®¹i häc quèc gia hµ néi tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n *********** Lª thanh hång
C¸c yÕu tè kinh tÕ x· héi ¶nh h ëng ®Õn
chÊt l îng d©n sè ®« thÞ thµnh phè hµ néi luËn v¨n th¹c sü khoa häc x· héi häc
Hµ Néi - 2008
®¹i häc quèc gia hµ néi tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n khoa x· héi häc ******* Lª thanh hång
C¸c yÕu tè kinh tÕ x· héi ¶nh h ëng ®Õn
chÊt l îng d©n sè ®« thÞ thµnh phè hµ néi
luËn v¨n th¹c sü
chuyªn ngµnh: x· héi häc
m· sè: 60 31 30 gi¸o viªn h íng dÉn: tS. NguyÔn thÞ kim hoa
Hµ Néi - 2008
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
1.2. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 7
1.2.1. Ý nghĩa lý luận .............................................................................................. 7
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................... 7
1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 7
1.3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 7
1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 8
1.4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 8
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 8
1.4.2. Khách thể nghiên cứu ................................................................................... 8
1.4.3. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 8
1.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
1.5.1. Phương pháp chọn mẫu ................................................................................ 9
1.5.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi ....................................................... 11
1.5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân .......................................................... 11
1.5.4. Phương pháp quan sát .................................................................................. 11
1.5.5. Phương pháp phân tích tài liệu .................................................................... 11
1.6. Giả thuyết nghiên cứu ...................................................................................... 11
1.7. Sơ đồ tương quan giữa các biến số .................................................................. 12
1.8. Khung lý thuyết ............................................................................................... 13
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................... 14
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................. 14
2.1.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận .............................................................. 14
2.1.1.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng ...................................... 14
2.1.1.2. Lý thuyết xã hội học ................................................................................... 15
2.1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 19
2.1.2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài .............................................................. 19
2.1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .............................................................. 21
2.1.2.3. Một số văn bản pháp lý của Việt Nam liên quan đến chất lượng dân số .. 23
2.1.3. Các khái niệm công cụ ................................................................................. 24
2.1.3.1. Chất lượng dân số ..................................................................................... 24
2.1.3.2. Các thành phần của hệ chất lượng dân số ................................................ 28
Chương II. Kết quả nghiên cứu .......................................................................... 30
2.2.1. Một vài nét về địa bàn nghiên cứu ............................................................... 30
2.2.1.1. Vài nét về địa bàn Hà Nội ......................................................................... 30
2.2.1.2. Phường Hàng Gai, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội .......................................... 31
2.2.1.3. Phường Yên Hoà, Quận Thanh Xuân, Hà Nội .......................................... 33
2.2.2. Xây dựng bộ công cụ để đánh giá chất lượng dân số .................................. 36
2.2.2.1. Chỉ số BMI (Body Mass Index) (BMI của tổ chức Y tế Thế giới) .............. 36
2.2.2.2. Cách tính chỉ số chất lượng dân số (PQI) ................................................. 36
2.2.3. Tính toán chất lượng dân số (PQI) .............................................................. 41
2.2.3.1. Số liệu điều tra BMI .................................................................................. 41
2.2.3.2. Các giá trị từ T2 đến T9 ............................................................................ 42
2.2.3.3. Các giá trị Tmin và Tmax .............................................................................. 43
2.2.3.4. Xác định các chỉ thị đơn Ii dựa vào phương trình tương quan và giá trị PQI . 44
2.2.4. Các yếu tố kinh tế xã hội tác động đến chất lượng dân số ........................... 45
2.2.4.1.Thu nhập và phân bổ thu nhập……………………………………………..45
2.2.4.2. Lao động và việc làm ................................................................................ 50
2.2.4.3. Giao thông liên lạc .................................................................................... 54
2.2.4.4. Sức khoẻ ..................................................................................................... 63
2.2.4.5 Giáo dục ..................................................................................................... 69
2.2.4.6. Nhà ở ......................................................................................................... 74
2.2.4.7. Môi trường ................................................................................................. 79
2.2.4.8. Cuộc sống gia đình .................................................................................... 84
2.2.4.9. Sự tham gia công tác xã hội của phụ nữ ................................................... 88
2.2.4.10 An toàn công cộng ................................................................................... 89
2.2.4.11. Văn hoá và giải trí ................................................................................... 95
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ............................................ 102
3.1. Kết luận.................................................................................................... 102
3.2. Khuyến nghị ..............................................................................................107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1. Các đặc điểm nhân khẩu học xã hội của mẫu khảo sát ........................... 10
Bảng 2. Các chỉ thị và trọng số trong PQI theo đề tài của ủy ban quốc gia dân số và
kế hoạch hóa gia đình ........................................................................................... 36
Bảng 3. Số liệu điều tra BMI tại địa bàn nghiên cứu ............................................ 41
Bảng 4. Các giá trị từ T2 đến T9 của 2 phường .................................................... 42
Bảng 5: Các giá trị Tmin, Tmax ........................................................................... 43
Bảng 6: Các giá trị PQI của 2 phường .................................................................. 44
Bảng 7. Thu nhập của hộ gia đình ........................................................................ 46
Bảng 8. Thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình/tháng ............................................. 47
Bảng 9: Trình độ học vấn của những người trong độ tuổi lao động ..................... 51
Bảng 10: Mức độ quan tâm đối với thông tin của đài phát thanh phường ............ 59
Bảng 11: Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện thoại ............................................................ 60
Bảng 12: Việc học thêm của con cái ..................................................................... 72
Bảng13: Hiện trạng nhà ở của các phường ........................................................... 75
Bảng 14: Số thành viên trong gia đình ................................................................. 84
Bảng 15: Số thế hệ trong gia đình ......................................................................... 85
Bảng 16: Hoạt động giải trí cấp độ thường ngày .................................................. 96
Bảng 17: Hoạt động giải trí cấp độ kỳ dịp ............................................................ 99
DANH MỤC CÁC ẢNH
Ảnh 1: Chụp tại cuối đường ngã 3, đường Trung Kính, phường Yên Hòa ........... 56
Ảnh 2: Đoàn xe xích lô ........................................................................................... 57
Ảnh 3: Những con hẻm như thế này khá phổ biến ở phố cổ .................................. 77
Ảnh 4: Ngôi nhà cổ: Có thể sập bất cứ lúc nào vì đã không còn khả năng chống đỡ ....... 78
Ảnh 5: Cận cảnh nhà vệ sinh .................................................................................. 82
Ảnh 6: Cột mòn chống ọp ẹp .................................................................................. 82
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 1: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng internet ............................................................. 62
Biểu 2: Nơi khám và chữa bệnh ............................................................................. 64
Biểu 3: Tỷ lệ có máy vi tính nối mạng và có vào mạng ........................................ 97
Biểu 4: Tỷ lệ người dân đi lễ chùa ........................................................................ 100
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1994, Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển họp tại Cairô -
Aicập đã đề cập đến chất lượng dân số và được nhấn mạnh trong tuyên bố
Almaty của 40 đoàn nghị sỹ các nước Châu Á về dân số và phát triển họp tại
Cộng hòa Kadăcxtan vào tháng 9 năm 2004. Nhiều nước khu vực Châu Á như
Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaixia…..đã đưa mục tiêu nâng cao chất
lượng dân số vào các chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, thậm chí
được đưa vào Luật Dân số kế hoạch hóa gia đình hoặc đạo luật ở một số
nước. Đặc biệt, một số nước đã ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân
lực quốc gia nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nguồn lực lao động như
Hàn Quốc từ năm 1996 đã ban hành Chính sách mới chú trọng vào chất lượng
dân số và phúc lợi nhân dân. Năm 2001 ban hành Chiến lược và sau đó nâng
lên thành Luật phát triển nguồn nhân lực với chủ đề: Công dân xuất sắc- Xã
hội tin cậy. Từ cuối năm 2003, Trung Quốc thực thi chiến lược lấy nhân tài để
xây dựng đất nước hùng mạnh và coi đó là một nhiệm vụ trọng đại và cấp
bách của Đảng và Nhà nước. Năm 1992, Malayxia đã ban hành Đạo Luật phát
triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng lao động có tay
nghề, hiệu quả và kỷ luật, nhằm nâng cao năng suất, phát triển kinh tế bền
vững…
Ở Việt Nam, công tác dân số luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
coi đó là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong
những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của quốc gia, là một yếu tố cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã
hội. Mục tiêu nâng cao chất lượng dân số vì vậy được coi là “chính sách cơ
bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước” và đã xác định mục
1
tiêu: "Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần, đưa chỉ số
phát triển con người (HDI) lên mức tiên tiến của thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”1.
Do vậy, Việt Nam đã xác định mục tiêu “nâng cao chất lượng dân số về thể
chất, trí tuệ và tinh thần, phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hóa góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”2. Tại văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ nhiệm
vụ: “Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực
của thanh niên”.
Năm 2007, dân số Việt Nam là 85,2 triệu người, trong đó nữ chiếm 50,9%. Mật độ dân số 257 người/km2, dân số thành thị chiếm 27%3. Tuổi thọ trung bình 71,3 tuổi. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,18%4. Tuổi trung vị của dân
số tăng từ 20,2 tuổi năm 1990 lên 25,5 tuổi năm 2005. Tỷ lệ trẻ em dưới 15
tuổi giảm mạnh từ 39,2% năm 1989 xuống còn 27,3% năm 2006. Tỷ lệ người
trong độ tuổi lao động từ 15-59 tuổi tiếp tục tăng từ 53,7% năm 1989 lên
63,5% năm 2006; Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên tăng tương ứng từ 7,2% lên
9,2%, đang tiến tới ngưỡng cơ cấu dân số già.
Một số chỉ tiêu về sức khoẻ bà mẹ, trẻ em đạt kết quả khá tốt do những
nỗ lực trong chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 44,4% năm 1989 xuống
còn 16% năm 2006; Tỷ lệ trẻ em dới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm nhanh từ
51,5% năm 1990 xuống còn 25,2% năm 2005. Đến năm 2000, chiều cao trung
bình của người trưởng thành (25-49 tuổi) ở nam là 162,84 4,85 cm, ở nữ là 152,44 4,22 cm5.
Chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam tiếp tục tăng từ 0,539 điểm
1 Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 09/01/2003 về dân số 2 Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam 2001 - 2010. 3 Tổng cục Thống kê, Niêm giám thống kê 2006, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2007.
4 www.gso.gov.vn (Kết quả điều tra Biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2007). 5 Lê Gia Vinh, Kết quả nghiên cứu về hình thái và thể lực người trưởng thành Việt Nam.
2
xếp thứ 120/174 nước trên Thế giới năm 1995 lên 0,733 điểm xếp thứ
105/177 nước có số liệu để xếp hạng6. Dự báo chỉ số phát triển con người
Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu Chiến lược Dân số đề ra cho năm 2010 ở mức
tiên tiến thế giới (0,700-0,750 điểm).
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc nâng cao chất lượng dân
số, Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn thách thức: tỷ lệ suy dinh dưỡng còn
cao, chiều cao, cân nặng trung bình của thanh niên thấp, độ dẻo dai và sức
bền kém; trình độ kiến thức chung và kỹ năng làm việc chưa ngang tầm và
chưa hội nhập trình độ quốc tế; kỹ năng thực hành hạn chế, v,v… đã và đang
ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học - công nghệ mới,
gây khó khăn trong xây dựng nền kinh tế tri thức, tác động tiêu cực đến hiệu
quả hoạt động, đến năng suất lao động của mỗi người. Từ đó làm hạn chế đến
quá trình tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam
trên trường quốc tế.
Chỉ số phát triển con người của nước ta tuy từng bước được cải thiện
nhưng vẫn ở mức thấp, thấp hơn mức trung bình của Thế giới (0,743 điểm) và
mức trung bình của khu vực Châu Á-Thái bình dương (0,771 điểm, báo cáo
của UNDP ngày 27/11/2007).
Về thể lực: Trong 30 năm qua, mặc dù tầm vóc chiều cao thanh niên
Việt Nam 18 tuổi của nam và nữ đã được cải thiện (nam 163,7 cm, nữ 153 cm)7 nhưng so với chuẩn quốc tế, tầm vóc thanh niên 18 tuổi (nam 176,8 cm,
nữ 163,7 cm) thì tầm vóc của thanh niên Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều
(13,1 cm đối với nam và 10,7 cm đối với nữ). So với các nước trong khu vực,
tầm vóc trung bình của thanh niên Việt Nam cũng thua kém 6-7 cm so với
thanh niên Singapore, 2 cm so với thanh niên Thái Lan và 2-3 cm so với
thanh niên Quảng Tây - Trung Quốc.
Một số chỉ tiêu phản ánh về sức khoẻ bà mẹ, trẻ em còn ở mức thấp:
Năm 2005, tỷ suất tử vong mẹ còn ở mức 80/100.000 trẻ sinh ra sống, cao
hơn gấp 2 lần so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore,
6 www.vietbao.vn (Việt Nam tăng 4 bậc chỉ số phát triển con người). 7 Viện Dinh dưỡng quốc gia, Báo cáo năm 2000.
3
Malayxia; gấp 4 lần so với Hàn Quốc. Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi của cả
nước là 16‰ nhưng ở một số vùng như Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc
còn rất cao tới 22-30‰; Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ em dưới 5
tuổi giảm còn 25,2% trong khi ở một số vùng như Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên, Tây Bắc tỷ lệ này còn cao tới 30-35%.
Số lượng người tàn tật của nước ta khoảng 5,3 triệu người, chiếm gần
6,3% dân số, trong đó tỷ lệ tàn tật do nguyên nhân tai nạn giao thông, tai nạn
lao động và dị tật bẩm sinh cao hơn tỷ lệ tàn tật do chiến tranh để lại. Trong
số 1 triệu trẻ em tàn tật thì tàn tật do dị tật bẩm sinh, tai nạn thương tích
chiếm tỷ lệ cao, nhu cầu chăm sóc, phát hiện, điều trị sớm và phục hồi chức
năng đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước và toàn xã hội.
Tình trạng dịch bệnh, bệnh tật nhất là bệnh nhiễm khuẩn đường sinh
sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS là rất đáng lo
ngại. Tính đến ngày 31/12/2007 Việt Nam có 121.734 người bị nhiễm HIV
còn sống, 27.669 bệnh nhân AIDS còn sống và có 34.476 người đã chết do AIDS8. Trong số người bị nhiễm HIV có tới 55,3% là người trong độ tuổi 20-
29. Mặc dù tuổi thọ bình quân của nước ta khá cao 71,3 tuổi nhưng theo đánh
giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2002 thì tuổi thọ bình quân khỏe
mạnh của Việt Nam lại rất thấp, chỉ đạt 58,2 tuổi và xếp thứ 116/174 nước.
Về trí tuệ: Tỷ lệ dân số bị thiểu năng thể lực và trí tuệ chiếm tới 1,5%
dân số và tỷ lệ này hàng năm vẫn tiếp tục tăng thêm do số trẻ sinh ra bị dị tật
và các bệnh bẩm sinh chưa được kiểm soát.Vị thành niên, thanh niên Việt
Nam không chỉ thấp bé, nhẹ cân mà còn yếu cả về sức mạnh cơ bắp, sức dẻo
dai, sự bền bỉ; Quan hệ tình dục, nhất là tình trạng quan hệ tình dục trước hôn
nhân, tình trạng mang thai ngoài ý muốn và nạo, phá thai có xu hướng gia
tăng. Việc làm đang là mối quan tâm của vị thành niên, thanh niên do kiếm
được việc làm phù hợp không phải đơn giản; Sự lạm dụng và sử dụng chất
gây nghiện như thuốc lá, rượu bia có xu hướng gia tăng, có tới 69% vị thành
8 Tạp chí AIDS và cộng đồng số 4-2008.
4
niên, thanh niên đã từng uống rượu hoặc bia và 58% trong số đó đã từng say;
Những vấn đề căng thẳng về tâm lý bao gồm cả hiện tượng tự tử, tự gây
thương tích, vi phạm pháp luật ngày càng trở lên nghiêm trọng đối với giới
5
trẻ.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo mặc dù ngày càng tăng, từ 15,8% năm
2001 lên 24,8% năm 2005 nhưng vẫn còn thấp; Tỷ lệ lao động có bằng cấp công nhân kỹ thuật trở lên chỉ đạt 7,83%9, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Chính chất lượng dân số thấp đã cản trở khả năng tiếp thu
kiến thức khoa học và công nghệ, ảnh hưởng xấu đến việc nâng cao năng suất
và hiệu quả lao động và là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng
nghèo ở Việt Nam hiện nay.
Tỷ số giới tính khi sinh (số trẻ trai/100 trẻ gái) đã tăng nhanh từ 105
năm 1979 lên 110 năm 2006 và 112 năm 2007. Bên cạnh đó tình hình phụ nữ
di cư lấy chồng nước ngoài có xu hướng gia tăng ở một số địa phương, làm
trầm trọng hơn vấn đề mất cân bằng giới tính theo hướng thừa nam thiếu nữ
trong những năm tới.
Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên đã tăng từ 7,2% năm 1989 lên hơn 9,45%
năm 2007 và dự báo sẽ tăng lên 11,2% vào năm 2020, vượt ngưỡng của một
quốc gia có cơ cấu dân số già (10%). Vì vậy, trong bối cảnh quy mô gia đình
nhỏ, ít con và gia đình ít thế hệ ngày càng được chấp nhận, đòi hỏi phải triển
khai những mô hình chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi phù hợp.
Di dân từ nông thôn ra vùng đô thị và khu công nghiệp có xu hướng gia
tăng nhanh và diễn biến phức tạp nên gặp nhiều khó khăn trong quản lý người
di cư và tổ chức các dịch vụ xã hội cơ bản. Lao động ở các khu công nghiệp
và người di cư gặp rất nhiều khó khăn về nhà ở (70-80% ở nhà tạm). Bên
cạnh đó, các luồng di cư tự do đến một số vùng miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên đang gây nhiều khó khăn trong giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội
của các địa phương này. Các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình và giáo dục chưa đáp
ứng được yêu cầu do đó có ảnh hưởng không tốt đến chất lượng dân số Việt
9 www.gso.gov.vn (Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002)
6
Nam.
7
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, tình hình văn hóa, văn nghệ có
nhiều điều đáng lo ngại: lối sống chạy theo đồng tiền, những thị hiếu không
lành mạnh, những hủ tục, mê tín tăng nhanh; nhiều văn hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường truyền bá lối sống thực dụng, sa đọa, bạo lực phát triển10.
Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng
suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ11, cản trở dến việc xây dựng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách
tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội văn minh.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, chất lượng
nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
là nhu cầu cấp thiết và là yếu tố tiên quyết đảm bảo thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đáp ứng nhu cầu với những thời cơ,
thuận lợi và thách thức mới khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng trong
cộng đồng quốc tế, là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Ủy
viên thường trực không chính thức của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việc theo dõi chất lượng dân số rất quan trọng để phục vụ nâng cao
chất lượng dân số. Tại các đô thị như Thành phố Hà Nội là nơi mật độ dân số
cao. Mặc dù các dịch vụ y tế cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản thuận lợi
hơn rất nhiều so với các khu vực khác và dân số của Hà Nội cũng được đánh
giá là có mặt bằng về trí lực, thể lực và tinh thần cao hơn so với cả nước, tuy
nhiên vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Nhận thức yêu cầu này, chúng tôi đề xuất đề tài “Các yếu tố kinh tế xã
hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội” nhằm đưa ra
10 www. cpv.org.vn (Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII) 11 www. cpv.org.vn (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X)
8
các giải pháp để ngày càng nâng cao chất lượng dân số ở đây. Đồng thời
nghiên cứu đề tài trên còn có ý nghĩa góp phần kỷ niệm 1000 năm Thăng
9
Long Hà Nội.
1.2. Ý nghĩa của đề tài
1.2.1. Ý nghĩa lý luận
Chúng tôi đã vận dụng những kiến thức xã hội học để nghiên cứu “Các
yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà
Nội”. Kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ và chứng minh cho
tính thực tiễn của phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử - Chủ
nghĩa Mác Lê nin, lý thuyết hệ thống của Parsons….
Kế thừa các chỉ số PQI đã được xây dựng trong đề tài độc lập mã số
ĐTĐL- 2003/15, nhánh I “Nghiên cứu một số yếu tố kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến chất lượng dân số” thuộc đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp
Nhà nước “Nghiên cứu một số yếu tố sinh học, kinh tế- xã hội ảnh hưởng đến
chất lượng dân số và đề xuất chính sách, giải pháp phù hợp”, Đề tài đã lựa
chọn các chỉ số phù hợp để đo chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội.
Kiến tạo những chỉ số này đơn giản, dễ thống kê và phù hợp để có thể phân
tích và so sánh chất lượng dân số giữa các phường một cách nhanh chóng.
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh ý nghĩa lý luận, đề tài còn mang một ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc. Đề tài không chỉ làm sáng tỏ thực trạng chất lượng dân số đô thị Thành
phố Hà Nội từ đó tìm ra các yếu tố kinh tế xã hội tác động.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài còn thể hiện ở chỗ sẽ là một sự gợi mở, góp
phần tìm ra các giải pháp, khuyến nghị phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
dân số đô thị thành phố Hà Nội. Đồng thời nghiên cứu đề tài trên còn có ý
nghĩa góp phần kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.3.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng dân số cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần là một
quốc sách quan trọng, đòi hỏi phải có sự can thiệp lâu dài qua nhiều thế hệ và
kết hợp nhiều giải pháp đồng bộ của các Bộ, ban ngành cũng như của các
đoàn thể chính trị xã hội trên cơ sở xác định toàn diện các yếu tố tác động lên
10
chất lượng dân số.
Có nhiều yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp lên thể chất, trí tuệ và
tinh thần của một cộng đồng dân cư mà trước hết là các yếu tố kinh tế và xã
hội được phản ánh cụ thể qua chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Mục đích của đề tài này là nghiên cứu thực trạng chất lượng dân số đô
thị Thành phố Hà Nội từ đó tìm ra các yếu tố kinh tế xã hội tác động cũng như
các giải pháp, khuyến nghị phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dân số.
1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp
luận nghiên cứu các yếu tố kinh tế xã hội tác động đến chất lượng dân số đô
thị ở Thành phố Hà Nội.
- Xây dựng bộ công cụ và tính toán các chỉ số đánh giá chất lượng dân
số đô thị Thành phố Hà Nội.
- Phân tích và làm rõ các yếu tố kinh tế xã hội tác động đến chất lượng
dân số đô thị Thành phố Hà Nội.
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp, khuyến nghị, định hướng phù
hợp nhằm nâng cao chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội.
1.4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số đô thị
Thành phố Hà Nội.
1.4.2. Khách thể nghiên cứu
- Đại diện các ban ngành của phường (Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân, Hội
phụ nữ, Mặt trận tổ quốc,Y tế, Dân số, Giáo dục, tổ trưởng tổ dân phố,.. )
- Người dân cư trú tại các phường.
1.4.3. Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề nghiên cứu, cùng những hạn
chế khác trong quá trình nghiên cứu nên chúng tôi tập trung vào một số nội
11
dung sau:
* Về nội dung nghiên cứu:
- Xây dựng bộ công cụ và tính toán các chỉ số đánh giá chất lượng dân
số đô thị Thành phố Hà Nội.
- Tìm hiểu 11 yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến chất lượng dân số đô
thị Thành phố Hà Nội: Thu nhập và phân phối thu nhập; Lao động và việc
làm; Giao thông liên lạc; Sức khoẻ; Giáo dục; Nhà ở; Môi trường; Cuộc sống
gia đình; Sự tham gia công tác xã hội của phụ nữ; Trật tự an toàn công cộng;
Văn hoá và giải trí.
- Thời gian: Từ tháng 10/2006 - 12/2007.
- Địa điểm: Phường Hàng Gai, Quận Hoàn Kiếm và Phường Yên Hoà,
Quận Cầu Giấy.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp chọn mẫu
Thông tin được thu thập dựa trên khảo sát định lượng bằng bảng Ankét.
Đề tài có tất cả 300 phiếu: 150 phiếu khảo sát tại Phường Hàng Gai, Quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội; 150 phiếu khảo sát tại Phường Yên Hoà, Quận Cầu
Giấy, Hà Nội.
Đề tài đã sử dụng phương pháp chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn để chọn
mẫu điều tra ở hai phường, quy trình lấy mẫu như sau:
- Bước 1: Lập danh sách các tổ dân phố của mỗi phường, gán cho mỗi
tổ dân phố 1 số thứ tự từ 1 đến hết.
- Bước 2: Lấy ngẫu nhiên đơn giản 10 tổ dân phố của mỗi phường.
- Bước 3: Lấy ngẫu nhiên đơn giản 15 hộ gia đình trong mỗi tổ để điều
tra, phỏng vấn.
12
Kết quả thu được về người được phỏng vấn tại phiếu điều tra như sau:
Bảng 1: Các đặc điểm nhân khẩu học xã hội của mẫu khảo sát (%)
Phƣờng Đặc điểm Hàng Gai Yên Hòa
Giới tính
Nam 40,7 39,0
Nữ 50,3 61,0
Tuổi
Dưới 20 tuổi 4,7 0
20-29 tuổi 4,7 4,0
30-49 tuổi 37,3 61,0
Trên 50 tuổi 53,3 35,0
Nghề nghiệp
Cán bộ, công nhân viên 20,0 41,2
Buôn bán, dịch vụ 19,3 30,7
Nghề tự do 12,7 12,3
Học sinh, sinh viên 6,0 0,0
Nghỉ hưu 32,7 10,5
Ở nhà 9,3 5,3
Trình độ học vấn
Tiểu học 3,3 2,0
Trung học cơ sở 12,0 14,0
Trung học phổ thông 41,3 41,0
Trung cấp, Cao đẳng, Đại học 41,3 41,0
13
Trên Đại học 2,0 2,0
1.5.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Trên cơ sở chọn mẫu, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các hộ gia đình
bằng bảng Ankét. Đề tài có tất cả 300 phiếu: 150 phiếu khảo sát tại Phường
Hàng Gai, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; 150 phiếu khảo sát tại Phường Yên
Hoà, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.
1.5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập thông
tin và làm rõ hơn giải thuyết nêu ra. Đề tài sẽ lựa 2 chọn 2 phường thuộc 2
quận ở Hà Nội làm địa bàn nghiên cứu. Mỗi phường tiến hành 10 cuộc phỏng
vấn sâu là những người đại diện các ban ngành của phường (Đảng uỷ, Ủy ban
nhân dân, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc,Y tế, Dân số, Giáo dục, tổ trưởng tổ
dân phố,.. ) và người dân cư trú tại các phường.
1.5.4. Phương pháp quan sát
- Quan sát thái độ của người cung cấp thông tin.
- Quan sát đời sống kinh tế, văn hoá của người dân nhằm xác thực
những thông tin thu được.
1.5.5. Phương pháp phân tích tài liệu
Bên cạnh những thông tin thu được qua quá trình phỏng vấn, quan sát
chúng tôi còn và phân tích những phỏng vấn sâu, những tài liệu, các báo cáo
khoa học, các khoá luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, tiến sỹ....liên quan đến
đề tài nghiên cứu..
1.6. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Hiện nay, tình hình chính trị, văn hoá, xã hội của thành
phố Hà Nội được duy trì ổn định, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện và
phát triển. Do vậy, chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội ngày càng
được nâng cao.
- Giả thuyết 2: Các yếu tố tác động tích cực đến chất lượng dân số đô
14
thị Thành phố Hà Nội: Thu nhập và phân phối thu nhập, lao động việc làm,
sức khoẻ, giáo dục.. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số: Môi trường
và các tệ nạn xã hội …
1.7. Sơ đồ tƣơng quan giữa các biến số:
- Biến số độc lập: Các yếu tố kinh tế xã hội
- Biến số can thiệp:
Thu nhập và phân phối thu nhập
Lao động và việc làm
Giao thông liên lạc
Giáo dục
Sức khoẻ
Nhà ở
Môi trường
Cuộc sống gia đình
Tham gia công tác xã hội của phụ nữ
An ninh trật tự
Vui chơi, giải trí
15
- Biến số phụ thuộc: Chất lượng dân số
CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ XÃ HỘI
1.8. Khung lý thuyết
CÁC YẾU TỐ KINH TẾ XÃ HỘI
Thu nhập và phân bổ thu nhập; lao động việc làm; giao thông liên lạc; sức khoẻ; giáo dục; nhà ở; môi trường; cuộc sống gia đình; sự tham gia công tác xã hội của phụ nữ; trật tự công cộng; văn hoá giải trí.
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Tinh thần
Trí tuệ
Thể chất
16
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận
2.1.1.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng
Tư tưởng Macxit và Xã hội học Macxit luôn là kim chỉ nam cho mọi
hoạt động lý luận và thực tiễn. Vì vậy trong đề tài "Các yếu tố kinh tế xã hội
ảnh hưởng đến chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội" chúng tôi đã vận
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử làm nền tảng.
Quan điểm lý luận này đòi hỏi khi nghiên cứu các sự kiện, quá trình xã
hội phải đặt trong mối quan hệ với điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội
cụ thể, trong một phạm vi không gian nhất định, trong trạng thái vận động và
phát triển.
Marx đã vận dụng và phát triển phép biện chứng của Hegel trong
nghiên cứu hiện thực xã hội và con người. Phép biện chứng đòi hỏi phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ và tác động qua lại trong sự vận
động và phát triển không ngừng của xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tất cả các hiện tượng
nảy sinh trong xã hội đều có quá trình phát sinh, phát triển nghĩa là mọi sự
vật, hiện tượng không tồn tại bất biến mà luôn vận động theo quy luật tất yếu
của nó. Trong mỗi hoàn cảnh cụ thể của xã hội sẽ có các yếu tố khác nhau tác
động đến hiện tượng đó. Do vậy, các vấn đề xã hội khi nghiên cứu cần được
đặt trong một quá trình, một giai đoạn lịch sử nhất định. Luận điểm cơ bản
được sử dụng trong đề tài "Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến chất
lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội" là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường làm cho xã hội Việt
17
Nam có nhiều biến đổi.
Chúng tôi cũng tiếp cận đề tài nghiên cứu theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Quan điểm biện chứng nhìn nhận các sự vật, hiện
tượng trong mối quan hệ khăng khít, không tách rời nhau. Theo quan điểm
này, mọi sự vật, hiện tượng không tồn tại độc lập mà luôn tương tác, ảnh
hưởng tới các sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, khi nghiên cứu 11 yếu tố kinh
tế - xã hội ảnh hưởng chất lượng dân số đô thị Thành phố Hà Nội chúng tôi
không đặt nó tách rời nhau mà đặt chúng trong sự tương tác ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Bởi vậy, để tránh cho nghiên cứu
rơi vào tình trạng chủ quan, phiến diện, chúng tôi đã tiếp cận vấn đề nghiên
cứu một cách có hệ thống, nhìn nhận vấn đề là một hệ thống, đặt vấn đề trong
mối quan hệ với các sự vật khác.
2.1.1.2. Lý thuyết xã hội học: Lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons
Talcott Parsons (1902-19790) là nhà xã hội học người Mỹ, tác giả nổi
tiếng của lý thuyết hệ thống xã hội, lý thuyết hành động.
Parsons sử dụng khái niệm cấu trúc và khái niệm hệ thống gần như
tương đương nhau với nghĩa là hệ thống có cấu trúc và cả hai đều có chung
thành phần nhất định. Khái niệm cấu trúc nhấn mạnh các yếu tố tạo thành
khuôn mẫu, định hình hệ thống một cách tương đối ổn định. Khái niệm hệ
thống nhấn mạnh một tập hợp các yếu tố được sắp xếp theo trật tự nhất định
nghĩa là được định hình vừa độc lập, vừa liên tục trao đổi qua lại với hệ thống
môi trường xung quanh.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một tọa độ ba chiều
như sau: Thứ nhất là chiều cấu trúc - hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó;
thứ hai là chiều chức năng - hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự
biến đổi vừa tự trao đổi với môi trường và thứ ba là chiều kiểm soát - hệ
thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển.
Cấu trúc của hành động được triển khai trên các cấp để hệ thống khác
nhau trong đó hệ thống xã hội chỉ là một trong các hệ thống của nó. Parsons
phân biệt ít nhất bốn cấp độ hệ thống và cho rằng thông qua quá trình xã hội
18
hóa cá nhân, hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ
hệ thống từ cấp hành vi của cơ thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn
hóa. Đặc điểm của từng cấp độ hệ thống như sau:
- Cấp hệ thống văn hóa tương ứng với hệ thống biểu trưng. Biểu hiện
cụ thể của nó là hệ các niềm tin tôn giáo, hệ ngôn ngữ, hệ các giá trị và chuẩn
mực xã hội. Thông qua cơ chế xã hội hóa cá nhân, các hệ thống văn hóa có
khả năng biến các giá trị chung của xã hội thành hệ những giá trị riêng của
mỗi người và nhờ vậy thực hiện chức năng kiểm soát xã hội, duy trì trật tự và
bảo tồn các khuôn mẫu hành động của các cá nhân.
- Cấp hệ thống xã hội gồm tập hợp các cá nhân tương tác với nhau
trong các tình huống nhất định. Tập hợp này gồm hai hay các hành thể là cá
nhân hay nhóm người. Mối tương tác giữa các hành thể được cấu trúc hóa
thông qua văn hóa và hệ các giá trị chung.
- Cấp hệ thống nhân cách có đơn vị cấu thành cơ bản là cá nhân, là chủ
thể hành động. Trên cấp độ này Parson đặc biệt quan tâm tới hệ các nhu cầu,
động cơ, thái độ hướng tới lợi ích cá nhân, tới lợi nhuận.
- Cấp hệ thống hành vi bao gồm các quá trình sinh lý, vật chất hữu cơ
của đời sống con người mà quan trọng nhất là hệ thống hoạt động thần kinh
và hệ thống vận động.
Sơ đồ lý thuyết AGIL
Parsons nổi tiếng trong giới xã hội học về sơ đồ lý thuyết hệ thống xã
hội viết tắt là AGIL theo bốn chữ cái của bốn tiểu hệ thống. Theo Parsons, hệ
thống xã hội được cấu thành từ bốn tiểu hệ thống (hệ thống nhỏ hơn), tương
ứng với bốn loại nhu cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội. Bốn loại yêu
cầu chức năng của xã hội là:
Một là: Thích ứng (Adaptation - ký hiệu là A) với môi trường tự nhiên
- vật lý xung quanh.
Hai là: Hướng đích (Goal attainment - G) - huy động các nguồn lực
19
nhằm vào các mục đích đã xác định.
Ba là: Liên kết (Intergration - I) - phối hợp các hoạt động, điều hòa và
giải quyết những khác biệt, mâu thuẫn.
Bốn là: Duy trì khuôn mẫu lặn (Latent pattern maintenance - L) - tạo ra
sự ổn định, trật tự.
Các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học. Hệ
thống ở cấp độ cao hơn về thông tin nhưng yếu về năng lượng (ví dụ hệ thống
văn hóa - L) chi phối và kiểm soát hệ thống ở trình độ cao hơn về năng lượng
nhưng kém hơn về thông tin (ví dụ hệ thống kinh tế - A).
Các tiểu hệ thống có mối quan hệ qua lại với nhau theo nguyên lý chức
năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Chẳng hạn tiểu hệ thống kinh tế có
mối quan hệ qua lại với nhau và với các tiểu hệ thống khác của xã hội để lấy
đầu vào và cung cấp các đầu ra là sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ,
doanh nghiệp sử dụng lao động của công nhân có trình độ chuyên môn và kỹ
năng tay nghề do tiểu hệ thống giáo dục tạo ra và đổi lại, nó trả công lao động
cho công nhân để họ nuôi sống bản thân và gia đình.
Các tiểu hệ thống trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện
và công cụ xã hội ví dụ tài sản, tiền bạc, quyền lực, sự ảnh hưởng và sự gắn
bó và niềm tin. Mỗi một cặp tiểu hệ thống quan hệ trao đổi với nhau thông
qua một số loại phương tiện chuyên biệt. Chẳng hạn, tiền công là phương tiện
chính để trao đổi giữa tiểu hệ thống kinh tế (A) và tiểu hệ thống duy trì khuôn
mẫu (L).Vốn tư bản là phương tiện chính trong quan hệ trao đổi giữa tiểu hệ
thống kinh tế và tiểu hệ thống hướng đích. Cần chú ý là các chức năng và các
tiểu hệ thống có thể tương ứng đan xen, bù trừ nhau rất phức tạp. Ví dụ, tiểu
hệ thông chính trị trong tình huống nhất định có thể đảm nhận cả nhiệm vụ
làm kinh tế và những tổ chức kinh tế độc quyền mạnh có thể lũng đoạn chính
trị, pháp luật
2.1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
20
2.1.2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài:
Lịch sử phát triển của Thế giới và Việt Nam cho thấy con người là vốn
quý nhất. Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực kinh tế, chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền
vững của toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia. Ý thức được tầm quan trọng
đó, từ nhiều thập kỷ trước, một số quốc gia Châu Á đã chú trọng nâng cao
chất lượng dân số với mục tiêu phát triển nguồn nhân lực để thu hẹp khoảng
cách phát triển so với các quốc gia Châu Mỹ và Châu Âu. Nhật Bản đã rất coi
trọng chương trình chăm sóc đồng bộ về dinh dưỡng, phổ cập giáo dục, phát
triển thể chất và chấn hưng thể dục thể thao12. Trung Quốc cũng đã coi việc
nâng cao chất lượng dân số là một nội dung quan trọng của chính sách dân số
kế hoạch hóa gia đình. Để tạo nên sức cạnh tranh lớn về nguồn lao động trên
trường quốc tế, từ một nước nghèo đông dân sang một nước có sức cạnh tranh
trong việc đầu tư cho nguồn vốn con người; chính sách dân số của Trung
Quốc từ những năm 70 đã đề ra mục tiêu nâng cao chất lượng dân số và hiện
nay vẫn coi đó là một trong 5 thách thức lớn trong phát triển và đã đề ra mục
tiêu cụ thể nâng cao chất lượng dân số vào các thời điểm quan trọng: 2010,
2020 từ nâng cao rõ rệt, tiến đến nâng cao đáng kể để đạt nâng cao chất lượng
dân số và sức khỏe dân số vào năm 205013.
Hội nghị quốc tế bàn về dân số đầu tiên cần được kể tới được triệu tập
tại Roma (Italia) năm 1954. Năm 1965 tại Beograd (Nam Tư), một hội nghị
quốc tế bàn về dân số mang tính chất trao đổi khoa học chuyên ngành. Có thể
coi đây là hai phiên họp quốc tế mở màn cho việc đi tới những chương trình
dân số thống nhất sau này. Năm 1974, Hội nghị quốc tế về dân số đã được tổ
chức ở Bucarest (Rumani). Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân
12 Mosk, Carl, Phát triển về thể chất: Sự tăng trưởng con người trong xã hội tiên tiến Nhật Bản. Trường Đại học Berkeley, Califonia, Nhà xuất bản Đại học Califonia, 1996. 13 Phát biểu của Ô. Giang Phan, Thứ trưởng Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Trung Quốc, tại Phiên họp lần thứ 40 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về Dân số phát triển, New York, 10/4/2007).
21
phối công bằng các nguồn lực kinh tế giữa các quốc gia. Năm 1984, Hội nghị
quốc tế về dân số ở Mexico City (Mexico). Ở giai đoạn này, chương trình kế
hoạch hoá gia đình với mục tiêu giảm sinh và mô hình gia đình ít con đã có
những thành tựu đáng kể.
Tháng 9 năm 1990, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em diễn ra tại
New York (Hoa Kỳ). Tuy chuyên đề là trẻ em nhưng trong nội dung lại có
nhiều điểm liên quan đến chất lượng dân số.
Năm 1994, Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển (ICPD) được tổ
chức ở Cairo (Ai Cập), có 180 nước đã cử đại biểu tới dự. Hội nghị đã đề ra
chiến lược mới, nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân số và phát triển, đề ra
những mục tiêu đáp ứng các nhu cầu của cá nhân chứ không chỉ chú ý đến các
mục tiêu nhân khẩu thuần tuý (giảm mức sinh, quy mô gia đình ít con...).
Chương trình hành động của hội nghị nhấn mạnh con người là nguồn lực
quan trọng nhất. Do đó, để phát triển bền vững thì phải nâng cao chất lượng
cuộc sống cho mọi người. Nội dung chương trình đề cập tới việc lồng ghép
vấn đề dân số vào các chính sách như xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ
sinh sản, quyền di dân, sự phát triển của người thuộc các dân tộc thiểu số.
Năm 1995, tại Copenhagen (Đan Mạch) đã tổ chức một hội nghị
thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội. Tuyên bố chung và chương trình
hành động của hội nghị Copenhagen là nhằm “tạo ra, trong khuôn khổ của sự
tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, một môi trường quốc gia và quốc
tế thuận lợi cho sự phát triển xã hội, thanh toán nghèo đói, tăng cường tạo
việc làm có năng suất, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy sự hoà nhập xã
hội”.
Năm 1995, tại Bắc Kinh (Trung Quốc) có hội nghị phụ nữ thế giới lần
thứ 4. Cương lĩnh hành động của hội nghị này có nhiều nội dung liên quan
đến chất lượng dân số.
Năm 1996, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về lương thực đã tổ chức tại
Rome (Italia). Các nước tham dự đều thể hiện nguyện vọng chính trị là đạt
22
được an ninh lương thực cho tất cả mọi người dân, nỗ lực xoá đói giảm nghèo
ở các quốc gia nhằm mục tiêu trước mắt là giảm một nửa số người thiếu ăn
hiện nay chậm nhất vào năm 2015.
Năm 2000, tại Geneve (Thuỵ Sỹ) đã diễn ra khoá họp đặc biệt của Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển xã hội với 166 nước tham dự. Các đại
biểu đã nhất trí quan điểm con người làm trọng tâm của phát triển bền vững;
phát triển xã hội phải gắn liền với phát triển kinh tế. Để phát triển bền vững
thì phải nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người, thanh toán nghèo đói,
tăng cường tạo việc làm có năng suất, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy sự
hoà nhập xã hội trong một môi trường quốc gia và quốc tế thuận lợi cho sự
phát triển xã hội và khuôn khổ của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững.
Năm 2004, trong 2 ngày 28, 29/8, đại biểu cấp cao (Những chính khách, đại diện của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), Hiệp hội Kế hoạch hóa gia đình quốc tế IPPF và các chuyên gia) của các nước Châu Á Thái Bình Dương đã tham dự cuộc họp cấp cao Châu Á lần thứ 20 về dân số và phát triển ở Almaty, Kazakhstan, được tổ chức bởi Hiệp hội Dân số và phát triển Châu Á (APDA), hợp tác với diễn đàn cấp cao Châu Á về dân số và phát triển. Hội nghị đã đưa ra tuyên bố của chính phủ về các vấn đề cơ cấu dân số, sức khoẻ sinh sản, HIV/AIDS, giới, phát triển bền vững, đặc biệt là chất lượng dân số với nội dung như sau “Mọi cá nhân có quyền hưởng cuộc sống hạnh phúc. Chúng ta phải xem xét mọi khía cạnh của cuộc sống và đưa những vấn đề cuộc sống khoẻ mạnh lâu dài, đầy đủ điều kiện để nâng cao chất lượng dân số toàn diện.”
23
Trên thế giới đã xây dựng một số các chỉ số liên quan đến đánh giá chất lượng dân số như chỉ số phát triển con người (HDI); Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI); Chỉ số phát triển giới tính (GDI); Mức độ vị thế giới tính (GEM), Chỉ số nghèo nhân văn (HPI)…và chỉ số chất lượng dân số (PQI) (Nga đã xây dựng chỉ số PQI nghiên cứu nhiều địa bàn ở Nga từ năm 1995). Nhiều nước trên thế giới và một số nước trong khu vực đã xây dựng chiến lược dân số, đặt trọng tâm vào việc nâng cao chất lượng dân số, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước. 2.1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác dân số, coi đó là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Một trong những giải pháp để thực hiện mục tiêu trên là đẩy mạnh các nghiên cứu trong lĩnh vực dân số.
Ngày 9/6/1999, Việt Nam đã được Liên hiệp quốc trao tặng giải thưởng quốc tế về dân số. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số không đồng đều giữa các vùng và công tác dân số ở Việt Nam cho tới thời điểm này mới chỉ tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số và một phần nào về cơ cấu và phân bố dân số. Về chất lượng dân số chưa có điều kiện nghiên cứu ở phạm vi rộng và với quy mô lớn.
Năm 2001, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia với sự
giúp đỡ của Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc đã xây dựng Báo cáo
quốc gia về Phát triển con người ở Việt Nam.
Trong thời gian 1999 - 2001, Ban Khoa giáo Trung ương và một số cơ
quan có liên quan đã tiến hành nghiên cứu “Điều tra, đánh giá về những dịch
vụ xã hội cơ bản có liên quan đến chất lượng dân số ở nông thôn Việt Nam”
thuộc Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số
vấn đề liên quan đến chất lượng dân số và đề xuất những chính sách phù hợp
về dân số và phát triển bền vững”. Đề tài nhánh do GS.TS. Phạm Tất Dong
làm chủ nhiệm. Tại đề tài nhánh này, lần đầu tiên ở Việt Nam đã xây dựng
được 4 bộ chỉ số mới để đo chất lượng dân số và các dịch vụ xã hội cơ bản.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, các tác giả đã đề xuất một số kiến nghị về
định hướng chính sách nâng cao chất lượng dân số nông thôn Việt Nam.
Năm 2002 - 2004, TS. Nguyễn Thị Kim Hoa chủ trì nghiên cứu đề tài
cấp Đại học quốc gia Hà Nội “Kiến tạo chỉ số để đánh giá nhanh chất lượng
dân số cộng đồng nông thôn Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu đã kiến tạo chỉ
số PQI và bộ chỉ thị đơn hợp lý hơn dựa trên 4 yếu tố thể chất, trí tuệ, tinh
thần và môi trường, trên cơ sở đó áp dụng PQI trong đánh giá nhanh chất
lượng dân số của 3 xã thuộc 3 vùng sinh thái nông thôn là Thái Nguyên (Miền
24
núi phía Bắc), Quảng Ngãi (Ven biển Trung Bộ) và Nam Định (Đồng bằng
Sông Hồng) và đề xuất phương hướng cải thiện chất lượng dân số 3 xã nghiên
cứu trên.
Năm 2004 - 2006, GS. TS. Phạm Tất Dong đã chủ trì nghiên cứu, triển
khai Đề tài nhánh“Nghiên cứu các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất
lượng dân số” thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu một số yếu tố
sinh học, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số và đề xuất chính
sách, giải pháp phù hợp”. Đề tài đã hoàn thiện bộ công cụ đánh giá chất
lượng dân số, bao gồm bộ các chỉ số chất lượng dân số (PQI), chỉ số phát triển
cộng đồng (CDI), các dịch vụ xã hội cơ bản (BSM) và một số chỉ số khác.
Đồng thời cũng đã xác định được mối tương quan và tác động giữa một số
yếu tố kinh tế - xã hội và chất lượng dân số. Chỉ số PQI của đề tài xây dựng
để đánh giá chung cho cả địa bàn đô thị và nông thôn.
Trong thời gian 2006 - 2007, Viện Khoa học Dân số Gia đình và Trẻ
em phối hợp với Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em Hà Nội đã tiến hành điều
tra, khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp hạn chế một số yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng dân số trên địa bàn Hà Nội. Nội dung của cuộc điều tra, khảo
sát bao gồm: xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số trên địa
bàn Hà Nội; đánh giá hiểu biết, nhận thức và thái độ của người dân và các cán
bộ chủ chốt các cơ quan liên quan về một số nội dung của “chất lượng dân
số”; đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế một số yếu tố ảnh hưởng tiêu cực
đến nâng cao chất lượng dân số Hà Nội trong thời kỳ 2006 - 2010. Kết quả
điều tra cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình nâng
cao chất lượng dân số Hà Nội.
Vào quý III năm 2007, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn
sách “Chính sách và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số Hà Nội theo
hệ tiêu chuẩn mới” của tác giả Đoàn Kim Thắng (Viện Xã hội học). Kết quả
nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề chất lượng dân số Hà Nội
25
hiện nay thông qua điều tra khảo sát một số chỉ tiêu về chất lượng dân số (chỉ
số phát triển con người; các chỉ tiêu về y tế và chăm sóc sức khoẻ; chỉ số dân
số và việc làm; chỉ số tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ xã hội).
Đối với Đề tài "Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến chất lượng
dân số đô thị Thành phố Hà Nội" chúng tôi muốn xây dựng chỉ số đo chất
lượng dân số (PQI) để tính riêng cho địa bàn đô thị, đặc biệt là đô thị Thành
phố Hà Nội. Đề tài cũng phân tích và làm rõ 11 yếu tố kinh tế xã hội tác động
đến chất lượng dân số đô thị ở Thành phố Hà Nội bao gồm: Thu nhập và phân
phối thu nhập; Lao động và việc làm; Giao thông liên lạc; Sức khoẻ; Giáo
dục; Nhà ở; Môi trường; Cuộc sống gia đình; Sự tham gia công tác xã hội của
26
phụ nữ; Trật tự an toàn công cộng; Văn hoá và giải trí.
2.1.2.3. Một số văn bản pháp lý của Việt Nam liên quan đến chất lượng dân
số
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình đã đề ra hệ thống các
giải pháp đến năm 2000: “Xây dựng các chính sách cụ thể về bảo vệ và phát
triển một số dân tộc ít người đang có chiều hướng suy giảm dân số” và: cải
thiện chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, giảm tỷ lệ tử
vong ở trẻ sơ sinh, tạo công ăn việc làm, phân bổ dân cư hợp lý, xóa nạn mù
chữ, nâng cao dân trí, mở rộng các thiết chế văn hóa, phát triển nông thôn,
bảo hiểm sức khỏe và tuổi già”.
- Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình đề ra
nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh
thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Nghị quyết Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-201014 '“...Nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa
các vùng. Xây dựng quy hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế
chuyển dịch cơ cấu dân số ở nông thôn và thành thị”.
- Pháp lệnh Dân số và Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
Dân số nêu cụ thể: “Mục tiêu chính sách dân số là duy trì mỗi cặp vợ chồng
chỉ có một hoặc hai con để ổn định quy mô dân số, bảo đảm cơ cấu dân số và
phân bố dân cư hợp lý, nâng cao chất lượng dân số”.
- Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010 đề ra mục tiêu cụ thể:
14 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, Nghị quyết số 56/2006/QH11.
27
“Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần, phấn đấu đạt chỉ số
15 Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam 2001 - 2010.
28
phát triển con người (HDI) ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010”15.
- Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-
NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình16, trong đó đề ra mục tiêu cụ thể:
“triển khai các mô hình nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh
thần, phấn đấu đưa chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam lên mức
trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010, rút ngắn khoảng cách với các
nước tiên tiến về chỉ số này trong những năm tiếp theo”.
- Chỉ thị 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
- Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng
Chính phủ “Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá
gia đình giai đoạn 2006-2010”, trong đó đề ra mục tiêu tổng quát: “Thử
nghiệm và mở rộng một số mô hình, giải pháp can thiệp, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng dân số Việt Nam cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần, đáp ứng
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và sự phát triển bền vững của đất nước”. Để đạt mục tiêu Chiến lược,
chương trình đã đề ra 6 dự án, trong đó có 2 dự án liên quan đến chất lượng
dân số: nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình nhằm thực hiện
chủ yếu các mục tiêu kế hoạch hóa gia đình và góp phần nâng cao chất lượng
dân số và dự án thử nghiệm.
2.1.3. Các khái niệm công cụ
2.1.3.1. Chất lượng dân số
Từ thế kỷ XVIII, khái niệm chất lượng dân số đã được sử dụng trong
văn học. Khái nhiệm về chất lượng dân cư đã được Ăngghen sử dụng.
Ăngghen đã xem xét chất lượng dân số như là yếu tố vật chất, có nghĩa là các
điều kiện kinh tế là một mặt của yếu tố kỹ thuật, coi chúng như một trình độ
16 Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 về việc thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số
29
phát triển của tư liệu sản xuất.
Quan niệm của Ăngghen được dựa trên các học thuyết kinh tế chính trị
với quan điểm “Sản xuất là hoạt động chủ đạo trong cuộc sống của con
người” nên chất lượng dân số phản ánh trình độ của lực lượng sản xuất. Chất
lượng dân số là điều kiện vật chất để đối chứng với trình độ phát triển của tư
liệu sản xuất được coi là điều kiện kỹ thuật. Do vậy, Ăngghen nhấn mạnh
“Chất lượng dân số chính là năng lực con người sử dụng tư liệu sản xuất một
cách hiệu quả nhất”.
Khái niệm chất lượng dân số đã được sử dụng khá rộng rãi trong thuyết
ưu sinh và dựa trên cơ sở gen. Điển hình là thuyết chủng tộc, xuất hiện từ cuối
thế kỷ XIX và phát triển mạnh ở Anh, Pháp. Nội dung chủ yếu của thuyết này
là: Có chủng tộc “Thượng đẳng” và “Hạ đẳng” và sự phân hóa này mang tính
tự nhiên, di truyền và bất biến. Do vậy, các nhà khoa học tư sản đã chứng
minh sự tồn tại của bất bình đẳng về xã hội xuất phát từ nguồn gốc sinh học
và đưa ra khả năng giải quyết các vấn đề xã hội bằng cách hoàn thiện bản chất
nguồn gốc của con người. Họ lập luận rằng chủng tộc hạ đẳng thì sinh đẻ
nhiều còn thượng đẳng thì ngược lại đã làm xấu đi cấu cấu dân số về mặt
lượng. Do vậy, văn minh nhân loại phụ thuộc vào việc giữ gìn “sự thuần
chủng” bằng việc tăng quy mô của chủng tộc “thượng đẳng”.
Theo các nhà nhân khẩu học Nga, chất lượng dân số là “Khái niệm
trung tâm của hệ thống tri thức về dân số” và được phản ánh qua các chỉ tiêu:
(1) Trình độ giáo dục; (2) Cơ cấu nghề nghiệp xã hội; (3) Tính năng động và
tình trạng sức khoẻ.
Theo Alexander A. Sagradov (Giáo sư, Đại học Moscow, Khoa Kinh tế
học, Chuyên ngành nghiên cứu dân số) trong bài viết “Chất lượng dân số -
khái niệm cơ sở và những ứng dụng của nó trong việc phân tích dân số học xã
hội ở Nga”, năm 2005 cho rằng: có 3 hướng tiếp cận lý thuyết về định nghĩa
chất lượng dân số trong các tài liệu dân số học hiện đại:
+ Hướng tiếp cận đầu tiên giả định rằng chất lượng dân số là một hệ
30
thống các đặc điểm cá nhân và xã hội - sức khoẻ thể chất, thể lực, trí tuệ,
phẩm chất đạo đức, năng lực trí tuệ và những kĩ năng đạt được hay những
năng lực bẩm sinh hoặc những năng lực có được do thuyết ưu sinh và cách
thức đo lường xã hội bao hàm việc đầu tư vào sức khoẻ và giáo dục.
(Fairchild 1939, Hauser và Duncan 1966, Thomlinson 1965, Liên Hợp Quốc
1973, v.v.). Những người đi theo hướng tiếp cận này nhấn mạnh rằng chất
lượng dân số liên quan đến trình độ phát triển và mức thu nhập đồng thời
cũng chịu ảnh hưởng của các tỷ suất sinh khác nhau. (Sauvy 1969, Soloway
1990, Thompson 1930).
+ Điểm đáng chú ý của cách tiếp cận thứ 2 (Larmin 1974, Steshenko
1981, Tkachenko 1978, Valentei 1991,v.v) là khuynh hướng này cho rằng
chất lượng dân số được coi là một phức hợp của cấu trúc dân số (tầng lớp, xã
hội, sức khoẻ, giáo dục, tay nghề, kĩ năng, hôn nhân, tuổi, giới tính, dân tộc).
Theo các nhà Mác xít truyền thống thì cấu trúc dân số được xác định bởi ph-
ương thức sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực. Những người theo khuynh
hướng này có xu hướng mở rộng phạm vi những cuộc điều tra, không chỉ về
chủ đề dân số học. Họ còn phản đối chất lượng dân số được đo thông qua chỉ
báo tái sản xuất dân số (Foteeva 1984, Medkov. Selestov, Korostelev 1987)
hoặc coi việc cải thiện chất lượng dân số là một phương tiện kiểm soát tỷ lệ
sinh. (Xueyuan Tian 1989).
+ Hướng tiếp cận thứ 3 dựa trên lý thuyết “con người trung tâm”. Có
một hệ thống lý thuyết cơ bản về các đặc điểm của chất lượng dân số trong
việc xây dựng các tài liệu theo hướng tiếp cận này; đó là: sức khoẻ, giáo dục,
trình độ và kinh nghiệm sản xuất (Becker và Lewis 1973; Schultz T.P. 1981;
Schultz Th.W. 1981, v.v.). Việc tập trung vào nghiên cứu hành vi dân số học
và những phân tích kinh tế vi mô của mối quan hệ qua lại giữa chất lượng dân
số và thu nhập của hộ gia đình là những đặc trưng riêng biệt cho hướng tiếp
cận này. Điều đó cho thấy những công trình nghiên cứu nhằm phát triển con
người đều có liên quan đến cách tiếp cận trên mặc dù mô hình “phát triển con
31
người” (Human Development) không giống khái niệm “con người trung tâm”
là “đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, coi phát triển kinh tế
như là một phương tiện và không có điểm kết thúc”.
Có một thực tế là những nhà nghiên cứu thuộc cả 3 khuynh hướng trên
đều không coi tỷ suất sinh là một trong những đặc trưng đánh giá chất lượng
dân số. Tuy nhiên một cách tiếp cận như vậy thường không được chấp nhận.
Một số học giả cho rằng tỷ suất sinh (hay khả năng sinh sản) là một trong
những thành tố quan trọng để đánh giá chất lượng dân số (Lorimer 1945;
Vichnevski 1982). Đáng tiếc, những học giả này lại không quan tâm đến việc
phát triển lý thuyết về chất lượng dân số và ý tưởng về lý thuyết đó cũng
không được hình thành.
Theo Chủ nghĩa Mác- Lê nin, bản chất và nội dung của chất lượng dân
số xuất phát từ các quá trình và quan hệ xã hội, được hình thành thông qua
quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và đào tạo.
Như vậy, chất lượng dân số được phản ánh thông qua các thuộc tính cụ
thể liên quan đến trình độ thể lực, trí lực, trình độ giáo dục, trình độ khoa học
kỹ thuật, cơ cấu và kỹ năng nghề nghiệp, xã hội và tính năng động của dân
cư.
Ở Việt Nam, khái niệm chất lượng dân số đã được đề cập đến như sau:
Theo từ điển Bách Khoa của Việt Nam xuất bản năm 1995, “Chất lượng” là
phạm trù triết học biểu thị những bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính
ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với các sự vật khác. Vậy “chất
lượng dân số phải được biểu thị bằng các thuộc tính bản chất của dân số”,
tổng hợp lại đó có thể là các thuộc tính về thể lực, trí lực, năng lực xã hội và tính năng động xã hội…17
Đề tài nghiên cứu chất lượng dân số và các dịch vụ xã hội cơ bản đã
đưa ra một định nghiã cụ thể về chất lượng dân số trong điều kiện thực tế của
17 Nguyễn Hữu Dũng, Chất lượng dân số và các giải pháp nâng cao chất lượng dân số ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học chất lượng dân số và Các dịch vụ xã hội cơ bản.
32
Việt Nam là “Một cộng đồng dân cư có chất lượng cao là cộng đồng khoẻ
mạnh, có khả năng tạo ra môi trường cư trú trong lành, không nghèo đói, có học vấn và ý thức xã hội cao”18.
Pháp lệnh dân số của Việt Nam năm 2003 đã định nghĩa “Chất lượng
dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn
bộ dân số” (Điều 3, Mục 6). Trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ vận dụng
định nghĩa này để xác định hệ chất lượng dân số.
2.1.3.2. Các thành phần của hệ chất lượng dân số
Theo định nghĩa của Pháp lệnh dân số nêu trên, hệ chất lượng dân số
gồm các thành phần thể chất, trí tuệ và tinh thần.
Thể chất gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các số đo về chiều
cao, cân nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo, dinh dưỡng, bệnh tật,
tuổi thọ, các yếu tố giống nòi, gen di truyền (như tật nguyền bẩm sinh, thiểu
năng trí tuệ, nhiễm chất độc da cam…) của người dân.
Trí tuệ gồm các yếu tố trình độ văn hoá, thẩm mỹ, trình độ khoa học
kỹ thuật, tay nghề… thể hiện qua tỷ lệ biết chữ, số năm bình quân đi học/ đầu
người, tỷ lệ người có bằng cấp, được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật,...
Tinh thần thể hiện qua mức độ tiếp cận và tham gia các hoạt động văn
hoá, thông tin, vui chơi, giải trí, các phong trào xã hội,...
* Những yêu cầu cấp bách của vấn đề nâng cao chất lƣợng dân số ở
nƣớc ta
Hiện nay chất lượng dân số của Việt Nam so với các nước trong khu
vực và trên thế giới còn rất thấp, đặc biệt ở các khu vực nông thôn. Do đó
nâng cao chất lượng dân số là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển
dân số của Việt Nam. Theo Điều 21, Pháp lệnh dân số 2003, nâng cao chất
lượng dân số bao gồm các biện pháp sau:
(1) Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ,
18 Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Thị Kim Hoa, Đánh giá nhanh chất lượng dân sốnông thôn bằng chỉ số PQI, Kỷ yếu hội thảo khoa học chất lượng dân sô và các dịch vụ xã hội cơ bản.
33
bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản
về chiều cao cân nặng, sức bền, tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao trình độ học
vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người;
(2) Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự
nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số;
(3) Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công
cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất
lượng dân số;
Thực hiện chính sách và biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện
kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn
34
để nâng cao chất lượng dân số.
CHƢƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.2.1. Một vài nét về địa bàn nghiên cứu
2.2.1.1. Vài nét về địa bàn Hà Nội
Về vị trí địa lý, Hà Nội thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ (châu thổ Sông
Hồng), giáp với năm tỉnh: Thái Nguyên ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở
phía đông và đông nam, Hà Nam và Vĩnh Phúc ở phía nam và phía tây. Hà Nội có diện tích 920,97 km², với 3.145.300 dân (2005)19, bao gồm 9 quận nội
thành (Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai,
Long Biên, Tây Hồ, Thanh Xuân) và 5 huyện ngoại thành (Đông Anh, Gia
Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm).
Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
trung tâm chính trị, nơi làm việc của các cơ quan đầu não của Việt Nam như:
Trung ương Đảng, Chính phủ, các Bộ chuyên ngành... Hà Nội có nền tảng
chính trị ổn định, chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa linh hoạt, an ninh chính
trị và trật tự xã hội bảo đảm. Hà Nội còn là nơi có vị thế thuận lợi, là trung
tâm giao dịch kinh tế và trung tâm giao lưu quốc tế quan trọng của cả nước.
Hà Nội là một thành phố tập trung nguồn nhân lực, trí tuệ dồi dào
chiếm trên 62% số cán bộ khoa học và quản lý có trình độ trên đại học, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ của cả nước hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội.20
Qua gần 1000 năm phát triển, Hà Nội luôn là trung tâm văn hóa của cả
nước. Hệ thống tài sản văn hóa tập trung đậm đặc với mật độ cao, trên địa bàn
Hà Nội có 1.774 địa điểm, di tích lịch sử, văn hoá và thắng cảnh, trong đó có
551 đình, 258 đền, 549 chùa, 82 di tích về thời kỳ lịch sử cận, hiện đại và 334
di tích khác, trong đó có những di tích tiêu biểu như Hồ Gươm, Văn Miếu,
Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Chùa Một Cột, ... Hà Nội có 256 lễ hội dân
19 www.gso.gov.vn 20 www.hapi.gov.vn
35
gian, tiêu biểu là lễ hội Cổ Loa, hội Gióng, hội đền Hai Bà Trưng, hội gò
36
Đống Đa,...
Ngày 17/6/1999, Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” vì những thành tựu trong việc xây dựng đô thị, giữ gìn môi trường sống, phát triển văn hóa giáo dục và chăm lo cho thế hệ trẻ. Hà Nội là thành phố duy nhất ở Châu Á - Thái Bình Dương được nhận danh hiệu này.
Kỉ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, ngày 4/10/2000 Hà Nội được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý "Thủ đô anh hùng". Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, là một trung tâm văn hoá lớn của cả nước, là nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của đất nước như Việt Nam đăng cai tổ chức APEC, Việt Nam gia nhập WTO,... Với những đặc điểm đó, văn hóa của Hà Nội pha trộn yếu tố truyền thống và hiện đại Hơn nữa, 2/3 dân số Hà Nội là dân “tứ chiếng quần cư” nên văn hóa, lối sống Hà Nội càng phong phú và biến đổi phức tạp.
Hiện nay, Hà Nội thay đổi rất nhiều, bên cạnh những nét cổ kính xưa, Hà Nội đã mang dáng dấp của một đô thị hiện đại với những toà cao ốc văn phòng, trung tâm thương mại, khu đô thị mới nối tiếp nhau mọc lên. Kinh tế thủ đô phát triển với tốc độ nhanh, tập trung vào các ngành mũi nhọn như công nghiệp, du lịch, thương mại và dịch vụ. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến đường bộ, đường hàng không với sân bay Nội Bài (cách Hà Nội 35 km) là đầu mối các tuyến xuyên Việt và quốc tế. Hệ thống giao thông này là cầu nối Thủ đô với các tỉnh trong nước và thế giới.
Với những đặc điểm kinh tế - xã hội nêu trên, chất lượng dân số đô thị
Thành phố Hà Nội ngày càng nâng cao. 2.2.1.2. Phường Hàng Gai, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
37
Quận Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm nội thành Hà Hội. Phía đông của Quận giáp với sông Hồng, qua bên kia là Quận Long Biên, phía Tây giáp với Quận Ba Đình và Quận Đống Đa, phía Nam giáp Quận Hai Bà Trưng, phía bắc giáp với Quận Ba Đình. Quận có diện tích 5,29 km2, có 18 phường với số dân là 173.000 người, mật độ dân số 32.703 người/ km2. Quận bao gồm
những trung tâm buôn bán, thương mại lớn như: Tràng Tiền Plaza, Chợ Đồng Xuân, Chợ Hàng Da.21
Phường Hàng Gai là một phường thuộc Quận Hoàn Kiếm. Phường có diện tích tương đối nhỏ 0,09 km2, dân số 10.017 người, 2130 hộ dân cư phân
chia thành 44 tổ dân phố.
Theo báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội an ninh quốc
phòng năm 2006 của Phường Hàng Gai, giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công
nghiệp đạt 97,95% so với kế hoạch năm; thu ngân sách trên địa bàn đạt
88,4%; số lao động được giải quyết việc làm là 550 trường hợp.
Trong năm 2006, số trẻ sinh là 125 cháu trong đó có 4 trường hợp sinh
con thứ 3 (2 trường hợp KT2); không có trường hợp nào đẻ sớm, đẻ dày.
Trong năm 2006, phường đã phát thanh được 457 lượt buổi với 610 bài
tin. Về công tác cổ động trực quan, Phường đã làm 45 pa nô 2 mặt; 60 khẩu
hiệu 01 mặt; 80 cờ nheo; 45 khẩu hiệu 2 mặt; 50 cờ dây; 550 tờ áp phích, tờ
gấp. Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời hoạt động vào các buổi sáng hàng ngày;
Luyện tập 2 đôi thể dục nhịp điệu thiếu niên, thanh niên tham gia thi quận tổ
chức và được quận cử đi tham dự thi thành phố kết quả đạt 01 đạt giải nhất
quận, 01 giải nhì quận và 01 giải nhì thành phố, tham gia giải chạy Báo Hà
Nội mới có 20 vận động viên đạt giải nhì đội nữ cấp quận, giải nhì cá nhân nữ
cấp quận, tổ chức hội khỏe năm 2006 có 150 vận động viên tham gia 06 môn
thi đấu.
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người dân được Phường quan
tâm. Năm 2006 tổ chức khám và điều trị cho 1070 lượt người, khám sức khoẻ
cho 100 lựơt gia đình thương binh liêt sĩ, tiêm chủng mở rộng cho 160 lượt
cháu và bà mẹ mang thai, khám mắt cho 150 người cao tuổi.
Trong năm 2006, Phường đã điều tra khám phá 26/37 vụ hình sự
(70,2%), bắt 36 đối tượng, trị giá tài sản thu hồi là 287.000.000 đ, khai thác
21 www.hanoi.gov.vn
38
mở rộng án, nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá 2 vụ, so với năm 2005 tăng 07
vụ (23,3% chủ yếu là đua xe gây rối trật tự công cộng), không để xảy ra trọng
án, bắt 2 đối tượng truy nã, khám phá 3/3 chuyên án truy xét, lập 5/5 hồ sơ
đưa đối tượng đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
Về chống tội phạm ma túy và tệ nạn xã hội, đã khám phá 5 vụ, bắt 6
đối tượng thu nhiều tang vật, lập 12 hồ sơ, đưa 10 đối tượng đi cai nghiệm bắt
buộc tại trung tâm cai nghiện của thành phố; lập hồ sơ đưa 4 đối tượng lang
thang nghiện ma túy vào cai nghiện tại trung tâm cai nghiện, tạo điều kiện
giúp đỡ việc làm cho 2 người, dạy nghề cho 1 người đã cai nghiện cắt cơn
điều trị lâu dài tại cộng đồng và cai khỏi nghiện. Khám phá 1 vụ, 13 đối tượng
đánh bạc thu 03 bộ chắn, 3 đĩa sứ, 660.000 đ chuyển công an quận truy tố 1
đối tượng (là chủ chứa), xử lý hành chính 12 đối tượng, Tổ chức bảo vệ an
toàn Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm xét xử 02 phiên lưu động 8 vụ phạm
tội ma túy tại Ủy ban nhân dân phường để răn đe giáo dục trực tiếp đến các
đối tượng ma túy trên địa bàn, nâng cao tinh thần đấu tranh phòng, chống tội
phạm về ma túy của quần chúng nhân dân.
2.2.1.3. Phường Yên Hoà, Quận Thanh Xuân, Hà Nội
Quận Thanh Xuân được thành lập theo Nghị định 74/CP của Chính phủ
và đi vào hoạt động từ 1/1/1997 với 11 đơn vị hành chính cấp phường, có
diện tích tự nhiên 913,2ha. Quận cằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô.
Quận có các đường giao thông huyết mạch đi qua đó là Quốc lộ số 1, Quốc lộ
số 6 và 2 tuyến đường vành đai của Thành phố là đường vành đai 2, vành đai
3 nên rất thuận tiện cho việc giao lưu mở rộng thị trường phát triển kinh
doanh dịch vụ. Quận thuộc khu vực dự kiến phát triển đô thị của Thành phố
trung tâm do đó có lợi thế để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội; địa
hình của quận tương đối bằng phẳng thuận lợi cho quá trình phát triển đô thị.
Trên địa bàn quận có nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học, có 8 trường Đại học,
39
Cao đẳng, 5 trường Trung học chuyên nghiệp dạy nghề và nhiều nhà máy, xí
nghiệp với đông đảo đội ngũ các nhà khoa học, công nhân kỹ thuật lành nghề là nguồn lực dồi dào cho sự phát triển của quận22.
Phường Yên Hòa là một phường thuộc Quận Thanh Xuân. Năm 1997
Phường Yên Hoà được thành lập trên cơ sở Xã Yên Hoà với diện tích đất tự
nhiên 207,9 ha, gần 5000 hộ dân và trên 23000 nhân khẩu.
Theo báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội an ninh quốc
phòng năm 2006 của Phường Yên Hòa, trong năm 2006, công tác dân số gia
đình trẻ em của Phường được quan tâm, các chỉ tiêu về dân số cơ bản hoàn
thành, riêng chỉ tiêu sinh con thứ 3 trở lên không đạt yêu cầu. Ủy ban nhân
dân phường đã xây dựng 5 điểm đường dây tư vấn hỗ trợ trẻ em, triển khai
hoạt động hề cho trẻ em tại 11 cụm sân chơi.
Phường đã thực hiện chính sách ưu đãi người có công, chăm sóc các
đối tượng chính sách, đối tượng xã hội; phối hợp giải quyết việc làm cho
573/560 lao động; giảm 11 hộ nghèo; lập hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 83
người nghèo, cấp học bổng và nuôi đỡ đầu 7 con hộ nghèo, trợ cấp khó khăn
đột xuất cho 13 người; cấp thẻ đi xe buýt miễn phí cho 95 người thuộc diện
Trạm y tế phường được xây mới năm 2005, có 7 cán bộ trong đó có 2
bác sĩ, 1 nữ hộ sinh, 3 y tá điều dưỡng, và 1 y tá sơ cấp. Với điều kiện cơ sở
vật chất và con người như vậy trạm y tế đảm bảo việc thực hiện theo dõi và
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân trong phường. Cán bộ y tế thường
xuyên được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn, học tại chức hoặc bồi dưỡng.
Hiện nay trên địa bàn phường có 21 cơ sở y tế tư nhân và 3 cơ sở y học cổ
truyền. Phường đã duy trì đạt chuẩn quốc gia về y tế phường. Các chương
trình quốc gia về y tế, dân số gia đình và trẻ em được tiếp tục duy trì đều đặn.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh, quản lý hành
nghề y dược tư nhân được đẩy mạnh. Trên địa bàn phường không xảy ra dịch
22 www.hanoi.gov.vn
40
bệnh. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng là 9,3%.
Giáo dục: đây là địa phương được gọi là “đất khoa bảng ngàn năm văn
hiến”, theo lịch sử ghi chép thì Yên Hoà xưa có tới 17 vị tiến sĩ qua các triều
đại và được lưu danh ở Văn Miếu, ngoài ra hàng trăm người đỗ tú tài trong
các kỳ thi Hương, Hội. Hiện nay, phường có các trường từ mầm non đến phổ
thông trung học đều đạt chuẩn quốc gia. Nhiều giáo viên đạt giáo viên dạy
giỏi cấp quận và thành phố. Phong trào hoạt động khuyến học của Phường
cũng phát triển khá mạnh, có 44 chi hội trong đó có 8 chi hội dòng họ với
1509 hội viên.
Trong năm 2006, Ủy ban nhân dân phường đã duy trì đều đặn các hoạt
động thông tin tuyên truyền, duy trì phát thanh đều đặn 2 buổi mỗi buổi 30
phút. Ủy ban nhân dân phường đã đầu tư mua mới 02 máy phát thanh mới
nhằm đảm bảo công tác phát thanh tuyên truyền. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân
phường còn tổ chức tuyên truyền bằng các hình thức trực quan với 121 chiếc băng zôn = 702 m2; kẻ vẽ 10 pa nô = 50 m2; phướn 5 chiếc = 300 m2. Phường
đã tổ chức cổ động bằng xe ô tô, xe máy được 04 buổi phục vụ các hoạt động
do phường, quận và thành phố phát động; tổ chức 25 buổi văn nghệ chào
mừng các ngày lễ lớn trong năm; kết hợp với các đơn vị trong cụm văn hóa tổ
chức hội thi tìm hiểu kiến thức vệ sinh môi trường đạt kết quả tốt; tổ chức tốt
Hội nghị đại biểu nhân dân lần thứ 7 bàn về xây dựng đời sống văn hóa. Tỷ lệ
gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa của Phường đạt 90% trên tổng số hộ
gia đình. Các phong trào thể dục, thể thao được phát triển mạnh, tỷ lệ người
luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 36%. Phường đã kết hợp với các
ban ngành đoàn thể tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm tại Đình An Hòa và
Đình Yên Quyết.
Về an ninh trật tự trong năm 2006, tính đến ngày 20/11/2006, toàn
phường xẩy ra 94 vụ phạm pháp hình sự. Công an phường điều tra làm rõ
52/94 vụ. Công an phường tổ chức ký cam kết và phát phiếu tuyên truyền
phòng ngừa tội phạm, vận động 890 hộ dân lắp khóa trong, 450 hộ lắp khóa
41
bảo vệ xe máy.
Công an phường đã làm tốt công tác phòng, chống các loại tội phạm
đặc biệt là tội phạm ma túy, trong năm công an phường đã bắt giữ, lập hồ sơ
xử lý 12 vụ với 14 đối tượng, thu 04 cục, 23 gói nhỏ hê rô in và nhiều tài sản
vi phạm khác.
Lực lượng cảnh sát khu vực đã hướng dẫn cho 279 hộ có nhà cho thuê
trọ thực hiện tốt các quy định về an ninh trật tự. Tiếp tục duy trì 10/10 trạm
khai báo tạm trú và tiếp tục thực hiện mô hình “Xây dựng khu dân cư an toàn
về an ninh trật tự”, chuyên đề “nâng cao hiệu quả công tác quản lý các hộ cho
thuê nhà trọ” và quản lý “người hành nghề xe mô tô 2 bánh chở khách”.
2.2.2. Xây dựng bộ công cụ để đánh giá chất lƣợng dân số
2.2.2.1. Chỉ số BMI (Body Mass Index) (BMI của tổ chức Y tế Thế giới)
BMI phản ánh chất lượng con người về mặt thể lực, được tính như sau:
Trọng lượng cơ thể (kg)
BMI=
Bình phương của chiều cao (m2)
Nếu chỉ số BMI trong khoảng 17-24 là người có thể hình cân đối, khoẻ
mạnh. Chỉ số dưới 17 là người gầy ốm, trên 24 là người có xu thế béo phì.
2.2.2.2. Cách tính chỉ số chất lượng dân số (PQI)
* Đề tài “Nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến chất lượng dân số
và đề xuất những chính sách phù hợp về dân số và phát triển bền vững”, Uỷ
ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình, Việt Nam, 1999-2000,, đã
xây dựng chỉ số chất lượng dân số (PQI) là tổng cộng các chỉ thị có nhân
trọng số của 5 thành tố như sau:
Bảng 2. Các chỉ thị và trọng số trong PQI theo đề tài
của Ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình
STT Tên chỉ thị Ii Trọng số đơn Ci
42
I1 Ý thức xã hội của cộng đồng 0,25
I2 Cơ cấu tuổi (độ trẻ) 0,20
I3 Thể lực 0,18
I4 Trí lực 0,22
I5 Mức sống 0,15
Tổng 1,00
Các chỉ thị này được tính dựa trên 7 chỉ tiêu là: Tỷ lệ trẻ em (6-15 tuổi)
không phạm pháp hoặc tham dự vào tệ nạn xã hội; Tỷ lệ các hộ gia đình đạt
tiêu chuẩn gia đình văn hoá; Cơ cấu tuổi; Tỷ lệ lao động chính không phải
nghỉ việc vì ốm đau; Tỷ lệ người lớn biết chữ; Tỷ lệ dân số lao động kỹ thuật
và Tỷ lệ thu nhập dành cho ăn uống.
Có thể thấy chỉ số PQI nói trên đã đề cập đến những yếu tố cơ bản và
quan trọng của chất lượng dân số và do vậy là một công cụ trong việc đánh
giá chất lượng dân số của một cộng đồng, một địa phương. Tuy nhiên, các
trọng số nêu trên lại gây ra khá nhiều tranh cãi và cách giải thích chúng vẫn
làm cho nhiều nhà chuyên môn chưa được thoả mãn. Bên cạnh đó khó xác
định một số chỉ tiêu như tỷ lệ dân số lao động chính không phải nghỉ việc vì
ốm đau, tỷ lệ thu nhập dành cho ăn uống nếu không tiến hành điều tra rộng rãi
và kỹ lưỡng.
* Chỉ số PQI trong đề tài độc lập mã số ĐTĐL- 2003/15, nhánh I
“Nghiên cứu một số yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân
số”.
Chỉ số PQI đơn giản hơn với các chỉ thị đơn Pháp lệnh Dân số được
xác định dựa trên định nghĩa về chất lượng dân số trong bao gồm 3 thành tố là
thể chất, trí tuệ, tinh thần.
Chỉ số PQI được tính như sau:
Ci là trọng số của các chỉ thị đơn Ii, trong trường hợp này, các chỉ thị
đơn có trọng số Ci bằng nhau và đều bằng 1,0. Có 9 chỉ thị đơn dùng để xác
43
định 3 tiêu chí thể chất, trí tuệ và tinh thần.
PQI=1/9(I1+I2+…...I9)
* Thể chất
I1. Tỷ suất dân số ở độ tuổi lao động (15 - 60) có chỉ số BMI trong
ngưỡng khoẻ mạnh - cân đối (17 BMI 24) so với tổng số dân cùng độ tuổi
trong năm điều tra.
I2. Tỷ suất trẻ 0 tuổi không tử vong trên tổng số trẻ sinh ra còn sống
trong năm điều tra.
I3. Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng trên tổng số trẻ
cùng nhóm tuổi trong năm điều tra.
* Trí tuệ
I4. Tỷ suất thanh/thiếu niên ở nhóm tuổi 15 - 24 biết chữ trên tổng số
người cùng nhóm tuổi trong năm điều tra.
I5. Tỷ suất nhập học trung học cơ sở đúng tuổi (11 tuổi) trên tổng số trẻ
em cùng độ tuổi trong năm điều tra.
I6. Tỷ suất lao động kỹ thuật (từ tốt nghiệp trường dạy nghề ngắn hạn
đến Tiến sĩ) trong độ tuổi lao động (15 - 60) so với tổng số lao động cùng độ
tuổi trong năm điều tra.
* Tinh thần
I7. Tỷ suất các hộ gia đình có ít nhất 1 phương tiện thông tin đại chúng
trên tổng số hộ gia đình trong năm điều tra.
I8. Tỷ suất người không phạm pháp, tệ nạn xã hội trong nhóm 11 tuổi
trở lên, so với tổng số dân cùng nhóm tuổi trong năm điều tra.
I9. Tỷ suất hộ gia đình văn hoá trên tổng số hộ trong năm điều tra.
PQI sau khi tính toán có giá trị từ 0,0 đến 1,0
0,00 PQI 0,30 Chất lượng dân số khủng hoảng
0,30 < PQI 0,50 Chất lượng dân số thấp
0,50 < PQI 0,70 Chất lượng dân số trung bình
44
0,70 < PQI 0,90 Chất lượng dân số khá
0,90 < PQI 1,0 Chất lượng dân số tốt
Có thể thấy tính toán chỉ số PQI theo cách trên là bộ công cụ đánh giá
chất lượng dân số có hiệu quả nhất, nó có thể tính được chất lượng dân số
nông thôn và đô thị.
Do đề tài trên nghiên cứu đề tài độc lập mã số ĐTĐL- 2003/15, nhánh I
“Nghiên cứu một số yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số”
nghiên cứu cho cả nông thôn và đô thị nên có một số chỉ số không phù hợp
khi nghiên cứu chất lượng dân số đô thị Hà Nội. Sau quá trình trao đổi, tham
khảo ý kiến của các chuyên gia chúng tôi có thay đổi một số chỉ số cho phù
45
hợp với địa bàn nghiên cứu ở đô thị.
* Thể chất
I1. Tỷ suất dân số ở độ tuổi lao động (15 - 60) có chỉ số BMI trong
ngưỡng khoẻ mạnh - cân đối (17 BMI 24) so với tổng số dân cùng độ tuổi
trong năm điều tra.
I2. Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng trên tổng số trẻ
cùng nhóm tuổi trong năm điều tra.
I3. Tỷ lệ người không nghiện ma tuý trên tổng số dân trong năm điều
tra
* Trí tuệ
I4. Tỷ suất lao động kỹ thuật trên tổng số lao động trong năm điều tra.
I5. Tỷ suất hộ gia đình có máy vi tính nối mạng trên tổng số hộ gia đình
trong năm điều tra.
I6. Tỷ suất người có trình độ từ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học trở lên
trong năm điều tra.
* Tinh thần
I7. Tỷ lệ hộ gia đình dùng truyền cáp, đầu kỹ thuật số trên tổng số hộ
gia đình trong năm điều tra.
I8. Tỷ lệ hộ gia đình không phạm pháp trên tổng số hộ gia đình trong
năm điều tra.
I9. Tỷ suất hộ gia đình văn hoá trên tổng số hộ trong năm điều tra.
Sau khi lựa chọn các chỉ số, chúng tôi thu thập số liệu dựa theo báo cáo
của Ủy ban nhân dân Phường và số liệu điều tra thực tế.
Để tính Ii cần áp dụng phương trình tương quan
Tthực tế – T min
Ii = Tmax - Tmin
tỷ suất thực tế do điều tra địa bàn Trong đó: Tt:
Tmin: tỷ suất nhỏ nhất.
46
Tmax: tỷ suất kỳ vọng.
Tmin và Tmax được xác định theo Mục tiêu Thiên niên kỷ của Việt Nam
(VDG), trong đó Tmax là chỉ tiêu của năm 2010, Tmin là giá trị thấp nhất (1999
- 2000) xuất phát điểm của Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói
giảm nghèo của Việt Nam - Chiến lược đáp ứng mục tiêu Thiên niên kỷ VDG
2010. Việc áp dụng này là do phần lớn các chỉ thị đơn Ii và Sj được chọn theo
VDG.
Một số giá trị Tmin và Tmax còn lại, không có trong VDG, được lựa chọn
dựa theo tài liệu các ngành (Ví dụ Tổng cục Thống kê, Chiến lược Bảo vệ
Môi trường Việt Nam đến 2010…). Một số ít còn lại do không có tài liệu nào
nói đến, chúng tôi sẽ tự đề xuất.
Vì thế sẽ có số liệu điều tra Ttt thấp hơn Tmin hoặc lớn hơn Tmax, khiến
cho các chỉ thị Ii tính được sẽ âm (<0) hoặc lớn hơn kỳ vọng (>1,0). Trường
hợp thứ nhất phản ánh sự suy thoái, trường hợp thứ 2 phản ánh thực tế phát
triển đã vượt quá chỉ tiêu Thiên niên kỷ VDG 2010.
PQI sau khi tính toán có giá trị từ 0,0 đến 1,0
0,00 PQI 0,30: Chất lượng dân số khủng hoảng
0,30 < PQI 0,50: Chất lượng dân số thấp
0,50 < PQI 0,70: Chất lượng dân số trung bình
0,70 < PQI 0,90: Chất lượng dân số khá
47
0,90 < PQI 1,0: Chất lượng dân số tốt
2.2.3. Tính toán chất lƣợng dân số (PQI)
2.2.3.1. Số liệu điều tra BMI
Bảng 3. Số liệu điều tra BMI tại địa bàn nghiên cứu (%)
Tổng số BMI
Địa bàn nghiên cứu người 15- <17 >24 17 24 60 tuổi
390 2,8 79,8 17,4 Phường Hàng Gai
356 2,2 89,9 7,9 Phường Yên Hoà
Nhận xét:
1. Suy dinh dưỡng, gày còm (BMI < 17): Phường Hàng Gai có tỷ lệ lao
động suy dinh dưỡng thấp (2,8%), tuy nhiên so với Phường Yên Hoà (2,2%)
thì tỷ lệ này cao hơn 0,6%.
2. Béo phì (BMI > 24): Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động bị béo phì ở
Phường Hàng Gai cao (17,4%), Phường Yên Hoà thấp hơn (7,9%).
3. Khoẻ mạnh, cân đối (BMI từ 17 đến 24): Phường Yên Hoà có tỷ lệ
người khoẻ mạnh, cân đối cao (89,9%) và Phường Hàng Gai (79,8%)
Do vậy, cần phải có biện pháp cụ thể để tăng tỷ lệ khoẻ mạnh cân đối
và giảm tỷ lệ những người suy dinh dưỡng và béo phì. Khoẻ mạnh, cân đối là
một trong yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng nguồn lao động.
2.2.3.2. Các giá trị từ T2 đến T9
T2- Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng
T3- Tỷ suất người không nghiện ma tuý
T4- Tỷ suất lao động kỹ thuật
T5- Tỷ suất gia đình có máy vi tính nối mạng
T6- Tỷ suất người có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học trở lên.
48
T7- Tỷ suất các hộ gia đình dùng truyền hình cáp, đầu Kỹ thuật số
T8- Tỷ suất hộ gia đình không phạm pháp
T9- Tỷ suất hộ gia đình văn hoá
Bảng 4. Các giá trị từ T2 đến T9 của 2 phƣờng
Giá trị T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 Phƣờng
Hàng Gai 0,914 0.993 0,420 0,380 0,413 0,813 0,995 0,860
Yên Hoà 0,910 0,992 0,463 0,421 0,430 0,875 0,990 0,900
Nhận xét:
1. Giá trị T2 ở các phường nghiên cứu có giá trị khá cao (trên 90%),
Điều này phản ánh hiệu quả cao của công tác chăm sóc y tế cũng như sức
khoẻ của trẻ em dưới 5 tuổi.
2. Giá trị T3 ở các phường gần đạt kỳ vọng (Phường Hàng Gai: 0,993;
Phường Yên Hòa: 0,992).
3. Giá trị T4 (Tỷ suất lao động có kỹ thuật) đều đạt trên mức kỳ vọng
(0,4).
4. Giá trị T5 (Tỷ suất gia đình có máy vi tính nối mạng) có sự chênh
lệch giữa Yên Hoà (0,421) và Hàng Gai (0,38).
5. Giá trị T6 (Tỷ suất người có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học
trở lên) của các phường đều dưới 0,5.
6. Giá trị T7 (Tỷ suất các hộ gia đình dùng truyền hình cáp, đầu Kỹ
thuật số): Phường Hàng Gai thấp hơn Phường Yên Hoà.
7. Tỷ suất hộ gia đình không phạm pháp T8 đạt rất cao (0,99).
8. Tỷ suất hộ gia đình văn hoá T9: Phường Yên Hoà đạt mức kỳ vọng
49
(0,9), Phường Hàng Gai thấp hơn (0,86).
2.3.3.3. Các giá trị Tmin và Tmax
Bảng 5: Các giá trị Tmin, Tmax
Nguồn tài liệu Chỉ thị đơn Ii Tmin Tmax
I1. BMI trong ngưỡng 1724 Tmin = 0,500 Tmax = 1,000
Tmin = 0,613 I2. Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng
Đề tài độc lập mã số ĐTĐL – 2003, nhánh I “Nghiên cứu một số yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng dân số”, chủ trì đề tài nhánh GS.TS Phạm Tất Dong Đắc Lắc 2003- Số liệu thống kê KT- XH những năm đầu thế kỷ XXI. TC Thống kê-UNICEP. NXB Thống kê, Hà Nội 2004, Tr.96
Tmax = 0,800 VDG 2010
Tmin = 0,950 Bộ Lao động - Thương binh xã hội
I3. Tỷ lệ người không nghiện ma tuý Tmax = 1,000 2004
Tmin = 0,027 Tổng cục thống kê I4. Tỷ suất lao động có kỹ thuật Tmax = 0,400 VDG 2010
I5. Tỷ suất gia đình có máy vi tính nối mạng
Tmin = 0,000 Bộ Bưu chính viễn thông Tmax = 0,520
Tmin = 0,000
Tự đề xuất Tmax = 1,000
Tmin = 0,000
Tự đề xuất Tmax = 1,000
I6. Tỷ suất người có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học trở lên I7. Tỷ lệ hộ gia đình dùng truyền hình cáp, đầu Kỹ thuật số I8. Tỷ lệ hộ gia đình không phạm pháp Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2004 Tmin = 0,950 Tmax = 1,000
50
Tmin = 0,500 I9. Tỷ lệ hộ gia đình văn hoá Tự đề xuất
Tmax = 0,900 Mục tiêu đạt được của Hà Nội đến năm 2010
2.3.3.4. Xác định các chỉ thị đơn Ii dựa vào phương trình tương quan và giá trị PQI
Ghi chú:
Nếu Tthực > Tmax, Ii sẽ lớn hơn 1,0. Đó là trường hợp tiêu chí vượt quá
giá trị kỳ vọng (ví dụ vượt quá mục tiêu Thiên niên kỷ VDG). - Nếu T thực < Tmin, Ii < 0, đây là trường hợp suy thoái.
Bảng 6: Các giá trị PQI của 2 phƣờng
Giá trị PQI I1 I2 I3 I4 I5 I6 I7 I8 I9 Phường
Hàng Gai 0,596 1,609 0,86 1,053 0,730 0,413 0,813 0,900 0,900 0,875
Yên Hoà 0,798 1,588 0,84 1,168 0,809 0,430 0,875 0,800 1,000 0,923
Nhận xét:
1. Sau khi tính toán PQI, ta thấy chất lượng dân số Phường Hàng Gai đạt loại khá (PQI = 0,875), chất lượng dân số Phường Yên Hoà đạt loại tốt (PQI = 0,923).
2. Hai chỉ thị I2 (Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng) và I4 (Tỷ suất lao động có kỹ thuật) của các mẫu nghiên cứu đều đạt giá trị rất cao (tất cả đều trên kỳ vọng với I2, 4> 1,0. Điều này phản ánh hiệu quả cao của công tác chăm sóc sức khoẻ trẻ em và đào tạo tay nghề cho lực lượng lao động được quan tâm.
3. Chỉ thị I5 (Tỷ suất gia đình có máy vi tính nối mạng): có sự chênh
lệch giữa Phường Hàng Gai (0,730) và Phường Yên Hòa (0,809)
4. Chỉ thị I6 (Tỷ suất người có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học
trở lên) là thấp nhất (Phường Hàng Gai: 0,413; Phường Yên Hòa: 0,430).
51
5. Đánh giá chung: Dựa theo kết quả tính toán PQI với các giá trị kỳ vọng Imax được chọn theo VDG, có thể thấy chất lượng dân số Phường Hàng Gai đạt loại khá, Phường Yên Hoà đạt loại tốt.
Như vậy, chưa hẳn ở khu vực trung tâm, khu vực phố cổ chất lượng dân số đã tốt. Bởi vì ở đó bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế- xã hội như điều kiện nhà ở chật chội, thiếu ánh sáng, điều kiện vệ sinh … đã tác động không tốt đến chất lượng dân số. Cần xem xét và quan tâm hơn nữa đến việc cải thiện cuộc sống và nâng cao chất lượng dân số. 2.2.4. Các yếu tố kinh tế xã hội tác động đến chất lƣợng dân số
2.2.4.1. Thu nhập và phân bổ thu nhập
Thu nhập và phân bổ thu nhập là một trong những chỉ báo quan trọng
để đo mức sống dân cư nói riêng và chất lượng dân số nói chung.
Trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội ngày càng
cao. Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, năm 2007, công nghiệp của Hà
Nội tăng 21,4%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 21,9%;
xuất khẩu tăng 22%, so với mức tăng bình quân 15,3% cho giai đoạn 2000-
2005 (Hà Nội đã mở quan hệ giao thương với trên 180 quốc gia và vùng lãnh
thổ); vốn đầu tư toàn xã hội tăng 22%; thu ngân sách tăng 19,2%; hàng hóa
vận chuyển tăng 8,4%; 365 triệu lượt khách đi xe buýt; giá trị sản xuất nông,
lâm, thủy sản tăng 2,44%; tổng vốn huy động trên địa bàn tăng 36% so với 2006 lên 341,7 ngàn tỷ.23
Mặc dù chỉ chiếm 3,9% về dân số và khoảng 0,3% diện tích lãnh thổ,
Hà Nội đóng góp 8,4% vào GDP cả nước, 8,3% giá trị kim ngạch xuất khẩu,
8,2% giá trị sản xuất công nghiệp, 9,6% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng, 10,2% vốn đầu tư xã hội, 14,1% vốn đầu tư nước ngoài đăng ký và 14,9% thu ngân sách nhà nước.24
Trong năm 2007, tốc độ tăng GDP của Hà Nội là 12,08 % (cả nước là
8,48%). GDP bình quân đầu người là 31,8 triệu đồng, cao gấp hơn 2 lần thu
nhập bình quân đầu người của cả nước (13,4 triệu đồng). Vốn đầu tư xây
dựng cơ bản ngân sách địa phương là 6.189 tỷ đồng. Vốn đầu tư xã hội tính
23 www.myhanoigroup.com 24 www.myhanoigroup.com
52
bình quân đầu người là 18.577,8 nghìn đồng (năm 2000: 5.597 nghìn đồng,
2004: 9398 nghìn đồng, 2005: 11.467 nghìn đồng, 2006: 17.344,7 nghìn
đồng). Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng địa phương tính bình quân đầu người là
1.187,3 nghìn đồng (năm 2000: 278 nghìn đồng, 2004: 531 nghìn đồng, 2005: 1060 nghìn đồng, 2006: 997,4 nghìn đồng).25
Theo đánh giá của người dân và cán bộ địa phương thì tình hình phát
triển kinh tế của hộ gia đình đều tăng lên so với trước kia.
“Nếu tính theo mặt bằng giá thì không thể nói được vì hiện nay so với 5
năm trước thì giá có tăng mạnh. Xét về tình hình phát triển kinh tế của quận
Hoàn Kiếm thì phường Hàng Gai đứng thứ 6, tình hình tăng trưởng trong 5
năm trở lại đây tăng từ 2-2,5 lần” (Nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ
Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Tôi mới quản lý lĩnh vực này được 3 năm thôi nhưng tôi sống ở đây
lâu rồi. Cuộc sống của người dân hiện nay thay đổi rất nhiều so với những
năm về trước, họ giàu lên một cách nhanh chóng” (Nam, 36 tuổi, trình độ
Đại học, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập của các hộ gia đình đều tăng so
với trước, thu nhập chủ yếu ở mức 3-5 triệu đồng/tháng (Hàng Gai 37,3%;
Yên Hoà 34,2%). Những hộ có thu nhập cao >10 triệu đồng chiếm tỷ lệ
không nhỏ (khoảng 10%).
Bảng 7. Thu nhập của hộ gia đình (%)
Phường Hàng Gai Yên Hoà Số tiền
<3triệu 12.3 32.0
3-5 triệu 34.2 37.3
>5-7 triệu 21.1 7.3
25 Cục Thống kê thành phố Hà Nội , Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội, 2008.
53
>7-10 triệu 22.8 12.7
>10 triệu 9.6 10.7
54
Tổng 100.0 100.0
Nếu đem so sánh kết quả nghiên cứu với kết quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 do Tổng cục Thống kê tiến hành26 thì có thể thấy
mức thu nhập phổ biến ở địa bàn nghiên cứu (Yên Hoà 6.95 triệu đồng/tháng;
Hàng Gai 5.575 triệu đồng/tháng) khá cao so với mức thu nhập bình quân của
khu vực thành thị.
Khi có thu nhập cao, họ mua sắm tiện nghi sinh hoạt trong gia đình,
đầu tư con cái học tập, rồi đi du lịch…
“Khi họ có tiền, nhu cầu vui chơi giải trí của họ cũng nhiều hơn, họ
muốn hưởng thụ món ăn ngon của nhà hàng và họ thích đi du lịch trong
nước, du lịch nước ngoài, bây giờ họ đi nhiều lắm” (nam, 36 tuổi, trình độ
Đại học, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà, Đại học).
Bảng 8. Thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình/tháng (đơn vị: 1.000 đồng)
Thu nhập Chi tiêu
Phƣờng (1) (2) (3) (1) (2) (3)
Hàng Gai 5575 30.000 500 4158 20.000 500
Yên Hoà 6.950 30.000 1.200 4.750 16.000 700
(1) Giá trị trung bình
(2) Giá trị cao nhất
(3) Giá trị thấp nhất
Nhìn vào bảng trên ta thấy, mức thu nhập và chi tiêu trung bình của
26 Kết quả khảo sát sơ bộ mức sống hộ gia đình năm 2004 do Tổng cục Thống Kê tiến hành: thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá hiện hành đạt 484.000 đồng; ở khu vực thành thị, thu nhập đạt 795.000 đồng
55
Phường Yên Hòa cao hơn Phường Hàng Gai (mức thu nhập trung bình của
Hàng Gai: 5.575.000 đ, Yên Hòa: 6.950.000 đ; chi tiêu trung bình của Hàng
56
Gai: 4.158.000 đ, Yên Hòa: 4.750.000 đ).
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, chênh lệch mức sống
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội đang có xu hướng tăng lên. Qua số liệu
trên ta cũng thấy có khoảng cách khá xa về thu nhập giữa hộ có thu nhập cao
nhất và hộ có thu nhập thấp nhất. So sánh giá trị 2 và giá trị 3 thì khoảng cách
đó ở Hàng Gai là 60 lần và ở Thanh Xuân Bắc là 18 lần. Số liệu này phù hợp
với con số có 34 hộ nghèo thuộc Phường Hàng Gai và 11 hộ thuộc diện nghèo
thuộc Phường Yên Hòa. Sự chênh lệch về mức thu nhập này là do đặc điểm
dân cư của từng phường, Hàng Gai là khu vực phố cổ có nhiều cửa hàng kinh
doanh buôn bán, Yên Hoà là phường đang có tốc độ đô thị hoá nhanh.
Nhìn chung những hộ nghèo trên địa bàn nghiên cứu thường có hoàn
cảnh éo le, không có lao động, hoặc là có người mắc vào tệ nạn xã hội.
“Đó là những hộ cô đơn, già cả không có sức lao động, hoặc có sức
lao động những không có vốn để kinh doanh, hoặc trong gia đình có người
mắc vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma tuý...” (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học,
Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Những hộ nghèo thường là gia đình có người bị tàn tật hoặc có người
nghiện ma tuý” (nam, 36 tuổi, trình độ Đại học, Phó chủ tịch Ủy ban nhân
dân phường Yên Hoà, Đại học).
Việc giúp đỡ các hộ thoát nghèo là mong muốn của địa phương cho
nên bên cạnh việc chú ý tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh phát triển thì
phường cũng luôn quan tâm, giúp đỡ hộ nghèo như trợ cấp hàng tháng, tặng
sổ tiết kiệm, cho vay vốn, hỗ trợ việc làm…
“Những hộ thực sự nghèo do không có sức lao động hàng tháng được
trợ cấp 350 nghìn đồng/tháng. Còn đối với người có sức lao động được nhận
vào tổ tự quản hoặc giới thiệu việc làm để có thu nhập”. (nam, 78 tuổi, trình
độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Phường tặng hơn 30 sổ tiết kiệm cho các hộ đó, mỗi sổ 1 triệu đồng.
57
Xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa được hơn 40 triệu đồng sửa chữa nhà cửa
cho người tàn tật; tổ chức đối tượng chính sách đi an dưỡng tuổi già” (nam,
36 tuổi, trình độ Đại học, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
“Trong năm 2008, Phường đã lập hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 83
người nghèo, cấp học bổng và nuôi đỡ đầu 7 con hộ nghèo, trợ cấp khó khăn
đột xuất cho 13 người, cấp thẻ đi xe buýt miễn phí cho 95 người thuộc diện”
(Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng
năm 2006 của Phường Yên Hòa).
Địa bàn Hàng Gai khu vực phố cổ, hiện nay đang quá tải thành phố
muốn dãn dân sang khu đô thị mới Việt Hưng nhưng người dân không hào
hứng lắm với chủ trương này.
“Thành phố đã làm việc với Quận Hoàn Kiếm muốn dãn dân nhưng
người dân thì họ không hào hứng lắm với chủ trương này. Họ sống chật
nhưng họ còn lo cuộc sống, bán nước họ cũng sống được; Những gia đình
nuôi lợn dãn dân thì làm thế nào? Người ta chuyển đổi sang ngành nghề gì để
sống” (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường
Hàng Gai).
Vì những lý do đó, họ chấp nhận cuộc sống chật chội, tối tăm, ẩm thấp,
điều kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo... để bám trụ phố cổ trong khi họ
có thể đổi nhà nhỏ của mình đang ở lấy mấy căn nhà ở khu chung cư. Họ
không muốn chuyển đi vì đây không chỉ là nơi gắn bó của gia đình họ bao đời
nay mà còn là nơi tạo ra thu nhập cho gia đình, đặc trưng ở khu phố cổ - nhà
vừa là nơi ở vừa là nơi kinh doanh sản xuất tạo ra thu nhập cho gia đình.
"Cửa hàng này là nguồn sống của cả gia đình, mà nhiều người muốn
mua hàng chỉ tìm đến phố cổ, nên tôi không muốn di chuyển". (Nữ, chủ cửa
58
hàng phụ trang sân khấu tại số 52 Hàng Ngang).
"Mỗi ngày tôi bán hơn 100 tô, đảm bảo thu nhập cho cả gia đình và 4
người giúp việc, bán hàng tại đây tôi mới có nguồn thu như vậy, nên ở chật
27 www.dothi.net (Sống hẹp trong phố cổ)
59
cũng chấp nhận được”27 .
Như vậy, có thể thấy rằng yếu tố thu nhập ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng dân số. Thu nhập của người dân đô thị Thành phố Hà Nội đã tăng
lên đáng kể trong những năm gần đây. Khi có thu nhập người ta mua sắm tiện
nghi sinh hoạt phục vụ cho cuộc sống nhưng cũng chính vì thu nhập mà người
ta phải chấp nhận cuộc sống nhiều bất cập. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
những hộ thuộc diện nghèo tại đô thị. Do vậy, bên cạnh việc chú ý tạo điều
kiện cho các hộ kinh doanh phát triển thì các phường cũng luôn quan tâm,
giúp đỡ hộ nghèo như trợ cấp hàng tháng, tặng sổ tiết kiệm, cho vay vốn, hỗ
trợ việc làm.
2.2.4.2. Lao động và việc làm
Lao động và việc làm có mối quan hệ rất mật thiết với thu nhập và phân
phối thu nhập. Có việc làm ổn định hay không, tham gia loại hình lao động
nào, thu nhập từ nguồn chính và phụ ra sao đều thể hiện tác động của lao
động và iệc làm đến chất lượng cuộc sống, mức sống của các hộ gia đình.
Dân số tăng nhanh ở khu vực Hà Nội (cả tự nhiên lẫn cơ học) đặc biệt
là sự gia tăng cơ học đã tạo nên một sức ép lớn đối với việc đào tạo và sử
dụng lao động có chất lượng cao. Mặc dù số lượng việc làm có tăng nhưng
không đáp ứng được với nhu cầu của người lao động.
Trong năm 2007, Hà Nội đã giải quyết việc làm cho 56.300 người
trong đó giải quyết được việc làm ổn định cho 29.456 người (tuyển vào khu
vực nhà nước: 5.946 người; tuyển vào khu vực ngoài nhà nước: 21298 người; tuyển sinh 5318 người); giải quyết việc làm tạm thời cho 26844 người. 28
8 tháng đầu năm 2008, toàn thành phố giải quyết việc làm cho 86.483
người (đạt 70,8% kế hoạch năm), đào tạo nghề cho 57.500 người (đạt 49,1%
kế hoach) và đưa 7.118 hộ thoát nghèo (đạt 54,7% kế hoạch năm). Thu nhập
bình quân một lao động / tháng trong khu vực kinh tế Nhà nước do Thành phố
28 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008. 29 www.gso.gov.vn (Tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 09 tháng đầu năm 2008)
60
quản lý 6 tháng năm 2008 là 2.107 ngàn đồng, tăng 21,2% so cùng kỳ (do Nhà nước thay đổi mức lương cơ bản từ 450 ngàn đồng lên 540 ngàn đồng).29
Theo báo cáo của Phường Hàng Gai, năm 2006 Phường đã chứng nhận
hồ sơ xin việc làm cho 550 trường hợp. Phường Yên Hòa đã phối hợp giải
quyết việc làm cho 573 lao động.
Yếu tố trình độ học vấn của người lao động khá quan trọng, những
người có trình độ học vấn cao thì có khả năng kiếm việc sẽ dễ dàng hơn.
Vậy trình độ học vấn của người trong độ tuổi lao động được phỏng vấn
tại Phường Hàng Gai và Phường Yên Hòa như thế nào?
Bảng 9: Trình độ học vấn của những ngƣời trong độ tuổi lao động (%)
Phƣờng Hàng Gai Yên Hoà Trình độ
Tiểu học 1.0 1.4
Trung học cơ sở 10.0 7.9
Trung học phổ thông 47.0 44.4
Trung cấp, Cao đẳng, 41.0 44.7
Đại học
Trên Đại học 1.0 1.6
Tổng 100.0 100.0
Có thể thấy rằng, số lao động của các phường có trình độ Trung cấp,
Cao đẳng, Đại học trở lên chiếm tỷ lệ cao. Con số này ở Phường Yên Hoà là
46,3% và ở Phường Hàng Gai là 42%.
Qua phỏng vấn chúng tôi biết được, trình độ học vấn thấp thường rơi
vào người có tuổi vì trước đây do không có điều kiện học hành học, do đặc
thù địa bàn. Hàng Gai - khu vực 36 phố phường gắn liền với ngành nghề
truyền thống. Với đặc trưng nghề thủ công này, những gia đình ngày trước thì
61
thường cho con đi học hết cấp 2, cấp 3 rồi sau đó nghỉ học quay sang làm
nghề của gia đình. Đặc điểm nghề này là truyền lại do kinh nghiệm của người
đi trước, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau do đó không còn phải có trình
độ cao mà điều quan trọng là phải chăm chỉ và khéo léo.
“Ở thời của bác trước đây thì thấp, có bằng đại học là quý lắm rồi
nhưng những năm gần đây người ta chú ý nhiều đến giáo dục, các nhà đều
đầu tư cho con học. Gần đây, khu này không có học sinh bỏ học giữa chừng,
ít nhất cũng học hết cấp III. Đội ngũ lao động trẻ trình độ học vấn tương đối
cao: cao đẳng, đại học và trên đại học cũng có. Nhưng những người 40 tuổi
trở lên thì thấp, đặc biệt là những người đi làm cửu vạn hay đi chợ…Do trình
độ không cao nên cũng chỉ làm những công việc ấy thôi” (T.V.T, nam, 65
tuổi, phường Yên Hòa).
“Ngày trước người ta thường cho con cái học hết cấp 3 rồi ở nhà làm
nghề của gia đình, bây giờ người ta mới chú trọng cho con đi học, đi làm
ngoài nhiều nên trình độ học vấn bây giờ cao hơn trước kia” (nam, 78 tuổi,
trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
Về việc làm, khác với khu vực nông thôn, khu vực thành thị cơ cấu
nghề nghiệp khá đa dạng.
“Trên địa bàn phường có nhiều tổ dân phố mới lập cho nên người dân
ở đó là cán bộ công nhân viên - họ thu nhập từ lương. Còn người dân
(khoảng 1/3 dân số) làm nghề tự do - thu nhập từ các ngành nghề dịch vụ:
vận tải, xe ôm; và nghề truyền thống của làng là làm giấy, vàng mã và các
nghề tiểu thủ công nghiệp” (nam, 36 tuổi, trình độ Đại học, Phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường Yên Hoà).
Khu vực Hàng Gai do đặc trưng của quy hoạch, mỗi dãy phố chuyên
làm hoặc chuyên bán một thứ sản phẩm nên có cách gọi và đặt tên rất đặc
trưng, thường bắt đầu tên gọi bằng chữ “Hàng”. Hiện nay ở một số tuyến phố
các hộ gia đình vẫn giữ được ngành nghề truyền thống nhưng để phù hợp với
nhu cầu hiện nay bên cạnh bảo lưu những ngành nghề truyền thống thì người
ta có đổi mới ví dụ như Phố Hàng Thiếc, ngày xưa người ta hay làm tàu thuỷ,
đèn dầu… nhưng hiện nay một số gia đình chuyển sang làm đồ innox như tủ
62
bếp, bình đựng nước.... Hay như Phố Hàng Nón, với điều kiện sống thủ đô
với bộ quần áo thời trang nếu đội thêm chiếc nón thì thật là không phù hợp.
Hiện nay phố Hàng Nón chuyển sang làm nghề khung nhôm kính, một số hộ
mở cửa hàng dịch vụ.
“Trong 36 phố phường thì Hàng Thiếc là một trong những ngành hàng
còn giữ được. Ngày xưa, Phố Hàng Thiếc làm tàu thuỷ bằng sắt cho dầu, thả
tầu vào nước rồi đốt nó chạy vòng vòng. Bây giờ người ta làm bể inox, hút
mùi trong bếp,…Ngoài ra ở Phố Hàng Thiếc người ta còn phát triển nghề
gương kính và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Nghề làm mành ở Phố Hàng
Mành hiện nay vẫn còn nhưng không nhiều. Không những làm mành bằng tre
mà người ta còn làm bằng các chất liệu khác thông qua những công nghệ
mới. Mành tre hiện nay vẫn còn nhưng không nhiều. Nghề khắc dấu ở Phố
Hàng Quạt hiện nay vẫn còn nhưng không nhiều, chỉ có khoảng 10 hộ vẫn
làm nghề này. Khác du lịch nước ngoài, đặc biệt là khách Trung Quốc rất
thích làm con dấu tên. Chính do nhu cầu của khách du lịch nên nghề này mới
phát triển” (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường
Hàng Gai).
Vấn đề thất nghiệp hay thiếu việc làm luôn là vấn đề bức xúc của xã
hội, kết quả nghiên cứu cho thấy các phường đã có những quan tâm nhất định
đối với việc giải quyết việc làm cho người thất nghiệp tại địa phương. Hàng
năm đều đã có sự thống kê về kết quả giải quyết việc làm trong năm qua.
Theo số liệu báo cáo của các phường thì lao động thất nghiệp được giải quyết
việc làm chiếm hơn 90%. Như vậy kết quả giải quyết việc làm cho người lao
động là rất cao. Vấn đề tạo việc làm cho người sau cai trở về và người dân
mất đất cũng được các phường đặc biệt chú ý.
“Các cháu sau khi cai nghiện thì 100% được phường tạo điều kiện và
giới thiệu việc làm. Có cháu đi làm lái xe lương cũng đươc 1triệu - 2 triệu/
tháng hoặc bố trí các cháu vào đội tự quản, trông xe lương tháng cũng được
1,5 triệu” (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường
Hàng Gai).
“Trong tương lai phường sẽ mở rộng và phát triển một số ngành nghề
63
truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, phát triển hợp tác xã kinh doanh dịch
vụ,... Cải tạo chợ Hợp nhất để dân có điều kiện phát triển kinh tế, mở rộng
dịch vụ vận tải, để giải quyết việc làm cho người dân mất đất, hỗ trợ, chuyển
đổi nghề nghiệp do không có tay nghề” (nam, 36 tuổi, trình độ Đại học, Phó
chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
Một khó khăn đặt ra hiện nay đối với các phường là chính những người
có khả năng lao động, trình độ học vấn thấp lại không thích làm công việc
chân tay trong khi không có khả năng tìm công việc nào khác.
“Những người có sức lao động nhưng không có vốn để kinh doanh
buôn bán cho họ đi làm họ còn chọn nghề chứ không đi làm ngay. Ra trông xe
máy không trông, đi làm vệ sinh đường phố 25 nghìn đồng/ngày không đi.
Vận động ra làm tự quản 1triệu/tháng cũng không đi. Họ chọn bán hàng nước
10-15 nghìn đồng/ngày hoặc ghi số đề 20 nghìn đồng/ngày, họ bảo tội gì phải
đi làm vạc mặt ở đường phố.” (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ Mặt
trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Khó khăn lớn nhất là giải quyết việc làm cho lao động đổ tuổi 40 trở
lên mà vẫn còn sức lao động. Họ không được trang bị kiến thức, kỹ thuật;
phường định hướng cho lực lượng này làm nghề xe ôm, hỗ trợ vốn để họ ổn
định việc làm, để phát triển dịch vụ nhỏ còn lực lượng trẻ có kiến thức nên cơ
hội việc làm cũng dễ hơn” (nam, 36 tuổi, trình độ Đại học, Phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường Yên Hoà, Đại học).
Như vậy, trình độ học vấn của những người lao động ngày một nâng
cao, việc làm được quan tâm, chú trọng nên góp phần giảm thiểu tỷ lệ thất
nghiệp của địa phương đồng thời các tác động tích cực đến chất lượng dân số
đô thị thành phố Hà Nội.
2.2.4.3. Giao thông liên lạc.
* Giao thông
Theo khảo sát mới nhất của Sở Giao thông công chính Hà Nội, hiện
64
mạng lưới đường khu vực nội đô có chiều dài 598km với diện tích mặt đường
hơn 7,3km2. Mật độ đường bình quân rất thấp, chỉ đạt 4,38km đường/km2,
trong đó, đặc biệt có tới trên 60% các nút giao thông của thành phố đã quá tải lượng phương tiện (trên 6.000 xe/giờ). 30
Việc quá tải này được đánh giá bằng cách tính từ 2 - 3 lượt tín hiệu đèn
xanh nhưng phương tiện không thoát qua nút. Có tới 80% số đường có mặt
cắt dưới 11m, có 35 điểm giao cắt với đường sắt, vỉa hè chật hẹp (từ 3 - 8m)
và thường bị chiếm dụng để kinh doanh. Hầu hết các tuyến đường không có
làn dành riêng cho xe buýt, mạng lưới xe buýt chưa hoàn chỉnh, các tuyến chưa phù hợp, nhiều tuyến đường nhỏ nhưng xe buýt lớn.31
Những yếu tố ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông, đó là phương
tiện giao thông tăng mạnh. Trong 6 tháng đầu năm 2007, đã đăng ký đưa vào
tham gia giao thông 93.883 phương tiện cơ giới, trong đó, ôtô 9.598 xe (tăng
4.537 xe), xe môtô 84.285 xe (tăng 15.891 xe) nâng tổng số phương tiện đang
quản lý là 185.529 xe ôtô, 1.850.012 môtô (chưa kể xe quân đội, xe của các cơ quan Trung ương). 32
Tiếp đến là các công trình trọng điểm của thành phố đang trong quá
trình thi công, tiến độ chậm được đưa vào khai thác, do vậy phương tiện tăng
nhưng đường sá chưa tăng, dân cư chuyển dịch tự do vào thành phố cũng tăng
mạnh gây áp lực đối với giao thông thành phố (86.000 người, tăng 39% so với
năm 2006). Ngoài ra, ý thức chấp hành của một số người chưa cao. Nhiều
phương tiện bị hạn chế vào giờ cao điểm vẫn hoạt động gây ùn tắc giao thông. Hiện thành phố cũng mới chỉ xoá 26/52 điểm đen về tai nạn giao thông.33
Giao thông là yếu tố có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và tiến
bộ vì chúng liên quan đến vấn đề và đảm bảo cho cuộc sống người dân. Nhìn
chung hệ thống giao thông tại địa bàn nghiên cứu tương đối tốt, trên 90% các
ngõ phố đều là đường nhựa và đường bê tông. Phường Hàng Gai có 11 tuyến
30 www.laodong.com.vn 31 www.laodong.com.vn 32 www.laodong.com.vn 33 www.laodong.com.vn
65
phố, ngõ, trong đó đã hình hình thành tuyến phố văn minh đô thị, tuyến phố
chuyên doanh, và tuyến phố 3 trật tự. Tuyến phố văn minh đô thị: Hàng
Bông- Hàng Gai: một trong yêu cầu không được để xe dưới lòng đường;
tuyến phố chuyên doanh Hàng Gai, chuyên bán hàng tơ lụa và đồ lưu niệm
cho khách nước ngoài. Tuyến phố 3 trật tự: Trật tự đô thị; Trật tự giao
thông;Vệ sinh môi trường.
“Tuyến phố văn minh trật tự chúng tôi thực hiện được 4 năm nay rồi,
còn tuyến phố chuyên doanh năm ngoài thực hiện giai đoạn 1, giai đoạn 2 thì
còn dài. Trong giai đoạn 2, chúng tôi tiếp tục vận động những hộ kinh doanh
đưa ra quy chế cửa hàng như về giá cả, thái độ phục vụ khách hàng, trang trí
cửa hàng…bên cạnh đó kết hợp với thực hiện tuyến phố văn minh đô thị đã
giúp cho phát triển kinh tế phường”. (nam, 78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ
Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
Nhưng hiện nay, đường đi bị thu hẹp, vỉa hè bị lấn chiếm do xây dựng
cơi nới trái phép của các hộ dân đã xâm phạm đến các hạng mục công trình
vốn chất lượng đã kém, xuống cấp nhanh, gây ùn tắc giao thông, úng ngập
trong những ngày mưa, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của
người dân…Đây là những vấn đề bức xúc trong đời sống của người dân.
Tại đây, ngày nắng thì bụi mù mịt, còn ngày mưa thì như một cái ao,
thậm chí những ngày mưa to như hôm 4.9 vừa qua thì cả đoạn đường như
một khúc sông, khiến chúng tôi hoàn toàn bị cô lập với bên ngoài" (L.A.Đ,
nam, tổ 49 phường Yên Hoà).
66
Ảnh 1: Chụp tại cuối đƣờng ngã 3, đƣờng Trung Kính, phƣờng Yên Hòa
Hiện tượng ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra vào giờ tan tầm, đặc
biệt ở khu vực trường học, cha mẹ đón con lấn chiếm hết vỉa hè, lòng đường
hay việc bố trí tuyến xe buýt loại lớn đi qua lấn hết vị trí lòng đường hay
những xích lô dàng hàng chục cái, đi chậm chậm trong khu vực phố cổ gây
tắc nghẽn giao thông.
“Đường phố nhà cửa thì khang trang nhưng chỉ có một cái khó là vỉa
hè quá nhỏ, có chỗ gần như không có vỉa hè. Công an phường đã rất tích cực
trong việc đảm bảo, giữ gìn trật tự an toàn giao thông trên địa bàn phường,
đặc biệt là các điểm đông dân cư và khu vực trường học như cổng trường tiểu
học, trung học cơ sở, giếng Chùa…nhưng vì đường hẹp, lượng xe cộ qua lại
động nên đôi khi vẫn xảy ra ùn tắc” (H.T.D, nam, 31 tuổi, Cán bộ văn hóa
phường Yên Hoà).
“Đặc biệt là khu vực phố cổ với bề rộng lòng đường dưới 8m, luôn
xuất hiện nhiều tuyến xe buýt 80 chỗ, 60 chỗ chạy qua lấn chiếm hết lòng
đường rồi những đoàn dài xích lô chở khách du lịch đi vào các giờ cao điểm họ gây ùn tắc giao thông phố cổ”34
34 www.dothi.net
67
Ảnh 2: Đoàn xe xích lô 35
Tắc nghẽn giao thông gây ra ảnh hưởng rất lớn đến việc đi lại của
người dân, ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người do không khí bị ô nhiễm:
khí thải từ các phương tiện giao thông, bụi, gây mệt mỏi, căng thẳng. Không
những thế còn ảnh hưởng đến buôn bán của người dân. Như vậy việc phân bố
luồng giao thông không hợp lý đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống
của người dân.
Tắc nghẽn giao thông gây ra ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân
tham gia giao thông và những hộ dân sống ở mặt đường.
“Khi giao thông bị tắc, người ta hay cáu bực lắm, có thể văng tục ra
rất mất lịch sự. Không những vậy, nó còn ảnh hưởng sức khoẻ của con người,
không khí nhiễm bụi, khí thải từ động cơ xe máy, trong khi mật độ dân số
tham gia giao thông thì ngày càng cao.” (Nam, 47 tuổi, Cán bộ phường Yên
Hòa)
Như vậy ở đô thị thành phố Hà nội, ùn tắc giao thông đang là vấn đề
lớn, ít nhiều ảnh hưởng đến thể chất, trí tuệ, tinh thần của người dân, làm
giảm chất lượng dân số. Do vậy, người dân mong muốn chính quyền địa
35 www.tracotour.com
68
phương cải tạo hệ thống giao thông.
“Nhìn chung cơ sở hạ tầng của phường tương đối tốt nhưng về đường,
ngõ phố cần phải đầu tư mở mang cho rộng hơn chứ hiện tại đường ngõ
nhiều đoạn xuống cấp và hẹp. Mà phường có những dự án, chương trình phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội. Tôi nghĩ, nên chú trọng đầu tư nâng cấp hệ
thống đường xá” (N.T.D, nữ, 28 tuổi, phường Yên Hoà).
* Thông tin liên lạc
- Đài phát thanh của phường
Trước hết phải kể đến đài phát thanh của phường, thường phát sóng
vào lúc 7h đến 8h sáng và 5h đến 6h chiều. Nội dung chủ yếu của đài là tuyên
truyền những chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước của thành phố:
hướng dẫn thi hành các luật, tình hình an ninh trật tự, các thông báo, chăm sóc
sức khoẻ cho mọi người… Có một thực tế, loa truyền thanh của tất cả các
phường trên địa bàn thành phố treo ở trên cột điện, vậy thì có mở to hay mở
nhỏ thì chỉ có người ngồi mặt phố nghe rõ nhất, đương nhiên những người ở
nhà sâu, nhà trong sẽ khó nghe hơn có thể không nghe thấy những thông tin
đó.
“Chiều nào cũng khoảng 5h gì đấy, họ thông báo nhiều vấn đề lắm nào
là đóng thuế, họp tổ và tuyên truyền phòng chống dịch bệnh H5N1, đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông…Không quan tâm cũng không được, thông
báo như vậy ai mà chẳng phải nghe nhưng mà cũng có cái hay mình nắm bắt
được các thông tin của địa phương”(N.B.M, nữ, bán hàng, phường Yên Hoà).
Mức độ quan tâm và rất quan tâm đến thông tin đài phát thanh phường
chiếm trên 50% số người được hỏi.
Bảng 10: Mức độ quan tâm đối với thông tin của đài phát thanh phƣờng
Phƣờng Hàng Gai Yên Hoà Mức độ quan tâm
69
Rất quan tâm 29.3 22.0
Quan tâm 22.7 35.0
Bình thường 23.3 31.0
Ít quan tâm 13.3 9.0
Không quan tâm 11.3 3.0
Tổng 100.0 100.0
Trong quá trình đi phỏng vấn, chúng tôi ghi lại được thường những
người có tuổi, cán bộ tổ dân phố và các hộ mặt đường quan tâm đến thông tin
đài phát thanh phường nhiều hơn. Điều đó được lý giải là vì các họ có mối
quan tâm riêng. Như các cụ cao tuổi xem phát lương vào ngày nào, cán bộ tổ
dân phố nghe xem bản tin của tổ mình có được phát trên loa hay không còn
những người buôn bán nghe xem có chủ trương chính sách gì mới không, thời
điểm nào nộp thuế... Có phản ảnh của người dân “nhiều khi muốn nghe cũng
không nghe được”. Vị trí đặt loa chưa hợp lý, lại phát vào giờ cao điểm, xe cộ
đi lại đông đúc nên chất lượng không tốt. Đó là một thực tế, loa truyền thanh
của tất cả các phường trên địa bàn thành phố treo ở trên cột điện, vậy thì có
mở to hay mở nhỏ thì chỉ có người ngồi mặt phố nghe rõ nhất, đương nhiên
những người ở nhà sâu, nhà trong sẽ khó nghe hơn có thể không nghe thấy
những thông tin đó.
“Không phải ai cũng muốn nghe. Người ta thích xem chương trình ti vi
hơn, loa ồn người ta không thích cho nên mình chỉ phát ở ngoài phố thôi.
Ngay cả những người ở ngoài phố nghe đài phường cũng khó. Tuy nhiên có
một số người thường xuyên theo dõi, đó là những người kinh doanh, buôn bán
họ thường xuyên ngồi ở vỉa hè” (Nam, Cán bộ văn hóa, phường Hàng Gai).
Nguyên nhân của hiện tượng này theo phỏng vấn sâu trường hợp người
dân, lý giải: thời gian phát sóng thường là vào giờ cao điểm, người dân đang
khá bận rộn vì phải chuẩn bị đi làm (sáng) hoặc về nhà bận việc chăm sóc cho
gia đình (chiều), hoặc giao thông vào tầm đó cũng khá ồn ào, không nghe rõ.
Tuy nhiên, nguyên nhân nổi bật là do điều kiện sống cả về vật chất và tinh
thần của người dân đô thị đang ngày càng được nâng cao, trong sự hiểu biết
70
của họ, họ cũng đã từng biết đến những nội dung mà đài phát thanh phường
thường phát, do vậy, những thông tin đó không thu hút được sự chú ý của
người dân. Thêm vào đó, do sự phát triển của các loại dịch vụ, người dân đô
thị không khó để tìm kiếm các thông tin đó, thậm chí những thông tin mà họ
tìm được sâu sắc hơn, thú vị hơn những thông tin mà đài phát thanh phường
phát.
- Điện thoại
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, năm 2007, số máy điện thoại
của Hà Nội là 50 cái/100 dân (Thành phố Hồ Chí Minh: 18/100 dân; Hải Phòng: 20,8/100 dân, Đà Nẵng: 25/100 dân).36
Về mức độ sử dụng điện thoại, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại khá
cao.
Bảng 11: Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện thoại (%)
Phường Hàng Gai Yên Hoà
Loại điện thoại
Cố định 96.0 94.7
Di động 83.3 92.1
Điện thoại cố định vẫn là phương tiện liên lạc quan trọng và phổ biến.
Qua bảng trên có thể thấy trên tại Phường Hàng Gai có 96% hộ dân sử dụng
điện thoại cố định; 83,3% hộ dân có sử dụng điện thoại di động. Tại Phường
Yên Hòa con số này là 94,7% và 92,1%.
Sở dĩ số lượng tỷ lệ hộ dân tại đô thị thành phố Hà Nội sử dụng điện
thoại cao như trên do kinh tế ngày càng phát triển, đây là phương tiện chủ yếu
để mọi người có thể liên lạc.
“Hầu hết các hộ gia đình đều có điện thoại, kể cả hộ nghèo” (HTD,
nam, 31 tuổi, Cán bộ văn hóa phường Yên Hoà).
- Máy thu hình
36 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
71
Về tình hình sử dụng máy thu hình của người dân chưa có con số thống
kê chính thức của tất cả cộng đồng dân cư nhưng một điểm cũng được cho là
đặc trưng của đô thị, đó là hầu hết mỗi hộ đều có ít nhất 1 máy thu hình. Ở
khu vực đô thị, nhiều người dân lựa chọn sử dụng các dịch vụ truyền hình
cáp, kỹ thuật số cao do đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin và việc lắp
đặt thuận lợi, chi phí lắp đặt cũng không đáng kể và phí thuê bao hàng tháng
cũng không nhiều. Ở địa bàn nghiên cứu, số hộ dân sử dụng dịch vụ này đều
chiếm trên 80%, cụ thể là: Yên Hoà 87,5%, Hàng Gai 81,3%.
- Internet
Hiện nay, Internet đã đến từng gia đình, đây là đặc trưng đáng chú ý ở
đô thị. Việc đưa Internet về từng gia đình và mở rộng mạng lưới trên địa bàn
phường có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong cuộc sống: liên lạc, xem tin tức,
72
tìm kiếm thông tin….nhằm nâng cao tri thức xã hội.
Biểu 1: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng internet
“Chỉ có mình em vào mạng thôi, vào mạng bổ ích lắm. Bố mẹ em bận
bán hàng nên cũng chẳng để ý. Em đọc sách báo, xem thông tin qua mạng. Ai
không vào mạng thì thật là thiệt thòi, nhất là giới trẻ vì cơ hội việc làm, kiến
thức,… đều ở trên đó cả” (Đ.T.H, nam, 24 tuổi, phường Yên Hoà).
“Trên địa bàn phường có 5 quán Internet nhưng chưa thấy có vụ nào
ồn ào xảy ra vì không hoạt động qua đêm được, bọn anh quản lý rất chặt. ở
đây là khu phố cổ nhà cửa san sát, các hàng quán không dám mở khuya vì mở
khuya quá ồn ào hàng xóm người ta không chịu được. Thanh niên vào đọc
báo, đọc tin, chat còn game chơi không đông, lực lượng chơi game trên một
phòng máy không nhiều. Bởi vì tại những khu phố dân trí tương đối cao thì
tại các máy gia đình cũng có rồi cho nên lượng khách Internet trên địa bàn
phường mình không đông như các điểm của các phường khác” (Nam, Cán bộ
văn hóa phường Hàng Gai).
Tóm lại, tại địa bàn nghiên cứu, hệ thống giao thông tương đối tốt, trên
90% các ngõ phố đều là đường nhựa và đường bê tông. Tuy nhiên, nhiều
tuyến phố đã xuống cấp, vỉa hè bị lấn chiếm nghiêm trọng, tắc nghẽn giao
thông thường xuyên xảy ra ở cổng trường học. Hệ thống loa truyền thanh tại
73
phường Hàng Gai và Yên Hòa chưa phát huy được tác dụng. Số hộ sử dụng
điện thoại cố định và điện thoại di động cao, số hộ có truyền hình cáp, kỹ
thuật số và internet ngày càng gia tăng.
2.2.4.4. Sức khoẻ
Năm 2007, theo thống kê Hà Nội có 33 bệnh viện (tính cả tuyến Trung
ương); 232 trạm y tế xã; 4 nhà hộ sinh quận; 1 trại phong với số giường bệnh
tương ứng là: 10.121; 389; 45 và 10. Số bác sỹ thống kê được là 4.758 người, y sỹ là 691 người, y tá: 4.205 người và dược sỹ là 744 người.37
Tổ chức bộ máy ngành y tế Hà Nội sau ngày 1 tháng 8 năm 2008 có
nhiều biến đổi do thay đổi địa giới hành chính mới. Số đơn vị ngành y tế gồm
86 đơn vị với 45 đơn vị tuyến thành phố (26 bệnh viện, 17 trung tâm chuyên
khoa, 1 trường cao đẳng y tế, 1 chi cục dân số – kế hoạch hoá gia đình), 41
đơn vị tuyến quận huyện (29 trung tâm y tế dự phòng, 12 bệnh viện) và 577 đơn vị tuyến xã- phường - thị trấn.38
Theo báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng năm 2006 của Phường Hàng Gai, Phường đã tổ chức khám và điều trị
cho 1.070 lượt người, khám sức khỏe cho 100 lượt gia đình liệt sĩ và thương
binh, khám mắt cho 150 người cao tuổi; tiêm chủng mở rộng cho 160 cháu và
bà mẹ mang thai; quản lý, cấp phát thuốc cho 17 bệnh nhân tâm thần; điều trị
tích cực cho các bệnh nhân lao, không để các bệnh nhân tái phát; 100% các
cháu trong độ tuổi và bà mẹ mới sinh được uống vitamin A; tổ chức khám
phụ khoa và siêu âm được 350 lượt người dự.
Theo Kết quả điều tra của Sở Y tế Hà Nội được đưa ra tháng 3 năm
2007, Hà Nội có 72,6% hộ gia đình có người mắc bệnh do ô nhiễm không khí.
Và càng sống lâu ở Hà Nội, tỷ lệ mắc bệnh càng cao. Trong số đó, hộ có
người mắc bệnh mãn tính chiếm 43%. Các bệnh có tỷ lệ mắc cao là bệnh tai
mũi họng, viêm mũi dị ứng, hen phế quản, cảm cúm, viêm phổi, viêm phế
37 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008. 38 www.gso.gov.vn (Tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 09 tháng đầu năm 2008)
74
quản, các bệnh ngoài da, bệnh về mắt. Những người có thời gian sống trên 10
năm ở ngay tại Hà Nội có tỷ lệ mắc bệnh mãn tính về tai mũi họng cao gấp
đôi so với những người sống ở đây dưới 3 năm (24,5% - 12,5%). Chi phí
khám chữa bệnh trung bình trong năm 2006 của các hộ đó từ 1,2 - 2,2 triệu
đồng/tháng. Bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí còn ảnh hưởng đến người
thân, tạo nên chi phí gián tiếp do nghỉ học, nghỉ làm khi người thân bị ốm. Đa
số người dân được hỏi sau khi nghỉ ốm để điều trị bệnh hoặc có người thân bị
ốm thì bị giảm khoảng 20% thu nhập và suy giảm về sức khoẻ khoảng 20% so
với trước khi bị bệnh. Thêm vào đó, những ảnh hưởng tâm lý bất ổn khiến
người ta khó có thể tập trung cho công việc và học hành khiến hiệu quả năng
suất không cao, thậm chí ở nhiều nghề nghiệp, sự mất tập trung sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, tính mạng. Mỗi ngày, hơn 20m3 khí ô nhiễm vào phổi người dân39. Như vậy việc cải thiện sức khoẻ của người dân là một trong
những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng dân số.
* Nơi khám và chữa bệnh
Ở khu vực nông thôn trạm y tế đóng vai trò quan trọng trong việc khám
chữa bệnh cho người dân còn ở thành phố người dân khi có bệnh thường đến
thẳng các bệnh viện và các phòng khám tư, số người đến trạm khám và chữa
bệnh rất ít (Hàng Gai 4%, Yên Hoà 7%).
39 www.vnexpress.net.(Thực trạng các bệnh tật của nhân dân nội thành Hà Nội liên quan đến ô nhiễm không khí)
75
Biểu 2: Nơi khám và chữa bệnh
Người dân cho rằng trạm y tế không đủ phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật
chất để chữa trị. Không chỉ riêng người dân mà ngay cả các bác sĩ làm việc tại
trạm cũng đánh giá như vậy.
“Phương tiện kỹ thuật của trạm chỉ có thế này thôi, mà nếu có thêm thì
không biết để vào đâu. Chỗ ngồi còn không đủ thì làm gì có chỗ mà khám.
Người ta đi khám đến nơi nào rộng rãi, thoải mái thì người ta đến còn ra
trạm người ta ra khám 2 lấn không gặp bác sĩ thì làm sao người ta ra nữa.
Người ta ra tiêm hay băng bó thì các y tá làm được chứ khám thì làm sao họ
làm được trật như thế này thì ai người ta muốn khám. Chỗ nào tiện thì người
ta đi. Nhà nào giàu có thì đi khám ở bệnh viện quốc tế, có người vào bệnh
viện Trung ương, bệnh viện thành phố, có người thì đi khám tư.” (Nữ, 54 tuổi,
trưởng trạm y tế phường Hàng Gai).
“Trạm y tế phường được xây dựng năm 2002, hiện nay vẫn đang trong
thời gian bảo hành 5 năm nên chưa phải nâng cấp, sửa chữa gì cả. Còn về
phương tiện kỹ thuật trạm xá cũng chỉ đảm bảo những cơ sở vật chất cần thiết
và ở mức bình thường, còn trang thiết bị hiện đại thì không có nhưng nhìn
chung có thể đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ban đầu cho người dân”
(H.V.C, nam, 40 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Yên Hoà).
Như vậy trạm y tế chỉ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho
người dân, còn người dân khi có bệnh thì họ thường đến thẳng bệnh viện hoặc
phòng khám đa khoa vì ở đó các bác sỹ có chuyên môn cao, cơ sở vật chất
đầy đủ.
“Nhà tôi đưa thẳng bệnh viện Giao thông vận tải khám luôn, trang
thiết bị ở đó hiện đại và cập nhật với yêu cầu hiện nay, do vậy mình cảm thấy
yên tâm khám và điều trị hơn. Còn về trình độ chuyên môn của bác sĩ thì theo
thôi đến bệnh viện lớn thì yên tâm hơn vì có nhiều bác sĩ giỏi, họ được tiếp
xúc nhiều với các bệnh tật hơn và có đủ các khoa chứ ở phường không có các
khoa mà chỉ có vài y bác sĩ thôi” (nam, 40 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Yên
76
Hoà).
Hiện nay, xu hướng đi khám tại phòng khám tư nhân tăng lên. Mặc dù
ở đó chi phí cho khám và chữa bệnh có đắt hơn so với bệnh viện nhưng người
dân vẫn lựa chọn vì phòng khám tư nhân có ưu điểm trang thiết bị hiện đại,
khám ngoài giờ hành chính, người dân đến khám không phải chờ đợi lâu.
“Nếu có bị sao thì tôi thường đi phòng khám tư nhân, đến trạm xá
phường thì không được vì ở đó trang thiết bị còn thiếu lắm, tay nghề bác sỹ
lại không cao. Còn đến các bệnh viện thì đông, nhiều thủ tục, phải chờ đợi
lâu, đến phòng khá tư nhân cho nhanh. Có đắt một chút nhưng được cái
nhanh và máy móc, trang thiết bị y tế ở đó cũng tốt” (Nữ, 44 tuổi, Phường
Yên Hoà).
“Người ta đi khám theo “tiếng”, theo chỉ dẫn người quen. Có người bị
tai biến mạch máu não, con cái cho đi bệnh viện Việt Pháp mỗi ngày mất
1000-2000 USD trong khi thực chất bệnh ấy vào đâu cũng thế, thuốc cũng
như nhau thôi, một ngày mất 3-4 triệu thôi thế nhưng người ta vẫn thích đến
Việt Pháp” (Nữ, 54 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Hàng Gai).
* Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em
Theo số liệu thống kê, trong năm 2007, tại Hà Nội, số lần các bà mẹ đi
khám thai là 131.833 lần; số lần khám phụ khoa là: 519.974; số người đặt
vòng trong năm là 32784 người; số người uống thuốc tránh thai là 46108 người; số người triệt sản là 379 người.40
Phụ nữ trong thời kỳ mang thai đều đi khám thai, số lần đi khám thai
>=3 lần ở Phường Yên Hoà và Phường Hàng Gai trên 80%, con số này thực
chất còn cao hơn vì phụ nữ mang thai ngoài đi khám ở trạm y tế phường
người ta còn đến phòng khám tư và bệnh viện.
“Có người ra khám ở trạm y tế, có người không. Bây giờ ở bệnh viện
nào, phòng khám nào cũng có dịch vụ khám thai nên chỗ nào tiện thì người ta
đi” (Nữ, 54 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Hàng Gai).
Theo số liệu báo cáo, hiện nay ở các địa bàn nghiên cứu 100% trẻ em
77
sinh ra đều được tiêm phòng đầy đủ các loại vac xin phòng bệnh và được 40 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
khám sức khoẻ định kỳ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ tử vong 0 tuổi, trẻ
dưới 5 tuổi tử vong đều giảm hơn so với trước.
“Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho bà mẹ và trẻ em thực hiện
rất tốt, trong những năm gần đây không có trẻ sơ sinh tử vong. Tỷ lệ trẻ em
được tiêm phòng đầy đủ 6 loại vacxin đạt 100%” (Nữ, 54 tuổi, Trưởng trạm y
tế Phường Hàng Gai).
“100% trẻ em sinh ra đều được đưa đến trạm y tế để tiêm đủ 6 loại
vac xin. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em được thực
hiện từ năm 1998, hiệu quả là tỷ lệ ấy giảm từ 19,4% năm 1998 xuống còn
9,6% năm 2007. Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong năm 2006 là 3 trường hợp, nguyên
nhân do đẻ non, dị tật bẩm sinh. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi tử vong có khoảng
2/10000 trẻ, nguyên nhân là do bị bệnh đi viện chết ở bệnh viện. Còn tỷ lệ béo
phì ở trẻ em dưới 5 tuổi thì chưa thấy có số liệu cụ thể” (H.V.C, nam, 40 tuổi,
Trưởng trạm y tế Phường Yên Hoà).
Tỷ lệ trẻ em béo phì ở khu đô thị đang có chiều hướng gia tăng, tình
trạng này ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ. Nhưng hiện nay
chưa có cơ quan nào có số liệu thống kê cụ thể.
* Dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được đã được chính quyền
quan tâm nhưng tình hình vi phạm vẫn diễn ra. Điều đáng mừng tại các địa
bàn nghiên cứu không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm và không có dịch bệnh
lớn xảy ra.
“Phường là nơi có nhiều sinh viên đến trọ, dân cư đông đúc, toàn
phường có 75 cơ sở ăn uống dịch vụ. Hàng tháng cơ quan chức năng tiến
hành kiểm tra nếu cơ sở nào không đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm thì xử lý, đình chỉ hành nghề, vừa qua có 2 cơ sở sản xuất bánh
78
phở kiểm tra có phooc môn đã tổ chức xử lý. Nhưng nhìn chung chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm chưa được tốt lắm” (H.V.C, nam, 40 tuổi, Trưởng
trạm y tế Phường Yên Hoà).
“Trên địa bàn không xảy ra dịch bệnh gì đâu vì nói là dịch bệnh thì
chưa hẳn vì chỉ có một số ít người bị thôi, không gây ảnh hưởng lắm” (nữ,
79
Cán bộ dân số Phường Hàng Gai).
* HIV/AIDS:
Tính đến 30 tháng 6 năm 2008, tại Hà Nội, luỹ tính số người nhiễm
HIV-AIDS là 17.782 người, số người chuyển sang AIDS là 4.342 người, số
người tử vong là 2.756 người.41
Số người nhiễm HIV/AIDS theo số liệu báo cáo không thực chất với số
liệu thực tế, đặc biệt phường Yên Hoà có tỷ lệ sinh viên và người lao động
đến thuê trọ đông khó khăn trong việc quản lý những người bị mắc bệnh.
Phường Hàng Gai thống kê và quản lý người HIV/AIDS dễ dàng hơn, vì địa
bàn hẹp, người dân sống tập trung.
“Số người nhiễm HIV/AIDS 13 người, trong đó có 7 đối tượng đã chết,
3 người không quản lý được do họ đi khám lấy địa chỉ thuộc phường Hàng
Gai nhưng đến nhà đó thì không có ai bị mắc bệnh. Hiện tại còn 3 đối tượng
thì có một đối tượng mới bị bắt đi tù còn 2 đối tượng ở nhà, không làm gì
sống phụ thuộc vào gia đình” (Nữ, 54 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Hàng
Gai).
Thái độ cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS đã không
còn phân biệt như trước, người dân chấp nhận sự có mặt của người bệnh trong
cộng đồng.
“Hiện nay trên địa bàn có 41 người nhiễm HIV/AIDS, đã có 4 người
chết. Thái độ người dân nói chung đã cởi mở hơn trước nhiều, không còn kỳ
thị như xưa nữa. Chính quyền cũng rất quan tâm đến người bị bệnh này, vừa
qua phường đã xây dựng Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” cho vay vốn tổ chức sửa
chữa xe máy, phụ tùng ô tô… có 5 người tham gia nhưng hiệu quả thấp nên
không nhân rộng được” (H.V.C, nam, 40 tuổi, Trưởng trạm y tế Phường Yên
41 www.gso.gov.vn (Tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 09 tháng đầu năm 2008)
80
Hoà).
Tóm lại
- Về chăm sóc sức khoẻ trẻ em: trẻ em sinh ra được tiêm phòng đầy
đủ. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ tử vong 0 tuổi, trẻ dưới 5 tuổi tử vong
đều giảm hơn so với trước. Tỷ lệ trẻ em béo phì ở khu đô thị đang có chiều
hướng gia tăng, tình trạng này ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển của
trẻ.
- Lựa chọn nơi khám bệnh: đa số người dân khám và chữa bệnh tại các
bệnh viện lớn và phòng khám tư nhân do ở những nơi đó có phương tiện kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ bác sĩ lành nghề. Trạm y tế chỉ đáp ứng được vấn đề
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân.
- HIV/AIDS: Tỷ lệ mắc bệnh theo con số báo cáo không đúng với số
liệu thực tế, đặc biệt Phường Yên Hoà có tỷ lệ sinh viên và người lao động
ngoại tỉnh đến thuê trọ đông, nên gặp khó khăn trong việc thống kê và quản lý
những người bị mắc bệnh.
2.2.4.5 Giáo dục
Giáo dục là một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa
và duy trì, phát triển nền văn hoá xã hội một cách liên tục. Giáo dục nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài thúc đẩy phát
triển xã hội. Như vậy đầu tư cho giáo dục thực chất là để nâng cao chất lương
dân số.
Hà Nội hiện có 2.302 trường học (trong đó 1.705 trường công lập, 597
trường ngoài công lập) với 1.332.964 học sinh và trên 72 ngàn giáo viên.
Giáo dục mầm non với 761 trường (công lập 300 trường), 9.597 lớp (2.615
lớp nhà trẻ và 6.982 lớp mẫu giáo), 269.212 cháu (53.200 cháu nhà trẻ,
215.992 cháu mẫu giáo). Giáo dục tiểu học có 652 trường (công lập 629
trường), 12.917 lớp và 407.937 học sinh với công tác phổ cập giáo dục đúng
độ tuổi được duy trì với hiệu quả cao, huy động 99,9% trẻ trong độ tuổi vào
81
lớp 1, trong đó trẻ đúng độ tuổi đạt 99,6%. Năm học 2008-2009, dự kiến số
học sinh tuyển mới vào lớp 1 là 82.737 học sinh. Việc trẻ học 2 buổi/ ngày
được triển khai ở tất cả các quận huyện, số học sinh tiểu học được học 2 buổi/
ngày đạt tỷ lệ 75,4%. Giáo dục trung học cơ sở có 586 trường (581 trường
công lập), 9.507 lớp và 355.293 học sinh. Số học sinh tuyển mới vào lớp 6
năm học 2008-2009 dự kiến là 84.495 học sinh. Giáo dục trung học phổ thông
có 184 trường (104 trường công lập), 5.056 lớp và 232.693 học sinh, số học
sinh tuyển mới vào lớp 10 năm học 2008-2009 dự kiến là 84.691 học sinh.
Cấp tiểu học toàn Thành phố có 91.168 học sinh lớp 5 được công nhận
hoàn thành chương trình tiểu học được xét tuyển vào lớp 6 đạt tỷ lệ 98,8%.
Kết quả xét tuyển và thi tốt nghiệp lớp 9 có 68.620 học sinh hoàn thành
chương trình trung học cơ sở đạt tỷ lệ 97,03%. Cấp trung học phổ thông năm nay cả hai đợt thi có 75.375 học sinh đỗ tốt nghiệp, đạt 86,74%.42
Theo kết quả nghiên cứu, Phường Yên Hoà có đủ cả 3 cấp học phổ
thông còn Phường Hàng Gai duy nhất chỉ có trường cấp 1, học sinh trung học
cơ sở học ghép với học sinh Phường Cửa Nam gây khó khăn trong công tác
quản lý học sinh của phường.
“Yên Hoà có cả 4 cấp học từ mầm non đến phổ thông trung học, cả 4
trường đều đạt chuẩn, đây là ưu thế rất lớn về giáo dục Yên Hoà. Trong đó
riêng trường trung học cơ sở và mầm non được đầu tư xây mới 30 tỷ đồng”
(Nam, cán bộ Phường Yên Hoà).
“Còn về trung học cơ sở mới là điều khó khăn, hiện nay các em học
bên phố Nhà thờ. Buổi sáng là Trường Hoàn Kiếm, chiều là Trường Tân
Trào. Trường Tân Trào có tới 2 trường học ở đó là Phường Hàng Gai và
Phường Cửa Nam. Sắp tới đây theo như dự án của thành phố và của quận thì
phường sẽ có trường trung học cơ sở trên diện tích Nhà máy Dệt kim Thăng
Long nhưng nói chung vẫn phải chờ” (Nam, Cán bộ phụ trách văn hoá
42 www.gso.gov.vn (Tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 09 tháng đầu năm 2008)
82
Phường Hàng Gai).
Về chất lượng giáo viên và học sinh, tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ
83
em đi học đạt 100%, không có trường hợp nào bỏ học.
“Rất ít, vì có 1 trường hợp là phường biết ngay. Theo quy định luật phổ
cập giáo dục thì trường nào có học sinh đang học mà bỏ học thì người ta
thông báo về địa phương ngay. Cháu đó bỏ học thì có rất nhiều việc phải làm,
từ khu dân cư đã phải lo việc đó trước. Mình có cộng tác viên gia đình và trẻ
em tại khu dân cư thì khu dân cư phải vận động cháu đi học. Lý do các cháu
bỏ học là gì đều cần phải được khắc phục ở khu dân cư trước nếu không được
thì mới lên Ban Dân số của phường. Cho nên chuyện bỏ học ở Hàng Gai là
không có. (Nam, Cán bộ phụ trách văn hoá Phường Hàng Gai).
Trẻ em nghèo được trợ cấp, miễn giảm học phí: “Phường Yên Hoà
không có trẻ bỏ học. Các cháu thuộc diện gia đình nghèo được miễn giảm học
phí, cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí” (Nam, Cán bộ phường Yên Hoà).
Đội ngũ giáo viên của các trường hầu hết có trình độ cao đẳng và đại
học, ngoài ra thường được bồi dưỡng nghiệp vụ.
“Trường này chất lượng cực kỳ tốt, giáo viên ở trường có trên 80 đạt
giáo viên dạy giỏi cấp quận. Chưa đạt trường chuẩn quốc gia về một số mặt
như cơ sở vật chất còn đội ngũ giáo viên là tốt. Hàng năm các cô giáo đều đi
học để nâng cao nghiệp vụ. Có cô đi học đại học, có cô đi học lớp bồi dưỡng
theo chỉ tiêu của Sở”. (Nam, Cán bộ phụ trách văn hoá phường Hàng Gai).
Ngoài việc học chính ở trường, nhiều gia đình còn cho con cái học
thêm các môn phụ để phát triển năng khiếu, hoàn thiện thể lực là một cách
đầu tư cho nguồn nhân lực rất quan trọng của các gia đình. Đây cũng là một
mục tiêu quan trọng trong việc cải thiện chất lượng dân số ở Việt Nam hiện
nay. Số liệu điều tra cho thấy, số lượng gia đình cho con học thêm các môn
phụ không nhỏ. Điều này cho thấy nhận thức của các bậc phụ huynh đã nâng
84
cao, đồng thời điều kiện kinh tế của một số hộ ở địa bàn ở mức khá giả.
Bảng 12: Việc học thêm của con cái (%)
Phƣờng Hàng Gai Yên Hòa Môn học thêm
Ngoại ngữ 40,7 81,9
Vẽ 9,6 15,7
Cờ tướng, cờ vua 6,7 4,8
Hát, nhạc 14,4 22,9
Võ 8,7 22,9
Học bơi 18,3 12,0
Một số môn khác 27,9 19,3
Qua bảng số liệu trên, phụ huynh cho con em đi học thêm các môn phụ
cũng khá đang dạng. Phụ huynh cho con em đi học nhiều nhất là ngoại ngữ
đều đạt trên 40%, đặc biệt Phường Yên Hoà có tỷ lệ rất cao 81,9%.
“Cháu bé thì không học thêm ở đâu, còn cháu lớn thì tôi cho học thêm
ở trường 3 môn Toán, Văn, Anh. Việc học thêm này là do nhu cầu của phụ
huynh trong lớp nên Ban phụ huynh học sinh đứng ra tổ chức và mới cô giáo
của lớp dạy luôn cho các cháu” (N.K.O, nữ, 30 tuổi, Phường Yên Hoà).
* Hoạt động hội khuyến học
Hội khuyến học đã phát huy được vai trò của mình trong việc vận động
đóng góp quỹ, hỗ trợ và khen thưởng kịp thời cho các em có thành tích cao
trong học tập.
“Yên Hoà là một trong những làng khoa bảng của Hà Nội. Có tới 13 vị
đỗ tiến sĩ được khắc bia ở Văn Miếu. Phường có 44 chi hội khuyến học trong
đó có 8 chi hội dòng họ và 1.509 hội viên. hoạt động nhiệt tình, tâm huyết.
85
Trong năm 2006 số tiền ủng hộ cho quỹ khuyến học toàn phường là
108.783.000 đồng, đó là đóng góp của các ban ngành đoàn thể, các cá nhân trong phường” 43
“Hàng năm đề nghị trích quỹ này ra để thưởng cho các em học sinh giỏi,
số lượng học sinh giỏi nhiều nên mức thưởng bình thường còn những em đạt
học sinh giỏi quận, thành phố hoặc những em đỗ đại học thì có mức thưởng
riêng.Kể cả những cô giáo dạy giỏi, những cô giáo trong năm đạt thành tích
suất sắc của trường nằm trên địa bàn phường thì bao giờ cũng có phần
thưởng cuối năm.Hoạt động của quỹ này chia làm 2 đợt, đợt 1 kết thúc năm
học những em nào đạt học sinh giỏi photo giấy khen, đợt 2 trao phần thưởng
cho các em đỗ đại học và trước năm học mới để khuyến khích các em học
sinh nghèo vựơt khó... Phường bao giờ có chương trình tặng quà cho các em
khó khăn có thể là vở, bút”. (Nam, Cán bộ văn hoá Phường Hàng Gai)
Tóm lại:
- Tại Hà Nội, vấn đề giáo dục được quan tâm một cách đúng mức, tỷ lệ
trẻ em đi học đạt 100%, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp học cao.
- Ở khu vực phố cổ do điều kiện chật chội, trường học diện tích hẹp,
thiếu diện tích cho các em vui trong trong giờ nghỉ giải lao. Có tình trạng học
xen ghép với các trường khác.
- Ngoài việc đầu tư cho con cái học ở trường các bậc phụ huynh cho con
học thêm các môn phụ (hát nhạc, bơi, võ, cờ vua, cờ tướng..) phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần.
- Hội khuyến học ở Phường Yên hoà và Phường Hàng Gai đã phát huy
được vai trò của mình trong việc vận động đóng góp quỹ, hỗ trợ và khen
thưởng kịp thời cho các em có thành tích cao trong học tập.
43 Phường Yên Hòa, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội an ninh quốc phòng năm 2006
86
2.2.4.6. Nhà ở
Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đang diễn
ra nhanh chóng cũng như sức ép của quá trình di dân từ nông thôn ra thành
phố đã khiến cho vấn đề nhà ở tại đô thị trở thành một trong những vấn đề
cấp bách nhất của Việt Nam. Chính sách đổi mới đã dẫn đến sự chấm dứt các
hình thức nhà ở bao cấp của nhà nước và sự chuyển đổi nhanh chóng sang
xây dựng nhà ở tư nhân. Ngày nay, những người muốn có một ngôi nhà mới
sẽ phải tìm mua trên thị trường. Những năm 1990, sự bùng nổ trong xây dựng
nhà tư (mà đa phần là không kiểm soát) đã góp phần cải thiện đáng kể hoàn
cảnh sống của những người thuộc tầng lớp trung lưu và những người có thu
nhập tương đối cao.
Nhà ở là một yếu tố vật chất đảm bảo cho sinh hoạt không chỉ của một cá
nhân mà cả một hộ gia đình, nó là nhu cầu thiết yếu cần được đặt ra đầu tiên,
khi đo lường đời sống vật chất của một hộ gia đình. Do vậy mà ngôi nhà
không chỉ đảm bảo tạo ra một không gian sạch sẽ, thoáng mát, tiện nghi ấm
cúng cho các thành viện sinh hoạt và nghỉ ngơi mà nó còn là bộ mặt của mỗi
gia đình. Người ta thường nhìn như một minh chứng cho sự giàu sang, hay
nghèo đói của một gia đình. Hiện nay, nội thành Hà Nội có khoảng 2,9 triệu
dân sinh sống chia làm các khu vực khác nhau như: Khu phố cổ; Khu chung
cư; Khu xóm liều; Khu nhà giàu; Khu làng nghề và Khu dân cư gần nhà máy xí nghiệp.44
44 www.diaoconline.vn (Báo động về môi trường nhà ở Hà Nội)
87
Theo số liệu thống kê, trong năm 2007, tổng số diện tích nhà ở xây dựng mới trong năm của Hà Nội là 1.557.066 m2 trong đó Trung ương xây dựng 386.074 m2, địa phương xây dựng 1.170.992 m2 (ngân sách địa phương: 169.879 m2; nhân dân tự xây: 750.000 m2; vốn xây nhà để bán và vốn liên
doanh huy động: 251.113 m2)45. Hiện trạng nhà ở của các phường nghiên cứu
được thể hiện qua bảng dưới đây:
45Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
88
Bảng13: Hiện trạng nhà ở của các phƣờng
Phường Hàng Gai Yên Hòa Loại nhà
7 46 Nhà tập thể 30,7% 4,7%
9 27 Nhà cấp 4 18,0% 6,0%
29 8 Nhà mái bằng 5,3% 19,3%
104 57 Nhà riêng nhiều tầng 38,0% 69,3%
1 1 Nhà biệt thự 0,7% 0,7%
0 11 Nhà khác 7,3% 0,0%
150 150 Tổng 100,0% 100,0%
Nhà riêng nhiều tầng ở các địa bàn đều chiếm tỷ lệ khá cao (Phường
Hàng Gai 38,0%; Phường Yên Hoà 69,3%). Phường Yên Hoà có tỷ lệ nhà
riêng nhiều tầng cao như vậy là do từ làng lên phường năm 1997, quỹ đất
nhiều. Phường có tốc độ đô thị hoá cao, người dân có tiền đền bù đất nông
nghiệp hoặc bán bớt một phần đất của gia đình và họ sử dụng số tiền đó để
xây nhà.
“Nhà ở thay đổi nhiều chứ. Những hộ gia đình biết làm ăn giàu lên,
89
hoặc những hộ có tiền đền bù đất...họ xây nhà nhiều lắm. Dọc các tuyến
phố, ngõ ở các tổ nhà 4-5 tầng xây nhiều và trang trí nội thất rất đẹp. (Nam,
36 tuổi, trình độ Đại học, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
Nhà biệt thự chiếm tỷ lệ rất ít, đều dưới 1%. Có lẽ là do “biệt thự đòi
hỏi phải có diện tích lớn, chi phí xây dựng thì nhiều” nên rất ít hộ có điều
kiện xây biệt thự.
Hiện nay, trên địa bàn phố cổ nói chung và địa bàn Phường Hàng Gai
nói riêng vẫn còn một số hộ dân thuê nhà của nhà nước.
“Đây là đất của nhà nước, chúng tôi đề nghị Công ty nhà Hà Nội bán
cho chúng tôi nhưng chưa bán và không biết đến bao giờ mới bán. Nhà trước
xây từ lâu trong quá trình chúng tôi ở nó bị dột nát, không ở được chúng tôi
phải xây lên. Bao giờ nhà nước đòi thì chúng tôi trả, chứ sống trong căn nhà
cũ thì không thể sống được. Hàng tháng chúng tôi vẫn nộp tiền thuê nhà:
67.000đ/tháng”. (Nam, Cán bộ đã nghỉ hưu, sống trong ngôi nhà 3 tầng,
Phường Hàng Gai)
Khi được hỏi ông (bà) không hài lòng nhất với điều gì ở khu vực mình
đang sinh sống (giao thông liên lạc, giáo dục, môi trường, trật tự an toàn công
cộng, nhà ở, văn hoá thể thao) thì Phường Hàng Gai có tới 25% người được
hỏi trả lời không hài lòng về vấn đề nhà ở.
“Trước đây, số nhà nào cũng có sân tương đối rộng, nhưng khi mà
nhu cầu ở tăng lên gấp đôi, gấp ba, cũng không thể tránh nổi việc cơi nới, bổ
sung diện tích. Khoảnh sân ngày càng bị thu hẹp, và để vào được trong nhà,
46, www.dothi.net (Sống hẹp trong phố cổ)
90
phải chui qua ngõ tối om, sâu thẳm, bề ngang có khi chưa tới 80 cm, tránh nhau cũng khó trở thành một lối đi chỉ vừa đủ một người và một xe”.46
Ảnh 3: Những con hẻm nhƣ thế này khá phổ biến ở phố cổ47
Tình trạng cơi nới còn dẫn đến sự quá tải cho các khu nhà. Hiểm họa có
thể xảy ra bất kỳ lúc nào nếu những khu nhà này không may gặp phải chấn
động mạnh hay thiên tai bất chợt. Bên cạnh đó, do cơi nới, xây dựng vội vã
không theo một quy định nào nên bịt kín hệ thống chiếu sáng, thông gió,...
“Hiện nay ở phường có 60 số nhà đông hộ, diện tích hẹp lại đông
người sống, nhiều hộ không có đủ ánh sáng. Ban ngày cũng như ban tối, lúc
nào cũng phải thắp đèn” (Nữ, 54 tuổi, Đại học, Trạm trưởng trạm y tế
Phường Hàng Gai).
“Ngõ quá nhỏ, lại ngoằn ngoèo, khu vệ sinh phải dùng chung với cả
47 www.dothi.net. 48 www.dothi.net
91
xó…Cả khu nhà kín mít, chỉ những ngày đẹp trời mới có chút nắng lọt qua một giếng trời chừng 4 m2. Các nhà trong ngõ luôn phải thắp đèn mới nhìn rõ vì không bao giờ thấy ánh nắng mặt trời.” 48
Ảnh 4: Ngôi nhà cổ: Có thể sập bất cứ lúc nào vì đã không còn khả năng chống đỡ 49
Hầu hết những ngôi nhà khu vực phố cổ hàng chục năm rồi chưa qua tu
sửa. Những căn nhà chỉ vài chục mét vuông mà phải "chứa chấp" cả chục hộ
dân là chuyện thường tình. Nhiều khu nhà, cầu thang gỗ đã hỏng nặng. Nhà
liền nhau cũng cứ "thông thống", nhà bên này chỉ nói to một chút là bên kia
nghe rõ mồn một. Hiện nay, cứ 10 hộ thì 6 hộ phải sống trong những căn nhà
chỉ có một phòng; trung bình khoảng 20 người trong một ngôi nha mà 60 năm
trước chỉ trung bình 5,6 người; có gần 2/3 số nhà xuống cấp. Trong tổng số hơn 15.000 hộ thì chỉ có 5% “tạm hài lòng” với điều kiện sống của mình.50
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy Phường Yên Hoà có điều kiện nhà ở
tương đối thoải mái. Diện tích không những đủ ở mà một số hộ còn có cả nhà
cho người lao động ngoại tỉnh và sinh viên thuê.
“Cho thuê nhà một mặt góp phần cải thiện đời sống nhân dân ở đây,
người ta tận dụng đất dư thừa người ta làm nhà cho thuê, người ta có nguồn
thu nhập. Người dân ở đây xuất phát từ nông nghiệp chứ không phải là công
chức cho nên người ta tận dụng cho thuê nhà để cải thiện đời sống” (Nam,
49 www.anninhthudo.vn 50. www.qdnd.vn (Đừng để phố cổ không còn cổ kính)
92
Công an phường Yên Hoà).
Tóm lại, có sự khác biệt rõ rệt về loại hình nhà ở 2 địa bàn nghiên cứu.
Phường Hàng Gai đa phần diện tích nhỏ, hẹp, số người sống chung trong một
số nhà đông. Trong khi đó người dân phường Yên Hoà nhà ở không những
phục vụ cho sinh hoạt mà còn xây nhà cho sinh viên và lao động ngoài tỉnh
thuê.
2.2.4.7. Môi trường
Môi trường là không gian sống, là nơi cung cấp nguồn tài nguyên duy
trì sự sống của con người. Tuy nhiên tài nguyên chỉ có hạn, với mức gia tăng
dân số quá nhanh như hiện nay nguồn tài nguyên suy giảm nghiêm trọng
đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt. Con người đang phải đối mặt với hậu quả
nặng nề do ô nhiễm môi trường gây ra: Không gian sống ngày càng thu hẹp,
hệ sinh thái mất cân bằng, sức khỏe bị suy giảm với hàng loạt bệnh có liên
quan đến môi trường.
* Môi trƣờng không khí
Hiện nay, chất lượng môi trường không khí Hà Nội đang bị suy thoái
đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông dân cư. Môi trường không khí hiện
đang chịu tác động chủ yếu của hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động
giao thông vận tải, xây dựng và sinh hoạt của cộng đồng. Từ năm 2000 đến
nay, nồng độ bụi có biểu hiện tăng dần đều, vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ
2,5 - 4,5 lần trong khu vực nội thành. Nguyên nhân chủ yếu do hoạt động xây
dựng và hoạt động giao thông đô thị gia tăng mạnh với 110.000 xe ôtô các
loại và gần 1.300.000 xe máy và 60 dự án đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển
khu đô thị mới. Kết quả đo độ ồn hàng năm cho thấy, mức độ gây ồn do công
nghiệp đã giảm đáng kể so với thời kỳ 1991 - 1995. Nhưng độ ồn do hoạt
51 Báo Lao động, số 192, ngày 13/7/2005
93
động giao thông tăng dần, thời kỳ từ 1996 - 2000, đặc biệt từ năm 2001 - 2004, mức độ ồn đều tăng từ 2-8 lần so với tiêu chuẩn cho phép.51
* Nƣớc thải sinh hoạt:
Tổng nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất công nghiệp ở khu vực
nội thành Hà Nội khoảng 500.000m3/ngày đêm. Hiện nay, toàn bộ lượng
nước thải này đều thoát qua hệ thống cống thoát nước và 4 sông tiêu chính
của thành phố (Tô Lịch, Lừ, Sét và Kim Ngưu). Nước thải sinh hoạt hiện
phần lớn được qua xử lý sơ bộ tại các bể tự hoại. Nước thải sản xuất, nước
thải của các bệnh viện và các cơ sở dịch vụ chứa nhiều chất gây ô nhiễm
chiếm 90% tổng lượng nước thải công nghiệp và dịch vụ trên toàn thành phố
chưa được xử lý đều xả vào nguồn nước mặt. Nước thải do các cơ sở sản xuất
được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường mới chỉ chiếm khoảng 6% tổng lượng
nước thải của thành phố. Hiện nay, các sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm đang gây tác động xấu tới sức khoẻ cộng đồng dân cư.52
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, trong năm 2007, Hà Nội đã
làm được 77,9 km kênh mương thoát nước; 44,4 km sông thoát nước; 628 km cống thoát nước ngầm, 844 hệ thống xử lý nước thải.53
Tuy nhiên, hệ thống thoát nước thải ở Hà Nội được xây dựng từ lâu,
nhiều chỗ bị hỏng, đất rơi xuống làm tắc nghẽn, nhiều hôm mưa to là nước lại
ngập... ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân.
“Hiện nay còn vấn đề đang quan tâm là đường thoát nước thải, sắp tới
được đầu tư cơ sở hạ tầng người dân cũng bỏ tiền ra để cải tạo. Trước đây,
tất cả xây ngầm, nhiều chỗ bị tắc người dân tự cải tạo” (nam, 78 tuổi, trình
độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc Phường Hàng Gai).
"Tại đây, ngày nắng thì bụi mù mịt, còn ngày mưa thì như một cái ao,
thậm chí những ngày mưa to như hôm 4.9 vừa qua thì cả đoạn đường như
một khúc sông, khiến chúng tôi hoàn toàn bị cô lập với bên ngoài. Đã thế,
mặt đường lại rất nhấp nhô, vừa có sống trâu, vừa nhiều ổ voi, ổ gà, rất nguy
hiểm cho người đi đường. Vào những ngày mưa, nước đọng trên mặt đường
không khác gì ao. Dưới lòng “ao” đó là những cái bẫy chết người. Đã có
52 Báo Lao động, số 192, ngày 13/7/2005 53Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
94
nhiều người không đi quen đường, mắc “bẫy” ngã trượt, nhiều tai nạn đáng
tiếc đã xảy ra trên đoạn đường này”". (L.V.Đ, nam, tổ 49, Phường Yên Hoà).
* Rác thải sinh hoạt
Trong những năm qua, tốc độ đô thị hoá ở Hà Nội tăng mạnh. Mức
sống của người dân đang không ngừng được cải thiện nên lượng rác thải sinh
hoạt bình quân tính theo đầu người tăng từ 0,44kg/người/ngày vào năm 2000
lên 0,60kg/người/ngày năm 2004, với tổng số dân là 3,1 triệu người. Tổng
lượng chất thải rắn sinh hoạt trong nội thành là 500.000 tấn/năm. Lượng chất
thải công nghiệp gia tăng hàng năm là 5%, trong đó khoảng 38% là chất thải
độc hại. Trong đó, xử lý chế biến rác sinh hoạt thành phần hữu cơ trung bình
chỉ được gần 10% (tại Nhà máy xử lý rác Cầu Diễn với công suất xử lý
50.000 tấn rác thải sinh hoạt/năm). Lượng rác được thu gom, vận chuyển
chôn lấp hợp vệ sinh tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn chỉ đạt 85%. Mặc dù, năm
2004 đã có trạm xử lý rác thải công nghiệp với công suất thiết kế 50-100 tấn/ngày nhưng hiện vẫn đang trong giai đoạn vận hành thử. 54Do đó, việc xử
lý chất thải rắn để tiết kiệm diện tích đất chôn lấp là một trong những khó
khăn, là yêu cầu cấp bách đặt ra với thành phố Hà Nội.
* Nƣớc sạch
Lượng nước ngầm do Cty kinh doanh nước sạch và các nhà máy, xí
nghiệp và các hộ dân khai thác hàng ngày ở Hà Nội ước tính từ 600.000 -
650.000m3. Theo dự báo, đến năm 2010, nhu cầu sử dụng nước của thành
phố sẽ tiệm cận với giới hạn trữ lượng nước ngầm có thể khai thác an toàn.
Hiện đang có những vùng khai thác có biểu hiện suy thoái cạn kiệt như khu
vực phía nam và tây nam thành phố.
Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch và tiếp cận các điều kiện vệ
sinh môi trường ngày một tốt hơn nhưng vẫn còn một số nơi vẫn phải dùng
nước giếng khoan qua xử lý bằng cách đơn giản không thể lọc hết được chất ô
nhiễm. Theo quan sát thấy nước giếng khoan khi bơm lên có màu vàng mùi
54 Báo Lao động, số 192, ngày 13/7/2005
95
tanh, không thể sử dụng ngay mà phải có chế độ lọc nước. Nhưng người dân
cũng chỉ sử dụng cách lọc đơn giản là dùng sỏi hoặc cát, như vậy không thể
lọc hết được các chất ô nhiễm có trong nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ khi sử
dụng.
* Nhà vệ sinh
Ở khu vực Phường Hàng Gai còn tồn tại một số nhà đông hộ việc sử
dụng vệ sinh chung- khu vệ sinh được xây dựng nhiều năm đã xuống cấp
nghiêm trọng, gây ô nhiễm. Nhiều khu cũ kỹ như lò gạch bỏ hoang, cửa vào
nhỏ hẹp vừa nửa người (người thiếu cẩn thận luôn bị cộc đầu khi vào,
ra), cánh gỗ mục nát. Cạnh bệ xí xổm là một chiếc cột gỗ cũ kỹ được chống
lên mấy viên gạch để tránh sụt mái… “Khu vệ sinh đáng sợ như thế này,
nhưng vẫn là chốn "viếng thăm" thường nhật của các hộ dân trong ngôi nhà.
Ảnh 5: Cận cảnh nhà vệ sinh
96
Ảnh 6: Cột mòn chống ọp ẹp
“Khu vệ sinh là chỗ “cha chung không ai khóc", người dùng lại đông
dần, nên bẩn là điều tất yếu. Thêm nữa, do thời gian, tất cả các nhà vệ sinh ở
các phố cổ đều cũ kỹ, nhưng rất khó cải tạo. Hệ thống cống nước thải được
xây dựng từ xưa là hệ thống cống ngấm. Chính vì vậy, muốn cải tạo một khu
vệ sinh, người ta chỉ còn cách xây mới, rất tốn công…”.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự gia tăng dân số... đang gây ra
sức ép lớn đối với tài nguyên và môi trường Hà Nội. Để cải thiện tình hình
trên, cần có sự thay đổi từ nhận thức đến cách ứng xử đối với môi trường, để
cộng đồng cùng tham gia đóng góp giữ gìn, bảo vệ môi trường.
Tóm lại:
- Hiện nay, chất lượng môi trường không khí Hà Nội đang bị suy thoái
đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông dân cư. Môi trường không khí hiện
đang chịu tác động chủ yếu của hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động
giao thông vận tải, xây dựng và sinh hoạt của cộng đồng.
- Nước thải sinh hoạt hiện phần lớn được qua xử lý sơ bộ tại các bể tự
hoại. Nước thải sản xuất, nước thải của các bệnh viện và các cơ sở dịch vụ
chứa nhiều chất gây ô nhiễm chiếm 90% tổng lượng nước thải công nghiệp và
dịch vụ trên toàn thành phố chưa được xử lý đều xả vào nguồn nước mặt. Hệ
thống thoát nước thải ở Hà Nội được xây dựng từ lâu, nhiều chỗ bị hỏng, đất
rơi xuống làm tắc nghẽn, nhiều hôm mưa to là nước lại ngập... ảnh hưởng đến
cuộc sống của người dân.
- Trong những năm qua, tốc độ đô thị hoá ở Hà Nội tăng mạnh. Mức
sống của người dân đang không ngừng được cải thiện nên lượng rác thải sinh
hoạt bình quân tính theo đầu người tăng. Do đó, việc xử lý chất thải rắn để tiết
kiệm diện tích đất chôn lấp là một trong những khó khăn, là yêu cầu cấp bách
97
đặt ra với thành phố Hà Nội.
- Khu vực phố cổ vẫn còn tồn tại một số nhà vệ sinh chung, hiện đã
xuống cấp trầm trọng gây mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
- Về vấn đề nước sạch phục vụ cho sinh hoạt, nhìn chung được thực
hiện khá tốt nhưng vẫn còn một số nơi nhiều người dân vẫn chưa được sử
dụng nước sạch, một số nơi vẫn phải dùng nước giếng khoan. Người dân chỉ
sử dụng cách lọc đơn giản là dùng sỏi hoặc cát, như vậy không thể lọc hết
được các chất ô nhiễm có trong nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ khi sử dụng.
2.2.4.8. Cuộc sống gia đình
Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên, góp phần hình thành nhân
cách con người. Chính vì thế cuộc sống gia đình được xem như là một yếu tố
tác động đến chất lượng dân số. Ở Việt Nam, mô hình gia đình hai thế hệ
chiếm khoảng 2/3 tổng số gia đình toàn quốc. Đây cũng là xu hướng chung
của sự phát triển xã hội.
* Quy mô gia đình
Do thực hiện tốt chính sách dân số và hiện nay con cái lập gia đình có
xu hướng tách ra sống riêng nên số thành viên sống chung trong một gia đình
không nhiều. Tại địa bàn nghiên cứu, gia đình có 1- 4 thành viên chiếm đa số.
Bảng 14: Số thành viên trong gia đình (%)
Phường Hàng Gai Yên Hoà
Số người trong GĐ
1-2 người 14.0 5.3
3 người 20.0 23.7
4 người 31.3 37.7
1-4 người 65.3 66.7
98
Trên 5 người 34.7 32.3
“Chúng tôi lấy nhau được 1 năm là ra ở riêng ngay, vì nhà chồng tôi
cũng đông anh em, mà chồng tôi là con cả, ra ở riêng kinh doanh cho độc lập
và sống thoải mái” (N.T.Đ, nữ, 34 tuổi, Phường Yên Hoà).
Qua kết quả điều tra, gia đình hạt nhân (2 thế hệ) chiếm tỷ lệ cao nhất,
tiếp đến gia đình 3 thế hệ. Số gia đình duy trì “tứ đại đồng đường” ở phường
Hàng Gai chiếm tỷ lệ khá cao (14%). Kết quả trên được thể hiện bằng bảng
dưới đây:
Bảng 15: Số thế hệ trong gia đình (%)
Phường Hàng Gai Yên Hoà
Số thế hệ
1 thế hệ 1.3 3.5
2 thế hệ 30.0 67.5
3 thế hệ 54.7 27.2
4 thế hệ 14.0 1.8
Tổng 100.0 100.0
* Tỷ lệ sinh con thứ ba
Một số gia đình vẫn còn mang nặng tư tưởng “trọng nam khinh nữ”,
quan niệm “con trai ở với mình còn con gái là con người ta”. Năm 2006, 2
phường nghiên cứu đều có trường hợp sinh con thứ ba, phường Hàng Gai: 6
trường hợp, Yên Hoà: 8 trường hợp. Nguyên nhân sinh con thứ ba không mới:
sinh con một bề, hoặc gia đình có điều kiện kinh tế muốn sinh thêm con...Qua
đó thấy rằng cần phải có những hướng dẫn thực hiện các chính sách một cách
cụ thể, tuyên truyền, vận động người dân tham gia chương trình dân số kế
hoạch hóa gia đình. Hiện nay chưa có quy chế xử phạt với các gia đình sinh
con thứ 3 tại địa phương nên những gia đình sinh con thứ 3 chỉ phải chịu nhắc
99
nhở.
“Chế tài cho việc phạt hành chính chưa áp dụng được vì chủ yếu những
người sinh con thứ 3, thú 4 đều là những người kinh doanh, buôn bán tại gia
đình. Vì họ không phải là cán bộ Nhà nước nên họ không để ý, quan tâm lắm.
Đảng viên ở phường này không có gia đình nào sinh con thứ ba” (Nữ, Cán bộ
dân số Phường Hàng Gai).
* Quan hệ trong gia đình
Mặc dù gia đình hạt nhân chiếm ưu thế nhưng xu hướng truyền thống
không vì thế mà xem nhẹ, trái lại vẫn tiếp tục được tôn trọng. Đó là con cái có
nhu cầu được ở gần cha mẹ, ông bà để các thế hệ giúp đỡ nhau, gần gũi hơn
về mặt tình cảm. Do chịu tác động mạnh mẽ của quá trình đổi mới nên quan
hệ trong gia đình có nhiều thay đổi. Trong gia đình hạt nhân, đôi vợ chồng có
toàn quyền quyết định cuộc sống cũng như chăm sóc, giáo dục con cái. Gia
đình ít người giúp cho các thành viên có điều kiện quan tâm lẫn nhau, đặc biệt
bố mẹ có điều kiện nhiều hơn trong việc chăm sóc con cái cả về đời sống vật
chất và tinh thần. Việc đóng góp thu nhập trong gia đình thì cả vợ và chồng
đều đem lại thu nhập cho kinh tế gia đình. Chính vì thế mọi vấn đề trong gia
đình, khi quyết định một vấn đề nào đó đều có sự bàn bạc thống nhất giữa vợ
và chồng.
“Công việc gia đình tôi không giao cụ thể cho một ai. Tôi thường đi
chợ nấu cơm…Chồng tôi phụ trách chăm lo cây cảnh, rửa xe…Tôi rất vui khi
chồng tôi giúp tôi giặt quần áo, hoặc đánh si cho đôi giầy” (P.H.H, nữ, 43
tuổi, Phường Yên Hoà).
* Kết hôn, ly hôn
Kết hôn về cơ bản người dân tuân thủ quy định về tuổi kết hôn trong
lật hôn nhân và gia đình.
“Hiện nay tuổi kết hôn bắt đầu muộn hơn đặc biệt là với nam giới và
những người có trình độ văn hóa họ thường kết hôn muộn hơn vì còn lo sự
nghiệp trước, khi có kinh tế rồi hoặc có công việc ổn định thì mới lo chuyện
lấy vợ lấy chồng. Tuổi kết hôn của con trai thường là 26 tuổi, con gái là 24
tuổi” (Nữ, Cán bộ dân số Phường Hàng Gai).
Li hôn không chỉ phá vỡ mối liên hệ giữa vợ và chồng mà thực tế còn
100
là sự thất bại về phương diện lối sống đã được xây dựng trên cơ sở mối quan
hệ này. Vì thế li hôn là một chấn động lớn trong cuộc đời mối người và gây
ra những tổn hại không lòng hàn gắn được. Sau khi li hôn sẽ để lại những
khoảng trống cho cả hai bên, tổn hại về tinh thần, tâm lí, tạo cảm giác căng
thẳng chán chường…và với nhiều người thì li hôn thực sự là một cú sốc trong
đời. Không chỉ ảnh hưởng đến cặp vợ chồng mà li hôn để lại hậu quả nặng
nền đối với con cái, thường do cú sốc tình cảm mà hư hỏng hoặc trầm tính.
* Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình hiện đang là một trong những vấn đề xã hội nóng bỏng
của nhiều quốc gia trên thế giới. Bạo lực gia đình đã vượt qua mọi ranh giới
về văn hoá, xã hội, trình độ học vấn, hay giai cấp, bỏ qua cả tuổi tác và thu
nhập nó trở thành một căn bệnh gia đình nguy hiểm nhất trong thời điểm hiện
nay. Bạo lực gia đình gây ra cơn địa chấn tác động đến mọi thành viên trong
gia đình và đi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống gia đình, trong đó phụ nữ,
người già và trẻ em là những đối tượng trực tiếp. Bạo lực gia đình gây ra
những hậu quả nặng nề không chỉ đối với những người trực tiếp hứng chịu nó
về thể xác và tinh thần và hơn nữa nó còn đem tới những ảnh hưởng nặng nề,
những tổn thương nghiêm trọng về mặt tâm lý cho thế hệ trẻ thơ trực tiếp
chứng kiến những cảnh bạo lực gia đình diễn ra trong gia đình chúng. Chúng
ta thường ví gia đình là tế bào của xã hội vì thế để xã hội có thể phát triển
bình thường thì mỗi gia đình cần phải là một tế bào khoẻ mạnh. Bạo lực gia
đình diễn ra trong mỗi tế bào ấy sẽ không thể làm cho nó khoẻ mạnh được, và
nguy hiểm hơn nó sẽ làm cho các tế bào con cái cũng sẽ mang trong mình
những ung nhọt, mầm bệnh dự báo sự tan rã.
Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực gia đình ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
phát triển cả về thể chất và tinh thần của thế hệ tiếp sau đó, đó là một yếu tố
gây ảnh hưởng vô cùng xấu đến chất lượng dân số của không chỉ một địa
phương mà còn ảnh hưởng trên diện rộng. Vấn đề khắc phục bạo lực gia đình,
101
xây dựng một cuộc sống trong sáng lành mạnh, với nguồn lực con ngưòi phát
triển tốt cả về thể chất và trí tuệ sẽ giúp chúng ta xây dựng một đất nước văn
minh, giàu mạnh hơn.
Tóm lại, về cuộc sống gia đình, tại địa bàn nghiên cứu, gia đình hai thế
hệ chiếm đa số, số người sống chung trong gia đình chủ yếu dưới 5 thành
viên. Đó là vì khi con cái kết hôn thường tách ra ở riêng để tránh mâu thuẫn,
xung đột trong gia đình. Tại địa bàn nghiên cứu, vẫn còn có trường hợp sinh
con thứ ba và bạo lực gia đình.
2.2.4.9. Sự tham gia công tác xã hội của phụ nữ
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đóng vai trò và
vị tríquan trọng. Giải phóng phụ nữ và phát triển toàn diện phụ nữ là một
trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu
dài đến sự phát triển đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ phát huy sức
mạnh và chăm lo đến sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường
xuyên và rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng. Ngày nay
việc phụ nữ tham gia công tác xã hội là nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội
phát triển và văn minh. Fure nhà không tưởng vĩ đại người Pháp thế kỷ XIX
đã nói “thước đo về trình độ phát triển của một xã hội văn minh là căn cứ vào
trình độ giải phóng phụ nữ”.
Hiện nay, ở các phường đều có các tổ chức, đoàn thể hoạt động nhằm
kêu gọi sự tham gia của các cá nhân vào các tổ chức phát triển cộng đồng.
Các ban ngành, đoàn thể chủ yếu hoạt động ở các địa phương là Đoàn Thanh
niên, Hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội nông dân, Hội Chữ Thập đỏ, Hội Cựu
chiến binh, Hội người cao tuổi… Số lượng hội viên tham gia vào các tổ chức
này ngày càng lớn.
“Tỷ lệ phụ nữ tham gia các đoàn thể chiếm 70%. So với 5 năm trước tỷ
lệ này thay đổi rõ rệt. Sự thay đổi này là do vấn đề bình đẳng giới được quan
tâm nhiều hơn, đất nông nghiệp để cho dự án nên không phải canh tác, điều
102
kiện gia đình khá hơn trước nên người phụ nữ có nhiều thời gian để tham gia
các hoạt động đoàn thể” (N.H.L, nam, 30 tuổi, trình độ đại học, Phường Yên
Hoà).
Phụ nữ khẳng định được vai trò của mình, nhiều phụ nữ tích cực tham
gia các hoạt động xã hội, và còn giữ chức vụ quan trọng trong các tổ chức
đoàn thể, chính quyền.
“Tổ trưởng tổ dân phố nữ chiếm 50%, Hội đồng nhân dân là 30%,
đoàn thể, chi bộ Đảng là 15 người, bí thư chi bộ của khu dân cư 2/7” (nam,
78 tuổi, trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Trước đây các cơ quan tỷ lệ nữ rất ít nhưng hiện nay bất cứ nam hay
nữ cứ nói được, làm được và được mọi người tín nhiệm và yêu mến là được
giao nhiệm vụ” (N.T.H, nữ, 40 tuổi, Phường Yên Hoà).
Bàn về năng lực làm việc của các nữ đại biểu, các vị lãnh đạo và các nữ
đại biểu cho rằng: các nữ đại biểu không thua kém gì các đồng nhiệm nam
giới, họ là những người có trình độ, có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt
nên được cử tri tín nhiệm lựa chọn. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng họ có
một số mặt mạnh hơn nam giới như: tính cần cù, chịu khó, trách nhiệm,
không nề hà vất vả, nghiêm túc, chịu khó nghiên cứu, học hỏi, ít tham ô,
không la cà, không nhậu nhẹt, lối sống giản dị, khiêm tốn, ứng xử hoà nhã,
gần gũi với cử tri.
“Số lượng phụ nữ trúng cử vào Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-
2009 với 5 đồng chí, chiếm tỷ lệ 14,6%. Số phụ nữ đảm đương các chức vụ
lãnh đạo, trưởng phó các ban ngành là 8 đồng chí, chiếm 29,6%” (nam, 36
tuổi, trình độ Đại học, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
Tóm lại, phụ nữ khẳng định được vai trò của mình, nhiều phụ nữ tích
cực tham gia các hoạt động xã hội, và còn giữ chức vụ quan trọng trong các tổ
chức đoàn thể, chính quyền. Tỷ lệ nữ tham gia trong công tác quản lý, lãnh
đạo ở các cấp tăng lên đáng kể, vai trò của phụ nữ ngày càng được đánh giá
103
cao.
2.2.4.10. An toàn công cộng
Trật tự an toàn công cộng là yếu tố cần thiết vì nó là yếu tố căn bản,
đảm bảo cho hoà bình và ổn định cho xã hội. Đảm bảo an toàn cho xã hội là
đem lại cho các thành viên trong xã hội một môi trường sống ổn định và hoà
bình. Nếu trật tự an toàn công cộng không được giữ vững sẽ ảnh hưởng xấu
đến cuộc sống của các thành viên trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng tới chất
lượng dân số.
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tám tháng đầu năm 2008, trên
địa bàn Thành phố đã phát hiện và xảy ra 3.277 vụ phạm pháp hình sự (giảm
16,25% so cùng kỳ năm trước), khám phá được 2.458 vụ án (giảm 2,03%) và
bắt giữ theo luật được 3.484 đối tượng (tăng 5,12%). Tổng số vụ buôn bán,
tàng trữ, vận chuyển ma tuý 8 tháng năm 2008 là 1.807 vụ (tăng 19,6% so
cùng kỳ), bắt giữ được 2.414 đối tượng (tăng 22%). Số vụ tai nạn giao thông
xảy ra trong 8 tháng là 654 vụ (giảm 12,6% so cùng kỳ) làm chết 433 người (giảm 18,9%) và làm bị thương 536 người (giảm 6%).55
Theo báo cáo của Phường Hàng Gai, trong năm 2006 Phường đã điều
tra khám phá 26/37 vụ hình sự (70,2%), bắt 36 đối tượng, trị giá tài sản thu
hồi là 287.000.000 đ, khai thác mở rộng án, nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá
2 vụ, so với năm 2005 tăng 07 vụ (23,3% chủ yếu là đua xe gây rối trật tự
công cộng), không để xảy ra trọng án, bắt 2 đối tượng truy nã, khám phá 3/3
chuyên án truy xét, lập 5/5 hồ sơ đưa đối tượng đi cơ sở giáo dục, trường giáo
dưỡng.
Về chống tội phạm ma túy và tệ nạn xã hội, đã khám phá 5 vụ, bắt 6
đối tượng thu nhiều tang vật, lập 12 hồ sơ, đưa 10 đối tượng đi cai nghiệm bắt
buộc tại trung tâm cai nghiệm của thành phố; lập hồ sơ đưa 4 đối tượng lang
55 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
104
thang nghiện ma túy vào cai nghiện tại trung tâm cai nghiện, tạo điều kiện
giúp đỡ việc laflm cho 2 người, dạy nghề cho 1 người đã cai nghiện cắt cơn
điều trị lâu dài tại cộng đồng và cai khỏi nghiện. Khám phá 1 vụ, 13 đối tượng
đánh bạc thu 03 bộ chắn, 3 đĩa sứ, 660.000 đ chuyển công an quận truy tố 1
đối tượng (là chủ chứa), xử lý hành chính 12 đối tượng, Tổ chức bảo vệ an
toàn Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử 02 phiên lưu động 8 vụ phạm
tội ma túy tại Ủy ban nhân dân phường để răn đe giáo dục trực tiếp đến các
đối tượng ma túy trên địa bàn, nâng cao tinh thần đấu tranh phòng, chống tội
105
phạm về ma túy của quần chúng nhân dân.
Theo báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội và an ninh
quốc phòng năm 2006 của phường Yên Hòa, tình hình an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn phường tiếp tục được giữ vững và ổn định, công
an phường đã chủ động phát hiện nắm tình hình và thu thập thông tin tham
mưu cho cấp ủy Đảng, Chính quyền. Tính đến ngày 20/11/2006, toàn phường
xẩy ra 94 vụ phạm pháp hình sự. Công an phường điều tra làm rõ 52/94 vụ.
Công an phường đã thường xuyên tuyên truyền về phương thức hoạt động của
bọn tội phạm, tập trung phòng chống trộm cắp nhà dân và trộm cắp xe máy
nhằm nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ và nhân dân, chủ động làm tốt
công tác phòng ngừa. Tổ chức ký cam kết và phát phiếu tuyên truyền phòng
ngừa tội phạm, vận động 890 hộ dân lắp khóa trong, 450 hộ lắp khóa bảo vệ
xe máy.
Tăng cường tuần tra kiểm soát, mật phục tại các địa bàn giáp ranh, các
khu vực phức tạp vào giờ cao điểm. Làm tốt công tác phòng, chống các loại
tội phạm đặc biệt là tội phạm ma túy, trong năm công an phường đã bắt giữ,
lập hồ sơ xử lý 12 vụ với 14 đối tượng, thu 04 cục, 23 gói nhỏ hê rô in và
nhiều tài sản vi phạm khác.
Thực hiện tốt công tác quản lý hành chính, quản lý trật tự giao thông và
trật tự đô thị. Lực lượng cảnh sát khu vực đã hướng dẫn cho 279 hộ có nhà
cho thuê trọ thực hiện tốt các quy định về an ninh trật tự. Tiếp tục duy trì
10/10 trạm khai báo tạm trú và tiếp tục thực hiện mô hình “Xây dựng khu dân
cư an toàn về an ninh trật tự”, chuyên đề “nâng cao hiệu quả công tác quản lý
các hộ cho thuê nhà trọ” và quản lý “người hành nghề xe mô tô 2 bánh chở
khách”.
Tại địa bàn nghiên cứu, hoạt động về ma tuý không hình thành các tụ
điểm lớn cố định, các hoạt động về tệ nạn ma tuý chủ yếu là buôn bán lẻ, tổ
chức sử dụng chất ma tuý.
“Tệ nạn xã hội, điểm buôn bán lớn không có, buôn bán nhỏ xuất phát
106
từ nhu cầu của đối tượng nghiện người ta không có tiền đáp ứng nhu cầu sử
dụng hàng ngày thì người ta mua về sử dụng 1 ít, người ta bán đi một ít
chẳng hạn. Do điều kiện người ta không có chứ không phải là các tụ điểm
lớn. Chúng tôi luôn theo dõi và nắm bắt tình hình triệt phá các ổ nhóm buôn
bán. Đối tượng nghiện có 144 người, thực ra đi tù, trung tâm đi cai nghiện
hiện còn 30 đối tượng ở nhà. Với dạng đi cai về, hoặc đối tượng chưa đi cai,
trước kia 2-3 năm trước người ta nghiện nhưng khi đưa lên cơ quan xét
nghiệm thì người ta âm tính không có căn cứ để đưa người ta đi. Mình lập hồ
sơ để theo dõi” (Nam, Công an Phường Yên Hoà).
Các đối tượng hoạt động sử dụng chất ma tuý thường hoạt động ở các
gầm cầu thang, nhà cao tầng, khu vực đang xây dựng và liên tục thay đổi vị trí
nên công tác xác minh, xử lý, bắt giữ còn gặp nhiều khó khăn. Và chính
những đối tượng này làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống của người
dân. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân của trộm cắp, cướp
giật...
“Hiện nay có một số thanh niên nghiện hút, nhiều khi là ở các phường
khác thấy xe máy hay vật dụng của các gia đình để sơ hở là lấy trộm”
(N.T.M, nữ, 50 tuổi, Phường Yên Hoà).
Đối với Phường Yên Hòa, đây là địa bàn có sinh viên và người lao
động đến tạm trú do vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình an ninh trật tự
địa phương. Đặc biệt đối với những người lao động tự do một số hộ cho thuê
không khai báo tạm trú gây khó khăn trong công tác quản lý khai báo tạm trú,
tạm vắng quản lý tội phạm trên.
“Học sinh sinh viên và người lao động đến tạm trú trên địa bàn
phường gây cho công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn, ví dụ nay người ta
đến mai người ta đi do điều kiện người ta làm ăn không được thì người ta
chuyển sang phòng trọ khác cho phù hợp hơn. Hoặc chủ nhà khó tính người
ta cũng chuyển, do điều kiện sinh hoạt không đáp ứng được họ cũng
chuyển…công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn đó là việc nắm bắt các đối
tượng đến thuê trọ rất khó. Hoặc căn cứ luật cư trú, người đến tạm trú đăng
ký thủ tục rất đơn giản, 1 chứng minh thư cũng có thể đăng ký tạm trú được
107
rồi. hoặc giấy tờ chứng mình sổ hộ khẩu hoặc thẻ sinh viên. Có đối tượng
không phải là sinh viên học vài tháng đầu xong bị đuổi người ta vẫn giữ thẻ
sinh viên người ta trình công an phường là sinh viên cho nên việc quản lý tội
phạm ẩn trên địa bàn phường gặp rất nhiều khó khăn” (Nam, Công an
Phường Yên Hoà).
“Phường Yên Hòa có nhiều sinh viên đang tạm trú để học tập đây là
vấn đề phải biết phát huy cả hai mặt: Vừa phải sát xao với tình hình tạm trú
của sinh viên, để ổn định được tình hình trật tự của phường. Vừa phải tạo
điều kiện cho sinh viên được đảm bảo về tình hình an ninh trật tự của
phường” (Nam, Công an Phường Yên Hòa).
Đặc điểm đô thị nên không thể tránh khỏi tình trạng người ngoại tỉnh
đến sinh sống, buôn bán. Khi được hỏi người dân trả lời không thoải mái lắm
với vấn đề này vì người dân ở nơi khác đến gây mất trật tự công cộng, gây
phiền phức cho hộ dân.
“Người dân ở đây thì hầu như là không có để xảy ra đánh nhau mà
chủ yếu là do những người đến thuê nhà. Những thanh niên thuê nhà mà
không có việc làm suốt ngày tụ tập, rượu vào dễ đánh nhau, gây lộn. (Nam,
44 tuổi, trình độ Cao đẳng, Phường Yên Hoà).
“Nhìn chung sinh viên là có học thì có ý thức chấp hành tốt nhưng
nhiều khi vì bị lôi kéo hay chỉ ham vui thôi là đã rủ nhau lui tới quán ăn bên
hè. Và đây có thể là lực lượng khách hàng đông đảo của những hàng quán
nơi đây. Và vô tình sinh viên, những người có học thức lại ủng hộ cho những
việc làm sai. Cho nên, sinh viên tập trung ở nơi đây đông cũng ảnh hưởng tới
nhiều mặt của đời sống nhân dân trong phường” (Nam, Công an phường Yên
Hòa).
Vậy, người dân địa phương đánh giá như thế nào về tình hình an ninh
trật tự của địa phương?
Kết quả điều tra cho thấy có 13,3% người dân Phường Hàng Gai và
25% người dân Phường Yên Hòa không hài lòng về vấn đề trật tự công cộng
108
của địa phương.
Mặc dù tệ nạn xã hội trên địa bàn vẫn còn nhức nhối, xong các biện
pháp tăng cường an ninh trật tự cũng đã được thực hiện. Chính vì vậy khi
đánh giá về tình hình an ninh trật tự, đa số người dân trên địa bàn vẫn nhận
định tình hình an ninh của địa phương là tốt.
Theo đánh giá của cá nhân của chú thì phường chú so với các phường
khác có tình hình an ninh công cộng là khá tốt. Mặc dù địa bàn phường có
phần khá phức tạp nhưng vì biết được đặc điểm của phường nên cán bộ
phường đã quan tâm sát xao. Vì thế nên các tệ nạn hầu như là có ít. (Nam,
Công an Phường Yên Hòa).
“Chúng tôi bố trí các cháu cai nghiện thành công vào làm trong lực
lượng tự quản. Một số người trong đội tự quản đã có tiền án, tiền sự nên khi
có đối tượng khác đến địa bàn là phát hiện được và phối hợp cùng công an
bắt tên ăn cắp, ăn trộm điện thoại di động, xe máy giúp cho hạn chế được tình
trạng mất cắp trên địa bàn phường. Đội tự quản được thành lập 5 năm giúp
cho địa bàn trật tự an ninh ổn định, hạn chế tình trạng ăn cắp xe máy. Phong
trào an ninh trật tự hàng năm đều được quận khen thưởng (nam, 78 tuổi,
trình độ Đại học, Cán bộ Mặt trận tổ quốc phường Hàng Gai).
“Nhìn chung thì an ninh trật tự tương đối tốt, chỉ có một số khu nhà
trọ và ở khu vực chợ đôi khi xảy ra va chạm. Khi có sự việc xảy ra thì công an
phường thường xuống đó cùng chủ nhà giải quyết, thường là không cho ở nữa
vì không chấp hành theo quy định về an ninh trật tự trên địa bàn phường.
Nhìn chung là các tệ nạn vẫn có nhưng nhờ tổ dân phòng, công an phường
thường xuyên theo dõi, giám sát nên tình hình an ninh cũng tốt. không xảy ra
những gì đáng tiếc” (N.V.H, nam, 44 tuổi, Phường Yên Hoà).
Tóm lại, đối với Phường Yên Hòa, đây là địa bàn có sinh viên và người
lao động đến tạm trú do vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình an ninh
trật tự địa phương. Tại các phường, các đối tượng vi phạm các tệ nạn xã hội,
đối tượng cai nghiện thành công được tạo công ăn việc làm. Mặc dù tệ nạn xã
109
hội trên địa bàn vẫn còn nhức nhối, xong các biện pháp tăng cường an ninh
trật tự cũng đã được thực hiện. Chính vì vậy khi đánh giá về tình hình an ninh
trật tự, đa số người dân trên địa bàn vẫn nhận định tình hình an ninh của địa
phương là tốt.
2.2.4.11. Văn hoá và giải trí
Theo thống kê, trong năm 2007, tổng số sách xuất bản của Nhà xuất
bản Hà Nội là 679 đầu sách. Số thư viện hiện có là 15; số sách thư viện hiện
có là 578.000 bản. Trên địa bàn Hà Nội có 5 rạp chiếu bóng, tổng số các buổi
chiếu trong năm 2007 là 7.061 buồi với 503 lượt người xem, doanh thu 6 tỷ
đồng. Số đơn vị nghệ thuật hiện có trên địa bàn là 6; số rạp hát là 4; tổng số buổi biểu diễn: 2.873 buồi với 1.188 lượt người xem, doanh thu 18 tỷ đồng56.
Theo báo cáo của Phường Hàng Gai, trong năm 2006, phường đã phát
thanh được 457 lượt buổi với 610 bài tin. Về công tác cổ động trực quan,
Phường đã làm 45 pa nô 2 mặt; 60 khẩu hiệu 01 mặt; 80 cờ nheo; 45 khẩu
hiệu 2 mặt; 50 cờ dây; 550 tờ áp phích, tờ gấp. Câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời
hoạt động vào các buổi sáng hàng ngày; luyện tập 2 đôi thể dục nhịp điệu
thiếu niên, thanh niên tham gia thi quận tổ chức và được quận cử đi tham dự
thi thành phố kết quả đạt 01 đạt giải nhất quận, 01 giải nhì quận và 01 giải nhì
thành phố, tham gia giải chạy Báo Hà Nội mới có 20 vận động viên đạt giải
nhì đội nữ cấp quận, giải nhì cá nhân nữ cấp quận, tổ chức hội khỏe năm 2006
có 150 vận động viên tham gia 06 môn thi đấu.
Theo báo cáo của Phường Yên Hòa, trong năm 2006, Ủy ban nhân dân
phường đã duy trì đều đặn các hoạt động thông tin tuyên truyền, duy trì phát
thanh đều đặn 2 buổi mỗi buổi 30 phút. ủy ban nhân dân phường đã đầu tư
mua mới 02 máy phát thanh mới nhằm đảm bảo công tác phát thanh tuyên
truyền. Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân phường còn tổ chức tuyên truyền bằng các hình thức trực quan với 121 chiếc băng zôn = 702 m2; kẻ vẽ 10 pa nô = 50 m2; phướn 5 chiếc = 300 m2. Phường đã tổ chức cổ động bằng xe ô tô, xe máy
56 Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
110
được 04 buổi phục vụ các hoạt động do phường, quận và thành phố phát
động; tổ chức 25 buổi văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn trong năm; kết
hợp với các đơn vị trong cụm văn hóa tổ chức hội thi tìm hiểu kiến thức vệ
sinh môi trường đạt kết quả tốt; tổ chức tốt Hội nghị đại biểu nhân dân lần thứ
7 bàn về xây dựng đời sống văn hóa. Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hóa đạt 90% trên tổng số hộ gia đình. Các phong trào thể dục, thể thao
được phát triển mạnh, tỷ lệ người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt
36%. Phường đã kết hợp với các ban ngành đoàn thể tổ chức lễ hội truyền
thống hàng năm tại Đình An Hòa và Đình Yên Quyết.
Đó là con số báo cáo của các phường về hoạt động văn hóa. Vậy, người
dân tại địa bàn nghiên cứu hưởng thụ văn hóa và giải trí như thế nào?
Họat động vui chơi giải trí đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc
sống gia đình. Hoạt động này không chỉ giúp gắn kết các thành viên trong gia
đình mà còn góp phần nâng cao sức khỏe của mỗi thành viên. Hơn nữa, đối
với các thành phố có nhịp sống công nghiệp như Hà Nội, cường độ làm việc
và sức ép về thời gian lớn tạo sự mệt mỏi, căng thẳng… thì hoạt động này thật
sự bổ ích đối với người dân.
Hưởng thụ văn hoá là các hoạt động diễn ra trong thời gian nhàn rỗi -
tức khoảng thời gian tự do ngoài thời gian dành cho việc lao động kiếm sống.
Đó là việc vui chơi, giải trí và di dưỡng tinh thần với hai cấp độ: thường ngày
và kỳ dịp.
Đối với cấp độ thường ngày, người dân thường chọn loại hình như đọc
sách báo, xem ti vi, chơi thể thao, vào mạng internet. Phường Yên Hoà có tỷ
lệ người dân tham gia vào các loại hình giải trí cấp độ thường ngày cao hơn
Phường Hàng Gai.
111
Bảng 16: Hoạt động giải trí cấp độ thƣờng ngày (%)
Phường Hàng Gai Yên Hoà Hoạt động giải trí
Đọc sách, báo,tạp chí 72,0 77,2
112
Xem ti vi 79,3 99,1
Có thể thấy rằng, sự xuất hiện của nhiều kênh, nhiều chương trình vô
tuyến đa dạng và phong phú đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của truyền
hình cáp, truyền hình kỹ thuật số đã làm truyền hình là phương tiện truyền
thông và giải trí phổ biến nhất của người dân. Điều này cũng được khẳng định
qua kết quả ở địa bàn khảo sát. Phường Yên Hoà có tỷ lệ cao 99,1%, Hàng
Gai có tỷ lệ thấp hơn: 79,3%.
Thông tin báo chí được cập nhật hàng ngày và với ưu điểm lưu giữ
thông tin lâu dài nên đọc sách, báo là loại hình đứng thứ 2 được người dân lựa
chọn (Yên Hòa là 77,2% và Hàng Gai 72%). Lựa chọn 2 loại hình trên nhiều
nhất được người dân lý giải rằng, họ có thể tranh thủ đọc báo, xem ti vi mà
không cần phải mất quá nhiều thời gian.
“Bán hàng bận như con mọn ít thời gian rỗi lắm, tranh thủ lúc nào
không có khách ngồi đọc báo và xem ti vi thôi. Con tôi thì cũng lớn rồi có thể
xem ti vi và đặc biệt phục phụ cho học vi tính thì chúng lên mạng. Chồng tôi
người nhà nước nên thường hay lên mạng và cũng có khi xem ti vi, đặc biệt là
anh ấy thích đọc báo” (N.T.M, nữ, bán hàng, Phường Yên Hoà).
113
Biểu 3: Tỷ lệ có máy vi tính nối mạng và có vào mạng
Có thể thấy rằng tỷ lệ chọn hình thức giải trí vào mạng thấp hơn tỷ lệ
gia đình có máy vi tính nối mạng (Phường Hàng Gai: 27,6% so với 38%;
Phường Yên Hoà: 29.8% so với 42.1%). Qua phỏng vấn sâu chúng tôi đã biết
được rằng, sử dụng internet đa phần là thanh niên, học sinh, sinh viên đặc biệt
nhiều phụ huynh mua cho con cái dùng nên có sự chênh lệch tỷ lệ như vậy.
“Năm ngoái thằng lớn cũng bắt mua về cho anh em chúng nó học đấy,
đầu năm nay chú có nối mạng để cho chúng có phương tiện để học hành”
(T.T.H, nữ, 48 tuổi, Phường Yên Hoà)
Hoạt động thể dục chưa nhiều người tham gia, cụ thể Phường Yên Hoà
có 50% người dân được hỏi trả lời có tham gia còn Phường Hàng Gai chỉ có
26% người dân tham gia tập luyện thường xuyên. Các hoạt động thể dục đó là
đi bộ, cầu lông, thể dục thẩm mỹ, chơi cờ… tập dưỡng sinh của người già.
“Phường Hàng Gai có 1 thư viện số 8 Tạm Thương đây không những
là thư viện mà còn là điểm vui chơi cho khu dân cư đó và là nơi cho người
lớn sinh hoạt. Thể dục thể thao có cái khó là không có địa điểm, phường tôi
có khoảng 70 bác tham gia thể dục ngoài trời lấy địa điểm ngoài bờ hồ, vì
làm gì có địa điểm đâu. Tất cả các phường đều đổ ra bờ hồ, phường nào có
công viên, vườn hoa thì các cụ có thể ra đó cho rộng, còn các phường nhỏ thì
ra xung quanh bờ hồ. Hoạt động thể thao nhỏ thì đánh bóng bàn, bàn bóng kê
ở hội trường của phường. Sân bóng thì không có, nói chung tất cả khu dành
cho chơi thể thao là không có” (Nam, trình độ Đại học, cán bộ văn hóa
phường Hàng Gai).
“Tôi tham gia thể dục nhịp điệu vào buổi tối, chồng tôi có nhiều thời gia
hơn nên khi nghỉ làm thường đi đánh cầu lông sau đó mới về nhà ăn tối”
(N.T.M, nữ, phường Yên Hoà)
Hưởng thụ văn hoá kỳ dịp người dân tham gia nhiều là đi chơi cùng gia
đình bạn bè, đi lễ chùa còn hát karaoke hay đi xem phim ở rạp ít người tham
114
gia.
115
Bảng 17: Hoạt động giải trí cấp độ kỳ dịp (%)
Phường
Hoạt động Hàng Gai Yên Hoà
giải trí
Đi xem phim ở rạp 12,7 12,3
Hát karaoke 8,7 21,1
Đi chơi cùng gia đình, bạn bè 64,7 64,9
“Thường những ngày nghỉ cuối tuần gia đình tập trung lại nấu ăn
“bữa ăn tươi” bồi dưỡng cả nhà thôi, thỉnh thoảng lại về nhà ngoại hay nhà
nội. Còn những đợt nghỉ dài như hè và tết thì có năm đi du lịch cả nhà. Bây
giờ các con lớn rồi chúng muốn đi chơi với bạn bè, 2 vợ chồng đi du lịch
riêng với nhau” (N.T.M, nữ, 50 tuổi, Phường Yên Hoà).
“Khi họ có tiền, nhu cầu vui chơi giải trí của họ cũng nhiều hơn, họ
muốn hưởng thụ món ăn ngon của nhà hàng và họ thích đi du lịch trong
nước, du lịch nước ngoài, bây giờ họ đi nhiều lắm” (nam, 36 tuổi, trình độ
Đại học, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Yên Hoà).
Trên địa bàn Hà Nội hiện nay có rất nhiều đình, đền, chùa, miếu đáp
ứng nhu cầu tâm linh của người dân Hà Nội. Hiện nay một số còn nhưng một
số đã mất chỉ còn tên trong danh sách.
“Có 1 đền, đền Dâu 64 Hàng Quạt. Tôi nói các đình hiện nay vẫn còn,
còn những đình trong danh sách nhiều lắm nhưng nó mất rồi. Thứ nhất, đình
Yên Thái số 8 Tạm Thương- di tích đã được xếp hạng thờ bà Nguyên phi ỷ
Lan. Thứ hai đình Cổ vũ 85 Hàng Gai đang chuẩn bị trùng tu. Ba là đình Hà
Vĩ 11 Hàng Hòm thờ ông tổ nghề sơn. Bốn là đình Khúc Hậu ở số 2 Hàng
Bông, gọi là đình nhưng mà nó bé lắm, chỉ có mấy mét vuông ở trên tầng 2
thôi. Tiếp theo đền thờ ông tổ nghề thêu là Tú Đình Thị số 2 Yên Thái. Đây là
những đình còn hoạt động thờ cúng, ngoài ra còn đình Hàng Nón, trước kia
116
thôi bây giờ làm trụ sở rồi. Đình Hàng Quạt ở số 4 Hàng Quạt ...ngoài ra còn
rất nhiều đình khác nhưng bây giờ nó mất rồi” (Nam, trình độ Đại học, Cán
bộ văn hóa phường Hàng Gai).
Biểu 4: Tỷ lệ người dân đi lễ chùa
Những người đi lễ chùa chủ yếu là người kinh doanh, người già và phụ
nữ. Họ đi lễ chùa cầu mong sức khoẻ, sự bình an trong gia đình cầu mong
buôn bán cho thuận lợi.
“Tỷ lệ người dân địa bàn phường và ở nơi khác đến là 50/50. Đình
Khúc Hậu nhỏ nhất nhưng cũng có rất nhiều người ở nơi khác đến. Có người
già, phụ nữ và những người kinh doanh nhưng có lẽ người kinh doanh có lẽ
là nhiều hơn cả” (Nam, trình độ Đại học, Cán bộ văn hóa phường Hàng
Gai).
“Người dân chủ yếu đi lễ chùa vào ngày rằm và ngày mùng 1, thanh
niên thì ít qua lại, chủ yếu là người già, người buôn bán và công nhân viên
chức họ cũng đến” (Nam, trình độ Đại học, Cán bộ văn hóa Phường Yên
Hoà).
Ngoài các hoạt động người dân thì phường tổ chức buổi văn nghệ, thể
thao đặc biệt vào dịp hè thường tổ chức sinh hoạt hè cho thiếu nhi.
“Phường cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ
người dân họ cũng ra xem đông” (Nam, trình độ Đại học, Cán bộ văn hóa
Phường Yên Hoà).
“Bắt đầu vào nghỉ hè thì có các ban ngành sự nghiệp cùng tham gia tổ
117
cho các cháu thiếu nhi. Hôm qua là các em đi thi tuyên truyền giới thiệu sách,
hoạt động tuyên truyền sách mới có khoảng 5-7 năm trở lại đây. Trước đây
môn thi này là môn kể chuyện, các cháu diễn tả câu chuyện còn bây giờ phải
dựng một tiểu phẩm có minh hoạ hình ảnh, âm thanh… Trong cuộc thi có cả
phần giới thiệu đổi tuyển, câu hỏi kiến thức” (Nam, trình độ Đại học, Cán bộ
văn hóa Phường Hàng Gai).
Như vậy, có thể thấy rằng, đối với cấp độ thường ngày, người dân
thường chọn loại hình như đọc sách báo, xem ti vi, chơi thể thao và vào mạng
internet. Đời sống kinh tế phát triển nên nhu cầu hưởng thụ người dân tăng
lên. Hiện nay, người dân Hà Nội đi du lịch nhiều hơn. Một hoạt động văn hóa
nữa của người Hà Nội là đi lễ chùa. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu là phụ nữ
118
và những người đi kinh doanh buôn bán.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Qua nghiên cứu đề tài: “Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến chất
lượng dân số đô thị thành phố Hà Nội” chúng tôi đưa ra một số kết luận như
sau:
3.1.1. Về chất lượng dân số đô thị thành phố Hà Nội
Dựa theo kết quả tính toán PQI với các giá trị kỳ vọng Imax được chọn
theo VDG, chúng ta thấy chất lượng dân số Phường Hàng Gai đạt loại khá,
chất lượng dân số Phường Yên Hoà đạt loại tốt. Như vậy, chưa hẳn ở khu vực
trung tâm, khu vực phố cổ chất lượng dân số cao hơn các khu vực khác. Bởi
vì ở đó bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế- xã hội như điều kiện nhà ở chật
chội, thiếu ánh sáng, điều kiện vệ sinh, ô nhiễm môi trường … đã tác động
không tốt đến chất lượng dân số. Do vậy, cần xem xét và quan tâm hơn nữa
đến việc cải thiện cuộc sống và nâng cao chất lượng dân số.
3.1.1.1. Về thể chất
- Chỉ số BMI cho thấy Phường Yên Hoà có tỷ lệ người khoẻ mạnh, cân
đối cao hơn Phường Hàng Gai.
- Chỉ thị I2 (Tỷ suất trẻ dưới 5 tuổi không bị suy dinh dưỡng) của các
mẫu nghiên cứu đều đạt giá trị rất cao (tất cả đều trên kỳ vọng >1,0). Điều
này phản ánh hiệu quả cao của công tác chăm sóc y tế cũng như sức khoẻ của
trẻ em dưới 5 tuổi.
- Chỉ thị I3 (Tỷ suất người không nghiện ma tuý) của hai phường ngang
nhau (Phường Hàng Gai: 0,86; Phường Yên Hòa: 0,84).
3.1.1.2. Về trí tuệ
- Chỉ thị I4 (Tỷ suất lao động có kỹ thuật) chiếm tỷ lệ rất cao, đạt trên
119
mức kỳ vọng (>1,0).
- Chỉ thị I5: Tỷ suất gia đình có máy vi tính nối mạng ngày càng nhiều
và có sự chênh lệch sự chênh lệch giữa Phường Hàng Gai (0,730) và Phường
Yên Hòa (0,809).
- Chỉ thị I6 (Tỷ suất người có trình độ trung cấp, đại học, cao đẳng trở
lên) là thấp nhất (Phường Hàng Gai: 0,413; Phường Yên Hòa: 0,430).
3.1.1.3. Về tinh thần
- Chỉ thị I7 (Tỷ suất hộ gia đình dùng truyền hình cáp, đầu Kỹ thuật số)
đều đạt trên 80%.
- Chỉ thị I8, Tỷ suất hộ gia đình không phạm pháp chiếm tỷ lệ tương đối
cao (>0,80).
- Chỉ thị I9, tỷ suất hộ gia đình văn hoá ở các phường khá cao, đặc biệt
có Phường Yên Hoà đạt trên mức kỳ vọng.
3.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số đô thị thành phố Hà
Nội
3.1.2.1. Thu nhập và phân bổ thu nhập:
Thu nhập của người dân Hà Nội hiện nay đã tăng lên so với trước kia.
Mức thu nhập của Phường Yên Hoà và Phường Hàng Gai khá cao so với mức
thu nhập trung bình của thành thị. Số hộ nghèo được phường hỗ trợ và giới
thiệu việc làm để có thu nhập.
Kinh tế Phường Hàng Gai đứng thứ 6 trong quận Hoàn Kiếm, có các
tuyến phố chuyên kinh doanh. Ở địa bàn nghiên cứu có khoảng cách khá xa
giữa hộ thu nhập cao nhất và hộ thu nhập thấp nhất (Cao nhất: 30 triệu; thấp
nhất: 500 nghìn đồng).
Yên Hoà là phường có tốc độ đô thị hoá nhanh, thu nhập người dân
tăng cách đột biến do đền bù đất nông nghiệp.
3.1.2.2. Lao động và việc làm
- Chất lượng lao động: Số lao động chưa qua đào tạo nghề hoặc qua
120
đào tạo nghề thấp còn chiếm tỷ lệ khá cao.
- Cơ cấu nghề nghiệp khá đa dạng, bên cạnh việc phát triển ngành nghề
121
mới thì một số hộ gia đình vẫn giữ được nghề truyền thống.
3.1.2.3. Giao thông liên lạc
- Hệ thống giao thông tương đối tốt, trên 90% các ngõ phố đều là
đường nhựa và đường bê tông. Tuy nhiên, nhiều tuyến phố đã xuống cấp, vỉa
hè bị lấn chiếm nghiêm trọng, tắc nghẽn giao thông thường xuyên xảy ra ở
cổng trường học.
- Hệ thống loa truyền thanh tại Phường Hàng Gai và Phường Yên Hòa
chưa phát huy được tác dụng.
- Số hộ sử dụng điện thoại cố định và điện thoại di động cao, số hộ có
truyền hình cáp, kỹ thuật số và internet ngày càng gia tăng.
3.1.2.4. Sức khoẻ
- Chăm sóc sức khoẻ trẻ em: trẻ em sinh ra được tiêm phòng đầy đủ. Tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ tử vong 0 tuổi, trẻ dưới 5 tuổi tử vong đều giảm
hơn so với trước. Tỷ lệ trẻ em béo phì ở khu đô thị đang có chiều hướng gia
tăng, tình trạng này ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ
- Lựa chọn nơi khám bệnh: đa số người dân khám và chữa bệnh tại các
bệnh viện lớn và phòng khám tư nhân do ở những nơi đó có phương tiện kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ bác sĩ lành nghề. Trạm y tế chỉ đáp ứng được vấn đề
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân.
- HIV/AIDS: Tỷ lệ mắc bệnh theo con số báo cáo không đúng với số
liệu thực tế, đặc biệt Phường Yên Hoà có tỷ lệ sinh viên và người lao động
ngoại tỉnh đến thuê trọ đông nên gặp khó khăn trong việc thống kê và quản lý
những người bị mắc bệnh.
3.1.2.5. Giáo dục
- Vấn đề giáo dục được quan tâm một cách đúng mức, tỷ lệ trẻ em đi học
đạt 100%, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp học cao.
- Ở khu vực phố cổ do điều kiện chật chội, trường học diện tích hẹp,
thiếu diện tích cho các em vui trong trong giờ nghỉ giải lao. Có tình trạng học
122
xen ghép với các trường khác.
- Ngoài việc đầu tư cho con cái học ở trường các bậc phụ huynh cho con
học thêm các môn phụ (hát nhạc, bơi, võ, cờ vua, cờ tướng..) phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần.
- Hội khuyến học ở Phường Yên hoà và Phường Hàng Gai đã phát huy
được vai trò của mình trong việc vận động đóng góp quỹ, hỗ trợ và khen
thưởng kịp thời cho các em có thành tích cao trong học tập.
3.1.2.6. Nhà ở
Có sự khác biệt rõ rệt về loại hình nhà ở 2 địa bàn nghiên cứu. Phường
Hàng Gai đa phần diện tích nhỏ, hẹp, số người sống chung trong một số nhà
đông. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dân số Phường Hàng
Gai. Trong khi đó người dân Phường Yên Hoà nhà ở không những phục vụ
cho sinh hoạt mà còn xây nhà cho sinh viên và lao động ngoài tỉnh thuê.
3.1.2.7. Môi trường
- Hiện nay, chất lượng môi trường không khí Hà Nội đang bị suy thoái
đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông dân cư. Môi trường không khí hiện
đang chịu tác động chủ yếu của hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động
giao thông vận tải, xây dựng và sinh hoạt của cộng đồng.
- Nước thải sinh hoạt hiện phần lớn được qua xử lý sơ bộ tại các bể tự
hoại. Nước thải sản xuất, nước thải của các bệnh viện và các cơ sở dịch vụ
chứa nhiều chất gây ô nhiễm chiếm 90% tổng lượng nước thải công nghiệp và
dịch vụ trên toàn thành phố chưa được xử lý đều xả vào nguồn nước mặt. Hệ
thống thoát nước thải ở Hà Nội được xây dựng từ lâu, nhiều chỗ bị hỏng, đất
rơi xuống làm tắc nghẽn, nhiều hôm mưa to là nước lại ngập... ảnh hưởng đến
cuộc sống của người dân.
- Trong những năm qua, tốc độ đô thị hoá ở Hà Nội tăng mạnh. Mức
sống của người dân đang không ngừng được cải thiện nên lượng rác thải sinh
hoạt bình quân tính theo đầu người tăng. Do đó, việc xử lý chất thải rắn để tiết
kiệm diện tích đất chôn lấp là một trong những khó khăn, là yêu cầu cấp bách
123
đặt ra với Thành phố Hà Nội.
- Khu vực phố cổ vẫn còn tồn tại một số nhà vệ sinh chung, hiện đã
xuống cấp trầm trọng gây mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
- Về vấn đề nước sạch phục vụ cho sinh hoạt, nhìn chung được thực
hiện khá tốt nhưng vẫn còn một số nơi nhiều người dân vẫn chưa được sử
dụng nước sạch, một số nơi vẫn phải dùng nước giếng khoan. Người dân chỉ
sử dụng cách lọc đơn giản là dùng sỏi hoặc cát, như vậy không thể lọc hết
được các chất ô nhiễm có trong nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ khi sử dụng.
3.1.2.8. Cuộc sống gia đình
Gia đình hai thế hệ chiếm đa số, số người sống chung trong gia đình
chủ yếu dưới 5 thành viên. Đó là vì khi con cái kết hôn thường tách ra ở riêng
để tránh mâu thuẫn, xung đột trong gia đình. Tại các phường, vẫn còn có
trường hợp sinh con thứ ba và bạo lực gia đình.
3.1.2.9. Sự tham gia công tác xã hội của phụ nữ
Phụ nữ khẳng định được vai trò của mình, nhiều phụ nữ tích cực tham
gia các hoạt động xã hội, và còn giữ chức vụ quan trọng trong các tổ chức
đoàn thể, chính quyền. Tỷ lệ nữ tham gia trong công tác quản lý, lãnh đạo ở
các cấp tăng lên đáng kể, vai trò của phụ nữ ngày càng được đánh giá cao.
3.1.2.10. An ninh trật tự
Đối với Phường Yên Hòa, đây là địa bàn có sinh viên và người lao
động đến tạm trú do vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình an ninh trật tự
địa phương. Tại các phường, các đối tượng vi phạm các tệ nạn xã hội, đối
tượng cai nghiện thành công được tạo công ăn việc làm. Mặc dù tệ nạn xã hội
trên địa bàn vẫn còn nhức nhối, xong các biện pháp tăng cường an ninh trật tự
cũng đã được thực hiện. Chính vì vậy khi đánh giá về tình hình an ninh trật
tự, đa số người dân trên địa bàn vẫn nhận định tình hình an ninh của địa
124
phương là tốt.
3.1.2.11.Văn hoá giải trí
Đối với cấp độ thường ngày, người dân thường chọn loại hình như đọc
sách báo, xem ti vi, chơi thể thao và vào mạng internet. Đời sống kinh tế phát
triển nên nhu cầu hưởng thụ người dân tăng lên. Hiện nay, người dân Hà Nội
đi du lịch nhiều hơn. Một hoạt động văn hóa nữa của người Hà Nội là đi lễ
chùa. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu là phụ nữ và những người đi kinh doanh
buôn bán.
3.2. Khuyến nghị
Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong
sự nghiệp phát triển đất nước. Các cấp uỷ đảng và chính quyền cần tập trung
thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng dựa vào các định hướng,
quan điểm, giải pháp trong Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010. Đặc biệt
những điều từ 20 đến 25 trong Chương 3- Chất lượng dân số của Pháp lệnh
dân số đã được Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua theo Quyết định số
06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 9/1/2003.
Để nâng cao chất lượng dân số đô thị thành phố Hà Nội, chúng tôi có
những kiến nghị sau:
3.2.1. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
chính quyền và sự hoạt động có hiệu quả của các ban, ngành, đoàn thể
Thực tiễn cho thấy những địa phương các cấp uỷ Đảng, chính quyền,
các tổ chức trong hệ thống chính trị coi trọng việc nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, đầu tư xứng đáng điều kiện phát triển kinh tế xã hội thì
những địa phương ấy dù còn nghèo vẫn có chỉ số phát triển cộng đồng và chất
lượng dân số cao.
Cần phải coi nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn nhân lực
là nhiệm vụ hàng đầu trong các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh
tế của từng địa phương, từng ngành. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
125
của các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước đối với việc đầu tư và cung ứng
các dịch vụ dân số và việc thực hiện các chương trình phát triển nguồn nhân
lực, nâng cao chất lượng dân số.
3.2.2. Thực hiện các giải pháp nhằm tạo sức bật về tăng trưởng kinh
tế trên địa bàn thủ đô nhằm một mặt nâng cao chỉ số GDP, mặt khác là
điều kiện vật chất để nâng cao các tiêu chí khác trong chỉ số phát triển
nguồn nhân lực.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để thực hiện các mục tiêu
về phát triển xã hội, đặc biệt là thực hiện mục tiêu tăng thu nhập bình quân
đầu người và nâng cao khả năng hưởng thụ các dịch vụ xã hội có liên quan
trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực như giáo dục, y tế, chăm sóc súc khoẻ.
Vì vậy đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo những yêu cầu về chất
lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả là
vấn đề then chốt đối với Hà Nội trong chiến lược nâng cao chất lượng dân số.
3.2.3. Thực hiện các giải pháp nâng cao các chỉ tiêu phát triển phúc
lợi xã hội cho người dân. Cần ưu tiên đầu tư phát triển văn hoá, đổi mới hệ
thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ lao động có chất lượng
cao; đảm bảo đời sống nhân dân để đến năm 2010, Hà Nội không còn hộ
nghèo. Đối với công tác phát triển văn hoá, xã hội và con người bên cạnh việc
đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường thành
phố cũng cần tập trung dành vốn đầu tư để giải quyết các vấn đề xã hội bức
xúc khác như : giảm số hộ nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện môi trường
sống và giải quyết triệt để các tệ nạn xã hội nảy sinh.
3.2.4. Tạo môi trường tăng trưởng bền vững, tăng cường giáo dục
đào tạo và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
*Mức sống - học vấn - văn hoá là 3 tiêu chí cần giải quyết đồng thời để
có thể hỗ trợ cho nhau, không triệt tiêu các thành quả của nhau. Thực tiễn
126
nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn và lối sống văn hoá hoàn toàn tỷ lệ
thuận với chất lượng dân số, trong khi thu nhập chưa phải là yếu tố quan trọng
127
nhất nâng cao chất lượng dân số.
* Giáo dục và đào tạo phải là khâu đột phá trong quá trình đẩy mạnh
sản xuất, cải thiện lối sống, cần tập trung đổi mới xây dựng xã hội học tập, tạo
ra sự bình đẳng các cơ hội tiếp cận dịch vụ giáo dục và đào tạo của các cộng
đồng dân cư. Đẩy mạnh việc chuyển giao các tri thức khoa học kỹ thuật và
công nghệ mới cho người lao động. Mở rộng chương trình dạy nghề cho
người lao động, nhất là ở khu vực đô thị hoá, đi đôi với việc cho vay vốn tạo
việc làm; chương trình phát triển mạng lưới các cơ sở sản xuất, dịch vụ sử
dụng ít vốn, nhiều lao động tại các địa bàn có nhiều lao động; đưa nhanh tiến
bộ công nghệ vào các ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
*Phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt, thiết thực, gắn
với khả năng tạo ra việc làm. Củng cố hệ thống các cơ sở dạy nghề công lập;
khuyến khích phát triển các trường lớp dạy nghề ngoài công lập, các hình
thức đào tạo và nâng cao tay nghề tại doanh nghiệp; mở rộng các hình thức
đào tạo nghề nghiệp chính quy và không chính quy, tạo điều kiện cho người
lao động có thể trau dồi nghề nghiệp thường xuyên, suốt đời.
*Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của người dân đô thị, tăng cường
các điều kiện bảo đảm để phát triển mạnh mẽ văn hoá ở cơ sở, tạo điều kiện
không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra), phát huy vai trò và trách nhiệm của các đoàn thể
nhân dân và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp. Tạo điều kiện để mọi người dân
tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng phù hợp với khả năng của mỗi
người.
*Thực hiện giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc ở mọi cấp học, trong
từng gia đình, cộng đồng và xã hội, xây dựng các gia đình hiêú học. Xây dựng
và tổ chức đời sống văn hoá cơ sở; các tụ điểm văn hoá, thể thao, các hoạt
128
động văn hoá, văn nghệ, các lễ hội truyền thống lành mạnh.
Tăng cường chất lượng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên.
Thực hiện giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống cách mạng.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân;
ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; thực hiện tốt chính sách dân
số.
- Cần thực hiện tốt công tác phòng bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu
cho nhân dân. Triển khai có hiệu quả hoạt động của các chương trình như :
chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoe sinh sản giai đoạn 2001 - 2010;
chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 - 2005.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ và sức khoẻ sinh
sản. Đa dạng hoá các hình thức và nội dung tuyên truyền, bảo đảm thu hút
được đông đảo quần chúng nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp và bảo vệ
sức khoẻ cho bản thân và cộng đồng.
- Đẩy mạnh công tác tổ chức và phát triển nguồn nhân lực cho y tế thủ
đô. Duy trì chỉ tiêu về y tế cấp cơ sở như mục tiêu: 100% xã phường có bác
sĩ, 100% xã phường có bác sĩ sản nhi và 100% xã phường có mạng lưới nhân
viên y tế thôn bản hoạt động.
- Xây dựng hệ thống y tế dự phòng một cách khoa học hợp lý, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao về phòng bệnh, phòng chống dịch, vệ sinh môi trường.
- Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao, phong trào vệ sinh phòng bệnh
và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ở cộng đồng.
* Đối với Phường Hàng Gai
- Đối với Phường Hàng Gai nói riêng và đối phường khu vực phố cổ
nói chung nên xây dựng trạm y tế liên phường, như vậy thì sẽ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu tốt hơn cho người dân.
- Cần tiến hành xây dựng trường học đối với phường Hàng Gai, để học
129
sinh học gần và phường cũng dễ quản lý học sinh hơn. Xây dựng trường đạt
tiêu chuẩn quốc gia, dành diện tích xây dựng trường có khu vui chơi cho học
sinh.
- Nên có biện pháp dãn dân hợp lý để người dân chuyển đi nơi ở mới
không cảm thấy thiệt thòi. Tạo việc làm khi người dân đến nơi ở mới.
- Đối với khu vực phố cổ, nên sửa chữa hệ thống cấp thoát nước, sửa
chữa hoặc xoá bỏ nhà vệ sinh chung, không những gây ô nhiễm còn là nơi
chứa đựng mầm gây hoạ.
*Đối với Phường Yên Hoà
- Phường Yên Hoà đất nông nghiệp chuyển đổi nhiều, nhiều người còn
khả năng lao động nhưng không biết làm công việc gì do đó nên có lớp các
lớp dạy nghề.
- Cần quản lý xát sao hơn nữa đối với sinh viên và người lao động
ngoại tỉnh đến thuê nhà tại địa phương. Tăng cường, kiểm tra, giám sát đối
130
với các đối tượng nghiện tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 1 Nguyễn Quốc Anh, Hoàn thiện hệ thống thông tin Quản lý dân số ở
Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội, 2003.
2. Báo Lao động, số 192, ngày 13/7/2005
3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình
4. Bộ Y tế, Đề án Tổng thể nâng cao chất lượng dân số Việt Nam giai
đoạn 2008-2020 (Bản dự thảo).
5. 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về
chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội, 1993.
6. 3 Ban chỉ đạo thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá
đói giảm nghèo, Việt Nam: tăng trưởng và giảm nghèo, Báo cáo
thường niên 2003-2004, tháng 11/2004.
7. 4 Ban Khoa giáo Trung ương - Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch
hoá gia đình, Báo cáo tổng hợp đề án Đánh giá tình hình thực hiện
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(Khoá VII) về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội,
1999.
8. 5 Ban khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học- Công nghệ- Môi trường-
Bộ ngoại giao, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Kinh tế tri thức và những
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Hà Nội 21-22/6/2000. Trang 18,
19, 24.
9. 6 Báo cáo thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam,
(dự thảo), Hà Nội, Tháng 7/2005. Trang 2, 12, 13, 14, 15, 31, 69, 82,
94, 98.
131
10. 7 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bổ sung về tình hình giáo dục,
2004. Trang 31.
11. 8 Bộ Kế hoạch và Đầu tư & Quỹ dân số Liên hợp quốc. Mối quan hệ
dân số và phát triển- Lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch hoá
phát triển ở Việt Nam, Dự án VIE/97/P15, Hà Nội, 2001.
12. 9 Bộ Y tế, Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản giai
đoạn 2001- 2010, Hà Nội, 2001.
13. 1 Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia
2001-2002, NXB Y học, Hà Nội, 2003. Trang 106. 0
14. Chính phủ, Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 16/9/2003 Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số.
15. 1 Trần Thị Trung Chiến (chủ biên), Dân số Việt Nam bên thềm thế kỷ
XXI, NXB Thống kê, Hà Nội, 2003. Trang 344. 1
16. Trần Văn Chiến (chủ nhiệm khảo sát), Báo cáo tổng hợp điều tra,
khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp hạn chế một số yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng dân số trên địa bàn Hà Nội, Hà Nội, 2007.
17. 1 Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xoá đói giảm nghèo, 2002. 2
18. Cục Thống kê thành phố Hà Nội, Niên giám thống kê Hà Nội 2007,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008.
19. 1 Phạm Tất Dong (chủ biên), Gia đình và cộng đồng với sự nghiệp
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội, 2001. 3
20. 1 Phạm Tất Dong, Nguyễn Thị Kim Hoa, Dương Quốc Trọng, Đánh
giá thực trạng một số chỉ tiêu về dịch vụ xã hội và một số chỉ tiêu cơ 4
bản về chất lượng dân số hiện nay ở nông thôn trên 7 vùng sinh thái.
Kỷ yếu công trình khoa học về dân số và kế hoạch hóa gia đình Việt
Nam (Giai đoạn 1998 - 2002), 2003. Trang 45 - 63.
132
21. 1Phạm Tất Dong, Nguyễn Thị Kim Hoa, Dương Quốc Trọng, Trần
5 Văn Chiến, Nghiên cứu các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến
chất lượng dân số, đề tài cấp Nhà nước nhánh I, 2006.
22. Nguyễn Hữu Dũng, Chất lượng dân số và các giải pháp nâng cao
chất lượng dân số ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học chất lượng dân số và
Các dịch vụ xã hội cơ bản.
23. 1 Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1997. 6
24. 1 Nguyễn Thị Kim Hoa, Trần Thị Minh Đức, Phạm Văn Quyết, Nhận
thức và thái độ của các vị chức sắc Công giáo đối với công tác Dân 8
số - Kế hoạch hóa gia đình, Báo cáo kết quả đề tài, Ủy ban dân số kế
hoạch hóa gia đình, Hà Nội, 1997.
25. 1 Nguyễn Thị Kim Hoa, Vị thế và vai trò của người phụ nữ trong gia
đình nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xã hội 9
học, 2000.
26. 2 Nguyễn Thị Kim Hoa, Kiến tạo chỉ số để đánh giá nhanh Chất
lượng dân số cộng đồng nông thôn Việt Nam, Đề tài cấp Đại học 0
Quốc gia Hà Nội, 2004.
27. Nguyễn Đình Hoè và Nguyễn Thị Kim Hoa, Đánh giá nhanh chất
lượng dân sốnông thôn bằng chỉ số PQI, Kỷ yếu hội thảo khoa học
chất lượng dân sô và các dịch vụ xã hội cơ bản.
28. 2 Liên Hợp Quốc tại Việt Nam. Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDGs)- Đưa các MDG đến với người dân, tháng 11/2002. 1
29. 2 Ngân hàng thế giới. Báo cáo phát triển thế giới 2004: Cải thiện các
dịch vụ để phục vụ người nghèo, NXB Chính trị Quốc gia, 2003. 2
30. Phường Yên Hòa, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội
an ninh quốc phòng năm 2006.
133
31. Phường Hàng Gai, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã
hội an ninh quốc phòng năm 2006.
32. 2 Quỹ Dân số Liên hợp quốc, Dân số và phát triển một số vấn đề cơ
bản, dự án VIE/97/P17 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 4
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
33. 2 Quỹ Dân số Liên hợp quốc, Các vấn đề dân số thông tin tóm tắt
2001. 5
34. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông
qua ngày 29/6/2006, Nghị quyết số 56/2006/QH11.
35. Đoàn Kim Thắng, Chính sách và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dân số theo hệ tiêu chuẩn mới, NXB Khoa học và Xã hội, Hà
Nội, 2006.
36. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 về
việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.
37. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày
22/12/2000 về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam 2001 -
2010.
38. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày
10/01/2006 về việc thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày
22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính
sách dân số
39. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg ngày
08/11/2007 “Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế
hoạch hoá gia đình giai đoạn 2006-2010”
40. 2 Tổng cục thống kê & Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc, Số liệu thống kê
xã hội những năm đầu thế kỷ 21, NXB Thống kê, Hà Nội, 6
2004.Trang 350.
134
41. 2Tổng cục thống kê, Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm
7 2002, NXB Thống kê, Hà Nội, 2004. Trang 166
42. 2 Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia
đình, 1/4/2004: Những kết quả chủ yếu, NXB Thống kê, Hà Nội, 8
2005.
43. 2 Tổng cục thống kê. Niên giám thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà
Nội, 2005. 9
44. Tổng cục Thống kê, Niêm giám thống kê 2006, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội, 2007.
45. 3 Trung tâm Thông tin, Số 29, Kết quả chủ yếu điều tra biến động dân
số và kế hoạch hoá gia đình năm 2002, NXB Thống kê, Hà Nội, 0
Tháng 4/2003.
46. 3 Trung tâm Thông tin, Số 31, Mục tiêu thiên niên kỷ và Luật thống
kê, NXB Thống kê Hà Nội, Tháng 8/2003. 1
47. 3 Trung tâm Thông tin, Số 32, Kết quả điều tra nhân khẩu học và sức
khoẻ, 2002, NXB Thống kê, Hà Nội, Tháng 9/2003. 2
48. 3 Trung tâm thông tin tư liệu Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, Kết
quả điều tra nhân khẩu học và sức khoẻ (DHS 2002), Hà Nội, 2003. 3
49. 3 Nguyễn Thiện Trưởng (chủ biên), Dân số và phát triển bền vững ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2004. 4
50. Tạp chí AIDS và cộng đồng số 4-2008.
51. 2 Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11
về dân số ngày 09/01/2003. 3
52. 3 Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Kỷ yếu công trình khoa học về
dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam (Giai đoạn 1998- 5
2002), Hà Nội, 2003.
53. 3 Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Tài liệu nâng cao kiến thức dân
135
số (tập 1), Hà Nội, 2002. Trang 342. 6
54. 3 Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Tài liệu nâng cao kiến thức dân
số (tập 2), Hà Nội, 2002. 7
55. 3 Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Trung tâm Thông tin, Một số tư
liệu về các mục tiêu phát triển cuả Việt Nam, 2003. 8
56. 3 Uỷ ban quốc gia Dân số- Kế hoạch hoá gia đình, Chiến lược Dân số
Việt Nam 2001-2010, Hà Nội. 9
57. 4 Ủy ban quốc gia dân số - kế hoạch hóa gia đình, Chiến lược truyền
thông giáo dục chuyển đổi hành vi về dân số, sức khoẻ sinh sản, kế 0
hoạch hoá gia đình- Giai đoạn 2001-2005 ban hành kèm theo Quyết
định số 03/2001/QĐ0UB ngày 20/7/2001, Hà Nội, 2003.
58. 4 Ủy ban quốc gia dân số - kế hoạch hóa gia đình, Kỷ yếu hội thảo
khoa học chất lượng dân số và các dịch vụ xã hội cơ bản, 2001. 1
59. 4 Ủy ban quốc gia dân số - kế hoạch hóa gia đình, Nghiên cứu một số
vấn đề liên quan đến chất lượng dân số và đề xuất những chính sách 2
phù hợp về dân số và phát triển bền vững- Đề tài khoa học độc lập
cấp nhà nước 1999-2000, 2001.
60. 4 Uỷ ban Quốc gia Vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam, Báo cáo đánh
giá việc thực hiện và tác động của dự án “Tăng tỷ lệ nữ tham gia 3
Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009”, Hà Nội, Tháng 2/2005.
61. 4 Uỷ ban Quốc gia Vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam, Chương trình
phát triển Liên hợp quốc, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan, Một số 4
vấn đề Giới nổi lên trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế ở Việt
Nam, dự án VIE 01/015/01, Hà Nội, Tháng 5/2005.
62. Viện Dinh dưỡng quốc gia, Báo cáo năm 2000.
63. Lê Gia Vinh, Kết quả nghiên cứu về hình thái và thể lực người
trưởng thành Việt Nam.
136
64. www.anninhthudo.vn
65. www. cpv.org.vn
66. www.dothi.net
67. www.diaoconline.vn
68. www.gso.gov.vn
69. www.hapi.gov.vn
70. www.myhanoigroup.com
71. www.laodong.com
72. www.qdnd.vn
73. www.tracotour.com
74. www.vnexpress.net.
137
75. www.vietbao.vn
PHỤ LỤC
Mã phiếu: ...........
BẢNG HỎI
CÁC YẾU TỐ KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN
----***----
Họ và tên điều tra viên ...................................................................................................................
Thời gian thực hiện phỏng vấn ......................................................................................................
Họ tên người được phỏng vấn ......................................................................................................
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Địa chỉ (ghi rừ) .............................................................................................................................. 1. Số thành viên trong hộ gia đình: ............... 2. Số thế hệ trong hộ gia đình: ....................... 3. Thông tin về các thành viên trong hộ gia đỡnh:(chỉ hỏi người trong độ tuổi 15- 60) STT Giới tính Tuổi
Nghề nghiệp
Chiều cao
Cân nặng
Học vấn
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
4.1. Tổng thu nhập của hộ: .............................................. nghỡn đồng/ tháng 4.2. Tổng chi tiêu của hộ:.................................................. nghỡn đồng/ tháng 5. Các tiện nghi sinh hoạt trong gia đỡnh: 1 2 Đầu đĩa 3 Đài/ radio 4 Máy vi tính 5 Máy vi tính nối mạng
6 Điều hoà 7 Điện thoại cố định 8 Điện thoại di động 9 Xe máy 10 Ô tô
Truyền hỡnh cỏp/kĩ thuật số
6. Trong thời gian rảnh rỗi, ông/bà thường tham gia các hoạt động nào để giải trí?
6.1 Đọc sách, báo, tạp chí 6.2 Xem ti vi 6.3 Vào mạng Internet 6.4 Chơi thể thao
6.5 Đi xem phim ở rạp 6.6 Hát Karaoke 6.7 Đi chơi cùng gia đỡnh, bạn bố 6.8 Đi lễ chùa, đỡnh
7. Mức độ quan tâm đối với các thông tin của dài phát thanh phường: 7.1 Rất quan tâm 7.2 Quan tâm 7.3 Bỡnh thường
7.4 Ít quan tâm 7.5 Không quan tâm
8. Ngoài học văn hoá ở trường, ông/ bà có cho con học thêm những môn nào dưới đây? 8.1 Ngoại ngữ 8.2 Vẽ 8.3 Cờ tướng, cờ vua 8.4 Hát, nhạc
8.5 Vừ 8.6 Bơi 8.7 Khác 8.8 Không cho học môn nào
9. Lần đi khám bệnh gần đây nhất, ông bà đi khám ở đâu? 9.1 Trạm y tế phường 9.2 Trung tâm y tế quận
9.3 Bệnh viện 9.4 Phũng khỏm tư nhân
10. Ông/ bà khụng hài lũng nhất với vấn đề nào ở nơi ông/ bà sinh sống?(chọn 1 phương án) 10.1 Giao thông liên lạc 10.2 Giáo dục 10.3 Môi trường
10.4 Trật tự an toàn công cộng 10.5 Nhà ở 10.6 Văn hoá thể thao
11. Thông tin quan sát: Loại nhà 11.1 Nhà tập thể 11.2 Nhà cấp 4 11.3 Nhà mái bằng một tầng
11.4 Nhà riềng nhiều tầng 11.5 Biệt thự 11.6 Nhà khác
4.4 Cao đẳng, ĐH 4.5 Trên ĐH
Thông tin cá nhân người trả lời: 1. Giới tính: Nam Nữ 2. Tuổi: ................................ 3. Nghề nghiệp: ................... 4. Trỡnh độ học vấn: 4.1 Tiểu học 4.2 THCS 4.3 PTTH 5. Mối quan hệ với chủ hộ:
5.1. Chủ hộ 5.2. Là vợ/ chồng chủ hộ 5.3. Quan hệ khác