VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
BÙI THỊ PHƢƠNG HỒNG
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
HÀ NỘI - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
BÙI THỊ PHƢƠNG HỒNG
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 9.31.04.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Trung
2. PGS.TS. Nguyễn Khánh Doanh
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân với sự
giúp đỡ của 02 giảng viên hướng dẫn. Những thông tin, số liệu, dữ liệu trong luận
án được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc. Những số liệu thu thập và tổng hợp
mà nghiên cứu sinh thực hiện đảm bảo tính khách quan, trung thực. Kết quả nghiên
cứu của luận án được nghiên cứu sinh công bố trên các tạp chí không trùng với bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh
Bùi Thị Phƣơng Hồng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ......... 8
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về đổi mới (Innovation) ..................... 8
1.1.1. Các nghiên cứu về quan niệm đổi mới (Innovation) ................................ 8
1.1.2. Nghiên cứu về tầm quan trọng của đổi mới ........................................... 13
1.1.3. Nghiên cứu về nội dung đổi mới ............................................................ 21
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu yếu tố ảnh hƣởng đến đổi mới
trong doanh nghiệp công nghiệp ............................................................................ 23
1.2.1. Cạnh tranh và thông tin thị trường ......................................................... 23
1.2.2. Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật ............................................. 26
1.2.3. Cơ sở hạ tầng .......................................................................................... 29
1.2.4. Liên kết và hợp tác ................................................................................. 30
1.2.5. Nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực .................... 32
1.2.6 Năng lực tài chính doanh nghiệp ............................................................. 35
1.3. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................ 38
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ......................................................................................... 39
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TRONG DOANH NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP ...................................................................................................... 40
2.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................................. 40
2.1.1. Khái niệm về đổi mới (Innovation) trong doanh nghiệp ........................ 40
2.1.2. Khái niệm doanh nghiệp công nghiệp .................................................... 41
2.1.3. Khái niệm hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp ............ 41
2.2. Tầm quan trọng của đổi mới đối với doanh nghiệp công nghiệp ................ 43
2.3. Đặc trƣng đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp .................................... 46
2.4. Nội dung đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp ...................................... 49
2.4.1. Đổi mới sản phẩm .................................................................................. 49
2.4.2. Đổi mới quy trình ................................................................................... 51
2.4.3. Đổi mới tổ chức ...................................................................................... 52
2.4.4. Đổi mới Marketing ................................................................................. 54
2.5. Lý thuyết nền tảng liên quan tới đổi mới ....................................................... 55
2.5.1. Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) ............. 55
2.5.2. Lý thuyết đổi mới của schumpeter ......................................................... 57
2.5.3. Lý thuyết đổi mới nội sinh (Endogenous Innovation Theory) ............... 59
2.5.4. Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers (Rogers‟ Innovation
Diffusion Theory) ............................................................................................. 60
2.5.5. Lý thuyết đổi mới của Roberts và Berry ................................................ 61
2.5.6. Lý thuyết đổi mới của Teece .................................................................. 64
2.6. Đo lƣờng đổi mới trong doanh nghiệp ........................................................... 66
2.6.1. Đo lường đổi mới thông qua đầu vào ..................................................... 66
2.6.2. Đo lường đổi mới thông qua đầu ra ....................................................... 69
2.7. Các yếu tố ảnh hƣởng tới đổi mới của doanh nghiệp ................................... 72
2.7.1. Cạnh tranh và thông tin thị trường ......................................................... 72
2.7.2. Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật ............................................. 72
2.7.3. Cơ sở hạ tầng .......................................................................................... 73
2.7.4. Liên kết và hợp tác ................................................................................. 74
2.7.5. Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực ........................................... 74
2.7.6. Năng lực tài chính của doanh nghiệp ..................................................... 75
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ......................................................................................... 76
Chƣơng 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 77
3.1. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 77
3.2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu ................................................................. 77
3.3. Thiết kế nghiên cứu .......................................................................................... 79
3.4. Phƣơng pháp tiếp cận ...................................................................................... 81
3.5. Phƣơng pháp thu thập số liệu ......................................................................... 81
3.5.1. Thu thập số liệu thứ cấp ......................................................................... 81
3.5.2. Thu thập số liệu sơ cấp ........................................................................... 82
3.6. Phƣơng pháp xử lý, phân tích số liệu ............................................................. 90
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................................... 96
Chƣơng 4: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG
ĐẾN ĐỔI MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN ......................................................................... 97
4.1. Khái quát về đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên ..................................................................................................... 97
4.1.1. Giới thiệu chung về các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên ..................................................................................................... 97
4.1.2. Tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên dựa trên kết quả điều tra .................................................... 101
4.2. Đánh giá thực trạng hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ................................................................ 106
4.2.1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) ...................................................... 106
4.2.2. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) .................................................... 108
4.2.3. Kiển định độ tin cậy của các thang đo (Cronbach‟s Alpha)................. 111
4.2.4. Thực trạng hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ........................................................................ 112
4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 118
4.3.1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) ...................................................... 118
4.3.2. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) .................................................... 120
4.3.3. Kiểm định độ tin cậy của các thang đo (Cronbach‟s Alpha) ............... 123
4.3.4. Đánh giá thực trạng các yếu tố tác động tới hoạt động đổi mới của
doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ............................ 124
4.4. Phân tích mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới của
các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ........................ 134
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 ....................................................................................... 144
Chƣơng 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
ĐỔI MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN................................................................................ 145
5.1. Bối cảnh đổi mới của các doanh nghiệp trong nƣớc ................................... 145
5.1.1 Bối cảnh đổi mới của các quốc gia ........................................................ 145
5.1.2. Bối cảnh đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam .... 146
5.2. Phƣơng hƣớng và mục tiêu của tỉnh Thái Nguyên về đổi mới .................. 148
5.2.1. Về phương hướng ................................................................................. 148
5.2.2. Về mục tiêu........................................................................................... 149
5.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ........................................... 150
5.3.1. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đổi mới trong doanh nghiệp ............ 150
5.3.2. Xây dựng khu công nghệ cao nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng thúc
đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp ......................... 158
5.3.3. Nâng cao năng lực đổi mới của Nhà quản trị ....................................... 162
5.3.4. Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực ............................. 166
5.3.5. Tăng cường hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới .................... 168
5.4. Kiến nghị ......................................................................................................... 174
TIỂU KẾT CHƢƠNG 5 ....................................................................................... 175
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 176
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................................................... 178
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 179
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
CMCN: Cách mạng công nghiệp
ĐM: Đổi mới
NLCTQG: Năng lực cạnh tranh quốc gia
NSLĐ: Năng suất lao động
R&D: Nghiên cứu và phát triển
TFP: Tăng năng suất yếu tố tổng hợp
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.2: Tổng hợp các yếu tố tác động đến đổi mới trong doanh nghiệp .............. 37
Bảng 3.1: Mô tả mẫu nghiên cứu .............................................................................. 84
Bảng 3.2. Thang đo Likert - 5 mức độ ...................................................................... 86
Bảng 3.3. Đề xuất thang đo hoạt động đổi mới ........................................................ 87
Bảng 3.4. Đề xuất thang đo các yếu tố ảnh hướng tới hoạt động đổi mới ................ 88
Bảng 4.1: Số lượng doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016-2020 ......................................................... 98
Bảng 4.2. Phân loại doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên năm 2020 ........................................................................... 99
Bảng 4.3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công
nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Nguyên .................................................. 100
Bảng 4.4: Các thang đo đo lường biến phụ thuộc sau khi phân tích EFA .............. 108
Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả phân tích CFA, độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân
biệt của nhóm biến phụ thuộc ...................................................................... 109
Bảng 4.6: Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Hoạt động đổi mới” ........... 111
Bảng 4.7: Thực trạng đổi mới sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 112
Bảng 4.8: Thực trạng đổi mới quy trình sản xuất tại các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên .......................................................... 113
Bảng 4.9: Thực trạng đổi mới tổ chức tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên ................................................................................... 115
Bảng 4.10: Thực trạng đổi mới Marketing tại các doanh nghiệp công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ...................................................................... 116
Bảng 4.11: Các thang đo đo lường các biến độc lập sau phân tích EFA ................ 119
Bảng 4.12: Tổng hợp kết quả phân tích CFA, độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân
biệt của nhóm biến độc lập ........................................................................... 120
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo của các biến độc lập ......... 123
Bảng 4.14: Thực trạng cạnh tranh và thông tin thị trường ...................................... 124
Bảng 4.15: Thực trạng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật .......................... 125
Bảng 4.16: Thực trạng cơ sở hạ tầng ...................................................................... 128
Bảng 4.17: Thực trạng liên kết và hợp tác .............................................................. 129
Bảng 4.18: Thực trạng nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực ........................ 130
Bảng 4.19: Thực trạng năng lực tài chính ............................................................... 132
Bảng 4.20: Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình SEM (Chưa chuẩn hóa) ................ 135
Bảng 4.21: Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình SEM kiểm soát bởi quy mô
doanh nghiệp (chưa chuẩn hóa) ................................................................... 141
Bảng 4.22: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết.......................................... 143
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào năng suất lao động của APO ............ 16
Hình 2.1: Phát triển bên trong hay tìm kiếm nguồn lực bên ngoài ........................... 62
Hình 2.2.: Ai có được lợi nhuận từ đổi mới .............................................................. 65
Hình 3.1: Khung nghiên cứu ..................................................................................... 78
Hình 3.2: Khung phân tích nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới tại các
DNCN Thái Nguyên....................................................................................... 80
Hình 4.1: Doanh nghiệp thực hiện các nội dung đổi mới ....................................... 101
Hình 4.2: Doanh nghiệp chi cho hoạt động đổi mới ............................................... 103
Hình 4.3: Doanh nghiệp huy động tài chính phục vụ hoạt động đổi mới ............... 104
Hình 4.4: Doanh nghiệp được hưởng chính sách hỗ trợ đổi mới của Nhà nước .... 105
Hình 5.1: Quản lý tiềm năng đổi mới của khu công nghệ cao ................................ 160
Hình 5.2: Sơ đồ mạng liên kết doanh nghiệp trong đổi mới ................................... 170
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới là một quá trình dài hạn, từ việc hình thành ý tưởng đến việc thực
thi ý tưởng và thương mại hóa ý tưởng. Đổi mới mang lại rất nhiều lợi ích cho các
quốc gia. Theo báo cáo của OECD (2008), đổi mới sẽ tác động tích cực đến việc
nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và nâng tầm vị thế cho các quốc
gia. Mỗi quốc gia đều chọn cho mình các con đường phát triển kinh tế khác nhau,
bởi vì mỗi quốc gia đều có lợi thế về tài nguyên, dân số, tài chính, trình độ kỹ thuật
khác nhau…. Phát triển kinh tế trước đây thường dựa vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên, giai đoạn sau đó phát triển kinh tế lại dựa vào nguồn vốn đầu tư và hiện nay
xu hướng mới phát triển kinh tế sẽ dựa vào việc đổi mới (Porter, 2008). Do việc
phát triển kinh tế dựa vào các nguồn lực khan hiếm như: Tài nguyên thiên nhiên,
nguồn lao động, nguồn vốn…sẽ không bền vững, các nguồn lực này có nguy cơ cạn
kiệt bất cứ lúc nào. Để đối phó với các vấn đề này, các quốc gia đã chọn giải pháp
tăng cường hoạt động đổi mới. Thực tế đã chứng minh các quốc gia theo đuổi chiến
lược tăng cường đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học tiến bộ vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, thì sẽ nâng cao được hiệu quả kinh tế và phát triển kinh tế đất nước
thành công.
Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng đó của thế giới, Đảng ta đã nhận
thức thấy tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo trong việc phát triển kinh tế đất
nước, Văn kiện Đại hội XII đã chỉ rõ “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ,
làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng,
an ninh‖. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước, đổi mới sáng tạo nước
ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việt Nam đã chủ động trong hội nhập kinh
tế, tận dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước, tận dụng các dòng kiến thức lan
tỏa, hấp thụ tri thức và tạo ra những sản phẩm của tri thức và sáng tạo mới. Theo tổ
chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam
tăng qua các năm, cụ thể: Năm 2016 Việt Nam đứng thứ 59/128, năm 2017 là
1
47/127 (tăng 12 bậc), năm 2018 là 45/126 (tăng 2 bậc), năm 2019 lên vị trí 42/129
nước và nền kinh tế (tăng 3 bậc), năm 2020 xếp 42/131 quốc gia. Năm 2021, Việt
Nam xếp thứ 44/132 quốc gia mặc dù có thêm hai nước tham gia xếp hạng chỉ số
đổi mới sáng tạo toàn cầu, trong đó chỉ số đầu vào của Việt Nam tăng 2 bậc và chỉ
số đầu ra của Việt Nam vẫn giữ nguyên.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, nơi cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội
giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Năm 2020, trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên có 807 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế
biến, chế tạo, với vốn sản xuất kinh doanh là 399.965 tỷ đồng và tạo ra công ăn việc
làm cho 150.922 người lao động. Doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo đã
khẳng định sự đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
Thái Nguyên. Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên đã giúp cho sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, giúp xóa đói
giảm nghèo….cho người dân trong địa bàn tỉnh và các khu vực lân cận.
Hoạt động đổi mới bị tác động bởi rất nhiều yếu tố, trong đó bao gồm cả yếu
tố bên trong và yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như: Chính sách, thể chế pháp luật,
cơ sở hạ tầng, tài chính doanh nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực..... Hiện nay, tốc
độ đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn
còn chậm, nguyên nhân là do doanh nghiệp chưa tập trung vào khâu nghiên cứu và
phát triển (R&D), trình độ người lao động còn thấp,…. Mặt khác, Tỉnh Thái
Nguyên chưa chưa xây dựng được hệ thống đổi mới sáng tạo trong khu vực tỉnh
một cách hiệu quả, chưa đưa ra được cơ chế chính sách nhằm kích thích hoạt động
đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp…. Do vậy số lượng các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo đuổi chính sách đổi mới còn ít.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới nhưng chưa có
sự thống nhất, do đó nghiên cứu thực trạng ở Thái Nguyên có thể góp phần làm rõ
hơn về lĩnh vực khoa học. Chính vì thế tác giả chọn: “Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi
mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” làm đề luận
án nghiên cứu của mình.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu khung lý luận về đổi mới và kết quả khảo sát thực
tế, luận án tập trung đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt
động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái nguyên; từ đó
nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận án là:
(1) Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đổi mới, các yếu
tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp;
(2) Khảo sát và đánh giá thực trạng đổi mới tại các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
(3) Nhận diện và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới tại
các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
(4) Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới
trong các doanh nghiệp công nghiệp tại tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng tới
hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm các vấn đề liên quan đến lý luận và
thực tiễn về đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2018-2021.
* Phạm vi về không gian
- Luận án sẽ nghiên cứu đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp công nghiệp
chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Đây là nhóm doanh nghiệp chủ lực
về sản xuất công nghiệp cần hoạt động đổi mới và là nhóm doanh nghiệp chiếm đa
số (87,8%) theo niêm giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2020. Các nhóm doanh
3
nghiệp công nghiệp còn lại (Công nghiệp khai khoáng; sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí; cung cấp nước, hoạt động
quản lý và xử lý rác thải, nước thải) có tính đặc thù, không đòi hỏi nhiều đổi mới
sáng tạo và chiếm tỷ trọng nhỏ nên tác giả không đưa vào nghiên cứu.
* Phạm vi về thời gian
- Số liệu thứ cấp: Thu thập hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp
tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 2016-2020.
- Số liệu sơ cấp: Thu thập trong năm 2020-2021.
- Giải pháp được nghiên cứu và đề xuất đến năm 2030.
* Phạm vi về nội dung
(1) Đánh giá tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên; (2) Đánh giá hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp theo nội
dung đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình; đổi mới tổ chức; đổi mới marketing; (3)
Đánh giá thực trạng và phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới đổi mới của
các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án sẽ sử dụng kết hợp cả phương
pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Trong đó
phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng nhằm đánh giá thực trạng hoạt
động đổi mới, nhận diện các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới, đánh giá thực
trạng các yếu tố này và đề xuất mô hình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng sẽ được sử dụng để đánh giá mức độ
ảnh hưởng của từng yếu tố đến hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4.1. Phương pháp nghiên cứu định tính
Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp tiếp cận so sánh, phương pháp phỏng vấn
chuyên gia, phương pháp phỏng vấn sâu,...để làm rõ thực trạng hoạt động đổi mới trong
các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Các phân tích được sử
dụng với mục đích tìm ra những ảnh hưởng, tác động từ môi trường bên trong, môi
trường bên ngoài đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu sẽ tổng
4
quát hóa và xây dựng khung lý thuyết hoàn thiện về các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
đổi mới trong doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tác giả sẽ tiến hành phân tích Cronbach‟s Alpha để kiểm
tra độ tin cậy, sử dụng phân tích EFA để nhóm biến giải thích, phân tích CFA để
xác nhận cấu trúc mô hình và sử dụng phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới của các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. SEM là một mô hình kinh tế
lượng mạnh mẽ, khắc phục được những khuyết điểm của các kỹ thuật hồi quy thông
thường, đồng thời giúp mô hình hóa mối quan hệ đa chiều giữa các biến trong cùng
một mô hình. Kỹ thuật này sẽ giúp việc ước lượng chính xác và phù hợp hơn với
thực tiễn. (Nội dung về phương pháp nghiên cứu tác giả sẽ trình bày cụ thể hơn ở
chương 3)
5. Đóng góp mới về mặt lý luận
Dựa trên các công trình mà tác giả tiếp cận được, luận án có những đóng góp
mới về mặt lý luận như sau:
Trong bối cảnh lý thuyết về đổi mới còn rất hạn chế tại Việt Nam. Luận án
đã hệ thống lại một các logic về khái niệm đổi mới, nội dung của đổi mới, hình thức
đổi mới và phân tích rõ tầm quan trọng của đổi mới tới phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Làm cơ sở để giải thích lý do tại sao Việt Nam hay các quốc gia khác
đang tăng cường hoạt động đổi mới.
Luận án đã làm rõ được đặc trưng của đổi mới trong các doanh nghiệp công
nghiệp. Đưa ra được các tiêu chí để đo lường hoạt động đổi mới trong doanh
nghiệp, cụ thể đo lường đổi mới thông qua đầu vào và đo lường đổi mới thông qua
đầu ra. Từ đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về hoạt động đổi mới
tại các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nói riêng.
Luận án đã đánh giá được mức độ ảnh hưởng của 06 yếu tố bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp ảnh hướng tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công
5
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên một cách toàn diện và thực tế nhất thông qua
việc sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
là một kỹ thuật phân tích thống kê thế hệ thứ hai được phát triển để phân tích mối
quan hệ đa chiều giữa nhiều biến trong một mô hình. Đa quan hệ giữa các biến có
thể được biểu diễn trong một loạt các phương trình hồi quy đơn và bội. Kỹ thuật mô
hình cấu trúc tuyến tính sử dụng kết hợp dữ liệu định lượng và các giả định tương
quan (nguyên nhân - kết quả) vào mô hình. Từ đó giải thích được tốt nhất các yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên. Đây là công trình nghiên cứu hàn lâm kế thừa và có bổ sung, lần đầu
kiểm định tại tại Thái Nguyên. Chính vì vậy kết quả nghiên cứu đóng góp giá trị
học thuật nhất định, là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về.
6. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
Doanh nghiệp công nghiệp đang là một ngành mũi nhọn của tỉnh Thái
Nguyên. Chính vì thế việc đổi mới để tăng năng suất, tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh tại các doanh nghiệp không chỉ là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp mà
còn là mục tiêu chiến lược trong phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
Luận án đã đóng góp về mặt thực tiễn như sau:
- Đánh giá tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên theo các khía cạnh như: Nội dung đổi mới của các doanh nghiệp;
Chi phí dành cho hoạt động đổi mới; Huy động nguồn vốn cho đổi mới; Mức độ
doanh nghiệp được nhận từ các chính sách của chính phủ.
- Luận án đã xác định và xây dựng được một cách hệ thống, logic các yếu tố
ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp (Cạnh tranh và thông tin
thị trường; Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật; Cơ sở hạ tầng; Liên kết và
hợp tác; Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực; Năng lực tài chính doanh
nghiệp) và tác động của các yếu tố tới theo các nội dung của đổi mới như: Đổi mới
sản phẩm; Đổi mới tổ chức; đổi mới quy trình và đổi mới marketing của các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Đưa ra các giải pháp quan trọng để thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các
doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên như: Hoàn thiện chính
6
sách hỗ trợ đổi mới; Xây dựng khu công nghệ cao; Nâng cao năng lực đổi mới của
nhà quản trị; Nâng cao năng lực và phát triển nguồn nhân lực; Tăng cường hoạt
động liên kết và hợp tác trong đổi mới.
Đây là nguồn tham khảo vô cùng hữu ích cho các cơ quan chủ quan và
doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì luận án được kết cấu
thành 5 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Lý luận chung về đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới
trong doanh nghiệp công nghiệp
Chƣơng 3: Phương pháp nghiên cứu
Chƣơng 4: Thực trạng đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các
doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Chƣơng 5: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về đổi mới (Innovation)
1.1.1. Các nghiên cứu về quan niệm đổi mới (Innovation)
“Đổi mới” trong tiếng Anh là “Innovation”. Ở nhiều quốc gia người ta không
dịch mà để nguyên thuật ngữ “Innovation” để hiểu rõ nội hàm của thuật ngữ. Tại
Việt Nam thì có rất nhiều tài liệu và các nhà quản lý Việt Nam dịch là “đổi mới
sáng tạo”. Trong luận án này, tác giả lựa chọn dịch là “đổi mới”, nhằm giữ nguyên
nội hàm của thuật ngữ “Innovation”.
Đổi mới là hoạt động mà doanh nghiệp sử dụng các kiến thức, tri thức mới
về công nghệ hay thị trường, về tổ chức quản lý.... để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ,
quy trình hay hệ thống quản lý nhằm đáp ứng được những nhu cầu và đòi hỏi luôn
thay đổi của thị trường, thông qua đó giúp doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Clausen và cộng sự (2013) khẳng định động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đổi mới đó là: Do sức ép cần
phải tồn tại của doanh nghiệp; Do những cơ hội, lợi ích mà công nghệ mới đem lại
(Công nghệ ngoại sinh so với công nghệ nội sinh; công nghệ khai thác so với công
nghệ thăm dò); và do cơ hội, lợi ích kinh tế của các kết quả đổi mới đem lại như:
Tăng lợi nhuận, tăng thị phần hoặc tăng sức mạnh thị trường.... Nguồn gốc của kết
quả đổi mới là do đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và mục tiêu của hầu hết các
doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động đổi mới là nhằm kiếm được lợi nhuận cao từ
đầu tư R&D hay kiếm được tiền từ cho thuê các ý tưởng hoặc sáng chế mới.
Chính vì thế, để đo lường đầu vào của hoạt động đổi mới, các nhà khoa học
thường sử dụng chỉ tiêu R&D (Flor và Oltra, 2004; Bygrave, 1992; Buddelmeyer và
cộng sự, 2006). Chỉ tiêu R & D sẽ thể hiện nỗ lực đổi mới của doanh nghiệp, tuy
nhiên chỉ tiêu này lại không thể hiện được kết quả của đổi mới. Bởi vì nhiều khi
hoạt động nghiên cứu và phát triển không dẫn đến việc tạo ra các sản phẩm hoặc
quy trình mới, nguyên nhân là do các thất bại của hoạt động R&D. Do vậy, nhiều
nghiên cứu coi chỉ tiêu R&D như một biến số độc lập trong mô hình phương trình
8
đổi mới. Điều này đã được khẳng định trong nghiên cứu của Becheikh và cộng sự
(2006). Tác giả cho rằng chỉ tiêu R&D thường được dùng để "đo lường các phát
minh hơn là các đổi mới".
Ngoài ra, đo lường đổi mới có thể thông qua phiếu khảo sát. Đây là phương
pháp thường được dùng hiện nay để tìm hiểu về kết quả đổi mới trong các doanh
nghiệp. Phương pháp này đang được sử dụng phổ biến ở các nước Châu Âu
(Greenhalg và Rgoers, 2010), tại đây một cuộc khảo sát về đổi mới có quy mô lớn
là Khảo sát đổi mới cộng đồng (CIS), được bắt đầu tiến hành vào năm 1991. Đo
lường bằng phiếu khảo sát thường sử dụng để thu thập dữ liệu với quy mô lớn và sử
dụng nhiều biến số khác nhau nhằm đánh giá hoạt động đổi mới của doanh nghiệp.
Các biến độc lập và biến phụ thuộc được lựa chọn để phân tích hồi quy. Đối với
mỗi biến, cần đưa ra mô tả chi tiết, thang đo và sự tác động của biến độc lập tới biến
phụ thuộc. Greenhalg và Rgoers (2010) lại cho rằng đo lường đổi mới bằng phiếu
khảo sát không phải công việc đơn giản và dễ dàng. Nguyên nhân là do khó khăn
trong khâu thiết kế nội dung câu hỏi cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, lý luận nền
tảng vẫn còn rất nhiều tranh cãi, việc thu thập dữ liệu rất phức tạp do quy mô mẫu
lớn, sự phản hồi từ các doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả..... Greenhalg và Rgoers
(2010) cho biết, ban đầu CIS chỉ điều tra về quy trình và sản phẩm mới mà các
doanh nghiệp đã công bố, tuy nhiên CIS lại không phân biệt liệu các đổi mới này là
mới trên thị trường hay chỉ mới với doanh nghiệp. Về sau, CIS đã thêm vào các câu
hỏi mới trong các cuộc khảo sát nhằm phân biệt những đổi mới nào là mới đối với
doanh nghiệp, mới với ngành, hoặc mới với quốc gia. Tuy nhiên, biện pháp đo
lường đổi mới thông qua phiếu khảo sát cũng bị chỉ trích vì phương pháp này chỉ
nắm bắt được nỗ lực đổi mới ở biên độ rộng (bao nhiêu doanh nghiệp tiến hành hoạt
động đổi mới), chứ không phải cường độ của những nỗ lực (mức độ hoạt động đổi
mới qua các giai đoạn khác nhau như thế nào (Buddelmeyer và cộng sự, 2006 ;
Palangkaraya và cộng sự, 2016).
Arrow (1962) cho rằng đổi mới là một quá trình từ khi hình thành ý tưởng,
cho đến khi thương mại hóa các kết quả đổi mới. Tuy nhiên khó khăn của đổi mới
đó là sự không chắc chắn cho thành công của hoạt động đổi mới. Hay kết quả đổi
9
mới doanh nghiệp nên bán hay cho thuê, hay thương mại hóa? Rủi ro cho doanh
nghiệp tiến hành đổi mới khi kết quả đổi mới là “sản phẩm, hàng hóa công cộng”,
thì doanh nghiệp cũng sẽ không đạt được lợi nhuận như là kỳ vọng. Arrow (1962)
nhấn mạnh rằng kết quả đổi mới mà tạo ra “hàng hóa công cộng” sẽ làm giảm động
cơ đổi mới trong doanh nghiệp. Bởi vì, doanh nghiệp phải trả chi phí cho hoạt động
đổi mới nhưng không được hưởng lợi về mặt kinh tế đối với kết quả kinh tế
(nguyên nhân có thể là do sự bắt chước). Arrow (1962) cho rằng để giải quyết vấn
đề này thì bằng sáng chế là một giải pháp khả thi. Bởi vì bằng sáng chế sẽ loại trừ
những người bắt chước sử dụng kiến thức mới mà doanh nghiệp đã tạo ra, từ đó
doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc độc quyền các kết quả đổi mới.
Theo tác giả Nguyễn Đình Bình (2015), đổi mới được chia làm 02 loại là đổi
mới đóng và đổi mới mở. Trong đó, đổi mới đóng (đổi mới truyền thống) đây là
hình thức đổi mới chỉ dựa vào các nguồn lực bên trong doanh nghiệp. Với hình thức
đổi mới này doanh nghiệp thường phải chi số tiền rất lớn mua máy móc thiết bị tiên
tiến phục vụ hoạt động nghiên cứu, chiêu mộ những người ưu tú có năng lực vượt
trội để tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhằm đưa ra được các phát
minh mới, các công nghệ hiện đại, hoặc sản phẩm mới để dẫn đầu thị trường. Mô
hình này đã từng được rất nhiều các doanh nghiệp áp dụng và thành công trong một
khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, hiện nay hình thức đổi mới này không còn phù
hợp, khi doanh nghiệp tiến hành đổi mới mà quy mô công nghệ vượt xa năng lực
công nghệ hiện tại của doanh nghiệp, tốc độ thay đổi công nghệ thì nhanh chóng,
mặt khác do chi phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lại thường rất lớn. Để giải
quyết vấn đề này đòi hỏi sự liên kết hợp tác giữa doanh nghiệp với nhiều tổ chức
hay doanh nghiệp khác, hình thức đổi mới như vậy gọi là đổi mới mở. Với hình
thức đổi mới này thì doanh nghiệp sẽ chấp nhận việc chia sẻ nguồn lực đổi mới với
bên ngoài, cũng như là chia sẻ lợi ích với các đối tác trong nghiên cứu, thường thì
các đối tác là các trường đại học, các viện nghiên cứu. Hình thức này không những
giúp doanh nghiệp cắt giảm được chi phí trong việc duy trì hoạt động nghiên cứu và
phát triển, vẫn bảo đảm tính liên tục và năng lực trong hoạt động đổi mới của doanh
nghiệp. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này ngoài việc doanh nghiệp phải chia sẻ
10
lợi ích với các đối tác, nó còn có hạn chế khi mà mối liên kết giữa doanh nghiệp với
các đối tác nghiên cứu không được chặt chẽ, dẫn đến tình trạng mất bản quyền sáng
chế, doanh nghiệp phải phụ thuộc vào các đối tác, không tự đưa ra được các quyết
định trong đổi mới (Hutter và cộng sự, 2013).
Đổi mới là một xu hướng nghiên cứu đã có từ lâu trên thế giới, có rất nhiều tác
giả nghiên cứu về đổi mới trong các lĩnh vực khác nhau (Quintane và cộng sự, 2011).
Tuy nhiên có hai trường phái rõ rệt về đổi mới, một trường phái coi đổi mới là một quy
trình (process), trường phái còn lại xem đổi mới là một kết quả (outcome).
Trường phái thứ nhất, đổi mới là một quy trình.
Trong trường phái này, các tác giả chỉ chú trọng đến các quy trình hình thành và
phát triển ý tưởng (Almeida và cộng sự, 1997) hay quy trình thử nghiệm, sai và sửa
liên tục để đạt được hiệu quả trong đổi mới (Brown và cộng sự, 1995).
Triguero và Córcoles (2013) nhấn mạnh đổi mới là một quy trình phức tạp,
nó không đơn thuần là kết quả của sự khai thác nguồn nhân lực, tài chính, công
nghệ, tài nguyên hay tận dụng các chính sách của nhà nước, mà nó là sự liên kết đổi
mới giữa quá khứ và hiện tại. Nói cách khác, hoạt động đổi mới trong quá khứ sẽ
tác động rất lớn đến sự thành công của hoạt động đổi mới ở hiện tại. Bởi vì thông
thường hoạt động đổi mới trong hiện tại của doanh nghiệp sẽ được phát triển từ nền
tảng của hoạt động đổi mới trong quá khứ. Hơn thế nữa, hoạt động đổi mới trong
quá khứ và hiện tại sẽ định hướng hoạt động đổi mới trong tương lai.
Theo Phùng Xuân Nhạ (2013), đổi mới là một quá trình bao gồm nhiều giai
đoạn, từ nghiên cứu, phát triển, lập kế hoạch, đề ra các biện pháp thực thi và cuối
cùng là thương mại hóa. Trong khi đó, Richard R. Nelson (1993) lại cho rằng "Đổi
mới là quá trình chuyển ý tưởng thành sản phẩm mới hoặc sản phẩm hoàn thiện
trong công nghiệp và thương mại, hoặc đưa ra cách tiếp cận mới trong lĩnh vực xã
hội". Theo National Research Council (2014) đổi mới là quá trình bắt đầu với một
phát minh, hay tiến trình với một phát minh của một sản phẩm mới, quá trình hoặc
dịch vụ nhằm thỏa mãn các yêu cầu của thị trường. Đổi mới là tạo ra, chấp nhận và
thực hiện ý tưởng (West và Anderson, 1996). Từ các quan niệm trên chúng ta thấy
rằng đổi mới là một quá trình, không phải là một kết quả. Đổi mới được bắt đầu từ
11
các ý tưởng đổi mới, đến thực thi ý tưởng và thương mại hóa ý tưởng. Mục tiêu của
đổi mới nhằm thỏa mãn tốt hơn các yêu cầu của thị trường.
Zaltman và cộng sự (1973) cho rằng “Đổi mới là một quá trình sáng tạo, từ
đó hai hay nhiều quan niệm hoặc ý tưởng được kết hợp với nhau theo một phương
pháp mới để tạo ra một sự đổi mới chưa từng có”. Quy trình đổi mới bao gồm các
bước: Sáng chế (Tạo ra một ý tưởng mới); Đổi mới (Giới thiệu sản phẩm mới ra thị
trường; Bắt chước (Các đối thủ cạnh tranh phát triển sản phẩm tương tự; Sự lan tỏa
(Sự lan tỏa của các sản phẩm trong thị trường).
Đổi mới là một quá trình liên quan đến một chuỗi các hoạt động từ tìm hiểu
nhu cầu thị trường, phát sinh ra ý tưởng, áp dụng và hiện thực nó (Coopper, 1998).
Chấp nhận và triển khai các ý tưởng cần phải được thực hiện một cách tuần tự
(Kalmal, 2006). Hansen và cộng sự (1995) phân tích cụ thể và chi tiết hơn, khi đưa
ra quy trình hình thành một ý tưởng gồm 5 bước: Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng;
Xác định cơ hội đổi mới; Tìm kiếm ý tưởng mới; Chuyển đổi ý tưởng; Khuyếch tán
và đưa ra ý tưởng mới.
Trường phái thứ hai, đổi mới xem như một kết quả
Đổi mới xem như một kết quả đầu ra của quá trình đổi mới, nó bao gồm: Số
lượng các phát minh, sáng chế mà tổ chức hay doanh nghiệp tạo ra; số lượng đăng
ký bản quyền tác giả; số lượng các loại đổi mới mà doanh nghiệp đã tạo ra hay kết
quả đổi mới sản phẩm làm tăng bao nhiêu doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp...
Các tác giả thuộc trường phái này quan tâm tới “tính mới”của sản phẩm và
dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra. Tuy nhiên có sự tranh cãi thế nào là “mới”.
“Tính mới” là sản phẩm và dịch vụ được đưa ra mới hoàn toàn trên thị trường, hay
một sự cải tiến nhỏ trong sản phẩm và dịch vụ. Cái gì là “mới phải được phân biệt
với hình thức hay trạng thái hiện tại” (Darroch, 2005). Tuy nhiên, Robertson (1967)
cho rằng, “Tính mới” thôi chưa đủ, cần phải có tiêu chuẩn rõ ràng để phân biệt đổi mới.
Để làm rõ vấn đề này tác giả Edison và cộng sự (2013) đã chia thành bốn nhóm: Đổi
mới từng bước (Incremental innovation); Đột phá thị trường; Đột phá về công nghệ;
Đổi mới căn bản (radical innovations). Việc phân chia kết quả của đổi mới dựa vào sự
tác động của đổi mới đến tới thị trường hay sự thay đổi của công nghệ nền tảng.
12
Để trả lời câu hỏi thế nào là mới? OECD (2005) phân chia “tính mới” thành
ba loại: (1) Mới đối với doanh nghiệp, điều này xảy ra khi doanh nghiệp lần đầu
đưa ra một sản phẩm, dịch vụ, quy trình hay chiến lược marketing mới. Có thể
những nội dung này đã có ở nơi khác, tuy nhiên đối với doanh nghiệp là mới. Đây
gọi là đổi mới từ việc “hấp thụ” tri thức, công nghệ từ bên ngoài. Mặc dù sự mới
này đối với doanh nghiệp khác đã là cũ, tuy nhiên nó sẽ là nền tảng để doanh nghiệp
cải tiến và hoàn thiện hoạt động đổi mới tiếp theo. (2) Mới đối với thị trƣờng, khi
doanh nghiệp là người tiên phong trong việc đổi mới. Doanh nghiệp giới thiệu sản
phẩm hoặc dịch vụ mới ra thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động, có thể là
một khu vực địa lý hay một dòng sản phẩm hay dịch vụ. (3) Mới đối với thế giới,
khi doanh nghiệp sở hữu công nghệ đột phá trên toàn thế giới. Thông qua đó doanh
nghiệp sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ mới trên tất cả các thị trường cả trong
nước, cũng như ngoài nước. Mục tiêu của loại đổi mới này là tạo ra nhu cầu mới,
thay vì nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đang tồn tại. Doanh nghiệp sẽ tạo ra bước
nhảy vọt trong sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng.
Đổi mới là sự sản xuất của một bí quyết hay một công nghệ mới, không nhất
thiết phải là một công nghệ cao và nó kéo theo việc giới thiệu bên trong thị trường
để đạt được mục tiêu lợi nhuận. Bí quyết bao gồm kiến thức và năng lực làm thế
nào để sản xuất một sản phẩm mới; chạy một quy trình sản xuất mới; tiếp cận thị
trường mới; hay áp dụng một vật liệu mới. Sản phẩm của đổi mới là các hiện vật
như: Phần mềm mới, xe mới, máy sản xuất mới, thiết bị mới... Tidd và Besant
(2013) “Đổi mới là một quá trình chuyển đổi các ý tưởng thành những sản
phẩm/dịch vụ, quy trình mới và hữu dụng”.
1.1.2. Nghiên cứu về tầm quan trọng của đổi mới
1.1.2.1. Giúp tăng trưởng một cách bền vững
Vào những năm 1970, các nhà khoa học quan tâm đến hoạt động đổi mới
nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thông qua đó sẽ làm phát triển kinh tế của
một quốc gia. Tuy nhiên đến cuối những năm 1980, các nhà khoa học cho rằng thực
hiện quá trình đổi mới cần phải xem xét đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
quốc gia một cách bền vững. Solow (1991) cho rằng, đổi mới cần phải có chiến
13
lược, nghiên cứu một cách cụ thể, hệ thống khi sử dụng nguồn nhân lực, tài nguyên,
kỹ thuật và công nghệ, tránh tình trạng sử dụng quá mức, không đúng, không hiệu
quả. Điều này sẽ dẫn đến các nguồn lực của một quốc gia bị cạn kiệt hoặc phát triển
không bền vững.
Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao chưa từng có trong lịch
sử, mức sống của các nước từ Mỹ, Đức đến Nhật bản tăng theo cấp số nhân.
(Baumol, 2014) cho rằng sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ thường bắt nguồn từ đổi
mới. Một tổ hợp của hoạt động đổi mới có hệ thống trong các doanh nghiệp, “một
cuộc chạy đua vũ trang” trong quá trình đổi mới, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
trong việc tạo ra và sử dụng các kết quả đổi mới. Bởi vì không một doanh nghiệp
nào muốn tụt hậu so với những doanh nghiệp khác trong các khía cạnh về sản phẩm
mới hay quy trình mới. (Baumol, 2014) nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp lớn sẽ sử
dụng hoạt động đổi mới như một vũ khí cạnh tranh chính. Tuy nhiên, như ông giải
thích, các doanh nghiệp không muốn mạo hiểm đổi mới quá nhiều, vì nó tốn kém và
có thể bị lỗi thời bởi sự đổi mới của các đối thủ. Vì vậy, các doanh nghiệp đã phân
chia sự khác biệt thông qua việc bán giấy phép công nghệ hoặc tham gia vào các tổ
chức chia sẻ công nghệ. Điều này sẽ mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các doanh
nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế. Quá trình này sẽ tạo nên sự tăng trưởng vô
cùng lớn của các nền kinh tế tư bản hiện đại.
Baumol (2014) cho rằng kinh tế thị trường đạt được sự đổi mới và tăng
trưởng tối ưu, các nhà kinh tế sẽ không chỉ đơn giản là mô tả hệ thống và cảnh báo
về những nguy cơ bị can thiệp. Hoạt động đổi mới đôi khi sẽ phải chịu nhiều “thất
bại của thị trường”. Nhưng chính những thất bại thị trường này sẽ làm cho việc
hiểu đổi mới và tăng trưởng trở nên quan trọng, do đó đòi hỏi thể chế được thiết kế
để cải thiện những “thất bại” này.
Một thực tế hiện nay các quốc gia phát triển đang có xu hướng chuyển ngành
công nghiệp gây ô nhiễm cao và sử dụng nhiều năng lượng sang các nước kém phát
triển hơn, các quốc gia này trở thành một “thiên đường ô nhiễm” (Zeng and Zhou,
2021). Để đạt được tăng trưởng kinh tế tạm thời và cải thiện tỷ lệ việc làm, chính
phủ ở các quốc gia và khu vực kém phát triển đã thực hiện một loạt các biện pháp
14
thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng mọi giá và liên tục hạ thấp các tiêu chuẩn kiểm
soát môi trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường đã nảy sinh theo thời gian cùng với
dòng vốn và công nghệ. Với sự xuất hiện của biến đổi khí hậu toàn cầu, suy giảm
tầng ôzôn, ô nhiễm nguồn nước và các vấn đề khác. Điều này đòi hỏi hoạt động đổi
mới nhằm giúp phát triển kinh tế theo định hướng “xanh”, công nghệ “xanh” ở các
quốc gia trên thế giới đã dần được củng cố.
Greenhalg and Rgoers (2010) khẳng định đổi mới giúp chuyển đổi cơ cấu
kinh tế từ các ngành công nghiệp giá trị gia tăng thấp như dệt may sang các ngành
công nghiệp có giá trị gia tăng cao như điện tử và viễn thông, công nghiệp chế biến chế
tạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ góp phần cải thiện năng suất, đồng thời cũng là cơ
hội cho các doanh nghiệp hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu và mở rộng thị trường.
Đổi mới sáng tạo sâu rộng giúp các quốc gia vượt lên các thách thức mới để tiếp
tục phát triển, kể cả các yếu tố xung đột địa chính trị toàn cầu, đại dịch COVID-19,
biến đổi khí hậu và sự sụt giảm đáng kể về tăng trưởng năng suất. Tuy nhiên, để thúc
đẩy đổi mới đòi hỏi một chương trình cải cách toàn diện. Ngoài việc định hướng lại các
chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phù hợp hơn với năng lực và
nhu cầu của doanh nghiệp, các quốc gia cần tăng cường các yếu tố bổ trợ quan trọng
cho đổi mới sáng tạo như kỹ năng của người lao động và khả năng tiếp cận tài chính
cho các dự án đổi mới (Yang và cộng sự, 2019).
1.1.2.2. Đổi mới giúp tăng năng suất lao động
King và cộng sự (1993) cho rằng đổi mới giúp nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp thông qua việc áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Việc áp dụng đổi mới công nghệ, đổi mới
quy trình, đổi mới tổ chức....sẽ tạo lên sự đột phá trong tăng năng suất lao động..
Mặt khác, tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) được sử dụng để phân tích
đầy đủ hơn về các yếu tố tác động tới tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế có được
thường do sự gia tăng lao động, vốn và một phần dựa trên tăng TFP. Bộ khoa học
và công nghệ (2018) đã chứng minh rằng tăng vốn và tăng lao động có thể dẫn đến
tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
15
hóa, còn tăng TFP mới là nguồn gốc căn nguyên của tăng trưởng trong dài hạn, bảo
đảm chất lượng tăng trưởng và phát triển.
Law và cộng sự (2020) cho rằng tỷ trọng đóng góp của tăng TFP vào tăng
trưởng kinh tế đang dần cao lên trong giai đoạn vừa qua cho thấy yếu tố đầu vào là
vốn và lao động đang được sử dụng hiệu quả hơn trong việc tạo ra kết quả đầu ra.
Đây là sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế theo hướng tập trung vào chất lượng
tăng trưởng: như nâng cao chất lượng lao động, chất lượng vốn, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ, thúc đẩy hoạt động đổi mới và tập trung nguồn lực vào các
ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng năng suất lao động được nghiên
cứu bởi Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) và đã trở thành mô hình điển hình cho
nhiều quốc gia thành viên nghiên cứu và áp dụng phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Mức sống
Tăng trƣởng GDP bình quân đầu ngƣời
Tăng trƣởng kinh
Tăng trƣởng GDP
tế
Tốc độ tăng năng suất lao động
Tốc độ tăng năng suất
Các yếu tố then
Cơ cấu kinh tế
Ngành kinh tế
Doanh nghiệp
chốt
Các yếu tố tác
Tăng cƣờng độ vốn
Tốc độ tăng GDP
động
Thúc đẩy kinh doanh
Các nhân tố thúc
Thúc đẩy kinh tế vĩ mô
đẩy
hoạch Kế thể tổng suất năng quốc gia dựa nền trên khoa tảng công học, nghệ và đổi mới sáng tạo
Hình 1: Mô hình tăng trƣởng kinh tế dựa vào năng suất lao động của APO
Nguồn: Bô khoa học công nghệ (2018)
Từ mô hình khái quát trên, một số nội dung làm rõ mối quan hệ giữa tăng
năng suất lao động với khoa học, công nghệ và đổi mới trong bối cảnh phát triển
16
kinh tế của các quốc gia hiện nay. Động lực chính của tăng trưởng kinh tế (được đo
lường bằng chỉ tiêu tăng trưởng GDP) là tăng năng suất lao động thông qua hoạt động
đổi mới. Trong những điều kiện hạn chế đầu vào (lao động và vốn), đổi mới sẽ giúp sử
dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào, từ đó tăng năng suất lao động. Đây là con đường duy
nhất để tăng trưởng kinh tế bền vững về dài hạn. Trong đó, tăng năng suất lao động phụ
thuộc vào: năng suất lao động của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp được coi là trung
tâm của phát triển kinh tế; (2) năng suất nội ngành của các ngành kinh tế và (3) cơ cấu
kinh tế (Nelson, 1993).
Artz và cộng sự (2010) đã khẳng định rằng đổi mới tác động rất lớn tới năng
suất lao động của quốc gia. Hoạt động đổi mới sẽ giúp dịch chuyển lao động từ một
ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao cũng làm
tăng năng suất chung, hoặc nâng cao năng suất lao động của từng ngành cũng có tác
động cải thiện năng suất nền kinh tế. Đổi mới trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế có tác
dụng trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển kinh tế, tuy nhiên khi nền kinh tế phát
triển tới mức cao hơn thì yếu tố tăng năng suất nội ngành sẽ có vai trò tiên quyết cho
nâng cao năng suất lao động bền vững
Đổi mới giúp tăng năng suất lao động của doanh nghiệp hay năng suất nội
ngành hoặc thay đổi cơ cấu kinh tế đều là kết quả của việc đổi mới giúp sử dụng
hiệu quả vốn trên lao động hoặc tăng TFP (Roger và cộng sự, 2010). Trong đó, tăng
TFP là yếu tố chất lượng, và tất nhiên là quan trọng hơn vì tăng TFP phản ánh tập
trung nhất hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào vốn và lao động thông qua quá trình đổi
mới, do vậy, tăng trưởng kinh tế dựa trên tăng TFP thì tăng trưởng kinh tế mới có
chất lượng, và tăng trưởng kinh tế mới đảm bảo phát triển bền vững.
Neely và cộng sự (1998) nhấn mạnh rằng đổi mới giúp đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng năng suất lao động
cần phải chú trọng hoạt động đổi mới, bằng cách tăng cường đầu tư theo chiều sâu cho
các ngành, các doanh nghiệp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường đổi
mới công tác quản lý, đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đầu tư cho đổi
mới sáng tạo, đẩy mạnh tiến bộ khoa học và công nghệ, vì nhờ có hoạt động đổi mới,
tăng cường tiến bộ khoa học và công nghệ mới thay đổi được cách thức làm việc, mới
17
có thể làm nhanh hơn, hiệu quả hơn, tạo ra sản phẩm hàng hóa mới hơn với chất lượng
và giá trị cao hơn; nhờ đó đẩy mạnh tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới mới có thể
đảm nhận được những phần công việc, công đoạn của quá trình sản xuất khó hơn có tỷ
lệ giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tạo ra
tốc độ tăng TFP cao hơn và năng suất lao động lớn hơn.
1.1.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh
Theo Mytelka và cộng sư (2000), các quốc gia không ngừng tăng cường đổi
mới, bởi vì hoạt động đổi mới có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bộ khoa học và công nghệ Việt Nam (2018) nhấn mạnh trong bối cảnh
CMCN 4.0 diễn ra mạnh mẽ, công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ sớm giải phóng để
tạo ra sự bùng nổ về năng suất và tăng trưởng kinh tế cao hơn. Cuộc CMCN 4.0 với
sự ra đời của công nghệ mới và những đổi mới có tầm bao phủ rộng đang lan tỏa
nhanh chóng và rộng rãi hơn nhiều so với các cuộc cách mạng trước đó. Quy luật
cạnh tranh của nền kinh tế trong CMCN 4.0 sẽ khác với các thời kỳ trước. Để có
được lợi thế cạnh tranh, quốc gia phải đi đầu trong đổi mới.
Trong báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 1997 đã nêu khái niệm:
“Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách,
thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác. Năng lực cạnh tranh
quốc gia (NLCTQG) phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng nguồn lực con người, tài
nguyên về vốn của một quốc gia, bởi vì chính năng suất xác định mức sống bền
vững thể hiện qua mức lương, tỷ suất lợi nhuận từ vốn bỏ ra, tỷ suất lợi nhuận thu
được từ tài nguyên thiên nhiên”. Trong đó đổi mới sẽ giúp nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả sử dụng nguồn vốn, hiệu quả sử dụng tài nguyên...từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của quốc gia (Nelson, 1993).
Peter (1998) cho biết để nâng cấp vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu,
bắt buộc các quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp đổi mới trong các lĩnh vực công
nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano....
18
Đổi mới làm cho chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, đáp ứng
yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Bên cạnh đó, hoạt động đổi mới thúc đẩy
doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất, sẽ làm giảm hao
phí lao động trên một đơn vị sản phẩm, từ đó làm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tính
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường (Thái Hà, 2009).
Để đánh giá năng lực đổi mới của quốc gia cần dựa trên các chỉ tiêu đầu vào
của hoạt động đổi mới như hoạt động nghiên cứu, khoa học và công nghệ, cơ sở hạ
tầng quốc gia, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo…. Hoặc dựa trên các chỉ tiêu đầu ra của
hoạt động đổi mới như số lượng các bài báo khoa học, số bằng sáng chế đã được
đăng ký…. Năng lực đổi mới của quốc gia ngoài việc dựa trên tích lũy kiến thức từ
các nghiên cứu và hoạt động sáng chế, còn thể hiện thông qua các chính sách, thể
chế nhằm khuyến khích sự sáng tạo, sự tương tác và hợp tác giữa các cá nhân và tổ
chức, khả năng thương mại hóa các sản phẩm mới (Bùi Nhật Lệ Uyên, 2018).
Law và cộng sự (2020) đã khẳng định đổi mới vừa là chìa khóa quan trọng
giúp tăng năng suất lao động, vừa là yếu tố nền tảng quyết định năng lực cạnh tranh
của một quốc gia, từ đó giúp nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Vì vậy,
để hoạt động đổi mới được toàn diện, tích cực và đồng bộ, đòi hỏi các nước cần đề
ra các chính sách hướng tới cải thiện hệ thống đổi mới quốc gia như chính sách đối
với các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu tạo ra
tri thức, công nghệ và các chính sách đối với doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp
thực sự phát huy được vị trí trung tâm của mình trong hệ thống đổi mới quốc gia,
giúp doanh nghiệp phát huy được vai trò trụ đỡ của nền kinh tế.
1.1.2.4. Đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh
Zeng and Zhou (2021) cho biết các quốc gia đang đối mặt với sự khan hiếm
tài nguyên. Sự xuất hiện vấn đề khan hiếm tài nguyên nghiêm trọng, sẽ kích thích
sự đổi mới trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, từ đó mang lại sự tăng trưởng kinh tế
và thay đổi cơ cấu kinh tế theo tỷ trọng phù hợp với điều kiện thực tế (Yang và
cộng sự, 2019). Tăng trưởng kinh tế sẽ làm nảy sinh các vấn đề khan hiếm tài
nguyên thiên nhiên, các giải pháp nhằm khắc phục vấn đề này sẽ được tìm ra thông
qua các hoạt động đổi mới.
19
Theo Quadrio Cunio (1994) đổi mới, nguồn lực và tăng trưởng kinh tế là phụ
thuộc lẫn nhau trong bối cảnh của một hệ thống kinh tế toàn cầu. Trong đó sự tương
tác giữa các nguồn lực, sự khan hiếm và công nghệ là động lực chính của động lực
phát triển kinh tế.
Zeng and Zhou (2021) cho rằng động lực và nguồn đảm bảo cho sự tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế của một quốc gia là đổi mới, trong đó cần nhấn
mạnh tầm quan trọng của năng lực đổi mới công nghệ của quốc gia, đóng một vai
trò không thể thay thế trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một số nghiên cứu đã
chỉ ra rằng sự đổi mới công nghệ của Trung Quốc có thể được tạo ra nhờ hiệu ứng
“tràn công nghệ”. Điều này có nghĩa là Trung Quốc thông qua việc thu hút các
doanh nghiệp FDI để “giới thiệu – hấp thụ – làm chủ” các công nghệ tiên tiến từ
các nước phát triển và “đứng trên vai người đi trước” để đổi mới và sau đó đạt được
mục tiêu cải tiến trình độ phát triển kinh tế trong nước.
Flor (2004) đã khẳng định rằng để tăng trưởng, hội nhập trong bối cảnh toàn
cầu hoá, quốc gia cần phải triển khai các hoạt động nghiên cứu phát triển, đưa
doanh nghiệp trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Mỗi loại
hình doanh nghiệp cần có những chính sách, biện pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt
động khoa học và công nghệ, đổi mới trong doanh nghiệp, ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo Hult (2004) xu hướng tái cân đối chính sách phát triển khoa học, công
nghệ và đổi mới, chuyển từ tập trung đầu tư tạo ra công nghệ tiên tiến sang thúc đẩy
hấp thụ và phổ biến công nghệ. Sự lan tỏa công nghệ không chỉ là nghiên cứu và
phát triển có thể mang lại hiệu quả năng suất và chuyển đổi kinh tế, giúp tăng
trưởng kinh tế. Đổi mới để tận dụng tối đa các công nghệ hiện đại nhất, việc thu hẹp
khoảng cách về kỹ năng của lực lượng lao động cả chất lượng và số lượng cũng sẽ
rất quan trọng để giúp tăng trưởng kinh tế.
Quevedo và cộng sự (2017) tiếp tục khẳng định đổi mới giúp nâng cao năng
lực hấp thụ tiến bộ công nghệ. Từ đó giúp công tác đào tạo, tập huấn người lao
động, cũng như hệ thống quản trị để có thể vận hành được công nghệ mới, hiện đại,
gia tăng năng suất sản xuất của doanh nghiệp, của ngành.
20
1.1.3. Nghiên cứu về nội dung đổi mới
Joseph Schumpter (1934) được coi là nhà kinh tế học đầu tiên nghiên cứu về
đổi mới. Schumpter đã đưa ra năm nội dung đổi mới: (1) Giới thiệu sản phẩm mới
hoặc có sự thay đổi đáng kể đối với sản phẩm hiện tại; (2) Đưa ra phương pháp sản
xuất mới trong một ngành; (3) Mở ra một thị trường mới; (4) Phát triển nguồn cung
mới cho nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác và (5) Đổi mới về mặt tổ chức. Đến
năm 2005, OECD đưa ra định nghĩa về đổi mới trong Cẩm nang Oslo 2005, gồm
bốn nội dung đổi mới: Đổi mới sản phẩm; Đổi mới quy trình; đổi mới tổ chức; Đổi
mới Marketing.
Phuangrod và cộng sự (2017) lại phân loại nội dung đổi mới thành năm khía
cạnh sản phẩm, quy trình, thị trường, chiến lược và hành vi. Những khía cạnh này
được sử dụng để đo lường tính đổi mới. Đồng quan điểm trên tác giả Đỗ Văn Hải
(2015) cũng phân chia đổi mới thành 5 nhóm, tuy nhiên nội dung của đổi mới có sự
khác biệt, cụ thể có: Đổi mới sản phẩm hoặc cải tiến chất lượng sản phẩm hiện có;
Đổi mới phương pháp sản xuất; phát triển thị trường mới; phát triển nguồn cung
ứng mới; Đổi mới tổ chức.
Oslo (2005) lại gọi chung đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình là đổi mới
công nghệ (technological product and process innovations – TPP innovations). Tác
giả cũng phân biệt giữa đổi mới công nghệ và đổi mới phi công nghệ. Đổi mới công
nghệ là khi doanh nghiệp công bố ít nhất một sản phẩm hay một quy trình mới hoặc
là một sự cải tiến trong sản phẩm hay quy trình sản xuất. Đổi mới phi công nghệ
được đánh giá khi có sự thay đổi trong marketing, hay thay đổi trong cơ cấu kinh
doanh, cách thức quản lý doanh nghiệp. Trong khi đó OECD (2005) nhấn mạnh tầm
quan trọng của đổi mới công nghệ, bởi vì đổi mới công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp
đưa ra được sản phẩm mới hoặc thay đổi được chất lượng sản phẩm, cải thiện được
giá thành, từ đó giúp gia tăng được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong khi đó, Clausen và cộng sự (2013) lại cho rằng các doanh nghiệp cần
phải tăng cường hoạt động đổi mới sản phẩm để có thể duy trì được lợi thế cạnh
tranh trong kinh doanh. Mục đích của nghiên cứu này là để quan sát sự khác biệt
21
giữa các doanh nghiệp có đầu tư và tiến hành hoạt động đổi mới sản phẩm. Tác giả
sử dụng các câu hỏi nghiên cứu như: Doanh nghiệp đã phát triển triển sản phẩm
mới như thế nào? Hay cái cách mà doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới? Kết
quả cho thấy, những doanh nghiệp mà chú trọng đến hoạt động đổi mới sản phẩm
thì vẫn duy trì hoặc có sự tăng trưởng trong doanh thu và thị phần trên thị trường.
Tại Việt Nam, Mai Lê Thúy Vân và cộng sự (2018) tiến hành khảo sát trên
996 doanh nghiệp từ năm 2014 đến năm 2016 về thực trạng đổi mới sản phẩm, kết
quả chỉ có 31% doanh nghiệp thực hiện đổi mới sản phẩm. Mặc dù các doanh
nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới sản phẩm trong việc duy trì
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên do các doanh nghiệp gặp rất
nhiều khó khăn về tài chính, nguồn nhân lực, các chính sách của chính phủ chưa hỗ
trợ được hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp. Cụ thể tỷ lệ doanh nghiệp nhận
được hỗ trợ về tín dụng hay chính sách hỗ trợ đổi mới chỉ từ 10% đến 17% (Hồ
Ngọc Luật, 2019). Mặt khác sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong hoạt động đổi
mới sản phẩm còn thấp có 85% doanh nghiệp tự thực hiện, 15% doanh nghiệp phối
hợp hoặc thuê cá nhân, đơn vị ngoài (Bộ khoa học công nghệ, 2018). Đây là
nguyên nhân dẫn đến đổi mới sản phẩm trong các doanh nghiệp Việt Nam còn diễn
ra chậm. Mai Lê Thúy Vân và cộng sự (2018) còn phân tích về thực trạng đổi mới
quy trình, kết quả có 46% doanh nghiệp thực hiện đổi mới quy trình. Mặc dù so với
đổi mới sản phẩm có 31% doanh nghiệp tiến hành, đổi mới quy trình vẫn được các
doanh nghiệp Việt Nam tiến hành nhiều hơn. Tuy nhiên mức độ thực hiện đổi mới
còn ít. Nguyên nhân do các nguồn lực, các hoạt động phụ trợ thúc đẩy đổi mới quy
trình vẫn chưa được các doanh nghiệp chú trọng, cụ thể chỉ có 25% doanh nghiệp
chú trọng đến đào tạo nhân viên và 10% doanh nghiệp có sự liên kết với các đối tác
bên ngoài để thực hiện hoạt động đổi mới công nghệ. Mặt khác chương trình quỹ
quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ còn thấp và hoạt
động chưa thực sự hiệu quả.
Hồ Ngọc Luật (2019) điều tra thử nghiệm đổi mới sáng tạo trên 7.641 doanh
nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam, những doanh nghiệp này có đầu tư cho R&D
và có đăng ký bằng sáng chế. Điều tra cho thấy có 61,6% doanh nghiệp có hoạt
22
động đổi mới trong giai đoạn 2014-2016, trong đó đổi mới sản phẩm là 32,1% và
doanh số sản phẩm mới chiếm đến 62% tổng doanh số sản phẩm của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam các doanh nghiệp chủ yếu là nâng cao chất lượng sản phẩm và cắt
giảm chi phí sản xuất, mà ít tập trung vào nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. Tác
giả còn cho biết, chỉ có có 39,9% doanh nghiêp có hoạt động đổi mới quy trình
trong giai đoạn 2014-2016. Doanh nghiệp đổi mới quy trình mới chỉ chú trọng thực
hiện đổi mới công nghệ gắn với việc nâng cấp, chỉnh sửa thiết bị, máy móc hiện có
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất ít đầu tư mua sắm tài sản trí tuệ như: Sáng chế,
giải pháp công nghệ hữu ích hay thực hiện chuyển giao công nghệ… Để sở hữu
được máy móc thiết bị, quy trình công nghệ hiện đại của riêng mình. Đổi mới tổ
chức chiếm 37,7% tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Tác giả cũng nhấn mạnh
muốn nâng cao NSLĐ cần cải thiện sự hài lòng tại nơi làm việc, tiếp cận các công
cụ cải tiến năng suất, giảm chi phí quản lý. Với lề lối phong cách làm việc tại Việt
Nam, đổi mới tổ chức là hoạt động hết sức cần thiết. Đổi mới marketing chiếm
28,6% tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Đây là nội dung đổi mới sáng tạo mà
các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện ít nhất. Dẫn đến kết quả các doanh nghiệp
chưa tạo dựng được giá trị thương hiệu mạnh trên thị trường trong nước cũng như
quốc tế (Nguyễn Quốc Duy, 2015).
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu yếu tố ảnh hƣởng đến đổi mới trong
doanh nghiệp công nghiệp
Có rất nhiều yếu tố tác động tới đổi mới trong doanh nghiệp và đã có nhiều
nghiên cứu trước đây đề cập tới vấn đề này. Nghiên cứu tổng hợp về đo lường đổi
mới của Edison, Ali và Torkar (2013) là một ví dụ điển hình. Trong nghiên cứu này,
trên cơ sở tổng hợp từ rất nhiều các nghiên cứu trước đó, các tác giả đã xác định
244 yếu tố chi tiết tác động tới đổi mới của doanh nghiệp. Edison, Ali và Torkar
(2013) đã phân chia các yếu tố này thành hai nhóm chính: Các yếu tố bên ngoài và
các yếu tố bên trong. Bên cạnh đó, các tác giả đã nhóm 244 yếu tố chi tiết thành 23
nhóm các yếu tố quyết định ảnh hưởng tới đổi mới của doanh nghiệp, trong đó có
thể kể tới một số yếu tố quan trọng như: Thị trường, chính sách, công cụ hỗ trợ,
công nghệ, hoạt động R&D, sự liên kết, tài chính, nguồn nhân lực,…Tuy nhiên,
23
việc phân tích định lượng đồng thời cả 244 yếu tố chi tiết hoặc 23 nhóm các yếu tố
quyết định là không khả thi. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu các học thuyết, lý thuyết,
tổng quan tài liệu nghiên cứu về đổi mới, các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới của các
doanh nghiệp ở Việt Nam, cũng như kết hợp với nghiên cứu khảo sát tình hình thực
tế của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tác giả đã tổng
hợp và lựa chọn ra 06 yếu tố phù hợp nhất để tìm hiểu, tổng hợp và đánh giá ảnh
hưởng của chúng tới đổi mới của doanh nghiệp.
1.2.1. Cạnh tranh và thông tin thị trường
Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới. Do vậy áp lực từ môi trường bên ngoài
sẽ kích thích hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp, vì doanh nghiệp lo sợ sẽ bị tụt
hậu (Porter, 2008). Tuy nhiên hoạt động đổi mới là một quá trình dài hạn đòi hỏi
doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược đổi mới trong chiến lược cạnh tranh dài hạn
của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp huy động và sử dụng các nguồn lực bên trong
doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn (Porter, 2008).
Đồng quan điểm với Porter (2008), Arranz và cộng sự (2019) đã nhấn mạnh
rằng, các doanh nghiệp nên coi việc đổi mới là một phần trong chiến lược cạnh
tranh của doanh nghiệp. Đổi mới sẽ giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất
và giúp doanh nghiệp có được ưu thế trong cạnh tranh. Thêm vào đó tác giả cũng
chỉ ra rằng, động lực của hoạt động đổi mới có thể đến từ áp lực môi trường bên
ngoài (đổi mới bị động) hoặc sự chủ động, tự nguyện của doanh nghiệp. Sử dụng số
liệu của 5461 doanh nghiệp Tây Ban Nha, Arranz và cộng sự (2019) đã nghiên cứu
các yếu tố khuyến khích và cản trở sự đổi mới trong các doanh nghiệp. Tác giả đã
nhấn mạnh rằng thông tin thị trường và đặc biệt là hiểu biết về giá cả thị trường,
hiểu biết về nhu cầu thị trường.... là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động đổi
mới của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp. Điều này đã được chứng minh trong nghiên cứu
của các tác giả Bùi Nhật Lệ Uyên (2019); Trần Thị Hồng Việt (2016); Acs và cộng
sự (1988); Dananpour và cộng sự (2006)… Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
24
được thể hiện qua các nội dung như: năng lực cạnh tranh về tài chính, năng lực cạnh
tranh về giá, năng lực cạnh tranh về thị phần, năng lực cạnh tranh về nguồn nhân
lực…. Các tác giả đã chứng minh rằng doanh nghiệp có ưu thế hơn trong cạnh
tranh, thì hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp được quan tâm hơn và hiệu quả
hơn so với các doanh nghiệp mà năng lực cạnh tranh yếu.
Theo Sala và cộng sự (2017) động lực cũng như yếu tố để thúc đẩy đổi mới
chính là việc tạo dựng lợi thế cho doanh nghiệp thông qua việc định vị và nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ và uy tín thương hiệu nhằm chiếm lĩnh thị trường.
Tuy nhiên, mối tương quan giữa chi phí và lợi ích của đổi mới là một trong những
vấn đề khiến các doanh nghiệp cần thực sự phải cân nhắc. Manget và cộng sự
(2009) đã chỉ ra rằng, trong trường hợp người tiêu dùng cảm nhận về giá trị nhận
sản phẩm được cao hơn, chất lượng tốt hơn, họ sẽ sẵn sàng chi nhiều tiền hơn để
mua sản phẩm mới, từ đó doanh nghiệp sẽ bù đắp được các chi phí đã bỏ ra để tiến
hành hoạt động đổi mới hướng tới việc cải thiện chất lượng và uy tín của sản phẩm
của doanh nghiệp.
Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động là một
trong những vấn đề mà doanh nghiệp phải đối mặt khi thực hiện hoạt động đổi mới.
Nhưng tác động của thị trường lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động tới đổi
mới là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Các nghiên cứu về tác động của cạnh tranh đối
với hoạt động đổi mới đưa ra các kết quả khác nhau. Nghiên cứu của Aghion và
cộng sự (1999) chỉ ra mặt tích cực của cạnh tranh đối với sự đổi mới, trong khi
nghiên cứu của Lee và cộng sự (2005) ủng hộ quan điểm ngược lại, thậm trí theo
hình U ngược (Aghion và cộng sự, 2005). Hussen và Çokgezen (2019) cũng nhấn
mạnh rằng, mức độ cạnh tranh có tác động tiêu cực đối với cả hai loại hình đổi mới,
đó là đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình sản xuất. Hiệu ứng Schumpeterian
phản ánh cạnh tranh sẽ làm giảm lợi ích độc quyền của các sản phẩm mới tiềm
năng, do đó làm giảm động lực của doanh nghiệp khi tham gia vào các hoạt động
đổi mới (Geroski, 1990). Theo Cohen (1990) cấu trúc thị trường độc quyền sẽ làm
cho hành vi của đối thủ vừa ổn định vừa có thể dự đoán được, từ đó giúp hoạt động
đổi mới được an toàn và hiệu quả.
25
Theo Aghion (2005) đã phát triển rằng mối quan hệ giữa cạnh tranh và đổi
mới theo hình chữ U ngược. Mô hình này giả định có hai loại cạnh tranh: (1) các
đối thủ là ngang tài ngang sức hoặc (2) kẻ dẫn đầu và kẻ tụt hậu. Khi các doanh
nghiệp là ngang tài, ngang sức, cạnh tranh sẽ thúc đẩy động lực đổi mới nhằm giúp
doanh nghiệp vượt lên. Tuy nhiên, một khi một doanh nghiệp vượt lên, sự cạnh
tranh trên thị trường sẽ rơi vào trường hợp thứ hai, “người dẫn đầu” (đã đổi mới
thành công và vươn lên) và “kẻ tụt hậu” (thất bại trong việc đổi mới). Trong tình
huống này, các doanh nghiệp tụt hậu không nên tiếp tục thực hiện hoạt động đổi
mới, thay vào đó nên thuê hoặc mua các kết quả đổi mới. Vì nhiều khi giá thuê hoặc
mua các kết quả đổi mới sẽ thấp so với việc tiếp tục đầu tư vào hoạt động đổi mới
để cạnh tranh với người dẫn đầu.
1.2.2. Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật
Arranz và cộng sự (2019) đã đề cao vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt
động đổi mới, tác giả cho rằng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật sẽ tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Việc tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động đổi mới sẽ phụ thuộc vào mức độ và phạm vi của
chính sách. Nhận định này cũng được ủng hộ bởi Romijn và Albaladejo (2002), tác giả
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hỗ trợ về thể chế trong đổi mới và chính sách hỗ trợ
đổi mới của chính phủ sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp.
Nguyễn Quốc Duy (2015) cho rằng nếu nhà nước sử dụng hiệu quả các chính sách hỗ
trợ hoạt động đổi mới như: Chính sách về tín dụng, chính sách về hỗ trợ khoa học và
công nghệ, chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo….điều này sẽ tạo môi trường lành mạnh, hiệu quả cho doanh nghiệp tiến
hành hoạt động đổi mới.
Yang và cộng sự (2019) đã sử dụng số liệu bảng của các doanh nghiệp công
nghiệp năng lượng Trung Quốc trong giai đoạn 2001-2015 và chỉ ra yếu tố chính
tác động tới hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp năng lượng là thể chế. Bên
cạnh đó, tác giả còn nhấn mạnh vai trò của của Chính phủ trong việc thúc đẩy hoạt
động đổi mới của các doanh nghiệp. Điều này cũng được chứng minh trong các
nghiên cứu của Arranz và cộng sự (2019); Romijn và Albaladejo (2002); Nguyễn
26
Quốc Duy (2015); Hussen và Çokgezen (2019); Bùi Nhật Lệ Uyên (2018)…. Các
tác giả cho rằng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật của nhà nước là một
trong những đòn bẩy quan trọng cho hoạt động đổi mới, chính phủ vừa là nhà đầu
tư, vừa là nhà hỗ trợ tài chính cho hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Sự hỗ trợ
của Chính phủ sẽ rất hữu ích cho các doanh nghiệp khi đối mặt với sự thiếu hụt các
nguồn lực (Bùi Nhật Lệ Uyên, 2018). Bên cạnh đó chính phủ đóng vai trò xây dựng
mạng lưới và kích thích mạng lưới đổi mới hoạt động hiệu quả. Đặc biệt vai trò của
chính phủ sẽ được thể hiện thông qua việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới quốc gia.
Theo Hussen và Çokgezen (2019) cấu trúc thị trường hoặc chất lượng của
thể chế mà doanh nghiệp đang hoạt động, đều quan trọng trong việc xác định hiệu
quả đổi mới của doanh nghiệp. Kết quả của hoạt động đổi mới có thể là các phát
minh mang tính đột phát, cần được bảo vệ thông qua chính sách bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ. Điều này sẽ tránh tình trạng sao chép mà không mất phí và đảm bảo lợi
nhuận cho doanh nghiệp đổi mới. Sivak và cộng sự (2011) đã kết luận rằng chính
sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới. Tuy
nhiên, không phải chính sách hay luật lệ nào cũng tác động tích cực tới hoạt động
đổi mới. Ví dụ luật phá sản chặt chẽ có thể cản trở các doanh nghiệp tiến hành đổi
mới vì đôi khi chúng có thể tạo ra gánh nặng lớn cho các doanh nghiệp trong trường
hợp đổi mới bị thất bại. Nhưng luật phá sản chặt chẽ sẽ cung cấp một bảo đảm
mạnh mẽ cho các nhà đầu tư và do đó các doanh nghiệp có thể tiếp cận tín dụng
một cách dễ dàng hơn. Thực tế cho thấy ở những nước có luật phá sản chặt chẽ, tỷ
lệ khởi nghiệp thấp hơn, do tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giảm (Sala và
cộng sự 2017). Parchomovsky và Stein (2008) cho rằng hệ thống pháp luật cũng có
tác động đến hoạt động đổi mới, việc truy cứu trách nhiệm do sơ suất trong quá
trình tiến hành hoạt động đổi mới, sản phẩm đổi mới bị lỗi và sản phẩm biến đổi
gen, kết quả đổi mới không phù hợp với đạo đức hay nhân quyền…. đều sẽ là một
trở ngại cho hoạt động đổi mới. Các quy định để đảm bảo hoạt động cạnh tranh là quan
trọng nhưng không nên quá phức tạp, vì điều này sẽ gây khó khăn cho hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp (Nijsen và cộng sự 2009). Ngoài ra, việc thiết lập khuôn khổ thể chế
27
để quản lý doanh nghiệp cần đảm bảo tính hiệu quả, thông qua đó thúc đẩy hoạt
động đổi mới trong các doanh nghiệp.
Tham nhũng là hậu quả của một hệ thống điều hành chính phủ yếu, kém. Các
doanh nghiệp đổi mới có thể phải đối mặt với các yêu cầu hối lộ từ các cơ quan, ban
ngành trong hệ thống chính quyền (Anokhin và Schulze, 2009). Điều này sẽ làm
tăng chi phí cho hoạt động đổi mới của doanh nghiệp và gây khó khăn trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp (Romijn, 2002; Nijsen và cộng sự 2009). Do vậy
một thống pháp luật hiệu quả và công bằng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới (Buddelmeyer và cộng sự, 2006; Baumol, 1990;
Rosenbusch và cộng sự, 2011). Tại Việt Nam, quy định và thủ tục hành chính rườm
rà, không công khai, minh bạch đang là một rào cản lớn để thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư R&D vào Việt Nam. Các quy định thì không rõ ràng và
khó hiểu, các ban ngành chức năng không có sự liên kết với, thủ tục hành chính thì
quá phức tạp điều này gây mất thời gian và chi phí của doanh nghiệp khi thực hiện
hoạt động đổi mới như: khi doanh nghiệp xin các dự án hỗ trợ hoạt động đổi mơi
của chính phủ, xin miễn thuế cho dây truyền công nghệ cao, xin hỗ trợ tín dụng….
(Vũ Anh Dũng và cộng sự, 2018). Chính vì vậy hệ thống pháp luật đòi hỏi phải
công khai và minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho doanh nghiệp khi
làm việc với các cơ quan chính quyền tại địa phương.
Sự kém hiệu quả của bộ máy hành chính quyền sẽ tác động tiêu cực đến hoạt
động đổi mới và có thể làm giảm lợi nhuận từ hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Các
quy định pháp luật chặt chẽ sẽ làm giảm động lực đổi mới và làm giảm đầu tư cho hoạt
động R&D (Aghion và cộng sự, 2009). Hay sự chậm chễ trong việc phê duyệt các thủ
tục giấy tờ liên quan đến việc mua công nghệ phục vụ hoạt động đổi mới, hay thủ tục
giấy tờ phức tạp liên quan đến các chính sách hỗ trợ của nhà nước….sẽ kìm hãm hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp.
Yang và cộng sự (2019) chỉ ra rằng chính sách tài chính công và quy định của
nhà nước liên quan tới vấn đề môi trường chỉ có ảnh hưởng gián tiếp tới hoạt động đổi
mới trong lĩnh vực năng lượng của các doanh nghiệp tại Trung Quốc.
28
1.2.3. Cơ sở hạ tầng
Sivak, Caplanova và Hudson (2012) đã sử dụng số liệu của dự án khảo sát
Doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới (WBES), được thực hiện vào năm 2009, để
phân tích sự đổi mới ở các nước mới nổi ở Châu Âu và Châu Á, bao gồm các nước
đang phát triển nhanh chóng hiện là thành viên của EU và cả những nước đang phát
triển ở Châu Á. Nghiên cứu của họ đã kết luận rằng cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở
hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin và tài chính) rất quan trọng đối với sự đổi
mới, có tác động trực tiếp đến hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới….
Hạ tầng giao thông sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thể hiện qua việc dễ dàng tiếp cận các yếu tố đầu vào, cũng như
thuận tiện trong việc vận chuyển sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp tới tay người
tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Hạ
tầng giao thông cũng sẽ giúp tạo ra các mạng liên kết trong hoạt động đổi mới tại
mỗi địa phương và quốc gia (Djoumessi và cộng sự, 2019; Gallego và cộng sự,
2011; Guinet, 1999).
Theo OECD (2008) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hạ tầng công nghệ
thông tin và công nghệ thông tin là nền tảng hỗ trợ sự đổi mới của một quốc gia.
OECD cũng đề cập đến tầm quan trọng của sự phổ biến Internet. Internet vừa tạo
thuận lợi cho việc tiếp thị hàng hóa và dịch vụ mới của doanh nghiệp, vừa đóng vai
trò cầu nối tri thức, thúc đẩy lan tỏa tri thức, từ đó tác động đến hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp. Chính phủ cũng có thể dựa vào hệ thống thông tin để thúc đẩy
mạng lưới liên kết, từ đó hình thành hệ sinh thái đổi mới quốc gia (Ayyagari và
cộng sự, 2005). Theo Nguyễn Quốc Duy (2015) trong nền kinh tế tri thức, hệ thống
thông tin và tri thức khoa học công nghệ là đầu vào quan trọng của quá trình sản
xuất, cũng như hoạt động đổi mới. Để tiến hành hoạt động đổi mới đòi hỏi mọi
thành viên trong doanh nghiệp phải tiếp cận một cách dễ dàng, hiệu quả các nguồn
thông tin, tri thức khoa học, công nghệ mới, kinh nghiệm hay và thực tiễn tốt. Điều
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp học hỏi, cải tiến và đổi mới.
29
Doanh nghiệp thuận tiện và dễ dàng khi tiếp cận hạ tầng tài chính là một yếu
tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Canepa và cộng sự
(2008) đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận dễ dàng các nguồn tài
chính thì sẽ đầu tư nhiều hơn vào R&D, do đó sẽ làm tăng năng lực đổi mới của doanh
nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp phải đối mặt với hạn chế về tiếp cận hạ tầng tài
chính, thì hiệu suất đổi mới sẽ giảm sút. Hussen và Çokgezen (2019) cũng đồng quan
điểm và ước tính rằng khả năng tiếp cận hạ tầng tài chính có tác động tích cực đến hoạt
động đổi mới.
Hạ tầng khoa học công nghệ là tập hợp các yếu tố hình thành nên bối cảnh dựa
vào đó để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đổi mới. Nó bao gồm các thành phần
chính như: nền tảng tri thức khoa học công nghệ, các cơ quan nghiên cứu và triển khai,
nhân lực khoa học và công nghệ, chính sách khoa học và công nghệ (Irina và cộng sự,
2019)… Theo Vũ Anh Dũng và cộng sự (2018) Việt Nam đã bắt đầu thành lập
những khu công nghệ cao, được thiết kế phục vụ hoạt động R&D bao gồm các tòa
nhà, trang thiết bị, viện nghiên cứu và các trung tâm nghiên cứu…. Đây là điều kiện
tốt để thu hút R&D, cũng như thúc đẩy hoạt động đổi mới trong nước. Tuy nhiên
nhân lực phục vụ trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn yếu và thiếu. Thực tế
nghiên cứu cơ bản không thực sự được chú trọng, kết quả đào tạo tại các trường đại
học chưa tốt, do vậy không đáp ứng được nhu cầu nhân lực chất lượng cao của các
doanh nghiệp.
Hạ tầng văn hóa xã hội gắn với thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia để
thúc đẩy hoạt động đổi mới trong nước. Hạ tầng văn hóa xã hội thể hiện hành vi của cá
nhân, của tổ chức hay doanh nghiệp để phát triển hoạt động đổi mới (Damanpour,
1991). Phuangrod và cộng sự ( 2017) cũng đã phát hiện rằng văn hóa xã hội sẽ ảnh
hưởng đến việc chấp nhận rủi ro, niềm tin trong kinh doanh, tiềm năng phát triển của
doanh nghiệp, gia tăng hoạt động đổi mới và cung cấp thông tin đổi mới hữu ích.
1.2.4. Liên kết và hợp tác
Romijn và Albaladejo (2002) cũng nhấn mạnh rằng mức độ chặt chẽ của mối
liên kết với các thành viên trong chuỗi giá trị và mức độ gần cận về địa lý giữa các
thành viên là điều rất quan trọng để thúc đẩy sự đổi mới trong một doanh nghiệp.
30
Kết quả này cũng nhận được sự ủng hộ của Nguyễn Quốc Duy (2015), khi tác giả
cũng đã phát hiện các yếu tố tác động dương và mạnh đến đổi mới sáng tạo là mối
quan hệ liên kết.
Tác giả Trần Thị Hồng Việt (2016) đã sử dụng mô hình quy tuyến tính đa
biến để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh
nghiệp da giầy Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy có 5 yếu tố chính
ảnh hưởng đến đổi mới sản phẩm, đổi mới marketing, đổi mới quản lý của các
doanh nghiệp da giầy Hà Nội bao gồm nhân sự, tri thức, mối quan hệ liên kết, các
phương tiện hỗ trợ và khung pháp lý. Tác giả nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
phát triển các mối quan hệ liên kết và hợp tác với các trường đại học và viện nghiên
cứu...nhằm giúp doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Liên kết và hợp
tác sẽ đảm bảo gắn kết được các kết quả đổi mới với thị trường, từ đó sẽ nâng cao
được năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Muốn hoạt động đổi mới được thành công, các quốc gia cần phải xây dựng
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (National Innovation System-NIS) là hệ thống
liên kết giữa khu vực hàn lâm (chủ thể tạo ra tri thức - knowledge producer mà đại diện
là các trường đại học, viện nghiên cứu) với khu vực công nghiệp (industry - Các ngành
sản xuất - Hoạt động sản xuất), trong đó Nhà nước/Chính phủ đóng vai trò kiến tạo, kết
nối, tạo môi trường chính sách, thể chế thúc đẩy quan hệ tương tác giữa khu vực hàn
lâm và công nghiệp để tạo ra, ứng dụng và chuyển hóa tri thức thành các giá trị gia
tăng phục vụ người dân và xã hội (Bộ khoa học công nghệ, 2018). Nhà nước cũng đưa
ra một loạt cách chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp cần liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới của Nhà nước cũng
sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi và dễ dàng tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của nhà
nước (Trần Thị Hồng Việt, 2016; Wolfe, và cộng sự, 2004; Phuangrod và cộng sự,
2017, Ayyagari và cộng sự, 2005).
Theo Nguyễn Đình Bình và cộng sự (2015) tầm quan trọng của “Đổi mới
sáng tạo mở”, có nghĩa là doanh nghiệp sẽ chú trọng đến hoạt động liên kết và hợp
tác với các tổ chức nghiên cứu công, liên kết với doanh nghiệp....để giảm thiểu các
rủi ro và tăng sự thành công cho các dự án đổi mới. Lợi ích của hoạt động liên kết
31
và hợp tác đó là: Giúp chuyển dịch và lan tỏa tri trức; Thúc đẩy hoạt động R&D;
Giảm thiểu áp lực tài chính cho các doanh nghiệp.... Tác giả cũng cũng chỉ ra một
số thách thức khi liên kết và hợp tác đó là: Trong liên minh hợp tác khó tìm ra
người chủ trì; Khó khai thác tối ưu nguồn lực bên ngoài; Rủi ro nếu mối liên kết,
hợp tác lỏng lẻo và thiếu tin vậy.... Giải pháp tác giả đưa ra đó là tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin; Lựa chọn mô hình trộn giữa đổi mới sáng tạo đóng và
đổi mới sáng tạo mở.
Theo Nguyễn Quốc Duy (2015) các doanh nghiệp đa quốc gia hiện đang tiên
phong trong hoạt động đổi mới. Do vậy việc liên kết với doanh nghiệp đa quốc gia
là cực kỳ cần thiết. Các doanh nghiệp đa quốc gia giúp chuyển giao tri thức và công
nghệ, giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận các ý tưởng sáng tạo trên phạm vi
quốc tế, đóng góp tích cực vào hệ thống đổi mới thông qua dòng chảy tri thức quốc tế
vào trong nước như sáng chế, bản quyền, hợp tác thương mại và nghiên cứu khoa học,
cung cấp vốn, kinh nghiệm quản lý, kiến thức và bí quyết khoa học công nghệ...
Arranz và cộng sự (2019) cũng nhấn mạnh rằng, sự hợp tác với nhà cung ứng và
các cá nhân là cực kỳ quan trọng trong hoạt động đổi mới. Bởi vì thông qua hoạt động
liên kết, doanh nghiệp có thể chia sẻ nguồn lực cũng như các thông tin, kiến thức cần
thiết để hạn chế rủi ro trong quá trình đổi mới (Hagedoorn, 2006). Theo Nguyễn Quốc
Duy (2015) doanh nghiệp liên kết với nhà cung ứng để mua các yếu tố đầu vào phục vụ
hoạt động đổi mới như: trang thiết bị, chuyển giao công nghệ, tri thức... điều này sẽ góp
phần tạo nên thành công của hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp.
Nguyễn Quốc Duy (2015) khẳng định rằng việc doanh nghiệp liên kết với
các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư mạo hiểm sẽ cung cấp nguồn tài chính cần
thiết phục vụ hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Các tổ chức tài chính không
chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn mà còn có vai trò trong chuyển
giao tri thức.
1.2.5. Nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực
Tác giả Đỗ Văn Hải (2015) nhấn mạnh rằng hoạt động đổi mới trong doanh
nghiệp không phải xuất phát từ việc “bỏ phiếu” ý kiến trong toàn doanh nghiệp, mà
nó phải do nhận thức của nhà quản trị. Nhà quản trị sẽ là người cân nhắc kỹ và đưa
32
ra các quyết định cuối cùng trong quá trình đổi mới của doanh nghiệp. Nhà quản trị
sẽ đóng vai trò quan trọng trong tập trung nguồn lực cho đổi mới, phát hiện và nuôi
dưỡng phát triển các ý tưởng mới, thông qua việc thiết lập khuôn khổ cho sự đổi
mới, đồng thời chỉ đạo và sử dụng hiệu quả các nguồn lực dành cho hoạt động đổi
mới trong doanh nghiệp. Chính vì thế năng lực, trình độ và kinh nghiệm của nhà
quản trị sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp
Darroch (2005) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị tri thức, đổi mới
và kết quả kinh doanh. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy quản trị tri thức có tác động
dương đến đổi mới và kết quả kinh doanh. Kết luận rút ra từ nghiên cứu này là nếu
doanh nghiệp quản trị tri thức tốt thì sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng nguồn lực hiệu
quả hơn, khả năng đổi mới cũng cao hơn và kết quả kinh doanh cũng tốt hơn. Kirca
và cộng sự (2005) đã kết luận rằng các thành phần của tri thức bao gồm các kỹ
năng, học tập và thông tin có tương quan thuận với đổi mới.
Romijn và Albaladejo (2002) phát hiện năng lực đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp được đo lường chủ yếu dựa trên trình độ, năng lực và chất lượng của nguồn
nhân lực. Bởi vì nguồn nhân lực trong doanh nghiệp sẽ là chủ thể của hoạt động đổi
mới. Trong khi đó Wan và cộng sự (2005) đã sử dụng một thước đo tổng hợp bao
gồm cả các yếu tố đầu vào (các yếu tố tác động) và yếu tố đầu ra (kết quả đổi mới
sáng tạo) để đo lường năng lực đổi mới của các doanh nghiệp. Kết quả cho thấy:
Mức độ trao quyền trong việc ra quyết định, mức độ chấp nhận rủi ro, sự sẵn sàng
chia sẻ tri thức và ý tưởng mới đều có tác động mạnh đến hoạt động đổi mới của
doanh nghiệp. Việc chấp nhận rủi ro không có tác động trực tiếp đến tinh thần đổi
mới nhưng có tác động gián tiếp do mối quan hệ của nó với tính chủ động và định
hướng học tập của nhà quản trị. Phát hiện này là phù hợp với các nghiên cứu của
Becheikh (2006); Sala và cộng sự (2017) đã cho thấy sự dũng cảm đó trong việc
chấp nhận rủi ro của nhà quản trị có tương quan thuận với sự nhiệt tình học hỏi của
các nhà quản trị. Do đó, nếu nhà quản trị sẵn sàng chấp nhận những thất bại có thể
xảy ra từ hoạt động kinh doanh và sẵn sàng chấp nhận rủi ro điều này sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến quyết định đổi mới trong doanh nghiệp.
Nguyễn Thanh Cường (2014), trong nghiên cứu về năng lực đổi mới sáng
tạo của chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội đã nhấn mạnh
rằng, động cơ đổi mới sáng tạo và năng lực của nhà quản trị là những yếu tố quan
33
trọng tác động tới đổi mới sáng tạo. Thêm vào đó, kinh nghiệm của nhà quản trị cấp
cao cũng được coi là yếu tố quyết định sự đổi mới của doanh nghiệp. Các nghiên
cứu trước đây cho thấy tỷ lệ đổi mới cao hơn có liên quan đến nhà quản trị có kinh
nghiệm (Ayyagari và cộng sự, 2005; Romijn và Albaladejo, 2002).
Theo Ngo và O‟Cass (2009), đổi mới là một quá trình mang tính hệ thống áp
dụng những kiến thức, kỹ năng và các nguồn lực của doanh nghiệp vào việc thực
hiện các hoạt động đổi mới để tạo ra những đổi mới về kỹ thuật và những đổi mới
phi kỹ thuật. Đồng quan điểm, Arranz và cộng sự (2019), Romijn và Albaladejo
(2002) cũng nhấn mạnh sự ảnh hưởng của trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên
đối với hoạt động đổi mới.
Đổi mới chỉ có thể xuất hiện khi một doanh nghiệp hoặc nhà quản trị coi
trọng hoạt động đổi mới (Drucker, 1998). Hai yếu tố quyết định đến tinh thần đổi
mới của doanh nghiệp chính là: Đặc trưng của doanh nghiệp và tinh thần dám đổi
mới của các nhà quản trị. Phuangrod và cộng sự ( 2017) cũng đã chỉ ra rằng các yếu
tố ảnh hưởng đến tinh thần đổi mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là: Tính chủ
động và mạng lưới, chấp nhận rủi ro và định hướng học tập. Tính chủ động liên
quan đến việc tạo ra sự khác biệt trong thị trường và ý định trở thành người dẫn đầu
thị trường bằng cách gia tăng giá trị cho doanh nghiệp cũng như cải thiện hoặc sửa
đổi hoạt động kinh doanh hiện tại, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng
(Hagedoorn, 2006; Hult, 2004). Sala và cộng sự (2017) cho rằng để hoạt động đổi
mới được hiệu quả, đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp cần xây dựng tinh thần đổi
mới trong doanh nghiệp bằng cách tạo ra văn hóa / hành vi học tập trong tổ chức,
xây dựng tính chủ động, tạo ra mạng lưới kinh doanh, cũng như can đảm đối mặt với
rủi ro khi có một cơ hội kinh doanh mới. Nhà quản trị cần phải có những phương pháp
phù hợp và thực hiện những cải tiến mới để thúc đẩy sự phát triển và tồn tại của doanh
nghiệp cũng như tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
(Aurjiraponpan và cộng sự, 2011) và Vuttiwong (2009) cũng nhận thấy rằng
cam kết học hỏi, cam kết đáp ứng nhu cầu của khách hàng, công nhận và hỗ trợ
những thay đổi mới từ lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu doanh nghiệp, trao đổi kiến
thức trong tổ chức và khen thưởng có tương quan thuận với khả năng đổi mới.
34
1.2.6 Năng lực tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một trong những nguồn lực quan trọng, quyết định sự ra đời,
hoạt động và phát triển của doanh nghiệp (Bygrave, 1992). Để tiến hành các hoạt
động đổi mới, tài chính đầy đủ là điều kiện không thể thiếu (Kaufmann và Todtling,
2002). Schumpeter J.A (1934) cho rằng năng lực tài chính doanh nghiệp ảnh hưởng
rất lớn và ngay lập tức tới đổi mới. Tác giả đã đưa ra một mô hình tác động của tài
chính đến đổi mới và tác giả tìm thấy rằng doanh nghiệp có năng lực tài chính cao
thì hoạt động đổi mới sẽ mạnh hơn, hiệu quả đổi mới cũng sẽ cao hơn. King và
Levine (1993a) và Morales (2003) cũng nhấn mạnh tài chính có tác động tích cực
tới hoạt động đổi mới. Xie và cộng sự (2013) dựa trên một cuộc khảo sát đối với
188 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Trung Quốc. Tác giả cho rằng năng lực tài chính
có thể thúc đẩy hoạt động đổi mới phát triển. Ngược lại hạn chế tài chính sẽ tác
động tiêu cực và làm giảm mức độ thành công của đổi mới.
Romijn và Albaladejo (2002) đã nhấn mạnh rằng mức chi cho hoạt động
R&D và đào tạo có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động đổi mới sáng tạo. Điều này
được ủng hộ bởi Arranz và cộng sự (2019) khi họ nhấn mạnh tầm quan trọng của
chi phí đổi mới và năng lực tài chính của doanh nghiệp. Trong hầu hết các nghiên
cứu đổi mới, mức chi cho hoạt động R&D và chi cho đào tạo được sử dụng như một
chỉ tiêu đại diện cho hoạt động đổi mới và là một trong những yếu tố quyết định chính
đến kết quả của hoạt động đổi mới. Tuy nhiên, Van (2009) lại cho rằng việc đào tạo chỉ
thể hiện khả năng vốn con người ở một trình độ nhưng không phải là kỹ năng thực tế
của người lao động. Tuy nhiên nguồn vốn nhân lực của doanh nghiệp có thể được cải
thiện thông qua hoạt động đào tạo, thiếu hoạt động đào tạo sẽ có tác động tiêu cực đến
hoạt động đổi mới (Hussen và Çokgezen, 2019; Kaufmann, 2002).
Năng lực quản lý tài chính thể hiện khả năng điều hành các chính sách tài
chính, nhà quản trị cần sử dụng thông tin phản ánh chính xác tình hình tài chính của
doanh nghiệp để đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định
đó, nhằm đạt được mục tiêu đổi mới của doanh nghiệp. Năng lực quản lý tài chính
sẽ quyết định mức chi và các khoản chi phục vụ hoạt động đổi mới của doanh
35
nghiệp như chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, chi mua trang thiết bị, máy móc,
phần mềm; chi cho đào tạo nâng cao trình độ lao động phục vụ hoạt động đổi mới (Hồ
Ngọc Luật và Phạm Thế Dũng, 2018). Chính vì vậy năng lực quản lý tài chính sẽ quyết
định hiệu suất đổi mới của doanh nghiệp (Quevedo và cộng sự, 2017).
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn từ các chủ sở hữu doanh nghiệp, mà doanh
nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn này thường do chủ doanh nghiệp
và các nhà đầu tư góp vốn hoặc có thể được hình thành từ kết quả kinh doanh. Rất
nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh doanh nghiệp FDI có lợi thế hơn các
doanh nghiệp trong nước khi tiến hành hoạt động đổi mới, nguyên nhân là do họ có
nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào (Bartlett và Ghoshal, 1989; Ghoshal và Moran,
1996). Khi doanh nghiệp có nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào thì doanh nghiệp sẽ luôn
tìm cách nắm giữ quyền sở hữu công nghệ độc quyền, đầu tư nhiều hơn cho nhân
lực trình độ cao, ngân sách R&D sẽ vượt trội hơi....từ đó có lợi thế hơn so với
doanh nghiệp có nguồn vốn chủ sở hữu hạn hẹp (Bùi Nhật Lệ Uyên, 2018).
Đổi mới là một quá trình dài hạn đòi hỏi một nguồn tài chính phong phú.
Nếu nguồn tài chính của doanh nghiệp hạn hẹp, đòi hỏi doanh nghiệp phải tiếp cận
được các khoản vay. Nếu khó khăn trong tài chính và khả năng vay vốn, điều này sẽ
làm doanh nghiệp không muốn tham gia vào hoạt động đổi mới, do sợ rủi ro. Một
số nhà kinh tế học còn chứng minh rằng hạn chế tài chính có tác động tiêu cực đến
hoạt động đổi mới, điều này có thể dẫn đến việc phải dừng thực hiện các dự án đổi
mới (Canepa và Stoneman, 2008; Morales và cộng sự, 2003).
Theo Morales và cộng sự (2003) khả năng quay vòng vốn cũng tác động
mạnh đến hoạt động đổi mới. Khi vòng quay vốn thấp chứng tỏ khả năng sản xuất,
luân chuyển hàng hóa và thu hồi vốn của doanh nghiệp bị chậm. Điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng
gián tiếp đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp.
36
Bảng 1.2: Tổng hợp các yếu tố tác động đến đổi mới trong doanh nghiệp
STT Nhóm yếu tố
Nguồn tổng quan
1
Cạnh tranh và thông tin thị trường
2
chế, Thể chính sách và hệ thống pháp luật
3
Cơ sở hạ tầng
4
Liên kết và hợp tác
5
Nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực
6
Năng lực tài chính doanh nghiệp
Porter (2008); Arranz và cộng sự (2019); Bùi Nhật Lệ Uyên (2019); Trần Thị Hồng Việt (2016); Acs và cộng sự (1988); Dananpour và cộng sự (2006); Sala và cộng sự (2017); Manget và cộng sự (2009); Aghion và cộng sự (1999); Lee và cộng sự (2005); Aghion và cộng sự (2005); Hussen và Çokgezen (2019); Geroski (1990); Cohen (1990); Aghion (2005); Lý thuyết đổi mới của Schumpeter; Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers; Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) Arranz và cộng sự (2019); Romijn và Albaladejo (2002); Nguyễn Quốc Duy (2015); Yang và cộng sự (2019); Hussen và Çokgezen (2019); Bùi Nhật Lệ Uyên (2018); Sivak và cộng sự (2011); Parchomovsky và Stein (2008); Sala và cộng sự (2017); Nijsen và cộng sự (2009); Anokhin và Schulze (2009); Romijn (2002); Buddelmeyer và cộng sự (2006); Baumol (1990); Rosenbusch và cộng sự (2011); Vũ Anh Dũng và cộng sự (2018); Aghion và cộng sự (2009); Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers; Lý thuyết đổi mới của Teece; Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) Sivak, Caplanova và Hudson (2012); Djoumessi và cộng sự (2019); Gallego và cộng sự (2011); Guinet (1999); OECD (2008); Ayyagari và cộng sự (2005); Nguyễn Quốc Duy (2015); Canepa và cộng sự (2008); Hussen và Çokgezen (2019); Irina và cộng sự (2019); Damanpour (1991); Phuangrod và cộng sự (2017) Romijn và Albaladejo (2002); Nguyễn Quốc Duy (2015); Trần Thị Hồng Việt (2016); Wolfe và cộng sự (2004); Phuangrod và cộng sự (2017); Ayyagari và cộng sự (2005); Nguyễn Đình Bình và cộng sự (2015); Arranz và cộng sự (2019); Hagedoorn (2006); Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) Đỗ Văn Hải (2015); Darroch (2005); Kirca và cộng sự (2005); Romijn và Albaladejo (2002); Wan và cộng sự (2005); Becheikh (2006); Sala và cộng sự (2017); Nguyễn Thanh Cường (2014); Ayyagari và cộng sự (2005); Ngo và O‟Cass (2009); Arranz và cộng sự (2019); Drucker (1998); Phuangrod và cộng sự (2017); Hagedoorn (2006); Hult (2004); Aurjiraponpan và cộng sự (2011); Vuttiwong (2009); Lý thuyết đổi mới nội sinh; Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers; Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) Bygrave (1992); Kaufmann và Todtling (2002); Schumpeter (1934); King và Levine (1993a); Morales (2003); Xie và cộng sự (2013); Romijn và Albaladejo (2002); Arranz và cộng sự (2019); Van (2009); Hussen và Çokgezen (2019); Kaufmann (2002); Hồ Ngọc Luật và Phạm Thế Dũng (2018); Quevedo và cộng sự (2017); Bartlett và Ghoshal (1989); Ghoshal và Moran (1996); Bùi Nhật Lệ Uyên (2018); Canepa và Stoneman (2008); Morales và cộng sự (2003); Morales và cộng sự (2003); Lý thuyết đổi mới nội sinh; Lý thuyết đổi mới của Teece; Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013)
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
37
1.3. Khoảng trống nghiên cứu
Qua quá trình tổng quan tài liệu nghiên cứu mà tác giả được tiếp cận được,
tác giả nhận thấy trong nghiên cứu còn có nhiều khoảng trống liên quan đến đổi
mới trong các doanh nghiệp công nghiệp, gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, nhiều nhà khoa học ở một số quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu
về đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp. Tuy nhiên ở Việt Nam có rất ít
công trình nghiên cứu tới đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp. Đặc biệt chưa
có một luận án hay một công trình nào đánh giá thực trạng mức độ thực hiện các
nội dung của đổi mới theo các khía cạnh: Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi
mới tổ chức; đổi mới marketing.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về đổi mới tại Việt Nam hiện nay mới
dừng lại ở việc đưa ra các khái niệm, phân loại đổi mới theo hiệp hội OECD. Chưa
có công trình nào đưa ra một các nhìn tổng thể về cơ sở lý luận của đổi mới, đánh
giá tác động của đổi mới tới nền kinh tế, cũng như đối với doanh nghiệp.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới chỉ
dừng lại ở một số công trình là bài báo trong nước hoặc một số luận án nghiên cứu
các yếu tố ảnh hưởng tới một nội dung của đổi mới như: Đổi mới sản phẩm hay đổi
mới quy trình. Chưa có một công trình nào nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới bốn
nội dung của đổi mới là: Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức, đổi
mới marketing.
Từ các khoảng trống nghiên cứu trên, tác giả đã xác định hướng nghiên cứu
của mình như sau: (1) Tác giả đã dựa vào lý thuyết về đổi mới (được giới thiệu chi
tiết ở chương 2); (2) Xây dựng 6 yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới bao gồm Cạnh tranh
và thông tin thị trường; Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật; Cơ sở hạ tầng;
Liên kết và hợp tác; Nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực; năng
lực tài chính doanh nghiệp; (3) Tác giả đánh giá thực trạng của các yếu tố, đồng
thời xây dựng mô hình nhằm đánh giá ảnh hưởng của từng yếu tố tới hoạt động đổi
mới trong doanh nghiệp công nghiệp; (iv) dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề
xuất các giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
38
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Nội dung chương 1 đã tổng quan được những nội dung cơ bản về đổi mới và
yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp, bao gồm: Làm rõ
những nghiên cứu về đổi mới ở trong nước và ngoài nước như: Quan niệm về đổi
mới, tầm quan trọng của đổi mới, loại hình và hình thức của đổi mới; Phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp, bao gồm: Cạnh
tranh và thông tin thị trường; thể chế và hệ thống pháp luật; cơ sở hạ tầng; liên kết và
hợp tác; nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực; năng lực tài chính
doanh nghiệp; Chỉ ra khoảng trống trong nghiên cứu để làm cơ sở hoàn thiện hệ thống
lý luận và nghiên cứu thực tiễn thực trạng hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới
hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
39
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI
ĐỔI MỚI TRONG DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm về đổi mới (Innovation) trong doanh nghiệp
Định nghĩa đầu tiên về đổi mới được phát triển bởi Schumpeter (1934), “Đổi
mới có thể được xác định như là một sự giới thiệu của một sản phẩm mới, hoặc một
chất lượng mới của sản phẩm” và “Quá trình đổi mới là một sự giới thiệu phương
pháp sản xuất mới”. Roger (2003) định nghĩa “Đổi mới nghĩa là phát mình kèm
theo khai thác”.
Druker (1998) “Đổi mới sáng tạo là công cụ, phương tiện cụ thể các doanh
nghiệp sử dụng khai thác sự thay đổi như một cơ hội để tạo ra công việc kinh doanh
hoặc dịch vụ khác” và giúp doanh nghiệp phản ứng tốt với thay đổi trong môi
trường bên ngoài hoặc có những hành động làm thay đổi môi trường (Damanpour
và cộng sự, 2006). Mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động kinh doanh là tạo ra
khách hàng và chỉ có hai chức năng trong doanh nghiệp có thể làm được điều này,
đó là marketing và đổi mới sáng tạo (Drucker, 1998).
Harvard (2003) “Đổi mới là hiện thân, là sự kết hợp hay tổng hợp kiến thức
các sản phẩm, quy trình hay dịch vụ mới, có giá trị, có liên quan và có nguồn gốc”
Theo tác giả Adams và cộng sự (2006) cho rằng “Đổi mới đó là việc khai thác
thành công các ý tưởng mới‖.
Nhìn chung, khởi nguồn của đổi mới là “tri thức mới” và “ý tưởng mới”.
Plessis (2007) “Đổi mới là việc tạo ra tri thức và ý tưởng mới nhằm đem lại kết quả
kinh doanh tốt hơn, cải thiện các quy trình, cơ cấu lại tổ chức nội bộ và tạo ra định
hướng thị trường sản phẩm và dịch vụ”.
Trong luận án này tác giả sẽ tiếp cận khái niệm của đổi mới theo hướng tiếp
cận của OECD (2005) “Đổi mới bao gồm việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ,
quy trình mới hoặc cải tiến đáng kể; phương pháp marketing mới hoặc phương thức
quản trị tổ chức mới”.
40
2.1.2. Khái niệm doanh nghiệp công nghiệp
Theo luật doanh nghiệp (2020) định nghĩa “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
Phân chia doanh nghiệp theo phạm vi hoạt động thì doanh nghiệp sẽ phân
thành: Doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương
mại… Trong đó “Doanh nghiệp công nghiệp là đơn vị cơ sở thực hiện một hay một
số chức năng: Khai thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến sản phẩm, khai thác
(nông, lâm , hải sản) và hoạt động phục vụ có tính chất công nghiệp nhằm tạo ra
sản phẩm công nghiệp để cung cấp cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội”.
Doanh nghiệp công nghiệp có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế của một quốc
gia, giúp tăng thu nhập quốc gia, tạo ra nhiều việc làm, giúp tạo ra tư liệu sản xuất
hiện đại để phát triển các ngành nghề, lĩnh vực khác….
Doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo là một đơn vị kinh tế quan trọng
trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp sẽ tạo ra
các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Kenton (2018) định
nghĩa “Doanh nghiệp chế biến chế tạo là doanh nghiệp tạo ra sản phẩm hàng hóa
cuối cùng để bán cho khách hàng trên một phạm vi rộng lớn”. Trong khi đó
Nguyễn Lê Thanh Tuyền (2013) lại cho rằng doanh nghiệp chế biến chế tạo là
doanh nghiệp sử dụng kết hợp các nguồn lực và áp dụng các khoa học kỹ thuật tiên
tiến để sản xuất hàng hóa phù hợp với nhu cầu của thị trường.
2.1.3. Khái niệm hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp
Hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp là việc "kết hợp nhiều loại kiến thức,
năng lực, kỹ năng và nguồn lực khác nhau" (Fagerberg, 2003) để tìm kiếm lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp, thông qua việc giảm chi phí sản xuất, phát triển sản
phẩm mới/dịch vụ mới hoặc thay đổi những sản phẩm hiện có. Hoạt động đổi mới
là quá trình doanh nghiệp chủ động kết hợp các nguồn lực, thể hiện nỗ lực để tạo ra
các kết quả đầu ra của đổi mới (Lall, 2001).
Hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp liên quan đến nỗ lực
tìm kiếm kiến thức mới và tiếp thu, điều chỉnh hoặc phát triển kiến thức hiện có,
41
cũng như các hình thức khác nhau để tăng năng lực sản xuất và công nghệ của
doanh nghiệp, tăng cường thiết bị hoặc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm
phục vụ hoạt động đổi mới. Các hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp
thường bao gồm:
- Hoạt động kết hợp các yếu tố đầu vào phục vụ hoạt động đổi mới như:
+ Nghiên cứu và phát triển (R&D) trong doanh nghiệp hoặc thông qua thỏa
thuận thuê một đại lý bên ngoài công doanh nghiệp để thực hiện công việc.
+ Hoạt động mua lại công nghệ mới như thiết bị, phần cứng và phần mềm
hoặc hoạt động mua giấy phép hay bằng sáng chế.
+ Hoạt động thuê các công ty tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ đổi mới
trong doanh nghiệp.
+ Hoạt động đổi mới kỹ thuật và đổi mới thiết kế Công nghiệp.
+ Hoạt động đào tạo cán bộ.
- Hoạt động sử dụng các kết quả đổi mới
- Hoạt động thương mại hóa kết quả đổi mới
Hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp thì doanh nghiệp chiếm
vị trí trung tâm, nhà nước đóng vai trò khuyến khích và tạo hành lang phá lý nhằm bảo
vệ và thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới. Trong hoạt động đổi
mới doanh nghiệp cần hiểu rõ thị trường như cấu trúc, đặc điểm thị trường, môi trường
vĩ mô và vi mô, khả năng hoặc cơ hội mà môi trường mang lại, những khó khăn mà
doanh nghiệp gặp phải. Từ đó doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đổi mới cho phù
hợp, thông qua việc thiết kế một chiến lược đổi mới và xây dựng các nguồn lực nhằm
thực hiện chiến lược đó. Thành công của hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp công
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc lựa chọn chiến lược đổi mới cho phù hợp.
Hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp sẽ phụ thuộc mức độ
ưu tiên của nhà quản lý, cũng như phụ thuộc vào các nguồn lực hiện có của doanh
nghiệp. Nguồn lực này bao gồm nguồn nhân lực, tài lực, vật lực và hệ lực... Bởi vì để
tiến hành hoạt động đổi mới các doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực chất lượng cao,
nguồn tài chính dồi dào, cơ sở vật chất hiện đại và mối liên kết hợp tác đa dạng và
phong phú.
42
Luận án này tác giả sử dụng khái niệm hoạt động đổi mới trong doanh
nghiệp công nghiệp là quá trình dài hạn để tiến hành các hoạt động khoa học, công
nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại các kết quả đổi mới bao gồm việc triển khai
các sản phẩm mới, quy trình mới, một phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh
mới hay một phương pháp marketting mới.
2.2. Tầm quan trọng của đổi mới đối với doanh nghiệp công nghiệp
Thứ nhất, đổi mới giúp doanh nghiệp công nghiệp gia tăng lợi nhuận.
Có rất nhiều nhà kinh tế học đã giải thích mối quan hệ tích cực giữa đổi mới
và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Brown và Eisenhardt, 1995; Damanpour,
1991; Guo, Baruch, và Zhou, 2005; Li và Atuahene ‐ Gima, 2001). Các nhà nghiên
cứu khẳng định rằng đổi mới là động lực chính cho tăng trưởng doanh nghiệp, góp
phần vào tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và đảm bảo doanh nghiệp phát triển
trong dài hạn.
Đổi mới là một quá trình nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm mới. Từ đó tạo
ra sự khác biệt về sản phẩm, về giá, về đặc tính của sản phẩm. Doanh nghiệp công
nghiệp có thể tăng giá bán với sản phẩm mới hoặc tăng doanh số bán hàng, thông
qua đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác lợi nhuận là kết quả của doanh
thu trừ đi chi phí. Kết quả đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí từ việc đổi
mới, cải tiến trong phương thức, phương pháp, quy trình, kỹ thuật hay trang thiết bị
sản xuất theo hướng giúp giảm chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp, giảm giá thành và loại bỏ được đối thủ cạnh tranh, thông qua đó tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Schumpeter (1934) đã khẳng định rằng đổi mới là chìa
khóa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đổi mới không chỉ
làm tăng lợi nhuận và kết quả đầu ra của doanh nghiệp, mà còn là nền tảng phát
triển để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Thứ hai, đổi mới giúp doanh nghiệp công nghiệp tồn tại và phát triển bền vững
Đổi mới là hoạt động rất cần thiết để cho các doanh nghiệp công nghiệp có
thể tồn tại và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm này đã được Baumol
(2002) tán thành: “Trong chủ nghĩa tư bản, hoạt động đổi mới ... trở thành bắt
buộc, quyết định doanh nghiệp sống hay chết” và “... đổi mới đã làm thay đổi giá
43
cả, phân chia lại cơ cấu, ngành nghề, lĩnh vực trong ngành công nghiệp".
Tất cả các doanh nghiệp công nghiệp dù mới thành lập hay các doanh nghiệp
lâu đời đều cần phải tăng cường hoạt động đổi mới. Đổi mới là một phương tiện đắc
lực cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường thành công và làm suy yếu các
doanh nghiệp đã có tên tuổi. Ngoài ra, các doanh nghiệp đã có tên tuổi cũng vẫn cần
phải đổi mới để duy trì lợi thế cạnh tranh của mình khi đối mặt với sự thay đổi và
phát triển công nghệ như vũ bão (Almeida và cộng sự, 1997).
Hoạt động đổi mới sẽ tạo ra động lực phong phú thúc đẩy doanh nghiệp tăng
trưởng (Arrow, 1962; Law và cộng sự, 2020; Quadrio, 1994). Sự đổi mới sẽ làm
tăng chất lượng sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh, điều này sẽ làm quy mô
của doanh nghiệp và buộc các đối thủ cạnh tranh hiện tại của doanh nghiệp phải sản
xuất các sản phẩm phiên bản cũ và lỗi thời, trước khi phải rút lui khỏi thị trường.
Đổi mới giúp cải tiến chất lượng, tăng sự thay đổi và đa dạng hóa sản phẩm
và có ảnh hưởng tích cực việc làm trong doanh nghiệp (Guinet và Pilat, 1999).
Ngoài ra, đổi mới cho phép mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng
cao danh tiếng và giảm chi phí (Abernathy và Clark, 1985). Theo Schumpeter
(1934), đổi mới là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh đạt được thu nhập thông
qua việc tạm thời thiết lập độc quyền. Ngày nay các sản phẩm và dịch vụ hiện có dễ
bị ảnh hưởng bởi công nghệ mới, nhu cầu khách hàng thay đổi và cạnh tranh quốc
tế ngày càng mạnh mẽ. Do vậy đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm
mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, hoặc có thể giúp doanh nghiệp tạo ra
các nhu cầu mới và do đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển bền vững
(Rosenbusch, Brinckmann và Bausch, 2011).
Thứ ba, đổi mới giúp doanh nghiệp công nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh
Môi trường thay đổi và vòng đời sản phẩm bị rút ngắn, khả năng tạo ra các
đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp có thể là yếu tố then chốt cho phép doanh
nghiệp duy trì hoặc đạt được lợi thế cạnh tranh và do đó cải thiện năng suất (Artz và
cộng sự, 2010 ). Về cốt lõi, đổi mới là làm một điều gì đó khác biệt so với đối thủ
cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp thực hiện đổi mới trên các sản phẩm, thì mục tiêu là
phát triển hoặc cập nhật các sản phẩm cho đến khi không có sản phẩm nào khác trên
44
thị trường giống như sản phẩm đó. Nếu doanh nghiệp thực hiện đổi mới quy trình,
điều này sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, tiền bạc hoặc các nguồn lực khác
và mang lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác đang
bị mắc kẹt trong hệ thống quy trình cũ, lỗi thời, kém tính cạnh tranh.
Thứ tư, đổi mới giúp doanh nghiệp công nghiệp thực hiện tốt hơn trách
nhiệm với xã hội
Đổi mới có thể thúc đẩy một doanh nghiệp phát triển công nghệ linh hoạt
hơn, do đó cho phép kết hợp sở thích của khách hàng vào thiết kế của hàng hóa
được sản xuất (Gallego và cộng sự, 2011). Hoạt động đổi mới này có thể cải thiện
sự hài lòng của khách hàng và nâng cao thương hiệu cho doanh nghiệp. Surroca và
Tribó (2008) cho biết đổi mới có thể mang lại công nghệ có trách nhiệm với môi
trường hơn về mặt xã hội, đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan bên ngoài doanh
nghiệp. Đổi mới ảnh hưởng đến cách thức mà doanh nghiệp quan hệ với cộng đồng
(Hill và Jones, 1992). Khi một doanh nghiệp đưa ra quyết định phát triển đổi mới tổ
chức bằng cách thay đổi chính sách nguồn nhân lực của mình, đổi mới đó có thể
ảnh hưởng không chỉ đến nhân viên của mình mà còn ảnh hưởng đến xã hội, vì nó
nhằm mục đích cải thiện phúc lợi của người lao động hoặc các bên liên quan. Đổi
mới cũng có thể mang lại các thực hành có trách nhiệm hơn cho nhân viên của
mình, cho phép và thúc đẩy sự phát triển các kỹ năng và nghề nghiệp của nhân viên.
Tóm lại, những hành động đổi mới này có thể cải thiện hình ảnh doanh nghiệp và
tối đa hóa phúc lợi xã hội nói chung.
Thứ năm, đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp thu hút và giữ chân nhân tài hàng đầu.
Các doanh nghiệp nổi tiếng về sự đổi mới sẽ được người lao động ưu tiên
trong việc lựa chọn, từ đó giúp doanh nghiệp tuyển chọn được những người lao
động có trình độ chất lượng cao. Thiết lập thương hiệu của doanh nghiệp “Đổi mới
hàng đầu” là một cách sáng tạo, có thể khuyến khích những tài năng hàng đầu áp
dụng và tiếp tục cam kết với doanh nghiệp, mang lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh
tranh mạnh mẽ về nguồn nhân lực. Sử dụng số liệu của các công ty được niêm yết
của Trung Quốc, phân tích mô hình lý thuyết các công ty không đồng nhất
(heterogeneous firms), Yang và cộng sự (2022) đã nhấn mạnh tầm mối quan trọng
45
giữa nguồn nhân lực và hoạt động đổi mới của công ty. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
các doanh nghiệp có danh tiếng về đổi mới và phát triển sẽ dễ dàng thu hút được
nguồn nhân lực chất lượng cao. Và nguồn nhân lực này sẽ làm giảm chi phí đổi mới
của công ty, đồng thời tăng hiệu suất, chất lượng, cũng như số lượng đổi mới, bằng
sáng chế. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao cũng sẽ nâng cao sự đồng đều về
chất lượng của bằng sáng chế.
Bên cạnh đó vào đó, González và García-Almeida (2021) đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của một hệ thống đổi mới sáng tạo doanh nghiệp tốt với tính sáng tạo,
kinh nghiệm, trình độ và đặc biệt là động lực của nhân viên. Sử dụng dữ liệu của
153 nhân viên từ các khách sạn tại Tenerife (Tây Ban Nha), các tác giả đã chỉ ra
rằng giá trị công ty, danh tiếng doanh nghiệp, cũng như các phần thưởng xứng đáng
là yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy động lực làm việc và lòng trung thành của
nhân viên.
2.3. Đặc trƣng đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp
Doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn thường tập trung vào hoạt động
đổi mới hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Doanh nghiệp công nghiệp có quy
mô lớn sẽ đi đầu trong hoạt động đổi mới sáng tạo của quốc gia, dẫn dắt những
doanh nghiệp vệ tinh, doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong khi
nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa: Thường tập trung vào nâng cao năng lực hấp thụ
công nghệ, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Nhóm các doanh nghiệp khoa học và công
nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao: Hoạt động chủ yếu là thương mại hóa kết quả
nghiên cứu và phát triển công nghệ, li-xăng... Nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo: Có tiềm năng tăng trưởng nhanh dựa trên việc khai thác tài sản trí tuệ.
Đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp thường có xu hướng tạo ra sản
phẩm sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên: Ngày nay doanh nghiệp công nghiệp
đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt ở thị trường trong nước,
cũng như thị trường quốc tế. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần tăng cường đổi mới
để tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong doanh nghiệp. Đặc
biệt đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp có xu hướng tạo ra những sản
phẩm sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên (Meshalkin và cộng sự, 2011; Shinkevich
46
và Lubnina, 2013; Malysheva và cộng sự, 2016). Đổi mới sản phẩm đã chú trọng
đến việc tạo ra các dòng sản phẩm sử dụng tiết kiệm tài nguyên và ít chất thải, tìm
kiếm các nguồn tài nguyên có sẵn trong tự nhiên để thay thế. Ngoài ra đổi mới còn
chú trọng đến phát triển các phương pháp tổ chức quản lý, đổi mới công nghệ sản
xuất...theo hướng sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đổi mới trong ngành công nghiệp có tính cạnh tranh cao hơn so với ngành
khác: Schumpeter (1942) cho biết đặc trưng đổi mới trong doanh nghiệp công
nghiệp có mức độ cạnh tranh cao hơn so với ngành khách, do số lượng đối thủ cạnh
tranh thường lớn và rất mạnh, có nhiều rào cản hơn khi doanh nghiệp gia nhập vào
thị trường, cũng như là khi tham gia vào hoạt động đổi mới.
Đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp thường làm thay đổi cơ cấu lao
động trong doanh nghiệp: (Cirera and Sabetti, 2019) cho biết đổi mới trong các
doanh nghiệp công nghiệp thường cho ra đời của các dòng sản phẩm mới có xu
hướng tạo ra nhiều việc làm hơn. Tuy nhiên nếu đổi mới quy trình trong các doanh
nghiệp công nghiệp thường sử dụng công nghệ sản xuất hiện đại hơn hoặc cho ra
đời các sản phẩm được nâng cấp, điều này có thể dẫn đến việc sử dụng ít lao động
hơn hoặc thay thế, sử dụng lao động hiệu quả hơn.
Tính không chắc chắn thành công trong đổi mới cao: Đổi mới là kết quả đầu
tư của các doanh nghiệp vào vốn tri thức, thực hành quản lý và quyết định tổ chức.
Mục tiêu cuối cùng của các khoản đầu tư này là giới thiệu các sản phẩm hoặc quy
trình mới hoặc nâng cấp có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp bằng cách tăng năng suất, doanh số bán hàng, lợi nhuận hoặc điểm số. Tuy
nhiên, có sự không chắc chắn về mức độ hiệu quả mà các doanh nghiệp chế biến
chế tạo có thể chuyển đổi các khoản đầu tư vốn tri thức thành các kết quả đổi mới.
Sự không chắc chắn này đặc biệt cao ở các doanh nghiệp công nghiệp, khi mà đổi
mới đòi hỏi các yếu tố bên trong như tài chính, kỹ năng, năng lực của đội ngũ nhân
viên, nhà quản trị trong doanh nghiệp… và các yếu tố bên ngoài như chính sách
pháp luật, cơ sở hạ tầng….. Tác động của đổi mới đến việc làm phụ thuộc vào việc
phân bổ công nhân bổ sung cho các đổi mới và tác động của những nỗ lực đổi mới
này phụ thuộc vào hiệu quả của doanh nghiệp. Lou và cộng sự (2022) đã nghiên
47
cứu thị trường vốn của Trung Quốc và nghiên cứu mối quan hệ giữa đổi mới doanh
nghiệp và rủi ro thị trường. Nghiên cứu này đề cập tới “lo ngại rủi ro” và nhấn
mạnh rằng việc định giá sai ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới thông qua các kênh tài
chính và hành vi quản lý. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh tính rủi ro của đổi mới, đặc
biệt là các thị trường mới nổi.
Đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp đòi hỏi phải tập trung nguồn lực
cao hơn so với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác: Laursen và Andersen
(2023) đã nhấn mạnh rằng, việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực là một
thách thức rất lớn đối hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Dựa trên phân tích các
doanh nghiệp toàn cầu, trong đó có công ty Unilever, nhóm nghiên cứu đã phân
tích tác động của quản trị nguồn lực và mạng lưới đổi mới tới hiệu quả đổi mới
của doanh nghiệp.
Đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp thành công thường phải chú ý
đến nhu cầu và đặc điểm của người tiêu dùng; tích hợp các hoạt động phát triển, sản
xuất và tiếp thị; liên kết với các nguồn thông tin khoa học kỹ thuật bên ngoài; ưu
tiên các nguồn lực R&D chất lượng cao; đưa các nhà quản trị kinh doanh có trình
độ cao, giàu kinh nghiệm phụ trách dự án; và có cam kết mạnh mẽ từ lãnh đạo cao
nhất và hội đồng quản trị. Một yếu tố khác bao gồm là trình độ kỹ năng của lực
lượng lao động. Kỹ năng của nhân viên có thể được coi là đầu vào cần thiết trong
hoạt động đổi mới. Đặc biệt, Schumpeter đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhà
quản trị.
Doanh nghiệp công nghiệp thường chú trọng đến hợp tác, liên kết trong quá
trình đổi mới: Guinet (1999) cho rằng mối quan hệ giữa đổi mới và hợp tác nghiên
cứu trong ngành công nghiệp rất khăng khít. Đặc biệt, mức độ của các thỏa thuận
nghiên cứu hợp tác để đổi mới có thể phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp và ý
nghĩa của sự đổi mới. Ví dụ: các doanh nghiệp tiến hành hoạt động R & D để giới
thiệu kết quả đổi mới đối với thị trường thay vì mới đối với doanh nghiệp, có nhiều
khả năng tham gia vào các thỏa thuận hợp tác R&D để tiến hành các hoạt động đổi
mới. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp chế biến chế tạo tiến hành phát triển các
sản phẩm, quy trình và dịch vụ mới phải hình thành các thỏa thuận hợp tác với các
48
doanh nghiệp hoặc tổ chức khác. Nhằm thúc đẩy mối liên kết và hợp tác giữa doanh
nghiệp và doanh nghiệp, giữa các nhà nghiên cứu tại trường đại học và các doanh
nghiệp, liên kết giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp.... Vấn đề cốt lõi là sự hợp tác,
dù chính thức hay không chính thức, đều cho phép các doanh nghiệp đổi mới giảm
chi phí bằng cách loại bỏ sự trùng lặp và đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Một lợi ích khác liên kết, hợp tác là sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tìm
kiếm, điều chỉnh và thu thập thông tin liên quan đến đổi mới, cũng như phân tán rủi
ro và tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.4. Nội dung đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp
Tác giả lựa chọn việc phân loại nội dung của đổi mới theo cách tiếp cận của
OECD (2005), nội dung đổi mới bao gồm:
2.4.1. Đổi mới sản phẩm
Theo OECD (2005, tr48), “Đổi mới sản phẩm (product innovation) là việc
giới thiệu một sản phẩm mới hoặc được cải tiến đáng kể đối với các đặc tính hoặc
mục đích sử dụng của nó. Điều này bao gồm những cải tiến đáng kể trong các chi
tiết kỹ thuật, các thành phần và nguyên liệu, phần mềm tích hợp, tính thân thiện với
người sử dụng hoặc các đặc tính chức năng khác”. Đổi mới có thể tạo ra sản phẩm
khác biệt hoàn toàn so với sản phẩm cũ như việc “phát triển các dòng sản phẩm,
thương hiệu mới”, hoặc chỉ là sự cải tiến nhỏ từ “thiết kế sản phẩm, bao bì, mẫu
mã”, tính năng sử dụng của sản phẩm (Amara và cộng sự, 2009).
Theo Amara và cộng sự (2009) hoạt động đổi mới sản phẩm nhằm hướng tới
việc nâng cao “chất lượng sản phẩm”. Bằng cách đưa vào thị trường một sản phẩm
hoặc dịch vụ mới có thông số kỹ thuật, thành phần, vật liệu hoặc đặc tính chức năng
cao hơn so với các sản phẩm trước đây của doanh nghiệp.
Thái Hà (2009) “Đổi mới sản phẩm/dịch vụ là kết quả của việc thực hiện một
phương thức mới để giải quyết vấn đề của khác hàng, mang lại lợi ích cho khách
hàng và công ty cung cấp”.
Đổi mới sản phẩm là sự giới thiệu một sản phẩm mới hay một sự cải tiến của
sản phẩm hiện có (Chang và cộng sự, 2011). Mục tiêu nhằm gia tăng các đặc tính
của sản phẩm như tính kinh tế, tính kỹ thuật, tính xã hội… của sản phẩm (Artz và
49
cộng sự, 2019). Đồng quan điểm trên, Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013) cho rằng
đổi mới sản phẩm là sự thay đổi và điều chỉnh chức năng sản phẩm so với sản phẩm
đang có trên thị trường. Để đổi mới sản phẩm thành công doanh nghiệp cần phải sử
dụng công nghệ, tri thức mới hoặc kết hợp giữa công nghệ và tri thức mới trong
việc sản xuất sản phẩm (Gunday và cộng sự, 2011). Theo Nord và Tucker (1987)
“Đổi mới là một sản phẩm liên quan đến công nghệ mới”. Để làm rõ vấn đề này, Hồ
Ngọc Luật (2019) phân biệt giữa sản phẩm được cải tiến đáng kể và sản phẩm mới
hoàn toàn. Sản phẩm được cải tiến là sản phẩm cũ nhưng được bổ sung thêm các
tính năng mới, hoặc đơn giản chỉ là sự hạ thấp giá thành bằng cách thay đổi nguyên
liệu, các thành phần cấu thành….
Ngày nay, nhu cầu của khách hàng thay đổi liên tục, điều này dẫn đến đổi
mới sản phẩm cũng cần phải thay đổi để phù hợp với nhu cầu. Cạnh tranh trên thị
trường ngày càng gay gắt, sự thay đổi công nghệ thì nhanh chóng, dẫn đến chu kỳ
sống của sản phẩm ngắn (Gunday và cộng sự, 2011). Do đó đổi mới sản phẩm là
hoạt động hết sức khó khăn. Chúng ta có thể dễ dàng đo lường các lợi ích có được
từ đổi mới sản phẩm, tuy nhiên hoạt động đổi mới này cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro,
chi phí đổi mới thì tốn kém, tỷ lệ thành công thấp và rất nhiều dự án bị kết thúc
trong giai đoạn đầu tiên của chu kỳ phát triển sản phẩm mới (Li, 2001; Schulze,
2008). Ngoài ra, chính sách của Nhà nước thường xuyên thay đổi, hoạt động bảo hộ
thiếu ổn định, đây là những rào cản rất lớn để doanh nghiệp tiến hành đổi mới sản
phẩm (Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân, 2013).
Đổi mới sản phẩm thành công cần phải xây dựng hệ thống chương trình
nghiên cứu, phát triển và nghiên cứu ứng dụng. Theo Arrow (1962) các tác nhân
khu vực tư nhân (ví dụ, các doanh nghiệp) tham gia vào nhiều nghiên cứu ứng dụng
hơn để tạo ra sản phẩm mới sử dụng trực tiếp cho nền kinh tế (và do đó hứa hẹn
mang lại lợi nhuận kinh tế cho doanh nghiệp). Ngược lại, các tác nhân của khu vực
tư nhân không nhất thiết phải tham gia vào nghiên cứu cơ bản vì ứng dụng kinh tế
cho kiến thức được tạo ra trong nghiên cứu cơ bản hầu như không được biết trước.
Tuy nhiên, vì nghiên cứu cơ bản là quan trọng đối với công chúng (ví dụ như
nghiên cứu sinh học và hóa học xây dựng cơ sở cho việc phát triển các loại thuốc
50
chống lại một số bệnh về sau), nên xã hội quan tâm đến hiệu quả của nó. Do đó,
nghiên cứu cơ bản được tài trợ và thực hiện bởi các bên trong khu vực công (ví dụ,
các trường đại học, các viện nghiên cứu công). Trong khi đó doanh nghiệp quyết
định mức độ nỗ lực của chính họ để tạo ra sản phẩm mới. Trong đó tạo ra sản phẩm
mới được tạo ra bởi: Đầu tư, Nghiên cứu và phát triển (R&D)…
Arranz và các tác giả (2019) đã nghiên cứu các yếu tố khuyến khích và cản
trở sự đổi mới trong các doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, các yếu tố tác động
đến quá trình đổi mới sản phẩm đã được phân tích bao gồm: Chi phí đổi mới sáng
tạo, năng lực tài chính doanh nghiệp, trình độ nhân viên, thông tin thị trường, sự
không chắc chắn về nhu cầu hàng hoá dịch vụ. Các tác giả đã đặc biệt đề cao vai trò
của quản lý nhà nước đối với hoạt động đổi mới sản phẩm khi cho rằng đó là một
trong những đòn bẩy quan trọng cho các doanh nghiệp.
Nhìn chung hoạt động đổi mới sản phẩm bao gồm các nội dung như: Phát
triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới; Đổi mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu
mã: Đổi mới chất lượng sản phẩm; Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật;
Thay đổi nguyên vật liệu, cấu thành sản phẩm.... nhằm mục tiêu đa dạng hóa sản
phẩm và đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng thay đổi của khách hàng.
2.4.2. Đổi mới quy trình
Theo OECD (2005, tr49), “Đổi mới quy trình (process innovation) là việc
thực hiện phương pháp sản xuất hoặc phương thức phân phối mới hoặc được cải
tiến đáng kể. Điều này bao gồm những thay đổi đáng kể về kỹ thuật, thiết bị hoặc
phần mềm”. Cụ thể như việc sử dụng các “phương thức mới trong sản xuất”, sử
dụng phương pháp mới trong “tổ chức hậu cần (logistic)” để tăng tính hiệu quả cho
hoạt động nhập nguyên vật liệu hay phân phối sản phẩm; Đưa ra các hoạt động bổ
trợ mới. Đổi mới quy trình là hoạt động từ khâu thiết kế sản phẩm đến phân phối và
thương mại hóa sản phẩm đều có liên quan (Phùng Xuân Nhạ và cộng sự, 2013;
Trần Quang Tiến, 2018).
Thái Hà (2009), “ Đổi mới quy trình kết hợp các phương pháp và công nghệ
sản xuất mới đem lại những lợi ích giá thành, chất lượng, thời gian quay vòng vốn,
thời gian phát triển, tốc độ giao hàng hay khả năng sản xuất hàng loạt sản phẩm,
51
dịch vụ được bán kèm với các sản phẩm đó”.
Mytelka và Farinelli (2000), lại cho rằng đổi mới công nghệ đề cập đến quá
trình mà các doanh nghiệp nắm vững và thực hiện việc thiết kế và sản xuất các sản
phẩm/dịch vụ mới đối với doanh nghiệp bất kể sản phẩm/dịch vụ có mới đối với đối
thủ cạnh tranh hay khách hàng của họ. Đổi mới quy trình là sự thay đổi trong các hoạt
động như: Lập kế hoạch, bố trí hoạt động sản xuất, thiết kế, phân tích cách thức hay
phương thức sản xuất,... Đổi mới quy trình có thể là một hay toàn bộ các khâu trong
quá trình trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (Amara và cộng sự, 2009).
Đổi mới quy trình sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí sản xuất, cải tiến chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao được hiệu quả và
năng suất trong sản xuất sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
(Abdallah và Phan, 2007; Trần Quang Tiến, 2018). Đổi mới quy trình được thành
công, doanh nghiệp cần phải thiết kế một hệ thống kiểm soát để đánh giá các sai
lệch và thất bại của các giai đoạn trong đổi mới quy trình (Tidd và Bessant, 2013).
Đổi mới quy trình còn là việc phát minh hay cải tiến hình thức, phương pháp kết
hợp các yếu tố đầu vào trong sản xuất, nhằm cắt giảm chi phí sản xuất trên một đơn
vị sản phẩm (Trần Quang Tiến, 2018).
Nhìn chung, đổi mới quy trình là việc doanh nghiệp áp dụng dây truyền công
nghệ mới vào sản xuất; Đổi mới phương thức sản xuất; Đổi mới trong việc bố trí và
thiết kế sản xuất; Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất; Đổi mới trong
hoạt động Logistics; Đổi mới quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào trong sản
xuất....nhằm giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hiệu
quả hơn, thông qua việc hạ giá thành sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
2.4.3. Đổi mới tổ chức
Theo OECD (2005, tr51), “Đổi mới tổ chức (organisational innovation) bao
gồm việc thực hiện một phương pháp tổ chức mới trong thực tiễn kinh doanh của
doanh nghiệp, cơ cấu lại tổ chức hoặc quan hệ với bên ngoài”. Amara và cộng sự
(2009) cho rằng đổi mới tổ chức là quá trình triển khai và thực hiện nhiều hình thức,
phương pháp quản trị mới, có sự khác biệt với các doanh nghiệp khác.
52
Trần Quang Tiến (2018) cho rằng đổi mới tổ chức cần phải dựa vào điều
kiện thực tiễn của doanh nghiệp và của môi trường kinh doanh. Đổi mới tổ chức cần
đảm bảo tính khoa học, nghệ thuật trong quản trị nguồn nhân lực. Mục tiêu của đổi
mới tổ chức là cắt giảm chi phí hành chính, chi phí giao dịch, tăng sự thỏa mãn của
nhân viên, thúc đẩy tiếp cận tri thức và các nguồn lực từ bên ngoài. Thông qua đó
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Con người là nhân tố chính để tiến hành hoạt động đổi mới. Phùng Xuân
Nhạ và cộng sự (2013) nhấn mạnh đổi mới tổ chức là sự thay đổi của tổ chức bộ
máy, tư duy, tầm nhìn của nhà lãnh đạo, văn hóa đổi mới trong doanh nghiệp….
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, doanh nghiệp cần xây dựng cơ cấu
tổ chức linh hoạt, hữu cơ; giảm thiểu tính hành chính trong tổ chức; tăng cường làm
việc nhóm và tư duy đổi mới.
Đổi mới tổ chức còn là sự thay đổi hình thức tổ chức, thay đổi cơ cấu hợp
tác, liên kết của doanh nghiệp như: Các cụm, mạng lưới và liên minh trong tổ chức và nó
thường liên quan mật thiết với khung pháp lý (Nguyễn Vân Hà, 2020). Doanh nghiệp có
thể lựa chọn một trong bảy cơ chế để hoạt động và phát triển như: Sáp nhập, cấp phép,
liên doanh bên trong, liên doanh hoặc liên minh, đầu tư vốn mạo hiểm và đầu tư phát
triển, sáp nhập chuyển giao công nghệ - phụ thuộc vào mức độ quen thuộc hoặc mới lạ
của công nghệ (cơ sở của đổi mới) và thị trường. Cụ thể, nếu doanh nghiệp quen thuộc
với công nghệ và thị trường của đổi mới thì doanh nghiệp nên tự phát triển đổi mới đó vì
doanh nghiệp có nguồn lực để thực hiện. Nếu công nghệ và thị trường đều không quen
thuộc, doanh nghiệp nên áp dụng cơ chế đầu tư vốn mạo hiểm, đầu tư phát triển và sáp
nhập chuyển giao công nghệ (Roberts và Berry, 1985).
Theo tác giả Đỗ Văn Hải (2005), chúng ta cần thoát khỏi quan điểm hạn hẹp
đó là coi “Nghiên cứu và phát triển” hay “Phát triển sản phẩm mới” là nội dung
chính cần hướng đến của đổi mới. Tuy nhiên, với thực trạng kinh tế, xã hội của Việt
Nam, thì đổi mới tổ chức sẽ là một giải pháp quan trọng cần hướng đến của các
doanh nghiệp. Bởi vì, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, dẫn đến việc lề
lối, phong cách, tổ chức lao động còn chưa khoa học, cơ cấu tổ chức, mô hình hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp chưa hiệu quả, đổi mới về tư duy quản trị,
đổi mới trong mô hình kinh doanh, xây dựng cấu trúc doanh nghiệp, đổi mới trong
quản lý và sử dụng nguồn lực, sẽ giúp doanh nghiệp tinh gọn bộ máy, từ đó tiết
53
kiệm được chi phí hoạt động, nâng cao được hiệu quả kinh doanh.
Nhìn chung, đổi mới tổ chức là quá trình mà doanh nghiệp tiến hành các
hoạt động như: Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp; Đổi mới cơ
cấu tổ chức công việc; Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân lực; Đổi mới tổ
chức bộ máy doanh nghiệp; Đổi mới cơ cấu tổ chức trong hợp tác, liên kết doanh
nghiệp.... nhằm giúp doanh nghiệp cần xây dựng cơ cấu tổ chức linh hoạt, giảm
thiểu tính hành chính và tăng cường hoạt động làm việc nhóm trong doanh nghiệp.
2.4.4. Đổi mới Marketing
Theo OECD (2005, tr49), “Đổi mới marketing (marketing innovation) là việc
thực hiện một phương pháp marketing mới liên quan đến sự thay đổi đáng kể trong
thiết kế sản phẩm hoặc bao bì, nơi bán sản phẩm, quảng bá sản phẩm hoặc giá cả
của sản phẩm”.
Thái Hà (2009) “Đổi mới marketing bao gồm các cách tiếp cận mới để
marketing hay quảng cáo những gì doanh nghiệp cung cấp, giới thiệu các phương
pháp bán hàng mới, các cách tiếp cận mới với dịch vụ khách hàng và khẳng định
thương hiệu của doanh nghiệp”. Đổi mới marketing thường xuất hiện khi doanh
nghiệp thay đổi nhóm khách hàng mục tiêu hay cách doanh nghiệp đi vào thị trường.
Đổi mới marketing có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó tác
động trực tiếp đến sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp, nó thể hiện được mối liên
hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng,. Doanh nghiệp sẽ sử dụng các cách tiếp thị
mới, các công cụ marketing, các phương pháp xúc tiến bán hàng…. để tăng sản
lượng bán hàng, định hướng khách hàng, xây dựng thương hiệu của doanh
nghiệp…Đổi mới marketing cần phải chú ý đến hệ thống phân phối toàn cầu và ứng
dụng truyền thông xã hội trong hoạt động quảng bá sản phẩm (Nguyễn Vân Hà,
2020); Trần Quang Tiến, 2018).
Đổi mới marketing nhằm mục tiêu thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng,
tìm kiếm và mở ra thị trường mới cho doanh nghiệp, hoặc định vị sản phẩm hay
định vị doanh nghiệp trên thị trường, tiêu chí hướng tới là tăng doanh thu, tăng thị
phần cho doanh nghiệp (Trần Quang Tiến, 2018).
Nhìn chung, đổi mới Marketing là việc doanh nghiệp đổi mới kênh, chính
sách, phương pháp phân phối; Đổi mới kênh truyền thông; Đối mới giá bán sản
phẩm; Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng; Đổi mới chiến lược
Marketing...phù hợp với hoàn cảnh thực tế của doanh nghiệp, cũng như phù hợp
54
với xu hướng và điều kiện xã hội... Từ đó giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với
khách hàng hơn, tăng danh thu và thị phần cho doanh nghiệp.
2.5. Lý thuyết nền tảng liên quan tới đổi mới
2.5.1. Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013)
Trên cơ sở sử dụng các quan điểm khác nhau về đổi mới và các khía cạnh
chính để đo lường đổi mới được xác định thông qua tổng quan một lượng lớn các tài
liệu nghiên cứu trước đây, Edison, Ali và Torkar (2013) đã phát triển một mô hình đo
lường đổi mới (Innovation Measurement Model) được thể hiện qua sơ đồ sau:
ĐO LƢỜNG ĐỔI MỚI
Thành quả (Đo lường tác động của đổi mới)
Năng lực (Đo lường yếu tố đầu vào, yếu tố quyết định và quá trình)
Kết quả (Đo lường kết quả đổi mới)
Nghiên cứu
Phát triển
Thành quả Lợi ích kinh tế trực tiếp Lợi ích gián tiếp Lợi ích công nghệ
Kết quả Sản phẩm Quá trình Marketing Tổ chức
Đầu vào Nguồn lực tổ chức R&D Tri thức Chuyển giao công nghệ
Thƣơng mại hóa
Yếu tố quyết định
Phản hồi
Sơ đồ 2.1. Mô hình đo lƣờng đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) Theo Edison, Ali và Torkar (2013), để đo lường đổi mới được xác định bởi
sự đo lường 03 vấn đề chính: (i) Năng lực đổi mới (Innovation capacity); (ii) Kết
quả đổi mới (Innovation Outputs); và (iii) Tác động của đổi mới (Innovation
Impacts). Năng lực đổi mới được đo lường thông qua các yếu tố đầu vào
(Innovation Inputs), các yếu tố ảnh hưởng quyết định (Determinants) và Quá trình
đổi mới (Process). Theo đó, các yếu tố đầu vào bao gồm: Nguồn lực của tổ chức,
nghiên cứu và phát triển (R&D), tri thức, chuyển giao công nghệ,…
55
Các yếu tố ảnh hưởng quyết định bao gồm 244 yếu tố chi tiết và được chia
thành hai nhóm chính: Các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong. Các yếu tố
quyết định bên ngoài là các yếu tố bên ngoài tổ chức, có ảnh hưởng đến sự đổi mới
và nằm ngoài tầm kiểm soát của tổ chức, ví dụ: Chính sách công giảm thuế cho các
công ty mới thành lập hoặc tài trợ R&D cho các công ty nhỏ (Frenkel et al., 2003).
Các yếu tố quyết định bên trong là những yếu tố bên trong ảnh hưởng của tổ chức
nhằm cải thiện khả năng đổi mới của tổ chức, ví dụ: sự sẵn có của một chiến lược
về đổi mới hoặc môi trường sáng tạo (Cormican và O'Sullivan, 2004),...
Edison, Ali và Torkar (2013) đã đưa ra 23 nhóm các yếu tố quyết định ảnh
hưởng tới đổi mới của doanh nghiệp, bao gồm: Thị trường, công cụ hỗ trợ, sự ủng
hộ, hợp tác bên ngoài, quản lý, nguồn lực tổ chức, chính sách, kiến thức và thông
tin, kế hoạch, tài sản trí tuệ, cấu trúc, cam kết, cá nhân, hợp tác bên trong, công
nghệ, R&D, sự liên kết, tài chính, rủi ro, định hướng khách hàng, mạng lưới, trao
quyền, sáp nhập và liên minh, quy mô doanh nghiệp, văn hóa, niềm tin, chiến lược
và nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, Edison, Ali và Torkar (2013) đã luận giải cách thức tác động của
các yếu tố đầu vào và các yếu tố quyết định tới kết quả đổi mới của doanh nghiệp.
Theo đó, quá trình đổi mới được chia thành 03 giai đoạn chính: Nghiên cứu (Research
phase); Phát triển (Development phase) và áp dụng vào sản xuất hoặc thương mại hóa
(Use in production or commercialisation). Theo đó, mục tiêu của giai đoạn nghiên cứu
là xác định các cơ hội mới. Giai đoạn phát triển bao gồm việc lên kế hoạch các dự án,
thiết kế, triển khai và kiểm tra. Giai đoạn ba bao gồm các hoạt động giới thiệu sản
phẩm ra thị trường hoặc thực hiện việc đổi mới trong tổ chức.
Tương tự như cách tiếp cận của OECD (2005), Edison, Ali và Torkar (2013)
phân tích kết quả đổi mới (Innovation Output) theo 04 nội dung: Sản phẩm, Quy
trình, Marketing và Tổ chức.
Mô hình đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) là một mô hình
nền tảng cho luận án, là cơ sở khoa học quan trọng để tác giả phát triển, đề xuất
mô hình nghiên cứu, lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của
doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Theo đó, căn cứ trên
56
những đặc điểm thực tế riêng biệt của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 06 yếu tố tác động, bao gồm:
(1) Cạnh tranh và thông tin thị trường; (2) Thể chế, chính sách và hệ thống pháp
luật; (3) Cơ sở hạ tầng; (4) Liên kết và hợp tác; (5) Nhà quản trị doanh nghiệp và
chất lượng nguồn nhân lực; (6) Năng lực tài chính doanh nghiệp. Kết quả đổi mới
sẽ được thể hiện qua 04 nội dung: Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ
chức và đổi mới Marketing.
2.5.2. Lý thuyết đổi mới của schumpeter
Joseph Schumpeter lần đầu tiên bắt đầu đưa ra lý thuyết về các đặc điểm và
động lực của đổi mới vào đầu thế kỷ 20, hình thành khái niệm đổi mới như một quá
trình liên quan đến ít nhất một trong năm nội dung đổi mới như sau: giới thiệu một
sản phẩm mới; giới thiệu một phương pháp sản xuất mới; mở cửa thị trường mới;
chinh phục nguồn cung cấp nguyên liệu thô mới hoặc hàng hóa sản xuất một nửa;
thực hiện một hình thức tổ chức mới (Schumpeter, 1934 ).
Ban đầu Schumpeter cho rằng các doanh nghiệp nhỏ có khả năng đổi mới
nhiều nhất (Schumpeter I). Ông cho rằng các doanh nghiệp có quy mô nhỏ cũng có
thể gặt hái thành công và tạo ra lợi thế vượt trội nếu biết khai thác thế mạnh của
mình cho đổi mới. Ưu điểm quy mô nhỏ, cơ cấu gọn nhẹ, cơ chế ra quyết định sẽ
linh hoạt hơn. Tuy nhiên sau đó ông lại khẳng định rằng các doanh nghiệp lớn với
sức mạnh độc quyền nhất định lại có khả năng đổi mới nhiều nhất (Schumpeter II).
Thực tế thì doanh nghiệp lớn sẽ có hoạt động sản xuất và các tài sản cần thiết phục
vụ hoạt động đổi mới. Với tiềm lực vốn và công nghệ mạnh mẽ, các doanh nghiệp
lớn có khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm hoạt động marketing trong khi một
doanh nghiệp nhỏ và đơn lẻ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được do
bất lợi về vốn và công nghệ. Cũng nhờ sức mạnh về vốn và công nghệ mà các tổ
chức lớn cho phép khai thác tối đa, triệt để lợi thế của những tài sản vô hình như
nguồn nhân lực, tri thức công nghệ, thương hiệu, bản quyền, phát minh sáng chế, có
đủ sức đầu tư vào hoạt động đổi mới.
Schumpeter (1942) cho rằng đổi mới đại diện cho một hình thức “Sự phá hủy
mang tính sáng tạo‖, điều này có nghĩa một cái gì đó mới được tạo ra từ sự phá hủy
57
một cái gì đó cũ. Ông coi sự đổi mới là huyết mạch của chủ nghĩa tư bản, Vì vậy,
chủ nghĩa tư bản về bản chất là một hình thức hoặc phương thức thay đổi kinh tế và
không bao giờ đứng yên… Chủ nghĩa tư bản không ngừng cách mạng hóa cơ cấu
kinh tế từ bên trong, không ngừng phá hủy cái cũ, không ngừng tạo ra cái mới. Quá
trình hủy diệt sáng tạo này là sự thật cốt yếu về chủ nghĩa tư bản.
Schumpeter (1942) xác định doanh nhân, cá nhân hay tập thể, là tác nhân của sự
đổi mới: Chức năng của các doanh nhân là cải cách hoặc cách mạng hóa mô hình sản
xuất bằng cách khai thác một phát minh hoặc nói chung hơn, một khả năng công nghệ
chưa được thử nghiệm để sản xuất hàng hóa mới hoặc sản xuất hàng cũ theo cách mới.
Schumpeter (1942) cho rằng "các doanh nhân" chịu trách nhiệm thúc đẩy
các tiến bộ công nghệ và đổi mới. Ông cũng nhấn mạnh rằng các thị trường sẽ tự do
tiến tới trạng thái cân bằng khi biên độ lợi nhuận bị loại bỏ hoàn toàn. Thay vào đó,
tác giả cũng nhấn mạnh rằng sự sáng tạo và khám phá của doanh nhân đang liên tục
thay thế các điểm cân bằng cũ và tạo ra những điểm cân bằng mới, do đó có thể đạt
được các tiêu chuẩn lợi nhuận cao hơn. Schumpeter lập luận rằng các doanh nhân sẽ
phá vỡ các trạng thái cân bằng (kết hợp với các lý thuyết của ông về tinh thần kinh
doanh) và là động lực chính của tăng trưởng kinh tế.
Hơn nữa, Schumpeter mô tả đổi mới là một yếu tố cần thiết cho cải cách
kinh tế. Ông kết luận rằng phát triển kinh tế tập trung vào sự đổi mới, hoạt động
kinh doanh và các lực lượng thị trường.
Schumpeter còn chứng minh rằng các lực lượng thị trường được kích thích
bởi sự đổi mới có thể tạo ra kết quả lớn hơn khả năng cạnh tranh về giá, trong số
những lực lượng khác. Ông cho rằng những tiến bộ công nghệ cũng tạo ra độc quyền
nhất thời, dẫn đến lợi nhuận bất thường, do đó sẽ bị các đối thủ cạnh tranh và những kẻ
bắt chước săn lùng. Những “độc quyền nhất thời” như vậy được yêu cầu để tạo động
lực cho các doanh nghiệp giới thiệu công nghệ, sản phẩm và quy trình mới.
Lý thuyết đổi mới của Schumpeter là nền tảng cho sự ra đời của các lý thuyết
đổi mới về sau. Tác giả đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới, cũng như vai
trò của nhà nước trong việc hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động đổi
mới. Quan trọng hơn hết tác giả khẳng định vai trò của doanh nhân, sự cạnh tranh,
58
thông tin thị trường sẽ tác động rất lớn đến kết quả đổi mới trong doanh nghiệp.
Mặt khác quy mô doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động đổi mới.
2.5.3. Lý thuyết đổi mới nội sinh (Endogenous Innovation Theory)
Nội dung của lý thuyết này được phát triển bởi rất nhiều nhà kinh tế, trong
đó Schumpeter (1934), Arrow (1962), Uzawa (1965) là những người đặt nền tảng
đầu tiên. Về cơ bản, lý thuyết này cho rằng, đổi mới là kết quả của việc phát huy
các nội lực. Theo đó, lý thuyết này chú trọng việc đầu tư vào các nguồn nhân lực, tri
thức, công nghệ đây là những tác nhân chính giúp đổi mới. Tuy nhiên, ở đây chúng
ta cũng cần phải hiểu rõ rằng, lý thuyết đổi mới nội sinh không phải là phủ nhận
hoàn toàn tác động của bên ngoài, ngược lại còn cho rằng các tác động bên ngoài
tích cực và lan tỏa công nghệ, tri thức cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến đổi mới. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, tác động bên ngoài chỉ có ảnh hưởng
ngắn hạn đến hoạt động đổi mới còn trong dài hạn thì nội lực mới là nhân tố chính.
Theo đó, tốc độ đổi mới sẽ phụ thuộc vào các biện pháp chính sách và các nguồn
lực con người, tri thức, công nghệ của doanh nghiệp. Lý thuyết này ủng hộ và nhấn
mạnh tầm quan trọng của đầu tư vào vốn vật chất hoặc nhân lực trong doanh nghiệp
(Romer, 1990a; Farmer và Romer, 2016). Doanh nghiệp sẽ đầu tư một phần lợi
nhuận để tích lũy vốn và một phần khác cho các dự án R&D.
Kỳ vọng về lợi nhuận cung cấp động lực cơ bản cho sự đổi mới. Lợi nhuận
có thể mang lại hai hiệu ứng khác. Một là thúc đẩy đầu tư nhiều hơn vào công nghệ
thông tin và kiến thức mới. Thứ hai là hiệu ứng lan tỏa, có nghĩa là các doanh
nghiệp khác có thể sử dụng thông tin và kiến thức sẵn có để mở rộng đầu tư của
mình vào các lĩnh vực có liên quan.
Lý thuyết này là một cơ sở quan trọng để xây dựng cũng như dự đoán sự ảnh
hưởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Theo đó, để thực
hiện hoạt động đổi mới, doanh nghiệp cần các nguồn lực, đặc biệt là nội lực. Nội
lực ở đây chính là yếu tố nhà quản trị, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực tài
chính của doanh nghiệp….
59
2.5.4. Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers (Rogers’ Innovation Diffusion Theory)
Everett Rogers (2003) đã đưa ra “Lý thuyết khuếch tán đổi mới”. Lý thuyết
cung cấp nền tảng để hiểu việc áp dụng đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng đến lựa
chọn của doanh nghiệp về thực hiện hoạt động đổi mới.
Theo Rogers có bốn thành phần chính trong lý thuyết khuếch tán đổi mới :
(1) Sự đổi mới; (2) Các kênh truyền thông được sử dụng để phát thông tin về sự đổi
mới; (3) Hệ thống xã hội tồn tại xung quanh những người chấp nhận / không chấp
nhận sự đổi mới; (4) Thời gian để các cá nhân ra quyết định đổi mới. Sự tương tác
của các thành phần này giúp chúng ta hiểu tại sao một cá nhân/doanh nghiệp lựa
chọn đổi mới hoặc quá trình đổi mới dẫn đến việc chấp nhận hoặc từ chối đổi mới.
Trong đó Roger nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống pháp luật, thông tin thị
trường trong việc lan tỏa kiến thức đổi mới.
Rogers cũng trình bày năm giai đoạn mà cá nhân/doanh nghiệp chấp nhận
đổi mới. Đầu tiên là tìm kiếm kiến thức về sự đổi mới và thực hiện quá trình đổi
mới. Thứ hai là giai đoạn thuyết phục cá nhân/doanh nghiệp áp dụng đổi mới. Giai
đoạn thứ ba là khi cá nhân/doanh nghiệp đưa ra quyết định áp dụng hay từ chối đổi
mới. Giai đoạn thứ tư xảy ra khi cá nhân/doanh nghiệp chấp nhận thực hiện đổi mới.
Cuối cùng, cá nhân/doanh nghiệp đạt đến giai đoạn xác nhận, nơi họ tìm kiếm sự củng
cố về quyết định áp dụng đổi mới. Tại đây, cá nhân/doanh nghiệp có thể tiếp tục thực
hiện đổi mới khi cá nhân/ doanh nghiệp cảm nhận được những lợi ích của nó hoặc họ
có thể thay đổi quyết định của mình và từ chối đổi mới (Rogers, 2003).
Rogers đã đưa ra 05 thuộc tính ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận đổi mới
bao gồm: lợi thế tương đối, tính tương thích, độ phức tạp, khả năng thử nghiệm và
khả năng quan sát. Lợi thế tương đối đề cập đến mức độ lớn hơn hoặc ít hơn lợi ích
của đổi mới so với các giải pháp thay thế. Sự đổi mới phù hợp với quy trình làm
việc hiện tại của người chấp nhận đổi mới đến mức nào. Càng khó học hỏi và thực
hiện một đổi mới, thì khả năng nó được áp dụng càng ít. Điều này là do độ phức tạp
quá cao. Những người áp dụng đổi mới có nhiều khả năng chấp nhận những đổi
mới mà họ có cơ hội thử nghiệm và kiểm tra trước khi đưa ra quyết định có áp dụng
hay không; điều này đề cập đến khả năng thử nghiệm thành công của các kết quả
60
đổi mới. Khả năng quan sát xảy ra khi một đổi mới đã được áp dụng và lan tỏa đến
đủ số lượng cá nhân hoặc doanh nghiệp trong hệ thống xã hội mà những người
trước đây không nghĩ đến việc áp dụng nó, thay đổi suy nghĩ hoặc ít nhất là bắt đầu
xem xét áp dụng kế quả đổi mới này (Rogers, 2003).
Thuyết khuếch tán đổi mới bắt nguồn từ việc giao tiếp nhằm giải thích làm
thế nào, theo thời gian, một ý tưởng hoặc sản phẩm có được động lực và lan tỏa
(hoặc lan truyền) thông qua một nhóm dân cư hoặc hệ thống xã hội cụ thể. Kết quả
cuối cùng của sự lan tỏa này là mọi người, như một phần của hệ thống xã hội, chấp
nhận một ý tưởng, hành vi hoặc sản phẩm mới. Áp dụng có nghĩa là một người làm
điều gì đó khác với những gì họ đã làm trước đây (tức là mua hoặc sử dụng một sản
phẩm mới, có được và thực hiện một hành vi mới, v.v.). Chìa khóa để áp dụng là
người đó phải nhận thức được ý tưởng, hành vi hoặc sản phẩm là mới hoặc sáng
tạo. Đó là nhờ đó mà sự khuếch tán là có thể.
Như vậy có thể nói lý thuyết khuếch tán đổi mới của Roger đã nhấn mạnh vai
trò của 3 yếu tố như: Hệ thống pháp luật, thông tin thị trường và nhà quản trị trong
việc thúc đẩy hoạt động đổi mới.
2.5.5. Lý thuyết đổi mới của Roberts và Berry
Roberts và Berry (1985) cho rằng để hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp
được thành công, điều này phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của doanh nghiệp như
quy mô doanh nghiệp, mức độ liên kết của doanh nghiệp.. và năng lực của doanh
nghiệp như năng lực về mặt tài chính, về mặt nguồn nhân lực…. Khả năng tạo ra lợi
nhuận từ một đổi mới của một doanh nghiệp nó phụ thuộc vào mức độ mà các năng lực
cần có để khai thác đổi mới, doanh nghiệp sẽ trở nên giàu có hơn khi tiếp cận một đổi
mới mà doanh nghiệp thấy quen thuộc (đổi mới tuần tự). Nhưng các đổi mới đột phá sẽ
mang lại những lợi nhuận to lớn hơn. Do đó doanh nghiệp phải đối mặt với việc lựa
chọn đổi mới tuần tự hay đổi mới đột phá. Theo Roberts và Berry (1985): “Bất kỳ
doanh nghiệp nào càng tìm kiếm đổi mới triệt để, tính bằng mức độ thay đổi trong thị
trường và công nghệ cơ sở, khả năng thất bại trong nỗ lực đổi mới của doanh nghiệp
61
đó càng lớn. Nhưng, doanh nghiệp càng ít kiếm tìm đổi mới, giữa các bộ phận, khả
năng thất bại của sự phối hợp trong chính doanh nghiệp càng lớn hơn”.
Theo Roberts và Berry (1985), khả năng nắm bắt và khai thác đổi mới của
một doanh nghiệp phụ thuộc vào lý luận chủ đạo của đội ngũ quản lý cấp cao trong
doanh nghiệp; lý luận đó cho phép các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp nhận
thức được tiềm năng của một đổi mới và do đó phân bổ các nguồn lực trong doanh
nghiệp để khai thác hoặc tiến hành các hoạt động đổi mới.
Roberts và Berry (1985) cũng đưa ra các chiến lược tiếp nhận một đổi mới
với giả định rằng một doanh nghiệp đã nhận thức được tiềm năng của đổi mới và
mức độ tác động của đổi mới đó lên các năng lực công nghệ và thị trường hiện tại.
Để thành công với công nghệ mới, một doanh nghiệp cần những năng lực cho phép
doanh nghiệp giành được hoặc củng cố lợi thế cạnh tranh sử dụng công nghệ mới.
Công nghệ và thị trường càng xa lạ với doanh nghiệp, doanh nghiệp càng không có
khả năng có được năng lực hoặc khả năng tiếp nhận cần có để khai thác đổi mới. Vì
sẽ rất khó khăn và mất thời gian để xây dựng các năng lực này từ đầu, doanh nghiệp
có thể sẽ phát triển hơn bằng cách hợp tác với một doanh nghiệp khác có năng lực
đó. Sự hợp tác như vậy cho phép doanh nghiệp học hỏi từ đối tác của mình và phát
triển năng lực của riêng mình hoặc cùng nhau phát triển các năng lực này để cùng
khai thác đổi mới. Nói cách khác, cơ chế doanh nghiệp sử dụng để đạt được các
năng lực nhằm khai thác một đổi mới phụ thuộc vào mức độ quen thuộc của doanh
nghiệp với tri thức công nghệ và tri thức thị trường cơ sở.
Hình 2.1: Phát triển bên trong hay tìm kiếm nguồn lực bên ngoài
62
Hình 2.1 chỉ ra cơ chế tốt nhất để theo đuổi quá trình tiếp nhận một thay đổi
công nghệ. Khi công nghệ mới và thị trường cho sản phẩm từ công nghệ quen thuộc
với công ty và nó có năng lực để khai thác công nghệ mới này, công ty sẽ có hai lựa
chọn để tạo ra lợi nhuận từ công nghệ mới: Phát triển trong nội bộ và sáp nhập (ô
IV trong Hình 2.1). Trong phát triển nội bộ, doanh nghiệp phát triển các năng lực
cần thiết từ bên trong doanh nghiệp và sử dụng các năng lực đó để khai thác công
nghệ mới. Ví dụ, công ty có thể xây dựng bộ phận R&D và các nhóm thiết kế và sử
dụng các bộ phận đó để tạo ra sản phẩm của riêng mình. Phát triển bên trong được
ưa thích hơn trong ba trường hợp sau: (1) Khi thay đổi công nghệ mang tính tăng
cường năng lực hoặc mang tính tuần tự về mặt tổ chức và nhiệm vụ chủ yếu của
doanh nghiệp là xây dựng dựa trên các năng lực hiện tại của doanh nghiệp, (2) Khi
doanh nghiệp không bị thúc giục, và (3) Khi doanh nghiệp muốn bảo vệ công nghệ
của mình. Mua lại một doanh nghiệp đã phát triển công nghệ nhập (ô III trong Hình
2.1) sẽ được lựa chọn trong các trường hợp mà doanh nghiệp cần công nghệ mới
một cách nhanh chóng. Vì mua lại doanh nghiệp đã quen thuộc với công nghệ mới,
doanh nghiệp có khả năng tiếp nhận để đánh giá và đồng hóa những gì đã mua.
Nếu doanh nghiệp quen thuộc với công nghệ mới nhưng lại xa lạ với thị
trường mà doanh nghiệp phục vụ, nó sẽ có ba sự lựa chọn để đạt được các năng lực
cần thiết để tiến hành hoạt động đổi mới như: Liên doanh, sáp nhập hoặc liên minh
chiến lược (ô I trong Hình 2.1). Trong một liên doanh, các doanh nghiệp hình thành
một chủ thể pháp lý riêng mà họ cùng sở hữu. Trong đó, mỗi doanh nghiệp sẽ đóng
góp những thứ mà doanh nghiệp còn lại không có - nghĩa là, năng lực sẽ được bổ sung
cho nhau. Vì doanh nghiệp quen thuộc với công nghệ mới nhưng xa lạ với thị trường,
có thể tìm một đối tác quen thuộc với thị trường. Theo cách đó, doanh nghiệp sẽ đóng
góp năng lực công nghệ trong khi đối tác sẽ đóng góp năng lực thị trường và cả hai có
thể hình thành một liên doanh khai thác công nghệ mới. Nếu mỗi doanh nghiệp đóng
góp các năng lực cốt lõi, liên minh có thể sẽ rất thành công.
Trong ô II Hình 2.1, doanh nghiệp đều xa lạ với cả công nghệ mới và thị
trường. Đổi mới trong ô này cần những năng lực khác biệt so với năng lực hiện tại
của doanh nghiệp. Đó là những đổi mới tạo ra các cải thiện cấp tiến về chi phí và
63
đặc điểm của sản phẩm/dịch vụ. Đôi khi, những đổi mới này còn đưa ra các đặc
điểm hoàn toàn mới hoặc mở ra thị trường mới, cùng với đó là cơ hội để thu về
nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, vì những đổi mới này có thể triệt tiêu năng lực và
khả năng thất bại là cao nhất khi doanh nghiệp tiếp nhận những đổi mới này. Để gia
tăng cơ hội thành công với những công nghệ này, một doanh nghiệp có thể cần theo
đuổi một trong ba lựa chọn: Vốn mạo hiểm (venture capital), sáp nhập để học hỏi
(educational acquisition) và đầu tư mạo hiểm nội bộ (Internal venture). Yếu tố cơ
bản nằm sau những chiến lược này là năng lực hiện tại của doanh nghiệp có khả
năng trở thành trở ngại trước công nghệ và thị trường mới vì công nghệ làm lỗi thời
năng lực. Đầu tư vốn mạo hiểm, sáp nhập để học hỏi và liên kết bên trong đều cho
phép doanh nghiệp học hỏi và xây dựng năng lực mới mà không bị gây trở ngại bởi
các năng lực hiện tại. Trong chiến lược vốn mạo hiểm, doanh nghiệp đầu tư vào
một doanh nghiệp mới thành lập, có các năng lực, thường là năng lực công nghệ,
cần có để khai thác đổi mới. Bằng cách quan tâm chặt chẽ tới doanh nghiệp này,
doanh nghiệp đầu tư đạt được một lối vào công nghệ và thị trường và có thể học
hỏi. Trong chiến lược sáp nhập để học hỏi, một doanh nghiệp mua lại một doanh
nghiệp khác không phải để làm chi nhánh mà vì mục đích riêng là học hỏi từ doanh
nghiệp đó. Đó là nghiên cứu đảo ngược một tổ chức – mua lại, phát triển và học
hỏi. Một doanh nghiệp phải đối mặt với một công nghệ mới và thị trường xa lạ có
thể muốn theo đuổi chiến lược sáp nhập để học hỏi.
Cũng giống như lý thuyết đổi mới nội sinh, lý thuyết đổi mới của Roberts và
Berry đã khẳng định sức ảnh hưởng của liên kết và hợp tác, năng lực hiện có của
doanh nghiệp trong việc lựa con đường đổi mới. Đây là một cơ sở quan trọng để
tác giả xây dựng các yếu tố tác động tới hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp.
2.5.6. Lý thuyết đổi mới của Teece
Nghiên cứu của Teece vào năm 1986 nhằm giải thích lợi nhuận của các
doanh nghiệp đạt được từ hoạt động đổi mới công nghệ và giải thích tại sao các
doanh nghiệp đổi mới thường không thu được lợi nhuận kinh tế đáng kể từ một đổi
mới, trong khi khách hàng, những người bắt chước hoặc những người tham gia khác
trong ngành lại được hưởng lợi. Các doanh nghiệp đổi mới mà không có năng lực
64
sản xuất cần thiết và các năng lực chuyên biệt có thể bị thất bại, mặc dù họ là doanh
nghiệp đổi mới tốt nhất. Chính vì thế Teece (1986) nhấn mạnh tầm quan trọng của
nhà nước trong việc hoạch định chiến lược, chính sách công, thương mại quốc tế và
đầu tư nhằm khuyến khích và bảo vệ các doanh nghiệp đổi mới trong nước.
Teece gợi ý rằng có hai yếu tố có thể trở thành công cụ gặt hái lợi nhuận nhờ
đổi mới: (1) Mức độ có thể bắt chước và tài sản bổ sung. Mức độ có thể bắt chước là
mức độ mà một công nghệ có thể bị bắt chước. Mức độ có thể bắt chước có được từ
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của công nghệ (như bản quyền, thương hiệu, sáng chế hoặc
bí mật thương mại), hoặc từ thực tế là những người đi sau hay những "doanh nghiệp
bắt chước" không có khả năng bắt chước công nghệ đó. (2) Tài sản bổ sung là tất cả
những năng lực khác mà tổ chức cần thiết để khai thác công nghệ, bao gồm sản xuất,
marketing, kênh phân phối, dịch vụ, danh tiếng, nhãn hiệu, và các công nghệ bổ sung.
Khi nào thì một doanh nghiệp đổi mới có thể có lợi nhuận từ đổi mới? Điều
này được thể hiện trên hình 2.2
Tài sản bổ sung
Có sẵn, không quan trọng Khó có được, quan trọng
Cao
(I) Khó có đƣợc lợi nhuận
(II) Tổ chức có tài sản bổ sung
Mức độ có thể bắt chƣớc
Thấp
(IV) Nhà sáng chế
(III) Nhà sáng chế hoặc bên có quyền đàm phán
Hình 2.2.: Ai có đƣợc lợi nhuận từ đổi mới
Ở ô số 1 hình 2.2 cho biết nếu mức độ có thể bắt chước là cao, công nghệ có
thể dễ dàng bị bắt chước, doanh nghiệp đổi mới sẽ khó kiếm được lợi nhuận nếu tài sản
bổ sung là hoàn toàn có sẵn hoặc là không quan trọng. Ở ô số 2 hình 2.2 nếu tài sản bổ
sung là khó nắm bắt và quan trọng, doanh nghiệp có được tài sản sẽ dễ dàng có lợi
nhuận hơn (ô số 2). Ở ô thứ 3 hình 2.2, nếu mức độ có thể bắt chước là thấp, tài sản bổ
sung là quan trọng và khó có thể có được, doanh nghiệp có cả 2 yếu tố trên sẽ thành
công, và doanh nghiệp cũng có thể có được lợi nhuận cao hơn thông qua việc đàm
phán. Nếu mức độ có thể bắt chước thấp, nghĩa là khó có thể bắt chước công nghệ,
doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới cũng sẽ có được lợi nhuận nếu tài sản bổ
sung là hoàn toàn có sẵn hoặc không quan trọng (ô số 4, hình 2.2).
65
Đối với các doanh nghiệp đổi mới việc sở hữu các tài sản chuyên biệt trở nên
cực kỳ quan trọng. Trang thiết bị và năng lực đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu
rủi ro khi tiến hành các hoạt động đổi mới. Đối với tài sản đồng sở hữu. doanh nghiệp
không thể dễ dàng sử dụng và điều chỉnh, nguyên nhân do các ràng buộc trong hợp
đồng. Doanh nghiệp kiểm soát các tài sản chẳng hạn như kênh phân phối, năng lực sản
xuất chuyên biệt, v.v. sẽ có vị trí thuận lợi hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Như vậy lý thuyết đổi mới của Teece (1986) đã cho rằng đổi mới mang tính
không chắc chắn và có rủi ro cao. Để hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được
thành công, đòi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực tài chính mạnh, thông qua đó
doanh nghiệp tăng cường chi mua sắm tài sản chuyên biệt, chi cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển…. Tác giả cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong
việc đưa ra các chính sách, hệ thống pháp luật để khuyến khích và bảo vệ quyền lợi
của các doanh nghiệp đổi mới.
2.6. Đo lƣờng đổi mới trong doanh nghiệp
Đổi mới được thực hiện xuyên suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, từ khâu biến đổi đầu vào, thành đầu ra là sản phẩm hàng hóa, đến khâu
cung cấp sản phẩm đến tay khách hàng. Do đó, có nhiều cách khác nhau được sử
dụng để đo lường đổi mới, cụ thể như: Chi cho đầu vào hoạt động đổi mới (như chi
tiêu cho R&D, chi mua sắm tài sản...); Dựa trên số lượng đầu ra của hoạt động đổi
mới (như các đơn đăng ký bằng sáng chế và nhãn hiệu thương mại, số lượng sản
phẩm mới...).
2.6.1. Đo lường đổi mới thông qua đầu vào
a. Chi cho đầu vào hoạt động đổi mới
Doanh nghiệp chi cho đầu vào hoạt động đổi mới sẽ thể hiện được sự quan
tâm, mức độ nỗ lực của doanh nghiệp trong quá trình đổi mới. Quy mô và cơ cấu
chi tiêu cho các hoạt động đổi mới của doanh nghiệp thường bao gồm: Chi nghiên
cứu và Phát triển Nội bộ (R&D); Chi cho nghiên cứu và phát triển bên ngoài
(R&D); Mua lại máy móc thiết bị; Mua lại phần cứng; Mua lại phần mềm; Mua
công nghệ mới; Ký hợp đồng với các công ty tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật; Hoạt động
kỹ thuật và thiết kế công nghiệp; Đào tạo nhân viên; Marketing
66
Để đánh giá mức chi cho hoạt động đổi mới của doanh nghiệp cần phải đánh
giá mức chi tiêu cho hoạt động đổi mới theo từng lĩnh vực và từng năm. Dưới đây
là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá mức chi của doanh nghiệp cho hoạt động đổi
mới, bao gồm:
- Số lượng doanh nghiệp đã thực hiện hoạt động R&D và tỷ lệ phần trăm
doanh nghiệp đã thực hiện hoạt động R&D trên tổng số doanh nghiệp.
- Cường độ chi cho các hoạt động đổi mới: Chi cho hoạt động đổi mới theo
tỷ lệ phần trăm trên doanh thu từng năm hoặc từng kỳ
- Cường độ chi tiêu cho R&D: Chi cho R&D tính theo tỷ lệ phần trăm doanh
thu từng năm hoặc từng kỳ.
- Cơ cấu chi cho hoạt động đổi mới: Tỷ lệ phần trăm trong tổng chi cho hoạt
động đổi mới theo từng lĩnh vực
Điều kiện và cường độ để tham gia vào hoạt động đổi mới là dựa trên các
nguồn lực mà doanh nghiệp hiện có. Các nguồn lực này thường là tài chính hoặc
con người. Theo truyền thống, chỉ số đầu vào phổ biến nhất để đo lường đổi mới là
chi phí dành cho R&D (Klomp và Van Leeuwen, 1999, Lööf và cộng sự, 2001).
Các khoản chi cho R&D thường dựa trên tổng doanh thu. Chỉ số R&D vẫn được
phát triển thêm như một chỉ báo về mức độ và cường độ đổi mới trong doanh
nghiệp. Ưu điểm chính của chỉ tiêu này là nó tương đối dễ đo lường và thu thập.
Việc sử dụng rộng rãi chỉ số này cũng cải thiện khả năng so sánh của các nghiên
cứu khác nhau. Tuy nhiên, một số điểm yếu có thể được đề cập đến đối với đo
lường đổi mới qua đầu tư cho R&D (Kleinknecht, 2000): Thứ nhất, chi tiêu cho
R&D chỉ đơn thuần là một đầu vào cho quá trình đổi mới, nhưng nó không nói lên
kết quả hay hiệu quả của đầu ra đổi mới. Thứ hai, các đầu vào liên quan đến R & D
sẽ làm tăng chi phí đổi mới. Thứ ba, dữ liệu R&D có xu hướng đánh giá thấp những
đổi mới trong quy trình tổ chức hay dịch vụ. Cuối cùng, bảng câu hỏi R&D đánh
giá thấp các hoạt động R&D quy mô nhỏ và thường không chính thức ở các doanh
nghiệp nhỏ hơn.
OECD đã phân tích chỉ tiêu R&D thành sáu hạng mục chi phí khác nhau, cụ
thể là sản phẩm/thiết kế công nghiệp, thử nghiệm, phân tích/giới thiệu thị trường,
67
đào tạo, cấp bằng sáng chế và cấp phép, và đầu tư tài sản cố định liên quan đến đổi
mới (Felder và cộng sự, 1996; Klomp, 2001). Tổng chi tiêu cho R&D, còn được gọi
là đầu tư cho R&D, bao gồm R&D nội bộ, R&D bên ngoài và R&D phối hợp với
các trường đại học và viện nghiên cứu (Klomp và Van Leeuwen, 1999). Ba khoản
chi này được liệt kê cho các lựa chọn “thực hiện, mua hoặc hợp tác” cho các quyết
định quản lý về đổi mới.
Các doanh nghiệp thường trích một khoản quỹ riêng để chi cho hoạt động
R&D. Doanh nghiệp có xu hướng lưu giữ hồ sơ riêng về hoạt động R&D khi doanh
nghiệp hoạt động ở các quốc gia mà có được ưu đãi về thuế đối với hoạt động R&D.
Các khoản chi cho R&D có thể được sử dụng làm đại diện cho sự đổi mới. Lý do gọi
nó là “Đại diện cho đổi mới” là vì chi phí R&D không cung cấp cho chúng ta danh
sách các kết quả đầu ra thực tế mà chỉ cung cấp cho chúng ta thước đo rằng lượng đầu
vào đã được sử dụng để tạo ra một đầu ra nhất định. Một phần lớn chi tiêu cho R&D là
chi cho phát triển các dòng sản phẩm hiện có thay vì nghiên cứu cho ra đời một sản
phẩm mới hoàn toàn. vì doanh nghiệp cố gắng phát triển.
b. Nguồn nhân lực phục vụ hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp
Greenhalg và Rgoers (2010) cho biết hoạt động đổi mới thường được tiến
hành trong các doanh nghiệp có nguồn lao động chất lượng cao. Đo lường đổi mới
có thể đo lường thông qua việc sử dụng lao động có tay nghề cao. Đây cũng có thể
coi là một thước đo đầu vào đổi mới bên cạnh chỉ tiêu chi phí dành cho hoạt động
đổi mới, vì việc doanh nghiệp sử dụng các nhà khoa học, kỹ sư có trình độ cao v.v.
thông qua đó sẽ nâng cao năng lực hấp thụ và hoạt động đổi mới của doanh nghiệp,
tạo tiền đề cho việc tạo ra các kết quả trong đổi mới của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu
liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hoạt động đổi mới bao gồm:
- Số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn cao và các chuyên gia.
- Số lượng nhân viên chính thức hoặc không chính thức trong phòng R&D
- Số lượng nhân viên chính thức hoặc không chính thức trong phòng Kỹ
thuật và Thiết kế Công nghiệp.
- Số lượng nguồn nhân lực phục vụ hoạt động đổi mới trên tổng số lao động
trong toàn công ty
68
- Số lượng nhân viên được tham gia đào tạo nâng cao trình độ phục vụ hoạt
động đổi mới trong doanh nghiệp
c. Mức độ liên kết, hợp tác nhằm thực hiện hoạt động đổi mới
Hoạt động đổi mới còn được đo lường thông qua việc doanh nghiệp thiết lập
mối liên kết hoặc mối quan hệ với các chủ thể khác trong hệ thống xã hội liên quan
đến các hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Loại hình liên kết và hợp tác của các
doanh nghiệp thường sử dụng như liên kết R & D, liên kết kỹ thuật và thiết kế, liên
kết đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, thông tin. Chỉ tiêu đánh giá thường bao gồm:
- Thời hạn, mức độ và hình thức của mối liên kết
- Các loại hình tổ chức/cá nhân mà doanh nghiệp liên kết được (khách hàng,
nhà cung cấp, trường đại học, trung tâm đào tạo, cơ quan nhà nước, R&D phòng thí
nghiệm, trung tâm công nghệ, nhà tư vấn, các doanh nghiệp không liên quan).
- Địa lý của liên kết (địa phương hoặc quốc tế)
2.6.2. Đo lường đổi mới thông qua đầu ra
Ngày nay, đo lường đổi mới qua các chỉ số đầu ra được các nhà kinh tế rất
quan tâm. Xét trên khía cạnh doanh nghiệp, có thể đo lường đổi mới qua 03 chỉ số
như: doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; doanh số bán
sản phẩm mới so với tổng doanh số bán hàng của doanh nghiệp (theo tỷ lệ phần
trăm của tổng doanh số bán hàng), số lượng bằng sáng chế và thông báo sản phẩm
mới trên các phương tiện truyền thông....
Thứ nhất, đánh giá đổi mới thông qua đánh giá tác động của đổi mới đối với
kết quả hoạt động của doanh nghiệp và chất lượng của việc làm do doanh nghiệp
tạo ra, thông qua các chỉ tiêu như:
- Sự phát triển của doanh số bán hàng sau đổi mới
- Mức độ gia nhập thị trường nước ngoài sau đổi mới (tăng trưởng xuất khẩu)
- Mức tăng năng suất do đổi mới mang lại
- Doanh số bán sản phẩm mới so với tổng doanh số bán hàng của doanh nghiệp
(theo tỷ lệ phần trăm của tổng doanh số bán hàng).
- Mức tăng lương trung bình trong doanh nghiệp (bởi kết quả đổi mới đem lại)
Chỉ số phần trăm trong doanh thu bán hàng là một chỉ số gần đây được sử
69
dụng để đo lường đổi mới. Ưu điểm chính của chỉ số này là mối liên hệ trực tiếp
giữa nỗ lực đổi mới và thành công thương mại của kết quả đổi mới. Nó tập trung rõ
ràng vào giá trị gia tăng của đổi mới cho mục tiêu chung của doanh nghiệp, đó là
tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận (Mairesse và Mohnen, 2001; Klomp và Van
Leeuwen, 1999). Ưu điểm của chỉ số này là có thể ước tính được hiệu quả của đổi
mới, cả đầu vào, quá trình sản xuất và đầu ra của đổi mới (Kleinknecht, 2000). Chỉ
số này còn phù hợp với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Những
chỉ số này rất khó để đo lường, đánh giá, tách biệt sự đóng góp vào doanh thu của
các kết quả đổi mới. Mặt khác khi tính toán chỉ số này cần phải cân nhắc đến chu kỳ
sống của sản phẩm, sự tương tác, hỗ trợ của các nhãn hiệu, dòng sản phẩm khác
nhau trong doanh nghiệp, sự đổi mới quy trình sản xuất, đổi mới tổ chức, đổi mới
marketing tác động đến doanh thu như thế nào.
Thứ hai, đo lường đổi mới trong doanh nghiệp thường dựa trên số lượng đổi
mới sản phẩm, quy trình, tổ chức, marketing trong một giai đoạn nhất định. Trong
thực tế, đầu ra của đổi mới có thể ở nhiều dạng khác nhau. Dễ thấy nhất là một sản
phẩm/dịch vụ mới hoặc một sự cải tiến của sản phẩm/dịch vụ. Chính vì vậy, hầu hết
các chỉ số đầu ra trong nghiên cứu thực nghiệm ngày nay đều có liên quan chặt chẽ
với đổi mới sản phẩm trong các doanh nghiệp. Mặt dù, đổi mới quy trình giúp cải
thiện quá trình chuyển đổi và chúng tạo ra sự chuyển biến lớn trong quá trình sản
xuất kinh doanh, giúp hoạt động của doanh nghiệp được hiệu quả hơn. Thông qua
đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực tế hiện nay đổi
mới quy trình, đổi mới tổ chức hay đổi mới marketing ít được quan tâm hơn.
Thứ ba, đổi mới có thể được đo lường từ quyền sở hữu trí tuệ mà một doanh
nghiệp đăng ký. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép một doanh nghiệp kiếm lợi nhuận từ
hoạt động nghiên cứu và phát triển của mình trước khi chúng bị sao chép bởi các
đối thủ cạnh tranh khác. Số liệu thống kê bằng sáng chế đã được sử dụng nhiều
trong phân tích kinh tế để xác định số lượng đổi mới. Ngược lại, kiểu dáng và nhãn
hiệu không được sử dụng thường xuyên như một thước đo cho sự đổi mới trong
kinh tế, mặc dù lượng đăng ký của chúng nhiều hơn khi so sánh với bằng sáng chế
(Greenhalg và Rgoers, 2010).
70
Tiếp cận đo lường đổi mới có xu hướng tập trung vào các đầu ra cụ thể như số
lượng bằng sáng chế đã đăng ký, số bài báo được công bố trên các tạp chí nghiên
cứu... Trong đó bằng sáng chế thường được sử dụng như một chỉ số đầu ra của sự đổi
mới (Kleinknecht, 1996, 2000). Ưu điểm trước hết là sự phong phú của thông tin
công khai, thứ hai dễ dàng đo lường thông qua một cuộc khảo sát. Nguồn chính để
thu thập loại dữ liệu này là từ các cơ quan nhà nước phụ trách hoặc thông qua thông
cáo báo chí của doanh nghiệp gửi cho các tạp chí thương mại (Greenhalg và Rgoers,
2010). Lợi ích của việc sử dụng nguồn này là các doanh nghiệp nhỏ sẽ không bị bỏ
qua trong suốt quá trình nghiên cứu, các mà các nghiên cứu trước đây đã từng bỏ qua.
Mặc dù có rất ít các doanh nghiệp nhỏ chú trọng đến hoạt động đổi mới nhưng lượng
đổi mới mà các doanh nghiệp này tạo ra vẫn có thể tác động rất lớn đến nền kinh tế
hoặc một lĩnh vực cụ của nền kinh tế.
Sau đây là những lợi thế của bằng sáng chế như một thước đo của sự đổi mới:
- Bằng sáng chế chỉ ra rằng một phát minh mà phần lớn là kết quả của một
sự đổi mới
- Các phát minh được thể hiện với sự trợ giúp của các bằng sáng chế như
một giá trị dự kiến so với chi phí cấp bằng sáng chế
- Việc phân loại bằng sáng chế được thực hiện trong lĩnh vực công nghệ, nơi
chúng cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thay đổi trong hướng phát minh
- Dữ liệu về bằng sáng chế dễ dàng có sẵn cho nhiều quốc gia
Những bất lợi liên quan đến bằng sáng chế khi sử dụng như một chỉ số đo lường
sự đổi mới là: Thứ nhất, vấn đề với chỉ số này trước hết là nhiều doanh nghiệp sử dụng
chiến lược bằng sáng chế, nhằm đánh lừa đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, nhiều đổi mới
(liên quan đến dịch vụ) không được cấp bằng sáng chế. Thứ ba, việc cấp bằng sáng chế
cũng sẽ phụ thuộc vào tính toán chi phí bắt chước so với chi phí đổi mới. Thứ tư, một
số phát hiện cho thấy rằng „thời gian dẫn đầu‘ và ‗bí mật‘ quan trọng hơn là bảo hộ
bằng sáng chế. Thứ năm, các lĩnh vực công nghệ cao có xu hướng được cấp bằng sáng
chế cao hơn. Đây là lý do tại sao hiện nay đo lường đổi mới thường tập trung vào số
lượng của đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức hoặc đổi mới
marketing mà doanh nghiệp tạo ra trong một giai đoạn nhất định.
71
2.7. Các yếu tố ảnh hƣởng tới đổi mới của doanh nghiệp
2.7.1. Cạnh tranh và thông tin thị trường
Theo Smith và cộng sự (2017), cạnh tranh là sự ganh đua trong đó hai hoặc
nhiều bên phấn đấu vì một mục tiêu chung không thể chia sẻ: trong đó lợi ích của
bên này là tổn thất của bên kia. Theo Từ điển ngôn ngữ Anh, “competition” (cạnh
tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua để giành
phần hơn hay ưu thế tuyệt đổi về phía mình”.
Mặt khác, “thị trường”, theo từ điển Cambridge là “nơi gặp nhau giữa người
mua và người bán”. Đây là nơi người mua và người bán tiếp xúc trực tiếp hoặc
gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ. Do vậy, “thông
tin thị trường” có thể hiểu là các thông tin liên quan tới thị trường, bao gồm
thông tin về giá cả, thương hiệu, giá trị, chất lượng,...liên quan tới hàng hóa,
dịch vụ và doanh nghiệp.
Trong luận án, trên cơ sở tổng quan tài liệu nghiên cứu trước đây, yếu tố
cạnh tranh và thông tin thị trường bao gồm các nội dung và chỉ báo sau: Mức độ
cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động (Arranz và cộng sự,
2019); Hiểu biết về giá cả thị trường (Arranz và cộng sự, 2019; Yang và cộng sự,
2019); Hiểu biết về nhu cầu thị trường (Arranz và các tác giả (2019); Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp (Arranz và cộng sự, 2019; Bùi Nhật Lệ Uyên, 2019;
Trần Thị Hồng Việt, 2016; Acs và cộng sự, 1988; Dananpour và cộng sự, 2006;
Aghion, 2005); Định vị, giá trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm, doanh nghiệ
(Sala và cộng sự, 2017); Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp (Arranz và
cộng sự, 2019; Porter, 2008); Áp lực môi trường bên ngoài (Arranz và cộng sự,
2019; Porter, 2008).
2.7.2. Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật
Theo North (1991), Greif và Laitin (2004), Caporaso và Jupille (2022), Thể
chế là cấu trúc do con người nghĩ ra gồm các quy tắc và chuẩn mực nhằm định hình
và hạn chế hành vi của cá nhân. Thể chế đòi hỏi phải có một mức độ bền bỉ và liên
tục. Luật pháp, quy tắc, quy ước, chuẩn mực xã hội đều là những ví dụ điển hình về
thể chế (Knight, 1992).
72
Theo trường Đại học Sysney, chính sách là một hệ thống hướng dẫn có chủ ý
để hướng dẫn các quyết định nhằm đạt được kết quả hợp lý. Chính sách là một
tuyên bố về ý định và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính
sách thường được thông qua bởi một cơ quan quản trị trong một tổ chức. Các chính
sách có thể hỗ trợ cả việc ra quyết định chủ quan và khách quan. Theo từ điển
Cambrige, chính sách là một tập hợp các ý tưởng hoặc kế hoạch về những việc cần
làm trong các tình huống cụ thể đã được một nhóm người, tổ chức kinh doanh,
chính phủ đồng ý chính thức.
Hệ thống pháp luật, theo công ty Luật Alvendia, Kelly và Demarest, bao
gồm các quy tắc, thủ tục và quy định theo đó các sáng kiến công và nỗ lực tư nhân
có thể được thực hiện thông qua các phương tiện hợp pháp.
Trong luận án, yếu tố thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật bao gồm các
nội dung và chỉ báo sau: Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo (Romijn và Albaladejo,
2002; Nguyễn Quốc Duy, 2015; Schnitzer, 2013; Hussen và Çokgezen, 2019);
Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Hussen và Çokgezen, 2019; Sivak và cộng
sự, 2011); Khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công bằng
(Buddelmeyer và cộng sự, 2006; Sivak và cộng sự, 2011; Baumol, 1990;
Rosenbusch và cộng sự, 2011); Tính công khai, minh bạch (Vũ Anh Dũng và cộng
sự, 2018); Sự hiệu quả của bộ máy hành chính (Aghion và cộng sự, 2009); Chính
sách tài chính công và quy định của nhà nước liên quan tới vấn đề môi trường
(Yang và cộng sự, 2019).
2.7.3. Cơ sở hạ tầng
Theo từ điển Cambrige, cơ sở hạ tầng là “tập hợp các cơ sở và hệ thống phục
vụ một quốc gia, thành phố hoặc khu vực khác”. Nó bao gồm các dịch vụ và cơ sở
vật chất cần thiết để nền kinh tế, hộ gia đình và doanh nghiệp hoạt động (O‟Sullivan
và Sheffrin (2003). Cơ sở hạ tầng bao gồm các cấu trúc vật chất công cộng và tư
nhân như đường bộ, đường sắt, cầu, đường hầm, cấp nước, cống rãnh, lưới điện và
viễn thông (bao gồm kết nối Internet và truy cập băng thông rộng),...Fulmer (2009)
định nghĩa cơ sở hạ tầng là "các thành phần vật chất của các hệ thống có liên quan
73
với nhau, cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu để hỗ trợ, duy trì hoặc nâng cao
điều kiện sống của xã hội" và duy trì môi trường xung quanh.
Trong luận án, yếu tố cơ sở hạ tầng bao gồm các nội dung và chỉ báo sau: Hạ
tầng giao thông (Sivak, Caplanova và Hudson, 2011; Djoumessi và cộng sự,
2019; Gallego và cộng sự, 2011); Hạ tầng công nghệ thông tin (Sivak,
Caplanova và Hudson, 2011; OECD, 2008; Nguyễn Quốc Duy, 2015); Hạ tầng
tài chính (Sivak, Caplanova và Hudson, 2011; Canepa và cộng sự, 2008;
Hussen và Çokgezen, 2019); Hạ tầng khoa học công nghệ (Irina và cộng sự,
2019; Vũ Anh Dũng và cộng sự, 2018); Hạ tầng văn hóa xã hội (Damanpour,
1991; Phuangrod và cộng sự, 2017).
2.7.4. Liên kết và hợp tác
Theo Lindenfors (2017) và Kohn (1992), sự liên kết hợp tác là quá trình các
cá nhân hoặc tập thể, doanh nghiệp, tổ chức làm việc hoặc hành động cùng nhau vì
lợi ích chung. Sự liên kết, hợp tác sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
đầu tư (vì sử dụng chung nguồn lực) và nâng cao hiệu quả hoạt động (thông qua
chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao khoa học kỹ thuật).
Trong luận án, yếu tố liên kết và hợp tác gồm các nội dung và chỉ báo sau:
Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới của Nhà nước (Trần Thị
Hồng Việt, 2016; Wolfe và cộng sự, 2004; Phuangrod và cộng sự, 2017; Ayyagari
và cộng sự, 2005); Liên kết hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu (Trần
Thị Hồng Việt, 2016; Nguyễn Đình Bình và cộng sự, 2015); Liên kết hợp tác với
các doanh nghiệp đa quốc gia (Nguyễn Đình Bình và cộng sự, 2015; Nguyễn Quốc
Duy, 2015); Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính (Nguyễn Quốc Duy, 2015); Liên
kết với nhà cung ứng (Arranz và cộng sự, 2019; Nguyễn Quốc Duy, 2015); Liên kết
với các cá nhân (Arranz và cộng sự, 2019; Hagedoorn, 2006).
2.7.5. Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực
Theo công ty Luật Hoàng Phi, nhà quản trị là những người tham gia chỉ huy
trong bộ máy hoạt động của cộng ty. Đây là những người lập các kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm soát việc phân bố nguồn lực như con người, tài chính để từ đó, nhà
quản trị giúp tổ chức đạt được mục tiêu thông qua những người khác.
74
Theo The Balance, nguồn nhân lực là tập hợp những người tạo nên lực lượng
lao động của một tổ chức, lĩnh vực kinh doanh, ngành hoặc nền kinh tế. Một khái
niệm hẹp hơn là vốn nhân lực, kiến thức và kỹ năng mà các cá nhân có được. Bộ
phận Nhân sự (phòng nhân sự) của một tổ chức thực hiện quản lý nguồn nhân lực,
giám sát các khía cạnh khác nhau của việc làm, chẳng hạn như tuân thủ luật lao
động và tiêu chuẩn việc làm, phỏng vấn và lựa chọn, quản lý hiệu suất, quản lý lợi
ích của nhân viên, sắp xếp hồ sơ nhân viên.
Trong luận án, yếu tố nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực gồm các nội
dung và chỉ báo sau: Quản trị tri thức trong doanh nghiệp (Darroch, 2005; Kirca và
cộng sự, 2005); Trình độ và kinh nghiệm của người quản lý (Đỗ Văn Hải, 2015;
Nguyễn Thanh Cường, 2014; Romijn và Albaladejo, 2002; Ayyagari và cộng sự,
2011; Romijn và Albaladejo, 2002); Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân viên
(Romijn và Albaladejo, 2002; Arranz và cộng sự, 2019); Tinh thần dám đổi mới của
Nhà quản trị và coi trọng việc phát triển đổi mới (Becheikh, 2006; Drucker, 2002;
Phuangrod và cộng sự, 2017; Sala và cộng sự, 2017); Chia sẻ tri thức và ý tưởng
mới (Wan và cộng sự, 2005; Aujiraponpan các cộng sự, 2011; Vuttiwong, 2009);
Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp (Nguyễn Thanh Cường, 2014); Kỹ
năng quản lý của nhà quản trị (Ngo và O‟Cass, 2009); Trao quyền trong việc ra
quyết định (Wan và cộng sự, 2005); Chấp nhận rủi ro (Wan và cộng sự, 2005;
Becheikh, 2006; Sala và cộng sự, 2017).
2.7.6. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Theo CRIF D&B Vietnam, năng lực tài chính là khả năng đảm bảo nguồn
lực tài chính cho hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu doanh
nghiệp đề ra. Hay hiểu chính xác, năng lực tài chính chính là khả năng huy động
vốn để đáp ứng các hoạt động của doanh nghiệp và khả năng đảm bảo an toàn tài
chính doanh nghiệp. Còn theo Viện Quản lý rủi ro quốc tế, Năng lực tài chính là
giới hạn tài chính về khả năng của một tổ chức trong việc hấp thụ các khoản lỗ bằng
tiền riêng hoặc vốn vay mà không bị gián đoạn nghiêm trọng. Giá trị này thường
phát huy tác dụng khi người quản lý rủi ro cố gắng tìm số tiền giữ lại thích hợp. Bất
kỳ số liệu duy trì theo kế hoạch nào cũng phải thấp hơn điểm khả năng tài chính.
75
Trong luận án, yếu tố năng lực tài chính của doanh nghiệp gồm các nội dung
và chỉ báo sau: Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh nghiệp (Romijn
và Albaladejo, 2002; Arranz và cộng sự, 2019); Tình hình tài chính của doanh
nghiệp (Bygrave, 1992; Kaufmann và Todtling, 2002; King và Levine, 1993a;
Morales, 2003; Schumpeter, 1934); Năng lực quản lý tài chính (Hồ Ngọc Luật và
Phạm Thế Dũng, 2018; Quevedo và cộng sự, 2017); Nguồn vốn chủ sở hữu
(Bartlett và Ghoshal, 1989; Ghoshal và Moran, 1996; Bùi Nhật Lệ Uyên, 2018);
Khả năng vay vốn (Canepa và Stoneman, 2008; Morales và cộng sự, 2003); Khả
năng quay vòng vốn (Morales và cộng sự, 2003).
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Nội dung chương 2 tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới trong các
doanh nghiệp công nghiệp, cụ thể như: Tổng hợp cơ sở lý luận về đổi mới trong
doanh nghiệp công nghiệp trong đó làm rõ khái niệm, tầm quan trọng và đặc trưng
đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp. Tổng hợp sáu lý thuyết liên quan tới
đổi mới như: Lý thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013); Lý
thuyết đổi mới của Schumpeter; Lý thuyết đổi mới nội sinh (Endogenous
Innovation Theory); Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers (Rogers‟ Innovation
Diffusion Theory); Lý thuyết đổi mới của Roberts và Berry; Lý thuyết đổi mới của
Teece. Đưa ra hai thang đo đổi mới trong doanh nghiệp đó là: Đo lường đổi mới
thông qua đầu vào và đo lường đổi mới thông qua đầu ra.
Chương 2 góp phần hệ thống hóa cũng như làm phong phú thêm những lý
luận cơ bản về đổi mới trong doanh nghiệp công nghiệp. Những cơ sở lý luận này
sẽ là tiền đề để tác giả phân tích ở các chương tiếp theo.
76
Chƣơng 3
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, Luận án cần tập trung giải quyết
03 câu hỏi nghiên cứu dưới đây:
(1) Thực trạng đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên hiện nay như thế nào?
(2) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên?
(3) Giải pháp nào để thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp
công nghiệp tại tỉnh Thái Nguyên?
3.2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Giả thuyết và mô hình nghiên cứu của tác giả được phát trên dựa trên mô
hình đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) (đã được trình bày chi tiết
ở chương 2). Các tác giả đã nhấn mạnh rằng, để đo lường đổi mới ta cần tập trung
vào 03 vấn đề chính: (i) Năng lực đổi mới (Innovation capacity); (ii) Kết quả đổi
mới (Innovation Outputs); và (iii) Tác động của đổi mới (Innovation Impacts).
Năng lực đổi mới được đo lường thông qua các yếu tố đầu vào (Innovation Inputs),
các yếu tố ảnh hưởng quyết định (Determinants) và Quá trình đổi mới (Process).
Về các yếu tố ảnh hưởng, Edison, Ali và Torkar (2013) đã đưa ra 23 nhóm
các yếu tố quyết định ảnh hưởng tới đổi mới của doanh nghiệp và đã luận giải cách
thức tác động của các yếu tố đầu vào và các yếu tố quyết định tới kết quả đổi mới
của doanh nghiệp thông qua 03 giai đoạn chính: Nghiên cứu (Research phase); Phát
triển (Development phase) và áp dụng vào sản xuất hoặc thương mại hóa (Use in
production or commercialisation).
Sau khi nghiên cứu những đặc điểm thực tế riêng biệt của doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, kết hợp với tổng quan tài liệu, tác giả đã phát
triển và đề xuất mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Theo đó, mô hình đề xuất gồm
06 yếu tố tác động, bao gồm: (1) Cạnh tranh và thông tin thị trường; (2) Thể chế,
chính sách và hệ thống pháp luật; (3) Cơ sở hạ tầng; (4) Liên kết và hợp tác; (5)
77
Nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực; (6) Năng lực tài chính
doanh nghiệp. Kết quả đổi mới sẽ được thể hiện qua 04 nội dung: Đổi mới sản
phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức và đổi mới Marketing.
Bên cạnh đó, theo mô hình đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) và lý thuyết đổi mới của Schumpeter (1934) thì quy mô doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Chính vì thế tác giả sử dụng biến kiểm soát là quy mô doanh nghiệp, để tìm hiểu tác động của quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Mô hình nghiên cứu đề xuất cụ thể như sau:
Cạnh tranh và thông tin thị trường
(+)
(+)
Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật
(+) Cơ sở hạ tầng
(+) Hoạt động đổi mới: (1) Đổi mới sản phẩm (2) Đổi mới quy trình sản xuất (3) Đổi mới tổ chức (4) Đổi mới Marketing Liên kết và hợp tác
(+)
Quy mô doanh nghiệp
(+) Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Hình 3.1: Khung nghiên cứu
Giả thuyết 1: Cạnh tranh và thông tin thị trường ảnh hưởng tích cực tới hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Giả thuyết 4: Liên kết và hợp tác ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới
Giả thuyết 2: Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Giả thuyết 3: Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
78
Giả thuyết 7: Quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi
Giả thuyết 5: Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Giả thuyết 6: Năng lực tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
* Kết quả phỏng vấn chuyên gia Để có thể tăng cường độ tin cậy của các thang đo cũng như mô hình đề xuất,
tác giả đã tiến hành phỏng vấn 25 chuyên gia về đổi mới sáng tạo. Cụ thể như sau:
- Số lượng chuyên gia: 25 người (bao gồm 10 nhà khoa học và 5 nhà quản lý
cấp Sở và 10 lãnh đạo doanh nghiệp công nghiệp lớn của tỉnh Thái Nguyên).
- Quy trình phỏng vấn gồm các bước sau: + Bước 1: Xem xét tiêu chuẩn và lựa chọn chuyên gia phù hợp. + Bước 2: Liên hệ chuyên gia để tiến hành phỏng vấn trực tiếp. + Bước 3: Phỏng vấn trực tiếp chuyên gia + Bước 4: Hiệu chỉnh nội dung nghiên cứu dựa trên gợi ý của chuyên
gia và tiến hành điều tra thử.
- Nội dung phỏng vấn: Nhận định của chuyên gia về thang đo hoạt động đổi mới, các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới, thực trạng đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, mô hình đề xuất và gợi ý giải pháp.
- Kết quả: Các chuyên gia được phỏng vấn đều nhất trí với các thang đo và mô hình đề xuất. Bên cạnh đó, các chuyên gia đã có nhiều đánh giá rất giá trị về thực trạng đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (đã được trình bày chi tiết trong luận văn). 3.3. Thiết kế nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan và các lý thuyết liên quan đến đổi mới và hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Để đánh giá được thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tác giả xây dựng khung phân tích như sau:
79
Cạnh tranh và thông tin thị trường
Đổi mới sản phẩm
Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật
Đổi mới quy trình
Cơ sở hạ tầng
Liên kết và hợp tác
Giải pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các DNCN Thái Nguyên
Đổi mới tổ chức
Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực
Đổi mới Marketing
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Hình 3.2: Khung phân tích nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng tới đổi mới tại các DNCN Thái Nguyên
80
3.4. Phƣơng pháp tiếp cận
Cách tiếp cận hệ thống: Theo cách tiếp cận này, đề tài trước tiên sẽ làm rõ
các hợp phần thuộc môi trường bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng đến hoạt động
đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên; Xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của nhóm đối tượng này cũng như phản
ứng của nhóm đối tượng được nghiên cứu.
Tiếp cận có sự tham gia: Hoạt động đổi mới ở tỉnh Thái Nguyên có liên quan
đến nhiều đối tượng, ở nhiều cấp khác nhau. Các đối tượng này gồm: Các doanh
nghiệp công nghiệp, cơ quan nhà nước, các đoàn thể,...Vì vậy, phương pháp tiếp
cận có sự tham gia được sử dụng xuyên suốt ở các khâu, các nội dung của đề tài. Từ
khâu khảo sát, điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng đến việc đề ra các giải pháp
thúc đẩy đổi mới đều có sự tham gia của các bên liên quan.
Mặt khác, lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behaviour)
thường được ứng dụng để phân tích các yếu tố tác động đến sự thay đổi hành vi của
các chủ thể kinh tế như hành vi của người tiêu dùng và hành vi của người sản xuất.
Ngoài ra, lý thuyết khuếch tán cải tiến (Diffusion of innovation theory) cũng được
sử dụng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc phổ biến một cải tiến hoặc đổi
mới, ví dụ như một sản phẩm mới, một phương thức sản xuất mới… Từ đó, đề xuất
các giải pháp, chính sách giúp “khuếch tán” những cải tiến hoặc đổi mới này. Đề tài
sẽ ứng dụng hai lý thuyết này để xây dựng cách tiếp cận các yếu tố tác động đến
hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị, gợi ý chính sách nhằm thúc đẩy hoạt
động đổi mới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.5. Phƣơng pháp thu thập số liệu
3.5.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Các dữ liệu thứ cấp được thu thập thông qua báo cáo tổng kết hàng năm, báo cáo
tổng kết theo giai đoạn, báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động và biến động của các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nói riêng trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên. Đề tài cũng sử dụng các báo cáo tổng kết hàng năm của các Bộ, Ban, Ngành
liên quan tới hoạt động đổi mới, đặc biệt là Bộ Khoa học và Công nghệ,...
81
Ngoài ra, đề tài còn được tham khảo, nghiên cứu tài liệu, văn bản, báo cáo
của các ngành có liên quan, các kết quả nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam được
lưu trữ ở các cơ quan quản lý; các giáo trình, luận văn, luận án, những công trình,
đề tài nghiên cứu có liên quan trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến nay từ các
thư viện điện tử, Trung tâm học liệu của Đại học Thái Nguyên; các số liệu của các
tổ chức, cá nhân đã được công bố trên sách, báo, tạp chí; thông tin đăng tải trên các
website của các đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động đổi mới... Những thông
tin thứ cấp này giúp tác giả xây dựng cơ sở lý luận chặt chẽ, đảm bảo tính khoa học
của đề tài.
3.5.2. Thu thập số liệu sơ cấp
Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tác giả xây dựng bảng hỏi dựa
trên việc tham khảo các nghiên cứu liên quan và ý kiến của các chuyên gia (xem
phụ lục 1). Cụ thể như sau:
* Đối tượng khảo sát: Đối tượng khảo sát của đề tài là các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, trong đó trọng tâm là các doanh nghiệp
chế biến, chế tạo. Đây là nhóm doanh nghiệp chủ lực về sản xuất công nghiệp cần
hoạt động đổi mới và là nhóm doanh nghiệp chiếm đa số (87,8%) theo niêm giám
thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2020. Các nhóm doanh nghiệp công nghiệp còn lại
(Công nghiệp khai khoáng; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hòa không khí; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải) có tính đặc thù, không đòi hỏi nhiều hoạt động đổi mới và chiếm tỷ trọng
nhỏ nên tác giả không đưa vào đối tượng nghiên cứu. Trong doanh nghiệp, đối
tượng được điều tra là cán bộ quản lý trong doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ
điều tra 1 phiếu duy nhất.
* Số mẫu khảo sát và phương pháp khảo sát: Theo niên giám thống kê năm
2020, tổng số doanh nghiệp công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên là 807 doanh
nghiệp, tuy nhiên trong đó có 391 doanh nghiệp siêu nhỏ. Tác giả tiến hành điều tra
khảo sát trên phạm vi các doanh nghiệp nhỏ, vừa, lớn và không điều tra đối với
doanh nghiệp siêu nhỏ. Bởi vì doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có không quá
82
10 lao động và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn
của năm không quá 3 tỷ đồng. Đổi mới là một quá trình mang tính dài hạn đòi hỏi
sự huy động lớn về nguồn lực con người và tài chính. Chính vì vậy các doanh
nghiệp siêu nhỏ thường không đủ nguồn lực để tiến hành các hoạt động đổi mới.
OECD (2008) đã chỉ ra rằng chỉ từ 1-5% các doanh nghiệp siêu nhỏ tích cực tham
gia vào hoạt động đổi mới, do đó trong nghiên cứu điều tra hoạt động đổi mới có
thể bỏ qua điều tra nghiên cứu các doanh nghiệp siêu nhỏ (Van De Vrande và cộng
sự, 2009; Parida và cộng sự, 2012). Tại Việt Nam, Cục Thông tin Khoa học và
Công nghệ Quốc gia là đơn vị đã tiến hành Cuộc điều tra thử nghiệm về ĐMST
trong các doanh nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2014-2016 trong năm 2017, được
thực hiện trong khuôn khổ của Dự án “Đẩy mạnh ĐMST thông qua nghiên cứu
KH&CN” - Dự án FIRST do Bộ KH&CN chủ trì dưới sự tài trợ vốn vay ưu đãi của
Ngân hàng Thế giới (World Bank). Cuộc điều tra đã tiến hành khảo sát tại 7.641
doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam, để đảm bảo tính
hiệu quả và tính thực tế dự án cũng chỉ tiến hành điều tra đối với doanh nghiệp nhỏ,
vừa và lớn. Katja Hutter (2013) đã đưa ra sáu rào cản chính đối với doanh nghiệp
siêu nhỏ khi tiến hành đổi mới: (1) doanh nghiệp ít hoặc không còn thời gian cho
các dự án đổi mới với kết quả không chắc chắn; (2) Thiếu nguồn vốn bổ sung trong
lĩnh vực tiếp thị, phân phối và bán hàng; (3) Thiếu nền tảng kiến thức đa lĩnh vực;
(4) Chi phí đổi mới cao, mà nguồn tài chính lại hạn chế; (5) Khó khăn trong việc
tiếp cận các chính sách hỗ trợ đổi mới của chính phủ; (6) Sợ rủi ro. Theo
schumpeter (1934) cho rằng doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng tích cực
thực hiện đổi mới. Chính vì vậy để đảm bảo tính hiệu quả của điều tra khảo sát, tác
giả chỉ khảo sát đối với doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, không khảo sát đối với
doanh nghiệp siêu nhỏ.
Để tính toán số mẫu tối thiểu đảm bảo tính đại diện của tổng thể, tác giả áp
dụng công thức Slovin để chọn mẫu như sau:
83
Trong đó:
n Quy mô mẫu
N Kích thước của tổng thể (416 - Tổng số doanh nghiệp chế biến, chế
tạo có quy mô nhỏ, vừa và lớn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên)
e Sai số (5%)
Với khoảng tin cậy là 95%, mức độ sai lệch e = 0,05, ta có như sau: n = 416 / (1 + 416 * 0,052) = 203,9 (doanh nghiệp)
Như vậy, tác giả sẽ cần phải tiến hành điều tra tối thiểu 204 doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để đảm bảo tính đại diện của bộ số liệu
điều tra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc thống kê, khi số liệu càng lớn thì tính đạo diện
và chuẩn xác trong kết quả nghiên cứu càng cao. Do đó, trong năng lực tài chính và
thời gian của mình, tác giả cố gắng hết sức, thu thập nhiều nhất kết quả điều tra có
thể. Để tiến hành thu thập dữ liệu, tác giả đã gửi 300 phiếu khảo sát đến các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên dưới nhiều hình
thức trực tiếp hoặc online.
Sau khi rà soát và loại bỏ các phiếu không hợp lệ hoặc không phù hợp,
không đáp ứng kết quả nghiên cứu, tác giả sử dụng 266 phiếu hợp lệ và phù hợp
nhất để phân tích kết quả nghiên cứu. Cụ thể phân phối mẫu nghiên cứu phục vụ
cho nghiên cứu chính thức được mô tả trong Bảng 1.
Bảng 3.1: Mô tả mẫu nghiên cứu
Quy mô doanh nghiệp Tổng thể Số lƣợng mẫu điều tra Tỷ lệ (%)
67,7 17,7 14,6 100,0 281 73 62 416 180 47 39 266 Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa Doanh nghiệp lớn Tổng số
Như vậy, tác giả tiến hành phân phối mẫu dựa trên quy mô doanh nghiệp
(theo quy mô nhân lực) và tiến hành phân tích 180 doanh nghiệp nhỏ (chiếm
67,7%), 47 doanh nghiệp vừa (chiếm 17,7%) và 39 doanh nghiệp lớn (chiếm
14,6%).
84
* Quy trình điều tra và xử lý như sau:
Bước 1: Tác giả sẽ nghiên cứu các tài liệu tổng quan, tiếp xúc thực tế doanh
nghiệp, đặc biệt là gặp gỡ các chuyên gia trong lĩnh vực để xây dựng lên bảng câu
hỏi điều tra.
Bước 2: Sau khi xây dựng xong bảng câu hỏi điều tra, tác giả sẽ trao đổi và thông
qua giảng viên hướng dẫn và chỉnh sửa theo những góp ý. Đồng thời, tác giả cũng sẽ trao
đổi kỹ lại với các chuyên gia, tiếp thu trao đổi ý kiến và hoàn thiện bảng hỏi.
Bước 3: Sau khi hoàn thiện phiếu điều tra và thông qua giảng viên hướng
dẫn, tác giả sẽ tiến hành điều tra thử 20 phiếu. Những phiếu điều tra này sẽ không
được sử dụng cho kết quả của luận án mà chỉ để kiểm tra tính phù hợp, chính xác và
khoa học của phiếu điều tra so với thực tiễn tại đơn vị nghiên cứu.
Bước 4: Căn cứ kết quả điều tra thử và các phép phân tích thống kê, tác giả
điều chỉnh lại phiếu điều tra cho phù hợp.
Bước 5: Tiến hành điều tra thực tế tại doanh nghiệp theo kế hoạch.
Bước 6: Tác giả thu thập phiếu điều tra, loại bỏ các phiếu không hợp lệ và tiến
hành mã hóa để nhập liệu và phân tích kết quả bằng phần mềm Excel, SPSS và AMOS.
Bước 7: Phân tích thống kê, chạy mô hình hồi quy và viết báo cáo.
* Nội dung khảo sát: Tác giả thực hiện điều tra sơ cấp để đánh giá về thực
trạng hoạt động đổi mới của doanh nghiệp, thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp, cũng như thu thập những đề xuất giải pháp, các gợi
ý chính sách của các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới của các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
* Hình thức khảo sát: Tác giả sử dụng kết hợp nhiều hình thức điều tra, bao
gồm cả điều tra trực tiếp và điều tra online. Đối với hình thức trực tiếp, tác giả tiến
hành đa dạng phương pháp như: Phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua Zoom, phỏng
vấn qua điện thoại, nhờ bạn bè, đồng nghiệp gửi phiếu điều tra cho doanh nghiệp.
Đối với hình thức online, tác giả tiến hành gửi phiếu điều tra qua email hoặc sử
dụng Google Form gửi cho doanh nghiệp.
85
* Phương pháp chọn mẫu: Sau khi xác định số lượng mẫu đối với từng nhóm
quy mô doanh nghiệp. Tác giả chọn mẫu theo hình thức ngẫu nhiên khả dụng.
* Nội dung phiếu điều tra: Phiếu điều tra được thiết kế dựa trên tham khảo ý
kiến của các chuyên gia. Phiếu điều tra gồm có 06 phần:
- Phần 1: Thông tin cá nhân của đối tượng điều tra.
- Phần 2: Thông tin chung về doanh nghiệp được điều tra.
- Phần 3: Tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế
tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
- Phần 4: Thực trạng hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp
chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
- Phần 5: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
- Phần 6: Các gợi ý giải pháp thúc đẩy đổi mới trong các doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên..
Tác giả sử dụng thang đo Likert 5-scale để thu thập đánh giá của người được
điều tra. Cụ thể như sau:
Bảng 3.2. Thang đo Likert - 5 mức độ
Điểm Khoảng Mức đánh giá
5 4.20 - 5.0 Tốt
4 3.40 - 4.19 Khá
3 2.60 - 3.39 Trung bình
2 1.80 - 2.59 Yếu
1 1.0 - 1.79 Kém
Sau khi nghiên cứu các học thuyết, các nghiên cứu liên quan, tiếp xúc thực tế
doanh nghiệp, đặc biệt là gặp gỡ các chuyên gia trong lĩnh vực, tác giả đã xây dựng bảng
câu hỏi và các biến đo lường hoạt động đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng như sau:
* Chỉ tiêu / thang đo đo lường thực trạng hoạt động đổi mới của các doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên:
86
Bảng 3.3. Đề xuất thang đo hoạt động đổi mới
Thang đo / Chỉ báo
Nghiên cứu trƣớc
Mã hoá
I. Đổi mới sản phẩm (PI)
PI1
Phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới
PI2 Đổi mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu mã
PI3 Đổi mới chất lượng sản phẩm
PI4 Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật
PI5
Thay đổi nguyên vật liệu, cấu thành sản phẩm
OECD (2005), Amara và cộng sự (2009), Chang và cộng sự (2011) Amara và cộng sự (2009) Sala và cộng sự (2017); Amara và cộng sự (2009) OECD (2005), Amara và cộng sự (2009), Polder và cộng sự (2010), Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013); Hồ Ngọc Luật (2019) OECD (2005), Amara và cộng sự (2009); Hồ Ngọc Luật (2019)
II. Đổi mới quy trình sản xuất (QI)
QI1 Áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất mới
QI2 Đổi mới phương thức sản xuất
QI3 Đổi mới trong bố trí và thiết kế sản xuất
OECD (2005), Thái Hà (2009) OECD (2005), Amara và cộng sự (2009); Mytelka và Farinelli (2000) Amara và cộng sự (2009); Mytelka và Farinelli (2000)
QI4 Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất OECD (2005), Trần Quang Tiến (2018) Amara và cộng sự (2009); OECD (2005) QI5 Đổi mới trong hoạt động Logistics
QI6
Thái Hà (2009), Amara và cộng sự (2009)
Đổi mới quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào trong sản xuất
III. Đổi mới tổ chức (OI)
OI1
Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp
OI2 Đổi mới cơ cấu tổ chức công việc
OI3 Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân lực OI4 Đổi mới tổ chức bộ máy doanh nghiệp
OECD (2005), Amara và cộng sự (2009), Nguyễn Vân Hà (2020) OECD (2005), Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013) Amara và cộng sự (2009) Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013)
OI5
OECD (2005), Nguyễn Vân Hà (2020)
Đổi mới cơ cấu tổ chức trong hợp tác, liên kết doanh nghiệp IV. Đổi mới Marketing (MI)
MI1
Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân phối
MI2 Đổi mới kênh truyền thông
MI3 Đối mới giá bán sản phẩm
MI4 Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng MI5 Đổi mới chiến lược Marketing
OECD (2005), Nguyễn Vân Hà (2020), Trần Quang Tiến (2018) OECD (2005), Thái Hà (2009), Nguyễn Vân Hà (2020), Trần Quang Tiến (2018) OECD (2005), Nguyễn Vân Hà (2020), Trần Quang Tiến (2018) Thái Hà (2009) Thái Hà (2009)
* Chỉ tiêu / thang đo đo lường thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên:
87
Bảng 3.4. Đề xuất thang đo các yếu tố ảnh hƣớng tới hoạt động đổi mới
Các chỉ tiêu / thang đo
Nguồn tham khảo
CAMI1
Arranz và cộng sự (2019)
Mã hoá I. Cạnh tranh và thông tin thị trƣờng (CAMI) Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động
CAMI2 Hiểu biết về giá cả thị trường
CAMI3 Hiểu biết về Nhu cầu thị trường
CAMI4
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Arranz và cộng sự (2019); Yang và cộng sự (2019) Arranz và các tác giả (2019) Arranz và cộng sự (2019), Bùi Nhật Lệ Uyên (2019); Trần Thị Hồng Việt (2016); Acs và cộng sự (1988); Dananpour và cộng sự (2006); Aghion (2005)
CAMI5
Sala và cộng sự (2017)
CAMI6
Arranz và cộng sự (2019); Porter (2008)
Định vị, giá trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm, doanh nghiệp Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp
Arranz và cộng sự (2019), Porter (2008)
CAMI7 Áp lực môi trường bên ngoài II. Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp luật (IPLS)
IPLS1 Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo
IPLS2
Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
IPLS3
Khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công bằng
IPLS4 IPLS5
Romijn và Albaladejo (2002), Nguyễn Quốc Duy (2015), Schnitzer (2013), Hussen và Çokgezen (2019) Hussen và Çokgezen (2019); Sivak và cộng sự (2011) Buddelmeyer và cộng sự (2006); Sivak và cộng sự (2011); Baumol (1990), Rosenbusch và cộng sự (2011) Vũ Anh Dũng và cộng sự (2018) Aghion và cộng sự (2009)
IPLS6
Yang và cộng sự (2019)
Tính công khai, minh bạch Sự hiệu quả của bộ máy hành chính Chính sách tài chính công và quy định của nhà nước liên quan tới vấn đề môi trường III. Cơ sở hạ tầng (INFS)
INFS1 Hạ tầng giao thông
INFS2 Hạ tầng công nghệ thông tin
INFS3 Hạ tầng tài chính
INFS4 Hạ tầng khoa học công nghệ
INFS5 Hạ tầng văn hóa xã hội
Sivak, Caplanova và Hudson (2011); Djoumessi và cộng sự (2019); Gallego và cộng sự (2011) Sivak, Caplanova và Hudson (2011); OECD (2008); Nguyễn Quốc Duy (2015) Sivak, Caplanova và Hudson (2011); Canepa và cộng sự (2008); Hussen và Çokgezen (2019) Irina và cộng sự (2019); Vũ Anh Dũng và cộng sự (2018) Damanpour (1991); Phuangrod và cộng sự ( 2017)
IV. Liên kết và hợp tác (ENHC)
88
ENHC1
Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới của Nhà nước
ENHC2
ENHC3
Liên kết hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu Liên kết hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia
Trần Thị Hồng Việt (2016); Wolfe và cộng sự (2004); Phuangrod và cộng sự (2017), Ayyagari và cộng sự (2005) Trần Thị Hồng Việt (2016); Nguyễn Đình Bình và cộng sự (2015) Nguyễn Đình Bình và cộng sự (2015); Nguyễn Quốc Duy (2015) ENHC4 Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính Nguyễn Quốc Duy (2015)
ENHC5 Liên kết với nhà cung ứng
Arranz và cộng sự (2019); Nguyễn Quốc Duy (2015) Arranz và cộng sự (2019); Hagedoorn (2006)
ENHC6 Liên kết với các cá nhân V. Nhà quản trị và chất lƣợng nguồn nhân lực (EAHQ) EAHQ1 Quản trị tri thức trong doanh nghiệp
EAHQ2
Trình độ và kinh nghiệm của người quản lý
EAHQ3
Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân viên
EAHQ4
Tinh thần dám đổi mới của Nhà quản trị và coi trọng việc phát triển đổi mới
EAHQ5 Chia sẻ tri thức và ý tưởng mới
Darroch (2005); Kirca và cộng sự (2005) Đỗ Văn Hải (2015); Nguyễn Thanh Cường (2014); Romijn và Albaladejo (2002), Ayyagari và cộng sự (2011), Romijn và Albaladejo (2002) Romijn và Albaladejo (2002); Arranz và cộng sự (2019) Becheikh (2006); Drucker (2002); Phuangrod và cộng sự (2017); Sala và cộng sự (2017) Wan và cộng sự (2005); Aujiraponpan các cộng sự (2011); Vuttiwong (2009)
EAHQ6
Nguyễn Thanh Cường (2014)
Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp
EAHQ7 Kỹ năng quản lý của nhà quản trị EAHQ8 Trao quyền trong việc ra quyết định
EAHQ9 Chấp nhận rủi ro
Ngo và O‟Cass (2009) Wan và cộng sự (2005) Wan và cộng sự (2005), Becheikh (2006); Sala và cộng sự (2017)
VI. Năng lực tài chính của doanh nghiệp (FCOE)
FCOE1
Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh nghiệp
FCOE2 Tình hình tài chính của doanh nghiệp
FCOE3 Năng lực quản lý tài chính
FCOE4 Nguồn vốn chủ sở hữu
FCOE5 Khả năng vay vốn
FCOE6 Khả năng quay vòng vốn
Romijn và Albaladejo (2002), Arranz và cộng sự (2019) Bygrave (1992), Kaufmann và Todtling (2002), King và Levine (1993a), Morales (2003), Schumpeter (1934) Hồ Ngọc Luật và Phạm Thế Dũng (2018); Quevedo và cộng sự (2017) Bartlett và Ghoshal (1989); Ghoshal và Moran (1996); Bùi Nhật Lệ Uyên (2018) Canepa và Stoneman (2008); Morales và cộng sự (2003) Morales và cộng sự (2003)
(Nguồn: Tác giả đề xuất)
89
3.6. Phƣơng pháp xử lý, phân tích số liệu
Thông tin sau khi thu thập được, tác giả tiến hành phân loại, thống kê thông
tin theo thứ tự ưu tiên về mức độ quan trọng của thông tin. Đối với các thông tin là
số liệu được nhập vào máy tính và tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá.
- Số liệu được tính toán trên phần mềm exel và xử lý thông qua các số tuyệt
đối, tương đối hoặc thể hiện thông qua sơ đồ, bảng biểu.
- Số liệu sơ cấp được thu thập từ phiếu khảo sát được phân loại theo yếu tố
cần nghiên cứu, từ đó xây dựng cơ sở dữ liệu cho nghiên cứu.
* Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định
xu hướng mức độ biến động các chỉ tiêu có tính chất như nhau. Phương pháp so
sánh nhằm nghiên cứu và xác định mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. So
sánh số liệu kỳ này với các số liệu kỳ trước để thấy rõ xu hướng tăng tưởng các chỉ
tiêu. So sánh làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng đổi mới và thực trạng các
yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
* Phương pháp thống kê mô tả
Đây là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội thông qua mô tả
sự biến động, xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - xã hội thông qua số liệu
thu thập được. Phương pháp này được sử dụng để phân tích thực trạng hoạt động đổi
mới cũng như đánh giá của các doanh nghiệp về hoạt động đổi mới của doanh nghiệp
mình và các yếu tố ảnh hưởng liên quan.
* Phương pháp phân tích Cronbach‘s Alpha:
Muốn đánh giá sơ bộ mức độ tin cậy cũng như giá trị của thang đo, ta tính
toán hệ số tin cậy Cronbach‟s Alpha (Cronbach, 1951). Phương pháp phân tích hệ
số tin cậy (Cronbach‟s Alpha) được sử dụng để đánh giá mức độ tin cậy của các
thang đo. Phương pháp này giúp loại bỏ các biến quan sát không đủ độ tin cậy (có
hệ số tương quan biến tổng <0,3). Nếu Cronbach‟s Alpha ≥ 0,7 thì được coi là đạt
độ tin cậy. Đối với đề tài nghiên cứu mang tính chất khám phá thì sẽ lấy chuẩn hệ số
Cronbach‟s Alpha ≥ 0,6 (Đinh Phi Hổ, 2012). Sau khi kiểm định Cronbach‟s Alpha
90
người ta còn sử dụng hệ số tương quan biến tổng (iterm – total correlation) để làm cơ sở
tham chiếu loại bỏ các biến không phù hợp (Nunnally and Burnstein, 1994).
* Phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA):
Đây là phương pháp được sử dụng để giúp tác giả nghiên cứu ánh giá hai
loại giá trị quan trọng của thang đo là giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Phương pháp
này dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành một tập F (F nghĩa hơn. Cơ sở của việc rút gọn này dựa vào mối quan hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến nguyên thủy (biến quan sát). Về cơ bản, phương pháp này giúp tác giả có thể xây dựng các yếu tố nòng cốt tác động tới hoạt động đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Theo đó, bước đầu tác giả sẽ liệt kê toàn bộ các biến quan sát ban đầu dựa trên cơ sở lý luận, tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu liên quan. Sau đó, tác giả sẽ dùng phân tích nhân tố khám phá để nhóm các biến quan sát này thành các yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp công nghiệp. Kiểm định Cronbach‟s Alpha sẽ được sử dụng để tái khẳng định độ tin cậy của việc nhóm biến này. Tiêu chuẩn Bartlett và hệ số KMO dùng để đánh giá sự thích hợp của EFA. Theo đó, giả thuyết H0 bị bác bỏ và do đó EFA được gọi là đảm bảo khi: 0,5 ≤ KMO ≤ 1; Sig < 0,05. Trường hợp KMO < 0,5 thì phân tích nhân tố có khả năng không thích hợp với dữ liệu. Tiêu chuẩn rút trích nhân tố gồm chỉ số Engenvalue và chỉ số Cumulative. Tuy nhiên, trị số Engenvalue và phương sai trích là bao nhiêu còn phụ thuộc vào phương pháp trích và phép xoay nhân tố. Theo Gerbing và Anderson, phương pháp trích Pricipal Axis Factoring với phép xoay Promax (Obtique) có phương sai trích bé hơn, song sẽ phản ánh cấu trúc dữ liệu chính xác hơn phương pháp trích Pricipal components với phép xoay Varimax. Theo Nguyễn Khánh Duy, nếu sau phân tích EFA là phân tích hồi qui thì có thể sử dụng phương pháp trích Pricipal components với phép xoay Varimax, còn nếu sau EFA là phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) thì nên sử dụng phương pháp trích Pricipal Axis Factoring với phép xoay Promax. 91 Tiêu chuẩn hệ số tải nhân tố (Factor loadings) biểu thị tương quan đơn giữa các biến với các nhân tố, dùng để đánh giá mức ý nghĩa của EFA. Theo Hair và cộng sự (2010), Factor loading > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu; Factor loading > 0,4 được xem là quan trọng; Factor loading > 0,5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Trường hợp chọn tiêu chuẩn Factor loading > 0,3 thì cỡ mẫu ít nhất phải là 350; nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên chọn tiêu chuẩn Factor loading > 0,55; nếu cỡ mẫu khoảng 50 thì Factor loading > 0,75. * Phương pháp kiểm định nhân tố khẳng định (CFA): Trong kiểm định thang đo, phương pháp CFA trong phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) có nhiều ưu điểm hơn so với các phương pháp truyền thống như phương pháp hệ số tương quan; phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA; phương pháp đa phương pháp,...Lý do vì CFA cho phép chúng ta kiểm định cấu trúc lý thuyết của các thang đo cũng như mối quan hệ giữa một khái niệm nghiên cứu với các khái niệm khác mà không bị chệch do sai số đo lường. Hơn nữa, chúng ta có thể kiểm định giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo mà không cần dùng nhiều nghiên cứu như các phương pháp truyền thống. Vì thế, tác giả ứng dụng CFA để kiểm định mức độ phù hợp của mô hình thang đo với dữ liệu thu thập được (thông tin thị trường) sau khi đã đánh giá sơ bộ bằng hệ số tin cậy Cronbach alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Tiêu chuẩn để thực hiện CFA bao gồm các tiêu chuẩn đánh giá mức độ phù hợp chung và tiêu chuẩn đánh giá mức độ phù hợp theo các khía cạnh giá trị nội dung. Trong đó, để đánh giá mức độ phù hợp chung của mô hình, tác giả sử dụng các tiêu chuẩn: Chi-Square (Chi bình phương - CMIN); Chi-Square điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df); chỉ số GFI (Goodness of Fit Index); chỉ số TLI (Tucker & Lewis Index); Chỉ số CFI (Comparative Fit Index); chỉ số RMSEA (Root Mean Square Error Approximation). Mô hình được coi là phù hợp khi kiểm định Chi- square có giá trị P ≥ 0,05. Tuy nhiên, Chi-square có nhược điểm là phụ thuộc vào kích thước mẫu nghiên cứu. Khi kích thước của mẫu càng lớn thì Chi-square càng lớn do đó làm giảm mức độ phù hợp của mô hình. Bởi vậy, bên cạnh P value, các 92 tiêu chuẩn được sử dụng là CMIN/df ≤ 2 (theo Carmines & Mciver -1981, một số trường hợp có thể chấp nhận CMIN/df ≤ 3); GFI, TLI, CFI ≥ 0,9 (Bentler & Bonett, 1980); RMSEA ≤ 0,08. * Phương pháp hồi quy: Trong mô hình kinh tế lượng, phân tích hồi quy là một tập hợp các quy trình thống kê để ước tính các mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc và một hoặc nhiều biến độc lập. Hình thức phân tích hồi quy phổ biến nhất là hồi quy tuyến tính, trong đó người ta tìm ra đường (hoặc một tổ hợp tuyến tính phức tạp hơn) phù hợp nhất với dữ liệu theo một tiêu chí toán học cụ thể. Phân tích hồi quy chủ yếu được sử dụng cho hai mục đích khác nhau. Đầu tiên, phân tích hồi quy được sử dụng rộng rãi để dự đoán và dự báo. Thứ hai, trong một số tình huống, phân tích hồi quy có thể được sử dụng để suy ra mối quan hệ nhân quả giữa các biến độc lập và phụ thuộc. Quan trọng là, phương pháp hồi quy tiết lộ mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc và một tập hợp các biến độc lập trong một tập dữ liệu cố định và suy ra các mối quan hệ nhân quả. Trong luận án, tác giả sử dụng phân tích hồi quy theo phương pháp Enter (cho tất cả các biến vào chạy đồng thời) để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Một trong những kỹ thuật phức hợp và linh hoạt nhất sử dụng để phân tích mối quan hệ phức tạp trong mô hình nhân quả là mô hình cấu trúc tuyến tính SEM (Structural Equation Modeling). Mô hình SEM là sự mở rộng của mô hình tuyến tính tổng quát (GLM) cho phép nhà nghiên cứu kiểm định một tập hợp phương trình hồi quy cùng một lúc. SEM có lợi thế rất lớn trong việc xử lý mô hình phức hợp với đa dạng dữ liệu, bao gồm các bộ dữ liệu khảo sát trong dài hạn (longitudinal), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), các mô hình không chuẩn hoá hoặc dữ liệu bị thiếu (missing data). Quan trọng hơn cả, SEM là công cụ phù hợp để xây dựng mô hình cấu trúc và ước lượng theo thứ tự của bài toán lý thuyết đa biến. Nó cũng làm rõ mối quan hệ của các biến tiềm ẩn (Latent Variables) và các biến quan sát (observed variables). 93 So với mô hình OLS thông thường, mô hình SEM phối hợp được tất cả các kỹ thuật như hồi quy đa biến, phân tích nhân tố và phân tích mối quan hệ hỗ tương (giữa các phần tử trong sơ đồ mạng). Điều này mang lại lợi thế và ưu việt tuyệt đối giúp tác giả có thể kiểm tra mối quan hệ phức hợp trong mô hình. Khác với những kỹ thuật thống kê khác chỉ cho phép ước lượng từng phần hoặc từng cặp, SEM cho phép ước lượng đồng thời các biến, các mô hình trong tổng thể mô hình, ước lượng mối quan hệ nhân quả giữa các biến, bao gồm cả các biến tiềm ẩn (Latent Constructs). SEM đồng thời cũng đánh giá cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp (nếu có) cũng như xử lý được các lỗi mà kỹ thuật hồi quy thông thường không xử lý được như tự tương quan, đa cộng tuyến, phương sai không đồng nhất,...Đây là phương pháp ưu việt và phù hợp nhất để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tổng thể mô hình SEM được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: 94 Trong đó: PI Đổi mới sản phẩm QI Đổi mới quy trình OI Đổi mới tổ chức MI Đổi mới Marketing CAMI Cạnh tranh và thông tin thị trường IPLS Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật INFS Cơ sở hạ tầng ENHC Liên kết và hợp tác EAHQ Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực FCOE Năng lực tài chính của doanh nghiệp * Phương pháp phân tích biến kiểm soát (quy mô doanh nghiệp theo nhân lực): Theo Edison, Ali và Torkar (2013) và lý thuyết đổi mới của Schumpeter (1934) thì quy mô doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Để phân tích xem biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tác giả sử dụng phương pháp đã được Nielsen và Raswant (2018) tổng hợp, đề xuất: Đó là thiết lập biến kiểm soát như là một biến độc lập tác động tới biến phụ thuộc (đổi mới) trong mô hình SEM. 95 Dựa trên hệ thống cơ sở lý thuyết tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu và thiết kế nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn để kiểm tra mức độ phù hợp của các thang đo. Phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Phiếu khảo sát được gửi đến các đơn vị thông qua email, điện thoại và link phỏng vấn trực tuyến sử dụng Google Docs. Một số các đơn vị thuận tiện địa lý, tác giả đến phỏng vấn trực tiếp. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng phân tích yếu tố khám phá để nhận diện các nhóm yếu tố. 96 Thái Nguyên 4.1.1. Giới thiệu chung về các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Thái Nguyên tiếp giáp với 6 tỉnh như: Hà Nội, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Giang. Đây là điều kiện rất thuận lợi giúp cho tỉnh Thái Nguyên phát triển kinh tế xã hội. Năm 2021, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 6,51% so với năm 2020, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh covid nên chỉ số GRDP của tỉnh Thái Nguyên năm 2020 chưa đạt kế hoạch đề ra (kế hoạch tăng 7%). Trong đó khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 7,34%, khu vực nông lâm, thủy sản tăng 4,24%, khu vực dịch vụ tăng 5,80% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,01%. Ngành công nghiệp luôn là ngành mũi nhọn của tỉnh Thái Nguyên, chiếm đến 58,72% trong tổng cơ cấu kinh tế năm 2021. Trong khi, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 10,76%, khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm chiếm 30,52%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn tăng trưởng ổn định, các mặt hàng sản xuất chủ yếu như: Điện tử, vẫn thông, may mặc…. Năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước đạt 844 nghìn tỷ đồng tăng 7,71%, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao nhất với 7,76%; sản xuất điện tăng 1,12%; xử lý rác thải tăng 4,28%. Trong các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, tỉnh Thái Nguyên là một điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội, là một tỉnh có nền tảng phát triển công nghiệp lâu đời. Thực tế đã chứng minh ngành công nghiệp luôn là một ngành mũi nhọn của tỉnh Thái nguyên. Thái Nguyên đã huy động được nguồn lực phục vụ phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, đặc biệt quan tâm phát triển giao thông, các khu, cụm công nghiệp. Cùng với đó chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, công khai, minh bạch, thân thiện, sáng tạo, linh hoạt đã thu hút lượng lớn nhà đầu tư trong và ngoài nước 97 đến triển khai các dự án, khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Trong số đó có nhiều tập đoàn kinh tế, nhà đầu tư lớn, có uy tín, kinh nghiệm có khả năng dẫn dắt thị trường, tạo ra những chuỗi giá trị như: Tập đoàn Samsung; Tập đoàn Masan; Tập đoàn Central Retail; Danko Group; Công ty Cổ phần Công nghệ viễn thông Sài Gòn; Doanh nghiệp tư nhân Xuân Trường… Tổng kết giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của Thái Nguyên đạt bình quân 10,47%/năm (quy mô GRDP đạt 116 nghìn tỷ đồng vào năm 2020). Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,77% / năm, đóng góp quan trọng nhất cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh. Trong đó phải kể đến đóng góp rất lớn của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Số lượng doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016-2022 như sau: Bảng 4.1: Số lƣợng doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016-2020 73 82 97 101 1 53 3
13 4
14 14
16 8
26 2
3 2
12 0 1 2 2 4 0 73 70 74 72 5 62 8
18 10
20 8
29 10
28 6
7 7
15 2 2 2 2 8 0 6 9 10 11 9 1 4 4 6 5 10 4 10 12 16 20 11 8 67 81 86 79 12 49 47 50 57 59 13 39 111 153 191 240 251 14 Sản xuất, chế biến thực phẩm và đồ
uống
Dệt
Sản xuất trang phục
Sản xuất da và các sản phẩm có liên
quan
Chế biến gỗ và sản xuất từ gỗ, tre,
nứa
Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy
In, sao chép bản ghi các loại
Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ
tinh chế
Sản xuất hoát chất và sản phẩm hóa
chất
Sản xuất thuốc, hóa dược và dược
liệu
Sản phẩm sản xuất từ cao su và
plastic
Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim
loại khác
Sản xuất kim loại
Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc
sẵn (trừ máy móc, thiết bị) 98 13 15 37 47 43 43 9 16 9 11 12 9 14 17 22 24 26 22 8
0
7
6 18
19
20
21 8
0
10
5 9
0
8
7 9
0
8
11 9
0
11
12 2 8 13 28 27 Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học
Sản xuất thiết bị điện
Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được
phân vào đâu
Sản xuất xe có động cơ, rơ móc
Sản xuất phương tiện vận tải khác
Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế
Công nghiệp chế biến, chế tạo khác
Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy
móc, thiết bị Từ bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng số lượng doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo có sự tăng mạnh qua các năm trung bình tăng từ 14-19%, tăng mạnh nhất là năm 2018 với mức tăng 18,7% so với năm 2017. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh covid, năm 2020 có mức tăng thấp nhấp với 1.6% so với năm 2019. Năm 2020 số lượng doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là 807 doanh nghiệp. Nếu phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì có 391 doanh nghiệp siêu nhỏ, 281 doanh nghiệp nhỏ, 73 doanh nghiệp vừa và 62 doanh nghiệp lớn. Số liệu cụ thể như bảng số liệu dưới đây: Bảng 4.2. Phân loại doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên năm 2020 Số lƣợng STT Loại hình doanh nghiệp
1 Doanh nghiệp siêu nhỏ
2 Doanh nghiệp nhỏ
3 Doanh nghiệp vừa
4 Doanh nghiệp lớn Tổng 391
281
73
62
807 (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2020) Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nếu phân loại theo ngành nghề thì có 22 loại, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mới có 21/22 ngành nghề có doanh nghiệp thành lập và tiến hành hoạt động. Năm 2020 có 807 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và đã có đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cụ thể như sau: 99 Bảng 4.3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Nguyên 1 Sản xuất, chế biến thực phẩm và đồ uống 101 1.630 2.313,4 3.153,6 2 Dệt 218 22,3 16,7 8 Sản xuất trang phục 3 23.315 4.238,1 5.950,8 26 Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan 4 34 10,3 2,4 2 Chế biến gỗ và sản xuất từ gỗ, tre, nứa 5 852 1.360,3 1.134,0 72 Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 1.538 1.010,5 1.080,8 6 10 In, sao chép bản ghi các loại 7 174 172,0 54,5 28 Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế 8 36 67,7 51,8 2 Sản xuất hoát chất và sản phẩm hóa chất 9 112 138,7 29,0 11 Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 10 381 1.644,5 698,4 5 Sản phẩm sản xuất từ cao su và plastic 11 774 890,7 649,8 20 12 4.659 8.094,3 6.002,3 79 Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại
khác 13 Sản xuất kim loại 10.210 48.533,6 38.456,1 59 14 251 6.232 9.232,1 7.339,8 15 43 91.216 315.431,0 722.078,0 Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ
máy móc, thiết bị)
Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và
sản phẩm quang học 16 Sản xuất thiết bị điện 2.071 932,1 1.748,8 9 17 387 307,5 316,4 22 Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân
vào đâu 18 9 Sản xuất xe có động cơ, rơ móc 3.417 2.491,6 2.943,3 Sản xuất phương tiện vận tải khác 19 0 0,0 0 0 Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế 20 123 124,6 297,0 11 21 Công nghiệp chế biến, chế tạo khác 3.295 2.790,8 929,2 12 248 158,9 107,0 27 Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc,
thiết bị (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2020) 100 Năm 2020, doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã giúp tạo công ăn việc làm cho 150.922 người lao động trong tỉnh Thái Nguyên và các vùng lân cận với thu nhập bình quân gần 7 triệu đồng/tháng. Tổng số vốn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thái Nguyên năm 2020 là 399.965 tỷ đồng, các doanh nghiệp đã tạo ra tổng doanh thu thuần sản xuất kinh doanh là 793.039,7 tỷ đồng. 4.1.2. Tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên dựa trên kết quả điều tra Như đã trình bày trong phương pháp nghiên cứu, tác giả tiến hành khảo sát 266 doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo để tìm hiểu nội dung đổi mới mà các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Đổi mới marketing 47,40% Đổi mới tổ chức 38,30% Đổi mới quy trình sản xuất 30,80% Đổi mới sản phẩm 35% 0% 10% 20% 30% 40% 50% (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) thường tiến hành, kết quả điều tra được minh họa dưới hình sau: Hình 4.1: Doanh nghiệp thực hiện các nội dung đổi mới Trong các loại đổi mới thì đổi mới marketing đang được các doanh nghiệp
quan tâm thực hiện nhiều nhất, chiếm 47,4 % doanh nghiệp, kế tiếp là đổi mới tổ
chức chiếm 38,3%, đổi mới sản phẩm chiếm 35%, cuối cùng là đổi mới quy trình
sản xuất với 30,8%. Điều quan trọng nhất đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào là
phải bán được hàng hóa, dịch vụ. Đó chính là vấn đề quan trọng giúp doanh nghiệp
có thể tồn tại và phát triển. Điều này cũng giải thích một cách dễ hiểu tại sao
Marketing lại được quan tâm và chú trọng như vậy bởi các doanh nghiệp nói chung 101 và doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Hoạt động
này thường có chi phí thấp, nhưng hiệu quả lại cao. Trên thực tế hiện nay, doanh
nghiệp thường dành khá nhiều nguồn lực để thực hiện hoạt động Marketing. Mặt
khác, phương pháp, hình thức, cách thức tiến hành hoạt động Marketing cũng thay
đổi liên tục theo nhu cầu thị trường và xu thế xã hội. Thị trường hiện đang chứng
kiến sự thay đổi xu hướng Marketing từ các phương pháp truyền thống sang
Marketing online, Marketing internet hoặc Influence Marketing. Do đó, đổi mới
Marketing được doanh nghiệp quan tâm ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19, các hình thức Marketing truyền thống không còn
phù hợp với điều kiện dịch bệnh, cũng như sự thay đổi của môi trường kinh doanh
do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, do vậy, đổi mới Marketing là tất yếu. Ngược
lại, đổi mới quy trình sản xuất là một vấn đề tương đối phức tạp vì nó cần nhiều
nguồn lực về tài chính, nhân lực cũng như thời gian. Việc thay đổi quy trình sản
xuất sẽ thường mất nhiều thời gian và đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố như thay
đổi về nhân sự, thay đổi trong cách thức vận hành, nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực
tăng để có thể sử dụng được dây truyền máy móc trang thiết bị mới. Để có thể hiểu sâu hơn về vấn đề, tác giả đã tiến hành phỏng vấn ông T.Đ.Q
giám đốc công ty Cổ phần giấy xuất khẩu Thái Nguyên, ông cho biết “Các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay
thường tự tiến hành các loại đổi mới như đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình...các
doanh nghiệp không chú trọng tới hoạt động liên kết, phối hợp trong thực hiện hoạt
động đổi mới. Dẫn đến việc thực hiện đổi mới thường kéo dài lâu, hiệu quả đổi mới
chưa cao”. Thực tế đã chứng minh để nâng cao hiệu quả đổi mới, các doanh nghiệp
cần quan tâm tới mối liên hệ, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh
nghiệp với trường đại học, doanh nghiệp với khách hàng...đây là nguồn đầu vào
quan trọng để tiến hành đổi mới. Hoạt động đổi mới thường kéo dài và đòi hỏi nguồn lực tài chính mạnh để
chi cho đổi mới. Qua điều tra khảo sát của tác giả về danh mục chi cho hoạt động
đổi mới, thì các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên thường dành từ 3-5% của tổng doanh thu thuần cho hoạt động đổi mới
trong doanh nghiệp. Trong đó các khoản chi cho các hoạt động phục vụ đổi mới bao
gồm: 69,9% doanh nghiệp chi mua sắm công nghệ, máy móc, trang thiết bị và phần
mềm; 33,5% chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp; 24,1%
chi cho đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nhân lực về hoạt động đổi mới; 13,5% chi mua
kết quả nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp, tổ chức khác... 102 6. Hoạt động chi khác 7,9% 24,1% 5.Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nhân lực về
hoạt động đổi mới 4.Mua tri thức/thương hiệu từ bên ngoài 19,2% 66,9% 3.Chi mua sắm công nghệ, máy móc trang thiết
bị và phần mềm 13,5% 2.Chi mua lại kết quả nghiên cứu và phát triển
của DN, tổ chức khác 33,5% 1.Chi hoạt động nghiên cứu và phát triển trong
DN 0,0% 10,0% 20,0% 30,0% 40,0% 50,0% 60,0% 70,0% 80,0% (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Hình 4.2: Doanh nghiệp chi cho hoạt động đổi mới Như vậy, trong các nội dung chi cho hoạt động đổi mới thì chi mua sắm công nghệ, máy móc, trang thiết bị và phần mềm là nội dung chi nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn lực tài chính dành cho đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp công nghiệp có đặc thù là công nghệ, máy móc, trang thiết bị cũng như phần mềm có giá cả tương đối cao so với các doanh nghiệp trong lĩnh vực khác. Tuy nhiên, việc đổi mới công nghệ, trang bị thêm các máy móc hiện đại, cũng như áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất luôn được coi là một trong những biện pháp quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, do dịch bệnh COVID-19, doanh nghiệp cũng đã phải tốn nhiều chi phí liên quan tới mua sắm máy móc, phần mềm để phục vụ sản xuất, tổ chức, vận hành, làm Marketing trong điều kiện dịch bệnh. Do đó, đối với doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, mặc dù đổi mới Marketing là hoạt động được thực hiện phổ biến nhất (như đã trình bày ở trên), nhưng ngân sách dành cho mua sắm công nghệ, máy móc, phần mềm mới là nội dung tốn nhiều chi phí nhất của doanh nghiệp. Tuy vậy, đây có thể coi là một khoản đầu tư khó có thể tránh nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 103 Kết quả khảo sát trên cũng cho thấy, doanh nghiệp công nghiệp, chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chi dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển trong nội bộ doanh nghiệp còn tương đối ít. Điều này cho thấy các doanh nghiệp còn chưa thực sự quan tâm đến đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, chưa đầu tư theo “chiều sâu” vào việc phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thường khó cạnh tranh tại thị trường Việt Nam nói riêng và quốc tế nói chung. Nguồn vốn để thực hiện hoạt động đổi mới doanh nghiệp thường huy động chủ yếu từ nguồn vốn tự có (chiếm 74,4%), kế tiếp là nguồn vốn tín dụng (chiếm 38,3%)... Doanh nghiệp chưa tận dụng được nguồn vốn từ liên doanh, liên kết (chỉ có 9% doanh nghiệp huy động nguồn vốn từ liên doanh, liên kết), cũng như nguồn vốn từ sự hỗ trợ của chính phủ (chỉ 7,1% doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ). Đây là một hạn chế lớn về vấn đề bố trí nguồn vốn thực hiện đổi mới đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp - một trong những lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn. Việc liên doanh, liên kết để thực hiện đổi mới đối với lĩnh vực công nghiệp là cực kỳ quan trọng khi hợp tác sẽ giúp cho các doanh nghiệp tận dụng được lợi thế sẵn có của nhau, tận dụng tối ưu nguồn lực hiện có, tiết kiệm thời gian và chi phí. Đây là một trong những vấn đề quan trọng cần phải được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 5.Khác 2,3% 4.Nhà nước hỗ trợ 7,1% 3.Liên doanh 9,0% 2.Vay tín dụng 38,3% 1.Vốn tự có 74,4% 0,0% 10,0% 20,0% 30,0% 40,0% 50,0% 60,0% 70,0% 80,0% ưu tiên thúc đẩy thực hiện trong thời gian tới. (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Hình 4.3: Doanh nghiệp huy động tài chính phục vụ hoạt động đổi mới 104 Đổi mới là một quá trình doanh nghiệp cần kết hợp nhiều yếu tố và doanh nghiệp cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên trong doanh nghiệp, cũng như tận dụng các nguồn lực bên ngoài doanh nghiệp. Đổi mới hiện nay được chính phủ Việt Nam rất quan tâm, chính phủ đã đưa ra các chính sách hỗ trợ như chính sách về tín dụng (các hỗ trợ, tài trợ liên quan đến khoản vay…), chính sách về thuế (Giảm thuế, trích lập quỹ, hỗ trợ tài chính thông qua giảm lãi suất tiền vay…), chính sách về tư vấn kỹ thuật (từ các chuyên gia, các nhà khoa học từ tổ chức công lập, từ các viện nghiên cứu, các trường đại học…), thực hiện các dự án (nhiệm vụ, chương trình khoa học và công nghệ, chương trình đối tác đổi mới – sáng tạo…) .... Các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thái Nguyên được hỗ trợ nhiều nhất là nhóm “Chính sách tín dụng” chiếm 13,5% các doanh nghiệp đổi mới, kế tiếp là “Hỗ trợ đổi mới” chiếm 10,2% doanh nghiệp đổi mới, “Tư vấn kỹ thuật” chiếm 4,1% doanh nghiệp đổi mới. Nhóm chính sách hỗ trợ ít doanh nghiệp được nhận là “Thực hiện 5.Chính sách khác 1,1% 4. Thực hiện các dự án 2,3% 3, Tư vấn kỹ thuật 4,1% 2. Chính sách hỗ trợ đổi mới 10,2% 1. Chính sách tín dụng 13,5% 0,0% 2,0% 4,0% 6,0% 8,0% 10,0% 12,0% 14,0% 16,0% các dự án” chiếm 1,1%. Hình 4.4: Doanh nghiệp đƣợc hƣởng chính sách hỗ trợ đổi mới của Nhà nƣớc (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Nguyên nhân các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nhận được ít sự hỗ trợ từ phía Nhà nước cho hoạt động đổi mới là do các doanh nghiệp chưa biết về các chính sách đó, mặt khác do quá trình làm hồ sơ, quy trình xét duyệt phức tạp, doanh nghiệp cũng không biết tham khảo, xin hỗ 105 trợ từ bộ phận nào để làm hồ sơ. Dẫn đến tỷ lệ nộp hồ sơ và tỷ lệ đạt được hỗ trợ từ các chính sách của Chính phủ còn thấp. Nhìn chung, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chưa thực sự quan tâm đến thực hiện hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, chỉ những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nhóm doanh nghiệp có trình độ công nghệ càng cao thì càng quan tâm tới hoạt động đổi mới. Đổi mới trong các doanh nghiệp chủ yếu tập trung nhiều vào cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nhưng lại ít tập trung cho nghiên cứu và phát triển để tạo ra những phát minh, sáng chế hoặc tạo ra những sản phẩm mới hoàn toàn.....Mặt khác các doanh nghiệp còn “đóng kín” trong thực hiện đổi mới, thể hiện mức độ hợp tác trong đổi mới còn rất thấp. Nguyên nhân là do doanh nghiệp chưa gắn kết tốt nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, chưa cao vai trò của các tổ chức nghiên cứu công lập, các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu.... Hơn nữa việc thiếu nguồn lực chất lượng cao phục vụ hoạt động đổi mới, trích lập khoản chi dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp còn thấp...dẫn đến “năng lực nội sinh” để tiến hành hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp còn yếu. Tuy nhiên việc tận dụng các chính sách hỗ trợ của nhà nước trong thực hiện đổi mới của doanh nghiệp còn yếu, doanh nghiệp chưa vận dụng tốt các chính sách tín dụng, chính sách hỗ trợ đổi mới, chính sách tư vấn kỹ thuật... do vậy doanh nghiệp thường gặp rất nhiều khó khăn trong huy động nguồn vốn phục vụ hoạt động đổi mới. Chính vì vậy hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn thấp, chưa phát huy được tác động tích cực đổi mới đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nâng cao lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. 4.2. Đánh giá thực trạng hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 4.2.1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) Phân tích nhân tố khám phá (EFA) là một bước rất quan trọng trong phân tích định lượng. Đây là phương pháp quan trọng đánh giá giá trị hội tụ và giá trị khác biệt. Mặt khác, đây là phương pháp quan trọng được sử dụng với mục đích thu gọn các tham số ước lượng, nhận diện các nhóm nhân tố để chuẩn bị cho các phân tích tiếp theo. Đây là một công cụ quan trọng dùng để gợi ý nhóm các câu hỏi độc 106 lập thành các yếu tố và một công cụ để kiểm định độ tin cậy, tính đại diện, tính phân biệt của các câu hỏi đó trong việc giải thích các nhân tố. Do quy mô mẫu khá lớn (266 phiếu khảo sát) nên theo lý thuyết, hệ số tải nhân tố là 0,5 là đã đáp ứng được yêu cầu của phân tích nhân tố khám phá. Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) được thể hiện ở Phụ lục 4.2. Cụ thể như sau: * Đánh giá tính phù hợp của EFA: Để đánh giá tính thích hợp của mô hình EFA, tác giả sử dụng kiểm định KMO (Kaiser – Meyer – Olkin Measure). Nếu KMO thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1, phương pháp phân tích nhân tố khám phá sẽ có độ tin cậy và tính phù hợp. Theo kết quả thu được từ phần mềm SPSS 26, chỉ số KMO như sau: - Đối với phân tích nhân tố khám phá các biến phụ thuộc: Chỉ số KMO = 0,643. * Kiểm định tương quan của các biến quan sát trong thước đo đại diện Đi đôi với kiểm định KMO thì kiểm định Barlett (1937) được sử dụng để đánh giá các biến quan sát có tương quan với nhau trong một thang đo. Theo kết quả tính toán đối với hoạt động đổi mới, Kết quả kiểm định Bartlett‟s là 9294,741 với mức ý nghĩa Sig. = 0,000 < 0,05, bác bỏ giả thuyết Ho: Các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể và các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện. * Kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát đối với nhân tố Một trong những vấn đề quan trọng trong EFA là khả năng giải thích của các biến quan sát đối với các nhân tố sau khi gộp. Theo đó, cột Cumulative trong bảng tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained) cho biết khả năng giải thích của các biến quan sát đối với các nhân tố. Phép quay Promax trong mục phép quay (rotation), thực hiện lựa chọn các nhân tố có hệ số tải nhân tố phải lớn hơn hoặc bằng 0,5 và chênh lệch giữa các hệ số tải nhân tố giữa các nhóm không quá 0,3 (Jabnoun & Al-Tamimi, 2003). Kết quả cho thấy rằng: - Đối với các thang đo đo lường hoạt động đổi mới: Chỉ số cumulative (%) là 86,37%, kiểm định cho biết rằng 86,37% sự thay đổi của hoạt động đổi mới được giải thích bởi các biến quan sát. Bảng ma trận nhân tố xoay (Rotated Component Matrix) trong Phụ lục 4.2 cho biết các biến đặc trưng đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,5. Sau lần chạy EFA 107 thứ nhất, tác giả đã loại bỏ các biến không đáp ứng yêu cầu thống kê. Sau khi nhóm các biến, tác giả lựa chọn tên cho các nhân tố (nhóm) cho phù hợp. Cụ thể như sau: Bảng 4.4: Các thang đo đo lƣờng biến phụ thuộc sau khi phân tích EFA Chỉ báo Nội dung của chỉ báo Biến
nghiên
cứu Đổi mới
sản phẩm
(PI) Đổi mới
quy trình
sản xuất
(QI) Đổi mới tổ
chức (OI) Đổi mới
Marketing
(MI) PI1
PI2
PI3
PI4
PI5
QI1
QI2
QI3
QI4
QI5
OI1
OI2
OI3
OI4
MI1
MI2
MI3
MI4 Phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới
Đổi mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu mã
Đổi mới chất lượng sản phẩm
Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật
Thay đổi nguyên vật liệu, cấu thành sản phẩm
Đổi mới phương thức sản xuất
Áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất mới
Đổi mới trong bố trí và thiết kế sản xuất
Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất
Đổi mới trong hoạt động Logistics
Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp
Đổi mới cơ cấu tổ chức công việc
Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân lực
Đổi mới tổ chức bộ máy doanh nghiệp
Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân phối
Đổi mới kênh truyền thông
Đối mới giá bán sản phẩm
Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) Các thang đo bị loại bỏ theo gợi ý của phân tích nhân tố khám phá bao gồm: QI6 Đổi mới quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào trong sản xuất OI5 Đổi mới cơ cấu tổ chức trong hợp tác, liên kết doanh nghiệp MI5 Đổi mới chiến lược Marketing 4.2.2. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) Phân tích CFA được sử dụng để khẳng định lại tính đơn biến, đa biến, tính hội tụ và tính phân biệt của thang đo đánh giá hoạt động đổi mới của doanh nghiệp, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. CFA là công cụ phù hợp để kiểm định đo lường lý thuyết tác giả đã đề xuất và được thực hiện bởi phần mềm AMOS. Phân tích CFA kết hợp với phân tích tính hợp lệ (validity analysis) và phân tích HTMT là công cụ phù hợp để đánh giá tính phù hợp của mô hình. 108 Theo Hair và cộng sự (2010), ta cần xác định độ phù hợp của mô hình cụ thể dựa vào các kiểm định sau: - Độ tin cậy (Reliability): Mô hình đạt độ tin cậy khi chỉ số Composite Reliability 0,7 và hệ số tải nhân tố 0,5. - Tính hội tụ (Convergent): Mô hình đạt tính hội tụ khi chỉ số Average Variance Extracted (AVE) 0,5. - Tính phân biệt (Discriminant): Mô hình đạt tính phân biệt khi chỉ số Maximum Shared Variance (MSV) < chỉ số Average Variance Extracted (AVE). Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng plugin Validity and Reliability Test cho AMOS 25. Kết quả chi tiết được trình bày ở phụ lục. Kết quả chính được tổng hợp trong các bảng dưới đây. Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả phân tích CFA, độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân
biệt của nhóm biến phụ thuộc 0,931 0,734 0,412 0,991 0,707
0,993
0,987
0,860
0,685 0,958 0,821 0,555 0,983 QI1
QI3
QI4
QI5
QI2 0,988
0,855
0,909
0,879
0,894 0,959 0,905 0,711 0,555 OI1
OI3
OI4
OI2 0,892 0,678 0,199 0,934 MI1
MI4
MI2
MI3 Kết quả phân tích các chỉ số CR, hệ số tải nhân tố, AVE, MSV chỉ ra rằng, nhóm biến phụ thuộc đạt đồng thời cả 03 tiêu chí: Độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân biệt. 109 Như vậy, các thang đo tác giả đã xây dựng là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thống kê và kinh tế lượng. Kết quả CFA cũng cho thấy rằng, không chỉ báo nào bị loại sau khi phân tích CFA đối với các thang đo đo lường hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Theo đó, hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được đo lường thông qua 04 nội dung: Đổi mới sản phẩm (05 thang đo), đổi mới quy trình sản xuất (05 thang đo), đổi mới tổ chức (04 thang đo) và đổi mới Marketing (04 thang đo). Cụ thể được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: (Nguồn: Kết quả chạy AMOS) Trong đó: Đổi mới sản phẩm PI QI Đổi mới quy trình sản xuất OI Đổi mới tổ chức MI Đổi mới Marketing Theo Hu và Bentler (1999), để đánh giá được độ phù hợp tổng thể của dữ liệu dựa trên các chỉ số độ phù hợp mô hình (model fit), ta thường xác định dựa trên các chỉ số CMIN/df (Chi-square/df), CFI, GFI, TLI và RMSEA. Cụ thể như sau: - CMIN/df ≤ 3 là tốt, CMIN/df ≤ 5 là chấp nhận được 110 - CFI ≥ 0,9 là tốt, CFI ≥ 0,95 là rất tốt, CFI ≥ 0,8 là chấp nhận được - GFI ≥ 0,9 là tốt, GFI ≥ 0,95 là rất tốt - TLI ≥ 0,9 là tốt - RMSEA ≤ 0,06 là tốt, RMSEA ≤ 0,08 là chấp nhận được Kết quả phân tích CFA bằng phần mềm AMOS 25 cho nhóm các biến phụ thuộc cho thấy, Chi-square/df = 1,936, GFI, TLI và CFI đều > 0,9, RMSEA < 0,06. Như vậy, nhóm biến phụ thuộc tổng thể đạt yêu cầu. 4.2.3. Kiển định độ tin cậy của các thang đo (Cronbach’s Alpha) Sau khi đã nhóm biến, ta cần thực hiện đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach‟s Alpha. Độ tin cậy là điều kiện cần để đánh giá đo lường các biến nghiên cứu có giá trị. Độ tin cậy của thang đo nên lớn hơn 0,5 và hệ số
tương quan biến - tổng từ 0,3 trở lên thì có thể chấp nhận (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Điều quan trọng hơn cả, nếu chỉ số phụ Cronbach‟s Alpha đối với trường hợp loại biến đạt giá trị lớn hơn cách biệt, thì theo nguyên lý thống kê, việc bỏ biến được khuyến khích. Kết quả kiểm định độ tin cậy được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.6: Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Hoạt động đổi mới” 0,943 Đổi mới sản
phẩm (PI) 0,952 Đổi mới quy
trình sản
xuất (QI) 0,892 Đổi mới tổ
chức (OI) 0,882 Đổi mới
Marketing
(MI) PI1
PI3
PI5
PI2
PI4
QI2
QI1
QI4
QI3
QI5
OI4
OI1
OI3
OI2
MI2
MI1
MI4
MI3 (Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra của tác giả) 111 Tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach‟s Alpha lớn hơn 0,5, đạt yêu cầu về mặt thống kê. Như vậy tất cả các thang đo đưa ra đều đạt yêu cầu theo kiểm định Cronbach‟s Alpha. 4.2.4. Thực trạng hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 4.2.4.1. Đổi mới sản phẩm Thực trạng đổi mới sản phẩm được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.7: Thực trạng đổi mới sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Biến số Mean Ý nghĩa Mã
hóa
PI1 Phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới
PI2 Đổi mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu mã
PI3 Đổi mới chất lượng sản phẩm
PI4 Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật
PI5 Thay đổi nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm 2,51
3,19
3,32
3,26
2,95 Độ lệch
chuẩn
0,03
0,03
0,02
0,03
0,02 Yếu
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy đổi mới sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chưa hiệu quả, các nội dung đổi mới sản phẩm chủ yếu đạt mức trung bình và yếu. Trong đó “Phát triển các dòng sản phẩm mới” với mức độ đạt được yếu, với ĐTB là 2,51. Qua thực tế khảo sát, điều tra cho thấy, việc phát triển các dòng sản phẩm mới, loại sản phẩm mới, thương hiệu mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn rất yếu. Hầu hết các dòng sản phẩm đã cũ, chưa có các dòng sản phẩm đột phá, sản phẩm mới đáp ứng sự thay đổi nhu cầu của khách hàng. Thực tế đã chứng minh, đa dạng hoá và không ngừng cải tiến sản phẩm là một trong những chiến lược quan trọng để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, với doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, vấn đề này còn nhiều yếu kém do hai nguyên nhân chính: (i) Các doanh nghiệp chưa thực sự chú trọng vào việc đổi mới các dòng sản phẩm, đa dạng hoá thương hiệu để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Tất nhiên, việc có quá nhiều thương hiệu sẽ có thể làm phản hiệu quả, gây ra khó khăn cho việc lựa chọn của khách hàng. Tuy nhiên, với mỗi một 112 phân khúc khách hàng (có thể chia phân khúc theo thu nhập hoặc theo chủng loại, chất lượng yêu cầu), doanh nghiệp nên có một dòng sản phẩm đáp ứng; (2) Để phát triển được các dòng sản phẩm, thương hiệu mới đòi hỏi doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian, chi phí và nhân lực. Do đó, doanh nghiệp không đủ tiềm lực hoặc không sẵn sàng thay đổi. Đây là một hạn chế rất lớn của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần phải khắc phục trong thời gian tới. Trong các nội dung về đổi mới sản phẩm thì “Đổi mới chất lượng sản phẩm” hiện được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên quan tâm nhiều nhất với ĐTB là 3,32, tuy nhiên kết quả thực hiện chỉ đạt mức độ trung bình. Cùng với việc thang đo “phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới” đạt mức yếu, chứng tỏ rằng các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đang tập trung vào việc cải tiến các sản phẩm cũ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, yêu cầu của khách hàng về thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu, tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật, chất lượng sản phẩm cũng như nguyên vật liệu. Các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, tuy nhiên mức độ với kết quả thang đo chỉ ở mức “trung bình” thể hiện rằng đổi mới chất lượng sản phẩm tại các doanh nghiệp chưa thực sự có nhiều đột phá. Các doanh nghiệp cần phải tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong thời gian mới trong việc đổi mới sản phẩm. 4.2.4.2. Đổi mới quy trình Thực trạng đổi mới quy trình sản xuất được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.8: Thực trạng đổi mới quy trình sản xuất tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Biến số Mean Ý nghĩa Mã
hóa
QI1 Đổi mới phương thức sản xuất 2,86 Độ lệch
chuẩn
0,04 Trung bình QI2 2,27 0,04 Yếu Áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất
mới 3,01 0,04 Trung bình QI4 3,06 0,04 Trung bình QI3 Đổi mới trong bố trí và thiết kế sản xuất
Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào
sản xuất QI5 Đổi mới trong hoạt động Logistic 0,04 2,98 Trung bình
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) 113 Trong các nội dung của đổi mới quy trình sản xuất thì “Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất‖ được đánh giá với kết quả thực hiện tốt nhất, với ĐTB là 3,06, tuy nhiên mức ý nghĩa chỉ đạt trung bình. Kế tiếp là nội dung “Đổi mới trong bố trí và thiết kế sản xuất” với ĐTB là 3,01, “Đổi mới trong hoạt động Logistic” với ĐTB là 2,98. Nội dung đổi mới bị đánh giá kém nhất đó là “Áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất mới” với ĐTB là 2,27, tương ứng mức ý nghĩa yếu. Máy móc, dây truyền, công nghệ mới luôn được coi là những phương tiện quan trọng để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng sản lượng, hạ giá thành, từ đó tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế khảo sát, điều tra cho thấy, việc áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chỉ đạt mức yếu. Các doanh nghiệp không thực sự sẵn sàng cho việc thay đổi này. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ vấn đề chi phí và nguồn lực cho sự thay đổi này là rất lớn, trong khi hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là nhỏ và siêu nhỏ với nguồn lực về tài chính và con người rất hạn chế. Bên cạnh đó, một số các doanh nghiệp vừa và lớn khác thì cho rằng việc thay đổi là chưa thực sự cần thiết vì tốc độ thay đổi công nghệ và máy móc đối với lĩnh vực công nghiệp tương đối chậm. Quy trình, máy móc, thiết bị của họ có thể vẫn còn dùng tốt trong nhiều năm tới. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra, sự thay đổi công nghệ sản xuất nhanh chóng, nếu các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên không dành nhiều nguồn lực để tập trung đổi mới quy trình sản xuất trong thời gian tới, rất có thể sớm thôi họ sẽ bị tụt hậu và đối mặt với nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường. Với các vấn đề khác trong quy trình sản xuất như đổi mới phương thức sản xuất, bố trí, thiết kế sản xuất, áp dụng hệ thống thông tin hiện đại, đổi mới logistics, các doanh nghiệp đã có sự lưu tâm, đầu tư, thực hiện đổi mới, nhưng mới chỉ đạt mức độ trung bình, chưa thực sự hiệu quả, chưa có chiều sâu và thiếu toàn diện. Để tìm hiểu thêm thực trạng về đổi mới quy trình sản xuất tác giả tiến hành phỏng vấn ông N.Q.T trưởng phòng sản xuất công ty Glonics Việt Nam, ông cho biết “Glonics là một công ty chuyên sản xuất linh kiện điện tử. Cho nên việc đổi mới quy trình sản xuất thường được công ty quan tâm. Tuy nhiên 2 năm gần đây do ảnh 114 hưởng của dịch bệnh Covid, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp rất nhiều khó khăn, do các đợt giãn cách xã hội. Điều này ảnh hưởng lớn đến doanh thu và hoạt động nghiên cứu phát triển, cũng như kết quả đổi mới…. Hiện nay công ty hoạt động cầm chừng, thận trọng, và gần như không có hoạt động đổi mới quy trình sản xuất‖. 4.2.4.3. Đổi mới tổ chức Thực trạng đổi mới tổ chức được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.9: Thực trạng đổi mới tổ chức tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Mã Độ lệch Biến số Mean Ý nghĩa hóa chuẩn Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức OI1 3,20 0,04 Trung bình doanh nghiệp OI2 Đổi mới cơ cấu, tổ chức thực hiện công việc 3,86 0,03 Khá Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân 3,75 0,03 Khá OI3 lực OI4 Đổi mới tổ chức bộ máy doanh nghiệp 3,43 0,03 Khá (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng đổi mới tổ chức đang được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên quan tâm và thực hiện triển khai. Trong đó các nội dung đổi mới được đánh giá mức độ thực hiện khá bao gồm: Đổi mới cơ cấu, tổ chức thực hiện công việc, với ĐTB là 3,86; Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân lực, với ĐTB là 3,75; Đổi mới tổ chức bộ máy doanh nghiệp, với ĐTB là 3,43. Nội dung còn lại là Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp được đánh giá kết quả thực hiện ở mức trung bình. So với các hoạt động đổi mới khác, đổi mới tổ chức là hoạt động dễ thực hiện, ít tốn kém nhưng hiệu quả mang lại cao. Mỗi giai đoạn, thời kỳ đòi hỏi doanh nghiệp cần có phương pháp quản trị, tổ chức bộ máy riêng phù hợp với yêu cầu kinh doanh. Trong giai đoạn phát triển nóng của doanh nghiệp, bộ máy tổ chức cần phải được mở rộng, phân quyền đầy đủ, rõ ràng. Tuy nhiên, trong giai đoạn khó 115 khăn, bộ máy tổ chức cần phải được tinh giản, gọn nhẹ, quản trị trực tiếp để giải quyết công việc được linh hoạt. Đặc biệt, việc áp dụng các công cụ, phương pháp quản trị mới là cực kỳ cần thiết. Trong hai năm vừa qua, dịch bệnh Covid diễn biến hết sức phức tạp, việc đổi mới tổ chức trở thành yếu tố quyết định then chốt ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc thay đổi cơ cấu, tổ chức thực hiện công việc theo mô hình “3 tại chỗ”, chia ca, kíp linh hoạt, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là những tín hiệu cho thấy rằng các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã thích ứng rất nhanh với điều kiện dịch bệnh và đổi mới tổ chức cho phù hợp với tình hình mới. Các doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy vấn đề này trong điều kiện mới, đặc biệt là giai đoạn phục hồi sau đại dịch đang diễn ra rất mạnh mẽ. 4.2.4.4. Đổi mới Marketing Thực trạng đổi mới Marketing được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.10: Thực trạng đổi mới Marketing tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Độ lệch Mã Biến số Mean Ý nghĩa chuẩn hóa Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân 3,48 0,04 Khá MI1 phối MI2 Đổi mới kênh truyền thông 3,72 0,04 Khá MI3 Đối mới giá bán sản phẩm 3,02 0,03 Trung bình MI4 Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng 3,57 0,02 Khá (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Trong các nội dung đổi mới, thì đổi mới Marketing là hoạt động được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chú trọng và thực hiện nhiều nhất. Nó không chỉ là sự thay đổi về giá bán sản phẩm, mà còn là sự đổi mới về kênh, chính sách, phương pháp phân phối, kênh truyền thông, quảng bá sản phẩm, cũng như chính sách, phương pháp bán hàng. 116 Marketing là quá trình hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của họ thông qua quá trình trao đổi. Trong hai năm vừa qua, dịch bệnh COVID-19 đã khiến mọi thứ thay đổi và đòi hỏi quá trình trao đổi, buôn bán hàng hoá cần được điều chỉnh để thích nghi với điều kiện cách ly xã hội của dịch bệnh. Trong đó các nội dung trong đổi mới Marketing của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên được đánh giá mức độ thực hiện khá bao gồm: Đổi mới kênh truyền thông với ĐTB là 3,72. Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân phối với ĐTB là 3,48 và Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng với ĐTB là 3,57. Thực tế cho thấy, dịch bệnh làm cho nhu cầu, hành vi mua hàng của người tiêu dùng đang dần thay đổi và doanh nghiệp cần lựa chọn giải pháp marketing hiệu quả giữa mùa dịch với chi phí hợp lý nhất. Một trong những phương án được nhiều cá nhân, doanh nghiệp lựa chọn đó chính là marketing online. Có thể nói, các hình thức marketing online vừa giúp giữ nhiệt thị trường, vừa thúc đẩy hình ảnh thương hiệu tích cực hơn, bán hàng hiệu quả hơn. Doanh nghiệp có nhiều cách để marketing online, trong đó có thể kể đến như: Quảng bá sản phẩm trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Tiktok, Instagram,...Live stream giới thiệu sản phẩm, sử dụng Google Ads, thực hiện SEO, tổ chức toạ đàm, giao lưu online,...Dịch bệnh COVID-19 đã chứng kiến sự dịch chuyển mạnh mẽ phương thức marketing quảng bá sản phẩm từ phương thức truyền thống sang các nền tảng online và website doanh nghiệp. Các website được chăm chút kỹ càng hơn, cung cấp đầy đủ thông tin hơn, tích hợp hệ thống mua hàng và thanh toán điện tử. Theo đó, ngoại trừ việc giá bán sản phẩm không có nhiều sự điều chỉnh, các thang đo còn lại của đổi mới Marketing đều ghi nhận mức đánh giá cao. Điều này thể hiện các doanh nghiệp công nghiệp trên địa tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện tương đối tốt việc đổi mới Marketing, và họ cần phải tiếp tục duy trì những điểm tốt này. 117 4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 4.3.1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) Kết quả phân tích nhân tố khám phát các thang đo đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được thể hiện trong phụ lục, cụ thể như sau: * Đánh giá tính phù hợp của EFA: Để đánh giá tính thích hợp của mô hình EFA, tác giả sử dụng kiểm định KMO (Kaiser – Meyer – Olkin Measure). Nếu KMO thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1, phương pháp phân tích nhân tố khám phá sẽ có độ tin cậy và tính phù hợp. - Đối với phân tích nhân tố khám phá các yếu tố ảnh hưởng (biến độc lập): Chỉ số KMO là 0,638. * Kiểm định tương quan của các biến quan sát trong thước đo đại diện Đi đôi với kiểm định KMO thì kiểm định Barlett (1937) được sử dụng để đánh giá các biến quan sát có tương quan với nhau trong một thang đo. Kết quả kiểm định Bartlett‟s của là 16677,193 với mức ý nghĩa Sig. = 0,000 < 0,05, bác bỏ giả thuyết Ho: Các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể và có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện. * Kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát đối với nhân tố - Đối với các thang đo đo lường các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới: Chỉ số cumulative (%) là 84,87%, kiểm định cho biết rằng 84,87% sự thay đổi của các yếu tố được giải thích bởi các biến quan sát. Sau khi nhóm các biến, tác giả lựa chọn tên cho các yếu tố (nhóm) cho phù hợp. Cụ thể như sau: 118 Bảng 4.11: Các thang đo đo lƣờng các biến độc lập sau phân tích EFA Chỉ báo Nội dung của chỉ báo Biến nghiên
cứu CAMI1 Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh nghiệp
đang hoạt động CAMI2 Hiểu biết về giá cả thị trường
CAMI3 Hiểu biết về Nhu cầu thị trường
CAMI4 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Cạnh tranh và
thông tin thị
trƣờng
(CAMI) CAMI5 Định vị, giá trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm,
doanh nghiệp IPLS1 Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo
IPLS2 Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
IPLS3 Khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công bằng Thể chế,
Chính sách và
hệ thống pháp
luật (IPLS) Cơ sở hạ tầng
(INFS) IPLS4 Tính công khai, minh bạch
IPLS5 Sự hiệu quả của bộ máy hành chính
INFS1 Hạ tầng giao thông
INFS2 Hạ tầng công nghệ thông tin
INFS3 Hạ tầng tài chính
INFS4 Hạ tầng khoa học công nghệ ENHC1 Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới
của Nhà nước Liên kết và
hợp tác
(ENHC) ENHC2 Liên kết hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu
ENHC3 Liên kết hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia
ENHC4 Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính
ENHC5 Liên kết với nhà cung ứng
EAHQ1 Quản trị tri thức trong doanh nghiệp
EAHQ2 Trình độ và kinh nghiệm của người quản lý
EAHQ3 Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân viên EAHQ4 Nhà quản trị
và chất lƣợng
nguồn nhân
lực (EAHQ) Tinh thần dám đổi mới của Nhà quản trị và coi trọng
việc phát triển đổi mới
EAHQ5 Chia sẻ tri thức và ý tưởng mới
EAHQ6 Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp FCOE1 Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh
nghiệp Năng lực tài
chính của
doanh nghiệp
(FCOE) FCOE2 Tình hình tài chính của doanh nghiệp
FCOE3 Năng lực quản lý tài chính
FCOE4 Nguồn vốn chủ sở hữu (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) Các thang đo bị loại bỏ theo gợi ý của phân tích nhân tố khám phá bao gồm: CAMI6 Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp 119 Áp lực môi trường bên ngoài CAMI7 Chính sách tài chính công và quy định của nhà nước liên IPLS6 quan tới vấn đề môi trường INFS5 Hạ tầng văn hóa xã hội ENHC6 Liên kết với các cá nhân EAHQ7 Kỹ năng quản lý của nhà quản trị EAHQ8 Trao quyền trong việc ra quyết định EAHQ9 Chấp nhận rủi ro FCOE5 Khả năng vay vốn FCOE6 Khả năng quay vòng vốn 4.3.2. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) Theo Hair và cộng sự (2010), ta cần xác định độ phù hợp của mô hình cụ thể dựa vào các kiểm định sau: - Độ tin cậy (Reliability): Mô hình đạt độ tin cậy khi chỉ số Composite Reliability 0,7 và hệ số tải nhân tố 0,5. - Tính hội tụ (Convergent): Mô hình đạt tính hội tụ khi chỉ số Average Variance Extracted (AVE) 0,5. - Tính phân biệt (Discriminant): Mô hình đạt tính phân biệt khi chỉ số Maximum Shared Variance (MSV) < chỉ số Average Variance Extracted (AVE). Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng plugin Validity and Reliability Test cho AMOS 25. Kết quả chi tiết được trình bày ở phụ lục. Kết quả chính được tổng hợp trong các bảng dưới đây. Bảng 4.12: Tổng hợp kết quả phân tích CFA, độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân biệt của nhóm biến độc lập 0,976 0,889 0,383 0,978 0,959
0,952
0,958
0,933
0,912 120 0,969 0,862 0,383 0,988 IPLS1
IPLS3
IPLS2
IPLS5
IPLS4 0,978
0,975
0,975
0,978
0,705 0,867 0,652 0,219 1,093 INFS4
INFS1
INFS2
INFS3 1,026
0,931
0,782
0,675 0,969 0,863 0,008 1,003 1,001
0,953
0,931
0,878
0,876 0,945 0,743 0,358 0,983 0,783
0,975
0,984
0,888
0,862
0,630 0,605 0,581 0,522 0,621 FCOE4
FCOE2
FCOE3
FCOE1 0,514
0,517
0,538
0,629 (Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra của tác giả) Kết quả phân tích các chỉ số CR, hệ số tải nhân tố, AVE, MSV chỉ ra rằng, nhóm biến độc lập đạt đồng thời cả 03 tiêu chí: Độ tin cậy, tính hội tụ và tính phân biệt. Các thang đo tác giả đã xây dựng là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thống kê và kinh tế lượng. Kết quả CFA cũng cho thấy rằng, không chỉ báo nào bị loại sau khi phân tích CFA đối với các thang đo đo lường các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Như vậy, các kiểm định đã chỉ ra rằng, có 06 yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp, bao gồm: Cạnh tranh và thông tin thị trường (05 thang đo), thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật (05 thang đo), cơ sở hạ tầng (04 thang đo), liên kết và hợp tác (05 thang đo), nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân 121 lực (06 thang đo) và năng lực tài chính của doanh nghiệp (04 thang đo). Cụ thể được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: Trong đó: CAMI Cạnh tranh và thông tin thị trường IPLS Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp luật INFS Cơ sở hạ tầng ENHC Liên kết và hợp tác 122 EAHQ Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực FCOE Năng lực tài chính của doanh nghiệp Kết quả đánh giá độ phù hợp tổng thể của dữ liệu dựa trên các chỉ số độ phù hợp mô hình (model fit) bằng phần mềm AMOS 25 cho nhóm các biến độc lập cho thấy, Chi-square/df = 2,304, GFI, TLI và CFI đều > 0,9, RMSEA < 0,06. Như vậy, nhóm biến độc lập đạt yêu cầu. 4.3.3. Kiểm định độ tin cậy của các thang đo (Cronbach’s Alpha) Sau khi đã nhóm biến, ta cần thực hiện đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach‟s Alpha. Độ tin cậy của thang đo được thực hiện thông qua hệ số Cronbach‟s Alpha. Độ tin cậy là điều kiện cần để đánh giá đo lường các biến nghiên cứu có giá trị. Độ tin cậy của thang đo nên lớn hơn 0,5 và hệ số tương quan biến - tổng từ 0,3 trở lên thì có thể chấp nhận (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Kết quả kiểm định Cronbach‟s Alpha độ tin cậy các thang đo biến độc lập được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.13: Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo của các biến độc lập 0,974 0,963 0,867 0,968 0,946 CAMI4
CAMI5
CAMI1
CAMI3
CAMI2
IPLS4
IPLS5
IPLS1
IPLS2
IPLS3
INFS3
INFS2
INFS4
INFS1
ENHC1
ENHC2
ENHC3
ENHC4
ENHC5
EAHQ4
EAHQ2 123 0,594 EAHQ6
EAHQ1
EAHQ3
EAHQ5
FCOE3
FCOE2
FCOE4
FCOE1 0,885
0,889
0,904
0,899
0,446
0,355
0,385
0,394 0,929
0,930
0,928
0,933
0,464
0,548
0,538
0,524 (Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra của tác giả) Tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach‟s Alpha lớn hơn 0,5, đạt yêu cầu về mặt thống kê. Như vậy tất cả các thang đo đưa ra đều đạt yêu cầu theo kiểm định Cronbach‟s Alpha. 4.3.4. Đánh giá thực trạng các yếu tố tác động tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 4.3.4.1. Thực trạng cạnh tranh và thông tin thị trường Thực trạng cạnh tranh và thông tin thị trường được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.14: Thực trạng cạnh tranh và thông tin thị trƣờng Mã hóa Biến số Mean Ý nghĩa Độ lệch
chuẩn CAMI1 3,24 0,04 Trung bình Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà
doanh nghiệp đang hoạt động
CAMI2 Hiểu biết về giá cả thị trường
CAMI3 Hiểu biết về nhu cầu thị trường
CAMI4 Năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3,65
3,58
3,12 0,05
0,06
0,04 Khá
Khá
Trung bình CAMI5 2,84 0,05 Trung bình Định vị, giá trị, chất lượng và uy tín
của sản phẩm, doanh nghiệp (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng thực trạng yếu tố cạnh tranh và thông tin thị trường được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đánh giá chủ yếu ở mức trung bình. Trong đó yếu tố được đánh giá mức độ khá đó là “Hiểu biết về giá cả thị trường” với ĐTB là 3,65. Giá là một trong những vấn đề quan trọng và nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp. Hiểu biết về giá sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được tiềm năng của bản thân từ đó có các chiến lược kinh doanh cho phù hợp. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, các doanh nghiệp công nghiệp cạnh tranh về giá là chủ yếu, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần nắm rõ giá cả thị trường. Doanh nghiệp cần hiểu rõ về nhu cầu của khách hàng 124 để giúp doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới hiệu quả, thông qua đó gia tăng lợi nhuận, do vậy “Hiểu biết về nhu cầu thị trường” được đánh giá ở mức khá với ĐTB 3,58. Kết quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiểu rõ về giá và nhu cầu thị trường đối với sản phẩm của họ. Đây là một ưu điểm rất lớn mà các doanh nghiệp cần phải phát huy. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh, định vị, giá trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm, doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mới chỉ ở mức trung bình, chưa có sự nổi bật, sự đột phá. Đây là sẽ một thách thức lớn trong thời gian tới khi dịch bệnh qua đi, nền kinh tế mở cửa và phục hồi. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay, nếu các doanh nghiệp không cải thiện năng lực cạnh tranh và thương hiệu của mình thì rất dễ bị đào thải. Để tìm hiểu thêm thực trạng yếu tố cạnh tranh và thông tin thị trường, tác giả tiến hành phỏng vấn ông N.M. H trưởng phòng kinh doanh Công ty TNHH SNG Thái Nguyên, ông cho biết “Ngày nay cạnh tranh thị trường rất gay gắt, bắt buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, để không bị thụt lùi so với đối thủ cạnh tranh. Việc đổi mới thành công đòi hỏi rất lớn từ nguồn thông tin thị trường, sự am hiểu về xu hướng phát triển kinh tế, nhu cầu thay đổi của khách hàng… Tuy nhiên các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn chưa thực sự làm tốt việc này. Dẫn đến việc thua thiệt rất nhiều trong cạnh tranh, cũng như dẫn đến hiệu quả đổi mới chưa thực sự cao” 4.3.4.2. Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật Thực trạng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.15: Thực trạng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật Biến số Mean Mã
hóa Độ lệch
chuẩn IPLS1 Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo 3,26 0,04 IPLS2 Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ 3,48 0,04 Ý
nghĩa
Trung
bình
Khá IPLS3 2,35 0,03 Yếu Khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu
quả và công bằng
IPLS4 Tính công khai, minh bạch 3,44 0,05 IPLS5 Sự hiệu quả của bộ máy hành chính 3,36 0,05 Khá
Trung
bình (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) 125 Đổi mới là một quá trình phát triển lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực của doanh nghiệp, cũng như sự hỗ trợ của thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật của nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật trong việc khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách liên quan đến hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp như sau: Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo; Quyết định số 844/QĐ- TTg ngày 18/5/2016 của Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”; Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 15/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Thông tư số 45/2019/TT-BTC ngày 19/7/2019 của Bộ Tài chính quy định quản lý tài chính thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”,... Đối với tỉnh Thái Nguyên, thời gian vừa qua, lãnh đạo tỉnh đã ban hành một số văn bản, chính sách để hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh, như Kế hoạch số 113/KH-UBND ngày 30/6/2019 của UBND tỉnh Thái Nguyên về Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025; Nghị quyết số 09/2019/NQ-HĐND ngày 11/12/2019 của HĐND tỉnh ban hành Quy định nội dung và mức chi thực hiện hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025. Bên cạnh đó, tỉnh còn thường xuyên tổ chức các hội thi, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Thái Nguyên để nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, thực trạng yếu tố thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả. Các yếu tố bị đánh giá ở mức độ trung bình bao gồm: Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo (ĐTB=3,26); Sự hiệu quả của bộ máy hành chính (ĐTB=3,36). Mặt khác, khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công bằng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới sáng tạo. Ngược lại, tham nhũng, quan liêu gây khó khăn trong hoạt động đổi mới và sự kém hiệu quả của bộ máy hành chính làm giảm hoạt động và lợi nhuận từ hoạt động đổi 126 mới. Các chính sách của tỉnh Thái Nguyên bước đầu đã được doanh nghiệp tiếp nhận. Tuy nhiên, khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công bằng chỉ đạt mức yếu (ĐTB= 2,35). Đây là một vấn đề hết sức đáng lo ngại. Để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, thực thi tốt như kỳ vọng đòi hỏi sự cố gắng của cả lãnh đạo tỉnh cũng như các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một trong những vấn đề khác đã được các doanh nghiệp phản ánh trong quá trình điều tra, khảo sát là việc rất khó khăn để xin sự hỗ trợ như chính sách đã đề cập. Các văn bản, thông tư hướng dẫn còn chưa rõ ràng, đầy đủ. Điều kiện xin hỗ trợ rất khắc khe và khó khăn khiến cho không nhiều doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp cận được sự hỗ trợ từ các chính sách này. Để tìm hiểu về thực trạng thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật tác giả tiến hành phỏng vấn ông Đ.V.B Tổng Giám đốc Công ty TNHH Công nghiệp Chính Đại, ông cho biết “Doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ về chính sách tài chính, cơ chế, chính sách bảo hộ bản quyền sáng chế… Bởi vì hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp còn hạn chế nhiều về mặt tài chính, nhân sự… Thể chế, chính sách sẽ là đòn bẩy thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện đổi mới thành công. Tuy nhiên hiện nay rất ít các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có thể tiếp cận hoặc khai thác các chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong thực hiện hoạt động đổi mới”. Nhìn chung, thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy hết tiềm năng trong việc hỗ trợ và tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới Nhà nước cần nghiên cứu, xây dựng, điều chỉnh sách và hệ thống pháp luật cho phù hợp với doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam. Ngoài ra cần cắt giảm các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đến các chính sách. 127 4.3.4.3. Cơ sở hạ tầng Thực trạng cơ sở hạ tầng được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.16: Thực trạng cơ sở hạ tầng Biến số Mean Ý nghĩa Mã
hóa INFS1 Hạ tầng giao thông
INFS2 Hạ tầng công nghệ thông tin
INFS3 Hạ tầng tài chính
INFS4 Hạ tầng khoa học công nghệ Khá
Tốt
Trung bình
Trung bình 3,57
4,39
3,28
3,33 Độ lệch
chuẩn
0,04
0,05
0,04
0,04
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Từ bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng thực trạng “Hạ tầng công nghệ thông tin” được đánh giá mức độ tốt, với ĐTB là 4,39. Đây là một trong những tín hiệu đáng mừng vì hạ tầng công nghệ thông tin là cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay. Thực tế điều tra, khảo sát cho thấy, Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet nhanh và chi phí thấp. Sự phổ biến của internet đã giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, kết nối, đàm phán, cũng như dễ dàng hơn trong việc hợp tác liên kết, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động nghiên cứu và phát triển… từ đó có thể giúp cho hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được tiến hành hiệu quả. “Hạ tầng giao thông” được đánh giá mức độ khá, với ĐTB là 3,57. So với những năm trước, thời gian gần đây hạ tầng giao thông tại Việt Nam nói chung, cũng như tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã được cải thiện hơn trước rất nhiều. Đường xá, giao thông liên tục được mở rộng, kết nối giữa các huyện, thành phố trong tỉnh, cũng như kết nối giữa Thái Nguyên và các khu vực lân cận. Điều này có ý nghĩa to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình vận chuyển và phân phối sản phẩm của doanh nghiệp. Hai thang đo bị đánh giá mức độ trung bình là “Hạ tầng tài chính” và “Hạ tầng khoa học công nghệ”, với ĐTB lần lược là 3,28 và 3,33. Để tìm hiểu thêm về thực trạng hạ tầng giao thông và hạ tầng khoa học công nghệ tác giả tiến hành phỏng vấn ông Đ.T.K phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên, ông cho biết “Hiện nay công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đổi mới 128 nói riêng. Nguồn tài chính phục vụ hoạt động đổi mới trong công ty chủ yếu được trích ra từ nguồn doanh thu. Mặt khác hạ tầng khoa học công nghệ tỉnh Thái Nguyên còn yếu. Dẫn đến việc công ty phải loay hoay tìm con đường đổi mới cho phù hợp với điều kiện thực tế của công ty, cũng như xu hướng đổi mới trên thị trường”. 4.3.4.4. Liên kết và hợp tác Thực trạng liên kết và hợp tác được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.17: Thực trạng liên kết và hợp tác Mã hóa Biến số Mean Độ lệch
chuẩn Ý
nghĩa ENHC1 2,38 0,03 Yếu ENHC2 2,89 0,04 Trung
bình ENHC3 2,23 0,04 Yếu Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ
trợ đổi mới của Nhà nước
Liên kết hợp tác với trường đại học và viện
nghiên cứu
Liên kết hợp tác với các doanh nghiệp đa
quốc gia ENHC4 Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính 2,78 0,05 Trung
bình
Khá ENHC5 Liên kết với nhà cung ứng 0,04 3,72
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) Liên kết và hợp tác được coi là chiến lược quan trọng để phát triển đối với các doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa rộng khắp như hiện nay. Tuy nhiên, thực trạng liên kết và hợp tác của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn yếu. Trong đó có hai thang đo khảo sát bị đánh giá mức độ yếu đó là “Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới của Nhà nước” với ĐTB là 2,38 và “Liên kết hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia” với ĐTB là 2,23. Qua tìm hiểu tác giả thấy rằng hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chủ yếu theo hình thức “Đổi mới đóng”. Có nghĩa là doanh nghiệp tự tiến hành các hoạt động đổi mới từ khâu nghiên cứu phát triển đến khâu thương mại hóa sản phẩm đổi mới. Dẫn đến tình trạng kết quả đổi mới thường rất lâu mới đạt được, rủi ro trong việc thực hiện hoạt động đổi mới rất cao. Trong đó rủi ro đến từ lĩnh vực tài chính là chủ yếu. Nhiều doanh nghiệp phải cầm cố tài sản để vay ngân hàng khi thực hiện các dự án đổi mới. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có hoạt động đổi mới tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Qua tìm hiểu thực tế, tác giả thấy rằng do năng lực tài chính, trình độ lao động, nhận 129 thức về tầm quan trọng của đổi mới…tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tốt hơn, mặt khác các doanh nghiệp này rất chú trọng đến hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới, cho nên hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp này thường tốt hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp công nghiệp khác trong địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Điểm sáng là việc “Liên kết với nhà cung ứng” đã được các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thực hiện khá tốt trong thời gian vừa qua khi đây là những vấn đề liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Còn vấn đề “Liên kết hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu” chỉ đạt mức trung bình khi chưa có sự liên kết hợp tác chặt chẽ, toàn diện giữa doanh nghiệp và các tổ chức đào tạo, nghiên cứu. Đây là điều vô cùng đáng tiếc khi tỉnh Thái Nguyên có Đại học Thái Nguyên, là một trong năm đại học vùng của cả nước với sứ mệnh quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế cho cả nước, đặc biệt là khu vực trung du và miền núi Bắc. Mặt khác, điều này cũng thể hiện rằng khoảng cách giữa việc nghiên cứu và ứng dụng kết quả vào thực tiễn vẫn còn rất lớn, đòi hỏi sự nỗ lực từ cả phía các trường đại học, viện nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp. 4.3.4.5. Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực Thực trạng năng lực nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.18: Thực trạng nhà quản trị và chất lƣợng nguồn nhân lực Mã hóa Biến số Mean Độ lệch
chuẩn EAHQ1 Quản trị tri thức trong doanh nghiệp 3,21 0,03 EAHQ2 3,32 0,04 EAHQ3 3,05 0,04 EAHQ4 3,25 0,03 Trình độ và kinh nghiệm của người quản
lý
Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân
viên
Tinh thần dám đổi mới của Nhà quản trị và
coi trọng việc phát triển đổi mới
EAHQ5 Chia sẻ tri thức và ý tưởng mới 2,58 0,03 Ý
nghĩa
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Yếu EAHQ6 3,52 0,03 Khá Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh
nghiệp (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) 130 “Con người là trung tâm của sự phát triển” là một trong những định hướng chiến lược, một triết lý hành động xuyên suốt quá trình phát triển của Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước luôn nhấn mạnh. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý tưởng đổi mới, thực hiện đổi mới và ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động đổi mới. Bởi vì suy cho cùng hoạt động đổi mới đều được thực hiện bởi con người. Trong đó, vai trò của người đứng đầu là cực kỳ quan trọng. Nhà quản trị sẽ là người đưa ra các chiến lược, định hướng trong đổi mới, chính vì thế đòi hỏi nhà quản trị cần dám nghĩ dám làm, dám đương đầu với thử thách và sẵn sàng dám đổi mới… Ngoài ra hoạt động đổi mới cũng đòi hỏi đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực cao để đưa ra các ý tưởng đổi mới và thực hiện các ý tưởng đổi mới đó. Tuy nhiên các nội dung khảo sát về thực trạng nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chủ yếu đạt mức trung bình. “Năng lực quản trị tri thức trong doanh nghiệp”, “trình độ, kinh nghiệm của người quản lý” chưa thực sự tốt. Thực tế cho thấy, trong cơ cấu doanh nghiệp theo quy mô, hầu hết doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, mới thành lập không lâu, phần đa là doanh nghiệp tư nhân. Lãnh đạo doanh nghiệp hầu hết chỉ mới có bằng đại học, kinh nghiệm, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, “trình độ và năng lực của đội ngũ nhân viên” cũng chỉ đạt mức trung bình với số điểm là 3,05. Thực tế khảo sát cho thấy, đội ngũ công nhân viên của các doanh nghiệp đến từ các tỉnh khác trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc khá nhiều, tuy nhiên chỉ có một số ít là có bằng đại học. So với mặt bằng chung trong cả nước thì trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên thấp hơn về cả kinh nghiệm lẫn kỹ năng. Đây là một thách thức rất lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp trong thời gian tới. Một vấn đề khác là sự chia sẻ tri thức, ý tưởng mới trong doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chỉ đạt mức yếu (ĐTB 2,58). Việc quản lý hầu hết theo phương pháp quản lý tập trung từ trên xuống. Sự chia sẻ ngang hàng và cơ chế thúc đẩy sự chia sẻ, đổi mới trong doanh nghiệp còn yếu. Đây là một vấn đề quan trọng trong văn hóa doanh nghiệp. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng 131 việc chia sẻ tri thức, ý tưởng trong hoạt động của doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thúc đẩy tinh thần đổi mới. Tuy nhiên, “tinh thần dám đổi mới của Nhà quản trị và coi trọng việc phát triển đổi mới” (ĐTB là 3,25), đạt mức trung bình. Điều này thể hiện rằng, nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động đổi mới của còn thấp, dẫn đến tinh thần đổi mới của các nhà quản trị chưa cao. Nhà quản trị trong các doanh nghiệp đã hầu hết chưa hiểu được tầm quan trọng của đổi mới, coi trong việc phát triển đổi mới, cũng như sẵn sàng dám đổi mới trong “cuộc chơi” tốn kém, rủi ro, nhưng sẽ thu được lợi ích rất lớn nếu thành công. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn thấp. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới các doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao tinh thần, năng lực và trình độ cho người lao động trong doanh nghiệp. Bởi vì hoạt động đổi mới là hoạt động đòi hỏi người lao động có trình độ cao, có chuyên môn vững vàng, để thực hiện được hoạt động nghiên cứu, phát triển trong doanh nghiệp, thông qua đó tạo ra các kết quả đầu ra cho hoạt động đổi mới. 4.3.4.6. Năng lực tài chính của doanh nghiệp Thực trạng năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 4.19: Thực trạng năng lực tài chính Biến số Mean Ý nghĩa Mã
hóa Độ lệch
chuẩn FEOE1 2,52 0,04 Yếu Mức chi cho hoạt động R&D và đào
tạo của doanh nghiệp 0,03
0,03
0,04 2,43
2,72
3,05 Yếu
Trung bình
Trung bình
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả) FEOE2 Tình hình tài chính của doanh nghiệp
FEOE3 Năng lực quản lý tài chính
FEOE4 Nguồn vốn chủ sở hữu Năng lực tài chính là yếu tố đầu vào quan trọng của đổi mới. Bởi vì đổi mới là quá trình dài hạn, đòi hỏi nhiều kinh phí, để chi trả cho nguồn nhân lực thực hiện đổi mới, mua máy móc trang thiết bị phục vụ đổi mới…. Trong các yếu tố khảo sát thì “Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh nghiệp” với ĐTB là 2,52, tương ứng mức đánh giá yếu. Mức chi cho R&D sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đổi 132 mới. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc chi nhiều cho R&D sẽ giúp doanh nghiệp có hoạt động đổi mới tốt hơn. Tuy nhiên thực trạng cho thấy các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chi cho hoạt động R&D còn rất yếu. Điều này có thể do hai nguyên nhân: (i) Các doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu từ cho R&D; (ii) Năng lực tài chính hạn chế khiến doanh nghiệp không thể dành nhiều nguồn lực cho R&D. Để khắc phục vấn đề này trong thời gian tới đòi hỏi các doanh nghiệp cần có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hoạt động R&D, cũng như tăng chi dành cho hoạt động R&D. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn tương đối yếu. Đây cũng là hạn chế lớn của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (chiếm phần lớn trong cơ cấu doanh nghiệp). Để vay được nguồn vốn lớn cũng không hề đơn giản, vì các ngân hàng đòi hỏi lượng tài sản đảm bảo rất nhiều, vượt qua khả năng của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay cũng là một bài toán khó mà các doanh nghiệp cần phải cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch và lạm phát, lãi suất đang tăng rất mạnh như hiện nay. Doanh nghiệp hầu hết ưu tiên sử dụng vốn chủ sở hữu, hạn chế, e dè trong việc sử dụng vốn vay, khiến cho vấn đề thiếu vốn đầu tư cho R&D lại càng trầm trọng hơn. Đây là một vòng luẩn quẩn khiến các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính hạn chế rất khó có thể phát triển nhanh được. Để giải quyết được bài toán này đỏi hỏi sự nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vai trò của cơ quan nhà nước, các tổ chức tín dụng là cực kỳ quan trọng để có thể hỗ trợ toàn diện cho doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tín dụng ưu đãi phục vụ sản xuất kinh doanh. Một vấn đề khác, năng lực quản lý tài chính và nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đạt mức trung bình (ĐTB 2,72 và 3,05). Thực tế khảo sát cho thấy, doanh nghiệp mới chỉ có các kiến thức căn bản liên quan tới quản lý tài chính, chứ chưa có kiến thức chuyên sâu liên quan tới phân tích tài chính và đầu tư. Trên thực tế hàng năm, tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức một số lớp tập huấn và mời các chuyên gia tham gia giảng dạy. Tuy nhiên, số lượng lớp còn ít, sự tham gia của chủ doanh nghiệp còn ít. Lãnh đạo doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc trang bị kiến thức quản trị kinh doanh, tài chính. Đây là điều cần khắc phục trong thời gian tới. 133 4.4. Phân tích mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Sau khi đã hoàn thành phân tích CFA, tác giả tiến hành phân tích mô hình cấu trúc (SEM) để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố. Với SEM, tác giả có thể đánh giá đồng thời ảnh hưởng của từng yếu tố tới từng thang đo đo lường hoạt động đổi mới của doanh nghiệp (04 thành phần). Mô hình SEM các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 4.3: Mô hình SEM trên phần mềm AMOS (Nguồn: Kết quả phân tích AMOS) 134 Kết quả hồi quy bằng phần mềm AMOS 25 mô hình SEM đề xuất được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4.20: Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình SEM (Chƣa chuẩn hóa) Sau khi chuẩn hóa hệ số hồi quy, ta có bảng tổng hợp sau: Biến độc lập
EAHQ
EAHQ
EAHQ
EAHQ
CAMI
CAMI
CAMI
CAMI
IPLS
IPLS
IPLS Mức độ (hệ số) tác động
0,843
0,784
0,539
0,687
0,042
0,325
0,351
0,022
0,164
-0,019
0,238 Biến phụ thuộc
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI 135 IPLS
ENHC
ENHC
ENHC
ENHC
INFS
INFS
INFS
INFS
FCOE
FCOE
FCOE
FCOE 0,188
0,038
0,034
0,104
-0,063
0,226
0,185
0,134
0,293
0,026
0,054
-0,036
0,066 OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
OI
MI (Nguồn: Kết quả phân tích AMOS) Hệ số xác định (R-square) được thể hiện qua bảng dưới đây: Mô hình Hệ số R2 OI 0,638 MI 0,364 QI 0,893 PI 0,750 (Nguồn: Kết quả phân tích AMOS) Như vậy, kết quả của bảng trên cho thấy 06 biến độc lập (Cạnh tranh và thông tin thị trường; Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật; Cơ sở hạ tầng; Liên kết và hợp tác; Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực; và năng lực tài chính của doanh nghiệp) ảnh hưởng tới 63,8% sự thay đổi của “Đổi mới tổ chức”, 36,4% sự thay đổi của “Đổi mới Marketing”, 89,3% sự thay đổi của “Đổi mới quy trình” và 75,0% sự thay đổi của “Đổi mới sản phẩm”. Hệ số xác định phản ánh rằng, tổng thể, 06 biến độc lập mà tác giả đề xuất, có ảnh hưởng mạnh đến hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Kết quả phân tích SEM cho thấy, cả 06 biến độc lập nghiên cứu đề xuất đều có ảnh hưởng cùng chiều tới 04 loại hình đổi mới của doanh nghiệp (Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức và đổi mới Marketing) với mức ý nghĩa 95%. 136 * Phân tích cụ thể mức độ ảnh hưởng và thực trạng hiện nay của từng biến độc lập: - Cạnh tranh và thông tin thị trường (CAMI): Hệ số tác động tích cực của cạnh tranh và thông tin thị trường tới đổi mới sản phẩm là 0,042; ảnh hưởng tích cực đến đổi mới quy trình là 0,325; đổi mới Marketing là 0,351. Trong đó, cạnh tranh và thông tin thị trường tác động tích cực mạnh nhất tới đổi mới Marketing. Điều này hoàn toàn phù hợp về cả lý thuyết và thực tiễn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, cạnh tranh hiện nay cực kỳ gắt gao trong tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Nó tạo áp lực rất lớn đè nặng lên doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp phải tích cực đổi mới để có thể tối ưu hoá sản xuất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng, từ đó mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông tin thị trường là cực kỳ quan trọng giúp cho việc đổi mới càng thuận tiện và phù hợp hơn với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời, thông tin thị trường cũng giúp doanh nghiệp có chiến lược đổi mới phù hợp để sử dụng tối ưu hoá nguồn lực, nhưng đạt hiệu quả tốt nhất. Bên cạnh đó, kết quả mô hình SEM có thấy, cạnh tranh và thông tin thị trường không ảnh hưởng tới đổi mới tổ chức. Điều này, theo tác giả, là phù hợp. Theo lý thuyết, đổi mới tổ chức được thực hiện nhằm mục đích tối ưu hoá việc vận hành của doanh nghiệp, nó thường chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại hoặc các chủ trương, chính sách, năng lực vận hành của doanh nghiệp thay vì các yếu tố thị trường. - Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp luật (IPLS): Hệ số tác động tích cực của yếu tố thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật tới đổi mới sản phẩm là 0,164; ảnh hưởng tích cực đến đổi mới Marketing là 0,238; đổi mới tổ chức là là 0,188. Điều này là hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết và thực tiễn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, thể chế tốt, chính sách phù hợp và hệ thống pháp luật hiệu quả là những yếu tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động đổi mới khi hoạt động này tiêu tốn rất nhiều nguồn lực. Các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo có vai trò cực kỳ quan trọng, là đòn bẩy giúp các doanh nghiệp có thể hiện thực hoá chiến lược, kế hoạch đổi mới doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, mô hình SEM cũng cho thấy, thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật không ảnh hưởng tới đổi mới quy trình sản xuất. Theo tác giả, điều này là 137 phù hợp. Quy trình sản xuất có xu thế chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ các vấn đề sản xuất, sản phẩm, thị trường, thay vì chính sách, thể chế hay hệ thống pháp luật. - Cơ sở hạ tầng (INFS): Cơ sở hạ tầng, như dự đoán, có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng tích cực đến đổi mới sản phẩm là 0,226, ảnh hưởng tích cực đến đổi mới quy trình là 0,185; đổi mới Marketing là 0,134 và đổi mới tổ chức là 0,293. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và thực tế. Kinh nghiệm cho thấy, cơ sở hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng là những điều kiện tiên quyết và quan trọng để thúc đổi hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng và thiết lập kênh phân phối sản phẩm, cũng như cách thức triển khai các hoạt động Marketing, kênh quảng cáo, bán hàng, cũng như nguồn lực đầu tư cho hoạt động đổi mới. - Liên kết và hợp tác (ENHC): Đây là yếu tố khá đặc biệt và như kỳ vọng, có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Các vấn đề liên quan tới liên kết và hợp tác được tác giả đưa ra xem xét bao gồm liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới của Nhà nước, trường đại học và viện nghiên cứu, các doanh nghiệp đa quốc gia, tổ chức tài chính, nhà cung ứng. Kết quả phân tích mô hình SEM cho thấy, yếu tố liên kết và hợp tác ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới đổi mới Marketing (hệ số 0,104), tiếp đó là đổi mới sản phẩm (0,038) và đổi mới quy trình sản xuất (0.034). Điều này hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chính vì vậy, nguồn lực để thực hiện hoạt động đổi mới rất thiếu và yếu. Điều này khiến hoạt động đổi mới rất khó thực hiện hoặc thực hiện không đáng kể, khiến các doanh nghiệp giảm năng lực cạnh tranh. Do đó, liên kết và hợp tác là chiến lược phù hợp và tối ưu nhất khi các doanh nghiệp có thể phát huy tối đa lợi thế của mình, tận dụng nguồn lực của đối tác để thực hiện hoạt động đổi mới. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho cả đôi bên, giúp tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực (EAHQ): Trong 06 yếu tố, đây là yếu tố tác động tích cực, mạnh mẽ nhất tới hoạt động đổi mới sáng tạo. Cụ thể, mức độ ảnh hưởng của yếu tố nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực tới đổi mới 138 sản phẩm là 0,843, đổi mới quy trình là 0,784, đổi mới Marketing là 0,539 và đổi mới tổ chức là 0,687. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và thực tiễn. Trên thực tế, vai trò của nhà quản trị, người đứng đầu doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng đối với hoạt động đổi mới sáng tạo. Đây chính là người định hướng, chỉ đạo thực hiện hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Trong đó, trình độ, kinh nghiệm, năng lực quản trị cũng như động cơ đổi mới của người đứng đầu là cực kỳ quan trọng để doanh nghiệp có thể đổi mới được mạnh mẽ và thành công. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy hoạt động đổi mới, cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. - Năng lực tài chính của doanh nghiệp (FCOE): Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn triển khai bất kỳ hoạt động gì, chiến lược gì, thì tiền luôn là vấn đề vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính thể hiện không chỉ ở nguồn vốn chủ sở hữu, mà còn ở năng lực quản trị tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt, các nghiên cứu trước đây đã chứng minh và đồng thuận rằng, mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo cả về mặt hoạt động cũng như hiệu quả. Cụ thể, mức độ ảnh hưởng tích cực năng lực tài chính của doanh nghiệp tới đổi mới sản phẩm là 0,026, đổi mới quy trình là 0,054 và đổi mới Marketing là 0,066. Một điều đặc biệt khác, mô hình SEM cũng chỉ ra rằng, năng lực tài chính của doanh nghiệp tốt hơn sẽ giảm hoạt động đổi mới tổ chức (hệ số -0.036). Điều này hoàn toàn phù hợp, vì năng lực tài chính tốt sẽ làm giảm áp lực bắt buộc phải thay đổi bộ máy cũng như tổ chức của doanh nghiệp. Nói một cách khác, khi mọi thứ đi đúng quỹ đạo, việc ta cần làm là tiếp tục phát huy, chứ không phải thay đổi. Như vậy, kết quả phân tích mô hình SEM cho thấy, 06 biến độc lập tác giả đã đề xuất đều có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Trong đó, yếu tố nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố có tác động mạnh hơn hẳn các yếu tố còn lại tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Yếu tố tác động yếu nhất là liên kết và hợp tác. 139 * Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới bằng mô hình phương trình cấu trúc SEM theo quy mô doanh nghiệp Mô hình SEM các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới bằng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM dưới sự kiểm soát bởi quy mô doanh nghiệp được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 4.3: Mô hình SEM trên phần mềm AMOS với biến kiểm soát “quy mô doanh nghiệp” Kết quả hồi quy với biến kiểm soát “quy mô doanh nghiệp” được thể hiện qua bảng dưới đây: 140 Bảng 4.21: Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình SEM kiểm soát bởi quy mô doanh nghiệp (chƣa chuẩn hóa) Sau khi chuẩn hóa hệ số hồi quy, ta có bảng tổng hợp sau: Biến độc lập
EAHQ
EAHQ
EAHQ
EAHQ
CAMI
CAMI
CAMI
CAMI Biến phụ thuộc
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI Mức độ (hệ số) tác động
0,843
0,785
0,528
0,686
0,042
0,324
0,333
0,022 141 0,164
-0,020
0,245
0,187
0,038
0,034
0,102
-0,063
0,225
0,185
0,137
0,293
0,025
0,052
-0,035
0,062
0,003
0,008
0,136
0,011 PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
OI
MI
PI
OI
MI
QI IPLS
IPLS
IPLS
IPLS
ENHC
ENHC
ENHC
ENHC
INFS
INFS
INFS
INFS
FCOE
FCOE
FCOE
FCOE
quymo
quymo
quymo
quymo (Nguồn: Kết quả phân tích AMOS) Hệ số xác định (R-square) được thể hiện qua bảng dưới đây: Mô hình Hệ số R2 OI
MI
QI
PI 0,636
0,363
0,892
0,748 (Nguồn: Kết quả phân tích AMOS) Kết quả hồi quy cho thấy, với sự kiểm soát của “quy mô doanh nghiệp”, về cơ bản, chiều hướng tác động cũng tương tự như khi chưa có biến kiểm soát, chủ yếu có sự khác biệt nhỏ về hệ số tác động. Đặc biệt, kết quả phân tích mô hình SEM cũng chỉ ra rằng, quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tới cả 04 nội dung đổi mới của doanh nghiệp, trong đó ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là đổi mới Marketing (hệ số 0,136). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Khi quy mô doanh nghiệp càng tăng, hoạt động đổi mới càng trở lên mạnh mẽ, toàn diện và hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có lợi thế hơn hẳn về nguồn lực (cả tài chính lẫn nguồn nhân lực) để thực hiện hoạt 142 động đổi mới. Ngược lại, đổi mới thành công sẽ mang lại lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, giúp doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh hơn. Mô hình “Đàn sếu bay” (Flying Geese) đã khẳng định tầm quan trọng của hoạt động đổi mới đối với các nước đang phát triển (tương tự với các doanh nghiệp nhỏ) để có thể theo kịp các quốc gia phát triển (tương tự với các doanh nghiệp lớn). Theo đó, thông qua quá trình nhập khẩu, tích lũy công nghệ, mô phỏng chế tạo, các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ sẽ học tập các doanh nghiệp công nghiệp lớn, và từng bước sẽ rút ngắn khoảng cách khi trình độ đổi mới ngày càng được nâng cao. Do đó, tính toán quy mô hợp lý là điều vô cùng quan trọng để thúc đẩy hoạt động đổi mới của doanh nghiệp, đặc biệt đối với đổi mới Marketing (vốn dễ thực hiện hơn nhiều so với các nội dung đổi mới khác). Kết quả phân tích SEM với sự kiểm soát về quy mô doanh nghiệp cho thấy, 06 yếu tố độc lập tác giả đã đề xuất đều có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Bảng 4.22: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết Nội dung Kết luận Giả
thuyết Chấp nhận H1 Chấp nhận H2 Chấp nhận H3 Chấp nhận H4 Chấp nhận H5 Chấp nhận H6 Chấp nhận H7 Cạnh tranh và thông tin thị trường ảnh hưởng tích cực tới hoạt
động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên
Thể chế, chính sách và hệ thống pháp luật ảnh hưởng tích cực
tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên
Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới của
doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Liên kết và hợp tác ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp
Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng tích
cực tới hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Năng lực tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực tới
hoạt động đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên
Quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng tích cực tới hoạt động đổi
mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 143 Chương 4 của luận án đã đưa ra khái quát về tình hình đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận án đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua việc thực hiện phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu sơ cấp và thứ cấp để phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo 4 loại hoạt động đổi mới cụ thể gồm: Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình sản xuất, đổi mới tổ chức và đổi mới marketing. Thêm vào đó, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và các công cụ kinh tế lượng cao cấp như phân tích nhân tố khám phá EFA, kiểm định Cronbach‟s Alpha để nhận diện và đánh giá mức độ ảnh hưởng của 06 nhân tố tới đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, bao gồm: Cạnh tranh và thông tin thị trường; thể chế và hệ thống phát luật; Cơ sở hạ tầng; Liên kết và hợp tác; nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực; năng lực tài chính doanh nghiệp. Kết quả phân tích cũng chỉ ra rằng, mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp hiện đang tương đối gay gắt; thông tin thị trường còn yếu; thể chế và hệ thống pháp luật còn chưa tốt, việc thực thi chưa thực sự hiệu quả; cơ sở hạ tầng còn kém; liên kết và hợp tác còn yếu; nhà quản trị còn chưa mạnh dạn, xây dựng văn hóa đổi mới; chất lượng nguồn nhân lực còn yếu; đặc biệt là năng lực tài chính của các doanh nghiệp còn yếu. Nội dung đánh giá thực trạng và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tới hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên sẽ là nền tảng quan trọng để tác giả đề xuất các giải pháp và kiến nghị trong chương 5. 144 5.1. Bối cảnh đổi mới của các doanh nghiệp trong nƣớc 5.1.1 Bối cảnh đổi mới của các quốc gia Ngày nay, năng lực cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng phát triển một nền kinh tế dựa trên đổi mới. Nền kinh tế đổi mới là nền kinh tế được xây dựng dựa trên giá trị gia tăng cao, tiềm lực R&D mạnh và các ngành công nghiệp công nghệ cao. Các quốc gia có nền kinh tế dựa trên đổi mới điển hình là Đức, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Phần Lan,.... Để phát triển được nền kinh tế dựa trên đổi mới đòi hỏi quốc gia đó phải đầu tư rất mạnh cho R&D, đổi mới khoa học kỹ thuật và thương mại hóa các kết quả R&D .... Để nâng cao năng lực cạnh trạnh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững các quốc gia cần không ngừng tăng cường hoạt động đổi mới. Để hoạt động đổi mới được thành công, các quốc gia cần xây dựng chiến lược đổi mới phù hợp với điều kiện từng quốc gia. Chiến lược đổi mới sẽ xác định rõ hướng trọng tâm của hoạt động khoa học, công nghệ trong nước để phục vụ sản xuất phát triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ. Cuộc cách mạng lần thứ 4 với công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật, big data, điện toán đám mây… đã giúp tạo ra rất nhiều tri thức dựa trên dữ liệu và thông quá đó giúp nâng cao hiệu suất, phát triển kinh tế của các quốc gia. Từ đó hình thành nhiều mô hình như sản xuất thông minh, năng lượng thông minh, thành phố thông minh .. đang tác động rất lớn đến cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Nhiều quốc gia phải áp dụng lệnh phong tỏa, dẫn đến tình huống các nhà máy phải đóng cửa, làm cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy. Hoạt động đổi mới 145 sẽ giúp các quốc gia thích ứng và giảm thiểu được các rủi ro do dịch bệnh gây ra. Mặt khác còn tạo cơ hội cho một số quốc gia tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam những năm gần đây không ngừng khuyến khích hoạt động đổi mới trong nước và đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Việt Nam đã vươn lên các nước có thu nhập trung bình, thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong nhóm nước có nguy cơ bị rơi vào “Bẫy thu nhập trung bình” (ADB, 2014). Việt Nam cần phải thay đổi cấu trúc nền kinh tế theo định hướng “công nghệ cao”, đẩy mạnh tốc độ tăng TFP (total factor productivity growth) và gốc rễ của mọi giải pháp phát triển kinh tế xã hội là cần dựa vào hoạt động đổi mới. Thực tế hiện nay, Việt Nam phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu nông, thủy sản…việc phát triển theo hướng này là không bền vững. Chính vì thế những năm gần đây Đảng và Nhà nước chú trọng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường đổi mới trong nước, bởi vì kết quả của đổi mới sáng tạo sẽ là nguồn tài sản vô tận và không bao giờ cạn kiệt. Chỉ có hoạt động đổi mới thành công, thì mới có thể giúp Việt Nam thực hiện được thành công chính sách “Đi tắt đón đầu”, giúp Việt Nam trở thành một nước “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong đó doanh nghiệp công nghiệp sẽ là lực lượng tiên phong trong thực hiện hoạt động đổi mới. Để tăng cường hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật phù hợp với các chuẩn mực của thế giới, xây dựng các chính sách để bảo vệ sản phẩm trí tuệ, cũng như thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, cải thiện hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo… Điều này sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nói riêng. 5.1.2. Bối cảnh đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam Việt Nam đang mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam, thương 146 mại hóa phát triển,…. Cạnh canh trong lĩnh vực công nghiệp ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam đang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, cạnh tranh về giá cả, cạnh tranh về thị phần… Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam phải không ngừng đổi mới. Chỉ có đổi mới, thì mới có thể giúp doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam nâng cao được năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, giảm giá thành sản phẩm… Từ đó doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận. Xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như BTA, AFTA, WTO… Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam. Hoạt động đổi mới sẽ giúp các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam không bị thụt lùi, mất thị phần cho các đối thủ cạnh tranh. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và xu hướng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 5. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp công nghiệp cần phải tăng cường hoạt động đổi mới để có thể tạo ra hoặc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay thu nhập của người dân Việt Nam đã tăng lên rất nhiều, dẫn đến nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng thay đổi, làm cho chu kỳ sống của sản phẩm công nghiệp ngắn. Doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam phải không ngừng đổi mới để tạo ra các sản phẩm mới với những tính năng và công dụng vượt trội, từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Đổi mới sẽ là yếu tố chính cho phép các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam sử dụng kiến thức, kỹ năng hoặc kinh nghiệm của mình để phát triển công nghệ mới, quy trình mới và sản phẩm mới để phục vụ khách hàng. Từ năm 2019 đến nay thế giới đang trải qua đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp phải đóng cửa, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp bị ảnh hưởng rất nhiều. Để thích ứng với hoàn cảnh dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam phải chuyển đổi từ hình thức làm việc trực tiếp sang trực tuyến. Chính vì thế mô hình cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp công nghiệp 147 tại Việt Nam cần phải thay đổi, doanh nghiệp phải tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, việc xúc tiến bán hàng cũng cần phải thay đổi.... Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina vào thời điểm thế giới vừa trải qua hơn hai năm điêu đứng vì dịch bệnh COVID-19, các nước đang nới lỏng chính sách tiền tệ và tài chính để hỗ trợ phát triển kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao.... Điều này đã làm cho lạm phát của các quốc gia lên cao, trong đó giá xăng dầu lên cao kỷ lục, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Bởi vì xăng dầu đang là nguồn đầu vào quan trọng của hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp. Chính vì thế các doanh nghiệp công nghiệp đang không ngừng tăng cường hoạt động đổi mới, thay thế nguồn đầu vào là xăng dầu. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra các dòng sản phẩm không sử dụng xăng dầu. 5.2. Phƣơng hƣớng và mục tiêu của tỉnh Thái Nguyên về đổi mới 5.2.1. Về phương hướng Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX nhiệm kỳ 2020-2025 đã đưa ra phương hướng để phát triển kinh tế ngành công nghiệp nói chung và hoạt động đổi mới nói riêng như sau: - Hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống, thúc đẩy hoạt động đổi mới. - Tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ gắn với ngành, lĩnh vực ưu tiên. - Nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, công nghệ cao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất. - Gắn nghiên cứu, phát triển công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới sát, đúng với thực tiễn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội; Xây dựng thương hiệu, chất lượng, quảng bá sản phẩm, phát triển sản phẩm mới gắn với nhu cầu của người tiêu dùng. - Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động đổi mới, phát triển hạ tầng các khu công nghiệp, gắn kết sự phát triển của các vùng kinh tế. 148 - Chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân, công nghệ cao, khuyến khích hình thành cụm ngành, cụm sản xuất có sự tương quan trong cùng lĩnh vực làm tiền đề, cơ sở kết nối chuỗi sản xuất, chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị cao. Thúc đẩy hoạt động đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Phát triển nguồn nhân lực địa phương, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp. - Phát huy các lợi thế, thành quả, cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với tiềm năng, thế mạnh của các trường đại học, trung tâm nghiên cứu khoa học, hình thành mạng lưới đổi mới. 5.2.2. Về mục tiêu Về mục tiêu chung: Xây dựng Thái Nguyên là tỉnh công nghiệp phát triển, trung tâm kinh tế của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc với nền kinh tế hiện đại, hội tụ những yếu tố của nền kinh tế tri thức với các ngành định hướng phát triển mạnh về công nghiệp công nghệ tiên tiến, dịch vụ chất lượng cao, nông nghiệp công nghệ cao và môi trường an toàn, bền vững, là trung tâm đào tạo, y tế chuyên sâu và khoa học công nghệ có uy tín lớn trong nước, có các trung tâm văn hóa, nghệ thuật tiên tiến, hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc vùng Việt Bắc, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Xây dựng thành phố Thái Nguyên là thành phố sinh thái, có chức năng tổng hợp… Về mục tiêu cụ thể: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 8%/năm trở lên. - Cơ cấu kinh tế năm 2025: Công nghiệp, xây dựng 61%, dịch vụ 31%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 8%. - Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9%/năm trở lên. - Giá trị xuất khẩu trên địa bàn tăng bình quân từ 7%/năm trở lên. Trong đó xuất khẩu địa phương tăng bình quân từ 11%/năm trở lên. - Thu nhập bình quân đầu người năm 2025 đạt từ 100 triệu đồng trở lên. - Phát triển đô thị sử dụng công nghệ xanh, sạch với tỷ lệ ngày càng tăng trong sản xuất công, nông nghiệp và trong dịch vụ, nhất là trong khai thác tài nguyên thiên nhiên, giá trị các ngành sản phẩm công nghệ cao, công nghệ xanh chiếm 30-32% GDP tỉnh. 149 - Phấn đấu trên 80% khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% rác thải sinh hoạt, rác thải y tế được xử lý, 60% nước thải sinh hoạt được xử lý đạt tiêu chuẩn B, cường độ phát thải khí nhà kính giảm ít nhất 8-10% so với năm 2010, môi trường không khí tại các đô thị, khu công nghiệp được kiểm soát. 5.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 5.3.1. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đổi mới trong doanh nghiệp Thúc đẩy hoạt động đổi mới của doanh nghiệp đã và đang là chủ đề quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển khoa học, công nghệ. Trong số đó, chính sách tài chính được xem là công cụ quan trọng và hiệu quả nhất vì suy cho cùng, nếu không có tài chính thì doanh nghiệp không thể có đủ nguồn thực hiện hoạt động đổi mới mặc dù họ có thể thực sự mong muốn và sẵn sàng để thực hiện. Để có thể thúc đẩy hoạt động đổi mới, Chính phủ cũng như lãnh đạo địa phương có thể cân nhắc thực hiện một số chính sách sau: 5.3.1.1. Công cụ chính sách trực tiếp * Tài trợ/hỗ trợ Hiện nay, chính phủ đã xây dựng một số chương trình hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạ0 (Ví dụ như đề án 844 của Chính phủ). Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay chúng ta chưa có một chính sách cụ thể tài trợ/hỗ trợ tài chính hoặc cơ chế ưu tiên cho hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Trên thực tế, nguồn vốn cho hoạt động đổi mới được doanh nghiệp sử dụng từ nguồn vốn của công ty, chứ chúng ta chưa có cơ chế hoặc ưu đãi gì để hỗ trợ doanh nghiệp. Do vậy, việc xây dựng quỹ hỗ trợ đổi mới là một chiến lược vô cùng quan trọng để thúc đẩy hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Trên thực tế, một số quốc gia đã xây dựng các nguồn quỹ hoặc chương trình đặc biệt hỗ trợ hoạt động đổi mới. Ví dụ tại Hàn Quốc, họ đã xây dựng Chương trình đổi mới công nghệ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc. Sở dĩ Hàn Quốc dành sự quan tâm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nhiều lý do: (i) Nhóm doanh nghiệp này có nguồn ngân sách vô cùng hạn chế để thực hiện hoạt động đổi mới; (ii) Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn trong tất cả các nền kinh tế trên thế 150 giới, không riêng gì Hàn Quốc. Tại Việt Nam và đặc biệt là tại tỉnh Thái Nguyên cũng như vậy (48,45% doanh nghiệp siêu nhỏ, 34,82% doanh nghiệp nhỏ, 9,05% doanh nghiệp vừa, 7,68% doanh nghiệp lớn). Tại Hàn Quốc, đối với chương trình này, chính phủ sẽ hỗ trợ 50%, chính quyền địa phương hỗ trợ 25% chi phí cho hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Phần còn lại (25%), doanh nghiệp huy động từ nguồn khác hoặc tự bố trí. Quan trọng hơn cả, khi hoạt động đổi mới thành công, có sản phẩm hoặc công nghệ cụ thể, chính phủ sẽ nhận lại 30% khoản tiền đã hỗ trợ doanh nghiệp dưới dạng phí công nghệ trong khoảng thời gian 5 năm (doanh nghiệp trả theo hình thức trả góp). Đây là một trong những chương trình rất thiết thực, hữu ích và hiệu quả và Việt Nam nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng hoàn toàn có thể áp dụng. Bản chất của chương trình này là chính phủ và địa phương cung cấp một khoản vay trước cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể chủ động và mạnh dạn thực hiện hoạt động đổi mới. Tất nhiên, việc cung cấp hỗ trợ cần dựa trên việc xem xét một cách toàn diện, đầy đủ và chi tiết kế hoạch đổi mới của doanh nghiệp để đảm bảo khoản hỗ trợ của chính phủ có hiệu quả. Mặt khác, vì nguồn ngân sách còn vô cùng hạn chế, lãnh đạo Chính phủ và Tỉnh có thể cân nhắc cho vay một phần (chứ không phải 75% giống Hàn Quốc) và yêu cầu tỷ lệ nhận lại là toàn bộ, nhưng có thể giãn thời gian dài hơn cho doanh nghiệp. Chương trình này chính phủ và lãnh đạo tỉnh hoàn toàn có thể xây dựng và thực hiện một cách hiệu quả. Một chính sách, chương trình khác Chính phủ và lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên có thể cân nhắc ứng dụng là Chương trình thúc đẩy liên kết khu vực hàn lâm (viện nghiên cứu, trường đại học) với khu vực công nghiệp (doanh nghiệp). Mỗi một khu vực có những ưu thế vượt trội riêng. Trên thực tế, rất nhiều những công nghệ mới, thành tựu đổi mới được xuất phát từ các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu hoặc trường đại học. Đây là những nơi có ưu thế vượt trội trong nghiên cứu khoa học với đội ngũ các nhà khoa học tài năng và thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, một trong những khó khăn rất lớn hiện nay đối với các viện nghiên cứu, trường đại học chính là việc thương mại hoá các kết quả nghiên cứu, các công nghệ mới. Tại Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng hiện nay, chưa có sự liên kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp. Có nhiều lý do cho sự thiếu hút này, 151 trong đó có thể kể đến: (i) Sự khác biệt trong nhu cầu (sản phẩm, công nghệ các trường đại học, viện nghiên cứu tạo ra không phù hợp với doanh nghiệp; hoặc những công nghệ mới mà doanh nghiệp cần thì trường đại học, viện nghiên cứu lại không đáp ứng được hoặc không phù hợp với định hướng nghiên cứu); (ii) Sự thiếu hụt kênh liên kết hai khu vực này với nhau. Đại học Thái Nguyên là một trong năm đại học vùng của cả nước với sứ mệnh quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như thúc đẩy chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay, việc chuyển giao công nghệ, hợp tác với doanh nghiệp hầu hết mới dừng lại ở việc cung nhau xây dựng các chương trình thực hành, thực tập cho sinh viên. Sự hợp tác về mặt nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn vô cùng hạn chế. Đây là một vấn đề là lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên cần phải có sự quan tâm đặc biệt, xây dựng các chính sách và các trung tâm hợp tác, chuyển giao để có thể thúc đẩy sự kết nối giữa hai bên. Thực tế trên thế giới, các doanh nghiệp, tập đoàn hàng đầu đều có mỗi liên hệ chặt chẽ với các trường đại học, nghiên cứu. Doanh nghiệp, với vai trò là nơi tiếp nhận đầu ra, kết quả nghiên cứu sẽ tiến hành đặt hàng công nghệ, sản phẩm với trường và viện nghiên cứu, đồng thời tài trợ tài chính cho các nghiên cứu đổi mới. Đây là một hướng đi bền vững, quan trọng, phản ánh đúng sứ mệnh của các bên, hướng tới việc thúc đẩy hoạt động đổi mới trong cả nước. Theo đó, hai bên cùng hợp tác với nhau trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, tiếp cận các nguồn lực nghiên cứu bổ sung, giảm chi phí tự nghiên cứu, hợp tác lưu chuyển nhân lực. Trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia thực hiện rất tốt các ý tưởng này như Chương trình trung tâm năng lực công nghiệp (KIND) của Cộng hòa Áo. Dự án này hỗ trợ thành lập trung tâm nghiên cứu do doanh nghiệp và trường đại học hoặc cơ quan nghiên cứu của chính phủ cùng điều hành và hoạt động giữa trên chiến lược đối tác liên kết. Tương tự, CHLB Đức, một trong những quốc gia hàng đầu về đổi mới sáng tạo đã xây dựng rất nhiều chương trình liên kết, như Chương trình trợ cấp dưới hình thức viện trợ không hoàn lại (hỗ trợ lên đến 60% tổng chi phí dự án), chương trình ProInno, InnoNet, INSTI xây dựng cơ chế, trung tâm và thúc đẩy hợp tác nghiên cứu giữa doanh nghiệp và khu vực hàn lâm, nhằm trao đổi nhân lực 152 và tăng năng lực hấp thụ công nghệ cho doanh nghiệp. Đây là những định hướng rất đúng đắn mà chính phủ cũng như lãnh đạo tỉnh nên học tập, ứng dụng để thúc đẩy hoạt động đổi mới, sáng tạo cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. * Cho vay, bảo lãnh tín dụng và/hoặc cổ phần: - Cho vay tín dụng: Trước tiên cần phải nói rằng, tài chính là một trong những điều kiện bắt buộc để doanh nghiệp có thể thực hiện được hoạt động đổi mới. Tuy nhiên, huy động vốn luôn là một thách thức với doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh chính phủ và hệ thống ngân hàng ngày càng thắt chặt tín dụng. Doanh nghiệp rất khó để tiếp cận các nguồn vốn nếu như không có tài sản đảm bảo đủ giá trị. Hành động của hệ thống ngân hàng cũng hoàn toàn dễ hiểu vì họ muốn hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn, tuy nhiên nó cũng dẫn tới một vòng lặp thiếu hụt trong huy động vốn. Đặc biệt, nếu doanh nghiệp vay vốn cho hoạt động đổi mới thì càng khó khăn, vì hiện chưa có bất kỳ chính sách hỗ trợ vốn nào của hệ thống ngân hàng cho hoạt động này của doanh nghiệp cả, hầu hết vốn được cho vay để mở rộng kinh doanh. Điều này xuất phát từ thực tiễn là hoạt động đổi mới bản thân nó cũng là một hoạt động rủi ro cao khi đầu tư nhiều nguồn lực nhưng kết quả chưa chắc đã được như ý muốn. Do đó, một trong những giải pháp, chính sách và công cụ mà chính phủ Việt Nam nói chung và lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên nói riêng có thể xây dựng đó chính là “Tín dụng công nghệ”. Đây là một quỹ tín dụng dành riêng cho hoạt động đổi mới công nghệ. Nó sẽ được sử dụng để hỗ trợ, cho các doanh nghiệp vay nhằm thực hiện hoạt động đổi mới. Quan trọng hơn cả là quỹ tín dụng này chấp nhận tỷ lệ rủi ro cao hơn nhiều so với hoạt động tín dụng ngân hàng thông thường (vì như tác giả đã trình bày ở trên, hoạt động đổi mới là hoạt động có rủi ro khá cao). Quỹ tín dụng này, nếu xây dựng thành công sẽ thúc đẩy rất lớn hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Trên thế giới, rất nhiều quốc gia đã xây dựng chương trình, quỹ tín dụng như thế này. Ba Lan là một trường hợp điển hình. Chương trình tín dụng công nghệ của Ba Lan cấp vốn cho các doanh nghiệp để nghiên cứu hoặc triển khai công nghệ mới, sản phẩm, quy trình, dịch vụ mới. Mức tín dụng công nghệ hỗ trợ dao động 153 40-70%, nhưng không quá 1 triệu USD. Chương trình sẽ hỗ trợ một số nội dung như: Mua tài sản phục vụ đổi mới (nhà xưởng, thiết bị); thuê tài sản, đất đai, tòa nhà,…; xây dựng và phát triển máy móc, thiết bị,…; chi phí thuê tư vấn, chuyên gia để nghiên cứu, phát triển các công nghệ, sản phẩm mới,… - Bảo lãnh tín dụng và bảo lãnh cổ phần: Một trong những chính sách hiệu quả để thúc đẩy đổi mới sáng tạo mà chính phủ và lãnh đạo tỉnh có thể áp dụng đó là bảo lãnh tín dụng hoặc cổ phần. Vốn, như tác giả đã đề cập ở trên, là nguồn lực quan trọng nhất để thực hiện các hoạt động đổi mới. Trong khi giải pháp về tài trợ vốn tương đối khó thực hiện do nó phụ thuộc vào nguồn lực của chính phủ cũng như tỉnh Thái Nguyên, thì giải pháp về bảo lãnh tín dụng hoặc cổ phần dễ thực hiện hơn cả. Về cơ bản, chính phủ vã tỉnh Thái Nguyên sẽ căn cứ trên thực tế năng lực của công ty (năng lực về công nghệ, tiềm năng phát triển, nguồn nhân lực,…) để tiến hành bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn các ngân hàng thương mại, ngân hàng nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng khác trong nước và quốc tế. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết được vấn đề tài sản đảm bảo khi vay vốn, vì đây là điểm hạn chế lớn nhất của nhóm doanh nghiệp này. Tất nhiên, đối với việc bảo lãnh, chính phủ và tỉnh Thái Nguyên có thể thu về một khoản phí hợp lý (có thể gọi là phí bảo lãnh). Trên thế giới đã có một số quốc gia sử dụng thành công chính sách này, ví dụ Đan Mạch với “Chương trình bảo lãnh cổ phần” hoặc chương trình “vườn ươm công nghệ”. Chương trình này chiếm tới 75% vốn vay ngân hàng; phí bảo lãnh là 3% cho năm đầu tiên và 1,5% cho các năm tiếp theo. Hoặc Úc với chương trình “Quỹ cổ phần nguồn cộng đồng (CSEF)” nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết được khó khăn về vốn để đầu tư cho đổi mới. Bên cạnh đó, một hình thức khác là chương trình hỗ trợ “Mezzanine”. Chương trình này bản chất là sự kết hợp giữa tài trợ và góp vốn kinh doanh. Chính sách này hướng tới sự chia sẻ lợi nhuận với nhiều tùy chọn về việc góp vốn, chuyển đổi cổ phần và được vận hành rất hiệu quả tại gia châu Âu, Mỹ và Úc. Đây là một cách thức vô cùng hiệu quả để huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, các quỹ Đầu tư mạo hiểm và đầu tư thiên thần cũng là một kênh huy động vốn hiệu quả. Các kên này sẽ đầu tư vào các doanh nghiệp ở nhiều giai 154 đoạn khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ở góc độ quản lý nhà nước, chính phủ và lãnh đạo tỉnh cần khuyến khích sự đầu tư của các kênh này, tạo các cơ chế thuận lợi để giúp các quỹ hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên có thể cân nhắc thành lập các quỹ đầu tư dạng tương tự để đầu tư cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên với sự cố vấn của các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh. Nguồn quỹ có thể một phần từ ngân sách nhà nước, phần khác từ việc xã hội hóa. * Đặt hàng và mua sắm, sử dụng sản phẩm đổi mới của doanh nghiệp Bên cạnh việc thiếu nguồn lực cho đổi mới, vì một trong những thách thức khác đối với đổi mới chính là việc thương mại hóa kết quả đổi mới. Theo quy luật cung cầu, khi nhu cầu nảy sinh thì sẽ thúc đẩy nguồn cung, tuy nhiên, có cung chưa chắc đã có cầu. Chính phủ cũng như lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên có thể hoàn toàn giúp các doanh nghiệp thúc đẩy đổi mới bằng cách đặt hàng sản phẩm hoặc hỗ trợ thương mại hóa kết quả đổi mới. Chính phủ tạo cơ hội cho doanh nghiệp bằng cách tạo ra nhu cầu thị trường trong khu vực công (ví dụ công nghệ mới liên quan đến an ninh, môi trường và chăm sóc sức khỏe cộng đồng), trở thành chính khách hàng của doanh nghiệp hoặc người định hướng thị trường. Vai trò của Trung tâm xúc tiến thương mại của tỉnh là vô cùng quan trọng đối với chính sách này. Trên thế giới có rất nhiều quốc gia đã thực hiện rất tốt chính sách này, ví dụ như Chương trình Nghiên cứu đổi mới sáng tạo doanh nghiệp nhỏ (SBIR) của Mỹ hoặc Chương trình Đổi mới cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (ZIM) của CHLB Đức. ZIM tài trợ 04 loại hoạt động: Dự án nghiên cứu riêng lẻ (do một doanh nghiệp thực hiện); dự án nghiên cứu hợp tác giữa doanh nghiệp và các đối tác trong nước; dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế; dịch vụ tư vấn và tiếp thị. Các khoản tài trợ nghiên cứu có thể lên tới 55% tổng chi phí tùy thuộc từng dự án, quy mô và thương hiệu doanh nghiệp. * Phiếu hỗ trợ đổi mới (Innovation Voucher) Ngoài các chính sách đã đề cập ở trên, chính phủ và lãnh đạo Tỉnh Thái Nguyên có thể thông qua hệ thống ngân hàng và các quỹ tín dụng, xây dựng chương trình hỗ trợ đặc biệt về ưu đãi tài chính cho các nhóm doanh nghiệp đặc biệt, như 155 doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ưu tiên. Đối với tỉnh Thái Nguyên hiện nay, một số lĩnh vực ưu tiên có thể kể đến là: - Đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp. - Đầu tư sản xuất công nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp - Nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ - Du lịch 5.3.1.2. Công cụ chính sách gián tiếp Bên cạnh các chính sách, công cụ và chương trình hỗ trợ trực tiếp, tỉnh Thái Nguyên cần cân nhắc sử dụng các công cụ, chính sách gián tiếp để thúc đẩy đổi mới trên địa bàn tỉnh. * Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) Chính sách này một mặt sẽ mang lại nguồn tài chính cho doanh nghiệp để thực hiện hoạt động đổi mới, đồng thời cũng sẽ tạo động lực giúp doanh nghiệp quyết tâm đổi mới. Chính sách ưu đãi thuế cho hoạt động R&D của doanh nghiệp có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: Thứ nhất, chính sách khấu trừ thuế ưu đãi. Chính sách này cho phép doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu được trừ thêm vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp tùy theo mức chi phí của doanh nghiệp cho R&D theo tỷ lệ ưu đãi. Thông thường, chi phí R&D sẽ được tính vào phần chi phí như thông thường. Nhưng chính sách này thúc đẩy R&D bằng cách tách riêng phần chi phí R&D và tính với tỷ lệ cao hơn để khấu trừ thuế (ví dụ 200%). Như vậy, doanh nghiệp sẽ phải trả thuế ít hơn, và tỷ lệ ít hơn đó là đó liên quan trực tiếp tới chi phí R&D. Điều này sẽ tạo động lực cho doanh nghiệp tăng cường hoạt động đổi mới. Hiện nay trên thế giới, hầu các quốc gia Đông Âu, nhóm BRICS, một số quốc gia ASEAN (Singapore, Malaysia và Thái Lan) đều thực hiện chính sách khấu trừ thuế này nhằm hỗ trợ hoạt động R&D cho doanh nghiệp. * Ưu đãi thuế liên quan đến bằng sáng chế và đổi mới Bên cạnh việc ưu đãi thuế liên quan tới hoạt động nghiên cứu và phát triển, thì ưu đãi thuế liên quan tới bằng sáng chế hoặc đổi mới cũng là một giải pháp khả thi cho các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh mà Chính phủ cũng như lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên nghiên cứu triển khai. Điểm khác biệt của hai chương 156 trình là chính sách ưu đãi liên quan tới bằng sáng chế sẽ tập trung ưu đãi thuế liên quan tới một bằng sáng chế hoặc đổi mới công nghệ/sản phẩm nhất định đã đăng ký với cơ quan quản lý, thay vì chi phí nghiên cứu và phát triển một cách chung chung. Chính sách này sẽ giúp cơ quan quản lý hỗ trợ thuế “đúng” và “trúng” doanh nghiệp. Trên thế giới rất nhiều quốc gia đã áp dụng hình thức hỗ trợ này, có thể kể đến như sau: - Nước Ý: Theo đó, chính phủ sẽ miễn trừ thuế thu nhập 50% trong vòng 3 năm liên tiếp đối với các nghiên cứu được thực hiện tại Ý hoặc các hoạt động khai thác bằng sáng chế, bí quyết công nghệ. Đồng thời, chính phủ ý cũng giảm thuế cho các khoản đầu từ vào nghiên cứu (IST). Tất nhiên, để có thể có được chứng nhận IST, thì doanh nghiệp phải đăng ký và thực hiện việc nghiên cứu, với số lượng nhân viên có trình độ theo quy định, đồng thời phải có được sản phẩm/công nghệ cụ thể, và thu lợi được từ sản phẩm/công nghệ đó. Khoản khấu trừ thuế có thể lên tới 20% số tiền đầu tư nhưng giới hạn tối đa 1,8 triệu EUR mỗi năm. - Tây Ban Nha: 60% thu nhập từ các khoản tài trợ và bán các tài sản vô hình (bằng độc quyền sáng chế, mô hình, bí quyết) được loại trừ từ thu nhập chịu thuế. - Vương quốc Anh: Thuế suất dành cho các khoản thu nhập từ bằng sáng chế và sản phẩm đổi mới khác được giảm 20% so với các hàng hóa thông thường. Đối với một số lĩnh vực ưu tiên, thuế suất chỉ 10% đối với lợi nhuận từ khai thác các bằng sáng chế. - Hà Lan: Chính phủ ưu đãi 25% thu nhập hàng năm từ hoạt động đổi mới chỉ chịu thuế 5%, nhưng không vượt quá 25 nghìn EUR hàng năm. Khoản hỗ trợ này kéo dài tối đa là 03 năm. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải đăng ký và chính phủ sẽ xem xét cụ thể để xác định xem các bằng sáng chế có đủ điều kiện hay không. Vốn luôn là một trong những khó khăn rất lớn đối với hoạt động đổi mới của doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Doanh nghiệp cần trước hết hiểu được tầm quan trọng của đổi mới và mạnh dạn, tập trung nguồn lực để thực hiện hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, các chính sách và biện pháp hỗ trợ là cực kỳ quan trọng để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn và có thêm động lực thực hiện hoạt động đổi mới cho doanh nghiệp. Chính phủ và lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên cần cân nhắc các nguồn lực hiện có và thực hiện các chính sách, giải pháp tác giả đã nêu để có thể thúc đẩy hoạt động đổi mới cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 157 5.3.2. Xây dựng khu công nghệ cao nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có một số khu công nghiệp như: Khu công nghiệp Phú Bình, Khu công nghiệp Phổ Yên, khu công nghiệp Sông Công… Tuy nhiên chưa có khu công nghệ cao để nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh muốn cải thiện hoạt động đổi mới cho các doanh nghiệp công nghiệp thì địa phương cần phải xây dựng một khu công nghệ cao để phát triển khoa học và công nghệ, tăng cường hoạt động R&D, xây dựng cụm đổi mới, giúp lan tỏa và hấp thụ tri thức… Ví dụ như khu công nghệ cao “Thung lũng Silicon” tại Mỹ. Điều này đòi hỏi tỉnh Thái Nguyên cần tập trung về con người, tài chính, cơ sở hạ tầng để đầu tư và xây dựng khu công nghệ cao, từ đó kích thích đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, thông qua đó giúp phát triển kinh tế xã hội cho địa phương. Điều 31 trong bộ Luật Công nghệ cao được ban hành năm 2008, “Khu công nghệ cao là khu kinh tế - kĩ thuật đa chức năng, có ranh giới xác định, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, nhằm nghiên cứu - phát triển và ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao và sản xuất, kinh doanh sản phẩm công nghệ cao” . Khu công nghệ cao là một nhóm cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp được kết nối với nhau trong một khu vực địa lý và làm việc trong cùng một ngành công nghiệp hoặc trong các ngành liên quan. Khu công nghệ cao được đặc trưng bởi các đặc điểm sau: (1) Cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp gần nhau về mặt địa lý; (2) mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác và cạnh tranh; (3) các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tiếp xúc trực diện và kết nối với hệ thống các mối quan hệ kinh tế; (4) sự tồn tại của các năng lực và kỹ năng bổ sung; và (5) chuyên môn hóa cao trong nghiên cứu và phát triển. Khu công nghệ cao là một cấu trúc của quan hệ xã hội và mạng lưới tương tác dựa trên quan hệ chính thức và không chính thức, nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp đổi mới. Các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái nguyên sẽ được hưởng lợi từ nền kinh tế tích tụ, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tăng cường hoạt động R&D, hoạt động 158 đổi mới, quan sát trực tiếp các đối thủ cạnh tranh, khả năng khai thác kiến thức tập thể và các hiệu ứng dựa trên mạng lưới đổi mới… Xây dựng khu công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên sẽ có đóng góp lớn cho sự phát triển của địa phương như: Giúp sử dụng và tạo ra một thị trường lao động có trình độ cao; Giúp xây dựng và phát triển doanh nghiệp tại địa phương có thể tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, dịch vụ có trình độ cao; Giúp nâng cấp giáo dục và đào tạo đại học và sau đại học tại địa phương; Đẩy mạnh hoạt động R & D trong các doanh nghiệp hoặc các tại các trường đại học địa phương; Vườn ươm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới…. Khu công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên sẽ giúp tích hợp các yếu tố độc lập của các hệ thống kinh tế - xã hội trong một khu vực địa lý để thực hiện một hệ thống mục tiêu xác định. Ngoài ra còn liên kết một số lượng lớn doanh nghiệp: nhà cung cấp thiết bị công nghệ, nguyên liệu thô, sản phẩm bổ sung, công nghệ đổi mới, dịch vụ, cơ sở hạ tầng, ... Khu công nghệ cao sẽ giúp tăng cường sự tương tác giữa các doanh nghiệp, giúp hợp tác có hiệu quả và giúp các doanh nghiệp đổi mới khởi nghiệp thành công. Trong nền kinh tế hiện đại, khu công nghệ cao trở thành một trong những hình thức tích hợp hiệu quả nhất của vốn, tài chính và trí tuệ, để tăng cường đầu tư và tạo lợi thế cạnh tranh cần thiết cho các doanh nghiệp. Do vậy tỉnh Thái Nguyên cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động của khu công nghệ cao. Để xây dựng khu công nghệ cao có hoạt động hiệu quả, tỉnh Thái Nguyên cần phân tích tất cả các loại nguồn lực có thể tác động đến việc lựa chọn nội dung dự án đổi mới phù hợp với nhu cầu hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp. Tỉnh Thái Nguyên cần phân tích năng lực đổi mới của khu công nghệ cao và đánh giá khả năng triển khai thực tế của các doanh nghiệp trong khu công nghệ cao. Trong đó, một trong những nguồn lực quan trọng nhất là nguồn lực tổ chức và quản lý khu công nghệ cao, tức là khả năng của ban lãnh đạo khu công nghệ cao trong việc huy động doanh nghiệp tiềm năng để tham gia vào khu công nghệ cao. Thành phần tổ chức và quản lý được xây dựng trong quá trình hình thành khu công nghệ cao. Trong khu công nghệ cao, các đổi mới được lan truyền thông qua mạng lưới các mối quan hệ trong khu công nghệ cao, tạo điều kiện kết hợp các yếu tố sản xuất và cung cấp môi trường đổi mới. Khu công nghệ cao cho phép duy trì luồng thông 159 tin, kiến thức và kỹ năng, tăng hiệu quả của quá trình đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh Thái Nguyên có thể áp dụng hệ thống quản lý tiềm năng sáng tạo trong khu công nghệ cao của tác giả Irina và cộng sự (2019). Hệ thống quản lý tiềm năng sáng tạo trong khu công nghệ cao nhằm tăng cường quá trình nghiên cứu, giới thiệu và triển khai loại hoạt động đổi mới như: đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức, đổi mới quy trình và đổi mới marketing…. Tổ chức và cơ chế kinh tế thực hiện trong khu công nghệ cao được tính đến sự tham gia của tất cả các chủ thể trong hoạt động đổi mới, mỗi hoạt động có một vị trí nhất định trong chu trình đổi mới vì nó có các khả năng khác nhau để thực hiện tiềm năng đổi mới của riêng mình. Theo cốt lõi của cách tiếp cận hệ thống, hệ thống quản lý khu công nghệ cao cần quan tâm đến các khía cạnh: Môi trường bên ngoài, đầu vào, đầu ra, sự kết nối của khu công nghệ cao với môi trường bên ngoài, quy trình quản lý các nguồn lực, phản hồi của cấu trúc bên trong bao gồm sáu yếu tố (hệ thống con hỗ trợ, hệ thống con kiểm soát, Sự ảnh hưởng của môi
trường bên ngoài Hệ thống con kiểm soát: Điều phối hoạt động
của các thành viên trong khu CNC công cụ quản lý, cơ chế quản lý, hệ thống con được quản lý, quy trình quản lý) (hình 1) Công cụ quản lý (theo chức năng): Thực
hiện quy
trình
quản lý Cung cấp hệ
thống con hỗ
trợ:
- Nhà khoa
học/Nhà
nghiên cứu
- Nguồn tài
nguyên
- Thể chế Hiệu ứng
ảnh hưởng Đầu
vào
(dựa trên
tiềm năng
đổi mới
để xây
dựng khu
CNC) - Xây dựng kế hoạch
- Tổ chức
- Động viên
- Giám sát
- Điều chỉnh Hệ thống được quản lý Phản hồi Đầu ra (Nguồn: Irina và cộng sự, 2019) Hình 5.1: Quản lý tiềm năng đổi mới của khu công nghệ cao 160 Phát triển khu công nghệ cao yêu cầu cơ quan tỉnh Thái Nguyên cần xác định các tiềm năng để xây dựng khu công nghệ cao và cung cấp các điều kiện sẵn có của địa phương để nâng cao các hiệu quả đổi mới như: Nhà khoa học/nhà nghiên cứu; nguồn tài nguyên; thể chế; thông tin…. hệ thống kiểm soát để giúp doanh nghiệp chuyển đổi các yếu tố đầu vào thành kết quả đầu ra của đổi mới như: Đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới tổ chức, đổi mới marketing….Ngoài ra cần xác định hiệu ứng của các kết quả đổi mới tới doanh nghiệp, tổ chức, khách hàng, xác nhận sự phù hợp của đổi mới với xã hội … cuối cùng là phải hồi tới các tổ chức, doanh nghiệp liên quan. Hệ thống quản lý khu công nghệ cao cần thực hiện các chức năng liên quan đến lập kế hoạch, tổ chức, tạo động lực, giám sát và điều chỉnh nhằm phát triển tiềm năng đổi mới của khu công nghệ cao. Tức là cần chú ý đến việc hình thành tổ chức và cơ chế kinh tế của khu công nghệ cao. Hình thành cơ chế, chính sách của khu công nghệ cao là một yếu tố tích cực của hệ thống chính trị và cung cấp (bằng cách tác động đến các yếu tố bên trong và bên ngoài), thông qua đó sẽ làm gia tăng hiệu quả của hoạt động nghiên cứu phát triển và hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Mục đích chính cơ chế, chính sách của khu công nghệ cao là cung cấp các điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiến hành thực hiện các hoạt động đổi mới, có tính đến sự không chắc chắn và rủi ro của môi trường cạnh tranh. Tỉnh Thái Nguyên cần thúc đẩy sự hợp tác, liên kết trong khu công nghệ cao nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đổi mới. Cần đơn giản hóa việc quản lý các dự án, tăng hiệu quả sản xuất và các hoạt động kinh doanh và thúc đẩy sự hình thành hợp tác trong nghiên cứu và phát triển. Xây dựng hệ thống thông tin và chia sẻ kiến thức, nó góp phần vào sự phát triển đổi mới và nâng cao năng lực và trao đổi các mô hình kinh doanh phù hợp với xu hướng tiến bộ hiện nay. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của khu công nghệ cao cần dựa trên mô hình hệ thống phát triển, hiện đại, xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu và trao đổi kiến thức, là đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng của khu công nghệ cao. Cơ sở hạ tầng này sẽ hỗ trợ cơ chế tổ chức và phát triển của khu công nghệ cao. 161 Ngoài ra, tỉnh Thái Nguyên cần phân tích khả năng phát triển đổi mới của một khu công nghệ cao, cần phải xử lý các khía cạnh kinh tế, yếu tố quyết định hoặc hạn chế “sức mạnh đổi mới” của khu công nghệ cao. Trong đó cần phân tích thực trạng các nguồn lực, được coi là một thành phần quan trọng thúc đẩy hoạt động đổi mới, thể hiện một tập hợp các nguồn lực kinh tế cụ thể để doanh nghiệp tiến hành R&D và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nguồn lực bao gồm: cơ sở hạ thông, hậu cần, thông tin, tài chính, lao động và các nguồn lực khác. Trong đó yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khu công nghệ cao phải kể đến là hệ thống thông tin, nó đại diện cho một tập hợp các tài liệu, kiến thức, thông tin, quy trình ứng dụng, quy định quản lý, v.v. và công nghệ thông tin và truyền thông cung cấp quyền truy cập vào các nguồn thông tin. Tập hợp này tạo thành cơ sở hạ tầng thông tin của khu công nghệ cao. Nguồn thông tin đóng một vai trò rất lớn trong việc quản lý khu công nghệ cao; chúng thay đổi theo sự phát triển các nguồn lực và chuyển các yếu tố từ trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái hoạt động. Chính phủ cần đưa ra các chính sách bảo vệ tài sản trí tuệ và tối ưu hóa môi trường tín dụng. Khu công nghệ cao sẽ được tối ưu hóa và doanh nghiệp sẽ sẵn sàng chia sẻ kiến thức, mạng lưới đổi mới trong khu công nghệ cao sẽ trở thành một hệ thống và tạo môi trường sinh thái để chia sẻ kiến thức liên tục và hợp tác cùng có lợi, sẽ thúc đẩy đổi mới tri thức bền vững, do đó cung cấp động lực không ngừng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 5.3.3. Nâng cao năng lực đổi mới của Nhà quản trị Kết quả ước lượng mô hình SEM đã trình bày ở chương 3 cho thấy, nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực (EAHQ) là yếu tố tác động tích cực, mạnh mẽ nhất tới hoạt động đổi mới trong 06 yếu tố được đề xuất trong luận án. Trong đó, mức độ ảnh hưởng của yếu tố nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực tới đổi mới sản phẩm là 0,843, đổi mới quy trình là 0,784, đổi mới Marketing là 0,539 và đổi mới tổ chức là 0,687. Do đó, nâng cao năng lực đổi mới của nhà quản trị và nâng cao, phát triển nguồn nhân lực là giải pháp hàng đầu mà doanh nghiệp cần phải thực hiện. Để có thể làm được điều này, doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần phải thực hiện các nhóm giải pháp sau: 162 * Nâng cao nhận thức về hoạt động đổi mới cho nhà quản trị Việc nâng cao nhận thức về đổi mới của nhà quản trị là một trong những việc vô cùng quan trọng mà chính lãnh đạo doanh nghiệp phải trực tiếp tự mình giải quyết. Doanh nghiệp cần hiểu rằng tuy rằng việc đổi mới là rất tốn kém và có tỷ lệ rủi ro cao, nhưng đây lại là chiến lược cốt lõi để giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh và vươn lên đứng đầu. Các doanh nghiệp đứng đầu thế giới có được vị thế của họ như ngày nay đều nhờ vào hoạt động nghiên cứu và phát triển. Lợi ích của hoạt động đổi mới là vô cùng to lớn và đặc biệt khi thực hiện, doanh nghiệp sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ của chính phủ. Bên cạnh đó, các nhà quản trị cần phải không ngừng mở rộng kiến thức, tham gia các chương trình đào tạo, kết nối với các doanh nghiệp khác, thúc đẩy sự hợp tác. Vì qua quá trình này, họ sẽ có thêm các kiến thức, có cơ hội đánh giá lại toàn diện doanh nghiệp và các ý tưởng, từ đó có thể từng bước hiện thực hóa ý tưởng đổi mới. Bên cạnh đó, việc học tập từ các chuyên gia sẽ giúp nhà quản trị có thể nhận được những lời khuyên hữu ích và tìm kiếm cơ hội hợp tác. Do đó, nhà quản trị doanh nghiệp trước hết cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động đổi mới, tự nhận thức được năng lực của bản thân, hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, từ đó không ngừng học tập, nâng cao hiểu biết về hoạt động đổi mới. * Thúc đẩy động cơ đổi mới Sau khi đã xác định rõ tầm quan trọng của đổi mới, thì điều tiếp theo mà doanh nghiệp cần làm chính là thúc đẩy động cơ hoạt động đổi mới. Nhà quản trị, một mặt vừa phải tạo động lực cho chính mình, mặt khác cần tạo động lực cho các thành viên trong công ty, thúc đẩy họ đổi mới, từ đó mới có thể nâng cao hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Để thực hiện được điều này, đầu tiên, cần phải xác định rõ mục tiêu và ý đồ sáng tạo. Việc xây dựng ý tưởng đổi mới giống như việc định hướng phát triển cho doanh nghiệp, cần sự chuẩn xác, rõ ràng và thống nhất cao trong bộ máy quản trị doanh nghiệp. Điều quan trọng, ý tưởng đó cần được lan tỏa tới toàn bộ nhân viên của công ty. Sau khi có ý tưởng và chương trình hành động cụ thể, lãnh đạo doanh nghiệp cần phải xây dựng động cơ làm việc phù hợp. Với chính 163 sách khen thưởng phù hợp và phương pháp giáo dục thích hợp sẽ tạo động cơ mạnh mẽ cho toàn bộ lãnh đạo cũng như nhân viên của doanh nghiệp hướng tới sự thay đổi để phát triển. Doanh nghiệp cần phải khuyến khích tinh thần sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh, khuyến khích tinh thần hăng say khám phá, khuyến khích sự tự tin và thậm trí là sự mạo hiểm trong kinh doanh. Với một động lực mạnh mẽ và phù hợp, cơ hội thành công trong hoạt động đổi mới của doanh nghiệp là rất lớn. * Xây dựng văn hóa đổi mới trong doanh nghiệp Việc xây dựng văn hóa đổi mới là vô cùng cần thiết. Và điều này cần bắt đầu từ nhà quản trị. Khi họ tạo ra một doanh nghiệp có văn hóa sáng tạo, có bầu không khí và môi trường sáng tạo, thì nhà quản trị đã bước đầu thực hiện thành công hoạt động đổi mới tại doanh nghiệp mình. Nhà quản trị cần chủ động nâng cao văn hóa sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và truyền tinh thần này cho nhân viên cấp dưới cùng tham gia hoạt động đổi mới. Đi đôi với đó, nhà quản trị cần đưa vào văn hóa tổ chức những giá trị, niềm tin về sự sáng tạo, đổi mới, tinh thần cởi mở, dân chủ, tin tưởng, sự trao quyền, tinh thần dám đổi mới của nhà quản trị và coi trọng việc phát triển đổi mới, chia sẻ tri thức, ý tưởng và tinh thần dám đổi mới, coi trọng việc đổi mới. Thực tế đã chứng minh, sáng tạo và đổi mới xuất hiện thường xuyên hơn trong môi trường nơi mà có sự hỗ trợ, ủng hộ và nơi mà những cố gắng sáng tạo được khuyến khích. Không ai cố gắng thay đổi, cố gắng đổi mới khi mà sự sáng tạo đó không được khuyến khích. Nhà quản trị cần tạo ra môi trường mà mọi người có thể trao đổi một cách cởi mở, thoải mái và sẵn sàng cùng nhau thực hiện các ý tưởng mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần xây dựng các cơ chế hỗ trợ sáng tạo như xây dựng các quy tắc, quy trình xử lý công việc, trao quyền thuận lợi cho hoạt động của các đơn vị trực thuộc, các nhóm làm việc khi triển khai hoạt động, vì hoạt động đổi mới thường liên quan tới tất cả các bộ phận của công ty. Thiếu sự phối hợp đồng bộ sẽ khiến hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, lãnh đạo doanh nghiệp cần phải có sự đánh giá khách quan đối với các ý tưởng mới, hỗ trợ hiện thực hóa chúng, có cơ chế khen thưởng kịp thời, ghi nhận năng lực cho cán bộ nhân viên. 164 * Nâng cao năng lực chuyên môn và năng lực quản trị cho lãnh đạo doanh nghiệp Năng lực chuyên môn và năng lực quản trị là hai thứ rất quan trọng mà bất kỳ một nhà quản trị nào cũng cần phải có. Kiến thức chuyên môn tuy không phải lúc nào cũng dẫn đến sáng tạo, nhưng đây lại là những kiến thức cần thiết cho sự xuất hiện ý tưởng sáng tạo và hiểu được giá trị của sự sáng tạo. Nhà quản trị có thể không phải là người có kiến thức chuyên môn giỏi nhất, nhưng họ cần phải có kiến thức vững chắc về lĩnh vực chuyên môn, hiểu rất rõ về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, nhà quản trị còn thường xuyên phải tự cập nhật kiến thức, xu thế mới về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc tự học tập, nghiên cứu hoặc thông qua các lớp học ngắn hạn, các hội thảo, tọa đàm với các chuyên gia. Bên kiến thức chuyên môn thì năng lực quản trị là cực kỳ quan trọng để giúp nhà quản trị có thể vận hành doanh nghiệp một cách trơn tru và hiệu quả. Để có năng lực quản trị tốt, lãnh đạo doanh nghiệp cần có kiến thức về quản trị học, các mô hình quản trị và kỹ năng quản trị. Trên thế giới hiện nay có nhiều mô hình quản trị, trong đó có thể kể đến: Quản trị theo chức năng (Functional Organization), Quản trị dựa trên sản phẩm (Product-Based Divisional Structure), Mô hình ma trận (Matrix Structure), Quản trị dựa trên thị trường (Market Based Divisional Structure), Quản trị dựa trên địa lý (Geographical Divisional Structure), Quản trị dựa trên quy trình (Process Base Structure), Mô hình vòng tròn (Circula Structure), Mô hình phẳng (Flat Structure),…Các kỹ năng quản trị cần thiết: Kỹ năng quản lý, lãnh đạo; kỹ năng tư duy chiến lược, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng nhân sự,…Tất cả các kiến thức và kỹ năng, nhà quản trị cần phải chủ động học tập, rèn luyện thông qua sự tự học, hoặc tham gia các lớp đào tạo kỹ năng, hoặc thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm, chia sẻ,… Ở góc độ quản lý nhà nước, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên hoàn toàn có thể trở thành nhà tổ chức hoặc đầu mối tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn, các hội thảo, tọa đàm, chia sẻ,…Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp có thể liên kết với các trường đại học và mời các chuyên gia tới chia sẻ, hỗ trợ các lãnh đạo doanh nghiệp hoàn thiện kiến thức và kỹ năng để nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp. Trên thực tế, hoạt 165 động này chưa được tỉnh tổ chức thường xuyên và sự tham gia của các doanh nghiệp còn hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự hạn chế này: (i) Lãnh đạo doanh nghiệp chưa nhận thức được sự quan trọng cần phải nâng cao kiến thức, kỹ năng, chưa đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu của mình; (ii) Phong trào học tập, trao đổi, chia sẻ giữa các nhà quản trị còn thiếu và yếu; (iii) Cơ quan quản lý chưa có sự sát sao, hỗ trợ kịp thời, chưa thường xuyên tổ chức các hoạt động đào tạo, chia sẻ; (iv) Nội dung các hoạt động chưa đủ sức hấp dẫn. Do vậy, để giải quyết vấn đề này, cần sự nỗ lực của cả doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý. 5.3.4. Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực Ngoài việc cần một nhà quản trị giỏi chuyên môn và kỹ năng quản lý thì nguồn nhân lực chất lượng cao là điều cực kỳ cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào nếu thực hiện hoạt động đổi mới, vì hoạt động này đòi hỏi tính sáng tạo cao trong công việc. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang chuyển mình một cách nhanh chóng thì đây là điều vô cùng cần thiết. Về phía doanh nghiệp, trước hết các doanh nghiệp cần phải tự mình nhận thức được tầm quan trọng của nguồn chất lượng trình độ cao, từ đó tìm cách để nâng cao, cải thiện. Doanh nghiệp có thể áp dụng một số giải pháp sau: - Nâng cao chất lượng tuyển dụng: Tuyển dụng là bước đầu tiên doanh nghiệp có thể cải thiện. Doanh nghiệp cần làm tốt công tác này để tìm được người tài cho đơn vị mình. Trước hết cần đa dạng hóa các kênh truyền thông tuyển dụng. Doanh nghiệp không chỉ đăng tải trên website công ty, mà cần phải thông qua các website tuyển dụng, thuê các công ty chuyên tuyển dụng, liên doanh, liên kết với các trường đại học, cao đẳng để từ đó tìm được các cá nhân xuất sắc vào doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, quá trình tuyển dụng cần minh bạch, khách quan, xây dựng nhiều vào tuyển chọn để có thể lựa chọn được những cá nhân vừa có kiến thức chuyên môn tốt, kỹ năng nghề vững vàng, thái độ tốt và có nhiều khả năng phát triển. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng bộ tiêu chuẩn tuyển dụng cụ thể, đầy đủ để làm cơ sở thực hiện. - Nâng cao công tác đào tạo: Đào tạo chuyên môn là công việc định kỳ bắt buộc mà doanh nghiệp cần phải thực hiện được. Chương trình và nội dung đào tạo 166 tùy thuộc vào cụ thể yêu cầu công việc. Đó có thể là đào tạo về kiến thức chuyên môn hoặc kỹ năng nghề nghiệp. Để việc đào tạo được hiệu quả cao, doanh nghiệp có thể liên kết với các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm đào tạo có uy tín. Việc đào tạo sẽ giúp cán bộ, nhân viên nâng cao kiến thức, kỹ năng, trình độ, từ đó nâng cao hiệu quả xử lý công việc. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế số và chuyển đổi số như hiện nay, việc đào tạo là cực kỳ cần thiết trong hoạt động đổi mới. Những nội dung đào tạo cần phải mở rộng ra các lĩnh vực phục vụ trực tiếp hoạt động đổi mới như công nghệ thông tin, ngoại ngữ,… - Cơ hội phát triển và chế độ đãi ngộ xứng đáng: Bất kỳ người lao động nào cũng muốn có cơ hội được phát triển, hoàn thiện bản thân và thăng tiến trong công việc. Lãnh đạo doanh nghiệp cần phải tạo ra cơ hội và đánh giá một cách khách quan, bình đẳng đối với nhân viên. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải xây dựng bộ tiêu chuẩn rõ ràng về cơ hội thăng tiến, các tiêu chí cụ thể để bổ nhiệm lãnh đạo. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ xứng đáng, thưởng phạt phân minh rõ ràng là điều cần thiết để tạo động lực cho người lao động, giúp họ thêm nỗ lực, cố gắng nâng cao trình độ và hoàn thiện bản thân. Về phía các cơ quan quản lý của tỉnh Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên và các trường thành viên, cần ưu tiên hàng đầu đào tạo và tuyển dụng những người tài giỏi và có chính sách tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh thông qua việc mở rộng các trường đại học hoặc các ngành đào tạo mới, xây dựng và củng cố các trường đại học kỹ thuật hiện có. Công tác giảng dạy có vai trò cực kỳ quan trọng đối với chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh hiện tại và tương lai. Do đó, một mặt, Đại học Thái Nguyên và các trường thành viên cần phải không ngừng nâng cao chất lượng giảng viên, cải thiện cơ sở hạ tầng, thường xuyên cập nhật chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Thực tế hiện nay xã hội, thị trường trong và ngoài nước biến đổi không ngừng, do đó, các nhà trường cần thường xuyên điều chỉnh để phù hợp hơn với tình hình mới. Đặc biệt, việc xây dựng các ngành đào tạo mới, đáp ứng với thay đổi của xã hội là cực kỳ cần thiết. Mỗi giai đoạn, xã hội cần những ngành nghề đặc thù khác nhau. Do đó, các trường đại học cần phải cập nhật được xu thế và xây dựng chương trình cho phù hợp. 167 Bên cạnh đó, cần khuyến khích đào tạo thông qua trao đổi, hợp tác khoa học quốc tế, gửi sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài, tăng cường trao đổi sinh viên, khai thác tích cực các nguồn học bổng, đặc biệt trong lĩnh vực R&D. Chúng ta cần hướng tới việc đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ nhân lực chuyên môn cao đạt trình độ quốc tế, nhằm đáp ứng cho các lĩnh vực công nghệ có tính chiến lược, có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu. Do vậy, trên góc độ quản lý, ta cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực công nghệ cao, trình độ cao đồng bộ và dài hạn. Cụ thể, trước hết ta cần phải dự báo ngành công nghệ then chốt, từ đó xác định các tiêu chí đào tạo đảm bảo “chất” và “lượng”. Các tiêu chí này cần phải đáp ứng nhu cầu thực tiễn, và phù hợp với các tiêu chí tuyển dụng của doanh nghiệp, đáp ứng được kỳ vọng về kiến thức, kỹ năng, năng lực của doanh nghiệp, “quy chuẩn hóa” nguồn nhân lực. Bên cạnh đó phải tăng cường chính sách sử dụng và đãi ngộ để giảm hiện tượng chảy máu chất xám sau khi đào tạo đồng thời cần tạo dựng một môi trường khuyến khích năng lực đổi mới trong công việc. Đặc biệt, mô hình hợp tác phát triển và trao đổi nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài là cực kỳ cần thiết và cần được mở rộng, nhân rộng. Dưới góc độ quản lý, tỉnh Thái Nguyên hoàn toàn có thể là trung gian, đầu mối để thúc đẩy kết nối các doanh nghiệp cùng lĩnh vực trong và ngoài nước để hiện thực hóa ý tưởng này. Tỉnh Thái Nguyên có thể thúc đẩy sự hợp tác với các tổ chức quốc tế uy tín trên thế giới để xây dựng các chương trình và kết nối hợp tác phát triển. 5.3.5. Tăng cường hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới Doanh nghiệp công nghiệp tại các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) xây dựng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp chủ yếu từ việc chính phủ các nước đang phát triển cam kết cung cấp nguồn nhân lực giá rẻ, trợ cấp và ưu đãi thuế của chính phủ. Thông qua đó giảm chi phí sản xuất, giá bán rẻ hơn đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên các doanh nghiệp công nghiệp tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Đức, Nhật lại chọn con đường tăng cường đổi mới để cải thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đây là con đường sẽ đem lại hiệu quả cho tất cả các doanh nghiệp công nghiệp, vì 168 xét về mặt dài hạn các doanh nghiệp không thể mãi nhận ưu đãi hay cạnh tranh bởi có nguồn nhân công giá rẻ…chỉ có đổi mới sáng tạo mới là cách phát triển doanh nghiệp một cách bền vững nhất. Tuy nhiên quá trình đổi mới thường đa dạng, chuyên sâu về tri thức, đòi hỏi tốn kém về chi phí và thời gian, cho nên để giảm chi phí phát triển và tiếp cận kiến thức và công nghệ mới, doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần tiến hành các hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới. Có ba loại liên kết và hợp tác mà các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có thể áp dụng đó là Hợp tác toàn diện, liên kết R&D và liên kết sản xuất (Lazoi và cộng sự, 2011). Trong đó: (i) Liên kết toàn diện, bao gồm tất cả các loại hình đổi mới trong doanh nghiệp. Ở cấp độ này, không có sự phân biệt nào về mục tiêu của các mối quan hệ được thực hiện và các mối quan hệ dựa trên hoạt động của khách hàng/nhà cung cấp, hoạt động phụ trợ, các hoạt động R&D, hoạt động sản xuất, hoạt động mua sắm, và các vấn đề tài chính được đưa vào hợp đồng liên kết; (ii) Liên kết R&D, bao gồm tất cả các mối quan hệ để thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển giữa các doanh nghiệp với tổ chức hoặc doanh nghiệp khác; và (iii) Liên kết sản xuất, bao gồm các mối quan hệ hỗ trợ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Như chúng ta có thể thấy, liên kết R&D và liên kết sản xuất là hai liên kết con trong liên kết toàn diện. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phức tạp khiến một doanh nghiệp khó làm việc biệt lập; điều này đặc biệt đúng trong quá trình đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp công nghiệp cần phải có kiến thức đa ngành để phát triển sản phẩm mới và thúc đẩy sự đổi mới. Để thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần tăng cường hoạt động liên kết và hợp tác với các trường đại học, chính phủ, doanh nghiệp khác hoặc với khách hàng (hình 2)… Các doanh nghiệp cần phải xác định rõ mục đích, mức độ liên kết, hợp tác, để gia tăng tính hiệu quả, cũng như gia tăng sự đổi mới trong doanh nghiệp, bởi vì mức độ hợp tác sẽ quyết định sự tham gia của các bên và liên quan đến việc chia sẻ rủi ro trong quá trình đổi mới. 169 Chính phủ Trường đại học/tổ
chức nghiên cứu Doanh nghiệp
khác Doanh nghiệp Khách hàng Nhà cung ứng Hình 5.2: Sơ đồ mạng liên kết doanh nghiệp trong đổi mới Sơ đồ mạng liên kết doanh nghiệp trong đổi mới thể hiện sự tương tác giữa doanh nghiệp, khách hàng, trường đại học hoặc viện nghiên cứu, chính phủ và nhà cung ứng… là chìa khóa để cải thiện các quá trình đổi mới của doanh nghiệp trong một xã hội dựa trên tri thức. Sơ đồ được thành lập dựa trên ý tưởng rằng đổi mới là kết quả của một quá trình tương tác liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của các chủ thể kinh tế, mỗi bên đóng góp theo vai trò, chức năng trong xã hội. Đóng góp cho sự đổi mới dưới góc độ chia sẻ tài chính, kiến thức và chuyển giao bí quyết nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển thông qua đổi mới. Thứ nhất, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần có sự hợp tác và liên kết với các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu…bởi vì nơi đây sẽ cung cấp cho các doanh nghiệp đội ngũ lao động có trình độ kiến thức và kỹ năng mà các doanh nghiệp đang cần nhằm phục vụ hoạt động đổi mới. Hoặc sẽ là đối tác cùng thực hiện hoạt động R&D, hay doanh nghiệp công nghiệp có thể mua lại ý tưởng, phát minh của các trường đại học, các viện nghiên cứu để thương mại hóa các ý tưởng và phát minh đó. Đổi mới là một quá trình tạo ra các lợi ích kinh tế và xã hội thông qua việc sử dụng kiến thức và kỹ năng để phát triển và triển khai các ý tưởng thành các các sản phẩm và dịch vụ mới. Thực tế chứng minh rằng giáo dục đào tạo đại học và sau đại học đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra các kiến thức và kỹ năng để 170 phục vụ hoạt động nghiên cứu đổi mới để cung cấp cho các doanh nghiệp công nghiệp một lực lượng lao động có chất lượng cao. Kiến thức được tạo ra tại các trường đại học là cơ sở để cung cấp các kỹ năng và chuyên môn cần thiết, đồng thời cho phép các doanh nghiệp tiếp cận các phòng thí nghiệm hiện đại trong các trường đại học và những sinh viên tốt nghiệp có năng lực. Các hoạt động như thử nghiệm và phát triển mẫu thử nghiệm được thực hiện trong các trường cao đại học, viện nghiên cứu là cơ hội để doanh nghiệp tiến hành hoạt động đổi mới, cũng như thương mại hóa các kết quả nghiên cứu từ các trường đại học. Wolfe (2004a, b) tuyên bố rằng “Các trường đại học hiện được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều kiến thức ứng dụng hơn có liên quan nhiều hơn đến ngành công nghiệp, để truyền bá kiến thức và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho ngành công nghiệp ... được củng cố bởi kỳ vọng chính trị rằng kinh phí nghiên cứu được gắn với các mục tiêu lớn về chính sách công trong thúc đẩy năng lực đổi mới quốc gia, khả năng cạnh tranh cao hơn và ngày càng phát triển kinh tế địa phương và khu vực” Ngoài ra các doanh nghiệp công nghiệp có thể tài trợ cho các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu để thực hiện một số dự án nghiên cứu và phát triển. Nguồn vốn này cho phép các trường đại học thực hiện công tác nghiên cứu, nhằm tạo ra các phát minh mang tính ứng dụng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể cải thiện hiệu suất và chất lượng của sản phẩm và dịch vụ. Các phát minh sách chế có thể được các trường đại học thương mại hóa, tạo nguồn thu cho nhà trường và các cá nhân tạo ra kết quả nghiên cứu. Từ đó các nhà nghiên cứu trong trường đại học có thêm động lực lớn hơn để nghiên cứu và tìm kiếm các nguồn thu nhập tiềm năng thông qua thương mại hóa nghiên cứu như quan hệ đối tác với doanh nghiệp, các thỏa thuận cấp phép và tiền bản quyền. Nhà trường và nhà nghiên cứu cần làm rõ về một số ưu đãi như tiền bản quyền, quyền sở hữu chung và tiền thưởng trong các phát minh. Thứ hai, liên kết với doanh nghiệp khác giúp chia sẻ rủi ro về mặt tài chính, cũng như giúp các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tận dụng lợi thế trong đổi mới của doanh nghiệp khác. Xây dựng mối liên kết và hợp tác này thường dựa vào đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nền tảng liên kết hợp tác sẵn có, các yếu tố có thể bổ sung bổ trợ cho nhau … Các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần chú trọng đến 171 mối quan hệ này, xây dựng cơ chế hợp tác cụ thể, công bằng để thúc đẩy hoạt động đổi mới, cũng như chia sẻ kiến thức. Doanh nghiệp công nghiệp cần không ngừng tăng cường sự tin cậy lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, nhất là khi ở giai đoạn đầu hợp tác, từ đó tạo môi trường tốt để chia sẻ kiến thức và tinh thần sẵn sàng hợp tác. Hơn nữa, nhắm vào các nhu cầu kiến thức mới, một hệ thống đào tạo nhân viên hoàn chỉnh cần được doanh nghiệp công nghiệp phát triển để nâng cao khả năng chia sẻ kiến thức và hấp thụ kiến thức. Doanh nghiệp cần truyền tải thông tin hiệu quả sẽ làm giảm sự bất cân xứng thông tin giữa các bên trong hợp tác, liên kết. Doanh nghiệp cần được trang bị cấu trúc tri thức hợp lý và phân công nhiệm vụ, trách nhiệm của các bên tham gia hợp tác. Cơ chế khuyến khích và hình phạt hợp lý đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi chia sẻ kiến thức giữa các đối tác. Để ngăn chặn các hành vi trái đạo đức, việc ký kết hợp đồng là biện pháp bảo vệ tốt để doanh nghiệp công nghiệp thực hiện chiến lược trong hợp tác, liên kết; trong khi đó, hình phạt đối với hành vi trái đạo đức cũng là một phương án dự phòng tốt để ngăn chặn hành vi vi phạm hợp đồng và hành vi tự do sử dụng kết quả liên kết và hợp tác chung. Thứ ba, liên kết với khách hàng Doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần quan tâm đến mối liên kết với khách hàng. Bởi vì khách hàng là nguồn thông tin đầu vào quan trọng để phục vụ hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp. Khách hàng cũng chính là người đánh giá kết quả đổi mới của doanh nghiệp hoặc là người “trả công” cho quá trình đổi mới trong doanh nghiệp. Khách hàng còn là nguồn thông tin quan trọng để doanh nghiệp quyết định hướng đi tiếp theo trong đổi mới. Doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin phản hồi của khách hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp cần phải chú ý tới việc lưu trữ, phân phối và sử dụng hiệu quả thông tin. Đây chính là nguồn đầu vào quan trọng để quyết định sự thành công trong đổi mới của doanh nghiệp. Để mối liên kết với khách hàng được hiệu quả, doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông nhằm các mục tiêu như: (1) Xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt khách hàng (2) tăng cường sự tương tác với 172 khách hàng, và (3) tiếp nhận và trả lời ý kiến của khách hàng. Hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông rất hữu ích để doanh nghiệp theo dõi và điều phối mối quan hệ với khách hàng và tận dụng khả năng truy cập thông tin cập nhật ngay lập tức và dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí và cải thiện quá trình đổi mới trong doanh nghiệp. Thứ 4, liên kết với nhà cung ứng. Một sự đổi mới đòi hỏi nhiều hơn những nguồn lực về trí tuệ, tài chính, vật chất và con người sẵn có bên trong doanh nghiệp. Do vậy đổi mới cần liên kết, hợp tác để tiếp cận những mảng, lĩnh vực còn thiếu của doanh nghiệp. Trong một quá trình đổi mới, việc đưa kết quả đổi mới tới tay người tiêu dùng cũng đóng một vai trò quan trọng. Nó quyết định đến hiệu quả của đổi mới trong doanh nghiệp. Nhiều khi kết quả đổi mới cần có sự tham gia các các nhà cung ứng để sản phẩm đến tay nhiều người tiêu dùng hơn, với tốc độ nhanh và hiệu quả hơn. Mặt khác, sản phẩm đổi mới thường không chỉ cung cấp trong phạm vi một địa phương hay một quốc gia mà có thể còn phân phối trên phạm vi toàn cầu. Do vậy các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũng cần thực hiện các liên kết với nhà cung ứng để sản phẩm của doanh nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi địa phương, mà tiến xa hơn đó là phạm vi toàn cầu. Mối liên kết giữa doanh nghiệp và nhà cung ứng là rất hữu ích để phát triển các tương tác chặt chẽ và phong phú với thị trường, các nhà cung ứng sẽ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp. Tạo mạng lưới phân phối kết quả đổi mới có tiềm năng to lớn và mang lại lợi ích cho sự đổi mới: trên thực tế, sự hiện diện của mạng lưới phân phối sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự tương tác của doanh nghiệp với khách hàng. Liên kết với các nhà phân phối được sử dụng khi sản phẩm hay dịch vụ mới trên thị trường, hay doanh nghiệp chưa có tên tuổi, việc liên kết sẽ giảm độ không chắc chắn khi đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Kết quả thể hiện mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung ứng đại diện cho doanh nghiệp. Hiệu quả của mối liên kết hợp tác giữa doanh nghiệp công nghiệp và nhà cung ứng là doanh nghiệp có thể đẩy nhanh các quy trình đổi mới, tiết kiệm thời gian đưa sản phẩm ra thị trường và dễ dàng đáp ứng những thay đổi nhanh chóng trong nhu cầu của khách hàng. Thứ năm, doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cần tận dụng các cơ chế, chính sách của chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy hoạt động 173 đổi mới, ví dụ như: Chính sách về tài chính, chính sách về tín dụng, chính sách về hỗ trợ dự án, chính sách về chuyển giao công nghệ…. Trong mối liên kết này, chính phủ thường đóng vai trò bằng cách cung cấp các nguồn tài chính để giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp, cải thiện cơ sở hạ tầng nghiên cứu liên quan và tạo ra các khuôn khổ pháp lý cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới. Mối liên kết này đòi hỏi chính phủ thể hiện vai trò của mình trong việc cung cấp: các nguồn nhân lực và tài chính được phân bổ cho các tiến bộ khoa học và công nghệ; mức độ tinh vi của công nghệ; các chính sách công ảnh hưởng đến các hoạt động liên quan đến đổi mới; bảo hộ sở hữu trí tuệ; khuyến khích tài chính cho đổi mới, ban hành và thực hiện hiệu quả luật chống độc quyền và lạm dụng quyền lực. Điều này tạo môi trường lành mạnh cho doanh nghiệp công nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới. Ngoài ra thể chế, chính sách của chính phủ cần phải giúp doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với thể chế, chính sách và hàng hóa công cộng; khả năng khai thác bổ sung giữa sản phẩm, tiếp thị và khách hàng; hoặc sự khuyến khích của chính phủ trong đổi mới (tức là một cơ hội tốt hơn trên thị trường; mối quan hệ để tìm hiểu về các công nghệ đang phát triển, thành phần, máy móc, dịch vụ, v.v.; năng lực và tính linh hoạt để đổi mới nhanh chóng; và chi phí thử nghiệm thấp hơn). Thành công trong hoạt động liên kết, hợp tác của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên sẽ thể hiện qua sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp như (1) khả năng của các doanh nghiệp trong việc giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ mới hoặc các quy trình; (2) chất lượng của sản phẩm và dịch vụ mới; (3) tốc độ mà các doanh nghiệp có thể đưa các sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường; (4) khả năng theo kịp các đối thủ cạnh tranh; và (5) lợi nhuận hoặc năng suất của các doanh nghiệp. 5.4. Kiến nghị Đối với Chính phủ: Cần xây dựng và áp dụng đồng bộ các chính sách hỗ trợ đổi mới cho doanh nghiệp như: Chính sách tín dụng, chính sách về thuế, chính sách hỗ trợ, chính sách dự án…Ngoài ra Chính phủ cần phổ biến và quảng bá thông tin về các chính sách hỗ trợ, cũng như cải thiện thủ tục hành chính giúp doanh nghiệp công nghiệp dễ dàng tiếp cận tới các chính sách hỗ trợ đổi mới trên. 174 Đối với tỉnh Thái Nguyên: Cần xây dựng chiến lược thành lập khu công nghệ cao để làm tiền để phát triển khoa học công nghệ; tỉnh cần có chính sách thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, xây dựng chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghiệp đổi mới; Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp công nghiệp: Cần nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp; Cần phát triển các ưu điểm của doanh nghiệp trong đổi mới, tăng cường chi cho hoạt động đổi mới, nâng cao trình độ cho người lao động. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế về thực trạng hoạt động đổi mới, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Đồng thời trên cơ sở phương hướng và mục tiêu của tỉnh Thái Nguyên về đổi mới. Tác giả đã đề xuất 05 giải pháp, cụ thể như sau: Giải pháp 1: Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đổi mới cho doanh nghiệp. Giải pháp 2: Xây dựng khu công nghệ cao nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp Giải pháp 3: Nâng cao năng lực đổi mới của Nhà quản trị Giải pháp 4: Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực Giải pháp 5: Tăng cường hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới Để thực hiện các giải pháp hiệu quả cần có các điều kiện thực hiện. Tác giả đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ; tỉnh Thái Nguyên và doanh nghiệp công nghiệp với mong muốn thúc đẩy hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 175 Luận án tiến sĩ với đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” đã xây dựng được cơ sở lý luận phong phú, một hệ thống dữ liệu thứ cấp và sơ cấp phong phú, sử dụng kết hợp giữa phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Chính vì vậy đã đạt được các yêu cầu mục tiêu ban đầu mà luận án đề ra. Kết quả đạt được của luận án như sau: Thứ nhất, luận án đã hệ thống được cơ sở lý luận liên quan đến đổi mới như khái niệm, nội dung và vai trò của đổi mới… Ngoài ra tác giả đã đưa ra 6 yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo bao gồm Cạnh tranh và thông tin thị trường; thể chế và hệ thống phát luật; cơ sở hạ tầng; Liên kết và hợp tác; nhà quản trị doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực; năng lực tài chính doanh nghiệp. Thứ hai, luận án đã khảo sát, phân tích được thực trạng đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo các khía cạnh như: tỷ lệ doanh nghiệp có thực hiện tỷ lệ đổi mới, các loại đổi mới của doanh nghiệp; đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động đổi mới; tỷ lệ doanh nghiệp nhận được hỗ trợ từ Nhà nước cho hoạt động đổi mới… Thứ ba, xây dựng và kiểm định mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, bao gồm 6 yếu tố; Cạnh tranh và thông tin thị trường; Thể chế và hệ thống pháp luật; Cơ sở hạ tầng; liên kết hợp tác; Liên kết và hợp tác; Nhà quản trị và chất lượng nguồn nhân lực; Năng lực tài chính doanh nghiệp. Thứ tư, căn cứ vào kết quả nghiên cứu, luận án đã đề xuất được 05 giải pháp bao gồm: (1) Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đổi mới cho doanh nghiệp; (2) Xây dựng khu công nghệ cao nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp công nghiệp; (3) Nâng cao năng lực đổi mới của Nhà quản trị; (4) Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực; (5) Tăng cường hoạt động liên kết và hợp tác trong đổi mới 176 Như vậy, luận án đã đạt được các mục tiêu đã đề ra trong nghiên cứu. Kết quả luận án đã có những đóng góp nhất định về mặt lý luận, cũng như thực tiễn trong nghiên cứu đổi mới và các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Mặt khác luận án còn đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới trong các doanh nghiệp, từ đó nâng cao được lợi nhuận và năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Hạn chế của luận án: Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng theo tác giả, luận án còn một số hạn chế như sau: Thứ nhất, việc đo lường các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chủ yếu dựa vào kết quả điều tra sơ cấp. Tuy rằng đây là phương pháp nghiên cứu khoa học và phù hợp, nhưng phân tích dựa trên điều tra sơ cấp có những nhược điểm mang tính hệ thống của chính nó khi kết quả đánh giá phụ thuộc vào nhận định chủ quan của người được điều tra. Tuy nhiên, theo hiểu biết của tác giả, cho đến hiện nay, đây là phương pháp duy nhất có thể thực hiện đối với vấn đề mà luận án đang nghiên cứu. Thứ hai, mô hình nghiên cứu mà tác giả phân tích mới chỉ giải thích được 63,8% sự thay đổi của “Đổi mới tổ chức”, 36,4% sự thay đổi của “Đổi mới Marketing”, 89,3% sự thay đổi của “Đổi mới quy trình” và 75,0% sự thay đổi của “Đổi mới sản phẩm”. Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ phản ánh về doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo: Nhằm khắc phục các hạn chế đã được tác giả nêu ra, các nghiên cứu sau này có thể mở rộng bằng cách: (i) Xây dựng các phương pháp nghiên cứu mới, thang đo mới, sử dụng các số liệu thứ cấp đã được chuẩn hóa bởi các tổ chức quốc tế để phân tích, (ii) bổ sung thêm các yếu tố tác động khác để tăng mức độ giải thích và ý nghĩa của mô hình, (iii) tăng số lượng doanh nghiệp khảo sát, mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với các doanh nghiệp lĩnh vực khác, địa bàn nghiên cứu khác. 177 1. (2019), “How Innovations affect Firm's Productivity? A literature reviews”, International Journal of Research in Business and Technology, Volume.11; No.2, pp.134-140. ISSN 2291-2118 2. (2022), “Factors affecting the Product Innovation of Industrial Enterprises in Thai Nguyen province: An empirical investigation” , International Journal of Business Marketing and Management, Volume 7 Issue 2 Mar-Apr 2022, pp. 52-57, ISSN: 2456-4559. 3. (2022), “Evaluation of Innovation Activities: An Empirical Investigation of Industrial Enterprises in Thai Nguyen Province”, International Journal of Business Marketing and Management, Volume 7 Issue 3 Mar-Apr 2022, pp. 27-33, ISSN: 2456-4559. 178 TIẾNG VIỆT 1. Bộ khoa học và Công nghệ (2018), Báo cáo “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần tăng năng suất lao động”. 2. Bộ tài chính (2019), “Thông tư số 45/2019/TT-BTC ngày 19/7/2019 của Bộ Tài chính quy định quản lý tài chính thực hiện Đề án ―Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” 3. Nguyễn Đình Bình, Nguyễn Mạnh Cường (2015), “Đổi mới sáng tạo mở và cơ hội áp dụng tại Việt Nam‖, JSTPM, Tập 4, Số 3, 2015 4. Chi cục thống kê Thái Nguyên, Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2018,2019,2020. 5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo. 6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025‖. 7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Chỉ thị số 15/CT- TTg ngày 15/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8. Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam (2022), Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam. https://ipvietnam.gov.vn/wipo-tisc 9. Nguyễn Thanh Cường (2014), Năng lực đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. 10. Nguyễn Quốc Duy (2015), "Đổi mới sáng tạo và các nhân tố tác động - Tổng kết cơ sở lý thuyết", Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 211(II), trang 37-46. 11. Nguyễn Quốc Duy (2015), “Chính sách đổi mới sáng tạo cho thành phố Hà Nội”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 71 (10/2015), tr.35-44. 12. Nguyễn Quốc Duy (2015), “Đổi mới sáng tạo và các nhân tố tác động - Tổng 179 kết cơ sở lý thuyết”. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 211(II), tr.37 – 46 13. Vũ Anh Dũng và Hoàng Thị Hồng Hạnh (2018), “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI gắn với R&D từ các công ty Nhật Bản vào Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 7(267), tr.47-59 14. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX nhiệm kỳ 2020-2025 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 16. Thái Hà (Biên dịch) (2009), “Đổi mới kiến tạo tương lai”, NXB Lao động – Xã hội 17. Nguyễn Vân Hà (2020), “Đổi mới sáng tạo sản phẩm và quy trình trong ngành khách sạn tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, ĐH Kinh tế quốc dân 18. Đỗ Văn Hải (2015), “Bàn về đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp”, Dầu khí, Số 11, tr.56-59 19. Hội đồng nhân dân (2019), Nghị quyết số 09/2019/NQ-HĐND ngày 11/12/2019 của HĐND tỉnh ban hành Quy định nội dung và mức chi thực hiện hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025. 20. Hồ Ngọc Luật (2019), “Điều tra thử nghiệm đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam”, tập 1, tr.20-27 21. Hồ Ngọc Luật và Phạm Thế Dũng (2018). Điều tra thống kê đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, tập 3, số 3, pp.1-23 22. Phùng Xuân Nhạ, Lê Quân (2013), “Đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 29, Số 4, tr.1-11 23. Quốc hội Việt Nam (2008), Luật công nghệ cao 24. Quốc hội Việt Nam (2020), Luật doanh nghiệp 25. Trần Quang Tiến (2018), “Đổi mới sáng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 5, tr.88-95 26. Hoàng Văn Trung (2018), Giải pháp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ, Học viện Khoa học Xã hội. 180 27. Nguyễn Lê Thanh Tuyền (2013), “Nghiên cứu các nhân tốt ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty ngành sản xuất chế biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. Luận văn thạc sĩ, ĐH Đà Nẵng. 28. Bùi Nhật Lệ Uyên (2018), “Nghiên cứu các nhân tố tác động đến năng lực đổi mới của doanh nghiệp công nghiệp công nghệ cao tại một số tỉnh trọng điểm miền Nam Việt Nam‖, Luận án Tiến sĩ, ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 29. UBND tỉnh Thái Nguyên (2019), Kế hoạch số 113/KH-UBND ngày 30/6/2019 của UBND tỉnh Thái Nguyên về Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025 30. Mai Lê Thúy Vân, Nguyễn Đạt Thịnh, Văn Đức Hòa, Lê Thị Việt Hòa, Hoàng Thị Diệu Huyền, Lê Trần Thùy Dương (2018), “Thực trạng các yếu tố quyết định đến đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tập 2, Số 2, tr.40-48 31. Trần Thị Hồng Việt (2016), “Nhân tố tác động đến năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp da giầy Hà Nội”, Tạp chí Quản lý kinh tế, Tập 1, Số 74, tr. 52 – 63. TIẾNG ANH 32. Abernathy, W. J., & Clark, K. B. (1985). Innovation: Mapping the winds of creative destruction. Research Policy, 14(1), 3–22. https://doi.org/ 10.1016/0048‐ 7333(85)90021‐ 6 33. Acs, Z. J., & Audretsch, D. B. (1988). “Innovation in large and small firms: An empirical analysis. The American Economic Review”, 78(4), 678e690. 34. ADB (2014). “Middle-Income Trap Hold Back Asia‘s Potential New Tiger Economies: 12 Things to Know”. Asian development Bank, p.2-14. “Competition and Innovation: An Inverted-U Relationship‖, The Quarterly 35. Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R., and Howitt, R., (2005). Journal of Economics, Vol. 120, No. 2 (May, 2005), pp. 701-728 36. Ajzen, I. (1991), “The theory of planned behaviour”, Organization Behaviour and Human Cecision Processes, vol. 50, pp. 179-211. 37. Almeida, P.and B.kogut (1997), “The Exploration of Technological Diversity 181 and the Geographical Localization of Innovation”, Small Business Economics, Số 9, tr.21-31 38. Alvendia, Kelly & Demarest Law Firm. Website www.akdlawyers.com. 39. Amara, N., Landry, R., Doloreux, A.(2009), “Patterns of innovation in knowledge -intensive business services”. The Service Industries Journal, 29(4), tr.407 – 430 40. Anokhin, S and Schulze, W (2009), “Entrepreneurship, innovation, and corruption”, vol. 24, issue 5, pp.465-476 41. Arranz, N., Arroyabe, M.F., Molina-García, A., and J.C. Fernandez de Arroyabe (2019), "Incentives and inhibiting factors of eco-innovation in the Spanish firms", Journal of Cleaner Production, vol. 220, pp. 167-176. 42. Arrow, K. 1962. “Economic Welfare and the Allocation of Resources to Invention.” In The Rate and Direction of Inventive Activity: Economic and Social Factors, edited by Universities- National Bureau Committee for Economic Research and the Committee on Economic Growth of the Social Science Research Councils, 467– 92. Princeton, NJ: Princeton University Press. 43. Artz, K., Norman, P., Hatfield, D. and Cardinal, L. (2010), “A longitudinal study of the impact of R&D, patents, and product innovation on firm performance”, Journal of Product Innovation Management, Vol. 27 No. 5, pp. 725-740. 44. Aurjirapongpan, S., Wattanasit, P., Janchai, A., & Kupparat, P. (2011). “The ability to manage knowledge with the innovative capability of enterprises that are innovative in Thailand”. Journal of Development Administration, 51(1), 159e199 45. Ayyagari, M., Demirguc-Kunt, A., Maksimovic, V., (2005): “How well do Institutional Theories Explain Firms‘ Perceptions of Property Rights?‖ World Bank Working Paper. 46. Bartlett, C. A., and Ghoshal, S (1989). Managing across borders: The transnational solution. Boston: HBS Press. 47. Baumol, W. J. (2014) The free-market innovation machine: Analyzing the 182 growth miracle of capitalism, The Free-Market Innovation Machine: Analyzing the Growth Miracle of Capitalism. doi: 10.5860/choice.40-0406. 48. Becheikh, N., Landry, R., & Amara, N. (2006). “Lessons from innovation empirical studies in the manufacturing sector: A systematic review of the literature from 1993–2003”. Technovation, 26(5), 644–664. 49. Brown, S. L., & Eisenhardt, K. M. (1995). Product development: Past research, present findings, and future directions. Academy of Managemenent Review, 20(2), 343–378. http://www.jstor.org/stable/ 258850 50. Buddelmeyer, H., Jensen, H., & Webster, E. (2006). “Innovation and the Determinants of Firm Survival”, SSRN Electronic Journal. DOI: 10.2139/ssrn.942228 · Source: RePEc 51. Bygrave, W. D. (1992). “Venture capital returns in the 1980s‖. In D. L. Sexton & J. Kasarda (Eds.), The state of the art of entrepreneurship (pp. 438–462), Boston, MA: PWS-Kent. 52. Cambridge Dictionary. Website dictionary.cambridge.org 53. Canepa, A., Stoneman, P. (2008). Financial constraints to innovation in the UK: evidence from CIS2 and CIS3. Oxf. Econ. Pap. 60, 711–730. 54. Caporaso, James A.; Jupille, Joseph, eds. (2022), "Introduction: Theories of Institutions", Theories of Institutions, Cambridge University Press, pp. 1–15, doi:10.1017/9781139034142.001, ISBN 978-0-521-87929-3. 55. Chang, S., Gong, Y.P. and Shum, C.(2011), “Promoting innovation in hospitality companies through human resource management pratice”, International journal of Hospitality Management, Tập 30, số 4, tr.812-818. 56. Cirera, X. and Sabetti, L. (2019). “The effects of innovation on employment in developing countries: Evidence from enterprise surveys”, Industrial and Corporate Change, pp. 161–176. 57. Clausen, Tommy, H, Tor, K. and Einar. L (2013), “Modes of Innovation, Resources and Their Influence on Product Innovation: Empirical Evidence from R&D Active Firms in Norway”. Technovation 33, Tập 6-7, Tr.225-233 58. Cohen, W.M. and Levinthal, D.A. (1990), “Absorptive capacity: a new 183 perspective on learning and innovation”, Administrative Science Quarterly, Vol. 35 No. 1, p. 128.. 59. Copper, J.R.(1998), “A multidimensional approach to the adoption of innovation”, Management Decision, Tập 36, số 8, tr.493-502 60. Cormican, K., O‟Sullivan, D., (2004). “Auditing best practice for effective product innovation management‖. Technovation 24 (10), 819–829. 61. CRIF D&B Vietnam. Website www.dnbvietnam.com 62. Damanpour, F. (1991). Organizational Innovation: A meta‐ analysis of effects of determinants and moderators. Academy of Management Jour- nal, 34(3), 555–590 63. Dananpour, F&Schneider, M.(2006), “Phases of the adoption of Innovation in Organizations: Effects of Environment, Organization and Top Managers”, British Journal of Management, Tập 17, số 3, tr.996-1010. 64. Darroch, J. (2005), "Knowledge management, innovation and firm performance", Journal of Knowledge Management, vol. 9(3), pp. 101-115. 65. Djoumessi, Armand, Chen, Shu-Ling, and Stephen Cahoon (2019), "Factors influencing innovation in maritime clusters: An empirical study from Australia", Marine Policy, 103558, DOI:10.1016/j.marpol.2019.103558. 66. Drucker Peter, F.(1998), “The discipline of innovation”, Harvard Bussiness Review, tr.149-156 67. Edison, H., Bin Ali, N., & Torkar, R. (2013). “Towards innovation measurement in the software industry”. The Journal of Systems and Software , 86 (1390– 1407), 86, 1390– 1407. 68. Fagerberg, J. (2003), “Schumpeter and the revival of evolutionary economics: an appraisal of the literature”, Journal of Evolutionary Economics, 13, 125- 159. 69. Farmer, Roger E. A. (2016), “The evolution of endogenous business cycles”. Macroeconomic Dynamics, 20 (2). pp. 544-557. 70. Felder, J., Georg Licht, E. Nerlinger and H. Stahl (1996), “Factors determining R&D and innovation expenditure in German manufacturing industries‖, in: 184 Kleinknecht (eds.), pp.125-154. 71. Flor, M. L., & Oltra, M. J. (2004). “Identification of innovating firms through technological innovation indicators: An application to the Spanish ceramic tile industry”. Research Policy, 33(2), 323–336. 72. Frenkel, A., Shefer, D., Roper, S., (2003). “Public policy, locational choice and the innovation capability of high-tech firms: a comparison between Israel and Ireland‖. Papers in Regional Science 82, 203–221 73. Fulmer, Jeffrey (2009). "What in the world is infrastructure?". PEI Infrastructure Investor (July/August): 30–32. 74. Gallego, A., Prado, L., & García, S. (2011). “Corporate social responsibility and innovation: a resource‐ based theory”. Management Decision, 49(10), 1709–1727. 75. Geroski, P. (1990). “Innovation, Technological Opportunity, and Market Structure”. Oxford Economic Papers, vol. 42, issue 3, pp.586-602 76. Ghoshal, S., Moran, P (1996). “Bad for practice: a critique of the transaction cost theory”. Academy of Management Review, 21 (1), pp.13–47. 77. González-González, T. and García-Almeida, D.J. (2021), “Frontline employee- driven innovation through suggestions in hospitality firms: The role of the employee‘s creativity, knowledge, and motivation”, International Journal of Hospitality Management, Volume 94, April 2021, 102877. 78. Greenhalg and Rgoers (2010), “Innovation, Intellectual Property, and Economic Growth”, Published by Princeton University Press. 79. Greif, Avner; Laitin, David D. (2004). "A Theory of Endogenous Institutional Change". The American Political Science Review. 98 (4): 635. doi:10.1017/S0003055404041395. ISSN 0003-0554. JSTOR 4145329. S2CID 1983672. 80. Guinet, J., & Pilat, D. (1999). Promoting innovation does it matter? Organi- sation for Economic Cooperation and Development. The OECD Observer, 217(218), 63–65. 81. Gunday, G., Ulusoy, G., Kilic, K., &Alpkan, L.(2011), “Effects on innovation 185 types on Firm Performance”, International Journal of Production Economics, Tập 133, số 2, tr.662-676. 82. Guo, R. J., Baruch, L., & Zhou, N. (2005). The valuation of biotech IPOs. Journal of Accounting, Auditing & Finance, 20(4), 423–459. 83. Hagedoorn, J. (2006), "Understanding the cross-level embeddedness of interfirm partnership formation", Academy of Management Review, vol. 31(3), pp. 670-680. 84. Hair, J.F., Black, W.C., Babin, B.J., Anderson, R.E. (2010). Multivariate data analysis. Prentice Hall, Upper Saddle River, NJ. 85. Hansen, E.L, Witkowski, T.H. (1995), “Entrepreneur involvement in international marketing; The effects of overseas social networks and self- imposed barriers to action”, Research at the Marketing/Entrepreneurship Interface, tr.363-367. 86. Harvard Business School (2003), Managing creativity and innovation. 87. Hill, C. W., & Jones, T. M. (1992), “Stakeholder‐ Agency theory”. Journal of Management Studies”, 29(2), 131–154. https://doi.org/10.1111/j.1467‐ 6486.1992.tb00657. 88. Hult, G. T. M., Hurley, R. F., & Knight, G. A. (2004). “Innovativeness: Its antecedents and impact on business performance”. Industrial marketing management,33(5), 429-438. 89. Hussen, M and Çokgezen, M (2019). “Analysis of Factors Affecting Firm Innovation: An Empirical Investigation for Ethiopian Firms”. Journal of African Business. DOI:10.1080/15228916.2019.1625020 90. Hutter, K., Hautz, J., Repke, K. and Matzler, K. (2013). Open innovation in small and micro enterprises, Problems and Perspectives in Management, pp.11-22 91. International Risk Management Institute, Inc. Website www.irmi.com 92. Irina.K, Vera.A, Tatiana.F and Tatiana.K (2019), “Efficiency of construction cluster innovative potential management”. IOP Conf. Series: Materials Science and Engineering 497. Doi:10.1088/1757-899X/497/1/012033 93. Kamal, M.M (2006), “IT Innovation Adoption in the Government Sector - 186 Identifying the Critical Success Factors”, Journal of Enterprise Information Management, tập 19, số 2, tr.192-222 94. Kaufmann, A., & Todtling, F. (2002). How effective is innovation support for SMEs? An analysis of the region of Upper Austria. Technovation, 22(3), 147–159 95. Kenton, Will. (2018), “Manufacturing Production”, retrieved in 15 March 2019. 96. King, Robert G. and Ross Levine, 1993a. “Finance, entrepreneurship, and growth‖. Journal of Monetary Economics 32, 513-542 97. Kleinknecht, A. (1996) (ed.), Determinants of innovation, The message from new indicators, Basingstoke, UK: Palgrave. 98. Kleinknecht, A. (2000), Indicators of manufacturing and service innovation: their strengths and weaknesses, in Metcalf, J.S., & I. Miles (eds), Innovation system and the service economy, Boston: Kluwer AP, pp. 169-186. 99. Klomp, L., en G. van Leeuwen (1999), The importance of innovation for firm performance, Statistics Netherlands. 100. Klomp, L., en G. van Leeuwen (2001), Linking innovation and firm performance: a new approach, proceedings of the conference Innovation and enterprise creation: statistics and indicators, session C: Innovation and Firm Performance, www.technopolisgroup.com/innoconf, pp. 86-94, also in: International Journal of the Economics of Business, vol. 8, no. 3, pp. 343-364. 101. Knight, Jack (1992). Institutions and social conflict. Cambridge University Press. pp. 1–2. ISBN 978-0-511-52817-0. OCLC 1127523562. 102. Kohn, Alfie (1992). No Contest: The Case Against Competition. Houghton Mifflin Harcourt. p. 19. ISBN 978-0-395-63125-6. 103. Lall, S. (2001). “Competitiveness Indices and Developing Countries: An Economic Evaluation of the Global Competitiveness Report”. World Development, 29, pp.1501-1525. 104. Laursen, L.N., Andersen, P.H. (2023). Resource and supplier interaction in network innovation governance: The case of innovating at Unilever. Journal of Business Research, Volume 156, February 2023, 113465. 105. Law.H.L, Sarmidi.T &Goh.L.T (2020), Impact of Innovation on Economic 187 Growth: Evidence from Malaysia, Malaysian Journal of Economic Studies 57(1), pp.113–132. 106. Lazoi.M, Ceci.F, Corallo.A, Sencundo (2011), “Collaboration in an aerospace SMES cluster: Innovation and ICT dynamics”. International Journal of Innovation and Technology Management. DOI:10.1142/S0219877011002398 107. Li, H., & Atuahene‐ Gima, K. (2001). Product Innovation Strategy and Per- formance of New Technology Ventures in China. Academy of Management Journal, 44(6), pp.1123–1134. 108. Lindenfors, Patrik (2017). For Whose Benefit? The Biological and Cultural Evolution of Human Cooperation. Springer. ISBN 978-3-319-50873-3. 109. Lööf, H., A. Heshmati, R. Asplund and S.O. Naas (2001), Innovation and performance in manufacturing industries: a comparison of the Nordic countries, SSE/EFI working paper series in economics and finance no. 457, pp. 38 110. Luo, D., Wu, Z., Zhuo, J. and He, J. (2022), “Market misvaluation and corporate innovation: ―Catering‖ or ―risk aversion‖?—Empirical evidence from China capital market”, China Journal of Accounting Research, Volume 15, Issue 3, September 2022, 100249. 111. Mairesse, J., and P. Mohnen (2001), To be or not to be innovative: An exercise in measurement, Cambridge, MA: NBER, Working paper 8644, pp. 35. 112. Malysheva, T.V., Shinkevich, A.I., Kharisova, G.M., Nuretdinova, Y.V., Khasyanov, O.R., Nuretdinov, I.G., Zaitseva, N.A., Kudryavtseva, S.S. (2016), The sustainable development of competitive enterprises through the implementation of innovative development strategy. International Journal of Economics and Financial Issues, 6(1), 185-191 113. Manget, J., Roche, C., Münnich, F. (2009), "Capturing the green advantage for consumer companies". The Boston Consulting Group, vol. 13. 114. Manual, Oslo (2005), Guidelines for Collecting and Interpreting Innovation Data, Paris: OECD / Eurostat. 115. McAdam, R., McConvery, T., & Armstrong, G. (2004). “Barriers to 188 innovation within small firms in a peripheral location”. International Journal of Entrepreneurial Behaviour & Research, 10(3), 206e221. 116. Meshalkin, V.P., Dli, M.I., Mikhailov, S.A. (2011), Strategic Management of Energy Saving in the Industrial Regions, the Basics of Methodology Methodology and Practical Results. Moscow: Science - to Production and Entrepreneurship. p201. 117. Morales, Maria F. (2003). Financial intermediation in a model of growth through creative destruction. Macroeconomic Dynamics 7, 363-393 118. Mytelka & Farinelli, (2000). “Local Clusters, Innovation Systems and Sustained Competitiveness”. Discussion Papers, 1 -35. 119. Neely, Andy, and Jasper Hii (1998), “Innovation and Business Performance: A Literature Review”. The Judge Insitute of Management Studies, University of Cambridge, p.0-65 120. Ngo, L. V., and Aron O'Cass (2009), "Creating value offerings via operant resource-based capabilities", Industrial Marketing Management, vol. 38(1), pp. 45-59. 121. Nielsen, B.B., Raswant, A. (2018). The selection, use, and reporting of control variables in international business research: A review and recommendations. Journal of World Business, Volume 53, Issue 6, December 2018, Pages 958-968. 122. Nijsen, A., Hudson, J., Müller, C., Paridon, K. and Thurik, R.(2009) “Business Regulation and Public Policy”, SBN: 978-0-387-77678-1 123. Nord, W. and Tucker, S.(1987), “Implementing Routine and Radical Innovations‖, Lexington Books, Lexington, MA. 124. North, Douglass C. (1991). "Institutions". Journal of Economic Perspectives. 5 (1): 97–112. doi:10.1257/jep.5.1.97. ISSN 0895-3309. 125. OECD (2008). Open Innovation in Global Networks. Organization for Economic Co-operation and Development. 126. O'Sullivan, Arthur; Sheffrin, Steven M. (2003). Economics: Principles in Action. Upper Saddle River, NJ: Pearson Prentice Hall. p. 474. ISBN 978-0-13- 063085-8. 189 127. Parchomovsky, G. and Stein,.A (2008). “Torts and innovation”, the Social Science Research Network Electronic, pp.285-316 128. Parida V., Westerberg M. and Frishammar J. (2012). Inbound Open Innovation Activities in High-Tech SMEs: The Impact on Innovation Performance, Journal of Small Business Management, 50 (2), pp. 283-309 129. Phan Thị Thục Anh (2014), “Characteristics of Innovation in Vietnamese Firms: An Exploratory Research”. Journal of Economics and Development, 16(3), tr.82 -95. 130. Phuangrod, K., Lerkiatbundit, S. & Aujiraponpan, S. (2017), “Factor affecting innovativeness of small and medium enterprises in the five southern border provinces”, Kasetsart Journal of Social Sciences 38 (2017) 204e211. 131. Phùng Minh Thu Thủy (2020), “Knowledge source as determinants of firm level innovation in Vietnam: An Empirical Study”, luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc gia Hà Nội 132. Plessis, M.D (2007), “The role of knowledge management in innovation”, Journal of Knowledge Management, tập 11, số 4, tr.20-9 133. Porter, M. E. (2008). On Competition. Boston: Harvard Business School Publishing Corporation. 134. Quadrio Curzio, A., Fortis, M., Zoboli, R. (1994), “Innovation, Resources and Economic Growth”. ISBN: 978-3-642-78855-0 135. Quevedo, G., Blasco, A,. and Teruel, M. (2017). “Financial constraints and the failure of innovation projects. Technological Forecasting and Social Change‖, Technological Forecasting and Social Change, Volume 127, February 2018, Pages 127-140 136. Quintane, E., Mitch Casselman, R., Sebastian Reiche, B. & Petra Nylund (2011), “Innovation as a knowledge – based outcome‖, Journal of Knowledge Managemen, pp.1-36 137. Richard R. Nelson (1993), “National Innovation System: A comparative Analysis - New York” , Oxford University Press, USA, Apr 11, 1993 138. Roberts, E.B. & Berry, C.A., 1985. “Entering New Businesses: Selecting 190 Strategies for Success”. Sloan Management Review, 26, pp.3–17. 139. Robertson, T.(1967), “The process of Innovation and The Diffusion of Innovation”, The Journal of marketing, Tập 31, số 1, tr.14-19 140. Rogers, E.M (2003), “Diffusion of Innovation‖ (5th ed), New York, NY 10020: The Free Press. 141. Romer, P. M. (1990a), “Endogenous Technological Change”, Journal of Political Economy 98, pp.71–102 142. Romijn, H., and Albaladejo, M. (2002), "Determinants of innovation capability in small electronics and software firms in southeast England", Research Policy, vol. 31(7), pp. 1053-1067. 143. Rosenbusch, N., Brinckmann, J., & Bausch, A. (2011). Is innovation always beneficial? A meta‐ analysis of the relationship between innovation and performance in SMEs. Journal of Business Venturing, 26(4), 441–457. https://doi.org/10.1016/j.jbusvent.2009.12.002 144. Sala, S., McLaren, S. J., Notarnicola, B., Saouter, E., U. Sonesson (2017), "In quest of reducing the environmental impacts of food production and consumption", Journal of Cleaner Production, vol. 140, pp. 387-398. 145. Schulze, Anja and Martin Hoegl (2008), "Organizational knowledge creation and the generation of new product ideas: A behavioral approach", Research Policy, vol. 37 (10), pp. 1742-1750. 146. Schumpeter J.A (1934), “The theory of Economic Development: An Inquyry into Profit, Capital, Credit, Interest and the Business Cycle”, Harvard University Press, Cambridge, MA. 147. Schumpeter, J.A. (1942). “Capitalism, Socialism and Democracy”. New York: Harper and Brothers, Vol. 36, pp.132-145. 148. Shinkevich, A.I., Lubnina, A.A., Galimulina, F.F. (2013), On the Modeling of Economic Activities in the Context of Sustainable Development of Innovative High-Tech Mezzo-Economic Systems. Kazan: Publishing House KNRTU. p300. 149. Sivak, R., Caplanova, A., Hudson, J., & Hudson, C. (2012). “An Analysis of Firm Credit Across the World‖. Global Conference on Business & Finance 191 Proceedings, 7(1), 24-38 150. Smith, Ken G.; Ferrier, Walter J.; Ndofor, Hermann (2017-11-26), Hitt, Michael A.; Freeman, R. Edward; Harrison, Jeffrey S. (eds.), "Competitive Dynamics Research: Critique and Future Directions", The Blackwell Handbook of Strategic Management, Oxford, UK: Blackwell Publishing Ltd, pp. 309–354, doi:10.1111/b.9780631218616.2006.00012.x, ISBN 978-1-4051-6402-3, retrieved 2022-09-11. 151. Surroca, J., Tribo, J., & Waddock, S. (2010). Corporate responsibility and financial performance: the role of intangible resources. Strategic Man- agement Journal, 31, 463–490. 152. Teece, D., (1986). Profiting from technological innovation: implications for integration, collaboration, licensing, and public policy. Research Policy, pp.285–305. 153. Terziovski, Milé (2010), “Innovation practice and its performance implication in small and medium enterprises in the manufacturing sector: A resource-based view”, Strategic management journal 31, vol 8, pp.892-902 154. The Balance (2017). Beyond Hiring and Firing: What is HR Management?". The Balance. Retrieved 22 June 2017. 155. The University of Sydney (2018), "What is policy". sydney.edu.au. Retrieved 15 April 2018. 156. Tidd, J. and J Bessant (2013). “Managing innovation Integrating technological, market and organizational change”. Chichester, John Wiley and Sons. 157. Triguero, Á., Córcoles, D. (2013), “Understanding innovation: An analysis of persistence for Spanish manufacturing firms”. Research Policy, 42(2), 340 352 158. Tseng, C. (2014). “Technological innovation capability, knowledge sourcing and collaborative innovation in Gulf Cooperation Council countries”. Innovation: Management, Policy & Practice,16 (2), 212-223. 159. Uzawa, H. (1965). “Optimum Technical Change in a Aggregative Model of Economic Growth”. International Economic Review, 6, 18-31. 192 160. Van De Vrande V., De Jong J.P.J., Vanhaverbeke W. and De Rochemont M. (2009). Open innovation in SMEs: Trends, motives and management challenges, Technovation, 29 (6/7), pp. 423-437. 161. Vuttiwong, P. (2009). “The impact from the perspective of learning resources and organizational capabilities in innovation of enterprises listed on the stock exchange of Thailand (Unpublished doctoral dissertation)‖. National Institute of Development Administration, Bangkok 162. Wan, David, Ong, Chin H., and Francis Lee (2005), Determinants of firm innovation in Singapore, Technovation 25, pp. 261-268. 163. West, MA and Anderson, N.R.(1996), “Innovation in top management teams”, Journal of applied Psychology, tập 81, tr.680-93 164. Wolfe, D. A., & Gertler, M. S. (2004), “Local social knowledge management: Community actors, institutions and multilevel governance in regional foresight exercises”. Futures, 36, 45-65 165. Xie, X., Zeng, S., Peng, S. & Tam, S. (2013). “What affects the innovation performance of small and medium-sized enterprises in China?‖, Innovation: Management, Policy & Practice, 15:3, 271-286 166. Yang, Fang, Cheng, Yuanyuan, and Xin Yao (2019), "Influencing factors of energy technical innovation in China: Evidence from fossil energy and renewable energy", Journal of Cleaner Production, vol. 232, pp. 57-66. 167. Yang, G., Wang, F., Huang, X. and Chen, H. (2022), “Human capital inflow, firm innovation and patent mix”, Journal of Asian Economics, Volume 79, April 2022, 101439. 168. Zaltman, F.E, Ducan, RB and Holbek, J. (1973), “Innovation and Organizations”, John Wiley & Sons, New York, NY. 169. Zeng, S. and Zhou, Y. (2021), “Foreign direct investment‘s impact on china‘s economic growth, technological innovation and pollution‖, International Journal of Environmental Research and Public Health, 18(6), pp. 1–25. 193 Kính thưa Quý vị ! Tôi tên là Bùi Thị Phương Hồng - Giảng viên Khoa Kinh tế Trường Đại học Kỹ thuật Công Nghiệp - Đại học Thái Nguyên. Tôi đang thực hiện luận án tiến sĩ “Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”. Kính mong Quý vị bớt chút thời gian, giúp tôi hoàn thành bảng điều tra sơ cấp này. Tôi cam đoan rằng, danh tính của quý vị sẽ được giữ kín, kết quả điều tra sẽ được bảo mật và chỉ phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn ! I. THÔNG TIN CHUNG VỀ NGƢỜI ĐƢỢC ĐIỀU TRA 1. Tên người được điều tra:........................................................................................... 2. Tuổi:.......................................................................................................................... 3. Giới tính:................................................................................................................... 4. Trình độ học vấn:...................................................................................................... 5. Tình trạng hôn nhân:................................................................................................. 6. Chức vụ trong công ty:.............................................................................................. II. THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP ĐƢỢC ĐIỀU TRA 1. Tên doanh nghiệp:..................................................................................................... 2. Địa chỉ:...................................................................................................................... 3. Quy mô nguồn nhân lực 10 người 11 - 100 người 101 - 200 người > 200 người III. TÌNH HÌNH ĐỔI MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 4. Ông/bà cho biết loại hình đổi mới tại doanh nghiệp ông bà đã và đang thực hiện? (có thể chọn nhiều hơn 1 đáp án) Đổi mới sản phẩm Đổi mới quy trình sản xuất Đổi mới tổ chức 194 Đổi mới marketing 5. Ông/bà cho biết các khoản chi của doanh nghiệp dành cho hoạt động đổi mới? (có thể chọn nhiều hơn 1 đáp án) Chi hoạt động nghiên cứu và phát triển trong DN Chi mua lại kết quả nghiên cứu và phát triển của DN, tổ chức khác Chi mua sắm công nghệ, máy móc trang thiết bị và phần mềm Mua tri thức/thương hiệu từ bên ngoài Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nhân lực về hoạt động đổi mới Hoạt động chi khác 6. Ông/bà cho biết các nguồn tài chính mà doanh nghiệp đã huy động để phục vụ hoạt động đổi mới? (có thể chọn nhiều hơn 1 đáp án) Vốn tự có Vay tín dụng Liên doanh Nhà nước hỗ trợ Nguồn khác 7. Ông/bà cho biết các chính sách hỗ trợ mà doanh nghiệp đã nhận được từ nhà nước khi thực hiện hoạt động đổi mới? (có thể chọn nhiều hơn 1 đáp án) Chính sách tín dụng Chính sách hỗ trợ đổi mới Tư vấn kỹ thuật Thực hiện các dự án Chính sách khác IV.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN Đề nghị Ông/Bà dùng mức độ sau đây để đánh giá thực trạng đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà Ông/ Bà cảm nhận được, Đánh dấu (x) vào cột điểm số mà Ông/ Bà lựa chọn theo các mức được đưa ra dưới đây: 195 Mức Mức đánh giá 5 Tốt 4 Khá 3 Trung bình 2 Yếu 1 Kém Mức độ đánh giá Các tiêu chí 1 2 3 4 5 I. Đổi mới sản phẩm (PI) Phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới Đổi mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu mã Đổi mới chất lượng sản phẩm Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính kỹ thuật Thay đổi nguyên vật liệu, cấu thành sản phẩm II. Đổi mới quy trình sản xuất (QI) Đổi mới phương thức sản xuất Áp dụng dây truyền công nghệ sản xuất mới Đổi mới trong bố trí và thiết kế sản xuất Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất Đổi mới trong hoạt động Logistics Đổi mới quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào trong sản xuất III. Đổi mới tổ chức (OI) Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp Đổi mới cơ cấu tổ chức công việc Đổi mới phương pháp quản trị nguồn nhân lực Đổi mới tổ chức bộ máy doanh nghiệp Đổi mới cơ cấu tổ chức trong hợp tác, liên kết doanh nghiệp IV. Đổi mới Marketing (MI) 196 Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân phối Đổi mới kênh truyền thông Đối mới giá bán sản phẩm Đổi mới chính sách, phương pháp bán hàng Đổi mới chiến lược Marketing V. NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN Đề nghị Ông/Bà dùng mức độ sau đây để đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà Ông/ Bà cảm nhận được, Đánh dấu (x) vào cột điểm số mà Ông/ Bà lựa chọn theo các mức được đưa ra dưới đây: Mức Mức đánh giá 5 Tốt 4 Khá 3 Trung bình 2 Yếu 1 Kém Các tiêu chí Mức độ đánh giá I. Cạnh tranh và thông tin thị trƣờng (CAMI) 1 2 3 4 5 Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh nghiệp 1 đang hoạt động 2 Hiểu biết về giá cả thị trường 3 Hiểu biết về nhu cầu thị trường 4 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Định vị, giá trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm, 5 doanh nghiệp 6 Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp 197 7 Áp lực môi trường bên ngoài II. Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp luật (IPLS) 1 2 3 4 5 1 Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo 2 Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Khả năng thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công 3 bằng 4 Tính công khai, minh bạch 5 Sự hiệu quả của bộ máy hành chính Chính sách tài chính công và quy định của nhà nước liên 6 quan tới vấn đề môi trường III. Cơ sở hạ tầng (INFS) 1 2 3 4 5 1 Hạ tầng giao thông 2 Hạ tầng công nghệ thông tin 3 Hạ tầng tài chính 4 Hạ tầng khoa học công nghệ 5 Hạ tầng văn hóa xã hội IV. Liên kết và hợp tác (ENHC) 1 2 3 4 5 Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ đổi mới 1 của Nhà nước 2 Liên kết hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu 3 Liên kết hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia 4 Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính 5 Liên kết với nhà cung ứng 6 Liên kết với các cá nhân V. Nhà quản trị và chất lƣợng nguồn nhân lực (EAHQ) 1 2 3 4 5 1 Quản trị tri thức trong doanh nghiệp 2 Trình độ và kinh nghiệm của người quản lý 3 Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân viên 4 Tinh thần dám đổi mới của Nhà quản trị và coi trọng 198 việc phát triển đổi mới 5 Chia sẻ tri thức và ý tưởng mới 6 Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp 7 Kỹ năng quản lý của nhà quản trị 8 Trao quyền trong việc ra quyết định 9 Chấp nhận rủi ro VI. Năng lực tài chính của doanh nghiệp (FCOE) 1 2 3 4 5 Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của doanh 1 nghiệp 2 Tình hình tài chính của doanh nghiệp 3 Năng lực quản lý tài chính 4 Nguồn vốn chủ sở hữu 5 Khả năng vay vốn 6 Khả năng quay vòng vốn VI. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI TẠI DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Xin cảm ơn! 199 PHỤ LỤC 1A Bảng tóm tắt kết quả phỏng vấn chuyên gia về thang đo hoạt động đổi mới Đồng ý Đổi mới sản
phẩm Phát triển các dòng sản phẩm, thương hiệu mới; Đổi
mới thiết kế sản phẩm, bảo bì, mẫu mã; Đổi mới chất
lượng sản phẩm; Đổi mới tính năng, đặc điểm, đặc tính
kỹ thuật; Thay đổi nguyên vật liệu, cấu thành sản phẩm OECD (2005); Amara và cộng sự (2009); Thái Hà (2009); Chang và cộng
sự (2011); Polder và cộng sự (2010); Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013);
Gunday và cộng sự (2011); Nord và Tucker (1987); Hồ Ngọc Luật (2019);
Gunday và cộng sự (2011); Cormican và O‟Sullivan (2004); Phùng Xuân
Nhạ và Lê Quân (2013); Arrow (1962); Clausen và cộng sự (2013); Mai
Lê Thúy Vân và cộng sự (2018); Hồ Ngọc Luật (2019); Hồ Ngọc Luật
(2019); Arranz và cộng sự (2019); Sala và cộng sự (2017); Manget và
cộng sự (2009); Hagedoorn và cộng sự (2006) Đồng ý Đổi mới quy
trình OECD (2005); Phùng Xuân Nhạ và cộng sự (2013); Trần Quang Tiến
(2018); Thái Hà (2009); Amara và cộng sự (2009); Abdallah và Phan
(2007); Trần Quang Tiến (2018); Tidd và Bessant (2013); Trần Quang Tiến
(2018); Mai Lê Thúy Vân và cộng sự (2018); Hồ Ngọc Luật (2019) Đổi mới tổ chức Đồng ý OECD (2005); Amara và cộng sự (2009); Trần Quang Tiến (2018); Phùng
Xuân Nhạ và cộng sự (2013); Nguyễn Vân Hà (2020); Roberts và Berry
(1985); Đỗ Văn Hải (2005); Bộ khoa học công nghệ Việt Nam (2018) Đồng ý Đổi mới
Marketing OECD (2005); Thái Hà (2009); Nguyễn Vân Hà (2020); Trần Quang
Tiến (2018); Bộ khoa học công nghệ Việt Nam (2018); Nguyễn Quốc
Duy (2015) Đổi mới phương thức sản xuất, Áp dụng dây truyền
công nghệ sản xuất mới; Đổi mới trong bố trí và thiết
kế sản xuất; Áp dụng hệ thống thông tin hiện đại vào
sản xuất; Đổi mới trong hoạt động Logistics; Đổi mới
quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào trong sản xuất
Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức doanh nghiệp;
Đổi mới cơ cấu tổ chức công việc; Đổi mới phương
pháp quản trị nguồn nhân lực; Đổi mới tổ chức bộ máy
doanh nghiệp; Đổi mới cơ cấu tổ chức trong hợp tác,
liên kết doanh nghiệp
Đổi mới kênh, chính sách, phương pháp phân phối; Đổi
mới kênh truyền thông; đổi mới giá bán sản phẩm; Đổi
mới chính sách, phương pháp bán hàng; Đổi mới chiến
lược Marketing (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 200 PHỤ LỤC 1B Bảng tóm tắt kết quả phỏng vấn chuyên gia về thang đo các yếu tố ảnh hƣởng Đồng ý Cạnh tranh và
thông tin thị
trường Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực mà doanh
nghiệp đang hoạt động; Hiểu biết về giá cả thị
trường; Hiểu biết về Nhu cầu thị trường; Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp; Định vị, giá
trị, chất lượng và uy tín của sản phẩm, doanh
nghiệp; Chiến lược cạnh tranh của doanh
nghiệp; Áp lực môi trường bên ngoài Cạnh tranh và
thông tin thị
trường ảnh hưởng
tích cực tới hoạt
động đổi mới của
doanh nghiệp công
nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên Đồng ý Thể chế, chính
sách và hệ
thống pháp luật Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo; Chính
sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; Khả năng
thực thi hệ thống pháp luật hiệu quả và công
bằng; Tính công khai, minh bạch; Sự hiệu quả
của bộ máy hành chính; Chính sách tài chính
công và quy định của nhà nước liên quan tới
vấn đề môi trường Thể chế, chính
sách và hệ thống
pháp luật ảnh
hưởng tích cực tới
hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp
công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Thái
Nguyên Cơ sở hạ tầng Đồng ý Hạ tầng giao thông; Hạ tầng công nghệ thông
tin; Hạ tầng tài chính; Hạ tầng khoa học công
nghệ; Hạ tầng văn hóa xã hội Porter (2008); Arranz và cộng sự (2019); Bùi Nhật Lệ
Uyên (2019); Trần Thị Hồng Việt (2016); Acs và cộng sự
(1988); Dananpour và cộng sự (2006); Sala và cộng sự
(2017); Manget và cộng sự (2009); Aghion và cộng sự
(1999); Lee và cộng sự (2005); Aghion và cộng sự (2005);
Hussen và Çokgezen (2019); Geroski (1990); Cohen
(1990); Aghion (2005); Lý thuyết đổi mới của Schumpeter;
Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers; Lý thuyết đo
lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013)
Arranz và cộng sự (2019); Romijn và Albaladejo (2002);
Nguyễn Quốc Duy (2015); Yang và cộng sự (2019);
Hussen và Çokgezen (2019); Bùi Nhật Lệ Uyên (2018);
Sivak và cộng sự (2011); Parchomovsky và Stein (2008);
Sala và cộng sự (2017); Nijsen và cộng sự (2009); Anokhin
và Schulze (2009); Romijn (2002); Buddelmeyer và cộng
sự (2006); Baumol (1990); Rosenbusch và cộng sự (2011);
Vũ Anh Dũng và cộng sự (2018); Aghion và cộng sự
(2009); Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers; Lý
thuyết đổi mới của Teece; Lý thuyết đo lường đổi mới của
Edison, Ali và Torkar (2013)
Sivak, Caplanova và Hudson (2012); Djoumessi và cộng sự
(2019); Gallego và cộng sự (2011); Guinet (1999); OECD
(2008); Ayyagari và cộng sự (2005); Nguyễn Quốc Duy
(2015); Canepa và cộng sự (2008); Hussen và Çokgezen Cơ sở hạ tầng ảnh
hưởng tích cực tới
hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp
công nghiệp trên 201 Đồng ý Liên kết và hợp
tác Liên kết với các tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ
đổi mới của Nhà nước; Liên kết hợp tác với
trường đại học và viện nghiên cứu; Liên kết
hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia;
Liên kết hợp tác với tổ chức tài chính; Liên kết
với nhà cung ứng; Liên kết với các cá nhân (2019); Irina và cộng sự (2019); Damanpour (1991);
Phuangrod và cộng sự (2017)
Romijn và Albaladejo (2002); Nguyễn Quốc Duy (2015);
Trần Thị Hồng Việt (2016); Wolfe và cộng sự (2004);
Phuangrod và cộng sự (2017); Ayyagari và cộng sự (2005);
Nguyễn Đình Bình và cộng sự (2015); Arranz và cộng sự
(2019); Hagedoorn (2006); Lý thuyết đo lường đổi mới của
Edison, Ali và Torkar (2013) địa bàn tỉnh Thái
Nguyên
Liên kết và hợp tác
ảnh hưởng tích cực
tới hoạt động đổi
mới của doanh
nghiệp công
nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên Đồng ý Nhà quản trị
doanh nghiệp
và chất lượng
nguồn nhân lực Nhà quản trị và
chất lượng nguồn
nhân lực ảnh
hưởng tích cực tới
hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp
công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Thái
Nguyên Quản trị tri thức trong doanh nghiệp; Trình độ
và kinh nghiệm của người quản lý; Trình độ và
năng lực của đội ngũ nhân viên; Tinh thần dám
đổi mới của Nhà quản trị và coi trọng việc
phát triển đổi mới; Chia sẻ tri thức và ý tưởng
mới; Động cơ đổi mới sáng tạo của chủ doanh
nghiệp; Kỹ năng quản lý của nhà quản trị;
Trao quyền cho việc ra quyết định; Chấp nhận
rủi ro Đồng ý Năng lực tài
chính doanh
nghiệp Mức chi cho hoạt động R&D và đào tạo của
doanh nghiệp; Tình hình tài chính của doanh
nghiệp; Năng lực quản lý tài chính; Nguồn vốn
chủ sở hữu; Khả năng vay vốn; Khả năng quay
vòng vốn Năng lực tài chính
của doanh nghiệp
ảnh hưởng tích cực
tới hoạt động đổi
mới của doanh
nghiệp công
nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên Đỗ Văn Hải (2015); Darroch (2005); Kirca và cộng sự
(2005); Romijn và Albaladejo (2002); Wan và cộng sự
(2005); Becheikh (2006); Sala và cộng sự (2017); Nguyễn
Thanh Cường (2014); Ayyagari và cộng sự (2005); Ngo và
O‟Cass (2009); Arranz và cộng sự (2019); Drucker (1998);
Phuangrod và cộng sự (2017); Hagedoorn (2006); Hult
(2004); Aurjiraponpan và cộng sự (2011); Vuttiwong
(2009); Lý thuyết đổi mới nội sinh; Lý thuyết khuếch tán
đổi mới của Rogers; Lý thuyết đo lường đổi mới của
Edison, Ali và Torkar (2013)
Bygrave (1992); Kaufmann và Todtling (2002);
Schumpeter (1934); King và Levine (1993a); Morales
(2003); Xie và cộng sự (2013); Romijn và Albaladejo
(2002); Arranz và cộng sự (2019); Van (2009); Hussen và
Çokgezen (2019); Kaufmann (2002); Hồ Ngọc Luật và
Phạm Thế Dũng (2018); Quevedo và cộng sự (2017);
Bartlett và Ghoshal (1989); Ghoshal và Moran (1996); Bùi
Nhật Lệ Uyên (2018); Canepa và Stoneman (2008);
Morales và cộng sự (2003); Morales và cộng sự (2003); Lý
thuyết đổi mới nội sinh; Lý thuyết đổi mới của Teece; Lý
thuyết đo lường đổi mới của Edison, Ali và Torkar (2013) (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 202 PHỤ LỤC 2 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
5 0.943 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa 14.3910
14.1278
14.0977
14.1015
15.6278 9.635
8.497
8.715
8.197
9.480 0.765
0.880
0.898
0.934
0.753 0.943
0.923
0.919
0.912
0.945 PI1
PI3
PI5
PI2
PI4 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
5 0.952 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa 13.5414
12.4135
13.8383
12.6880
13.2030 10.876
10.372
9.049
10.623
10.615 0.851
0.964
0.907
0.828
0.826 0.944
0.926
0.938
0.947
0.947 QI2
QI1
QI4
QI3
QI5 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
4 0.892 203 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa 6.186
6.826
8.508
7.063 0.893
0.923
0.550
0.720 0.809
0.804
0.931
0.879 8.2180
9.6165
8.4173
9.7932 OI4
OI1
OI3
OI2 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
4 0.882 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa 3.186
2.896
3.667
3.302 0.760
0.822
0.785
0.658 0.843
0.818
0.847
0.885 9.9173
9.2782
9.0902
8.9887 MI2
MI1
MI4
MI3 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
5 0.974 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình
nếu chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa 16.4436
16.2444
16.5414
16.5714
16.2895 11.018
10.744
11.427
11.619
11.512 0.945
0.922
0.943
0.929
0.899 0.965
0.970
0.966
0.968
0.972 CAMI4
CAMI5
CAMI1
CAMI3
CAMI2 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
5 0.963 204 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa IPLS4
IPLS5
IPLS1
IPLS2
IPLS3 9.8985
10.6316
10.5714
10.5977
10.6015 5.910
5.351
5.718
5.555
5.531 0.700
0.939
0.928
0.950
0.948 0.987
0.946
0.943
0.945
0.945 Số chỉ báo
4 0.867 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa INFS3
INFS2
INFS4
INFS1 7.8459
7.9511
8.0639
8.1241 7.754
6.598
5.539
5.573 0.444
0.752
0.867
0.844 0.927
0.819
0.763
0.774 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
5 0.968 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình
nếu chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa ENHC1
ENHC2
ENHC3
ENHC4
ENHC5 12.5263
11.9060
11.9586
12.0226
12.5038 13.526
12.153
12.395
13.056
13.753 0.882
0.977
0.920
0.901
0.879 0.965
0.950
0.960
0.962
0.966 205 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
6 0.946 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình
nếu chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa EAHQ4
EAHQ2
EAHQ6
EAHQ1
EAHQ3
EAHQ5 14.3496
14.3647
14.3722
13.9323
13.8797
14.2895 19.760
19.878
17.269
18.743
18.468
15.580 0.807
0.706
0.885
0.889
0.904
0.899 0.940
0.949
0.929
0.930
0.928
0.933 Hệ số Cronbach's Alpha Số chỉ báo
4 0.594 Chỉ báo Tỷ lệ trung bình nếu
chỉ báo bị xóa Quy mô phương sai
nếu chỉ báo bị xóa Chỉ báo đã hiệu
chỉnh - Tổng
tương quan Hệ số Cronbach‟s
Alpha nếu chỉ báo
bị xóa FCOE3
FCOE2
FCOE4
FCOE1 8.7707
7.7068
7.8609
8.3684 0.446
0.355
0.385
0.394 0.464
0.548
0.538
0.524 1.226
1.778
1.803
1.222 206 PHỤ LỤC 3 Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. 0.638 Approx. Chi-Square 16677.193 Bartlett's Test of
Sphericity df 406 Sig. 0.000 1 2 5 6 Component
4
3 EAHQ4 0.862 EAHQ1 0.845 EAHQ3 0.836 EAHQ6 0.746 EAHQ5 0.740 EAHQ2 0.683 CAMI1 0.917 CAMI3 0.868 CAMI4 0.851 CAMI5 0.843 CAMI2 0.742 IPLS1 0.879 IPLS3 0.867 IPLS2 0.865 IPLS5 0.859 IPLS4 0.854 ENHC2 0.984 ENHC3 0.946 ENHC4 0.929 ENHC1 0.928 ENHC5 0.925 INFS4 0.849 INFS1 0.842 INFS2 0.769 INFS3 0.668 207 FCOE4 0.715 FCOE2 0.634 FCOE3 0.567 FCOE1 0.504 Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 7 iterations. 208 Initial Eigenvalues Rotation Sums of Squared Loadings Component Extraction Sums of Squared Loadings
Total % of Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative % Total % of Variance Cumulative % 38.853 11.267 38.853 38.853 5.160 17.794 17.794 1 11.267 38.853 54.395 4.507 15.542 54.395 5.008 17.267 35.061 2 4.507 15.542 66.617 3.544 12.222 66.617 4.989 17.203 52.264 3 3.544 12.222 73.632 2.034 7.015 73.632 4.478 15.442 67.706 4 2.034 7.015 79.970 1.838 6.339 79.970 2.975 10.260 77.966 5 1.838 6.339 84.865 1.419 4.894 84.865 2.001 6.899 84.865 6 1.419 4.894 7 0.971 3.349 88.214 8 0.708 2.443 90.657 9 0.666 2.296 92.953 10 0.458 1.579 94.532 11 0.418 1.442 95.974 12 0.331 1.143 97.117 13 0.210 0.724 97.840 14 0.145 0.501 98.341 15 0.112 0.388 98.729 16 0.073 0.251 98.980 17 0.069 0.237 99.217 18 0.066 0.227 99.444 19 0.040 0.138 99.583 209 20 0.030 0.103 99.685 21 0.026 0.091 99.776 22 0.019 0.065 99.841 23 0.017 0.058 99.900 24 0.013 0.044 99.944 25 0.011 0.039 99.982 26 0.002 0.008 99.990 27 0.002 0.007 99.997 28 0.000 0.002 99.999 29 0.000 0.001 100.000 Extraction Method: Principal Component Analysis. 210 211 Model Validity Measures 0.599*** 0.943 0.575*** 0.619*** 0.929 -0.044 -0.008 0.005 0.467*** 0.262*** 0.135* -0.091 0.807 0.567*** 0.556*** 0.464*** -0.074 0.468*** 0.530 212 Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. 0.643 Approx. Chi-Square 9294.741 Bartlett's Test of
Sphericity df 153 Sig. 0.000 Component PI QI MI OI PI1 0.855 PI5 0.853 PI3 0.843 PI2 0.821 PI4 0.732 QI1 0.841 QI3 0.823 QI4 0.767 QI5 0.692 QI2 0.660 MI1 0.943 MI4 0.845 MI2 0.753 MI3 0.683 OI1 0.843 OI3 0.817 OI4 0.790 OI2 0.591 Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations. 213 Component Initial Eigenvalues
Total % of Variance Cumulative % Extraction Sums of Squared Loadings
Total % of Variance Cumulative % Rotation Sums of Squared Loadings
Total % of Variance Cumulative % 9.958 55.324 55.324 4.600 25.558 25.558 9.958 55.324 55.324 1 2.413 13.406 68.730 4.236 23.535 49.093 2.413 13.406 68.730 2 1.924 10.689 79.418 3.408 18.933 68.026 1.924 10.689 79.418 3 1.250 6.947 86.365 3.301 18.339 86.365 1.250 6.947 86.365 4 0.730 4.057 90.421 5 0.568 3.155 93.577 6 0.375 2.086 95.662 7 0.250 1.390 97.052 8 0.155 0.860 97.913 9 0.113 0.629 98.542 10 0.076 0.420 98.961 11 0.066 0.368 99.329 12 0.046 0.254 99.584 13 0.034 0.192 99.775 14 0.029 0.163 99.938 15 0.007 0.039 99.978 16 0.003 0.015 99.993 17 0.001 0.007 100.000 18 Extraction Method: Principal Component Analysis. 214 215 CR AVE MSV MaxR(H) Model Validity Measures 0.642*** 0.906 0.446*** 0.385*** 0.823 0.598*** 0.745*** 0.299*** 0.843 216TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Chƣơng 4
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỔI
MỚI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI NGUYÊN
4.1. Khái quát về đổi mới tại các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh
STT
Phân theo ngành nghề
Năm
2016
Năm
2017
Năm
2018
Năm
2019
Năm
2020
22
Tổng
669
422
794
807
576
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2020)
STT
Phân theo ngành nghề
Số
lƣợng
DN
Số lao
động
(ngƣời)
Vốn
SXKD (tỷ
đồng)
Doanh
thu thuần
SXKD (tỷ
đồng)
22
Tổng
807
150.922
399.965,0
793.039,7
Các chỉ báo
Hệ số tải nhân tố CR AVE MSV MaxR(H)
Likert 5 mức độ
Đổi mới sản phẩm (PI)
Likert 5 mức độ
PI1
PI5
PI3
PI2
PI4
Đổi mới quy trình sản xuất
(QI)
Đổi mới tổ chức (OI)
Likert 5 mức độ
Đổi mới Marketing (MI)
0,931
0,608
0,966
0,820
Likert 5 mức độ
0,938
0,906
0,766
0,651
(Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra của tác giả)
Sơ đồ 4.1: Phân tích CFA các thang đo đo lƣờng hoạt động đổi mới
của doanh nghiệp
Chỉ báo
Biến
nghiên cứu
Hệ số Cronbach's Alpha
của nhóm biến
Tƣơng quan
biến - tổng
0,765
0,880
0,898
0,934
0,753
0,851
0,964
0,907
0,828
0,826
0,893
0,923
0,550
0,720
0,760
0,822
0,785
0,658
Cronbach's Alpha
nếu loại biến
0,943
0,923
0,919
0,912
0,941
0,944
0,926
0,938
0,947
0,947
0,809
0,804
0,831
0,879
0,843
0,818
0,847
0,875
Các chỉ báo
CR AVE MSV MaxR(H)
Hệ số tải
nhân tố
Likert 5 mức độ
Cạnh tranh và thông tin thị trƣờng
(CAMI)
Likert 5 mức độ
CAMI1
CAMI3
CAMI4
CAMI5
CAMI2
Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp
luật (IPLS)
Cơ sở hạ tầng (INFS)
Likert 5 mức độ
Liên kết và hợp tác (ENHC)
Likert 5 mức độ
Likert 5 mức độ
ENHC2
ENHC3
ENHC4
ENHC1
ENHC5
Nhà quản trị và chất lƣợng nguồn nhân
lực (EAHQ)
Likert 5 mức độ
EAHQ4
EAHQ1
EAHQ3
EAHQ6
EAHQ5
EAHQ2
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
(FCOE)
Sơ đồ 4.2: Kết quả CFA thang đo các yếu tố ảnh hƣởng
Chỉ báo
Hệ số Cronbach's
Alpha của nhóm biến
Biến nghiên
cứu
Cạnh tranh
và thông tin
thị trƣờng
(CAMI)
Thể chế,
Chính sách và
hệ thống pháp
luật (IPLS)
Cơ sở hạ tầng
(INFS)
Liên kết và
hợp tác
(ENHC)
Nhà quản trị
và chất lƣợng
Tƣơng quan
biến - tổng
0,945
0,922
0,943
0,929
0,899
0,700
0,939
0,928
0,950
0,948
0,444
0,752
0,867
0,844
0,882
0,977
0,920
0,901
0,879
0,807
0,706
Cronbach's Alpha
nếu loại biến
0,965
0,970
0,966
0,968
0,972
0,987
0,946
0,943
0,945
0,945
0,927
0,819
0,763
0,774
0,965
0,950
0,960
0,962
0,966
0,940
0,949
nguồn nhân
lực (EAHQ)
Năng lực tài
chính của
doanh nghiệp
(FCOE)
Độ lệch chuẩn
Biến
độc lập
EAHQ
EAHQ
EAHQ
EAHQ
CAMI
CAMI
CAMI
CAMI
IPLS
IPLS
IPLS
IPLS
ENHC
ENHC
ENHC
ENHC
INFS
INFS
INFS
INFS
FCOE
FCOE
FCOE
FCOE
Biến
phụ thuộc
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
OI
MI
Hệ số
tác động
0,704
0,977
0,622
1,036
0,027
0,313
0,313
0,025
0,152
-0,027
0,305
0,315
0,019
0,026
0,073
-0,058
0,109
0,133
0,089
0,255
0,109
0,454
-0,364
0,283
Giá trị kiểm
định C,R,
10,371
15,233
6,642
10,635
7,341
9,397
4,711
0,404
3,681
-0,605
3,325
3,625
2,106
1,655
2,006
-1,675
6,284
7,127
5,448
7,376
2,779
3,252
-2,825
3,185
Mức ý
nghĩa
***
0,068
***
0,064
***
0,094
***
0,097
***
0,029
***
0,033
***
0,066
0,591
0,062
***
0,041
0,545
0,044
***
0,092
***
0,087
**
0,016
*
0,018
**
0,036
*
0,034
***
0,017
***
0,019
***
0,036
***
0,035
***
0,099
***
0,062
***
0,037
0,045
***
(Nguồn: Kết quả phân tích AMOS)
Độ lệch chuẩn
Biến
độc lập
EAHQ
EAHQ
EAHQ
EAHQ
CAMI
CAMI
CAMI
CAMI
IPLS
IPLS
IPLS
IPLS
ENHC
ENHC
ENHC
ENHC
INFS
INFS
INFS
INFS
FCOE
FCOE
FCOE
FCOE
quymo
quymo
quymo
quymo
Biến
phụ thuộc
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
MI
OI
PI
QI
OI
MI
PI
OI
MI
QI
Hệ số
tác động
0,704
0,978
0,606
1,035
0,027
0,311
0,295
0,026
0,152
-0,027
0,313
0,314
0,019
0,026
0,072
-0,058
0,109
0,133
0,091
0,255
0,108
0,453
-0,362
0,282
0,002
0,010
0,132
0,011
Giá trị kiểm
định C,R,
10,370
15,222
6,597
10,621
6,233
9,336
4,522
0,420
3,675
-0,620
3,476
3,610
5,217
6,475
2,009
-1,676
6,276
7,103
2,539
7,365
3,625
3,799
-3,135
3,565
4,085
3,217
2,843
3,619
Mức ý
nghĩa
***
0,068
***
0,064
***
0,092
***
0,097
***
0,029
***
0,033
***
0,065
0,674
0,062
***
0,041
0,535
0,044
***
0,090
***
0,087
***
0,016
***
0,018
**
0,036
*
0,034
***
0,017
***
0,019
**
0,036
***
0,035
***
0,097
***
0,062
***
0,037
***
0,046
***
0,021
***
0,045
***
0,046
0,018
***
(Nguồn: Kết quả phân tích AMOS)
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
Chƣơng 5
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
TIỂU KẾT CHƢƠNG 5
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHIẾU ĐIỀU TRA
Đo lƣờng hoạt động đổi mới
Kết quả thảo luận
Nghiên cứu gốc
Thang đo
Nhận định của
chuyên gia
Loại hình
đổi mới
Mô hình đề xuất
Kết quả thảo luận
Nghiên cứu gốc
Thang đo
Yếu tố ảnh
hưởng
Nhận định của
chuyên gia
Giả thuyết
nghiên cứu
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CRONBACH’S ALPHA
1, Đổi mới sản phẩm (PI)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
2, Đổi mới quy trình sản xuất (QI)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
3, Đổi mới tổ chức (OI)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
4, Đổi mới Marketing (MI)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
5, Cạnh tranh và thông tin thị trƣờng (CAMI)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
6, Thể chế, Chính sách và hệ thống pháp luật (IPLS)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
7, Cơ sở hạ tầng (INFS)
Hệ số Cronbach's Alpha
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
8, Liên kết và hợp tác (ENHC)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
9, Nhà quản trị và chất lƣợng nguồn nhân lực (EAHQ)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
10, Năng lực tài chính của doanh nghiệp (FCOE)
Chỉ tiêu – Tổng số thống kê
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH NHÂN TỐ EFA và CFA
1, Phân tích EFA và CFA biến độc lập
KMO and Bartlett's Test
Rotated Component Matrixa
Total Variance Explained
CR AVE MSV MaxR(H) EAHQ CAMI
IPLS ENHC INFS FCOE
EAHQ 0.945 0.743 0.358 0.983
0.862
CAMI 0.976 0.889 0.383 0.978
IPLS 0.969 0.862 0.383 0.988
ENHC 0.969 0.863 0.008 1.003
0.929
INFS 0.867 0.652 0.219 1.093
FCOE 0.605 0.581 0.522 0.621
2, Phân tích EFA và CFA biến phụ thuộc
KMO and Bartlett's Test
Rotated Component Matrixa
Total Variance Explained
PI
QI
MI OI
PI 0.931 0.734 0.412 0.991
0.857
QI 0.958 0.821 0.555 0.983
MI 0.892 0.678 0.199 0.934
OI 0.905 0.711 0.555 0.959