
TNU Journal of Science and Technology
230(05): 28 - 33
http://jst.tnu.edu.vn 28 Email: jst@tnu.edu.vn
EFFECT OF HBV DNA LOAD ON BIRTH METHOD IN
HBV-INFECTED PREGNANT WOMEN
Bui Thi Thu Huong1, Hoang Thi Ngoc Tram1*, Ho Cam Tu2, Nguyen Tien Dung1, Nguyen Thi Mo1
1TNU - University of Medicine and Pharmacy
2Hanoi Medical University
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
18/11/2024
Hepatitis B is a worldwide disease, placing a significant burden on
healthcare systems. The majority of people carrying hepatitis B virus
in Vietnam are transmitted from mother to child. Whether the delivery
method of HBV-infected women affects the transmission of the virus
to the baby is a very important issue. Because it will help obstetricians
choose the appropriate method to end pregnancy to minimize the risk
of adverse effects for mother and child. With the goal of
understanding the impact of HBV DNA load on the method of
delivery and the risk of transmitting the virus to the baby of HBV-
infected pregnant women, we conducted research on 80 research
subjects. Using the cross-sectional descriptive method, we have
obtained the following results: HBV DNA load is not related to the
method of delivery (cesarean section or vaginal birth); HBV DNA
load of maternal blood is closely related to HBsAg (+) status in
umbilical cord blood.
Revised:
17/12/2024
Published:
18/12/2024
KEYWORDS
HBV DNA
HBsAg
Pregnant women
Cesarean section
Vaginal birth
ẢNH HƯỞNG CỦA TẢI LƯỢNG HBV DNA ĐẾN PHƯƠNG THỨC ĐẺ Ở
NHỮNG THAI PHỤ NHIỄM HBV
Bùi Thị Thu Hương1, Hoàng Thị Ngọc Trâm1*, Hồ Cẩm Tú2, Nguyễn Tiến Dũng1, Nguyễn Thị Mơ1
1Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên
2Trường Đại học Y Hà Nội
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài:
18/11/2024
Viêm gan B là một căn bệnh trên toàn thế giới, gây gánh nặng đáng
kể cho hệ thống chăm sóc sức khỏe. Phần lớn người mang virus
viêm gan B tại Việt Nam là do lây nhiễm từ mẹ sang con. Phương
thức đẻ của phụ nữ nhiễm HBV có ảnh hưởng đến sự lây truyền
virus sang con hay không là vấn đề rất quan trọng. Vì từ đó sẽ giúp
các bác sĩ sản khoa lựa chọn phương thức kết thúc thai kỳ phù hợp
để giảm thiểu tối đa nguy cơ bất lợi cho mẹ và cho con. Với mục
tiêu tìm hiểu ảnh hưởng của tải lượng HBV DNA với phương thức đẻ
và nguy cơ lây truyền virus sang con của sản phụ nhiễm HBV, chúng
tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 80 đối tượng nghiên cứu. Bằng
phương pháp mô tả cắt ngang, chúng tôi đã thu được kết quả: Tải
lượng HBV DNA không liên quan đến phương thức đẻ (mổ lấy thai
hay đẻ đường âm đạo); tải lượng HBV DNA của máu mẹ có mối liên
quan chặt chẽ với tình trạng HBsAg (+) máu cuống rốn.
Ngày hoàn thiện:
17/12/2024
Ngày đăng:
18/12/2024
TỪ KHÓA
HBV DNA
HBsAg
Thai phụ
Mổ lấy thai
Đẻ đường âm đạo
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11570
* Corresponding author. Email: hoangtramyk@gmail.com

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 28 - 33
http://jst.tnu.edu.vn 29 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Viêm gan B là một căn bệnh trên toàn thế giới, gây gánh nặng đáng kể cho hệ thống chăm sóc
sức khỏe. Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là những
khu vực có tỷ lệ lây nhiễm cao nhất và chiếm khoảng một nửa số ca nhiễm mạn tính trên toàn cầu
[1]. Nhiễm HBV gây ra bệnh tật và tử vong đáng kể ở người, chủ yếu là do ảnh hưởng của nhiễm
trùng mạn tính. Tỷ lệ tiến triển từ nhiễm HBV cấp tính thành nhiễm mạn tính giảm dần theo tuổi:
khoảng 90% tiến triển thành mạn tính nếu nhiễm HBV khi trẻ ở giai đoạn chu sinh và giảm
xuống 5% hoặc thấp hơn nếu nhiễm HBV ở lứa tuổi trưởng thành [2].
Việt Nam là một trong 28 quốc gia chịu 70% gánh nặng bệnh tật do HBV trên toàn cầu. Năm
2017, ước tính tại Việt Nam có khoảng 7,8 triệu người nhiễm HBV mạn. Phần lớn người mang
virus viêm gan B tại Việt Nam là do lây nhiễm từ mẹ sang con [3]. Vì vậy, vấn đề quan trọng
nhất đối với thai phụ mang HBV mạn tính là nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con (lây nhiễm theo
đường dọc). Lây truyền dọc có thể xảy ra trong tử cung, trong khi sinh hoặc một thời gian ngắn
sau sinh, tình trạng lây nhiễm này cao hơn nếu như người mẹ có HBeAg (+) và/hoặc là nồng độ
HBV DNA trong huyết thanh cao. Tác giả Vũ Thị Nhung chỉ ra rằng nồng độ HBV DNA là yếu
tố nguy cơ quan trọng nhất cho lây truyền mẹ con [4].
Tải lượng virus đã được xác định là một yếu tố dự đoán quan trọng và là yếu tố nguy cơ độc
lập đối với sự lây truyền từ mẹ sang con của HBV. Theo nghiên cứu của Wiseman và cộng sự, tải
lượng virus của mẹ >8 log 10 IU/mL có liên quan đến thất bại trong điều trị dự phòng miễn dịch,
do đó làm tăng nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con [5]. Một nghiên cứu thuần tập cho thấy trẻ sơ
sinh có mẹ dương tính với HBeAg có tải lượng virus bằng hoặc lớn hơn 106 bản sao/mL đã thất
bại trong điều trị dự phòng miễn dịch [6]. Nồng độ HBsAg huyết thanh cao có thể cho thấy nguy
cơ lây truyền dọc từ mẹ sang con [7].
Nhiễm HBV ở thai phụ đặc biệt là trong ba tháng cuối của thai kỳ có nguy cơ lây truyền HBV
trong tử cung sang con cao nhất [8], [9]. Phương thức đẻ của phụ nữ nhiễm HBV có ảnh hưởng
đến sự lây truyền virus sang con hay không là vấn đề rất quan trọng. Vì từ đó sẽ giúp các bác sĩ
sản khoa lựa chọn phương thức kết thúc thai kỳ phù hợp để giảm thiểu tối đa nguy cơ bất lợi cho
mẹ và cho con. Chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu tìm hiểu ảnh
hưởng của tải lượng HBV DNA với phương thức đẻ và nguy cơ lây truyền virus sang con của sản
phụ nhiễm HBV.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các thai phụ có HBsAg (+), đẻ tại Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên và Bệnh viện A Thái Nguyên từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2022.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Thai phụ đến đẻ tại Bệnh viện A Thái Nguyên và Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên có kết
quả xét nghiệm HBsAg (+) và anti-HBc IgM (-) [10] và chưa từng được điều trị thuốc kháng
virus trong thời gian mang thai, không mắc bệnh chuyển hóa.
- Một thai sống, phát triển bình thường.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Đồng nhiễm với các virus viêm gan khác hoặc HIV.
- Không thu thập đủ mẫu, thông tin nghiên cứu.
- Sử dụng corticoid trong thời gian mang thai.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 28 - 33
http://jst.tnu.edu.vn 30 Email: jst@tnu.edu.vn
Từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2022.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
n = 𝒛𝟏−𝜶/𝟐
𝟐𝒑 (𝟏−𝒑)
𝒅𝟐
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu trong nghiên cứu
Z1−α/2: giá trị từ phân bố chuẩn, được tính dựa trên mức ý nghĩa thống kê (Z1−α/2 = 1,96 nếu
mức ý nghĩa thống kê = 5%)
p: tỉ lệ ước đoán, chọn p = 0,162 (theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hiền cho thấy có
0,162% tỉ lệ sản phụ đến sinh nhiễm HBV) [11]
d: mức sai số tuyệt đối chấp nhận (chọn d = 0,081)
Thay vào công thức ta có n = 80.
Nghiên cứu tiến hành nghiên cứu với cỡ mẫu là 80 thai phụ có HBsAg (+).
2.2.3. Qui trình nghiên cứu
Chúng tôi lựa chọn những thai phụ đến đẻ tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và Bệnh
viện A Thái Nguyên, có HBsAg (+), HBc IgM(-), đảm bảo đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn để tiến
hành thu thập thông tin và theo dõi bệnh cảnh lâm sàng của các thai phụ nhiễm HBV mạn tính.
Thu thập mẫu máu toàn phần của thai phụ nhiễm HBV tại thời điểm nhập viện khi sinh để
thực hiện các xét nghiệm hóa sinh - miễn dịch và máu cuống rốn (CR) tại thời điểm sinh con.
Công cụ thu thập số liệu:
+ Sinh hóa: sử dụng trên máy AU480 của hãng Beckman Coulter tại Trường Đại học Y Dược
- Đại học Thái Nguyên.
+ Đo tải lượng vi rút HBV DNA trên máy Real time PCR RotorGeen Q5 của hãng QIAGen –
Đức tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.2.6. Phương pháp xử lí số liệu
Việc nhập số liệu sử dụng phần mềm Epidata 3.1. Xử lí và phân tích số liệu được thực hiện
trên chương trình SPSS 25.0, có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
2.3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành sau khi được thông qua bởi Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu
y sinh học Quốc gia thông qua trong quá trình nghiên cứu (QĐ số 220/CN-HĐĐĐ ngày 02
tháng 12 năm 2021).
3. Kết quả và bàn luận
Qua nghiên cứu 80 phụ nữ mang thai có HBsAg (+) tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
và Bệnh viện A Thái Nguyên, chúng tôi thu thập được một số kết quả đáng ghi nhận.
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Số lượng (n=80)
Tỷ lệ %
Tuổi mẹ
18-35
76
95,0
>35
04
5,0
Trung bình (tuổi)
27,6 ± 4,7
Tải lượng HBV
(bản sao/mL)
HBV DNA ≥5x107
32
40,0
HBV DNA <5x107
48
60,0

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 28 - 33
http://jst.tnu.edu.vn 31 Email: jst@tnu.edu.vn
Từ kết quả Bảng 1 cho thấy đối tượng nghiên cứu chủ yếu nhóm tuổi từ 18-35 tuổi, chiếm
95,0%. Đây là độ tuổi sinh sản phù hợp của phụ nữ nên tỉ lệ đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) chiếm
đa số trong độ tuổi này là dễ hiểu. Tuổi trung bình của ĐTNC là 27,6 ± 4,7. Kết quả này của
chúng tôi cũng tương tự như trong kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hồng Vân và cộng sự
[12] khi độ tuổi trung bình của phụ nữ mang thai nhiễm virus viêm gan B là 27,8 ± 4,3.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ HBV DNA <5x107 chiếm 60,0%, HBV DNA ≥5x107
(bản sao/mL) chiếm 40%. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng HBV DNA huyết thanh của người mẹ
là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với sự lây truyền từ mẹ sang con theo chiều dọc. Trong nghiên
cứu của Manisha Dwivedi và cộng sự [13], lây truyền dọc được thấy ở 65% (13/20) trẻ sinh ra từ
những bà mẹ dương tính với HBeAg và HBV DNA; ngược lại, chỉ có 9,1% (1/11) trẻ sinh ra từ
những bà mẹ âm tính với cả HBeAg và HBV DNA.
Phương pháp đẻ của đối tượng nghiên cứu được chia thành hai nhóm: Nhóm đẻ đường âm đạo (đẻ
không cắt khâu tầng sinh môn, đẻ cắt khâu tầng sinh môn, forceps/giác hút) và nhóm mổ lấy thai.
Bảng 2. Phương pháp đẻ của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Phương pháp
đẻ (n=80)
Đẻ đường âm
đạo (n=26)
Đẻ không cắt khâu tầng sinh môn
06
7,5
Đẻ cắt khâu tầng sinh môn
20
25,0
Mổ lấy thai
(n=54)
Do mẹ
27
33,8
Do thai + phần phụ
26
32,5
Khác
01
1,2
Tổng
80
100
Kết quả Bảng 2 về phương pháp đẻ của ĐTNC cho thấy nhóm mổ lấy thai có tỉ lệ cao nhất là
67,5%, tiếp đó là nhóm đẻ đường âm đạo (trong đó nhóm đẻ có cắt khâu tầng sinh môn chiếm
25,0% và còn lại nhóm đẻ không cắt khâu tầng sinh môn chiếm 7,5%). Không có trường hợp nào
có can thiệp bằng forceps và giác hút.
Chỉ định mổ lấy thai bao gồm nguyên nhân về phía mẹ (sẹo cũ, chuyển dạ kéo dài, bệnh lý,
v.v.), về phía thai (thai to, ngôi bất thường, suy thai, v.v.) và do phần phụ của thai.
Hình 1. Tỷ lệ chỉ định mổ lấy thai của đối tượng nghiên cứu
Trong các trường hợp phải mổ lấy thai thì lý do mổ có thể là bất thường các yếu tố về phía mẹ
mà sẹo mổ lấy thai cũ là nguyên nhân chủ yếu trong nhóm này (chiếm 48,1%), phía thai (suy thai
chiếm 18,5%), phần phụ của thai (tình trạng ối chiếm 35,2%) hay trong chuyển dạ, không có
trường hợp nào liên quan đến tình trạng nhiễm HBV mà buộc phải mổ lấy thai (Hình 1).
Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng mổ lấy thai có thể làm giảm nguy cơ lây truyền HBV từ
mẹ sang con so với sinh đường âm đạo [5], [6].
Tuy nhiên trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi không chỉ ra được tải lượng HBV DNA liên
quan đến phương thức đẻ (mổ lấy thai hay đẻ đường âm đạo) (p >0,05) (Bảng 3). Điều này cũng
cho thấy rằng việc các thai phụ có nhiễm HBV cũng không làm tăng chỉ định mổ lấy thai ở nhóm
1.9
13
48.1
3.7 3.7
18.5
35.2
3.7
0
10
20
30
40
50
60
Chuyển dạ
kéo dài Thai to Sẹo cũ Ngôi bất
thường Ngôi không
lọt Suy thai Tình trạng ối Khác

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 28 - 33
http://jst.tnu.edu.vn 32 Email: jst@tnu.edu.vn
này. Nghiên cứu của tác giả Dachlan và cộng sự cũng chỉ ra không có sự khác biệt đáng kể về
phương pháp chuyển dạ giữa các nhóm HBeAg dương tính và âm tính [7].
Bảng 3. Liên quan giữa dấu ấn nhiễm HBV của mẹ và phương pháp đẻ
Phương pháp đẻ
Đặc điểm
Đẻ đường âm đạo (n=26)
Mổ lấy thai (n=54)
p
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
HBV DNA
(bản sao/mL)
≥5 x 107 (n=32)
10
31,3
22
68,7
>0,05
<5 x 107 (n=48)
16
33,3
32
66,7
Trong một vài nghiên cứu chỉ ra việc tiếp xúc trực tiếp với các tế bào bị nhiễm bệnh hoặc dịch
tiết âm đạo khi đi qua ống đẻ đường âm đạo là cơ chế chính lây truyền HBV sang trẻ sơ sinh. Tuy
nhiên cũng có nhiều nghiên cứu khác cho kết quả không có sự khác biệt đáng kể nào được ghi
nhận về mức độ dương tính của HBsAg giữa ba nhóm trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị nhiễm bệnh
(nhóm sinh thường, nhóm can thiệp forceps, giác hút hay nhóm sinh mổ). Nguyên nhân lây
truyền HBV ở trẻ sơ sinh không phụ thuộc vào phương pháp đẻ [14].
Theo tác giả Calvin Q Pan [15], mổ lấy thai cấp cứu không ảnh hưởng đến sự lây truyền theo
chiều dọc, so với đẻ đường âm đạo (4,2% so với 3,4%, P = 0,593). Trẻ sơ sinh được sinh ra bởi
mổ theo chỉ định có tỷ lệ lây truyền theo chiều dọc thấp hơn đáng kể so với trẻ sinh ra bởi những
phương pháp khác (1,4% so với 3,6%, P = .017). Những phụ nữ có mức HBV DNA <1.000.000
bản sao/mL không lây nhiễm cho con của họ dù bất kể phương pháp sinh nở nào.
Tình trạng HBsAg (+) máu cuống rốn là dấu ấn của sự lây truyền HBV từ mẹ sang con.
Bảng 4. Đặc điểm máu cuống rốn của trẻ sơ sinh ngay sau sinh
Đặc điểm
Số lượng
Tỷ lệ %
Kháng nguyên bề mặt
của HBV máu cuống rốn
HBsAg (+)
50
62,5
HBsAg (-)
30
37,5
Kết quả bảng 4 cho thấy nhóm máu cuống rốn có HBsAg (+) chiếm 62,5%. Nghiên cứu tại
Trung Quốc năm 2021 [16]: trẻ sinh ra từ mẹ có HBsAg(+) sau một thời gian xét nghiệm lại thì
thấy thì tỉ lệ HBsAg(+) ở trẻ là 1,35% (KTC 95%: 0,83%-1,88%) mặc dù trẻ đã được tiêm phòng
vắc xin viêm gan B, trong đó 92,0% trẻ sinh ra từ bà mẹ HBeAg(+).
Từ kết quả Bảng 5 của nghiên cứu cho thấy HBV DNA của máu mẹ có mối liên quan chặt chẽ
với tình trạng HBsAg (+) máu CR với p < 0,05.
Bảng 5. Liên quan giữa HBV DNA với HBsAg (+) ở máu cuống rốn
Máu cuống rốn
Đặc điểm
HBsAg (+)
n=50(%)
HBsAg (-)
n=30(%)
RR
95%CI
p
HBV DNA mẹ
(bản sao/mL)
≥5 x 107
26 (52,0)
6 (20,0)
1,63
[1,17;2,26]
0,005
<5 x 107
24 (48,0)
24 (80,0)
0,62
[0,44;0,85]
Theo nghiên cứu của Marianna G MavIL-ia, kháng nguyên bề mặt của HBV không thể đi qua
rau thai và do đó, dựa vào các yếu tố như tổn thương rau thai, nhiễm trùng, các tế bào bạch cầu
đơn nhân máu ngoại vi (PBMCs) mới truyền HBV trong tử cung [17].
PBMCs của máu mẹ bị nhiễm HBV có thể xâm nhập vào dòng máu của thai nhi và gây nhiễm
HBV bên trong tử cung. Theo các báo cáo, HBV có thể lây nhiễm PBMCs và sinh sản trong đó.
Các hạt virus lây nhiễm cũng có thể được giải phóng bởi các PBMCs bị nhiễm HBV [18], [19].
Nghiên cứu của Xu (2015) chỉ ra rằng 57,1% (68/119) PBMCs máu mẹ trong các trường hợp
có chỉ số HBV DNA dương tính, trong số đó có 83,8% (57/68) PBMCs máu mẹ dương tính với
HBV DNA vượt quá giới hạn hàng rào rau thai và xâm nhập vào thai. Như vậy, nhiễm HBV
PBMCs máu mẹ có liên quan đáng kể với nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh. Lưu lượng PBMCs từ mẹ
sang thai làm tăng nguy cơ nhiễm HBV gấp 9,5 lần ở trẻ sơ sinh. Những dữ liệu này chỉ ra rằng
các PBMCs máu mẹ bị nhiễm HBV góp phần gây nhiễm HBV trong tử cung của trẻ sơ sinh
thông qua dòng PBMCs từ mẹ sang thai [18].
4. Kết luận