị trường, hình thức và chủng loại hàng hóa.
Đây là một thực tế phản ánh quá trình phân công lao động quốc tế trong bối cảnh tự do hóa
kinh tế và toàn cầu hóa, dưới tác động của sự phát triển mạnh mẽ của KHCN. Trong quá
trình phát triển kinh tế, vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều ngành, lĩnh vực mà bản thân lực
lượng lao động của mỗi nước cũng không đáp ứng được, do đó có nhu cầu sử dụng LĐNN.
Hơn nữa, trong điều kiện tự do hóa kinh tế và tác động của các quy luật kinh tế, người lao
động sẽ di chuyển từ nơi dư thừa lao động, thu nhập thấp đến nơi thiếu hụt lao động, thu
nhập cao. Đặc biệt, ở nhiều nước, nhất là các nước đang và chậm phát triển, sự di chuyển
này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi các chính sách của chính phủ, coi việc đưa lao động ra
nước ngoài làm việc bằng nhiều hình thức khác nhau là một hướng đi để góp phần giải
quyết vấn đề việc làm trong nước, tăng thu nhập ngoại tệ cho quốc gia. Quá trình đó đã tạo
ra sự đa dạng trong hoạt động XKLĐ: diễn ra ở tất cả các nước, khu vực trên thế giới,
không chỉ đơn thuần hướng từ các nước đang và chậm phát triển sang các nước phát triển
mà còn có chiều ngược lại, hoặc giữa các nước có cùng trình độ phát triển, dưới nhiều hình
thức khác nhau, bao gồm nhiều loại lao động có trình độ khác nhau, làm việc trong nhiều
lĩnh vực khác nhau theo nhu cầu của các nước tiếp nhận. Do đó, quá trình này đã tạo ra
tình trạng một nước vừa XKLĐ loại này nhưng vẫn phải NKLĐ loại khác.
Tuy nhiên, dòng XKLĐ từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển hơn
thường gắn liền với các hiệp định chính phủ, các hoạt động đầu tư, thương mại, các công
trình thầu khoán của các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia của các nước phát triển. Đây là
sự di chuyển của dòng lao động chất lượng cao, có trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật
cao như các chuyên gia, các nhà quản lý, kỹ thuật viên cao cấp,… sức lao động của họ
được định ở mức giá cao hay có mức lương luôn lớn hơn so với mức lương của người lao
động bản xứ, thậm chí trong cùng một công việc, do đó, giá trị XKLĐ của các nước phát
triển thường cao hơn.
- Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền thống, văn
hóa, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc. Sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch
sử và tinh thần, vì thế người lao động luôn mang trong mình các yếu tố thuộc về đạo đức,
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán... của một quốc gia, dân tộc và chúng được di
chuyển cùng người lao động sang nước NKLĐ. Người LĐXK, để sống và làm việc ở nước
NKLĐ, buộc phải thích nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, pháp
luật, thói quen sinh hoạt và làm việc,... của nước sở tại, do đó tạo ra sự trao đổi, hiểu biết
về các yếu tố đó giữa người LĐXK và người dân bản địa. Vì vậy, hoạt động XKLĐ cũng
là một nhân tố thúc đẩy giao lưu văn hóa và hợp tác hữu nghị giữa nước XKLĐ và nước
NKLĐ.
1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.2.1. Sự hình thành hoạt động XKLĐ
Hoạt động kinh tế của bất cứ một quốc gia nào cũng luôn phải tính đến nguồn
nhân lực, trong đó vấn đề chính là sự dư thừa lao động ở trong nước. Trước sức ép về việc
làm, tỷ lệ thất nghiệp và thu nhập, việc XKLĐ để giảm các sức ép này và thu ngoại tệ là
một yêu cầu khách quan. Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ không nhất thiết phải từ các nước
dư thừa lao động. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình thành hoạt động XKLĐ là:
- Sự phát triển không đều giữa các quốc gia trên thế giới. Các nước trên thế giới
ngày càng có xu hướng phát triển cao dựa trên nền tảng KHCN tiên tiến và có những cải
tiến vượt bậc trong các lĩnh vực cơ khí hóa và tự động hóa. Trong điều kiện tự do kinh tế,
các nước, nhất là các nước phát triển, đều không ngừng đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền
kinh tế để nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả của nền kinh tế, tăng cường khả năng
cạnh tranh của quốc gia. Quá trình này đã dẫn đến hiện tượng, ở nhiều ngành, lĩnh vực
trong nền kinh tế của một quốc gia nào đó, đôi khi chính lực lượng lao động của nước đó
cũng không đáp ứng được, do vậy có nhu cầu sử dụng lao động từ nước ngoài. Trong khi
đó, ở một số nước khác, thường là các nước đang và chậm phát triển, nước nghèo nhưng
đông dân, có mức tiền công lao động thấp, thường xuyên dư thừa lao động, đã nảy sinh
nhu cầu cung ứng lao động cho những nước thiếu lao động. Từ mối quan hệ cung và cầu
về lao động đó tất yếu dẫn đến hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia.
- Sự phân bổ tài nguyên không đồng đều giữa các nước trên thế giới. Những nước
có ít tài nguyên thiên nhiên bị thiếu hụt nguyên, nhiên, vật liệu trong việc đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế, nhất là các nước phát triển, phải tìm kiếm từ nước khác. Một số nước đã
trở thành khách hàng của các nước nhiều tài nguyên (dầu mỏ, than đá, khoáng sản...),
trong khi các nước nhiều tài nguyên này lại rất cần kỹ thuật, vốn đầu tư, lao động từ các
nước phát triển hơn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Chính mối quan hệ này đã
nảy sinh các nhu cầu lao động phục vụ cho các dự án khai thác tài nguyên và phát triển
kinh tế này, từ đó thúc đẩy khuyến khích một cách không tự giác việc XKLĐ trong các
nước có dư thừa lao động.
- Sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ đã đẩy nhanh quá trình chuyên môn hóa sản xuất và phân công lao động
ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế, hình thành lên các ngành nghề, lĩnh vực mới trong nền
kinh tế dựa trên các kỹ thuật, công nghệ cao ở nhiều nước. ở các nước phát triển, sự tập
trung các nguồn lực vào phát triển các ngành, lĩnh vực mới, có lợi nhuận cao một mặt dẫn
tới sự thiếu hụt lao động ở các ngành kinh tế truyền thống sử dụng nhiều lao động, thậm
chí ở cả những ngành, lĩnh vực mới do sự phát triển của các ngành này vượt quá khả năng
cung cấp nhân lực của nước đó, do đó các nước này có nhu cầu sử dụng LĐNN; mặt khác,
lại có nhu cầu đưa một số lao động trong nước theo các dự án chuyển giao các công nghệ
(cũ) sang các nước khác. ở các nước đang và chậm phát triển, việc đẩy nhanh quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), thực hiện
chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế một mặt tạo ra sự dư thừa lao động, thiếu
việc làm trong nền kinh tế, do đó có nhu cầu đưa lao động sang các nước khác làm việc.
Mặt khác, lại cần lao động chất lượng cao từ nước ngoài vào làm việc trong các lĩnh vực
sử dụng nhiều chất xám, hoặc theo các dự án tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài mà lao
động trong nước chưa đáp ứng được. Dưới tác động của các quy luật kinh tế các quá trình
trên tất yếu dẫn đến sự trao đổi lao động để đáp ứng các nhu cầu về lao động giữa các
nước, hình thành lên hoạt động XKLĐ.
- Quá trình toàn cầu hóa và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự di chuyển của các dòng đầu tư và thương
mại giữa các quốc gia, kéo theo sự di chuyển của người lao động. Tác động của quá trình
này cũng thúc đẩy người lao động có xu hướng di chuyển tới làm việc ở những nơi có thu
nhập cao hơn, sức lao động được định giá cao và xác thực hơn. Xu hướng này đã kéo theo
sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp làm trung gian để đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài, và để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia cũng như giữ được
trật tự an toàn xã hội, đến lượt nhà nước phải trực tiếp tham gia vào hoạt động này.
Việc TNCs bành trướng hoạt động ra phạm vi toàn cầu đã thúc đẩy mạnh mẽ sự
phân công lao động và quá trình tái cơ cấu kinh tế ở các quốc gia, làm nảy sinh nhu cầu
trao đổi lao động giữa các nước. Một mặt, việc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư
bản để thực hiện sự bành trướng kinh tế của TNCs đã thúc đẩy việc tìm kiếm nguồn cung
cấp các yếu tố đầu vào giá rẻ từ các nước khác, trong đó có sức lao động, do đó tạo ra sự di
chuyển lao động giữa các nước, nhất là từ các nước nghèo, đông dân sang các nước giàu
hơn. Mặt khác, quá trình tái cơ cấu TNCs ở các quốc gia cũng thúc đẩy sự di chuyển lao
động từ nước này sang nước khác. Việc hình thành các chi nhánh, công ty con của TNCs
để thực hiện chuyên môn hóa trong hệ thống sản xuất kinh doanh của TNCs đã tạo ra các
nhu cầu lao động khác nhau ở các nước khác nhau. Một sản phẩm hàng hóa của một công
ty ở một nước nào đó không nhất thiết phải được sản xuất tại chính nước đó, do vậy, tự nó
phát sinh các nhu cầu lao động kỹ thuật như nhau, tất yếu phải có trao đổi lao động kỹ thuật
và chuyên gia giữa các nước. Do đó, sự di chuyển lao động từ nơi này đến nơi khác tất yếu
xảy ra, làm xuất hiện hoạt động XKLĐ giữa các nước.
1.1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có tính đặc thù, chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động của nền kinh tế và chính sách phát triển của cả nước
XKLĐ và nước NKLĐ, đồng thời có tác động trở lại đối với nền kinh tế - xã hội của các
nước này. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động XKLĐ chịu tác động của
một số yếu tố sau:
- Quan hệ cung - cầu về lao động: Từ thực trạng hoạt động xuất và nhập khẩu lao
động của các nước trên thế giới cho thấy, một nước phải sử dụng LĐNN khi nguồn lao
động trong nước không đáp ứng được cho nhu cầu phát triển kinh tế của nước đó. Sự thiếu
hụt một hay nhiều loại lao động của một nước nào đó không chỉ do thiếu dân số mà còn do
không đủ lực lượng lao động có đủ kỹ năng cần thiết để đảm nhận công việc, hoặc đơn
giản chỉ do người lao động nước đó không sẵn sàng làm việc. Điều này thể hiện rất rõ ở
các nước phát triển, trường hợp Nhật Bản và Hàn Quốc là ví dụ điển hình ở châu á. Bên
cạnh đó, do thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời với chu kỳ kinh tế, vì
thế sự tăng trưởng hay suy thoái, khủng hoảng hay phục hồi của một nền kinh tế cũng có
những tác động tới nhu cầu lao động trong nền kinh tế, có thể tạo ra việc làm cho người
lao động hay cũng có thể làm giảm bớt số việc làm cho họ. Trong những điều kiện như
vậy, nhu cầu về lao động và khả năng cung ứng ở các nước có tác động rất lớn tới hoạt
động XKLĐ trên phạm vi quốc tế. Thực trạng quan hệ cung - cầu về lao động là cơ sở để
một quốc gia quyết định NKLĐ hay XKLĐ, xác định số lượng lao động, cơ cấu ngành
nghề, loại lao động cần nhập khẩu hay có thể xuất khẩu. Sự phù hợp giữa nhu cầu lao động
của nước NKLĐ và khả năng cung ứng của nước XKLĐ là yếu tố quyết định đảm bảo cho
sự ổn định của hoạt động XKLĐ giữa các quốc gia.
Trình độ phát triển kinh tế và KHCN là yếu tố có tác động mạnh mẽ tới quan hệ
cung - cầu về lao động giữa các nước, quyết định loại hình và số lượng lao động mà một
nước sẽ nhập khẩu hay xuất khẩu. Các nước có trình độ công nghệ tiên tiến như Mỹ, Đức,
Nhật Bản thực hiện các chính sách khuyến khích và ưu đãi để thu hút lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao từ các nước khác, hạn chế tuyển dụng lao động phổ thông, trong
khi những nước có trình độ kém hơn như Đài Loan lại nhập khẩu nhiều loại lao động đáp
ứng các nhu cầu lao động bị thiếu hụt trong nước, phần lớn là lao động có trình độ kỹ thấp,
lao động phổ thông; hoặc như Malaysia, Thái Lan lại vừa xuất khẩu và nhập khẩu lao động
phổ thông, lao động giản đơn.
- Sự cạnh tranh: Thị trường lao động quốc tế vừa là thị trường tự do cạnh tranh,
vừa là thị trường cát cứ giữa các quốc gia. Do đó, hoạt động XKLĐ vừa diễn ra sự hợp tác
giữa các nước vừa cạnh tranh nhau mạnh mẽ, sự hợp tác là yêu cầu bắt buộc, yếu tố cạnh
tranh đảm bảo cho sự sống còn của hoạt động XKLĐ. Sự cạnh tranh trong hoạt động
XKLĐ diễn ra giữa các doanh nghiệp XKLĐ của một nước XKLĐ, hay của các nước
XKLĐ, thậm chí giữa các nhà nước của các quốc gia XKLĐ. Sự cạnh tranh thể hiện qua
số lượng hợp đồng XKLĐ, cơ chế quản lý lao động ở nước ngoài, mức lương, sự đa dạng
về ngành nghề, trình độ, kỹ năng lao động, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tại nơi
làm việc, khả năng thích nghi về văn hóa, khả năng giao tiếp… của người lao động. Ngoài
ra, còn có sự cạnh tranh giữa LĐXK với lao động bản địa về việc làm ở nước NKLĐ. Do
sự cạnh tranh này, công đoàn tại các nước NKLĐ thường tạo sức ép với chính phủ để hạn
chế số lượng LĐNN được tiếp nhận vào làm việc.
- Chất lượng lao động: Chất lượng hàng hóa sức lao động được xem xét dưới góc
độ là sự tổng hòa các yếu tố tạo ra năng lực lao động của người lao động như thể lực, trí
lực, các mối quan hệ xã hội của người lao động có ảnh hưởng tới năng lực làm việc của
người lao động ở nước NKLĐ. Chất lượng lao động phải đảm bảo được việc tạo ra giá trị
tăng thêm trong thời gian sử dụng sức lao động đó, bảo đảm cho người lao động duy trì và
tái tạo sức lao động, phát huy được các khả năng sáng tạo, đảm bảo được cường độ lao
động, tạo được nhiều giá trị thặng dư cho người chủ sử dụng. Yếu tố này có tác động quan
trọng tới quyết định của chủ sử dụng về quy mô tuyển dụng LĐNN. Chính vì vậy, chất
lượng lao động là yếu tố căn bản quyết định khả năng cạnh tranh và lợi thế trong việc
chiếm lĩnh thị trường XKLĐ, đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động XKLĐ.
- Các chính sách, pháp luật: Hoạt động XKLĐ liên quan đến nhiều người, nhiều
tổ chức, liên quan đến nước XKLĐ và nước NKLĐ, liên quan đến các tổ chức quốc tế như
Tổ chức di cư quốc tế (IOM), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), do đó nó chịu tác động
mạnh mẽ của môi trường chính trị, pháp luật và chính sách của chính phủ cả nước XKLĐ
và nước NKLĐ cũng như luật pháp quốc tế.
Hoạt động XKLĐ của một quốc gia luôn có sự tham gia của chính phủ nước đó
nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, hoạt động XKLĐ chịu tác động
trực tiếp từ chủ trương và các chính sách, biện pháp quản lý, điều tiết của chính phủ nước
XKLĐ. Các văn bản, chính sách đó có thể khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động XKLĐ nhưng cũng có thể gây khó khăn, cản trở hoạt động này. Trong khi đó, bất
cứ một sự điều chỉnh trong chính sách tiếp nhận LĐNN, những quy định, điều kiện nhập
cư, thậm chí những thay đổi trong chính sách đầu tư, tái cơ cấu kinh tế, chính sách đối
ngoại... của chính phủ các nước NKLĐ đều có những tác động có thể làm thay đổi nhu
cầu LĐNN ở nước NKLĐ, thậm chí trở thành rào cản hạn chế số lượng lao động nhập
khẩu, do đó làm thay đổi mức cung ứng lao động của nước XKLĐ. Ví dụ, Hàn Quốc cho
phép Việt Nam tham gia đưa lao động vào Hàn Quốc làm việc Luật cấp phép cho LĐNN
mới đã làm cho chỉ tiêu lao động Việt Nam được tiếp nhận vào nước này trong năm 2005
tăng hơn 3.000 người so với năm 2004; Đài Loan quyết định ngừng tiếp nhận lao động
giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh từ Việt Nam đã cản trở việc tăng số lượng
LĐXK của Việt Nam vào thị trường này và làm cho hơn 30 doanh nghiệp XKLĐ của
Việt Nam bị đình chỉ hoặc tạm dừng hoạt động XKLĐ vào Đài Loan. Sự thay đổi chính
sách đầu tư của chính phủ Malaysia trong lĩnh vực xây dựng làm cho hàng trăm LĐXK
Việt Nam ở nước này bị mất việc làm phải về nước sớm hoặc phải chuyển làm các công
việc khác vào đầu năm 2003,...
- Các yếu tố truyền thống văn hóa và con người: Các chính sách tuyển dụng
LĐNN của bất kỳ quốc gia nào cũng hàm chứa sự bảo tồn và gìn giữ các giá trị truyền
thống văn hóa và phù hợp với tôn giáo của quốc gia đó. Vì vậy, một quốc gia sẽ có chủ
trương ưu đãi hơn đối với lao động đến từ các nước có nền văn hóa tương tự (về tôn
giáo, phong tục tập quán, về ngôn ngữ…). Hơn nữa, thị trường thực chất là sự kết hợp
của con người và nền văn hóa của thị trường đó. Vì thế, một số thị trường lao động có
thể tạo ra rất nhiều cơ hội đối với một loại việc làm cho LĐNN do tính chất riêng có của
thị trường ấy hoặc đơn thuần chỉ vì thị trường đó không có đủ lao động có khả năng đảm
nhận công việc đó. Ví dụ, ở châu Âu, Nhật Bản nhu cầu về y tá là rất lớn gắn liền với sự
già hóa dân số ở các nước này, nhưng các nước ở Trung Đông lại ít khi có ý định thuê nữ
y tá chăm sóc cho bệnh nhân nam; hoặc ở những nước mà phụ nữ tham gia tích cực vào
lực lượng lao động hoặc đấu tranh để khẳng định quyền bình đẳng về việc làm, thu nhập,
trình độ và địa vị trong xã hội như Đài Loan thì nhu cầu về người giúp việc gia đình,
trông trẻ và chăm sóc người già cũng cao hơn. Điều này cũng có tác động nhất định về số
lượng, ngành nghề, loại lao động trong việc cung ứng lao động của nước XKLĐ.
1.1.2.3. Các hình thức XKLĐ
Theo cách tổ chức thực hiện, XKLĐ có một số hình thức chủ yếu sau:
- XKLĐ theo các hiệp định được ký kết giữa chính phủ hai quốc gia. ở hình thức
này, người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định về hợp tác lao
động giữa chính phủ hai quốc gia. ở Việt Nam, căn cứ vào các hiệp định đã ký, Nhà nước
phân bổ chỉ tiêu cho các Bộ, ngành, địa phương tiến hành tuyển chọn và đưa người lao
động đi làm việc ở các nước, chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Lao động Việt
Nam ở nước ngoài được sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới, làm việc xen ghép với
lao động của các nước khác. Hiện nay, lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hiệp
định chủ yếu là các chuyên gia trong các chương trình hợp tác quốc tế giữa chính phủ Việt
Nam với các nước và tổ chức quốc tế về các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, giáo dục,...
- XKLĐ thông qua hợp đồng cung ứng lao động. Hợp đồng cung ứng lao động có
thể ký dưới hai loại:
+ Hợp đồng cung ứng lao động được ký kết giữa doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của
nước XKLĐ với tổ chức thuê và sử dụng lao động ở nước ngoài. Căn cứ vào nhu cầu của
tổ chức sử dụng LĐNN, các doanh nghiệp, tổ chức làm dịch vụ cung ứng lao động tiến
hành tuyển và đưa lao động từ trong nước ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng đã ký kết.
Đây là hình thức phổ biến nhất trong XKLĐ hiện nay.
+ Hợp đồng cá nhân: Do người lao động trực tiếp ký kết với người sử dụng lao
động ngoài nước được pháp luật chấp nhận.
- XKLĐ thông qua liên doanh liên kết chia sản phẩm với nước ngoài (hợp tác trực
tiếp) hoặc doanh nghiệp nhận thầu, khoán công trình hoặc đầu tư ở nước ngoài có sử
dụng lao động trong nước. Hình thức nhận thầu, khoán công trình được thực hiện chủ yếu
trong lĩnh vực xây dựng công trình cơ sở hạ tầng mà các chủ đầu tư của nước XKLĐ trúng
thầu ở nước ngoài. Hình thức này thường phải đưa đồng bộ cả máy móc, phương tiện kỹ
thuật cùng lực lượng lao động ra nước ngoài làm việc.
1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu lao động đối với các nước hữu quan
Hoạt động XKLĐ có các tác động, ảnh hưởng cả trước mắt và lâu dài đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước XKLĐ và nước NKLĐ. Luận văn chỉ nghiên
cứu vai trò của hoạt động XKLĐ đối với các nước này trong ngắn hạn, ở một số khía cạnh
sau:
1.2.1. Đối với nước xuất khẩu lao động
- Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người
lao động. XKLĐ là một biện pháp tốt để góp phần giải quyết một phần lao động dôi dư ở
nhiều nước, nhất là các nước đang và chậm phát triển, những nước đông dân, thiếu việc
làm và có mức thu nhập thấp, tỷ lệ thất nghiệp lớn, trong khi dân số lại tăng nhanh. Đây
cũng là mục tiêu quan trọng trong chính sách XKLĐ của các nước này. Đối với những
nước luôn có tỷ lệ thất nghiệp cao, XKLĐ được coi là một giải pháp lâu dài, còn đối với
những nước xảy ra khủng hoảng kinh tế thì XKLĐ sẽ là đối sách trước nạn thất nghiệp tạm
thời. Ví dụ, Anbani có tỷ lệ thất nghiệp thực tế lên đến 35 - 40% và luôn có khoảng 600
nghìn trong tổng số hơn 3 triệu dân của nước này lao động ở nước ngoài. XKLĐ của
Philippine đã giải quyết việc làm cho khoảng 500 nghìn - 900 nghìn lao động mỗi năm
[23], [48].
LĐXK khi ra nước ngoài làm việc có mức lương cao hơn nhiều lần so với mức
lương của những lao động có cùng ngành nghề và trình độ ở trong nước, vì vậy người lao
động có điều kiện tích luỹ được một số lượng vốn lớn nướcmà ở trong nước họ rất khó có
cơ hội để có được. Ví dụ, lương một y tá Philippine ở trong nước là 180 USD/tháng nhưng
ở Anh họ được trả 2.200 - 2.600 USD/tháng [11]. Theo ước tính của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội Việt Nam, nếu một LĐXK Việt Nam ở khu vực Đông Bắc á làm
việc đúng hợp đồng ký kết, sau 2 năm làm việc cũng tiết kiệm được ít nhất 100 triệu đồng
Việt Nam [3]. Nguồn thu nhập này đã góp phần cải thiện được đời sống của người lao
động trong nước, giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, giảm đói
nghèo. Ngoài ra, từ nguồn thu nhập ở XKLĐ, nhiều lao động sau khi về nước đã đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh, trở thành các nhà đầu tư và các chủ doanh nghiệp, tạo việc
làm và thu nhập cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
- Góp phần vào việc đào tạo tay nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Trong thời gian làm việc ở nước ngoài, bên cạnh việc rèn luyện và nâng
cao trình độ các thao tác, kỹ năng đã được học trước khi đi XKLĐ, người lao động có cơ
hội, điều kiện tiếp cận và học tập được các kiến thức về kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới,
kinh nghiệm quản lý kinh doanh, vận hành các dây chuyền sản xuất hiện đại,… khi hết
hợp đồng về nước, họ sẽ trở thành đội ngũ lao động có đủ khả năng đáp ứng các công việc
trong quá trình đổi mới, thực hiện CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, hoạt động XKLĐ là biện
pháp giúp nước XKLĐ đào tạo tay nghề, trình độ cho người lao động, tạo điều kiện nâng
cao trình độ, kỹ năng và kỷ luật lao động, đồng thời giảm được các chi phí đào tạo, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đội ngũ lao động đi XKLĐ sau thời gian làm việc ở nước ngoài sẽ có được những
kinh nghiệm, tác phong lao động công nghiệp, thành thạo về chuyên môn kỹ thuật. Những
người này sẽ dễ dàng thích ứng với việc tiếp thu và chuyển giao công nghệ hay đáp ứng
được các nhu cầu lao động của các công ty nước ngoài hay các xí nghiệp liên doanh, tạo
điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nguồn lao động đủ khả
năng đáp ứng cho quá trình phát triển kinh tế thời kỳ CNH, HĐH.
- Tạo nguồn thu quốc gia, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Lượng tiền do
người lao động đi làm việc ở nước ngoài tích lũy được gửi về nước là nguồn vốn quan
trọng cho nhiều quốc gia XKLĐ. Đối với nhiều nước đang phát triển, lượng tiền do người
lao động gửi về ngang với thu nhập từ xuất khẩu một số loại hàng hóa và là một trong những
nguồn thu ngoại tệ nhiều nhất, giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đối phó với tình
trạng nợ nần, nhập siêu. Ví dụ, số tiền người lao động ở nước ngoài gửi về đã giúp tổng
sản phẩm quốc dân của các nước như Enxanvado, Eritơria, Giamaica, Gioocdani,
Nicaragoa và Yêmen năm 2000 tăng hơn 10%. Năm 2002, lượng tiền này đã lớn hơn cả
giá trị xuất khẩu của Enxanvado và chiếm hơn một nửa giá trị xuất khẩu của Đôminica và
Nicaragoa [23]. Số tiền người lao động Philippine đang làm việc ở nước ngoài gửi về nước
hàng năm từ 8 - 10 tỷ USD, XKLĐ là một trong 4 ngành có mức thu nhập ngoại tệ lớn
nhất của Philippine [48].
Đặc biệt, lượng tiền gửi từ nước ngoài về thường được xem là phương thuốc để
phá vỡ chiếc vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Trong dân chúng, lượng tiền này được dành
cho tiêu dùng hàng ngày, mua sắm vật dụng trong gia đình giúp nâng cao chất lượng cuộc
sống hoặc có thể được gửi tiết kiệm hay đầu tư như mua đất đai, công cụ sản xuất, tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó lại tạo ra nguồn thu mới trong dân chúng,
tăng tích lũy vốn trong nền kinh tế. Đây cũng là nguồn vốn tiềm năng, rất cần thiết và quan
trọng có thể huy động được cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
- Góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước XKLĐ và nước
NKLĐ. Hoạt động XKLĐ có diễn ra sự giao thoa, hòa nhập của các yếu tố lịch sử và tinh
thần của người LĐXK với người bản địa. Do đó, hoạt động XKLĐ là cầu nối, hình thức để
trao đổi, giao lưu các nền văn hóa, phong tục tập quán các dân tộc, góp phần tăng cường
sự hiểu biết giữa các quốc gia, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước XKLĐ và
NKLĐ. Hơn nữa, hoạt động XKLĐ tạo ra một đội ngũ lao động có hiểu biết về phong tục
tập quán, được đào tạo tay nghề và rèn luyện tác phong lao động ở các nước NKLĐ. Đây
là một trong những điều kiện thuận lợi giúp nước XKLĐ thu hút các dự án đầu tư từ các
nước NKLĐ, tạo điều kiện duy trì và phát triển các quan hệ nhiều mặt giữa nước XKLĐ
và nước NKLĐ.
Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hoạt động XKLĐ có khả năng làm giảm bớt
một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa, chuyên môn tương đối cao, do đó có
thể làm giảm sức sản xuất của nước XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể gây biến động
về sức mua trong nước (giảm khi người lao động đi xuất khẩu, tăng đột ngột khi lao động
trở về); ảnh hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia, trật tự an toàn xã hội, như: xảy ra tình
trạng chảy máu chất xám, mất bí mật quốc gia (do người lao động mang đi bán) nhất là đối
với các nước phát triển, người lao động có thể làm gián điệp cho nước ngoài, cung cấp
thông tin gây thiệt hại cho đất nước, người lao động cũng có thể mang theo nếp sống
không phù hợp, các bệnh xã hội từ nước ngoài về nước sau thời gian đi XKLĐ. Hoạt động
XKLĐ cũng có thể tác động xấu tới quan hệ quốc tế của nước XKLĐ khi LĐXK có các
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở nước NKLĐ làm phương hại đến quan hệ hợp
tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ.
1.2.2. Đối với nước nhập khẩu lao động
Giữa hai quốc gia, hoạt động XKLĐ của một nước này sẽ là hoạt động NKLĐ của
nước kia. Do đó, nghiên cứu vai trò của hoạt động XKLĐ đối với nước NKLĐ là nghiên
cứu vai trò của hoạt động NKLĐ đối với nước này.
- Bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động trong nước. Hoạt động NKLĐ cung cấp
nguồn nhân lực từ nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt lao động ở các ngành, lĩnh vực mà
lực lượng lao động trong nước không đáp ứng được. Vai trò này được thể hiện rất rõ ở
nhiều nước phát triển ở châu Âu, Nhật Bản, những nước đang phải đối mặt với với xu
hướng già hóa dân số ngày càng tăng, lực lượng lao động đang già đi, tỷ lệ sinh đẻ thấp
không bổ sung kịp lực lượng lao động kế cận và một bộ phận trong lực lượng lao động
không muốn làm việc. Thông qua việc sử dụng LĐNN, các nước NKLĐ có điều kiện giải
quyết các áp lực về kinh tế - xã hội do tình trạng thiếu lao động ở nhiều ngành, lĩnh vực
kinh tế gây ra, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh tiếp tục vận hành
bình thường, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh theo phân công lao động quốc tế.
- Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Người LĐXK đã được đào tạo cơ bản về kỹ năng lao động, trình độ tay
nghề, do đó họ có thể tham gia làm việc luôn mà không cần hoặc chỉ mất ít thời gian và
vốn đầu tư để đào tạo lại. Hơn nữa, sử dụng LĐNN sẽ giúp nước NKLĐ tiết kiệm được
một khoản tài chính lớn do người LĐNN thường chấp nhận lương thấp hơn rất nhiều so với
người lao động bản xứ ở cùng một công việc. Tại Thái Lan, nguồn LĐNN đã giúp tiết kiệm
được khoảng 35 triệu bath/ngày công hay gần 13 tỷ bath/năm. Trong số đó, thậm chí người
lao động Myanma sẵn sàng nhận mức lương 800 bath/tháng cho những công việc mà
người Thái Lan đòi 3.000 bath [23].
Ngoài ra, người LĐNN hầu hết làm việc trong thời hạn ngắn, do đó nước NKLĐ
thường không phải chi trả nhiều cho các khoản chi phí về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
đặc biệt là tiền lương hưu. Những khoản tiết kiệm từ chi phí thấp trong việc tuyển dụng
LĐNN làm giảm được chi phí đầu vào, tăng được lợi nhuận, tạo sức mạnh và lợi thế cạnh
tranh quốc tế.
- Tận dụng được nguồn LĐNN trẻ có hiệu suất lao động cao, tạo điều kiện thực
hiện phân công lao động và tái cơ cấu nền kinh tế. Lao động đi XKLĐ hầu hết là lao động
trẻ, đang ở độ tuổi sung mãn về thể lực và trí lực, được đảm bảo về sức khỏe. Đây là giai
đoạn người lao động có khả năng làm việc với hiệu suất cao nhất, tạo ra được nhiều giá trị
thặng dư nhất cho chủ sử dụng, nhất là trong việc sử dụng, khai thác chất xám từ LĐXK
chất lượng cao như các chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên ngành,... Đây là yếu tố thuận lợi
để nước NKLĐ tăng năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư và tăng lợi nhuận.
Không những thế, NKLĐ sẽ làm tăng sự cạnh tranh về việc làm trong nước, kích thích
tăng năng suất lao động. Số lượng công việc giảm đã tạo sức ép làm cho người lao động,
kể cả LĐNN và lao động bản địa ở các ngành nghề phải tập trung làm việc để cạnh tranh
nhau về chỗ làm, do đó tạo ra năng suất cao hơn và hiệu quả làm việc tốt hơn cho người
chủ sử dụng lao động và nền kinh tế.
Hơn nữa, việc sử dụng LĐNN tạo điều kiện cho các nước NKLĐ phân bổ lại các
nguồn lực sản xuất và cơ cấu lại các lĩnh vực, ngành nghề. Đối với các nước phát triển, các
lĩnh vực ngành nghề có mức lương thấp, nặng nhọc... sẽ dần tập trung nhiều cho LĐNN,
người lao động bản địa sẽ tập trung nhiều vào các ngành, lĩnh vực mới, những ngành có
mức lương cao hơn. Do đó, hình thành lên một cơ cấu sử dụng lao động mới tương ứng
với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế ở các nước này. Đối với các nước đang và chậm phát
triển, việc sử dụng LĐNN có chất lượng cao còn giúp các nước này bù đắp được sự thiếu
hụt các kỹ thuật viên, chuyên gia làm việc trong các ngành công nghiệp mới, giúp họ thực
hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH nhanh hơn. Ngoài ra, nước NKLĐ
cũng có thể đánh cắp được bí quyết công nghệ cần thiết từ các nước khác thông qua
LĐNN.
Tuy nhiên, NKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định, làm giảm bớt số
lượng việc làm ở nước NKLĐ, người lao động bản địa sẽ phải chia sẻ việc làm với LĐNN
và ít có cơ hội lựa chọn việc làm hơn, phải cạnh tranh mạnh hơn, làm việc tích cực hơn để
giữ chỗ làm, chấp nhận một mức tiền lương thấp hơn, nhất là đối với các lĩnh vực sử dụng
nhiều lao động phổ thông. ở khía cạnh này, NKLĐ tác động tới sự phân phối lại thu nhập
và phúc lợi đối với người lao động của nước NKLĐ, trong đó bộ phận lao động chất lượng
thấp bị tác động mạnh nhất. Hơn nữa, việc NKLĐ nước ngoài cũng có thể gia tăng những
vấn đề xã hội, đặc biệt vấn đề lao động bỏ trốn đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Người
lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, không được bảo vệ, không có sự quản lý
của các cơ quan chức năng, do đó dễ gây nên các vấn đề xã hội như bị bóc lột sức lao
động, cưỡng bức lao động, tệ nạn xã hội… Đây là những vấn đề cản trở hoạt động NKLĐ
và quản lý LĐNN cũng như bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở các nước NKLĐ, gây căng
thẳng trong quan hệ hợp tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về xuất khẩu lao động
Nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Philippine, Indonesia, Trung Quốc đều
là những nước đã tiến hành chương trình XKLĐ từ lâu và đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Để đạt được kết quả đó, các nước này có các chủ trương, kế hoạch cũng như các
chính sách quản lý khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội ở mỗi
nước.
- Philippine
Philippine thực hiện XKLĐ từ giữa những năm 1970, coi XKLĐ như một quốc
sách, là một trong những chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có sự phối
hợp tham gia đồng bộ của tất cả các ngành, các cấp có liên quan.
Hiện nay, Philippine là một trong những nước XKLĐ lớn nhất trên thế giới, có
khoảng hơn 7,5 triệu lao động đang làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm Philippine
xuất khẩu trên 500.000 lao động ra nước ngoài, nếu tính từ giữa những năm 1970 đến nay
đã có hơn 15 triệu lượt người lao động ra nước ngoài làm việc. Trong số lao động
Philippine ở nước ngoài có 75% làm việc trên đất liền và 25% làm việc trên các tàu biển,
70% làm công nhân, giúp việc gia đình, làm tại nhà hàng, khách sạn, giải trí, 30% làm
quản lý, điều hành các công ty. Mỗi năm, lao động ở nước ngoài gửi về nước từ 8-10 tỷ USD,
XKLĐ trở thành một trong 4 lĩnh vực có thu nhập ngoại tệ lớn nhất ở Philippine.
Phương châm phát triển XKLĐ của Philippine là phải kết hợp giữa việc phát triển
thị trường XKLĐ với việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, coi giảm chi phí XKLĐ là
một trong các biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường. Philippine xây dựng một cơ chế
quản lý, điều hành hoạt động XKLĐ hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, ở trong và
ngoài nước, ban hành nhiều luật lệ, chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy XKLĐ và tránh
những vụ việc tiêu cực trong XKLĐ. Hoạt động XKLĐ của Philippine do một cơ quan nhà
nước chịu trách nhiệm quản lý và điều hành là Bộ Lao động và Việc làm. Cục quản lý lao
động Philippine ở nước ngoài (POEA) và Cục đảm bảo phúc lợi cho người lao động
Philippine ở nước ngoài (OWWA) trực thuộc Bộ này chịu trách nhiệm giải quyết các vấn
đề liên quan đến hoạt động XKLĐ. POEA có nhiệm vụ quản lý việc tuyển dụng, đưa ra các
chính sách để thúc đẩy hoạt động XKLĐ, cử cán bộ phụ trách lao động với tư cách là Tham
tán hay Tùy viên lao động tại các cơ quan đại diện ngoại giao của Philippine ở những nước
có đông người lao động đến làm việc; thẩm định các hợp đồng cung ứng lao động của các
công ty XKLĐ, cấp giấy phép cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài...
Chính phủ Philippine thực hiện chủ trương vừa quản lý chặt chẽ, vừa tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho hoạt động XKLĐ. Việc cấp giấy phép hoạt động XKLĐ cho các doanh
nghiệp tư nhân có hạn chế và được thẩm định nghiêm ngặt về khả năng tài chính, tư cách
và khả năng điều hành của người đứng đầu doanh nghiệp và tính khả thi của hợp đồng ký
kết. Các doanh nghiệp XKLĐ vi phạm các quy định sẽ bị thu hồi giấy phép, hoặc phải
chấm dứt hoạt động XKLĐ, không được cấp lại giấy phép hoạt động XKLĐ; đồng thời, có
thể bị phạt không dưới 6 năm tù và 20.000USD đối với hoạt động tuyển dụng LĐXK bất
hợp pháp.
Chính phủ khuyến khích mọi thành phần kinh tế và người lao động tham gia hoạt
động XKLĐ. Người lao động Philippine được tự do tìm việc ở nước ngoài không cần qua
các công ty XKLĐ nhưng phải ký hợp đồng lao động với phía tiếp nhận và làm thủ tục
XKLĐ thông qua POEA. POEA quy định mức lương tối thiểu cho người lao động
Philippine ở nước ngoài là 135 USD/tháng và không cấp giấy phép cho người lao động đi
làm các công việc ở nước ngoài có mức lương thấp dưới mức lương này; đồng thời yêu
cầu phía tiếp nhận có những điều kiện tối thiểu đảm bảo cuộc sống, sinh hoạt cho lao động
Philippine.
Để tăng cường sức cạnh tranh của LĐXK, chính phủ Philippine có các kế hoạch
nâng cao tay nghề cho LĐXK cũng như hợp tác chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ và
ILO trong việc giáo dục, giúp đỡ pháp lý, đào tạo nghề cho lao động. POEA tổ chức các
lớp học giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi XKLĐ. Việc tuyển chọn
người đi XKLĐ làm giúp việc gia đình ở nước ngoài dựa trên tiêu chuẩn sức khỏe tốt và
trình độ ngoại ngữ khá, người lao động phải trải qua một khóa học về các công việc giúp
việc gia đình, học cách sử dụng các đồ dân dụng hiện đại, cách giao tiếp, ứng xử, sau đó
được cấp giấy chứng nhận đào tạo để tham gia vào hoạt động XKLĐ.
Philippine thực hiện chính sách hỗ trợ cho lao động trở về tái hòa nhập cộng đồng
như tuyển dụng lại với mức lương cao hơn, khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao
động dùng vốn của mình để kinh doanh, sản xuất. Nhà nước không đánh thuế thu nhập và
thuế chuyển tiền về nước đối với người lao động ở nước ngoài, khuyến khích người thân
nhận tiền do lao động Philippine ở nước ngoài gửi về sử dụng vào những mục đích thiết
thực, có lợi cho bản thân và xã hội, đặc biệt là đầu tư cho sản xuất kinh doanh [25], [48],
[50].
- Thái Lan
Chính phủ Thái Lan có chính sách lâu dài và rõ ràng về XKLĐ từ những năm
1970. Với sự hỗ trợ của chính phủ, hoạt động XKLĐ của Thái Lan được thực hiện khá
thuận lợi thông qua các công ty môi giới. Tính trung bình từ 1973 - 2002, Thái Lan xuất
khẩu khoảng 117.360 lao động và thu về hơn
3 tỷ USD mỗi năm. LĐXK của Thái Lan hầu hết có nguồn gốc từ vùng nông thôn, nơi có
cuộc sống còn nhiều khó khăn về phát triển kinh tế như miền Bắc và Đông Bắc, có trình
độ văn hóa thấp và không có nghề chuyên môn. Năm 2003, 67% LĐXK của Thái Lan từ
khu vực Đông Bắc và 19% từ miền Bắc, trình độ học vấn là 77,70% ở cấp phổ thông cơ
sở.
Thái Lan XKLĐ chủ yếu vào thị trường khu vực Đông á, chiếm
80-88% tổng số LĐXK của Thái Lan, trong đó Đài Loan là thị trường chính, tiếp nhận
khoảng 60% tổng số LĐXK vào khu vực này.
Thái Lan xuất khẩu lao động phổ thông sang các nước làm việc trong các lĩnh vực
nông nghiệp, xây dựng, phục vụ và nấu bếp, lao động lành nghề làm việc trong các ngành
điện tử, cơ khí, chế biến nông sản thực phẩm và chủ yếu xuất khẩu lao động có tay nghề
cao sang các nước khu vực châu Âu và Bắc Mỹ. Khoảng 70% lao động Thái Lan tại Đài
Loan làm việc trong các công ty xây dựng, xí nghiệp may, lắp ráp điện tử và giúp việc gia
đình.
Cũng như Philippine, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hóa XKLĐ, cho phép
và khuyến khích các công ty tư nhân tham gia hoạt động XKLĐ, người dân Thái Lan được
tự do đi lao động ở nước ngoài theo năm kênh khác nhau: tự đi; đi cùng người chủ tuyển
dụng nước ngoài; đi với tư cách là thực tập sinh đến các nước có chế độ tiếp nhận thực tập
sinh làm việc tạm thời như người học việc; thông qua các công ty XKLĐ tư nhân và thông
qua Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội. Có 52% lao động Thái Lan đi XKLĐ thông qua các
công ty XKLĐ tư nhân, 41% đi theo cách riêng của cá nhân và chỉ gần 1% thông qua Bộ
Lao động và Phúc lợi xã hội.
Nhằm tăng cường khả năng XKLĐ, Thái Lan thành lập trung tâm tìm kiếm việc
làm để phục vụ những người muốn tìm việc làm ngoài nước, trang bị cho họ những kiến
thức và quy trình tuyển dụng như kiểm tra sức khỏe, nâng cao tay nghề để đáp ứng yêu cầu
của chủ sử dụng. Trung tâm này là đầu mối để các công ty XKLĐ và các chủ sử dụng
tuyển dụng lao động Thái Lan ra nước ngoài làm việc; Thành lập các trung tâm đặc biệt
nhằm đối phó với các hành vi lừa đảo và trái phép trong XKLĐ ở 36 tỉnh trên cả nước,
nhất là các khu vực có nhiều LĐXK và tỷ lệ khiếu kiện cao trong các vấn đề tìm việc làm
ở nước ngoài như miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan.
Để bảo vệ người lao động ở nước ngoài, Chính phủ Thái Lan quy định chỉ XKLĐ
tới các thị trường có quy định mức lương tối thiểu đối với lao động Thái Lan. LĐXK Thái
Lan khi đến nước tiếp nhận phải đến khai báo tên và địa chỉ tại Đại sứ quán Thái Lan ở
nước sở tại để được giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp; tích cực đàm phán với chính
phủ các nước tiếp nhận nhằm hạn chế những rủi ro, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi của
người lao động, đền bù cho người lao động bị chấm dứt hợp đồng trước thời hạn,...
Để hỗ trợ cho người LĐXK, Thái Lan thành lập Quỹ hỗ trợ cho lao động ngoài
nước nhằm giúp đỡ những lao động gặp rủi ro và không có tiền trở về cũng như hỗ trợ
những lao động gặp khó khăn trước khi đi. Thái Lan cũng chỉ định ba ngân hàng chuyên
cho những người muốn đi XKLĐ vay tiền với lãi suất thấp để giúp họ tránh được những rủi
ro trong tìm kiếm nguồn tài chính đi XKLĐ. Tuy nhiên, chỉ có 12% số lao động đi XKLĐ
vay tiền từ Nhà nước, khoảng 22,7% vay tiền từ những cơ sở tư nhân và 15% vay tiền từ
người thân.
Công tác thông tin tuyên truyền về XKLĐ được các cơ quan chức năng của nhà
nước (Cục Việc làm - Bộ Lao động Thái Lan) và các công ty XKLĐ tư nhân thực hiện, các
cơ hội, thông tin về việc làm ở nước ngoài được phổ biến rộng rãi, công khai, đẩy đủ cho
tất cả mọi người lao động.
Thái Lan chú trọng đến việc tăng chất lượng nguồn XKLĐ, chính phủ quy định tất
cả lao động đi làm việc ở nước ngoài trước khi xuất cảnh phải tham gia khóa học định
hướng miễn phí của Cục Việc làm - Bộ Lao động Thái Lan về các kiến thức cơ bản như
văn hóa, điều kiện sống, hợp đồng lao động, lương và các quy định liên quan đến người
lao động cũng như quyền được hưởng các phúc lợi xã hội của họ. Hàng năm chính phủ và
các công ty XKLĐ mở các khóa đào tạo cho lao động nông thôn để chuẩn bị đi XKLĐ,
khoảng 80.000 - 120.000 lao động, tập trung vào các ngành nghề cơ khí, điện tử, thợ hàn,
xây dựng, lái xe, mỹ thuật công nghiệp và dịch vụ [25], [35], [44].
- Trung Quốc
Trung Quốc hiện là một trong những nước XKLĐ đứng đầu trong khu vực và trên
thế giới. XKLĐ của Trung Quốc bắt đầu từ cuối những năm 1970 và đã tăng lên một cách
đáng kể cùng với tốc độ gia tăng cải cách kinh tế và chính sách mở cửa ra thế giới bên
ngoài trong những năm gần đây.
Trung Quốc chủ yếu XKLĐ thông qua dự án xây dựng ở nước ngoài, XKLĐ qua
các đại lý dịch vụ việc làm có hợp đồng cung ứng lao động và xuất khẩu thuyền viên.
Trung Quốc XKLĐ sang các thị trường chính là Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước Trung
Đông và đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc XKLĐ sang các nước làm việc chủ yếu trong các
lĩnh vực nông nghiệp, may mặc, dịch vụ gia đình và giải trí, xuất khẩu thuyền viên, trong
đó, xuất khẩu thuyền viên tàu đánh cá là một phần quan trọng trong XKLĐ của Trung
Quốc.
Việc quản lý hoạt động XKLĐ của Trung Quốc cũng được tập trung vào một cơ
quan nhà nước là Bộ Lao động và Bảo hiểm xã hội Trung Quốc, Bộ này chịu trách nhiệm
ban hành các chính sách và các văn bản liên quan đến hoạt động XKLĐ. Chính phủ Trung
Quốc quy định các đại lý dịch vụ việc làm phải thực hiện được đầy đủ các dịch vụ liên
quan đến hoạt động XKLĐ như thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm và tuyển
lao động, ký kết hợp đồng lao động, đào tạo ngoại ngữ và tay nghề, trợ giúp xã hội, bảo vệ
quyền lợi của người lao động. Thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động của các đại lý này
thông qua các điều kiện thành lập, tiêu chuẩn hoạt động của các đại lý, thực hiện kiểm tra
giấy phép hoạt động và đình chỉ những đại lý không đạt yêu cầu. Đồng thời, tăng cường
thông tin cho nhân dân các chính sách về XKLĐ, các điều kiện của các đại lý dịch vụ việc
làm hợp pháp và các tiêu chuẩn dịch vụ của các đại lý này thông qua hệ thống thông tin đại
chúng nhằm nâng cao nhận thức của người lao động đối với hoạt động XKLĐ, nhất là
cảnh giác với hoạt động bất hợp pháp.
Trung Quốc cũng rất quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của người lao động ở
nước ngoài, chính phủ Trung Quốc đã xây dựng quy chế bảo vệ quyền và quyền lợi của
người lao động Trung Quốc ở nước ngoài để có các cơ sở hợp pháp về quản lý và thanh tra
việc làm nước ngoài. Đặc biệt, chú trọng tăng cường hợp tác với các nước khác trong việc
đấu tranh ngăn chặn, các hoạt động XKLĐ bất hợp pháp và di cư bất hợp pháp để bảo vệ
người lao động Trung Quốc ở nước ngoài [25], [30].
Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động XKLĐ của một số nước trong khu vực
- Chính phủ các nước đều coi XKLĐ là chiến lược, là quốc sách lâu dài nên đều có
chương trình quốc gia về XKLĐ. Vấn đề hợp tác lao động thường xuyên được đề cập đến
trong các cuộc trao đổi cấp cao và được thể hiện trong các thỏa thuận song phương với
nước ngoài; đồng thời, thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình của các nước tiếp nhận
lao động để chiếm lĩnh thị trường XKLĐ.
- Vấn đề quản lý nhà nước về XKLĐ đều tập trung vào một cơ quan của chính
phủ, đó là Bộ Lao động. Vai trò của Đại sứ quán tại nước ngoài được đặc biệt quan tâm,
thông qua phát huy vai trò của Tùy viên lao động tại các nước đó để thẩm định các hợp
đồng và quản lý lao động.
- Công tác bảo vệ quyền lợi của LĐXK ở nước ngoài được chú trọng; đồng thời,
thành lập các quỹ hỗ trợ cho người lao động khi đi XKLĐ hay gặp khó khăn khi đang làm
việc ở nước ngoài.
- Chính phủ khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia tìm việc làm ở ngoài nước. Các ngành chức năng có trách nhiệm
tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm ở
ngoài nước.
- Công tác đào tạo nghề cho người lao động trước khi đi được đặc biệt chú ý với
việc hình thành trung tâm đào tạo quốc gia và quản lý nhà nước về đào tạo LĐXK.
- Công tác thông tin tuyên truyền về XKLĐ được chú trọng, có sự tham gia của cả cơ
quan chức năng và các công ty hoạt động XKLĐ, các thông tin về cơ hội về việc làm ở
nước ngoài được phổ biến công khai, minh bạch.
Chương 2
Thực Trạng Hoạt Động Xuất Khẩu LAO Động
Của Việt NAM SANG Thị Trường KHU Vực ĐÔNG Bắc á
Việt Nam thực hiện XKLĐ vào khu vực Đông Bắc á từ đầu những năm 1990 và
chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Các nước này đã trở thành
những thị trường XKLĐ chính, quan trọng của Việt Nam từ đó đến nay. Nghiên cứu thực
trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á thông qua phân
tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan.
2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu lao động sang Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và nguyên nhân
- Số lượng LĐXK tăng, ngành nghề lao động có xu hướng mở rộng
Từ năm 1992 đến năm 2004, số lượng LĐXK của Việt Nam vào Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan có xu hướng tăng lên, mặc dù mức tăng không đều qua các năm, thậm
chí có năm giảm mạnh. Trong đó đáng kể là số lượng LĐXK vào Đài Loan đã tăng mạnh
từ năm 2000, sau khi Việt Nam ký được thỏa thuận chính thức đưa lao động Việt Nam
sang làm việc tại nước này năm 1999, làm cho số lượng LĐXK của Việt Nam vào khu vực
Đông Bắc á cũng có sự gia tăng đáng kể. Năm 1992, số lượng LĐXK của Việt Nam sang
khu vực Đông Bắc á là 210 người, năm 2000 là 16.912 người và năm 2004 đã tăng lên
44.675 người. Số lượng LĐXK vào khu vực Đông Bắc á luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số
LĐXK của Việt Nam, năm năm 1993 là 87,93%, năm 1995 là 77,31% năm 2000 là
53,69% và năm 2004 là 66,24%, khu vực Đông Bắc á trở thành thị trường XKLĐ chủ yếu
của Việt Nam (xem bảng 2.1). Riêng 6 tháng đầu năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu
20.803 lao động sang thị trường khu vực Đông Bắc á, bằng 2/3 tổng số LĐXK của cả
nước, trong đó số lượng LĐXK sang Đài Loan là 15.759 người, Hàn Quốc là 3.275 người
và Nhật Bản là 1.769 người.
Lao động nữ chiếm hơn 1/4 tổng số LĐXK vào khu vực Đông Bắc á, đáng kể là số
lượng lao động nữ xuất khẩu sang Đài Loan chiếm 66% tổng số LĐXK Việt Nam sang
nước này. Lao động nữ xuất khẩu sang khu vực Đông Bắc á chủ yếu làm việc trong các
lĩnh vực dệt, may, điện tử và làm giúp việc.
Đài Loan đã trở thành thị trường XKLĐ chủ lực của Việt Nam từ sau năm 1999,
số lượng LĐXK của Việt Nam vào thị trường này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
LĐXK của cả nước và trong tổng số LĐXK sang khu vực Đông Bắc á. Năm 2000, tổng số
LĐXK vào Đài Loan chiếm 47,89% tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu vào khu vực
Đông Bắc á và chiếm 25,71% tổng số LĐXK của cả nước, các con số tương ứng năm 2002
là 79,55% và 28,60%, năm 2004 là 83,14% và 55,07% (xem bảng 2.1).
Các lĩnh vực, ngành nghề XKLĐ có xu hướng mở rộng. Từ chỗ chỉ XKLĐ theo
hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp và thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản và Hàn Quốc, tập
trung chủ yếu trong các lĩnh vực sản xuất chế tạo, xây dựng, điện tử, dệt may, đến nay
LĐXK của Việt Nam đã tham gia vào một số lĩnh vực khác như vận tải biển, đánh bắt cá,
chăm sóc người bệnh, giúp việc gia đình, nông nghiệp,... Sự thay đổi về cơ cấu ngành nghề
trong XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á từ khi Đài Loan tiếp nhận lao động
giản đơn, phổ thông của Việt Nam vào nước này làm việc. Đặc biệt, việc đạt được thỏa
thuận đưa lao động Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc theo các chương trình tu nghiệp
sinh công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, làm việc trong các ngành công nghệ cao và theo
Luật cấp phép cho LĐNN mới của nước này đã tạo cơ hội và là điều kiện để Việt Nam
tăng số lượng LĐXK, thực hiện đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề trong XKLĐ cả ở Hàn
Quốc nói riêng và khu vực Đông Bắc á nói chung.
40
- Giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động, tăng thu nhập cho người
lao động, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước đầu tư tạo việc làm.
Với số lượng LĐXK sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong thời gian
qua như đã nêu, hoạt động XKLĐ sang thị trường khu vực Đông Bắc á đã và đang
góp phần quan trọng vào việc giải quyết tình trạng lao động dư thừa trong nền kinh
tế, giảm tình trạng thất nghiệp và số người thiếu việc làm trong lực lượng lao động
ở nước ta. Số LĐXK sang khu vực Đông Bắc á so với số lao động được giải quyết
việc làm của cả nước những năm gần đây có xu hướng tăng lên, năm 2001 là
1,07%, các năm 2002, 2003 là 1,17% và 2,38% (xem bảng 2.2). Ngoài ra, số người
đi XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á còn tạo cho nhiều người có thêm việc làm từ
các khâu dịch vụ y tế, chuyên chở hàng không, dịch vụ giao nhận hàng hóa, làm thủ
tục xuất nhập cảnh...
Bảng 2.2: Tỷ lệ lao động xuất khẩu sang khu vực Đông Bắc á
so với lao động được giải quyết việc làm trong nước
Số LĐ được giải quyết Số LĐXK sang khu Tỷ lệ LĐXK/LĐ
Năm việc làm trong nước vực Đông Bắc á được giải quyết việc
(người) làm trong nước (người)
1,40 triệu 2001 14.941 1,07%
1,42 triệu 2002 16.583 1,17%
1,50 triệu 2003 35.661 2,38%
1,58 triệu 2004 44.675 2,83%
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Mức lương bình quân một tháng của lao động Việt Nam tại Đài Loan
khoảng 300 USD/tháng. Mức lương tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc từ 500 -
700USD/tháng, tại Nhật Bản là 300 - 500USD/tháng (năm đầu) và từ 600 -
800USD/tháng (từ năm thứ 2), sau khi trừ đi các khoản chi phí, mỗi người lao động
41
XKLĐ cũng có thể có được ít nhất 100 triệu đồng sau 2 năm làm việc. So với thu
nhập trong nước, một lao động có việc làm nói chung có mức thu nhập là 617.340
đồng/người/tháng và một lao động làm công ăn lương là 844.860 đồng/người/tháng
[2], [3], đó là khoản thu nhập khá lớn, rất có ý nghĩa đối với người LĐXK Việt
Nam. Số tiền này sẽ là nguồn tài chính tương đối lớn để cải thiện đời sống của
người lao động ở những khu vực có thu nhập thấp, góp phần vào việc phát triển
kinh tế - xã hội ở những khu vực này. Đặc biệt, khi được sử dụng hợp lý cho đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân người LĐXK trở về và
những người khác, hiệu quả của nguồn tài chính này đối với nền kinh tế quốc dân
còn cao hơn nữa. Xét trên khía cạnh này, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc
á còn góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở nước ta.
Với kết quả như trên, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á cũng đã
góp phần giảm chi ngân sách đầu tư tạo việc làm, tăng tích lũy cho nền kinh tế.
Theo tính toán của Vụ Lao động, Văn hóa xã hội - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bình
quân để tạo một làm việc với trang thiết bị kỹ thuật như hiện nay là 39,3 triệu đồng
[25], thì với 171.378 lao động được đi làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
trong thời gian qua đã tiết kiệm được một khoản vốn đầu tư không nhỏ cho toàn xã
hội, giảm bớt được gánh nặng chi phí tạo việc làm cho ngân sách nhà nước. Ngoài
ra, ngân sách nhà nước còn thu được hàng trăm triệu USD từ phí bảo hiểm xã hội,
thuế thu nhập cao, thuế doanh thu và thuế lợi tức của doanh nghiệp XKLĐ tính trên
số tiền phí dịch vụ thu từ người lao động, lệ phí cấp giấy phép hoạt động XKLĐ (10
triệu đồng/giấy phép), lệ phí cấp giấy phép thực hiện hợp đồng (5USD/người) [8].
Các khoản thu này cùng với khoản tiền tiết kiệm từ chi phí đầu tư tạo việc làm cho
người lao động nêu trên sẽ là nguồn vốn tích lũy lớn cho nhà nước để đầu tư vào
các hạng mục phát triển kinh tế xã hội khác ở trong nước.
- Thị phần xuất khẩu lao động từng bước được mở rộng, số lượng các
doanh nghiệp tham gia XKLĐ được củng cố.
42
Mặc dù không phải là nước XKLĐ truyền thống vào khu vực Đông Bắc á
nhưng số lượng LĐXK của Việt Nam sang khu vực này ngày càng tăng, thị phần
XKLĐ từng bước được mở rộng. Từ chỗ chỉ là nước mới tiếp cận thị trường vào
đầu những năm 1990 nhưng hiện Việt Nam đang có vị trí cao trong số những nước
xuất khẩu nhiều lao động vào khu vực Đông Bắc á.
Năm 1992, Việt Nam XKLĐ sang Hàn Quốc theo chương trình tu nghiệp
sinh công nghiệp, làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, sau đó mở rộng sang
lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, điện lực vào các năm 2003, 2004. Năm 2004, Việt
Nam đạt được thỏa thuận XKLĐ chất lượng cao sang Hàn Quốc làm việc trong các
ngành kinh tế mũi nhọn, XKLĐ phổ thông vào Hàn Quốc theo Luật cấp phép lao
động mới, tạo điều kiện cho Việt Nam gia tăng số lượng XKLĐ vào thị trường này.
Việt Nam hiện đứng thứ ba sau Trung Quốc và Indonesia là những nước XKLĐ có
nhiều lao động ở Hàn Quốc. Tại Nhật Bản, một thị trường khó tính, có các điều kiện
tiếp nhận lao động cao và chặt chẽ, nhưng số lượng lao động Việt Nam xuất khẩu
sang Nhật Bản cũng ở mức trên 2.000 lao động/năm từ năm 2001 trở lại đây và hiện
đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Philippine và Indonesia về số lượng LĐXK. Tại Đài
Loan, thị phần XKLĐ của Việt Nam được mở rộng nhanh chóng nhờ chính sách
tiếp nhận lao động không hạn chế về số lượng của Đài Loan dành cho Việt Nam. Số
lượng LĐXK của Việt Nam tại Đài Loan không ngừng tăng mạnh kể từ khi thị
trường này được khai thông, từ 558 người năm 1999 lên 37.144 người năm 2004.
Năm 2003, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3 trong số các nước có số lượng LĐXK lớn
tại Đài Loan, sau Thái Lan, Indonesia và Philippine [12].
Các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam vào khu vực đã được chấn chỉnh và
củng cố về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong XKLĐ, nhất
là sau khi có sự cố tại thị trường Đài Loan. Các cơ quan chức năng thực hiện tạm
ngừng và rút giấy phép các doanh nghiệp vi phạm quy định về XKLĐ, doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả… Hiện có trên 120 doanh nghiệp Việt Nam
thực hiện XKLĐ vào Đài Loan, 35 doanh nghiệp đưa lao động sang Nhật Bản và 12
doanh nghiệp XKLĐ vào Hàn Quốc, trong đó 08 doanh nghiệp XKLĐ đưa tu
43
nghiệp sinh công nghiệp, 03 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng, 01 doanh
nghiệp đưa tu nghiệp sinh nông nghiệp sang nước này [12].
- Chất lượng lao động sau khi kết thúc hợp đồng XKLĐ về nước được nâng
lên, góp phần hình thành đội ngũ lao động có chất lượng phục vụ cho quá trình
CNH, HĐH đất nước.
Hiện nay vẫn chưa có các số liệu thống kê chính thức về hiệu quả của
XKLĐ trên khía cạnh nâng cao chất lượng lao động trong nước, nhưng về mặt định
tính, vai trò của hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á đối với việc nâng cao
chất lượng đội ngũ lao động của Việt Nam là có thể khẳng định được. Một mặt,
LĐXK đều được đạo tạo những kỹ năng lao động cơ bản cho các công việc ở nước
ngoài trước khi đi, kể cả lao động làm các công việc giản đơn như giúp việc gia
đình. Tỷ lệ LĐXK được đào tạo nghề cho LĐXK năm 2001 là 22,5%, năm 2002 là
30% và năm 2003 là 35,5%, năm 2004 là 40%, tuy còn ở mức thấp để tăng cường
khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế nhưng vẫn cao hơn so với tỷ lệ
lao động được đào tạo nghề chung (22,5%) của nước ta hiện nay. Mặt khác, người
lao động khi làm việc ở các nước tiếp nhận lao động có điều kiện tiếp cận với các
kiến thức mới, hình thành được ý thức kỷ luật lao động, tác phong lao động công
nghiệp. Đặc biệt, độ ngũ lao động làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp có điều kiện
tiếp cận và học tập các kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, phương pháp
quản lý lao động sản xuất tiến tiến, có điều kiện nâng cao tay nghề, trình độ lao
động... Vì vậy, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á rõ ràng có tác dụng
nâng cao kỹ năng lao động cho người lao động do được đào tạo nghề, tăng khả năng
nhận thức của họ về quan hệ lao động và tác phong lao động trong nền kinh tế thị
trường so với những lao động không tham gia XKLĐ. Đội ngũ lao động này nếu
được khai thác, sử dụng hợp lý sau khi về nước sẽ góp phần nâng cao năng lực sản
xuất của nền kinh tế, đáp ứng được các nhu cầu lao động đa dạng trong quá trình
đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện CNH, HĐH ở nước ta.
44
Những kết quả, thành tựu trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trong thời gian qua như nêu trên, theo chúng tôi xuất phát
từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á được thực hiện dựa
trên một chủ trương đúng đắn về XKLĐ của Đảng, một hệ thống pháp luật về
XKLĐ ngày càng được hoàn thiện và đồng bộ.
Chủ trương đúng đắn và linh hoạt của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động
XKLĐ đã bắt kịp sự vận động của nền kinh tế thế giới, khu vực cũng như quá trình
đổi mới kinh tế của nước ta. Đây là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của
hoạt động XKLĐ của Việt Nam nói chung và hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang
khu vực Đông Bắc á nói riêng.
Thực tế hoạt động XKLĐ của Việt Nam được bắt đầu từ những năm 1980,
Đại hội Đảng lần thứ V xác định: "Mở rộng đưa lao động ra nước ngoài bằng nhiều
hình thức kết hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động nói
chung". Nhưng trong suốt thời kỳ từ 1980 đến năm 1992, các quan điểm, chủ
trương của Đảng về XKLĐ đều mang đậm dấu ấn của cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, phục vụ các mục đích chính trị trong quan hệ hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa cũ. Trong giai đoạn này, hoạt động XKLĐ của Việt Nam
theo cơ chế tập trung: Nhà nước ký kết các hiệp định Chính phủ cung cấp lao động
và chuyên gia cho một số nước xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước ở châu Phi và
Trung Đông, đồng thời trực tiếp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mục
tiêu của hoạt động này chỉ nhằm đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân, nhất là
nắm bắt các quy trình sản xuất, kỹ thuật tiên tiến của các nước xã hội chủ nghĩa để
phục vụ cho sự phát triển đất nước, trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ và quan hệ hợp tác
hữu nghị với các nước tiếp nhận lao động nước ta.
Trong giai đoạn này các quan hệ kinh tế thị trường chưa được đề cập, do đó
các khái niệm về hàng hóa sức lao động, thị trường lao động và vấn đề trao đổi
ngang giá theo cơ chế thị trường không xuất hiện, kể cả trong các văn bản chính
45
thức của nhà nước. Hoạt động XKLĐ lúc đó không dựa trên các quan hệ thị trường,
không tính tới mục đích kinh tế cũng như vấn đề đảm bảo trao đổi ngang giá trị.
Quan điểm, chủ trương về XKLĐ sau đó đã có những thay đổi vào cuối những năm
1980, nhà nước cho phép thành lập các tổ chức kinh tế xuất khẩu lao động và
chuyên gia, mục đích kinh tế đã được chú trọng.
Quan điểm, chủ trương về hoạt động XKLĐ đã thay đổi căn bản kể từ Đại
hội Đảng lần thứ VIII. Tại Đại hội này, Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh chủ
trương "đẩy mạnh xuất khẩu lao động", tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII
đã chỉ rõ: "Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới.
Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và làm dịch vụ xuất
khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước,
kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động trái với quy
định của Nhà nước". Chỉ thị 41-CT/TƯ ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về XKLĐ
và chuyên gia khẳng định: "Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động
kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước". Sự thay đổi
quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về XKLĐ này đã tạo ra một bước
ngoặt cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Từ sự thay đổi đó, XKLĐ được thực
hiện theo cơ chế mới, nhiều thị trường XKLĐ của Việt Nam đã được mở ra, trong
đó có thị trường XKLĐ khu vực Đông Bắc á.
Trên tinh thần của chủ trương, quan điểm đó, một hệ thống văn bản pháp
luật liên quan đến XKLĐ được ban hành, ngày càng hoàn thiện và đồng bộ. Quốc
hội đã thông qua Bộ Luật lao động sửa đổi trong đó có 6 điều quy định một số vấn
đề liên quan đến XKLĐ. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 152/NĐ-CP ngày
20/91/1999, sau đó thay thế bằng Nghị định số 81/NĐ-CP ngày 17/7/2003 để cụ thể
hóa thành các văn bản pháp lý về đổi mới chính sách và cơ chế xuất khẩu lao động
và chuyên gia. Theo các nghị định này, hoạt động XKLĐ và chuyên gia đã được
46
thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, ngày càng phù hợp
với cơ chế tiếp nhận lao động của thị trường lao động quốc tế.
Theo chủ trương, quan điểm của Đảng và các văn bản của Chính phủ, các Bộ
ngành hữu quan cũng ban hành các văn bản quy định, thông tư về tuyển chọn lao động,
đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động, tổ chức quản lý LĐXK, hỗ trợ trong
XKLĐ,... của Việt Nam nói chung và XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á nói riêng.
Ngoài ra, quỹ hỗ trợ XKLĐ, Hiệp hội các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam cũng được
thành lập để hỗ trợ cho hoạt động XKLĐ cũng như đảm bảo sự thống nhất và ổn định
của hoạt động này. Đối với hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á còn có các quy
định riêng về xử phạt đối với những lao động, tu nghiệp sinh bỏ trốn và cư trú bất hợp
pháp để quản lý, điều tiết theo những diễn biến của tình hình thực tế. Những chính
sách, văn bản này bước đầu đã tạo ra được một hành lang pháp lý và là cơ sở đảm bảo
cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á ổn định và phát
triển.
- Thứ hai, nhu cầu NKLĐ ngày càng tăng và chính sách mở cửa thị trường
lao động của các nước trong khu vực Đông Bắc á cho Việt Nam.
Sự thiếu hụt lao động ngày càng tăng cao cùng với sự phát triển kinh tế ở
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhất là đối với các lĩnh vực kinh tế truyền thống
sử dụng nhiều lao động đã buộc các nước này phải xem xét tới việc tuyển dụng ngày
càng nhiều LĐNN. Thực tế nhu cầu tuyển dụng LĐNN ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan, về khách quan là do thiếu hụt lao động trong nước, nhưng về chủ quan là do các
tính toán lợi ích của chủ sử dụng lao động cũng như chính phủ các nước này, kể cả việc
tuyển dụng bất hợp pháp. Việc sử dụng LĐNN giúp cho các nước tiếp nhận tiết kiệm
được một khoản tài chính tương đối lớn do chi phí lương thấp, thường ở mức lương tối
thiểu cho LĐNN (thậm chí các tu nghiệp sinh ở Nhật Bản và Hàn Quốc còn chỉ nhận
được tiền trợ cấp trong năm đầu tiên tu nghiệp) và không phải chi trả lương hưu hay
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội khi người lao động hết hợp đồng. Ngay cả khi cân đối
với những tác động của việc tuyển dụng LĐNN đối với nền kinh tế - xã hội như tăng tỷ
47
lệ thất nghiệp, phân bổ lại thu nhập và phúc lợi đối với lao động giản đơn, các vấn đề
xã hội khác thì lợi ích thu được vẫn lớn hơn, kích thích sử dụng LĐNN nhiều hơn ở các
nước này. Điều này đã tạo cơ hội cho các nước XKLĐ, trong đó có Việt Nam, đẩy
mạnh hoạt động XKLĐ vào khu vực Đông Bắc á.
Bên cạnh đó, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan trong thời gian qua được hỗ trợ bởi các quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội khác. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đang muốn lợi dụng Việt Nam như
là một cầu nối, mắt xích quan trong để tiếp cận, thâm nhập, gây ảnh hưởng cả về
chính trị và kinh tế ở khu vực ASEAN. Chính vì vậy, các nước này đều đã và đang
giữ những mối quan hệ kinh tế, chính trị quan trọng với Việt Nam. Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan đều là những nhà đầu tư lớn ở Việt Nam, là đối tác thương mại
lớn trong khu vực của Việt Nam, Nhật Bản còn là nước viện trợ ODA hàng đầu cho
Việt Nam,… Các quan hệ này, một mặt tạo ra sự ràng buộc chặt chẽ trong quan hệ
đối ngoại giữa Việt Nam và các nước khu vực Đông Bắc á, nhưng mặt khác cũng có
tác động tích cực tới hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước này. Điều này
được thể hiện rõ ở chỗ, mặc dù mới chỉ tiếp cận thị trường XKLĐ nhưng Việt Nam
đã được Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan tạo thuận lợi tăng cường XKLĐ vào các
nước này. Việt Nam được chọn là một trong 6 nước được tham gia XKLĐ vào Hàn
Quốc theo Luật cấp phép cho LĐNN mới của Hàn Quốc, là một trong số các nước ở
châu á được tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh của Nhật Bản. Đặc biệt, Việt
Nam vẫn đang được nương nhẹ trong việc xử lý các tiêu cực liên quan đến hoạt
động XKLĐ sang các nước này như lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp, lao động
vi phạm pháp luật nước sở tại,... Do đó, những thay đổi về chính sách tiếp nhận
LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã mở ra cơ hội và khả năng để Việt
Nam tăng cường XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á khi được khai thác và thực hiện
một cách nghiêm túc.
2.2. Những hạn chế, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu lao động của
Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và nguyên nhân
48
Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường các nước Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan là một hoạt động nhạy cảm, liên quan đến nhiều vấn đề như
chính trị, xã hội, văn hóa, quan hệ đối ngoại, do đó, không thể tránh khỏi những khó
khăn, khiếm khuyết khi thực hiện, cần tiếp tục nghiên cứu để đưa ra các giải pháp
phù hợp và hiệu quả. Thực tế hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang các nước này
trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn trong toàn bộ quy trình
XKLĐ từ tạo nguồn LĐXK, đến quản lý lao động ở nước ngoài, giải quyết các vấn
đề sau khi LĐXK về nước. Những hạn chế, khó khăn đó có thể khái quát thành
những vấn đề sau đây:
- Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp tại Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan ở mức cao.
Việt Nam là nước có số lượng LĐXK vào Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan
tương đối lớn so với nhiều nước XKLĐ khác ở khu vực, nhưng lại là một trong
những quốc gia có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao nhất. Số lượng tu nghiệp sinh tự ý phá
hợp đồng bỏ trốn tại Nhật Bản tăng qua các năm cùng với sự gia tăng số lượng lao
động Việt Nam sang Nhật Bản làm việc. Năm 2000, số tu nghiệp sinh sang Nhật
Bản và 1.497 người, nhưng tỷ lệ bỏ trốn là 18,51%, các con số tương ứng trong năm
2001 là 3.249 và 28,53%, năm 2002 là 2.202 và 27,09%. Nếu so sánh với tỷ lệ bỏ
trốn năm 1996 là 3,6%, số liệu trên cho thấy tỷ lệ LĐXK Việt Nam bỏ trốn tăng rất
mạnh tại thị trường này. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam
bỏ trốn hình thành các nhóm người chuyên lôi kéo tu nghiệp sinh khác bỏ hợp đồng,
ăn cắp và tiêu thụ hàng hóa ở các siêu thị Nhật Bản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
uy tín của lao động Việt Nam tại Nhật Bản [5], [33].
Tại Hàn Quốc, Việt Nam cũng có tỷ lệ bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp khá
cao, tính đến hết năm 2003, tỷ lệ LĐXK theo Chương trình tu nghiệp sinh bỏ trốn ở
mức 59,8%. Theo Viện Lao động Hàn Quốc, số lượng lao động bất hợp pháp Việt
Nam đến cuối năm 2003 tại Hàn Quốc là 10.175 người trong tổng số 138.056 lao
49
động bất hợp pháp ở nước này, chiếm tỷ lệ 7,4%, chỉ đứng sau Trung Quốc là 62.058
người với tỷ lệ 45% [56] (xem Phụ lục 4, 6).
Tại Đài Loan, Việt Nam đứng thứ 3 trong số những nước có lao động làm
việc ở Đài Loan nhưng đứng đầu về số người bỏ trốn. Tính đến cuối tháng 9/2004
có 7.935 người bỏ trốn trong tổng số 80.890 lao động Việt Nam đang làm việc tại
Đài Loan (không tính số đã đưa về nước). Mặc dù tham gia thị trường sau nhưng tỷ
lệ bỏ trốn của lao động Việt Nam cao hơn so với các nước XKLĐ truyền thống ở thị
trường này (xem bảng 2.3).
Bảng 2.3: Tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Đài Loan
so với một số nước XKLĐ khác
Đơn vị: %
Tháng/năm Thái Lan Indonesia Philippine Việt Nam
3/2002 1,05 2,93 2,91 2,39
12/2002 1,23 3,65 2,56 4,5
12/2003 1,39 6,16 2,35 6,46
3/2004 1,39 6,75 2,42 7,32
Nguồn: Một số nội dung thảo luận tại Hội nghị về lao động Việt Nam tại
Đài Loan tháng 6/2004 - Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội.
Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp đã và đang
gây ra những thiệt hại về kinh tế cho cả Việt Nam và các nước NKLĐ. Trước hết là
thiệt hại về kinh tế đối với chủ sử dụng do bị bị thiếu hụt nhân công, làm gián đoạn
các hoạt động sản xuất kinh doanh hay các công việc khác, chưa kể đến khoản chi phí
cho việc tuyển dụng và đào tạo lao động (theo một nhà tuyển dụng lao động ở Nhật Bản,
chi phí này khoảng từ 15-20.000 USD/người). Bên cạnh đó, người lao động trốn ra
ngoài làm việc, cư trú bất hợp pháp còn gây lên các vấn đề xã hội, nhất là vi phạm
50
pháp luật ở nước NKLĐ. Về phía Việt Nam, các doanh nghiệp XKLĐ sẽ phải bồi
thường hợp đồng cho người sử dụng, bị mất uy tín, mất đối tác, thậm chí bị buộc
tạm dừng hoặc bị rút giấy phép hoạt động XKLĐ.
Những vấn đề này đã tác động rất tiêu cực tới hoạt động XKLĐ của Việt
Nam sang khu vực Đông Bắc á, làm hạn chế khả năng tìm kiếm đối tác, tăng số
lượng LĐXK vào các nước trong khu vực. Đây cũng là một trong những nguy cơ
làm mất thị trường XKLĐ của Việt Nam ở khu vực này. Cả Nhật Bản (năm 2001),
Hàn Quốc (năm 2002) và Đài Loan (năm 2004) đã từng tuyên bố sẽ đóng cửa thị
trường đối với Việt Nam nếu vấn đề lao động bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp không
được giải quyết dứt điểm. Về lâu dài, LĐXK Việt Nam bỏ trốn sẽ làm mất uy tín
của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, cản trở việc mở rộng và
phát triển thị trường XKLĐ, ảnh hưởng đến chủ trương tăng cường XKLĐ của
Đảng và Nhà nước.
- Chất lượng LĐXK của Việt Nam còn thấp, tạo sự bất lợi trong cạnh tranh,
chưa đáp ứng được nhu cầu của chủ sử dụng lao động ở các nước.
Chất lượng lao động thấp là một điểm bất lợi trong cạnh tranh XKLĐ của
Việt Nam, nhất là ở khu vực Đông Bắc á, nơi tập trung nhiều quốc gia XKLĐ
truyền thống trong khu vực. Mặc dù có lợi thế về tính cần cù, chịu khó siêng năng,
nắm bắt kỹ thuật nhanh, nhưng lao động Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu, nhất là
trình độ ngoại ngữ kém và chưa có tác phong lao động công nghiệp. Trình độ ngoại
ngữ kém và thiếu tác phong lao động công nghiệp là nguyên nhân gây lên bất đồng
trong quan hệ chủ thợ, thiếu hiểu biết lẫn nhau, đồng thời làm giảm khả năng tự tin,
tham gia vào các hoạt động của cộng đồng của người lao động, từ đó làm giảm hiệu
quả lao động, tạo tâm lý e ngại đối với chủ sử dụng trong việc tuyển dụng lao động
Việt Nam.
Hiện nay, nhu cầu lao động kỹ thuật chất lượng cao, đặc biệt là kỹ sư ngành
công nghệ thông tin ở Nhật Bản và Hàn Quốc rất lớn, nhưng nguồn lao động Việt
Nam lại chưa đáp ứng được, không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về trình độ
51
chuyên môn. Tỷ lệ LĐXK được đào tạo nghề ở mức thấp cũng là yếu tố làm giảm
chất lượng LĐXK của Việt Nam ở các thị trường này. Theo thống kê của Cục Quản
lý lao động ngoài nước - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2004 có 90%
LĐXK đã qua đào tạo nhưng tỷ lệ LĐXK đã qua đào tạo nghề hiện mới chỉ ở mức
35 - 40%, phấn đấu đến năm 2005, tỷ lệ này là 45%. Đây là tỷ lệ rất hạn chế, phản
ánh sự thấp kém về chất lượng của lực lượng lao động trong cạnh tranh XKLĐ của
Việt Nam cũng như cơ cấu ngành nghề mà Việt Nam tham gia lao động. Trình độ
tay nghề thấp, khả năng ngoại ngữ kém làm cho XKLĐ của Việt Nam chỉ hướng
phần lớn vào xuất khẩu lao động phổ thông, làm công việc đơn giản, tại Đài Loan
có tới 72,81% lao động Việt Nam làm công việc giúp việc gia đình và khán hộ
công. Ngoài ra, các vấn đề như sức khỏe yếu, tính vô kỷ luật… của người lao động
cũng là nguyên nhân hạ thấp giá trị, giảm tính cạnh tranh của lao động Việt Nam
trên thị trường lao động khu vực Đông Bắc á.
- Cơ cấu ngành nghề XKLĐ chưa đa dạng, lao động phổ thông vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số LĐXK.
Việc thiếu chiến lược XKLĐ và nguồn lao động có chất lượng là một trong
những nguyên nhân tạo ra sự đơn điệu về cơ cấu ngành nghề trong XKLĐ của Việt
Nam sang khu vực Đông Bắc á, số lượng lao động giản đơn còn chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng số LĐXK của Việt Nam sang khu vực này. LĐXK Việt Nam mới chỉ
chủ yếu tham gia vào một số lĩnh vực như cơ khí, điện tử, may mặc, xây dựng, chế
biến hải sản, thuyền viên, dịch vụ giúp việc gia đình (xem bảng 2.4). Đặc biệt, số
lượng lao động trong lĩnh vực dịch vụ giúp việc gia đình và chăm sóc bệnh nhân
luôn chiếm tỷ lệ lớn sau khi Đài Loan mở cửa thị trường tiếp nhận LĐXK Việt
Nam. Tính đến cuối tháng 4 năm 2004, đã có 65.896 lao động Việt Nam sang Đài
Loan làm việc, trong đó công nhân nhà máy, công xưởng: 15.316 người (23,24%),
công nhân xây dựng: 249 người (0,38%), chăm sóc người bệnh và giúp việc gia
đình: 47.978 người (72,81%). Trong khi đó, số lượng LĐXK Việt Nam làm việc
trong các ngành kỹ thuật cao như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, sinh học,
vật liệu mới,... ở các nước này còn hạn chế.
52
Bảng 2.4: LĐXK của Việt Nam trong một số lĩnh vực
ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
Đơn vị: người
Ngành nghề Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Số số lao động nữ
Sản xuất chế tạo 14.674 38.283 21.758 28.573
2.015 Xây dựng 1.108 - -
3.542 Vận tải 5.113 - -
9.626 Đánh bắt cá - - -
- Dịch vụ(*) - 75.648 72.315
- Chế biến thủy sản 532 - 132
Ghi chú: (*) bao gồm giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh.
Nguồn: Tập hợp từ số liệu thống kê đến hết năm 2004 của Cục Quản lý lao
động ngoài nước - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Chất lượng thấp đã làm cho khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị
trường lao động giảm đi, nhiều lao động phổ thông phải làm các công việc thuộc lĩnh
vực nặng nhọc, độc hại. Với cơ cấu LĐXK như vậy chưa đảm bảo được mục tiêu tăng
giá trị XKLĐ, cũng như đảm bảo được mục tiêu chiến lược lâu dài là tiếp thu kiến thức
KHCN và nâng cao chất lượng lao động, hình thành đội ngũ lao động có chất lượng
phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước trong quá trình CNH, HĐH như Đảng và
Nhà nước đã đề ra đối với công tác XKLĐ của nước ta.
- Có nhiều vấn đề rủi ro, tiêu cực phát sinh.
Ngoài vấn đề lao động bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp tại các nước tiếp nhận
lao động, hoạt động XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trong thời gian qua
vẫn có những rủi ro, phát sinh các tiêu cực như hoạt động lừa đảo người lao động đi
XKLĐ, lao động phải về nước sớm, lao động bị lạm dụng, bị phân biệt đối xử,... Tình
53
trạng này không chỉ gây tổn thất về kinh tế cho người lao động và các doanh nghiệp
tham gia mà còn làm mất niềm tin, gây tâm lý e ngại đối với người lao động về XKLĐ.
Trong mối quan hệ hợp tác lao động quốc tế, các tiêu cực, rủi ro này còn làm mất uy tín
của Việt Nam trong hoạt động XKLĐ.
Hoạt động lừa đảo người lao động đi XKLĐ vẫn xảy ra, với nhiều thủ đoạn
khác nhau và tập trung chủ yếu trong những thời điểm Việt Nam khai thác được thị
trường mới, hay ký được thỏa thuận hợp tác lao động mới, hoặc khi có sự thay đổi
về chính sách tiếp nhận LĐNN ở các nước NKLĐ. Tính từ năm 2001 đến giữa năm
2004, chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội, các lực lượng chức năng đã phá 67 vụ án
lừa đảo trong XKLĐ và dịch vụ việc làm, chiếm đoạt tài sản của 1.500 người có
nhu cầu tìm việc làm, dạy nghề và XKLĐ với số tiền là 5 triệu USD và 10 tỷ đồng
Việt Nam, trong đó có 40 vụ lừa đảo XKLĐ và 18 vụ lừa đảo dịch vụ việc làm.
Bên cạnh những tiêu cực phát sinh trong nước, người LĐXK còn gặp phải
các rủi ro tiêu cực ở nước ngoài. Người lao động gặp phải rủi ro khi không đáp ứng
được yêu cầu của người sử dụng, hoặc do công việc phù hợp với sức khỏe của bản
thân họ, nơi tiếp nhận lao động bị phá sản, đóng cửa, người lao động bị mất việc
buộc phải về nước sớm, hoặc do sự thay đổi các chính sách vĩ mô của chính phủ
nước sở tại. Theo thống kê của Văn phòng quản lý lao động Việt Nam ở Đài Bắc,
có khoảng 10% lao động Việt Nam phải về nước trước thời hạn do không đạt yêu
cầu sức khỏe để đảm nhận công việc, trình độ ngoại ngữ kém, tay nghề yếu, nhà
máy bị phá sản... [24]
Tình trạng nêu trên là do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan,
theo chúng tôi có một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Sự gắn kết giữa kế hoạch XKLĐ sang thị trường khu vực Đông Bắc á với
các kế hoạch, chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội còn chưa chặt chẽ,
thiếu tính tổng thể.
Đẩy mạnh hoạt động XKLĐ đã được coi là một chủ trương của Đảng
nhưng công tác nghiên cứu, xây dựng một kế hoạch tổng thể về XKLĐ, từ tạo
54
nguồn, quản lý lao động và giải quyết các vấn đề sau khi lao động về nước còn hạn
chế và gặp nhiều khó khăn. Công tác nghiên cứu xây dựng kế hoạch tổng thể về phát
triển thị trường XKLĐ do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì thực hiện và
cũng mới bắt đầu được triển khai và còn hạn chế ở số khu vực, thị trường được nghiên
cứu, nhưng còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ từ các cơ quan hữu quan như đầu
tư, tài chính, ngân hàng, công an, tư pháp. Các chính sách điều tiết hoạt động XKLĐ
ban hành chậm hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế, còn thiếu và chưa kịp
đổi mới một số chính sách, cơ chế cụ thể để quản lý và điều tiết hoạt động XKLĐ như
đầu tư đào tạo nguồn lao động phục vụ xuất khẩu, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ tín
dụng cho doanh nghiệp và người LĐXK, hỗ trợ và bảo vệ người lao động đang làm
việc ở nước ngoài,... Vì vậy đã không tạo ra được một sự đồng bộ, thống nhất về cơ chế
chính sách để hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động XKLĐ cũng như giải quyết kịp
thời và hiệu quả các vấn đề phát sinh. Các kế hoạch XKLĐ ít có tầm chiến lược để tạo
ra sự chủ động đón đầu và đối phó với tác động, ảnh hưởng của những thay đổi từ bên
ngoài đến hoạt động XKLĐ như cơ chế, chính sách tiếp nhận lao động của nước
NKLĐ thay đổi, xảy ra dịch bệnh ở các thị trường XKLĐ, v.v... Các vấn đề liên quan
sau một chu kỳ XKLĐ khi người lao động về nước chưa được đánh giá, nghiên cứu
một cách nghiêm túc, đầy đủ để có các giải pháp phù hợp, hiệu quả.
Cho đến nay chưa có chính sách rõ ràng đối với người lao động sau khi hết
hợp đồng XKLĐ về nước, nhất là việc thu hút và phát huy khả năng lao động và tài
chính của họ có được từ nước ngoài. Người LĐXK sau khi về nước hầu hết sử dụng
thu nhập có được vào tiêu dùng sinh hoạt mà không đầu tư vào sản xuất kinh doanh
để tạo việc làm, tăng thu nhập, có rất ít người trở về nước được thu nhận vào làm
việc trong các doanh nghiệp, công ty. Theo thống kế của cơ quan quản lý lao động
Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có 20% lao động sau khi XKLĐ về nước có việc làm,
kể cả những người tự tổ chức việc làm cho bản thân. Điều này dễ dẫn đến người lao
động lại rơi vào tình trạng thất nghiệp, không có việc làm và thu nhập, tái nghèo,...
Vì sự không đồng bộ giữa các chính sách trong hoạt động XKLĐ nên đã tạo
ra sự thiếu hụt nguồn LĐXK, nhất là lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ
55
thuật cao, chất lượng LĐXK thấp, tỷ lệ lao động giản đơn còn ở mức cao, tạo sự bất
lợi đối với Việt Nam trong cạnh tranh trên thị trường XKLĐ khu vực Đông Bắc á;
phát sinh nhiều tiêu cực, xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động XKLĐ như giảm giá nhân công, tăng chi phí môi giới để tranh đối tác, giành
hợp đồng XKLĐ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người LĐXK. Không những
thế, sự thiếu hụt đó đã làm cho hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông
Bắc á còn manh mún, rời rạc, nhỏ lẻ, các chủ thể tham gia khó phản ứng kịp trước
những thay đổi từ các nước NKLĐ. Hoạt động XKLĐ thiếu sự ổn định, số lượng
LĐXK sang các nước khu vực Đông Bắc á tăng giảm thất thường (xem bảng 2.5).
Bảng 2.5: Tăng trưởng XKLĐ của Việt Nam
sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
Đơn vị: người, %
Đài Loan Nhật Bản Hàn Quốc Tổng 3 nước
Năm Số Tăng Số Tăng Số Tăng Số Tăng
lượng trưởng lượng trưởng lượng trưởng lượng trưởng
1992 0 - 0 - 210 - 210 -
1993 0 - 164 - 3.318 1480,00 3.482 1558,10
1994 0 - 382 132,93 4.781 44,09 5.163 48,28
1995 0 - 286 -25,13 5.270 10,23 5.556 7,61
1996 0 - 1.046 265,73 7.826 48,50 8.872 59,68
- 1997 191 2.227 112,91 4.880 -37,64 7.298 -17,74
1998 1.697 788,48 1.896 -14,86 1.500 -69,26 5.093 -30,21
1999 558 -67,12 1.856 -2,11 4.518 201,20 6.932 36,11
2000 8.099 1351,43 1.497 -19,34 7.316 61,93 16.912 143,97
2001 7.782 -3,91 3.249 117,03 3.910 -46,56 14.941 -11,65
2002 13.191 69,51 2.202 -32,23 1.190 -69,57 16.583 10,99
56
2003 29.069 120,37 2.256 2,45 4.336 264,37 35.661 115,05
2004 37.144 27,78 2.752 21,99 4.779 10,22 44.675 25,28
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước - Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội.
- Nhận thức của người LĐXK còn hạn chế
LĐXK của Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông thôn còn nhiều hạn chế
trong việc nhận thức về hoạt động XKLĐ. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra hiện tượng lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp, phải về nước sớm...
Người lao động tham gia XKLĐ chưa nhận thức rõ về bản chất của hoạt động
XKLĐ, về quan hệ giữa người tiếp nhận lao động và người LĐXK, quan hệ giữa
người chủ sử dụng lao động và người lao động làm thuê trong cơ chế thị trường,
nhất là ở các nước tư bản phát triển,... do đó chưa định hướng được rõ ràng khi
tham gia XKLĐ, tìm cách đi XKLĐ nhằm mục đích kiếm được nhiều tiền, chỉ chú ý
đến các lợi ích cá nhân, các khoản tiền mà người chủ sử dụng lao động trả, bất kể
đó là lao động bất hợp pháp, không cân nhắc tới các lợi ích của cộng đồng, đất
nước. Sự nhận thức hạn chế này cùng với tác động của tâm lý sợ về nước không có
việc làm, thu nhập và do ảnh hưởng của tác phong lao động tự do của nền sản xuất
nông nghiệp, không nắm vững pháp luật của nước sở tại là nguyên nhân sâu xa của
hiện tượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc, cư trú
bất hợp pháp, ý thức kém trong việc chấp hành kỷ luật lao động, thiếu ý thức tôn
trọng những cam kết với doanh nghiệp, đình công, đấu tranh đòi tăng lương, vi
phạm pháp luật ở nước NKLĐ, v.v... Những vấn đề này đã tác động rất tiêu cực tới
hoạt động XKLĐ của Việt Nam, thậm chí ảnh hưởng ngay cả tới bản thân người lao
động. Hình ảnh người lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp bị bắt giam trong các
trại tập trung, sau song sắt ở các đồn cảnh sát ở Đài Loan không chỉ gây tổn thương
đối với bản thân người lao động mà còn làm mất uy tín của lao động Việt Nam trên
thị trường lao động quốc tế, ảnh hưởng tới danh dự của quốc gia, dân tộc Việt Nam.
57
- Công tác giáo dục hướng nghiệp và đào tạo tay nghề cho lao động đi
XKLĐ còn nhiều bất cập
Nhìn tổng thể, hoạt động đào tạo nghề ở Việt Nam còn nhỏ yếu, lạc hậu, có
rất ít cơ sở đào tạo đáp ứng được yêu cầu về trang thiết bị giảng dạy và cơ sở thực
hành để nâng cao chất lượng LĐXK, đặc biệt là lao động kỹ thuật chuyên ngành,
lao động làm việc trong các ngành công nghệ mũi nhọn ở các nước NKLĐ. Trong
khi đó Việt Nam cũng còn thiếu một hệ thống chuẩn về trường đào tạo chuyên
nghiệp LĐXK để tạo nguồn cho hoạt động XKLĐ của cả nước, trong đó có XKLĐ
sang các nước khu vực Đông Bắc á. Các giáo trình giảng dạy cho lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài chưa được chuẩn hóa, thống nhất. Nhiều trung tâm
đào tạo đã mượn giáo trình của nước ngoài về dịch và giảng lại, dẫn tới không
thống nhất về nội dung, bài giảng không phù hợp với đặc thù, trình độ của lao động
Việt Nam. Chương trình đào tạo nặng về lý thuyết, thiếu thực hành vì không có nhà
xưởng và máy móc thiết bị mới, thiết bị phù hợp với điều kiện làm việc ở các nước
NKLĐ [7]. Một thực tế trong thời gian qua là LĐXK có nghề đã qua đào tạo phần
lớn được cung ứng từ các xí nghiệp, nhà máy. Sự gia tăng quy mô XKLĐ đang làm
cạn kiệt dần nguồn lao động kỹ thuật. Việc tuyển chọn lao động kỹ thuật không có
sẵn như trước, đang đứng trước nguy cơ mất cân đối nguồn lao động có kỹ thuật, nếu
xuất khẩu thì các nhà máy trong nước sẽ gặp khó khăn, nếu không tuyển trong các
nhà máy lại không có nguồn cung cấp cho nước ngoài.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XKLĐ phải chịu trách nhiệm hầu hết các
khâu trong quy trình XKLĐ, từ tuyển chọn, đào tạo lao động đến khai thác thị
trường, quản lý lao động ở nước ngoài, đưa người lao động về nước. Điều này gây
ra hai hạn chế:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải tăng kinh phí hoạt động, tăng phí dịch vụ đi
XKLĐ tạo gánh nặng tài chính cho người lao động khi tham gia XKLĐ, là một
trong những nguyên nhân của tình trạng lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp ở
nước NKLĐ.
58
Nghiên cứu thực trạng vấn đề lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ
trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
trong thời gian vừa qua cho thấy một phần nguyên nhân bắt đầu từ chi phí đi XKLĐ
cao, trong khi cách giải quyết vấn đề này hiện nay lại không triệt để, ở tình trạng
luẩn quẩn. Người lao động vì phải chi phí một khoản tiền khá lớn để đi XKLĐ,
nhưng thời gian làm việc ở nước ngoài ngắn nên hình thành tư tưởng phải kiếm thật
nhiều tiền để bù đắp cho chi phí bỏ ra và giành một khoản vốn khi về nước, do đó
đã tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp để kiếm tiến.
Phản ứng đầu tiên của phía nước ngoài là chủ sử dụng LĐXK Việt Nam phạt tiền
các doanh nghiệp XKLĐ để bồi thường hợp đồng, bù đắp các thiệt hại do lao động
bỏ trốn gây ra. Để đảm bảo có được khoản tiền nộp phạt, các doanh nghiệp XKLĐ
Việt Nam buộc phải tăng mức tiền đặt cọc, yêu cầu người lao động phải nộp thêm
một khoản tiền thế chấp cao, có khi lên tới 50 triệu đồng/người (mặc dù khoản này
được thu thông qua ngân hàng, người lao động được tính lãi và nhận lại khi kết thúc
hợp đồng). Hơn nữa, trong trường hợp lao động bỏ trốn có các ảnh hưởng nghiêm
trọng về mặt kinh tế - xã hội, nước NKLĐ sẽ tạm dừng hoặc không tiếp nhận
LĐXK Việt Nam, tạo ra áp lực đối với cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ Việt Nam,
buộc phải xem xét việc tạm ngừng hay thu hồi giấy phép hoạt động XKLĐ đối với
các doanh nghiệp XKLĐ. Điều này cũng buộc doanh nghiệp phải gia tăng mức tiền
đặt cọc để đảm bảo người lao động không bỏ trốn, do đó lại làm tăng chi phí đi
XKLĐ. Có thể mô tả như sau:
Chi phí Lao động bỏ trốn
đi XKLĐ cao ra ngoài kiếm tiền
Doanh nghiệp XKLĐ Đối tác phạt các DN
thu tiền đặt cọc cao XKLĐ Việt Nam
59
Cơ quan quản lý tạm Nước ngoài đóng cửa dừng, hoặc rút giấy thị trường XKLĐ đối phép hoạt động với Việt Nam XKLĐ
Thứ hai, doanh nghiệp sẽ không tập trung vào đào tạo LĐXK, việc đào tạo,
giáo dục hướng nghiệp bị phiến diện, không chuyên sâu đào tạo lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao, không đảm bảo về thời gian và nội dung giảng dạy,
nhất là về đào tạo ngoại ngữ và pháp luật ở nước NKLĐ; đồng thời cũng sẽ không
tập trung được vào việc khai thác thị trường. Do đó, các khâu trong quy trình
XKLĐ đều không được quan tâm đúng mức và hiệu quả thực hiện không cao, làm
giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp XKLĐ.
- Công tác quản lý, hỗ trợ và bảo vệ người lao động ở nước ngoài còn yếu
và chưa được quan tâm đúng mức.
Hạn chế này xuất phát từ cả chủ quan và khách quan. Về khách quan là do
sự phân bố không tập trung, bị phân tán nhỏ lẻ của lao động Việt Nam ở nước ngoài
do phải tham gia vào các công việc khác nhau ở những địa điểm khác nhau; mặt
khác, là do hạn chế từ các quy định pháp luật của nước sở tại như quy định về nhập
cư, thời gian lưu trú (như thời hạn visa tại Đài Loan chỉ có 14 ngày)… đã gây khó
khăn cho công tác hỗ trợ người lao động giải quyết các vấn đề phát sinh cũng như
bảo vệ họ. Về chủ quan là do công tác này chưa được các cơ quan chức năng và
doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam đầu tư, quan tâm đúng mức. Số cán bộ quản lý lao
động đại diện của Việt Nam ở nước ngoài còn thiếu, không thể đảm nhiệm hết được
các công việc như vừa phải giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến quyền lợi
người lao động, vừa xúc tiến tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường,... Nhiều doanh
nghiệp XKLĐ chưa thật chú trọng đến công tác quản lý lao động ở nước ngoài,
hoặc chưa đủ tiềm lực kinh tế cử đại diện thường trực ở nước ngoài để phối hợp với
cơ quan đại diện Việt Nam quản lý, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của người lao động,
thậm chí có doanh nghiệp đưa lao động ra nước ngoài nhưng không cử đại diện sang
60
nước ngoài, chỉ quản lý được lao động đến khi họ sang đến nước NKLĐ. Do đó,
không kiểm soát được người lao động trong quá trình lao động tại nước sở tại,
không kịp thời giải quyết dứt điểm các vấn đề phát sinh đối với người lao động để
tiến triển thành hậu quả xấu. Trên thực tế, đã xảy ra những mâu thuẫn giữa người
lao động và chủ sử dụng lao động được cơ quan quản lý và các doanh nghiệp biết
đến và xử lý quá chậm chạp làm trầm trọng thêm vấn đề.
- Công tác thị trường XKLĐ chưa được đầu tư thực hiện đúng với tiềm
năng XKLĐ.
Việt Nam hiện vẫn còn yếu trong việc thiết lập mạng lưới marketing đủ
mạnh để quảng bá tiềm năng lao động Việt Nam, tìm kiếm đối tác tiếp nhận lao
động ở nước ngoài, mở rộng thị trường XKLĐ,... Khả năng tiếp cận trực tiếp với
người sử dụng lao động của các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam vẫn còn hạn chế,
mang nặng tính thụ động, trông chờ vào thông tin từ các cơ quan quản lý của nhà
nước và phụ thuộc rất lớn vào các trung gian môi giới phía nước ngoài. Nguyên
nhân là do một phần các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được hình ảnh và uy tín
đối với chủ sử dụng lao động ở nước ngoài, hơn nữa, các doanh nghiệp thiếu cán bộ
đủ kinh nghiệm và kiến thức về xúc tiến mở rộng thị trường XKLĐ, cá biệt có một
số doanh nghiệp có giấy phép nhưng không thành lập văn phòng đại diện hoặc
không bố trí cán bộ đảm nhận nhiệm vụ này không tìm được đối tác ký kết hợp
đồng. Trong thời gian từ 2001 đến 2003 có 153 doanh nghiệp tham gia hoạt động
XKLĐ nhưng có 7/153 doanh nghiệp không ký được hợp đồng XKLĐ, trong số các
doanh nghiệp ký được hợp đồng chỉ có 1 doanh nghiệp đưa được 10.000 lao động ra
nước ngoài làm việc, 4 doanh nghiệp đưa được 5.000 và 37 doanh nghiệp đưa được
trên 1.000 lao động [4]. Nhiều bộ ngành địa phương chưa thực sự đầu tư mở thị
trường XKLĐ như đã đầu tư cho xuất khẩu hàng hóa. Trong khi sự hỗ trợ của các
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cho doanh nghiệp trong việc nghiên cứu
nhu cầu lao động, xúc tiến mở thị trường, tăng thị phần XKLĐ còn hạn chế, chưa
đầu tư đúng mức về thời gian và vật chất.
61
- Sự phối hợp giữa cơ quan chủ quản với các cơ quan bộ ngành, chính
quyền các địa phương trong điều hành quản lý hoạt động XKLĐ chưa thật sự chặt
chẽ, chậm trễ trong việc phối hợp xây dựng chính sách về XKLĐ.
Hoạt động XKLĐ đã tiến hành từ những năm 1980, Đảng và Nhà nước
cũng đã có chủ trương rõ ràng nhưng việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng liên
quan còn có sự chậm trễ, nhất là trong việc ban hành các chính sách, văn bản pháp
luật để điều tiết, quản lý về mặt nhà nước đối với hoạt động XKLĐ. Quá trình thực
hiện công tác XKLĐ đã có nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh như lao động bỏ trốn,
lừa đảo người lao động đi XKLĐ,… nhưng thiếu các chế tài đủ mạnh thực sự để xử
lý những trường hợp đó. Luật về XKLĐ chưa được ban hành để điều chỉnh toàn
diện hoạt động này, các chế tài xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động XKLĐ
còn nương nhẹ, mang nặng tính hành chính, giáo dục nên chưa có tác dụng ngăn
ngừa các vi phạm của các tổ chức, cá nhân và người lao động; vẫn còn thiếu các văn
bản hướng dẫn về xét xử các vụ khiếu kiện liên quan đến tranh chấp trong XKLĐ,
thiếu các Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước NKLĐ của Việt Nam làm hạn
chế việc xử lý lao động bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp hay lao động vi phạm pháp luật
ở nước sở tại, hoặc lao động bị phân biệt đối xử lạm dụng, bóc lột... Việc thiếu kịp
thời và chặt chẽ trong phối hợp xây dựng chính sách pháp luật về XKLĐ không chỉ
tạo ra sự lúng túng đối với các doanh nghiệp mà còn gây khó khăn cho các cơ quan
chức năng trong việc xử lý các vi phạm trong hoạt động XKLĐ, đồng thời không
tạo ra được ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia vào hoạt động này.
- Công tác thông tin tuyên truyền còn yếu, chưa kịp thời và đầy đủ.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và các
doanh nghiệp với các cơ quan thông tin đại chúng chưa thường xuyên, dẫn đến tình
trạng người lao động vẫn còn thiếu thông tin về chế độ chính sách, về hoạt động
tuyển chọn lao động của các doanh nghiệp, không nắm rõ được bản chất của hoạt
động XKLĐ… nên không định hướng đúng đắn trước khi đi XKLĐ, dễ bị kẻ xấu
lừa đảo. Thông tin về hoạt động XKLĐ có xu hướng chỉ tập trung vào các vụ việc
62
tiêu cực, chưa tuyên truyền những ưu điểm của người lao động Việt Nam, những
gương điển hình tốt trong hoạt động XKLĐ. Cá biệt còn có những thông tin không
chính xác, thiếu khách quan, hoặc đưa tin làm lộ bí mật kinh doanh nghề nghiệp,
ảnh hưởng xấu đến tâm lý của người lao động đi XKLĐ và xã hội, gây thiệt hại về
kinh tế cho người lao động và doanh nghiệp, ảnh hưởng xấu đến việc mở rộng và
tăng thị phần XKLĐ. Các thông tin về hoạt động XKLĐ chưa tạo được thái độ lên
án, phê phán của dư luận xã hội với người lao động vi phạm hợp đồng, vi phạm
pháp luật nước ngoài, đặc biệt là tình trạng tự ý bỏ hợp đồng của tu nghiệp sinh và
lao động tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan hiện nay. Bên cạnh đó, việc tuyên
truyền, quảng bá về hoạt động XKLĐ của Việt Nam, về tiềm năng, thế mạnh của
lao động Việt Nam cũng như khả năng cung ứng lao động của Việt Nam ở nước
ngoài cũng chưa thật sự được chú trọng.
- Những yếu tố tác động từ phía nước NKLĐ dẫn đến lao động Việt Nam
phá hợp đồng, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp.
Tồn tại một thực tế ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là mặc dù biết rõ
người lao động Việt Nam bỏ trốn là bất hợp pháp nhưng vẫn có chủ sử dụng tiếp
nhận vào làm việc, thậm chí còn có các hành vi bao che cho người lao động khi có
sự kiểm tra của các cơ quan hữu quan. Trong khi đó, các cơ quan chức năng của
nước NKLĐ không quyết liệt trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến lao
động Việt Nam bỏ trốn, nhưng lại yêu cầu Việt Nam phải giải quyết dứt điểm và đe
dọa đóng cửa thị trường. Điều này có thể được giải thích từ hai nguyên nhân cơ bản
sau:
Thứ nhất, do lợi ích kinh tế từ việc sử dụng lao động bất hợp pháp. Tuyển
dụng lao động bất hợp pháp trước hết, đáp ứng được ngay cho sự thiếu hụt lao
động, đảm bảo duy trì sự ổn định sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của
chủ sử dụng, nhưng quan trọng hơn là giảm được chi phí đầu vào do chi phí nhân
công thấp. Ngoài một khoản tiền công thường không cao hơn nhiều so với mức
lương trả cho LĐNN theo các hợp đồng chính thức, chủ sử dụng lao động bất hợp
63
pháp không phải chi thêm bất cứ một khoản nào khác cho người lao động như bảo
hiểm, cải thiện điều kiện làm việc hay sinh hoạt. Người chủ sử dụng cũng không
chịu một sự ràng buộc nào về mặt pháp lý đối với người lao động hay với cơ quan
chức năng địa phương, có thể khai thác, sử dụng tối đa sức lao động của người lao
động, thậm chí ở mức bóc lột, lạm dụng họ, nhưng lại dễ dàng sa thải nếu thấy
không còn thu được nhiều giá trị thặng dư. Trong điều kiện mức tiền lương cao và
sự thiếu hụt lao động ở các nước này, nếu cân đối lại khoản tiền công trả cho lao
động bất hợp pháp với các chi phí để đảm bảo quyền lợi của họ theo hợp đồng lao
động, chủ sử dụng lao động bất hợp pháp vẫn thu được nhiều lợi ích hơn so với việc
tuyển dụng LĐNN chính thức hay sử dụng lao động bản địa. Những yếu tố này, xét
theo bản chất của phương thức tư bản chủ nghĩa, rõ ràng là rất có lợi cho người chủ
sử dụng lao động bất hợp pháp và ở tầm vĩ mô là có lợi cho nền kinh tế. Chính vì
điều này, vẫn luôn tồn tại nhu cầu về lao động bất hợp pháp, thậm chí còn có sự lôi
kéo, khuyến khích lao động bỏ hợp đồng ra làm việc ở ngoài. Điều này, cùng với
việc xử lý còn nương nhẹ của các cơ quan chức năng, đã tạo điều kiện, kích thích
LĐXK Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc.
Thứ hai, tồn tại một đội ngũ lôi kéo người lao động ra làm việc bất hợp
pháp ở ngoài tại các nước NKLĐ Việt Nam. Theo điều tra của các cơ quan chức
năng, tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan luôn có một đội ngũ những người
chuyên tìm cách lôi kéo dụ dỗ người lao động ra ngoài làm việc. Những người này
thường là người gốc Việt, một mặt lôi kéo lao động ra làm việc cho các chủ sử dụng
ở ngoài để hưởng lợi môi giới, hình thành các băng nhóm ăn cắp và tiêu thụ hàng
hóa ở siêu thị và có các hành vi vi phạm pháp luật khác, mặt khác nhằm lợi dụng
chính những người lao động này để mưu đồ các mục đích khác, kể cả các hoạt động
chống phá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Tuy
nhiên, trình trạng này lại chưa được các cơ quan chức năng của nước NKLĐ điều
tra, xử lý triệt để.
Như vậy, hiện tượng lao động Việt Nam phá hợp đồng, bỏ trốn và cư trú bất
hợp pháp tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan còn có nguyên nhân khách quan từ
64
chính các nước này. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng này cũng do tác động
của các quy luật kinh tế, trong đó thể hiện rõ nhất là quy luật cung - cầu về lao động
ở các nước NKLĐ. Do có sự tiếp nhận, sử dụng lao động bất hợp pháp và những
hình thức bao che của người chủ sử dụng cũng như sự nương nhẹ trong việc xử lý
vấn đề này của các cơ quan chức năng của nước NKLĐ, lao động Việt Nam mới có
điều kiện để bỏ trốn ra ngoài làm việc để kiếm tiến và cư trú bất hợp pháp. Ngoài
ra, vì các mục đích kinh tế, chính trị khác nhau, các nước này cũng chưa muốn giải
quyết triệt để vấn đề lao động bất hợp pháp trong bối cảnh hiện nay. Một mặt, bản
thân các nước này đang cần LĐNN để bổ sung cho sự thiếu hụt lao động trong
nước, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế truyền thống, sử dụng nhiều lao
động nên vẫn chấp nhận lao động bất hợp pháp. Mặt khác, giải quyết triệt để tình
trạng lao động bất hợp pháp có thể sẽ ảnh hưởng đến các mục đích kinh tế, chính trị
trong quan hệ đối ngoại với các nước XKLĐ, nhất là các nước XKLĐ ở Đông Nam
á, trong đó có Việt Nam; hơn nữa có thể bị cộng đồng quốc tế phản đối do vấn đề
này có liên quan đến các quy định, công ước quốc tế về nhân quyền, quyền lợi của
người lao động di cư.
Vì thế, đây là một vấn đề rất nhạy cảm, không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa
trong quan hệ hợp tác lao động mà còn liên quan đến các mục đích, chính sách
trong quan hệ kinh tế, chính trị của mỗi nước ở khu vực này đối với Việt Nam. Để
giải quyết nó, ngoài các chính sách, biện pháp đồng bộ trong chiến lược tổng thể về
XKLĐ, cần phải có sự tham gia tích cực từ phía các nước tiếp nhận LĐXK của Việt
Nam, trên cơ sở hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi.
2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực trạng hoạt động xuất khẩu lao
động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á
Qua phân tích kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn trong hoạt động
XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và nguyên nhân có thể
rút ra một số nhận xét như những kinh nghiệm trong hoạt động này như sau:
65
Thứ nhất, phải tạo ra được sự nhận thức đúng đắn về hoạt động XKLĐ
trong xã hội, coi hoạt động này là một bộ phận của chương trình mục tiêu giải quyết
việc làm, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải được
thực hiện theo các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực
hiện XKLĐ phải tuân theo các nhu cầu khách quan về phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta và phù hợp với nhu cầu tuyển dụng lao động của các nước NKLĐ.
Thứ hai, phải xây dựng được một hệ thống cơ chế chính sách quản lý, điều
tiết hoạt động XKLĐ phù hợp, đồng bộ; quan trọng và cơ bản là phải có Luật về
XKLĐ để điều chỉnh toàn diện hoạt động này. Chú trọng đến việc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về XKLĐ cho phù hợp với diễn biến
của tình hình thực tế; đồng thời, phải chú trọng tới công tác giữ gìn trật tự an toàn
xã hội và bảo vệ an ninh quốc gia trong khi thực hiện XKLĐ sang các nước.
Thứ ba, phải tạo dựng được các doanh nghiệp XKLĐ có đủ tiềm lực về tài
chính, nhân lực, về khả năng nghiên cứu phát triển và mở rộng thị trường, quản lý
LĐXK. Phát triển các doanh nghiệp XKLĐ theo hướng chuyên nghiệp để tạo ra các
doanh nghiệp có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
Thứ tư, phải tạo được nguồn lao động có chất lượng phục vụ cho XKLĐ, lao
động đưa đi làm việc ở nước ngoài phải đảm bảo có khả năng đáp ứng các yêu cầu
công việc của người sử dụng, quan trọng là phải có ý thức trách nhiệm đối với quê
hương, đất nước. Cần coi trọng công tác quản lý, hỗ trợ người LĐXK, đặc biệt là
việc bảo vệ quyền lợi của LĐXK ở nước ngoài phải được quan tâm, đầu tư, coi đó
là một nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.
Thứ năm, phải tuyên truyền để người lao động nắm được bản chất của hoạt
động XKLĐ, vai trò và tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và đối với bản thân người lao động, nâng cao nhận thức và ý thức
trách nhiệm của người LĐXK đối với cộng đồng, đất nước khi tham gia hoạt động
này. Các thông tin liên quan đến hoạt động XKLĐ phải được công bố công khai,
66
đầy đủ, rõ ràng cho người lao động, nhất là các cơ hội làm việc ở nước ngoài và các
thủ tục, điều kiện tham gia.
Thứ sáu, phải xây dựng được một chính sách hợp tác lao động phù hợp với
từng nước NKLĐ, nhất là các nước có khả năng tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam,
trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Phải có sự hợp tác quốc tế về
hoạt động XKLĐ, nhất là hợp tác với các nước XKLĐ truyền thống ở khu vực
Đông Nam á, để tăng cường năng lực XKLĐ của nước ta cũng như thống nhất cách
giải quyết các tiêu cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ, bảo vệ người lao động ở
nước ngoài và hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động XKLĐ giữa
các quốc gia.
67
Chương 3
Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh
Hoạt Động Xuất Khẩu LAO Động Của Việt NAM
SANG Thị Trường KHU Vực ĐÔNG Bắc á
3.1. Nhu cầu sử dụng Lao động nước ngoài của khu vực Đông Bắc á và
phương hướng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang khu vực này
3.1.1. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của khu vực Đông Bắc á
Đông Bắc á không phải là một khu vực NKLĐ truyền thống, nhu cầu sử
dụng LĐNN ở các nước trong khu vực cũng chỉ mới bắt đầu từ cuối những năm
1980. Sự thiếu hụt lao động do xu hướng già hóa của dân số đã tác động tới quá
trình phát triển kinh tế, buộc các nước trong khu vực phải từng bước mở cửa thị
trường lao động tiếp nhận LĐNN vào làm việc. Quy mô tuyển dụng LĐNN của khu
vực ngày càng tăng, các nước NKLĐ chính trong khu vực là Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan. Đây cũng là khu vực tập trung LĐXK của hầu hết các nước XKLĐ ở
châu á. Nhu cầu sử dụng LĐNN ở mỗi nước trong khu vực chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau, song nhìn chung có một số đặc điểm sau:
- Nhu cầu LĐNN tăng cùng với việc đẩy nhanh quá trình cải cách phát
triển kinh tế của các nước trong khu vực. Nhu cầu LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan gắn liền với những cải cách, tái cơ cấu kinh tế, đặc biệt là quá trình đầu
tư tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế từ cuối những năm 1980,
bùng nổ vào đầu những năm 1990 và tiếp tục tăng cho đến nay, mặc dù có một sự
suy giảm trong những năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Nhu cầu
LĐNN bắt đầu xuất hiện từ lĩnh vực xây dựng khi các nước tập trung xây dựng các
công trình phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế trọng điểm quốc gia, sau
đó lan sang các ngành sản xuất chế tạo, nông nghiệp, đánh bắt cá. Khi nền kinh tế
phát triển, các nước trong khu vực đẩy mạnh quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo
hướng phát triển dịch vụ, sản xuất dựa trên nền tảng kỹ thuật cao, nhiều cơ hội việc
68
làm đã được tạo ra, kể cả cho phụ nữ, nhu cầu LĐNN cho công việc chăm sóc người
già, trông trẻ, giúp việc gia đình ở khu vực đã tăng mạnh, điển hình là ở Đài Loan.
Số LĐNN làm giúp việc gia đình ở Đài Loan đã tăng từ 35.245 người năm 1997 lên
119.601 người năm 2003, còn Nhật Bản hiện thiếu tới 300.000 lao động làm công
việc chăm sóc người già [37]. Sự thiếu hụt lao động ở nhiều ngành kinh tế trong khi
lực lượng lao động trong nước chưa đáp ứng được đã làm cho nhu cầu sử LĐNN ở
Nhật Bản, Hàn Quốc và lao động ngày càng tăng lên trong những năm gần đây. Số
LĐNN vào Nhật Bản làm việc đã tăng từ 581.000 người năm 1992 lên 764.000
người năm 2002, LĐNN chiếm tới 1,1% lực lượng lao động của Nhật Bản. Số
LĐNN ở Hàn Quốc cũng tăng từ 81.824 người năm 1994 lên 388.816 người năm
2003; tại Đài Loan, số LĐNN đã tăng từ 164.973 người năm 1995 lên 326.402
người năm 2000, năm 2003 mặc dù Đài Loan thực hiện một số biện pháp giảm số
lượng LĐNN ở nước này nhưng số lượng LĐNN vẫn ở mức 299.263 người [51],
[52], [56], (xem bảng 3.1; Phụ lục 1, 3).
- Nhu cầu LĐNN tập trung ở một số ngành sử dụng nhiều lao động, nhu
cầu lao động phổ thông lớn. Sự thiếu hụt lao động ở các nước trong khu vực Đông
Bắc á chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các lĩnh vực sử dụng
nhiều lao động như công nghiệp cơ khí, điện tử, dệt may, xây dựng, cầu đường, chế
biến hải sản, đánh bắt cá, dịch vụ gia đình; các công việc cần lao động giản đơn,
lương thấp; các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mà dân bản địa không sẵn
sàng làm. Vì thế, phần lớn nhu cầu LĐNN ở khu vực Đông Bắc á là đối với lao
động phổ thông, trình độ thấp, nhất là ở Đài Loan. Ngay cả các nước hạn chế tiếp
nhận LĐNN trình độ thấp như Nhật Bản và Hàn Quốc, nhu cầu lao động loại này
vẫn lớn.
Tại Nhật Bản, mặc dù pháp luật quy định chỉ tuyển dụng LĐNN chất lượng
cao, được đào tạo tay nghề nhưng nhiều nơi các công ty Nhật Bản nhận tu nghiệp
sinh chỉ nhận lao động phổ thông, lao động có kỹ năng đơn giản như công nhân xây
dựng, thợ lái máy, công nhân trong các xí nghiệp thủy sản, làm các công việc phục
vụ, thậm chí cả những nơi làm việc được gọi là nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại.
69
Năm 2003, trong tổng số 800.000 LĐNN đang làm việc ở Nhật Bản chỉ có khoảng
180.000 lao động có kỹ năng cao, số còn lại là lao động phổ thông [51].
Tại Hàn Quốc, nhu cầu LĐNN tập trung chủ yếu trong các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thuộc các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, có các công việc nguy hiểm, độc
hại, khó khăn, đây cũng là các ngành mà người lao động bản xứ không sẵn sàng
làm, cụ thể như: chế tạo máy, xây dựng, thủy sản, nông nghiệp, dịch vụ tư nhân và
công cộng. Mặc dù Hàn Quốc có tới hơn 50% dân số tham gia lực lượng lao động
nhưng vẫn phải cần tới hơn 450.000 lao động phổ thông để đáp ứng cho các nhu cầu
lao động của các công việc nêu trên [39]. Do sự thiếu hụt lao động đang ngày càng
trầm trọng, ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ - khu vực đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc, chính
phủ nước này đã phải sửa đổi chính sách nhập cư, cho phép tiếp nhận LĐNN trình
độ thấp, lao động phổ thông vào Hàn Quốc làm việc.
Tuy nhiên, việc tuyển dụng LĐNN có kỹ năng thấp để đáp ứng nhu cầu
trong các ngành sử dụng nhiều lao động ở các nước được thực hiện theo các cách
khác nhau. ở Nhật Bản và Hàn Quốc, do pháp luật hạn chế nhập khẩu lao động trình
độ thấp nên việc tuyển dụng này được thực hiện dưới hình thức tiếp nhận LĐNN
theo chương trình tu nghiệp và thực tập sinh công nghiệp, nhưng thực chất là để đáp
ứng cho nhu cầu lao động đang bị thiếu hụt ở các nước này. Năm 2002, tu nghiệp
sinh nước ngoài vào Nhật Bản chiếm khoảng 8% lực lượng lao động Nhật Bản, làm
việc chủ yếu trong các lĩnh vực: dệt may (47%), cơ khí luyện kim (15%), thực phẩm
(11%), xây dựng 8%, nông nghiệp 4%, ngư nghiệp (2%), các ngành khác (13%).
Trong khi đó, Đài Loan tuyển dụng nhiều loại LĐNN cho các nhu cầu trong nước,
tập trung chủ yếu trong các ngành sản xuất chế tạo, xây dựng, đặc biệt nhu cầu lao
động giúp việc gia đình, chăm sóc người bệnh tăng mạnh từ cuối những năm 1990
và vẫn tăng lên trong những năm qua, kể cả về con số tuyệt đối và tỷ lệ trong tổng
số LĐNN vào làm việc ở Đài Loan (xem bảng 3.1).
Bảng 3.1: Cơ cấu lao động nước ngoài vào Đài Loan theo ngành nghề
70
Đơn vị: người, %
1995 1997 1999 2001 2003
Ngành Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ
nghề số (%) số (%) số (%) số (%) số (%)
Sản 126.40 76,6 160.40 164.25 161.26 53,8 65,28 58,90 157055 51,56 xuất 3 2 1 6 6 9
23,3 Xây 38.570 48.786 19,86 51.894 18,61 33.367 10,95 14.977 5,0 8 dựng
119.60 39,9 Giúp - 35.245 14,34 61.723 22,13 112934 37,08 - 1 7 việc*
Thuyền - 1.265 0,51 999 0,36 1249 0,41 3419 1,14 - viên
164.97 24569 27887 299.26 Tổng 100 100 100 304605 100 100 7 2 3 3
Ghi chú: (*) bao gồm cả giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh.
Nguồn: Điều tra về việc sử dụng và quản lý LĐNN tại Đài Loan - ủy ban
lao động Đài Loan.
Mặc dù vậy, các nước đều quy định LĐNN vào làm việc ở các ngành thiếu
hụt lao động phải là những lao động đã được đào tạo những kỹ năng cơ bản cho
công việc sẽ làm, Nhật Bản còn quy định các tu nghiệp sinh phải là những lao động
đang làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh phù hợp với ngành nghề được đào
tạo ở nước XKLĐ. Hơn nữa, do xu hướng phát triển kinh tế thời kỳ hậu công
nghiệp, dựa vào nền tảng các ngành KHCN mũi nhọn, các nước này vẫn thiếu hụt
lao động có chất lượng cao, làm việc ở các ngành công nghệ cao như sinh học, điện
tử viễn thông, tin học, vật liệu mới, môi trường... làm cho nhu cầu LĐNN chất
lượng cao tăng lên, đặc biệt là ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Các nước này đang thực
71
hiện các chính sách ưu đãi để thu hút LĐNN có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
như các kỹ thuật viên, chuyên gia, nhà quản lý giỏi đến làm việc nhằm mục đích
khai thác kiến thức và trình độ KHCN của họ phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh
tế.
- Nhu cầu LĐNN của khu vực chủ yếu là đối với lao động từ các nước châu
á. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đều tuyển dụng nhiều lao động từ các nước châu
á, nhất là từ các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Trong số các nước XKLĐ
vào Nhật Bản thông qua chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp của nước này có tới
13 nước châu á, trong đó đứng đầu về số lượng là Trung Quốc, tiếp đến là Indonesia,
Việt Nam, Philippine và Thái Lan. Việc tuyển dụng LĐNN của Hàn Quốc thông qua
chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp của nước này cũng dành cho 15 nước ở châu
á, chính phủ Hàn Quốc cũng chọn 6 nước châu á là Philippine, Mông Cổ, Srilanka,
Việt Nam, Thái Lan và Indonesia tham gia đưa lao động vào Hàn Quốc làm việc theo
Luật cấp phép cho LĐNN mới của nước này. LĐNN ở Đài Loan cũng chủ yếu đến từ
Philippine, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam. Điều này một phần do sự gần gũi,
tương đồng về mặt địa lý, truyền thống văn hóa và phong tục á Đông giữa các nước
XKLĐ với các nước NKLĐ ở khu vực Đông Bắc á (xem Phụ lục số 1, 2, 4).
- Nhu cầu tuyển dụng LĐNN bất hợp pháp rất lớn. Do chạy theo lợi nhuận,
lại bị hạn chế về số lượng LĐNN được phép tiếp nhận, có nhiều doanh nghiệp và
chủ sử dụng lao động ở các nước trong khu vực Đông Bắc á có nhu cầu tuyển dụng
LĐNN bất hợp pháp khá lớn. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ LĐNN phá hợp đồng
lao động, bỏ trốn ra ngoài làm việc và số lao động nước ngoài bất hợp pháp ở Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan rất lớn. Đặc biệt là ở Hàn Quốc, số lao động bất hợp
pháp đã tăng từ 58,9% năm 1994 lên 63,1% năm 1998 và 77,4% năm 2002, con số
này năm 2003 đã giảm xuống còn 35,5% do Chính phủ Hàn Quốc cho phép tiếp
nhận lao động phổ thông vào làm việc và hợp pháp hóa các lao động bất hợp pháp
đủ điều kiện được làm việc tại nước này (xem Phụ lục số 3). Năm 1998, trong tổng
số 670.000 LĐNN đến Nhật Bản làm việc có hơn 270.000 lao động bất hợp pháp,
con số này đã giảm xuống gần 220.000 vào đầu năm 2004 nhưng nếu tính cả số
72
người nhập cảnh trái phép vào Nhật Bản làm việc, số LĐNN bất hợp pháp ở nước
này lên tới 330.000 người [51], [56]. Điều này cho thấy khoảng cách giữa chính
sách của chính phủ các nước cũng như khả năng thực hiện chính sách với nhu cầu
LĐNN thực tế là rất lớn.
3.1.2. Phương hướng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường
khu vực Đông Bắc á
Mục tiêu XKLĐ của cả nước trong năm 2005 là đưa được 50.000 lao động
sang làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, sau năm 2005 đưa được trên
100.000 lao động mỗi năm sang làm việc tại các nước này và phấn đấu đưa số lao
động được đào tạo nghề lên 45% trong tổng số lao động đưa sang lao động tại khu
vực, tăng số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nhất là đối với thị
trường Nhật Bản. Đồng thời, ngăn chặn và giảm thiểu tỷ lệ lao động bỏ trốn hợp
đồng ra ngoài cư trú bất hợp pháp.
Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, căn cứ vào
nhu cầu sử dụng LĐNN của các nước trong khu vực và mục tiêu đã đặt ra, phương
hướng trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á
được xác định là:
- Đẩy mạnh XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á được coi là một nhiệm vụ
chính trị, kinh tế của các cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn xã hội. Trên cơ sở đó,
thực hiện xã hội hóa công tác XKLĐ.
- Chú trọng các khâu đối ngoại, đàm phán, ký kết với các nước trong khu
vực; đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu; đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và
cán bộ doanh nghiệp XKLĐ để giữ vững và tiếp tục mở rộng thị trường XKLĐ sang
khu vực Đông Bắc á.
- Công tác tuyển chọn LĐXK, trước hết ưu tiên đối với thanh niên đã hoàn
thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong, công nhân trong các doanh nghiệp,
73
lao động đã qua đào tạo ở các trường dạy nghề, con em gia đình chính sách, người
nghèo, nông dân thiếu việc làm.
- Cải cách thủ tục hành chính, xóa bỏ phiền hà, công bố công khai, rõ ràng
các khoản đóng góp, giảm tối đa các khoản chi phí cho người lao động và doanh
nghiệp; tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những sai phạm có liên quan
đến hoạt động XKLĐ.
- Đưa công tác đào tạo nguồn LĐXK sang khu vực Đông Bắc á vào chương
trình đào tạo nghề quốc gia, thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục đào tạo cho
XKLĐ nói chung và cho XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á nói riêng, khuyến khích
người lao động, các tổ chức, bộ, ngành, địa phương tổ chức đào tạo nguồn lao động
phục vụ cho hoạt động này.
3.2. Những quan điểm về hoạt động xuất khẩu lao động cần được nhận
thức đúng
- Hoạt động XKLĐ là hoạt động bán hàng hóa sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa - một loại
hàng hóa đặc biệt, vì vậy, sức lao động được đem ra mua bán, trao đổi trên thị
trường, không chỉ ở trong nước mà cả quốc tế, do đó hình thành nên hoạt động
XKLĐ.
Nhận thức đúng bản chất của hoạt động XKLĐ để trên cơ sở đó xây dựng
các chính sách điều tiết, biện pháp quản lý hoạt động XKLĐ phù hợp, đảm bảo
được quyền lợi của các bên tham gia, trong đó phải đảm bảo được quá trình tái sản
xuất sức lao động và tăng chất lượng hàng hóa sức lao động của người lao động
tham gia XKLĐ. Đồng thời giúp người lao động hiểu, nắm rõ và có định hướng
đúng đắn, tránh mơ hồ ảo tưởng khi tham gia XKLĐ. Nhận thức đúng về hoạt động
XKLĐ để khẳng định sự lãnh đạo, điều hành đúng đắn, nhạy bén của Đảng và Nhà
nước ta cũng như tính ưu việt của chế độ ta trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội nói chung và trong hoạt động XKLĐ nói riêng. Nhận thức đúng bản
74
chất hoạt động XKLĐ để lên án các hoạt động chống phá của những cá nhân, tổ
chức phản động ở nước ngoài và bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các
thế lực thù địch đối với chủ trương, chính sách XKLĐ của Đảng và Nhà nước ta,
tạo uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế cũng như vị thế
của nước ta trên trường quốc tế.
- Hoạt động XKLĐ là một hoạt động kinh tế - xã hội
Trong cơ chế kinh tế thị trường, các hoạt động mua bán đều được thực hiện
dựa trên mục đích tối đa hóa lợi ích kinh tế và chịu tác động của các quy luật kinh
tế. Do vậy, hoạt động XKLĐ của một nước phụ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng
hóa sức lao động trên thị trường lao động của các nước NKLĐ, phụ thuộc vào chất
lượng, giá cả của hàng hóa sức lao động hay tiền công lao động và chịu sự cạnh
tranh quyết liệt của các nước XKLĐ khác. Tác động của quy luật cung cầu, quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh buộc cả nước XKLĐ và nước NKLĐ phải tính toán, thực
hiện các giải pháp làm sao để đạt được lợi ích kinh tế lớn nhất. Lợi ích kinh tế của
nước NKLĐ là giá trị thặng dư hay giá trị gia tăng do LĐNN nhập khẩu tạo ra cho
nền kinh tế. Điều này lại phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động cung ứng. Vì
thế, quốc gia NKLĐ sẽ căn cứ vào nhu cầu thị trường, chất lượng hàng hóa sức lao
động, tiền công trả cho công nhân cũng như khả năng cung lao động trên thị trường
lao động quốc tế để lựa chọn các nhà cung ứng LĐNN, lựa chọn loại lao động, số
lượng lao động cần nhập khẩu. Lợi ích kinh tế của nước XKLĐ là các khoản phí và
thuế do nhà nước thu, các khoản phí môi giới của các doanh nghiệp XKLĐ, các
khoản thu nhập của người lao động có được sau khi đi XKLĐ và các hiệu ứng kinh
tế khác. Vì vậy, quốc gia XKLĐ sẽ căn cứ vào thực trạng nguồn lao động trong
nước, nhu cầu nhập lao động của nước ngoài, giá cả lao động và các lợi ích khác để
quyết định số lượng, loại lao động sẽ cung ứng cho bên NKLĐ, lĩnh vực, ngành
nghề sẽ tham gia XKLĐ. Chính vì vậy, trong hoạt động XKLĐ phải đảm bảo được hai
yêu cầu: thứ nhất là về số lượng, loại và chất lượng lao động; thứ hai là khả năng
cạnh tranh của hàng hóa sức lao động về chất lượng và giá cả trên thị trường lao
động.
75
Hoạt động XKLĐ liên quan đến thực thể người lao động, do đó liên quan
đến các yếu tố vật chất và tinh thần đảm bảo cho sự tồn tại của cơ thể sống của
người lao động. Vì vậy, bên cạnh mục đích kinh tế, phải đảm bảo được yêu cầu về
mặt xã hội trong XKLĐ, đó là các nhu cầu về điều kiện sống và làm việc, nhu cầu
về vui chơi, giải trí, nhu cầu giao tiếp và tham gia hoạt động cộng đồng,... Về khía
cạnh này, các chính sách XKLĐ thực thi phải bao gồm các vấn đề về bảo vệ quyền
con người, phù hợp với các quy ước quốc tế về bảo vệ người lao động ở ngoài
nước, đồng thời phải giải quyết được các vấn đề tiêu cực phát sinh trong hoạt động
XKLĐ như lao động phải về nước sớm, lao động bỏ trốn,… nhưng phải đảm bảo
không để lại hậu quả xấu đối với đời sống người lao động. Đặc biệt là có các chính
sách đối với người lao động sau khi hết hợp đồng XKLĐ về nước như đào tạo lại,
định hướng nghề nghiệp, tạo việc làm, khuyến khích sử dụng thu nhập có được vào
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho bản thân và cho những người
khác, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở nơi người lao động đi XKLĐ,
nhất là ở các vùng sâu vùng xa, nông thôn, miền núi.
- Hoạt động XKLĐ phải được thực hiện theo hướng đa dạng hóa thị
trường, thành phần tham gia, hình thức và ngành nghề lao động
Đảng và Nhà nước ta đã xác định: "Xuất khẩu lao động và chuyên gia phải
được mở rộng và đa dạng hóa hình thức, thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về
số lượng, trình độ và ngành nghề" [14]. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và phân
công lao động quốc tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng hiện nay, nhận
thức đầy đủ quan điểm này để chuẩn bị nguồn lao động sẵn sàng cung ứng cho tất
cả các thị trường, không phụ thuộc vào thái độ chính trị, tập quán hay tôn giáo nếu
thị trường đó có nhu cầu sử dụng lao động của Việt Nam; mở rộng và cho phép tất
cả các thành phần kinh tế được tham gia vào hoạt động XKLĐ trên cơ sở tiềm lực
tài chính và con người theo quy định của pháp luật để huy động tất cả những ưu thế
của các thành phần kinh tế đối với hoạt động XKLĐ, tạo một môi trường kinh
76
doanh XKLĐ bình đẳng, hướng theo mục tiêu tự do hóa các hoạt động kinh tế và
hội nhập toàn cầu.
Đa dạng hóa thị trường nhằm tránh sự phụ thuộc vào một hoặc một vài thị
trường, khu vực, từ đó chủ động được đầu ra và hạn chế được những rủi ro khi nước
tiếp nhận lao động có sự biến động do chiến tranh, dịch bệnh, khủng hoảng kinh
tế,... Đa dạng hóa thị trường XKLĐ để tận dụng thời cơ, tranh thủ đẩy mạnh XKLĐ
bởi nhu cầu lao động là khác nhau ở các nước và luôn có những thay đổi trong
những giai đoạn, thời điểm khác nhau, đồng thời là một hình thức quảng bá, tuyên
truyền về lao động và hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Mở rộng thị trường XKLĐ
và người lao động khẳng định được khả năng của mình trên thị trường đó là cách
thức để tác động tới người sử dụng ở nhiều nước tìm đến tuyển dụng lao động Việt
Nam, qua đó đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải
gắn việc mở rộng, phát triển thị trường XKLĐ với việc bảo vệ người lao động, bảo
đảm quyền lợi chính đáng của người lao động và các lợi ích quốc gia, tránh các thị
trường có nhiều rủi ro, nguy hiểm đến cuộc sống của người lao động.
Đa dạng hóa hình thức XKLĐ để tận dụng các quan hệ, lợi thế và khả năng
của tất cả các thành phần kinh tế cũng như của người lao động trong quan hệ hợp
tác lao động với nước ngoài nhằm đưa được nhiều lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Đẩy mạnh hoạt động XKLĐ phải theo nhiều hình thức, cách thức tổ chức
thực hiện, từ hình thức cung ứng dịch vụ lao động theo hợp đồng giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài đến hình thức liên doanh sản xuất, hợp tác song
phương, hình thức hợp đồng cá nhân và theo hình thức nhận thầu, khoán công trình.
Về lâu dài phải có chính sách đầu tư phát triển đồng bộ để tăng cường XKLĐ theo
hình thức nhận thầu, khoán hoặc đầu tư hợp tác sản xuất liên doanh ra nước ngoài.
Hình thức này không chỉ cung ứng dịch vụ lao động, đưa người lao động ra nước
ngoài làm việc mà còn kèm theo cả máy móc, công nghệ, phương thức quản lý sản
xuất, kinh doanh..., do đó thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, tạo động lực
cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển và tăng cường sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Đây chính là hình thức XKLĐ đồng bộ, đảm bảo thu được lợi ích
77
kinh tế cao nhất, nhưng ít có những phát sinh tiêu cực tác động xấu tới quan hệ hợp
tác lao động giữa nước ta với các nước, đồng thời thúc đẩy được sự phát triển của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Đa dạng hóa ngành nghề trong hoạt động XKLĐ để tận dụng được nguồn
lao động dồi dào ở nước ta, đồng thời tạo điều kiện để lao động nước ta tăng cường
hội nhập hơn nữa với thị trường lao động thế giới. Trong đó, về lâu dài, phải có
chiến lược đào tạo LĐXK theo hướng đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng và
chất chất lượng ngày càng cao của các nước NKLĐ, số lượng lao động được đào
tạo, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động có hàm lượng chất xám cao
phải chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động đưa đi nước ngoài làm việc. Mặt
khác, việc đa dạng hóa ngành nghề XKLĐ cũng sẽ góp phần tạo điều kiện để hình
thành một lực lượng lao động có chất lượng, đa dạng phục vụ cho các nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
- Hoạt động XKLĐ phải đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng và thống nhất quản
lý của Nhà nước
ở tầm vĩ mô, sự thống nhất về quan điểm, chủ trương của Đảng về XKLĐ
có vai trò quan trọng và làm định hướng cho việc hoạch định các chiến lược XKLĐ,
làm cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước điều tiết hoạt động này một cách có hiệu
quả, đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và đảm bảo được tính định hướng xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động XKLĐ.
Thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động XKLĐ nhằm tạo khuôn
khổ cho hoạt động XKLĐ đi theo đúng đường lối, chủ trương và bảo đảm thực hiện
được các mục tiêu Đảng đã đề ra. Nhà nước đứng ra quản lý thống nhất hoạt động
XKLĐ để phát huy vai trò sức mạnh của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề
có liên quan như đàm phán ký kết hiệp định, thỏa thuận hợp tác lao động với nước
ngoài, xây dựng pháp luật về XKLĐ, đảm bảo quyền lợi của người lao động ở nước
ngoài,… Đặc biệt, chỉ có Nhà nước mới có khả năng giải quyết được các vấn đề tiêu
cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ và hậu quả của nó. Sự thống nhất quản lý của
78
Nhà nước về hoạt động XKLĐ được thể hiện bằng việc Nhà nước giao cho Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội (trực tiếp là Cục Quản lý lao động ngoài nước thuộc
Bộ) quản lý và điều tiết hoạt động XKLĐ trên cơ sở các chủ trương, quan điểm của
Đảng, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, chịu trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan, bộ ngành khác trong việc nghiên cứu, xây dựng và phối hợp triển khai các
kế hoạch, chương trình đầu tư phát triển liên quan đến hoạt động XKLĐ của nước
ta.
- Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
XKLĐ là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội, do đó trong quá trình
thực hiện phải đảm bảo được các mục tiêu về lợi ích kinh tế, có tác động tích cực
tới sự tiến bộ xã hội. Về phương diện kinh tế, mục tiêu kinh tế ở tầm vĩ mô là thu
nhập quốc dân và thu nhập đầu người tăng lên, XKLĐ phải đảm bảo được lợi ích
kinh tế của các bên tham gia là nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Đó là
phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ các khoản thuế, phí trong
hoạt động XKLĐ, các khoản phí môi giới dịch vụ XKLĐ cho các doanh nghiệp và
các khoản thu nhập hợp pháp của người LĐXK. Đặc biệt là phải chú trọng tới
quyền lợi của người LĐXK, có đảm bảo được quyền lợi về kinh tế của người
LĐXK mới bảo đảm được tính chắc chắn đối với các lợi ích kinh tế của doanh
nghiệp, của Nhà nước. Đảm bảo quyền lợi kinh tế của người LĐXK là điều kiện để
đảm bảo hoạt động XKLĐ ổn định và phát triển bền vững, là căn cứ để xác định
tính hiệu quả của hoạt động XKLĐ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Các mục tiêu xã hội trong XKLĐ là giải quyết được một số lượng người lao động
thiếu việc làm, dôi dư trong nền kinh tế, giảm áp lực thất nghiệp tới đời sống xã hội,
nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng lao động cho người lao động. Hoạt động XKLĐ
phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động, góp phần vào sự phát triển của người lao động. Ngoài
ra, hoạt động XKLĐ còn phải hình thành được một đội ngũ lao động có chất lượng,
linh hoạt đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
79
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, là chất xúc tác để tăng cường quan hệ hữu nghị
giữa Việt Nam với các nước.
3.3. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động của Việt
Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á trong thời gian tới
Từ thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á
trong thời gian qua, xuất phát từ nhu cầu sử dụng LĐNN của các nước ở khu vực
này như đã phân tích, đòi hỏi phải có những chính sách, biện pháp phù hợp để đảm
bảo được các mục tiêu kế hoạch đặt ra cho công tác XKLĐ nói chung và hoạt động
XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á nói riêng. Nhằm khắc phục các khó khăn, hạn chế
các tiêu cực phát sinh, đồng thời tranh thủ các cơ hội thuận lợi từ Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan để đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực Đông Bắc á, chúng tôi thấy cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
3.3.1. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu lao động sang thị trường khu vực
Đông Bắc á có tính đồng bộ
Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động XKLĐ phải được đánh giá một
cách tổng thể trong toàn bộ quy trình XKLĐ, từ tạo nguồn, tuyển chọn và đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài và quản lý họ cũng như đảm bảo các điều kiện cho
người lao động phát huy khả năng khi trở về nước. Điều này đòi hỏi phải có một kế
hoạch XKLĐ nằm trong tổng thể chương trình quốc gia về việc làm, có sự gắn kết
với chương trình đầu tư giáo dục đào tạo quốc gia, chương trình quốc gia về xóa đói
giảm nghèo, đồng thời phải được sự hỗ trợ của chính sách đối ngoại, công tác xây
dựng pháp luật, biện pháp đảm bảo trật tự an toàn xã hội,…
Thực tế những khó khăn, yếu kém trong XKLĐ của Việt Nam sang Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thời gian qua là do ngay từ khi thực hiện đã thiếu một kế
hoạch XKLĐ mang tính tổng thể, có tầm chiến lược dài hạn, nhất là chưa có sự
đồng bộ và gắn kết với các chương trình, kế hoạch mục tiêu khác trong chiến lược
tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự không đồng bộ về các chính
80
sách trong chiến lược XKLĐ không chỉ tạo ra sự thiếu hụt nguồn LĐXK, chất
lượng LĐXK thấp, mà còn tạo ra sự lúng túng trong việc xử lý các vấn đề phát sinh
liên quan đến người lao động Việt Nam tham gia XKLĐ ở cả trong và ngoài nước.
Hiệu quả của hoạt động XKLĐ không thể chỉ có việc tìm kiếm thị trường, tổ chức
đưa được người lao động ra nước ngoài làm việc. Vấn đề cơ bản, quan trọng và lâu
dài vẫn là bảo đảm được độ tin cậy vững chắc, được nhiều chủ sử dụng tín nhiệm và
phát huy được hết khả năng của chính người lao động khi đi làm việc cũng như khi
trở về nước. Vì vậy, một kế hoạch XKLĐ hiệu quả phải đảm bảo được hiệu quả của
tất cả các khâu trong quy trình XKLĐ, từ tuyển chọn lao động, quản lý lao động
làm việc ở nước ngoài, đến giải quyết những vấn đề sau khi người lao động trở về
nước như tạo việc làm, hướng nghiệp, sử dụng vốn của người lao động,... Do đó,
các giải pháp trong quá trình xây dựng kế hoạch XKLĐ sang thị trường khu vực
Đông Bắc á là:
- Căn cứ vào chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta,
trong đó có chương trình mục tiêu giải quyết việc làm, xây dựng các kế hoạch
XKLĐ dài hạn cũng như ngắn hạn và cho từng thị trường. Xây dựng kế hoạch
XKLĐ cần tính toán tới sự cân đối, hài hòa với sự phát triển nguồn nhân lực phục
vụ cho nhu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt là phù hợp
với sự phát triển nguồn nhân lực ở các vùng, miền, địa phương trong cả nước, chú ý
vấn đề tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững giữa các địa phương, khu vực,
giữa các ngành, lĩnh vực. Kế hoạch XKLĐ phải bao gồm các biện pháp tổ chức
thực hiện từ khâu tuyển chọn lao động, đào tạo nghề và giáo dục hướng nghiệp, đưa
đi làm việc ở nước ngoài, quản lý lao động ở nước ngoài, đưa lao động về nước, kể
cả về nước trước thời hạn hợp đồng, đến việc hỗ trợ LĐXK trở về tái hòa nhập cộng
đồng.
- Xây dựng kế hoạch XKLĐ trên cơ sở gắn liền với sự đổi mới và hoàn
thiện của hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện
kế hoạch. Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương phối hợp nghiên cứu xây dựng
và thực hiện các chính sách rõ ràng về đầu tư tạo nguồn lao động, chính sách hỗ trợ
81
tài chính cho hoạt động XKLĐ, các chính sách đầu tư mở thị trường, hỗ trợ đào tạo
và tín dụng cho người lao động tham gia XKLĐ, bảo hiểm xã hội, khuyến khích
chuyển tiền về nước, chính sách thu hút và khuyến khích sử dụng khả năng lao động
và tài chính của LĐXK thu được từ nước ngoài,... để tạo ra sự đồng bộ về cơ chế
chính sách trong hoạt động XKLĐ.
- Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch XKLĐ phải căn cứ vào khả năng cung
ứng hàng hóa sức lao động trong nước. Đánh giá hiệu quả và triển vọng các chương
trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực khác như: giáo dục đào tạo, đầu tư tạo
việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp,… từ đó xác định nguồn lao động có khả
năng cung cấp được cho các nhu cầu sử dụng ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, cân đối
lượng cung - cầu về hàng hóa sức lao động của nước ta trong hoạt động XKLĐ sang
khu vực Đông Bắc á, tạo sự chủ động, đón đầu trước những thay đổi về nhu cầu
cũng như chính sách tiếp nhận LĐNN của các nước trong khu vực này, tránh tình
trạng các doanh nghiệp XKLĐ ký được hợp đồng cung ứng lao động nhưng không
tìm đủ nguồn lao động cung ứng, hoặc có nhưng không đảm bảo về chất lượng...
3.3.2. Cải cách công tác đào tạo, tuyển dụng nâng cao chất lượng lao
động xuất khẩu
Chỉ thị 41/CT-TƯ ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động
và chuyên gia đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh đào tạo nghề, nhất là về kỹ thuật công nghệ
cao, ngoại ngữ, giáo dục ý thức kỷ luật và pháp luật cho lao động, đào tạo bồi
dưỡng nâng cao chất lượng bộ máy, cán bộ quản lý xuất khẩu lao động và chuyên
gia". Mục tiêu đào tạo nghề cho LĐXK là: đến năm 2010, nâng tỷ lệ LĐXK có
nghề lên tối thiểu 75%, trong đó lao động có trình độ trung cấp nghề trở lên chiếm
tỷ lệ tối thiểu 40%. Từ năm 2015, Việt Nam chủ yếu XKLĐ có nghề, lao động có
trình độ chuyên môn cao và chuyên gia; 100% LĐXK được đào tạo ngoại ngữ, giáo
dục định hướng về pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động, ý
thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc.
82
Để thực hiện được các chủ trương, của Đảng và Nhà nước cũng như mục
tiêu đã đặt ra, đồng thời để giải quyết những hạn chế khó khăn về nguồn LĐXK và
chất lượng LĐXK trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á
như đã phân tích ở chương 2, thì việc đầu tư cho giáo dục hướng nghiệp và đào tạo
dạy nghề cho người lao động là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay. Giải
quyết vấn đề này không những tạo ra được nguồn lao động dồi dào, có chất lượng
phục vụ cho XKLĐ, mà còn hình thành được một lực lượng lao động đủ điều kiện
đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế. Các giải pháp về đào tạo, chuẩn bị nguồn LĐXK sang thị trường
khu vực Đông Bắc á là:
- Nhà nước cần tăng cường đầu tư tài chính hơn nữa cho công tác giáo dục
đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Đưa công tác đào tạo LĐXK vào kế hoạch đào tạo
nghề của từng Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố. Đầu tư xây dựng các trường, trung tâm giáo
dục hướng nghiệp, đào tạo dạy nghề, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, nông thôn,
miền núi. Đầu tư nâng cấp, trang bị các phương tiện kỹ thuật, thiết bị phục vụ việc
đào tạo dạy nghề cho người lao động phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, KHCN
trong nước và quốc tế, phù hợp với nhu cầu sử dụng LĐNN của các nước NKLĐ,
khắc phục tình trạng thiếu các phương tiện kỹ thuật phục vụ giảng dạy, thí nghiệm
thực hành hoặc các phương tiện kỹ thuật lạc hậu không phù hợp với sự tiến bộ của
xã hội.
Nguồn vốn đầu tư được lấy từ ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đào
tạo, từ Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động, vốn viện trợ và
ngân sách từ các chương trình, dự án về việc làm khác. Khuyến khích phát triển các
chương trình hoặc quỹ cộng đồng địa phương để hỗ trợ chi phí học nghề cho người
lao động đi XKLĐ.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo dạy nghề
Tập trung đầu tư, xây dựng các cơ sở chuyên đào tạo LĐXK hoặc thành lập
các bộ phận đào tạo LĐXK chuyên biệt ở các trường, trung tâm dạy nghề hiện nay
83
để phục vụ cho XKLĐ. Các trung tâm, cơ sở này phải trực thuộc sự quản lý và điều
hành của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để có điều kiện phối hợp thực hiện
các nhiệm vụ, chương trình, dự án khác về việc làm, xóa đói giảm nghèo,... đồng thời
cũng thống nhất với các văn bản pháp luật hiện hành. Nguồn vốn đầu tư trích một phần
kinh phí thích đáng từ nguồn thu nhập của người lao động đóng góp cho nhà nước, cho
doanh nghiệp và từ các nguồn vốn khác như ODA, vốn viện trợ của các tổ chức quốc
tế… Hệ thống các cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo LĐXK cần có phương án đầu
tư toàn diện để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn LĐXK phù hợp với nhu cầu sử dụng
LĐNN của các nước trong khu vực Đông Bắc á. Qua đó đảm bảo luôn có đủ nguồn lao
động có tay nghề cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thị trường cũng như đối phó kịp
thời với những thay đổi về chính sách tiếp nhận LĐNN của các NKLĐ ở khu vực.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo,
các Bộ ngành hữu quan xây dựng các chương trình, kế hoạch đào tạo, giáo dục
hướng nghiệp của các cơ sở đào tạo LĐXK để thống nhất về nội dung giảng dạy,
chất lượng đào tạo và số lượng người được đào tạo theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia cũng như nhu cầu LĐNN của các nước NKLĐ khu vực Đông Bắc á.
Xây dựng và ban hành quy chế chặt chẽ về đào tạo, các quy chuẩn về chất lượng đào
tạo đối với các cơ sở đào tạo LĐXK, đồng thời thực hiện kiểm tra thường xuyên chất
lượng đào tạo của các cơ sở này để đảm bảo chất lượng nguồn LĐXK. Việc chuẩn
hóa chương trình giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề theo hướng đảm bảo cho
người lao động có đủ khả năng thích ứng nhanh được với công việc, tiếp cận được
với các tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với yêu cầu ở nước NKLĐ, giúp người lao
động dễ dàng được thừa nhận khi lao động ở nước ngoài, trong đó có các nước ở
khu vực Đông Bắc á.
Nghiên cứu tách chức năng đào tạo ra khỏi hoạt động kinh doanh XKLĐ. Chỉ
duy trì cơ sở đào tạo LĐXK đối với những doanh nghiệp XKLĐ có đủ điều kiện về
tài chính, cơ sở vật chất và nhân lực. Các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp này sẽ do
doanh nghiệp trực tiếp quản lý về cơ sở vật chất, con người nhưng nội dung chương
trình giảng dạy, chất lượng đào tạo nghề và giáo dục hướng nghiệp phải tuân thủ
84
theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Nghiên cứu xem xét bỏ
quy định "phải có cơ sở đào tạo dạy nghề" đối với các doanh nghiệp XKLĐ không
có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính, đặc biệt là giáo viên giảng dạy, nhất ở
đối với các doanh nghiệp không chuyên doanh XKLĐ, tách việc đào tạo khỏi chức
năng của các doanh nghiệp này để họ tập trung vào chức năng kinh doanh XKLĐ
thuần túy như tìm kiếm đối tác, nghiên cứu và mở rộng thị trường, quản lý người
lao động… Quy định các doanh nghiệp XKLĐ này phải liên kết với chính quyền
các địa phương, các cơ sở chuyên đào tạo LĐXK để tuyển chọn, đào tạo LĐXK cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời phải có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí
cho cho chính quyền các địa phương và các cơ sở đào tạo đó.
- Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và
đào tạo nghề cho người lao động đi XKLĐ.
Hệ thống giáo dục kỹ thuật dạy nghề cần đẩy mạnh đào tạo nghề chủ lực như
xây dựng, cơ khí, điện tử, may, dệt, nông nghiệp, y tế, thuyền viên, thủy thủ, chế
biến hải sản,… để đáp ứng những nhu cầu lao động hiện nay của các nước NKLĐ.
Trang bị cho LĐXK những kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, phong tục tập quán,
hệ thống luật pháp của nước sở tại và các thông lệ quốc tế; giáo dục tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động, rèn luyện ý thức bảo hộ, an toàn lao động… nhằm nâng
cao chất lượng nguồn LĐXK, đáp ứng nhu cầu tuyển dụng ở Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo dục hướng nghiệp cho LĐXK theo
hướng: tăng thời lượng học ngoại ngữ, tìm hiểu về pháp luật, phong tục tập quán ở
nước NKLĐ, tăng thời gian thực hành, kể cả đi thực tế ở các cơ sở, doanh nghiệp
đang hoạt động trên cơ sở từng ngành nghề cụ thể, theo từng thị trường. Đặc biệt
chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức của người LĐXK về ý nghĩa, vai trò của hoạt
động XKLĐ và trách nhiệm của họ đối với quê hương, đất nước, gia đình và doanh
nghiệp. Đào tạo đội ngũ cán bộ nắm vững chuyên môn, chính sách của Nhà nước trong
lĩnh vực XKLĐ, am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế để đảm nhiệm công tác đào tạo
85
LĐXK, đảm bảo cho người LĐXK có đủ khả năng để làm việc ở nước ngoài và tự bảo
vệ mình. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài không những để phát triển thị trường
XKLĐ mà còn để nâng cao uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động
khu vực và quốc tế.
Nâng cao trình độ văn hóa cho lực lượng lao động, phổ cập giáo dục phổ
thông cơ sở và phổ thông trung học đối với người lao động, nhất là lao động ở
những vùng có điều kiện khó khăn nhằm, tạo thuận lợi cho người lao động tiếp thu
các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật, các kiến thức xã hội và ngoại ngữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có biện pháp phổ cập và nâng cao chất lượng đào tạo
ngoại ngữ cho học sinh phổ thông, tạo nền tảng thuận lợi cho việc nâng cao khả
năng ngoại ngữ của LĐXK.
- Thực hiện đào tạo nghề dài hạn và đào tạo bổ túc ngắn hạn cho lực lượng
lao động tham gia XKLĐ.
+ Đào tạo nghề dài hạn là giải pháp mang tầm chiến lược để tăng chất
lượng LĐXK, là nội dung rất quan trọng, có tính chất quyết định để giữ vững và
phát triển thị trường XKLĐ. Mục tiêu của đào tạo nghề dài hạn nhằm xây dựng một
lực lượng LĐXK làm việc có năng suất cao, có ý thức kỷ luật, hiểu biết về lịch sử,
văn hóa phong tục tập quán của nước sở tại, có khả năng thích ứng nhanh với sự
thay đổi của nhu cầu sử dụng lao động trên thế giới, đặc biệt người lao động có đủ
trình độ để có thể tiếp thu và ứng dụng nhanh chóng công nghệ và phương tiện kỹ
thuật mới. Trong đào tạo nghề dài hạn, chú trọng đào tạo trình độ lành nghề và trình
độ cao cho người lao động để tăng nguồn nhân lực kỹ thuật; trang bị các kiến thức
và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu để người lao động có khả năng đảm
nhận những công việc phức tạp; trang bị các kỹ năng nghề thành thạo và kiến thức
chuyên môn cần thiết dựa trên nền học vấn trung học phổ thông hoặc trung học
chuyên nghiệp của người lao động để họ có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại
và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự
86
động, công nghệ hiện đại. Tiến hành giảng dạy xen ghép ngoại ngữ và các kiến thức
xã hội cần thiết khác cho người lao động.
+ Đào tạo bổ túc ngắn hạn áp dụng đối với người lao động đã qua đào tạo
nghề, được tuyển dụng từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội. Đây
là quá trình bổ túc nghề, đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng với các nội dung
như pháp luật, lịch sử văn hóa, phong tục tập quán và điều kiện làm việc của nước
NKLĐ.
Hợp tác quốc tế về đào tạo lao động xuất khẩu. Trên cơ sở yêu cầu về số
lượng, cơ cấu lao động và trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật của chủ sử dụng
lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, các cơ quan chức năng Việt Nam,
chính quyền các địa phương cũng như các doanh nghiệp XKLĐ nghiên cứu xây
dựng các phương án liên kết, phối hợp với tổ chức, cơ quan hữu quan của các nước
này trong công tác đào tạo và tuyển dụng LĐXK của Việt Nam như cung cấp tài
liệu, giáo trình giảng dạy, cử các giáo viên sang Việt Nam đào tạo ngoại ngữ và
phong tục tập quán của nước sở tại và tiến hành kiểm tra tay nghề, tuyển chọn lao
động đi làm việc ở các nước này. Đặc biệt là phối hợp đào tạo LĐXK để đáp ứng
nhu cầu lao động ở các ngành công nghệ mũi nhọn, các ngành cần lao động kỹ thuật
chất lượng cao.
- Đổi mới công tác tuyển chọn lao động xuất khẩu.
Đẩy mạnh việc tuyển chọn LĐXK trên cơ sở gắn kết trách nhiệm của doanh
nghiệp XKLĐ với các đơn vị sản xuất kinh doanh (đối với lao động đang làm việc)
và với chính quyền các địa phương, gia đình LĐXK (đối với lao động tự do). Một
mặt, nhằm tạo ra được chuyển động về nhận thức của các ngành, các cấp, các đoàn
thể chính trị cũng như người lao động ở các địa phương trong việc đẩy mạnh hoạt
động XKLĐ, tạo ra sự xã hội hóa hoạt động XKLĐ; mặt khác, để tăng cường vai trò
và trách nhiệm của các tổ chức chính trị, chính quyền các cấp cơ sở đối với việc
tuyển chọn và nâng cao chất lượng nguồn LĐXK. Việc tuyển chọn LĐXK phải
được tiến hành kỹ lưỡng, người trúng tuyển phải đúng với nhu cầu công việc của
87
người sử dụng ở nước ngoài, đúng với nguyện vọng của bản thân người lao động,
trình độ người lao động phù hợp với công việc và mức lương phải tương xứng với
công việc.
Tuyển dụng lại những người lao động đã đi XKLĐ nếu được phía sử dụng
nước ngoài tiếp nhận để giảm chi phí đào tạo đi XKLĐ và phát huy được khả năng
lao động của đội ngũ này, tăng giá trị XKLĐ. Triển khai thực hiện phương án cho
phép học sinh các trường nghề, sinh viên các trường đại học, cao đẳng được tham
gia XKLĐ bằng cách cho phép họ bảo lưu kết quả học tập và tiếp tục học lại khi
hoàn thành hợp đồng XKLĐ. Thực hiện các biện pháp khuyến khích sinh viên tốt
nghiệp các trường đại học cao đẳng đi XKLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu lao động chất
lượng cao của nước ngoài, như hỗ trợ tiền đặt cọc, chi phí học nghề bằng cách cho
vay với lãi suất thấp, tạm ứng trước và trả dần bằng lương khi làm việc ở nước
ngoài...
3.3.3. Chú trọng hơn công tác thị trường xuất khẩu lao động khu vực
Đông Bắc á
Một vấn đề quan trọng trong hoạt động XKLĐ là phải nghiên cứu, phân
tích, dự báo diễn biến thị trường XKLĐ để xác định rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN
của các nước NKLĐ như về số lượng, chủng loại, lĩnh vực ngành nghề, chất lượng
lao động... Trên cơ sở đó, xây dựng các kế hoạch XKLĐ cho phù hợp với khả năng
cung ứng lao động ở trong nước, mở rộng và phát triển thị trường XKLĐ. Việc
nghiên cứu, đánh giá dự báo thị trường XKLĐ còn giúp các doanh nghiệp tìm hiểu
được khả năng của đối tác, tình trạng hoạt động của các chủ sử dụng lao động nhằm
hạn chế các khả năng rủi ro, tiêu cực phát sinh từ phía người sử dụng lao động, bảo
vệ LĐXK và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động XKLĐ.
Đông Bắc á là một khu vực có nhu cầu LĐNN lớn nhưng khu vực này cũng
tồn tại những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới việc tuyển dụng
LĐNN của các chủ sử dụng lao động, làm phát sinh các rủi ro trong hoạt động
XKLĐ. Chính vì vậy, công tác nghiên cứu, đánh giá và dự báo về thị trường XKLĐ
88
của các nước trong khu vực Đông Bắc á là rất cần thiết. Các giải pháp cần chú trọng
đối với công tác này là:
- Nhà nước đầu tư về tài chính và nhân lực cho các bộ phận, ban quản lý lao
động Việt Nam trực thuộc các cơ quan đại diện ngoại giao tại Nhật Bản, Hàn Quốc
và Đài Loan để quản lý, hỗ trợ và bảo vệ LĐXK; giải quyết kịp thời các vấn đề phát
sinh liên quan đến LĐXK Việt Nam ở nước sở tại; tiến hành thu thập thông tin,
nghiên cứu thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm đối tác, thẩm định các hợp
đồng, phát triển thị trường XKLĐ; tham mưu cho Nhà nước trong việc ký kết các
hiệp định, thỏa thuận hợp tác lao động ở các lĩnh vực mà Việt Nam có khả năng cung
ứng lao động với chính quyền nước sở tại, mở đường cho các doanh nghiệp XKLĐ
Việt Nam ký kết và thực hiện các hợp đồng cung ứng lao động cụ thể với người sử
dụng lao động ở các nước này.
- Các doanh nghiệp XKLĐ tăng cường đầu tư tài chính và nhân lực để lập
các đại diện của doanh nghiệp ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan để quản lý lao
động và làm công tác thị trường XKLĐ. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm đại diện có đủ
phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, nhất là về ngoại ngữ và luật pháp nước sở tại
và quốc tế để phối hợp với cơ quan đại diện ngoại của Việt Nam ở các nước này để
quản lý và giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của LĐXK Việt Nam.
- Các doanh nghiệp XKLĐ trực tiếp cử cán bộ có đủ năng lực đi điều tra,
khảo sát về điều kiện lao động, mức lương thực tế, phí môi giới, kiểm tra tư cách
pháp nhân, năng lực tài chính, uy tín… của người tuyển dụng lao động ở Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan; đồng thời, kiểm tra chặt chẽ và thẩm định kỹ các điều
khoản cơ bản như tiền lương, điều kiện và môi trường làm việc khi ký hợp đồng
cung ứng lao động cho phía nước ngoài.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ cùng các doanh nghiệp XKLĐ hợp tác
với các cơ quan nghiên cứu kinh tế - xã hội trong nước và nước ngoài để đánh giá,
dự báo về những yếu tố có tác động làm thay đổi xu hướng và chính sách sử dụng
LĐNN ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trên cơ sở đó, xây dựng các kế hoạch
89
XKLĐ phù hợp với tình hình thực tế ở từng nước; hạn chế việc tập trung toàn bộ
nguồn lực vào quan hệ với một vài đối tác để tránh những thiệt hại rủi ro trong hoạt
động XKLĐ khi có sự biến động về thị trường, tình hình chính trị, sự thay đổi chính
sách của chính phủ ở các nước sở tại. Tranh thủ quan hệ với đại sứ quán các nước,
các tổ chức phi chính phủ, các văn phòng đại diện và các công ty nước ngoài tại
Việt Nam để tác động phía nước ngoài tăng số lượng LĐXK cho Việt Nam, khai
thác, mở rộng thị trường XKLĐ.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ phối hợp với các cơ quan ngoại giao,
thương mại, các bộ chuyên ngành cũng như các doanh nghiệp XKLĐ tổ chức các
diễn đàn, hội thảo ở trong và ngoài nước về tiềm năng của lao động Việt Nam, về
hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nhu cầu LĐNN của các
chủ sử dụng ở các nước NKLĐ, tạo điều kiện cho việc tìm kiếm đối tác và ký kết
hợp đồng XKLĐ. Bên cạnh đó, tăng cường tổ chức các đoàn công tác liên ngành để
khảo sát thị trường và kiểm tra thực tiễn LĐXK Việt Nam ở nước ngoài.
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ xây dựng phương án và chỉ đạo các
doanh nghiệp XKLĐ nghiên cứu đàm phán với các đối tác nước ngoài để giảm các
chi phí môi giới XKLĐ đến mức thấp nhất; từng bước giảm bớt việc ký kết hợp
đồng XKLĐ qua các công ty môi giới nước ngoài, tiến tới ký hợp đồng XKLĐ trực
tiếp với người sử dụng lao động theo luật pháp của nước sở tại nhằm giảm các chi
phí đi XKLĐ cho lao động Việt Nam.
- Đàm phán với các cơ quan chức năng nước NKLĐ về việc quy định mức
tiền lương tối thiểu cho LĐXK Việt Nam. Trên cơ sở đó, căn cứ vào trình độ
chuyên môn, tay nghề của từng loại lao động, xác định các mức lương khác nhau
đối với LĐXK của Việt Nam để đảm bảo quyền lợi chính đang của LĐXK Việt
Nam, giảm sự chênh lệch về tiền lương giữa LĐXK Việt Nam với LĐXK các nước
khác và lao động bản địa.
3.3.4. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu
lao động
90
Thực tế hoạt động XKLĐ đòi hỏi phải thực hiện chặt chẽ công tác quản lý
nhà nước đối với các mặt có liên quan đến hoạt động này. Sau đây là những mặt chủ
yếu cần tăng cường vai trò quản lý về mặt nhà nước:
- Thực hiện cải cách và sắp xếp lại các doanh nghiệp XKLĐ theo tinh thần
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước, phù hợp với các văn bản pháp luật về XKLĐ hiện hành và trên cơ sở hiệu quả
hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động kinh doanh
XKLĐ.
Tiến hành sắp xếp lại, giải thể các doanh nghiệp nhà nước chuyên doanh
XKLĐ hoạt động không có hiệu quả, vi phạm pháp luật về XKLĐ, kinh doanh
không lành mạnh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người LĐXK và lợi ích của
quốc gia. Thiết lập các điều kiện và quy trình thẩm định việc cấp phép kinh doanh
XKLĐ mới theo hướng vừa chặt chẽ, thống nhất trong cả nước và đối với các thành
phần kinh tế, đồng thời vừa tạo điều kiện thuận lợi tối đa, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia hoạt động XKLĐ. Nhà nước chỉ nên giữ lại các doanh nghiệp
XKLĐ hoạt động có hiệu quả, có đủ tiềm lực về vốn, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ
có khả năng quản lý, khai thác mở rộng thị trường, có đủ tiềm lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh trong hoạt động XKLĐ ở khu vực Đông Bắc á và các khu vực
khác.
Nhà nước đã có chủ trương phát triển 20 doanh nghiệp XKLĐ mạnh để
đảm nhận việc cung ứng nhân lực và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế,
nhưng thiết nghĩ trong số đó cần có doanh nghiệp XKLĐ của các thành phần kinh tế
khác để tạo động lực cạnh tranh và một môi trường kinh doanh bình đẳng, phát huy
được các lợi thế và tiềm năng của các thành phần kinh tế trong xã hội đối với công
tác XKLĐ của Việt Nam nói chung và sang khu vực Đông Bắc á nói riêng. Các
doanh nghiệp này cần được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, tiến tới xây
dựng, hình thành các tập đoàn cung ứng nhân lực Việt Nam có khả năng đảm nhận
được toàn bộ các quy trình XKLĐ, từ tuyển chọn, đào tạo nguồn LĐXK đến quản
91
lý lao động ở nước ngoài, giải quyết vấn đề liên quan đến tài chính và việc làm cho
người lao động khi về nước.
- Chính phủ ban hành, bổ sung các chính sách, biện pháp khuyến khích các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia hơn nữa vào hoạt động
XKLĐ, như: thực hiện ưu đãi thuế đầu tư thúc đẩy XKLĐ, miễn thuế cho các doanh
nghiệp XKLĐ trong các năm đầu mới thành lập và giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp trong một số năm tiếp theo, hỗ trợ các doanh nghiệp XKLĐ mới thành lập
tiếp cận thông tin về thị trường, đối tác...
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ thường xuyên kiểm tra giám sát các
doanh nghiệp XKLĐ trong việc ký kết và thực hiện các điều khoản trong hợp đồng
cung ứng lao động cho các đối tác nước ngoài để đảm bảo đúng các quy định của
pháp luật và thỏa thuận hợp tác lao động của nước ta với các nước NKLĐ. Kiểm
tra, giám sát các hoạt động môi giới, tuyển dụng đưa người ra nước ngoài làm việc
của các đơn vị XKLĐ nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro trong hoạt động XKLĐ,
tránh các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, nhất là trong hoạt động thu phí môi
giới, tuyển dụng, đào tạo LĐXK,...
- Hiệp hội XKLĐ Việt Nam phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm trong
hoạt động để tạo ra sự bình đẳng, thống nhất và ổn định trong hoạt động của các
doanh nghiệp XKLĐ; chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gian lận
trong hoạt động XKLĐ như giảm giá LĐXK, tăng phí môi giới để dành đối tác, thu
phí đi XKLĐ sai quy định,...
- Cơ quan quản lý hoạt động XKLĐ định kỳ đánh giá, tổng kết về công tác
XKLĐ, các mô hình XKLĐ hiệu quả để rút kinh nghiệm, đưa ra các biện pháp quản
lý, điều tiết phù hợp với những biến động của tình hình thực tế, tạo sự thống nhất
cho các doanh nghiệp về cơ chế hoạt động và sự thuận lợi trong quá trình giải quyết
các tiêu cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ.
- Thực hiện phân cấp, phân công rõ ràng và thống nhất, quy trách nhiệm cụ
thể đối với các cơ quan chức năng, doanh nghiệp XKLĐ trong việc quản lý, giám
92
sát người lao động đang lao động, tu nghiệp ở nước ngoài. Các doanh nghiệp
XKLĐ có trách nhiệm quản lý lao động do doanh nghiệp đưa sang Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan làm việc, như: về số lượng, địa điểm lao động, điều kiện làm
việc và sinh hoạt và thực hiện các nghĩa vụ khác theo pháp luật hiện hành. Phối hợp
chặt chẽ với phía sử dụng lao động và người lao động thực hiện đầy đủ và đúng các
điều khoản trong các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp với phía tiếp nhận,
giữa người lao động với chủ sử dụng lao động để đảm bảo quyền lợi của các bên
tham gia. Cơ quan chức năng và đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài có
trách nhiệm bảo vệ người lao động theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại
và theo các công ước quốc tế, đồng thời phải có biện pháp để luôn theo sát quyền
lợi và nghĩa vụ của người lao động ngay cả khi họ đã thuộc quyền quản lý của
người sử dụng nước ngoài; hỗ trợ việc tìm kiếm đối tác, xúc tiến mở rộng thị trường
XKLĐ, tác động phía nước ngoài tăng chỉ tiêu LĐXK cho Việt Nam.
- Tăng cường công tác hỗ trợ, bảo vệ LĐXK ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan. Thiết lập các văn phòng quản lý lao động ở các khu vực có đông lao động
Việt Nam làm việc sinh sống để giám sát, giải quyết kịp thời các vướng mắc và
tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi của LĐXK, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và
tạo niềm tin cho họ. Đối với những khu vực có ít lao động Việt Nam làm việc và
sinh sống, đàm phán và phối hợp với phía nước ngoài, nhất là các cơ sở tuyển dụng,
tổ chức định kỳ các buổi gặp mặt, trao đổi thông tin để nắm tình hình về LĐXK
Việt Nam; thiết lập đường dây trao đổi thông tin giữa bộ phận quản lý lao động với
người sử dụng LĐXK Việt Nam để cùng giải quyết các vướng mắc, tranh chấp phát
sinh liên quan đến quyền lợi của LĐXK Việt Nam.
- Hỗ trợ về tài chính, giảm các thủ tục xuất nhập cảnh,... cho các doanh
nghiệp XKLĐ cử đại diện sang nước NKLĐ, nhất là tại các khu vực có đông lao
động Việt Nam do doanh nghiệp đưa đi. Trên cơ sở pháp luật của nước sở tại, thành
lập các tổ, hội, cơ sở Đảng, Đoàn để người lao động tham gia sinh hoạt. Thông qua
đó, một mặt nắm được tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề vướng mắc trong sinh
hoạt, quan hệ chủ thợ của người lao động để có biện pháp xử lý phù hợp và kịp
93
thời; mặt khác đây là biện pháp để theo dõi, quản lý, giám sát người lao động ở
nước sở tại.
3.3.5. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu
lao động
Công bố công khai, rõ ràng các thông tin về hoạt động XKLĐ là biện pháp
hạn chế các rủi ro phát sinh trong hoạt động XKLĐ. Người lao động trên cơ sở các
thông tin có sẵn sẽ xác định mục tiêu, định hướng đúng đắn khi tham gia XKLĐ,
hạn chế được hiện tượng lừa đảo, bỏ trốn,... Chỉ khi người lao động định hướng
được nghề nghiệp, tự chuẩn bị cho bản thân các kiến thức, tay nghề tối thiểu và tự
bản thân tự nguyện tham gia, chấp nhận những điều kiện làm việc mới thì họ mới
có ý thức, trách nhiệm với công việc, có ý thức bảo vệ quyền lợi của chính mình
cũng như lợi ích của cộng đồng, đất nước trong hoạt động XKLĐ. Vì thế hoạt động
thông tin, tuyên truyền không chỉ góp phần nâng cao nhận thức của người lao động
về hoạt động XKLĐ mà còn góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh
XKLĐ cũng như đảm bảo cho hoạt động XKLĐ ổn định và bền vững. Các giải
pháp thực hiện là:
- Nhà nước và các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ
cần tăng cường đầu tư tài chính và nhân lực để thông tin, tuyên truyền, định hướng
tới mọi gia đình, mọi tổ chức về bản chất của hoạt động XKLĐ trong cơ chế thị
trường, chủ trương chính sách về XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với các
vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, miền núi, những khu vực còn gặp nhiều khó
khăn hạn chế về điều kiện giáo dục, đào tạo và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc.
- Kết hợp tuyên truyền về các gương điển hình tốt, mô hình hiệu quả trong
hoạt động XKLĐ với việc khuyến khích người lao động tham gia phát hiện, tố giác
và ngăn chặn các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong hoạt động XKLĐ, nhất
là hành vi lừa đảo dưới danh nghĩa XKLĐ của các tổ chức, cá nhân không có chức
năng XKLĐ.
94
- Công bố công khai, thường xuyên, đầy đủ trên các phương tiện thông tin
đại chúng về chương trình XKLĐ của nhà nước, các văn bản pháp lý, các quy định,
những thay đổi trong chủ trương chính sách về XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhất là
ở các khu vực có đông lao động tham gia XKLĐ, các vùng sâu, vùng xa, nông thôn,
miền núi. Công bố đầy đủ các thông tin về cơ hội việc làm ở nước ngoài, đối tượng
tuyển dụng, điều kiện làm việc, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, đặc biệt là các thủ tục
đi XKLĐ và các khoản tài chính phải nộp… để người lao động định hướng được
nghề nghiệp tương ứng với khả năng của họ.
- Tuyên truyền, vận động và khuyến khích người lao động sau khi về nước
sử dụng thu nhập từ nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo mở việc làm
cho bản thân và cho những người khác như hỗ trợ cho vay thêm vốn ưu đãi, miễn
giảm thuế đầu tư sản xuất kinh doanh... Xây dựng và công bố đầy đủ về chính sách
định hướng việc làm, các biện pháp hỗ trợ tái hội nhập cộng đồng cho LĐXK sau
khi hết hợp đồng trở về nước.
- Đẩy mạnh việc quảng bá, tuyên truyền ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan về lao động Việt Nam để giúp chủ sử dụng ở các nước này hiểu và nắm rõ về
tiềm năng LĐXK Việt Nam, tạo điều kiện cho việc xúc tiến tìm kiếm đối tác, mở
rộng và phát triển thị trường XKLĐ ở khu vực này.
3.3.6. Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt
động xuất khẩu lao động nói chung và xuất khẩu lao động sang khu vực Đông
Bắc á nói riêng.
Một trong những nguyên nhân hạn chế hoạt động XKLĐ của nước ta trong
thời gian qua là do thiếu một hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ để điều chỉnh hành
vi của các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ, các chế tài xử lý các vi phạm pháp
luật về XKLĐ hiện hành còn nhẹ và thiếu, chưa tạo ra được ý thức kỷ luật, trách
nhiệm đối với các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ. Điều này không chỉ dẫn đến
hiện tượng các doanh nghiệp không thống nhất về cơ chế hoạt động, gặp khó khăn,
lúng túng khi xử lý các vấn đề tiêu cực phát sinh trong hoạt động XKLĐ mà còn tạo
95
kẽ hở, môi trường cho các hoạt động bất hợp pháp tồn tại. Vì vậy, bên cạnh việc
định hướng và gắn kết kế hoạch XKLĐ với các chương trình mục tiêu và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội khác, xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các quy định, văn
bản pháp quy về hoạt động XKLĐ nhằm tạo ra một hệ thống pháp lý thống nhất, tạo
cơ sở cho các chủ thể tham gia mạnh mẽ hơn vào hoạt động này là một trong những
vấn đề quan trọng, đảm bảo sự lành mạnh và ổn định trong hoạt động XKLĐ của
nước ta. Các giải pháp thực hiện là:
- Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật về XKLĐ để thống nhất các chế
tài điều chỉnh hoạt động XKLĐ. Các chế tài trong Luật phải đảm bảo được sự
nghiêm minh của pháp luật, đủ sức mạnh để răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm
pháp luật về hoạt động XKLĐ, nhưng cũng phải bảo đảm được quyền lợi của các
chủ thể tham gia, khuyến khích được doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia hoạt động XKLĐ.
Trong khi chưa ban hành được Luật về XKLĐ, ban hành bổ sung nghị định
hoặc pháp lệnh về XKLĐ trong đó có các chế tài xử lý nghiêm khắc như phạt tiền,
tịch thu tài sản hoặc phạt tù, lao động công ích tại địa phương... đối với các hành vi
vi phạm trong hoạt động XKLĐ, nhất là đối với các hành vi: lợi dụng danh nghĩa
XKLĐ để lừa đảo; tổ chức đưa người trốn ra nước ngoài; tuyển chọn lao động, đào
tạo, thu tiền và đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trái quy định của
pháp luật; lao động Việt Nam ở nước ngoài có hành vi lôi kéo, dụ dỗ người khác bỏ
trốn; giả mạo giấy tờ hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn chứng nhận sai giấy tờ để đi
làm việc ở nước ngoài; lao động Việt Nam vi phạm pháp luật ở nước sở tại làm ảnh
hưởng đến quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước.
- Tăng cường các hoạt động hợp tác và tương trợ tư pháp với Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan để có cơ sở giải quyết vấn đề LĐXK Việt Nam tự ý phá hợp
đồng, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp ở nước sở tại. Phối hợp với các cơ quan chức năng
của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thực hiện các biện pháp đấu tranh ngăn chặn, xử
lý kịp thời và triệt để các hành vi lợi dụng hoạt động XKLĐ của một số cá nhân, tổ
96
chức ở các nước này nhằm thực hiện các mưu đồ chống phá các chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có các hành vi dụ dỗ, lôi kéo người LĐXK Việt
Nam bỏ trốn, vi phạm pháp luật tại nước sở tại,...
- Đàm phán với các nước xuất khẩu nhiều lao động vào thị trường khu vực
Đông Bắc á để thống nhất các đối sách nhằm bảo vệ quyền và quyền lợi của LĐXK.
Nghiên cứu phương án đàm phán với các nước trong khu vực ASEAN thành lập
Hiệp hội XKLĐ khu vực để tăng cường vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực XKLĐ
và hạn chế được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước XKLĐ khác,
đảm bảo được lợi ích quốc gia trong hoạt động XKLĐ vào thị trường khu vực Đông
Bắc á.
97
Kết Luận
XKLĐ là một bộ phận của chương trình mục tiêu giải quyết việc làm - một
trong những chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của quốc gia. Đây là hoạt
động mang tính chất kinh tế - xã hội sâu sắc thông qua việc phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó, là một bộ phận của hoạt
động kinh tế đối ngoại, hoạt động XKLĐ góp phần củng cố và thắt chặt mối quan
hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước tiếp nhận lao động. Đây cũng là một
hoạt động mang tính chất đặc thù và nhạy cảm.
Vận dụng lý luận của C. Mác về hàng hóa sức lao động, luận văn đã phân
tích được bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ; phân tích và
đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á, cụ
thể là sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn 1992 - 2004. Kết quả
của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á đã góp phần đáng kể
vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như giải quyết việc làm,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống người lao động, tạo nguồn thu cho quốc gia,...
Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động XKLĐ thời gian qua do cả chủ quan và
khách quan, cả Việt Nam và các nước NKLĐ. Trong đó nguyên nhân chủ yếu là
còn thiếu một chiến lược tổng thể về XKLĐ, bao gồm từ khâu tạo nguồn LĐXK
đến quản lý lao động ở nước ngoài và giải quyết những vấn đề sau khi LĐXK về
nước.
Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực
Đông Bắc á được dựa trên những phân tích về nguyên nhân của những hạn chế, khó
khăn trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
trong hơn 10 năm qua. Quan trọng và có tính quyết định là phải xây dựng một kế
hoạch XKLĐ phù hợp với chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta, gắn liền với giải pháp về đào tạo nguồn LĐXK theo hướng: đa dạng về
98
ngành nghề, tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông thạo ngoại
ngữ, có tác phong công nghiệp và am hiểu về luật pháp của nước sở tại. Bên cạnh
đó, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp hỗ trợ khác liên quan đến toàn bộ quy
trình hoạt động XKLĐ sang khu vực Đông Bắc á như về công tác thị trường, quản
lý lao động, thông tin, tuyên truyền, xây dựng chính sách pháp luật... Hơn nữa,
trong quá trình thực hiện cần phải có sự phối hợp tích cực của tất cả các bên tham
gia, trong đó sự nhận thức đúng đắn và tham gia một cách tích cực của người lao
động vào hoạt động XKLĐ có vai trò quan trọng, quyết định đối với hiệu quả cũng
như đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững của hoạt động này.
Khu vực Đông Bắc á với các thị trường XKLĐ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan vẫn là thị trường quan trọng, chủ yếu của Việt Nam trong định hướng phát
triển hoạt động XKLĐ trong những năm tới. Ngoài những yếu tố tích cực từ phía
các nước tiếp nhận LĐXK của Việt Nam ở khu vực Đông Bắc á, để đảm bảo được
mục tiêu đặt ra các cơ quan chức năng và doanh nghiệp XKLĐ cần phải phối hợp
thực hiện các giải pháp căn bản nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn đang tồn
tại, đồng thời tranh thủ và tận dụng những thay đổi có tính chất cơ hội để đẩy mạnh
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này. Các giải pháp đưa ra trong luận
văn có tính chất tham khảo cho các chủ thể tham gia hoạt động XKLĐ nói chung và
hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nói riêng
với mong muốn được các chủ thể này vận dụng vào thực tế nhằm góp phần đẩy
mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường XKLĐ khu vực Đông Bắc á
trong thời gian tới.
99
những công trình liên quan đến luận văn
đã được công bố
1. Lưu Văn Hưng (2004), "Giải pháp hạn chế rủi ro trong xuất khẩu lao động hiện
nay", Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (8), tr. 1018-1020.
2. Lưu Văn Hưng (2004), "Xuất khẩu lao động - một hướng đi góp phần giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn", Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, (10), tr. 1319-1322.
3. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số biện pháp nâng cao chất lượng lao động xuất
khẩu Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á", Kinh tế và phát
triển, (98), tr. 41-44.
4. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số vấn đề trong chính sách tuyển dụng lao động
nước ngoài của Nhật Bản, Hàn Quốc thời gian gần đây", Những vấn đề
kinh tế thế giới, 7(111), tr. 48-60.
5. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của
Việt Nam sang Hàn Quốc", Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (16), tr.
13-15.
6. Lưu Văn Hưng (2005), "Một số vấn đề trong chính sách tuyển dụng lao động
nước ngoài của Nhật Bản hiện nay", Kinh tế châu á - Thái Bình Dương,
33(77), tr. 23-25.
7. Lưu Văn Hưng (2005), "Di chuyển lao động tạm thời trong điều kiện tự do hóa
thương mại đối với các nước đang phát triển", Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, (10), tr. 76-79.
100
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
1. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân (2003), Một số vấn đề về
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội.
2. Ban Chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung ương (2004), Báo cáo kết quả
điều tra lao động - việc làm, ngày 01/7, Hà Nội.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo về tình hình xuất khẩu lao
động và chuyên gia 2001-2003 và phương hướng đến năm 2005, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo tổng kết và triển khai
Nghị định 81/2003/NĐ-CP của Chính phủ về xuất khẩu lao động và chuyên
gia, Hà Nội.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo tình hình và biện pháp tăng
cường quản lý tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản, Hà Nội.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thông tư hướng dẫn số
22/2003/TT-BLĐTB&XH ngày 13/10 về thực hiện một số điều của Nghị
định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động về người lao động Việt Nam
làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Đánh giá thực trạng và các giải pháp
đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực lao động - thương binh và xã
hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hà Nội.
8. Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thông tư liên
tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTB&XH ngày 07/11 hướng dẫn thực
hiện chế độ tài chính đối với người lao động và doanh nghiệp đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo
101
quy định tại Nghị định 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ,
Hà Nội.
9. Chính phủ (1999), Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9 của Chính phủ quy
định về việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài, Hà Nội.
10. Chính phủ (2003), Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về người lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
11. "Cơn lốc y tá ngoại đến Anh" (2004), Việc làm ngoài nước, (3), tr.12.
12. Cục Quản lý lao động ngoài nước - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(2005), Thông báo về tình hình hoạt động xuất khẩu lao động 2004 và
phương hướng nhiệm vụ 2005, Hà Nội.
13. Nguyễn Duy Dũng (2004), "Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở Nhật Bản
những năm gần đây", Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, 5(53), tr. 3-
10.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 41-CT/TƯ ngày 22/9 của Bộ Chính
trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đào Công Hải (2004), "Một số nét mới về thị trường lao động Hàn Quốc và
triển vọng đối với lao động Việt Nam", Lao động và xã hội, 242, tr. 5-7,
15.
102
19. Trần Văn Hằng (1995), Các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu
lao động ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 - 2010, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Viện Kinh tế học - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà
Nội.
20. Trần Văn Hằng (2002), "Đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ thuật
cho công tác xuất khẩu lao động", Việc làm ngoài nước, (2), tr.3-6.
21. Dương Phú Hiệp - Vũ Văn Hà (2004), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
trong bối cảnh quốc tế mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 370/HĐBT ngày 9/11 của Hội đồng
Bộ trường ban hành quy chế về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài, Hà Nội.
23. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), "Tác động của di cư quốc tế và an ninh kinh tế
quốc gia", Những vấn đề kinh tế thế giới, 2(94), tr. 3-10.
24. Nguyễn Liên Hương (2002), "Bước đầu tìm hiểu về lĩnh vực hợp tác lao động
giữa Việt Nam và Đài Loan", Nghiên cứu Trung Quốc, 6(46), tr. 57-64.
25. Nguyễn Phúc Khanh (2004), Xuất khẩu sức lao động với Chương trình quốc gia
vè việc làm - Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
26. Phạm Thị Khanh (2004), "Phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế", Website Đảng Cộng sản
Việt Nam ngày 02/5/2005.
27. Trần Thúy Lâm, Trần Minh Tiến (2004), Hướng dẫn các điều của Bộ luật lao
động, Nxb Lao động, Hà Nội.
28. Trần Đức Lân (2002), "Sớm đổi mới và tăng cường các biện pháp quản lý công
tác đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu", Việc làm ngoài
nước, (4), tr. 23-25.
103
29. "Lao động Việt Nam đang mất dần thế cạnh tranh" (2005), Thời báo kinh tế Việt
Nam, http://www.vneconomy.com.vn, ngày 02/6.
30. Nguyễn Gia Liêm (2002), "Xuất khẩu lao động của Trung Quốc", Việc làm
ngoài nước, (3), tr. 24, 26.
31. Nguyễn Thị Phương Linh (2003), "Tạo nguồn lao động xuất khẩu trên cơ sở nâng
cao chất lượng đào tạo nghề", Việc làm ngoài nước, (6), tr. 17-20.
32. Hoàng Vĩnh Long (2004), Kinh tế quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
33. Đặng Như Lợi (2003), "Thực trạng công tác xuất khẩu lao động và những kiến
nghị", Việc làm ngoài nước, (5), tr. 3-7, 11.
34. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật - Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
35. Nakorn Silpa-Archa (2003), "Lao động Thái Lan ở nước ngoài", Việc làm ngoài
nước, (4), tr. 21-22, 24.
36. Ngân hàng Thế giới (2004), Di chuyển con người để cung cấp dịch vụ, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
37. Nguyễn Bá Ngọc - Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hóa: cơ hội và thách thức đối
với lao động Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
38. Trịnh Thị Kim Ngọc (2003), Một số vấn đề trong giao lưu văn hóa Việt Nam -
Hàn Quốc, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện, Viện Nghiên cứu con
người - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
39. Trịnh Thị Kim Ngọc (2004), "Lao động phổ thông Việt Nam tại các doanh
nghiệp Hàn Quốc", Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, 4(52),
tr. 65-74.
40. "Quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài: cần những chế tài đủ mạnh" (2005),
Thời báo kinh tế Việt Nam, http://www.vneconomy.com.vn, ngày 01/8.
104
41. Nguyễn Vinh Quang (2003), "Nhiệm vụ, mục tiêu và những giải pháp cho hoạt
động xuất khẩu lao động đến năm 2005", Việc làm ngoài nước, (6), tr.2-7.
42. Cao Văn Sâm (2004), "Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động", Việc
làm ngoài nước, (4), tr. 14-15.
43. Vũ Thu Thủy (2002), "Lao động nước ngoài có tay nghề và chính sách nhập lao
động nước ngoài ở Đài Loan", Việc làm ngoài nước, (6), tr. 23-24.
44. Nguyễn Văn Tiến (2002), Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu lao
động - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Nguyễn Lương Trào (1993), Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
46. Nguyễn Lương Trào (2004), "Xuất khẩu lao động và chuyên gia, kinh nghiệm
bước đầu, mục tiêu và giải pháp tới", Lao động và xã hội, (230+231+232),
tr. 8-9, 15-16.
47. Phạm Công Trứ (2003), "Một số vấn đề xung quanh thuật ngữ xuất khẩu lao
động", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 53-60.
48. "Vai trò của xuất khẩu lao động Philippine" (2002), Báo Quốc tế điện tử,
16(483), http://www.mofa.org.vn.
49. Viện Nghiên cứu Nhật Bản (2001), Lao động và vấn đề xuất khẩu lao động Việt
Nam sang Nhật Bản - thực trạng và những giải pháp, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Viện, Hà Nội.
50. "Xuất khẩu lao động: động lực quan trọng của nền kinh tế Philippine" (2004),
Việc làm ngoài nước, (4), tr. 18-20.
Tiếng ANH
105
51. Cabinet Office, Government of Japan (2004), Annual Report on the Japanese
Economy and Public Finance 2003 - 2004, http://www5.cao.go.jp.
52. Ames Gross and Rachel Weitraub (2004), 2004 Human Resources Trends in
Japan, http://www.pacificbridge.com.
53. Soo Kyeong Hwang (2005), Korea’s Labor Market: Recent Trends and Outlook
for 2005. Korea Labor Institute, e-Labor News No39, http://www.kli.re.kr.
54. Manolo I. Abella (2004), Labour Migration in East Asian Economies.
International Labour Organization (ILO).
55. Pacific Bridge Inc. (2003), Human Resource Issue in Asia (Presentation),
http://www.pacificbridge.com.
56. Yoo Kil - Sang (2004), "Migrant Workers’ Labor Market in Korea", Korea
Labor Institute, http://www.kli.re.kr.
106
Phụ Lục
Phụ lục 1
Nguồn lao động nước ngoài tại Đài Loan
Đơn vị: người
Năm Thái Lan Indonesia Philippine Việt Nam Tổng số
1998 133.367 22.058 114.255 0 269.680
1999 139.526 41.224 113.928 131 294.809
2000 142.665 77.830 98.161 7.746 326.402
2001 127.732 91.132 72.779 12.916 304.559
2002 111.538 93.212 69.426 29.473 303.649
Tổng 654.828 325.456 468.549 50.266 1.499.099
Nguồn: Điều tra về việc sử dụng và quản lý LĐNN tại Đài Loan - ủy ban lao động Đài
Loan.
Phụ lục 2
Số lượng tu nghiệp sinh nước ngoài vào Nhật Bản thông qua JITCO
Đơn vị: người
1999- 1992- 1999 2000 2001 2002 2003 2003 2003
Trung Quốc 16.314 21.036 26.837 30.253 33.527 127.967 200.189
Indonesia 3.959 4.686 4.155 3.653 3.923 20.376 37.493
Việt Nam 1.432 1.672 1.820 1.953 1.928 8.805 12.929
Philippine 1.627 2.015 2.090 1.860 2.317 9.909 20.337
Thái Lan 1.111 1.114 1.135 1.113 1.196 5.669 14.393
Peru 0 1 6 3 2 12 80
107
Lào 0 4 2 4 9 19 25
Sri Lanka 175 186 269 186 73 889 1.457
ấn Độ 7 145 99 60 17 328 897
Myanmar 35 17 11 5 16 84 254
Mông Cổ 32 123 143 98 86 482 527
Uzbekistan 0 6 0 3 6 15 17
Campuchia 0 4 2 3 13 22 27
Nepal 2 1 3 0 1 7 29
Các nước 937 888 851 530 343 3.549 19.293 khác
Tổng 25.631 31.898 37.423 39.724 43457 178.133 307.947
Nguồn: Japan International Training Cooperation Organization (JITCO)
Phụ lục 3
Lao động nước ngoài ở Hàn Quốc theo tình trạng cư trú
Đơn vị: người, %
Có visa tu nghiệp sinh (TNS) Tổng số Có visa Năm Bất hợp pháp TNS trong các TNS công (100%) lao động công ty ĐTNN nghiệp
1994 81.824 5.265 (6,4) 9.512 (11,6) 18.816 (23,0) 48.231 (58,9)
1995 128.906 8.228 (6,4) 1.5238 (11,8) 23.574 (18,3) 81.866 (63,5)
1996 210.494 13.420 (6,4) 29.724 (14,1) 38.396 (18,2) 129.054 (61,3)
1997 245.399 15.900 (6,5) 32.656 (13,3) 48.795 (19,9) 148.048 (60,3)
1998 157.689 11.143 (7,1) 15.936 (10,1) 31.073 (19,7) 99.537 (63,1)
1999 217.384 12.592 (5,8) 20.017 (9,2) 49.437 (22,7) 135.338 (62,3)
108
2000 285.506 19.063 (6,7) 18.504 (6,5) 58.944 (20,6) 188.995 (66,2)
2001 329.555 27.614 (8,4) 13.505 (4,1) 33.230 (10,1) 255.206 (77,4)
2002 362.597 33.697 (9,2) 14.035 (3,9) 25.626 (7,1) 289.239 (79,8)
200.039 2003 388.816 11.826 (3,0) 38.895 (1,0) 138.056 (35,5) (51,5)
Nguồn: Bộ Tư pháp Hàn Quốc (con số trong ngoặc đơn là tỷ lệ tương ứng).
109
Phụ lục 4
Các nước tham gia Chương trình tu nghiệp sinh (TNS) của Hàn Quốc*
Đơn vị: người, %
Số Chỉ tiêu Tỷ lệ / Tổng số Số TNS, Tỷ lệ TNS, công ty Các nước do KFSB chỉ tiêu lượt TNS đã lao động lao động bỏ tham phân bổ (%) nhập cảnh làm việc trốn (%) gia
Trung 30.790 23,75 44.086 27.456 52,10 9 Quốc
Indonesia 22.480 17,34 44.881 19.022 24,80 8
Việt Nam 18.770 14,48 30.109 17.457 59,25 8
Philippine 13.310 10,27 21.611 11.050 49,80 6
Banglades 6.990 5,39 13.533 8.583 78,60 4 h
Sri Lanka 4.470 3,45 4.898 2.713 51,50 2
Pakistan 4.370 3,37 5.419 3.310 56,10 2
Thái Lan 5.380 4,15 6.658 3.262 29,10 2
Iran 510 0,39 733 186 44,30 1
Myanmar 2.180 1,68 2.268 1.029 72,90 1
Nepal 4.880 3,76 5.059 2.999 30,40 2
Uzbekistan 6.830 5,27 8.819 4.003 27,40 2
Kazastan 4.480 3,46 2.857 1.200 36,90 2
Mongolia 3.200 2,47 983 672 55,90 1
110
Cambodia 1.000 0,77 1 - - -
Tổng 129.640 100,00 51 191914 102.942
* Thông qua Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc; tính đến tháng 10/2003.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số 4(52) 8-2004.
111
Phụ lục 5
Thống kê tổng hợp hồ sơ thẩm định số lượng lao động Việt Nam vào Đài Loan từ
tháng 11/1999 đến tháng 6/2002
Tổng cộng 11-12/1999 01-12/2000 01-12/2001 01-06/2002
Hồ sơ (bộ) 16.533 533 4.737 5.728 5.535
Lao động (người) 37.989 1.572 12.667 12.274 11.476
- Nam 12.443 364 3.846 3.891 4.342
- Nữ 25.546 1.208 8.821 8.383 7.134
HL & GVGĐ* 13.350 553 3.800 4.707 4.310
Điện tử 5.880 315 2.353 2.294 910
Dệt may 4.925 247 1.928 1.373 1.377
Cơ khí 11.863 465 3.943 3.491 3.964
Xây dựng 737 0 484 233 20
Thuyền viên 1.225 12 158 174 881
* Hộ lý và giúp việc gia đình.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6(46)-2002.
Phụ lục 6
Tình hình tu nghiệp sinh, lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
(tính đến tháng 10/2003)
% Tổng số Số TNS, lao Số TNS, lao Tỷ lệ Công ty Chỉ tiêu trong nhập cảnh động đang ở động bỏ TT bỏ trốn phái cử (người) tổng vào HQ Hàn Quốc trốn còn ở (%) chỉ tiêu (người) (người) HQ (người)
112
1 Vinaconex 3.230 17,0 5.927 3.077 1.547 48,50
2 Sovilaco 2.890 15,4 5.077 2.760 1.990 68,70
3 Lod 3.080 16,4 5.608 2.973 1.914 46,30
4 Suleco 2.550 13,6 4.328 2.279 1.407 47,00
5 Tracimexc 1.380 7,4 1.642 1.337 1.078 74,00
o
6 Oleco 2.250 12,0 3.314 2.116 1.409 67,00
7 Tracodi 1.850 9,9 2.810 1.685 1.292 70,00
8 Ims 1.540 8,2 1.403 1.230 645 50,50
Tổng 18.770 100 30.109 17.457 11.282
Nguồn: Tạp chí Việc làm ngoài nước, số 5/2003.
113
Phụ lục 7
Số lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á
và các nước khác (từ 1992 đến 2004)
Đơn vị: người
Năm Tổng số Đài Loan Nhật Hàn Malaysia Nước
1992 810 0 210 0 600 0
1993 3.960 0 3.318 0 478 164
1994 10.150 0 4.781 0 4.987 382
1995 7.187 0 5.270 0 1.631 286
1996 12.959 0 7.826 0 4.087 1.046
1997 18.470 191 4.880 0 11.172 2.227
1998 12.240 1.697 1.500 7 7.140 1.896
1999 21.810 558 4.518 1 14.877 1.856
2000 31.500 8.099 7.316 239 14.349 1.497
2001 36.168 7.782 3.910 23 21.204 3.249
2002 46.122 13.191 1.190 19.965 9.574 2.202
2003 75.000 29.069 4.336 38.227 1.112 2.256
2004 67.447 37.144 4.779 14.567 8.205 2.752
73.029 99.416 Tổng số 343.823 97.731 19.813 53.834
Nguồn: Phòng Quản lý lao động - Cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội.