Ảnh hưởng của ngôn ngữ tới việc kiềm chế

sự hung hãn

Hai khả năng giúp ổn định tính hung hãn là khả năng suy xét và khả năng sử dụng

từ. Hai khả năng đó thường phân biệt những trẻ có thể kiềm chế tính hung hãn với

những trẻ không thể kiềm chế được (và những trẻ không có khả năng với những trẻ

có khả năng nhưng không muốn kiềm chế; chính những trẻ cố tình gây bạo lực mới

càng khó khăn; có điều, những trẻ này thường hiếm).

Nhưng mọi trẻ đều phải đối phó với những tình cảm nóng giận. Mọi trẻ (và mỗi

cha mẹ) phải quyết định cần làm gì khi trẻ nổi “điên” lên. Có điều phải quyết định

thế nào? Đấy là quyết định thật, hay đấy chỉ là một sự suy xét? Đấy là sự khác

biệt?

Sự khác nhau giữa sự quyết định và sự suy xét là sự suy xét chỉ đi qua tuỷ sống hay

đáy não, trong khi sự quyết định nằm ở đỉnh, trong vỏ não. Sự điều khiển cơn giận

dữ sẽ thành công hơn khi có sự quyết định phải ứng xử với cơn giận được thực

hiện ở vỏ não hơn là ở tuỷ sống hay ở trên nó, ở cuống não. Những “quyết định”

của xương sống và cuống não là những quyết định không ý thức; chúng chỉ là

những hành động phản ánh.

Chúng ta cần những suy xét này. Chúng cho phép chúng ta phản ứng nhanh hơn

quyết định được thực hiện ở vỏ não, và khi hành động tức thời cần tới, sự suy xét

giải thoát chúng ta. Tuy nhiên, một phản ứng tức thời có thể khiến chúng ta gặp rắc

rối, nhất là khi chúng ta đương đầu với cơn giận dữ. Nếu chúng ta không thể suy

xét, ít nhất trong một phần nghìn giây trước khi chúng ta hành động, chúng ta có

thể hành động để rồi phải ân hận.

Một số người thiếu bước phản ánh tức thời giữa cơn bốc đồng và hành động của

họ. Họ có thể gặp nhiều rắc rối vì hành vi xung động của họ. Thí dụ căn bản được

thấy ở rối loạn thiếu tập trung. Một trong ba hội chứng cốt lõi của rối loạn thiếu tập

trung là sự xung động (hai hội chứng khác là lơ đãng và sự hiếu động). Những

người đôi lúc bị rối loạn thiếu tập trung thường thiếu những sự kiểm soát để kiềm

chế - những cái thắng của não để ngăn chặn sự xung động trước khi nó biến thành

hành động. Nói là “đôi lúc” vì hoạt động của não không ở trạng thái ổn định. Các

hội chứng của rối loạn thiếu tập trung thịnh suy. Sự xung động có thể là vấn đề của

một lúc nào đó, tuỳ theo tình cảnh lúc ấy.

Sự hạn chế, đôi khi bao hàm sự ít ỏi tình cảm, lại đâm ra có lợi cho sức khoẻ tâm

thần. Chúng ta cần có khả năng hạn chế để kiểm soát hành vi của chúng ta. Thật

vậy, hành động của việc tập trung trước một sự thể có nghĩa là cá nhân đang cố

gắng giới hạn tất cả những kích thích vào và ra. Những vấn đề của việc kém hạn

chế hoặc quá xung động, hay cả hai, thực tế có thể phát xuất ở thuỳ trán mà chúng

ta đã nói ở trên.

Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng đóng vai trò chủ chốt để một người có khả năng suy xét

và hạn chế. Một cách tốt làm phong phú hệ kiềm chế của não và khả năng suy xét

đồng phát trước khi hành động là phảt triển khả năng sử dụng ngô ngữ. Tương

phản với những gì xảy ra khi chúng ta suy nghĩ trong các sóng của tình cảm hay

những sự bùng phát của xung động, là khi chúng ta suy nghĩ theo các từ mà chúng

ta phải suy xét. Thật thế, suy xét thường cần sử dụng các từ nội tại để mô tả hoàn

cảnh của người ấy trước khi hành động ứng phó với nó. Nếu chúng ta có thể suy

nghĩ bằng cách nhủ với mình trước khi hành động, như vậy là chúng ta có thể suy

xét. Nhưng nếu khả năng sử dụng ngôn ngữ của chúng ta phát triển kém, khả năng

suy xét và hạn chế các hành động xung động cũng sẽ suy giảm.

Hai công cụ này, khả năng suy xét trước khi hành động và khả năng sử dụng ngôn

ngữ được nối kết. Nếu một công cụ phát triển hơn, công cụ kia cũng sẽ phát triển

theo. Những ai thiếu cả hai, những ai sinh ra đã hiếu động mà lại thiếu các kỹ năng

ngôn ngữ, có nhiều nguy cơ gặp những vấn đề nghiêm trọng về tính hay nóng giận.

Nếu người ấy không thể suy xét về những gì họ muốn làm và không thể sử dụng

ngôn từ để định hình và diễn đạt các tình cảm của họ, rất có thể họ sẽ hành động

dựa trên tình cảm mà ít hoặc không có sự kiểm soát; và lúc ấy thường tỏ ra thô bạo.