TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG

KHOA SƯ PHẠM TỰ NHIÊN

*************

BÀI GIẢNG BẢN ĐỒ HỌC

CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐỊA LÝ

Biên soạn: ThS. Lê Đình Phương

Tháng 12/2013

LỜI NÓI ĐẦU

Bản đồ học là môn học cung cấp những khái niệm cơ bản về bản đồ và bản đồ

địa lý, vai trò của bản đồ trong nghiên cứu, sản xuất và đời sống, các đặc điểm về

cơ sở toán học của bản đồ, hệ thống ký hiệu đặc thù - ngôn ngữ bản đồ, quá trình

tổng quát hóa bản đồ, các phương pháp biểu hiện bản đồ, phân loại bản đồ và quá

trình biên tập, thành lập bản đồ giáo khoa. Ngoài ra, môn học còn chú trọng rèn

luyện về kỹ năng sử dụng bản đồ thành thạo, các phương pháp nghiên cứu bằng bản

đồ cho sinh viên để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, học tập và giảng dạy sau này.

Trong quá trình giảng dạy, do nhận thấy sinh viên gặp một số khó khăn trong

tìm tài liệu học tập cũng như tốn nhiều thời gian để ghi chép. Nhằm tạo điều kiện

cho sinh viên có tài liệu học tập một cách chủ động, chúng tôi biên soạn tập bài

giảng Bản đồ học trên cơ sở những kiến thức trọng tâm của bộ môn, đồng thời bổ

sung những hướng dẫn, tóm tắt cần thiết và hệ thống câu hỏi ôn tập.

Nội dung của đề cương bài giảng được biên soạn dựa trên sự phân bố của

chương trình Cao đẳng Sư phạm ngành Địa lý của trường Đại học Phạm Văn Đồng

(3 tín chỉ), bao gồm những kiến thức khái quát và cơ bản nhất về Bản đồ học. Tài

liệu biên soạn có 7 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Bản đồ học và bản đồ địa lý

Chương 2: Cơ sở toán học bản đồ

Chương 3: Ngôn ngữ bản đồ

Chương 4: Tổng quát hóa bản đồ

Chương 5: Phân loại bản đồ

Chương 6: Bản đồ địa hình và phương pháp sử dụng bản đồ địa hình

Chương 7: Thành lập và sử dụng bản đồ địa lý dùng trong nhà trường.

Để biên soạn bài giảng này, chúng tôi dựa vào tài liệu “Bản đồ học” – giáo

trình Cao đẳng Sư phạm của tác giả Lâm Quang Dốc, NXBĐHP, 2004 và một số tài

liệu khác.

Trong quá trình biên soạn có thể còn vấn đề thiếu sót, rất mong được sự góp ý

của đồng nghiệp và bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn.

2

Chương 1. BẢN ĐỒ HỌC VÀ BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ

Mục tiêu:

- Nắm được khái niệm bản đồ học và bản đồ địa lý

- Nắm được các yếu tố của bản đồ

- Ý nghĩa của bản đồ địa lý.

1.1. Định nghĩa bản đồ học và bản đồ địa lý

1.1.1. Khái niệm về bản đồ học

Định nghĩa do Giáo sư K.A. Salishev đưa ra:

“Bản đồ học là khoa học về sự nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không

gian, sự phối hợp và sự liên kết lẫn nhau của các hiện tượng tự nhiên và xã hội (cả

những biến đổi của chúng theo thời gian) bằng các mô hình kí hiệu hình tượng đặc

biệt - sự biểu hiện bản đồ”.

- Định nghĩa đã bao hàm trong nó những bản đồ địa lý về Trái Đất và bản đồ

các hành tinh khác.

- Mở rộng đối với tất cả các sản phẩm bản đồ khác như quả cầu địa lý, bản đồ

nổi, biểu đồ khối, bản đồ số v.v...

- Định nghĩa này không những xác định “Bản đồ học” là một khoa học độc lập

thuộc lĩnh vực các khoa học tự nhiên mà còn chỉ ra Phương pháp bản đồ là một

dạng đặc biệt của mô hình hoá.

- Năm 1995, tại Bacxêlôna - Tây Ban Nha, đại hội lần thứ 10 Hội Bản đồ thế

giới đã đưa ra định nghĩa:“Bản đồ học là ngành khoa học giải quyết những vấn đề

lí luận, sản xuất, phổ biến và nghiên cứu về bản đồ”.

Với định nghĩa này, vai trò và chức năng của Bản đồ học được phản ánh rõ

ràng và mở rộng hơn.

Phân biệt khái niệm:

- “Bản đồ học” và “Bản đồ” không phải là đồng nhất.

- Bản đồ học là một môn khoa học trong đó có hệ thống kiến thức lý luận được

tạo ra với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau, là các tác

phẩm khoa học.

- Bản đồ là sự hiện diện điều kiện rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của

3

Bản đồ học.

- Định nghĩa chặt chẽ và hoàn chỉnh do Giáo sư K.A. Salishev đưa ra, được

nhiều người thừa nhận.

- Bản đồ học có đối tượng nhận thức là không gian cụ thể của các đối tượng

địa lý và sự biến đổi của chúng theo thời gian.

- Bản đồ học là khoa học về các bản đồ địa lý. Bản đồ địa lý là đối tượng nhận

thức của khoa học bản đồ.

1.1.2. Khái niệm về bản đồ địa lý

Từ lâu, người ta thường định nghĩa:

“Bản đồ địa lý là hình vẽ thu nhỏ trên giấy, tương đối chính xác về một khu

vực hay toàn bộ bề mặt Trái Đất”.

- Thứ nhất, định nghĩa như vậy xác thực với mọi bản vẽ về bề mặt Trái Đất,

như bức tranh phong cảnh biểu hiện địa phương bằng các phương pháp và phương

tiện của nghệ thuật tạo hình, hoặc một bức ảnh chụp địa phương.

- Thứ hai, nó chỉ giới hạn ở sự biểu hiện bề mặt Trái Đất, trong khi đó những

bản đồ hiện nay có khả năng biểu hiện nhiều đối tượng, hiện tượng tự nhiên, kinh tế

- xã hội không chỉ nhìn thấy như núi, sông, rừng, biển mà còn cả những hiện tượng

không nhìn thấy như nhiệt độ, áp xuất không khí, các mối quan hệ giữa các hiện

tượng và những hiện tượng không cảm thấy như từ trường Trái Đất. Không chỉ biểu

hiện những đối tượng, hiện tượng phân bố trên bề mặt đất mà cả những đối tượng

nằm sâu trong lớp vỏ Trái Đất (cấu tạo địa chất - khoảng sản), trong lớp khí quyển

và cả những biến đổi của chúng theo thời gian. Phương pháp biểu hiện bản đồ cũng

không giống với các phương pháp biểu hiện các tranh ảnh địa lý.

Theo K. A. Xalishev:

“Bản đồ địa lý là những biểu hiện thu nhỏ, được qui định về mặt toán học, có

tính chất hình ảnh - kí hiệu và được khái quát hoá bề mặt Trái Đất lên trên mặt

phẳng. Những biểu hiện này trình bày sự phân bố, tình trạng và các mối liên hệ của

những hiện tượng tự nhiên và xã hội khác nhau, cả những biến đổi của chúng theo

thời gian, đã được lựa chọn và nêu đặc trưng phù hợp với mục đích của từng bản

đồ cụ thể”.

4

1.2. Các tính chất cơ bản của bản đồ địa lý

1.2.1. Cơ sở toán học

Phương pháp toán học đảm bảo nguyên tắc và quy luật chuyển bề mặt tự nhiên

của Trái Đất lên mặt phẳng bản đồ.

Chiếu bề mặt tự nhiên của Trái Đất lên mặt elipxoid Trái Đất, tiếp đó thu nhỏ

bề mặt elipsoid Trái Đất đến mức cần thiết có thể quan sát được. Cuối cùng, bằng

một trong các phép chiếu hình khai triển bề mặt elipsoid đó lên trên mặt phẳng.

Cơ sở toán học của bản đồ gồm có cơ sở trắc địa, tỉ lệ và phép chiếu bản đồ.

1.2.2. Hệ thống kí hiệu của bản đồ

- Hệ thống kí hiệu bản đồ là phương tiện đặc biệt để phản ánh toàn bộ hoặc

những khía cạnh nhất định của đối tượng. Phương tiện chủ yếu của nó là những yếu

tố đồ họa và màu sắc.

- Hệ thống kí hiệu bản đồ hay gọi là ngôn ngữ bản đồ đảm bảo sự ghi nhận nội

dung, hình dáng và vị trí không gian của đối tượng, đồng thời phản ánh sự phân bố

không gian, quy luật phát triển của đối tượng theo thời gian.

- Trên từng bản đồ thì ngôn ngữ bản đồ được giải thích và sắp xếp có logic

trong bản chú giải, song hình ảnh thực tại mà nó tạo nên thì lại ở trong khung của

bản đồ.

1.2.3. Sự tổng quát hóa nội dung biểu hiện

Là quá trình chọn lựa và phân cấp đối tượng cần phản ánh lên bản đồ trong đó

có sự cân đối hài hòa các thành phần của một yếu tố và giữa các yếu tố nội dung

khác nhau nhằm đảm bảo phản ánh chính xác bản chất của đối tượng và đáp ứng tối

ưu những yêu cầu đã đặt ra.

1.2.4. Tính trừu tượng

Bản đồ có tính trừu tượng vì nó thể hiện các đối tượng đã được tổng quát hóa

và đưa lên bản đồ ở dạng quy ước.

1.2.5. Tính đơn vị

Mỗi một điểm trên bản đồ chỉ tương ứng với một điểm nhất định trên thực địa,

đồng thời mỗi kí hiệu có một ý nghĩa nội dung riêng; điều đó làm cho bản đồ có

tính đơn vị.

5

1.2.6. Tính tương ứng địa lý

Tính tương ứng địa lý của bản đồ giải thích mức độ và khả năng nhận biết

lãnh thổ về mặt địa lý.

1.3. Đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ môn học

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Bản đồ học có đối tượng nhận thức là không gian cụ thể của các đối tượng

địa lý và sự biến đổi của chúng theo thời gian.

- Bản đồ học là khoa học về các bản đồ địa lý. Bản đồ địa lý là đối tượng nhận

thức của khoa học bản đồ.

1.3.2. Nhiệm vụ

- Chức năng của Bản đồ là phương tiện truyền tin bằng đồ họa, vai trò chủ yếu

của nó là giao lưu (D.Morisơn, Arth. Rolimson, L. Ratajski, M.K. Botrarov).

- Nhiệm vụ của Bản đồ học là nghiên cứu và hoàn chỉnh phương pháp truyền

tin.

- R Jolliffe - nhà bản đồ học Australia với góc độ thông tin lại cho rằng Bản đồ

là phương tiện ghi nhận, truyền tin và phổ biến thông tin không gian.

- Nhiệm vụ của Bản đồ học là nghiên cứu cấu trúc không gian, phản ánh các

qui luật của hệ thống không gian địa lý các hiện tượng và đối tượng tự nhiên, kinh

tế - xã hội xét về mặt phân bố, mối tương quan và quá trình phát triển.

- Bản đồ là sản phẩm khoa học của Bản đồ học để phản ánh những kết quả

nghiên cứu của khoa học địa lý. Bản đồ tạo ra những tri thức mới về thiên nhiên và

xã hội.

1.3.3. Phương pháp nghiên cứu

- Bản đồ học có phương pháp nghiên cứu riêng – “Phương pháp bản đồ”.

- Phương pháp bản đồ là phương pháp nhận thức của khoa học bản đồ.

- Phương pháp bản đồ nghiên cứu phương pháp luận bản đồ.

- Nghiên cứu phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ.

1.4. Vai trò và ý nghĩa của bản đồ học đối với khoa học, đời sống và sản

xuất

1.4.1. Vai trò của bản đồ trong đời sống hằng ngày

6

- Bản đồ địa lý khác với bài viết địa lý. Bản đồ địa lý cho ta khái niệm “Bề

mặt” lãnh thổ (không gian hai chiều, ba chiều), còn bài viết địa lý cho ta sự mô tả

địa lý về lãnh thổ đó. Vì vậy, trong nghiên cứu cũng như giảng dạy địa lý phải coi

bản đồ và bài viết là hai “Kênh thông tin (hình và chữ)” bổ sung cho nhau. Một bài

viết địa lý có tính khoa học là bài viết được hướng vào bản đồ và một bản đồ có giá

trị là phải dựa trên cơ sở địa lý, làm sáng tỏ những qui luật địa lý.

- Trong thực tiễn, bản đồ địa lý được sử dụng một cách rộng rãi để giải quyết

nhiều nhiệm vụ khác nhau, những nhiệm vụ gắn liền với sự khai thác, sử dụng lãnh

thổ. Sự thăm dò các khoáng sản có ích, điều tra tài nguyên rừng, đánh giá đất nông

nghiệp, v.v… đều phải dựa trên cơ sở bản đồ. Những công trình kĩ thuật như thiết

kế, xây dựng các công trình thuỷ lợi, mạng lưới giao thông, v.v... đều được vạch ra

trên bản đồ.

- Trong một nền sản xuất phát triển có kế hoạch, công cuộc phát triển kinh tế

gắn chặt với sự phân bố hợp lí lực lượng sản xuất, sử dụng khôn ngoan và có hiệu

quả tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, cải tạo tự nhiên. Muốn vậy

điều kiện đầu tiên và cơ bản là phải điều tra tổng hợp lãnh thổ, thu thập đầy đủ và

có hệ thống các điều kiện tự nhiên - tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế - xã

hội, lực lượng sản xuất của lãnh thổ.

- Thiếu bản đồ không thể giải quyết được những nhiệm vụ như phân bố lực

lượng sản xuất, tổ chức lãnh thổ nền sản xuất xã hội, kế hoạch hóa sự phát triển

tổng hợp nền sản xuất các miền, các vùng.

- Với giao thông, du lịch và quốc phòng, bản đồ là phương tiện dẫn đường

đáng tin cậy nhất. Những phi công yên ổn trên bầu trời, thuỷ thủ vững lái ngoài biển

khơi là nhờ có bản đồ. Bản đồ là “mắt thần” của các nhà quân sự, các cán bộ tham

mưu. Bản đồ địa hình quân sự là cơ sở để thành lập các bản đồ chiến lược, chiến

thuật, là phương tiện lãnh đạo, chỉ huy tác chiến, hành quân, bố trí lực lượng, hợp

đồng binh chủng.

- Bản đồ địa lý không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, nó là phương tiện

nghiên cứu của các ngành khoa học về Trái Đất. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm

hiểu những qui luật phân bố của các đối tượng, sự lan truyền của các hiện tượng và

7

những mối tương quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện những qui

luật tồn tại và dự đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ một

sự nghiên cứu địa lý nào cũng phải bắt đầu từ bản đồ và kết thúc bằng bản đồ (bản

đồ là anpha và ômêga của địa lý).

1.4.2. Vai trò của bản đồ trong giảng dạy địa lý

- Trong giảng dạy và học tập địa lý, bản đồ vừa l nội dung vừa là phương tiện

đặc thù không thể thiếu trong giảng dạy và học tập địa lý.

- Bản đồ là công cụ duy nhất giúp cho học sinh có khả năng nhìn bao quát

được các hiện tượng diễn ra trong một khoảng không gian rộng lớn.

- Bản đồ làm nhiệm vụ minh họa cho bài giảng địa lý trong nhà trường.

- Bản đồ cung cấp các kiến thức, là nguồn hỗ trợ tích cực bằng kênh hình cho

kênh chữ trong sách giáo khoa.

- Bản đồ giúp mở rộng khái niệm không gian cho học sinh, giúp phát triển óc

tư duy logic và óc quan sát, khả năng phân tích của học sinh.

- Giáo dục tính thẩm mỹ cho học sinh.

- Bản đồ là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các tri thức, nâng cao

trình độ văn hoá chung cho mọi người, cung cấp những hiểu biết về quê hương, đất

nước, về các quốc gia trên thế giới, giáo dục lòng yêu nước, yêu quý thiên nhiên,

bảo vệ môi trường. Bản đồ là phương tiện sản xuất, phục vụ đời sống con người.

1.5. Vài nét về lịch sử phát triển của ngành bản đồ học

1.5.1. Bản đồ học thời cổ đại

- Một trong những bản đồ thế giới được xếp vào loại cổ nhất khoảng 2.500

năm trước Công nguyên là bản vẽ trên tấm đất sét được tìm thấy khi khai quật thành

phố Gasur (Phía bắc Babylon).

- Người có ý niệm đầu tiên biểu hiện toàn bộ thế giới Cổ đại là Aximan (610-

546 TCN), sau đó là Eratosphen (271- 195 TCN) và Xtrabôn (63 TCN – 21 SCN).

Trong 17 cuốn sách viết về Địa lý học, Xtrabôn đã dành nhiều phần nói về bản đồ.

Ông đã xây dựng phép chiếu hình trụ giữ đều khoảng cách và đưa ra cách thể hiện

các đối tượng địa lý (Ngôn ngữ bản đồ).

- Người có công lớn nhất phát triển môn bản đồ cổ đại phải kể đến là

8

K.Ptôlêmê (87-150) - nhà thiên văn học nổi tiếng. Tám tập “Địa lý học” của

K.Ptôlêmê được coi là tác phẩm nổi tiếng nhất thời kì này (được dịch ra tiếng La

tinh và in vào năm 1472). Trong tác phẩm, có nhiều trang viết về Bản đồ học. Đặc

biệt K.Ptôlêmê đã lập 27 bản đồ thế giới, trong đó châu Âu, châu Á, châu Phi có

hình dạng bờ biển tương đối chính xác, nhất là vùng Địa Trung Hải và Tây Nam Á.

1.5.2. Bản đồ học thời trung cổ và thời kỳ phục hưng

- Thời Trung cổ với sự thống trị của Nhà thờ, những tiến bộ khoa học của nền

văn hoá Cổ đại bị huỷ hoại và lãng quên, thế giới quan tôn giáo ngự trị, tất cả chỉ tin

vào “Điều khám phá của Nhà thờ”. Bản đồ được biểu hiện ở giữa là Jeruzalem, phía

trên là Thiên đường.

- Cuối thế kỉ XIII, Trung Quốc phát minh ra địa bàn, đã mở ra bước phát triển

mới cho các phát kiến địa lý và sự phát triển của Bản đồ học. Phát minh này đã tạo

điều kiện cho ngành hàng hải phát triển. Nhiều bản đồ thể hiện các đường bờ biển

ra đời. Những bản đồ này được gọi là “Portulan” (bản đồ địa bàn, bản đồ biển). Đặc

điểm của bản đồ này là trên bản đồ có các tâm được xem như các “bông hồng”. Từ

các bông hồng toả ra 16 tia có ghi hướng.

- Thế kỉ XV, XVI, các cuộc thám hiểm lớn của các nhà địa lý như Cristôp

Côlông (1492 - 1504 - tìm ra châu Mĩ), Vaxcô đơ Gama (1497 - 1499 - phát hiện

thêm các chi tiết vùng bờ biển Nam Phi trên đường sang Ấn Độ); Majenlăng (1519

- 1522 - thám hiểm vòng quanh thế giới) đã cho nhiều hiểu biết để vẽ bản đồ các

châu lục và thế giới.

- Người có công lớn nhất đối với Bản đồ học thời kì này phải kể đến nhà bản

đồ học người Hà Lan G.Mercator (thế kỉ XVI). Những công trình lớn của G.

Mercator là bản đồ châu Âu, chữa những chỗ sai trên bản đồ của Ptôlêmê (Địa

Trung Hải), cải tiến hệ thống chữ viết, đưa kiểu chữ in nghiêng vào bản đồ thay thế

kiểu chữ Gô tích. Hai công trình nổi tiếng nhất của G.Mercator là đưa toán học vào

Bản đồ học, chuyển mạng lưới kinh, vĩ tuyến từ mặt hình cầu Quả đất sang mặt

phẳng bản đồ và thành lập tập bản đồ (Atlat). Tiêu biểu cho những công trình này là

bản đồ hàng hải thế giới (1569), vẽ theo phép chiếu hình trụ thẳng đồng góc, đảm

bảo vẽ các đường tà hành là đường thẳng. Và tuyển tập bản đồ với tên “Atlat” (tên

9

của nhà vua huyền thoại xứ Libi) gồm 107 bản đồ được xuất bản đầy đủ năm 1602.

G.Mercato được coi như người sáng lập ra ngành Bản đồ học hiện đại.

1.5.3. Bản đồ học ngày nay

- Từ cuối thế kỉ XVII nền kinh tế và khoa học kĩ thuật trên thế giới bước vào

thời kỳ phát triển mới. Nhiều Viện Hàn lâm khoa học đã được thành lập ở các nước:

Pháp (Paris 1666), Đức (Berlin 1700) Nga (Pêterburg-1724). Sự thành lập các bản

đồ đã trở thành nhu cầu khoa học, kinh tế, quân sự của nhiều quốc gia. Phạm vi biểu

hiện của bản đồ không chỉ còn giới hạn quanh các tuyến đường thám hiểm và các

bờ biển mà ngày càng mở rộng vào sâu trong lục địa, với những địa hình phức tạp.

- Một số nước châu Âu đã thành lập các Cơ quan bản đồ nhà nước như ở Anh

(1791), Pháp (1817) và từ đó xuất hiện các loại bản đồ “Tôpô” với sự bắt đầu bằng

việc xây dựng hệ thống Tam giác nhà nước, làm cơ sở khống chế tọa độ thống nhất

quốc gia, như ở Nauy (1779-1882 ), Thuỵ Điển (1805 -1919), Phần Lan (1830-

1913) v.v… Một số nước đã thành lập bộ bản đồ tỉ lệ lớn toàn quốc như Nhật Bản

(1:50.000), Pháp (1:80.000), Nauy (1:100.000) v.v... Đến cuối thế kỉ XIX, hầu hết

các lãnh thổ châu Âu, phần lớn châu Mĩ và một phần châu Á, châu Phi đã được vẽ

lên bản đồ và nhiều nước đã in ấn trọn bộ các bản đồ địa hình quân sự tỉ lệ lớn.

- Thế kỉ XVIII là thế kỉ xuất hiện nhiều công trình toán bản đồ của các nhà

toán học, bản đồ học như Bonn, J.Lambert (1728-1777), K.Wollweide (1774-1825),

Fr.Gauss (1775-1855)… đã góp phần nâng cao tính chính xác toán học của bản đồ.

- Từ cuối thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX khi các ngành khoa học như Toán

học, Thiên văn học, Vật lí học phát triển đến trình độ cao đã tạo cho khoa học Bản

đồ phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt với sự phát triển của các ngành khoa học nghiên

cứu Trái Đất như Địa chất học, Khí hậu học, Địa mạo học... đã đặt ra cho khoa học

Bản đồ những nhiệm vụ mới, nội dung biểu hiện bản đồ không chỉ giới hạn những

đối tượng phân bố trên mặt đất mà còn những đối tượng nằm sâu trong lòng đất và

cả các hành tinh khác.

- Ngày nay, nhờ những thành tựu của khoa học kĩ thuật mới (chụp ảnh máy

bay, ảnh vệ tinh, các máy chụp nhiều màu, máy tính, công nghệ tin học, v.v…) công

việc đo vẽ, biên tâp, vẽ và sản xuất bản đồ, atlat được thuận lợi, nhanh chóng. Do

10

đó các sản phẩm bản đồ ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình

thức.

1.5.4. Lịch sử phát triển ngành đo vẽ bản đồ Việt Nam

- Sự đo vẽ bản đồ đã được ông cha ta tiến hành từ những năm đầu công

nguyên nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Năm 43 sau công nguyên, đã

đo đạc và dựng các mốc đồng dọc biên giới và năm 724 đo vẽ bản đồ để đắp cao hệ

thống đê phòng thủ Đại La. Tác phẩm bản đồ tiêu biểu và có giá trị khoa học nhất

còn để lại đến nay là “Tập bản đồ Hồng Đức” được thành lập ở triều vua Lê Thánh

Tông (1460-1497). Các bản đồ này đã thể hiện hình dạng nước ta công bố chủ

quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

- Về cơ sở lí luận, thế kỉ XVII, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1783) trong

pho sách “Kho hiểu biết quý giá” gồm 9 tập đã dành 1 tập viết về Bản đồ học cùng

với 2 tập khác viết về Vũ trụ học và Địa lý học.

- Từ giữa thế kỉ XVII, các nước châu Âu mở rộng sự truyền giáo và xâm

chiếm thuộc địa, nhiều nhà truyền giáo và nhà quân sự đã đến vẽ bản đồ nước ta.

- Năm 1650 nhà truyền giáo Alexandre đơ Rhodex đã lập bản đồ “Vương quốc

An Nam” và cùng thời gian này (1666) nhà hàng hải Pieter Goos lập bản đồ bờ biển

vùng bờ biển nước ta. Cuối thế kỉ XVII để chuẩn bị cho sự xâm chiếm thuộc địa,

nhiều sĩ quan Pháp đã đến quan sát và lập bản đồ bờ biển nước ta như bản đồ Hàng

hải Nam Kỳ (1818), bản đồ Địa lý An Nam (1838)...

- Từ 1872-1873: Đo đạc và lập các bản đồ tỉ lệ lớn như Bộ bản đồ Nam Kì, tỉ

lệ 1: 125.000, gồm 20 mảnh của thuyền trưởng Bigrel. Những năm 1874-1875, lập

mạng lưới tam giác Bắc Bộ với đường đáy qua Đồ Sơn và năm 1881 xuất bản bản

đồ toàn Đông Dương của Dutreull Rhin với các địa danh được Pháp hóa.

- Từ 1886-1895: Thành lập Cơ quan chuyên trách: “Văn phòng đo đạc Ban

tham mưu quân đội viễn chinh Đông dương”, Xây dựng được “Hệ thống khoá tam

giác” - cơ sở khống chế đo vẽ chi tiết địa hình và thành lập hệ thống bản đồ địa hình

với các tỉ lệ: 1/100.000 và 1/200.000 đối với Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ: bản đồ

1/100.000 toàn Đông Dương, bản đồ 1/25000 và 1/50.000 các vùng đồng bằng và

vùng mỏ, 1/10.000 và 1/5000 các thành phố và thị xã.

11

- Sau cách mạng Tháng Tám, nước ta đã thành lập “Phòng bản đồ Bộ tổng

tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam”

- Ngày 14/12/1959 Nhà nước đã thành lập “Cục Đo đạc và Bản đồ” trực thuộc

Phủ Thủ tướng. Trải qua nhiều thay đổi tổ chức như: “Cục đo đạc và Bản đồ Nhà

nước” “Tổng cục Địa chính”, nay (theo Nghị Định 19 - 2002/CP ngày 11/11/2002)

là “Cục đo đạc và Bản đồ” trực thuộc Bộ Tài nguyên - Môi trường. Ngành Đo đạc

và Bản đồ nước ta khi mới ra đời đã xác lập lại mạng lưới tam giác khống chế Miền

Bắc và chỉnh lí hệ thống bản đồ địa hình. Sau khi thống nhất đất nước, tiếp tục xác

lập mạng lưới khống chế Miền Nam. Đến nay nước ta đã hoàn chỉnh hệ thống mạng

lưới tam giác khống chế toàn quốc từ cấp I đến cấp IV lập lưới tọa độ quốc gia Việt

Nam 2002 và hệ thống bản đồ địa hình, làm cơ sở thành lập các bản đồ khác.

- Ngoài Cục Đo đạc và Bản đồ nhà nước, nhiều Bộ, Ngành như Tổng cục Địa

chất, Bộ Nông nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lập các cơ quan

bản đồ ngành để thành lập các bản đồ chuyên ngành. Những bản đồ chuyên đề đầu

tiên như bản đồ Địa chất Miền Bắc Việt Nam, bản đồ Thổ nhưỡng Miền Bắc Việt

Nam, bản đồ Dân số Miền Bắc Việt Nam, tỉ lệ 1/5000000. Ngày nay tất cả các

ngành khoa học có liên quan đến bản đồ và nhiều ngành kinh tế - xã hội đã xây

dựng các bản đồ chuyên đề phục vụ nghiên cứu và sản xuất. Nhiều ngành, nhiều

tỉnh đã xuất bản tập bản đồ.

- Công trình bản đồ đồ sộ nhất, tiêu biểu cho sự phát triển của khoa học Bản

đồ nước ta là tập “Atlat Quốc gia Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”,

xuất bản năm 1996.

- Sự đào tạo cán bộ chuyên ngành Đo đạc - Bản đồ được mở rộng, các trường

Đại học Mỏ - Địa chất, Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Tự nhiên đã có các

Khoa, Bộ môn bản đồ. Đặc biệt là Bản đồ học và các ngành khoa học có liên quan

đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ hiện đại vào việc thành lập và sử dụng bản đồ

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Tóm lại:

Bản đồ học có đối tượng nhận thức là không gian cụ thể của các đối tượng,

hiện tượng thực tế khách quan.

12

Đối tượng của Bản đồ học là các sản phẩm bản đồ. Nhiệm vụ của Bản đồ học

là nghiên cứu cấu trúc không gian, các qui luật phân bố và quá trình phát triển của

các đối tượng, hiện tượng địa lý, và phản ánh lên bản đồ bằng những phương pháp

và ngôn ngữ đặc biệt.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1

1. Bản đồ học là gì? Bản đồ học có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu thế nào? 2. Bản đồ học gồm những ngành nghiên cứu chuyên sâu nào? Chức năng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu của chúng.

3. Vai trò và ý nghĩa của bản đồ học đối với khoa học, đời sống và sản xuất.

4. Nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của khoa học bản đồ qua các

thời kì lịch sử trên thế giới và của Việt Nam?

13

Chương 2. CƠ SỞ TOÁN HỌC BẢN ĐỒ

Mục tiêu:

- Nắm được cơ sở toán học của bản đồ, các phép chiếu đồ, sai số trong chiếu

đồ, tọa độ, tỉ lệ, phương hướng, khung và danh pháp bản đồ...

- Biết cách vận dụng vào trong việc dạy và học địa lý.

2.1. Mô hình biểu diễn Trái Đất

2.1.1. Hình dạng - kích thước Trái Đất

- Bề mặt tự nhiên của Trái Đất vô cùng phức tạp, không thể biểu diễn bằng

phương trình toán học được.

- Trong trắc địa, người ta thay bề mặt vật lý của Trái Đất bằng mặt Geoid (mặt

nước biển trung bình yên tĩnh, trải rộng xuyên qua các lục địa).

- Về mặt hình học, bề mặt geoid cũng không thể biểu thị bằng phương trình

toán học, nhưng nó có hình dạng và kích thước gần giống với mặt elipxoid xoay, bề

mặt này xác định được về mặt toán học.

- Vì vậy người ta lấy elipxoid xoay thay thế cho geoid và gọi là elipxoid Trái

Đất.

Kích thước và hình dạng của elipxoid được xác định bằng bằng các phần tử:

+ Bán trục lớn: a

+ Bán trục nhỏ: b

+ Độ dẹt α = (a – b)/a

- Do độ dẹt của Trái Đất rất nhỏ, chỉ xấp xỉ bằng 1/300. Do đó đối với một số

tính toán trong bản đồ, có thể coi Trái Đất như quả cầu có đường kính gần trùng với

trục quay của Trái Đất.

- Bán kính quả cầu R có thể tính theo những điều kiện khác nhau, ở hình cầu

có diện tích bề mặt = bề mặt elipxoid mà F.N. Kraxovxki tìm ra là:

R = 6378,245 km

Chính vì vậy, quả cầu được coi là mô hình thu nhỏ của Trái Đất, nó cho ta một

khái niệm đúng và trực quan về hình dạng Trái Đất, kích thước, hình dạng và vị trí

tương quan các phần trên bề mặt đất.

14

2.1.2. Các qui ước về điểm, đường và mặt phẳng cơ bản để xác định vị trí

các đối tượng địa lý trên bề mặt Trái đất

2.1.2.1. Cực Trái Đất: Các giao điểm giữa bán trục nhỏ của Elipxoid với mặt

của Elipxoid gọi là các cực Bắc (PB) và Nam (PN).

2.1.2.2. Kinh tuyến: Các giao tuyến của mặt Elipxôid với các mặt phẳng đi

qua trục quay là những Elipxôid bằng nhau và gọi là các vòng kinh tuyến. Nửa vòng

Elipxôid chứa hai cực gọi là kinh tuyến.

2.1.2.3. Vĩ tuyến: Các vòng tròn được tạo ra do các mặt phẳng vuông góc với

trục nhỏ đồng thời cắt Elipxôid gọi là các vĩ tuyến. Vĩ tuyến lớn nhất nằm trên mặt

phẳng đi qua tâm Elipxôid gọi là đường xích đạo. Đường xích đạo là vòng tròn có

bán kính bằng a.

2.1.3. Tọa độ địa lý

Cơ sở để xác định tọa độ địa lý là hệ thống kinh,

vĩ tuyến.

Vị trí của một điểm trên mặt elipxoid Trái Đất

được xác định bằng vĩ độ (φ) và kinh độ (λ)

* Kinh độ địa lý của một điểm là trị số góc nhị

diện hợp bởi mặt phẳng chứa kinh tuyến gốc và mặt

phẳng chứa kinh tuyến đi qua điểm đó.

Phân biệt: Hình 2.1. Kinh, vĩ độ địa lý

- Kinh tuyến gốc (0˚) đi qua đài thiên văn Greenwich ngoại ô Luân Đôn  G0

- Kinh độ Đông (từ 0˚về phía Đông đến 180˚) E

- Kinh độ Tây (từ 0˚về phía Tây đến 180˚) W

* Vĩ độ độ địa lý của một điểm là trị số của góc hợp bởi đường pháp tuyến đi

qua điểm đó với mặt phẳng xích đạo.

Phân biệt:

- Xích đạo (0˚) - Vĩ độ Bắc (từ XĐ về phía B đến 900) N - Vĩ độ Nam (từ XĐ về phía N đến 900) S

Kinh độ và vĩ độ một điểm trên bề mặt đất là tọa độ địa lý của điểm đó.

15

Ví dụ: Hà Nội: 1050 52’ Đ 210 02’ B

Một số từ viết tắt:

- Pole: cực  P

- East: Đông  E

- West: Tây  W NEWS: tin tức

- South: Nam  S

- North: Bắc  N

2.1.4. Tọa độ cực

Cơ sở để xác định tọa độ cực là kinh tuyến và góc

phương vị.

Từ 1 điểm đã biết, có thể xác định vị trí các điểm

xung quanh bằng tọa độ cực.

Bằng cách lập mối quan hệ giữa điểm đó với điểm

đã biết bằng góc phương vị và khoảng cách. Hình 2.2. Tọa độ cực

Đó là góc từ Bắc kinh tuyến đi qua điểm A đến hướng đoạn AB tính theo

chiều kim đồng hồ.

Ví dụ: Tọa độ cực của điểm B có thể viết:

2.1.5. Xác định tọa độ địa lý

2.1.5.1. Xác định tọa độ địa lý trên mặt đất

- Đo tính kinh độ:

Trên thực tế, ta không thể đo trực tiếp góc nhị diện của 2 mặt phẳng kinh

tuyến hoặc đo theo cung xích đạo mà phải dựa vào hệ quả tự quay của Trái Đất.

Trái đất quy từ T Đ nên ta thấy MT chuyển động biểu kiến từ Đ  T một

vòng hết 24 giờ.

Như vậy 1 giờ Mặt Trời “chuyển động” được 150

Do đó ta có thể dựa vào chênh lệch giờ địa phương với giờ gốc để tính kinh độ

T1 – T2 = λ1 – λ2

Hiệu số giờ địa phương của hai nơi thì “bằng” hiệu số kinh độ hai nơi đó.

16

Ví dụ 1: Giờ địa phương của HN là 12 giờ, cùng lúc đó, giờ địa phương của

Hải Phòng là 12 giờ 3’ 24”. Tìm kinh độ của Hải Phòng khi biết kinh độ của Hà Nội là 1050 52’ Đ ?

+ Từ chênh lệch thời gian  chênh lệch kinh độ: 12h 03’ 24” – 12h = 3’ 24”

+ Ta biết:

Nếu chênh 1h  thì chênh 150 Vậy chênh 3’ 24”  thì chênh x0 ?

x = 00 51’ Vậy kinh độ của Hải Phòng: 105052’Đ + 0051’ = 106043’Đ

Ví dụ 2: Một tàu chở dầu đang di chuyển dọc theo chí tuyến Nam thì hỏng

máy. Lúc Mặt Trời lên thiên đỉnh đối với con tàu, cùng lúc đó đài phát thanh

Melbourne (Australia) điểm đúng 9 giờ. Tìm tọa độ của con tàu? Cho biết kinh độ của Melbourne: 1450Đ

+ Chênh lệch về giờ địa phương giữa hai nơi: 12 - 9 = 3 giờ

+ Giờ của con tàu > giờ Melbourne, nên  con tàu ở phía Đông của

Melbourne.

+ Mỗi múi giờ là 150  chênh nhau 3 giờ  chênh nhau 450 + Mà khoảng cách từ Melbourne đến đường đổi ngày: 1800 - 1450 = 350

Khoảng chênh kinh độ này đã vượt qua đường đổi ngày100(vì 450- 350 = 100) + Suy ra con tàu ở Bán cầu Tây trên kinh tuyến: 1800 - 100 = 1700T  Tọa độ con tàu: 230 27’N (đường chí tuyến Nam) 1700 T

- Đo tính vĩ độ:

+ Cơ sở để tính vĩ độ là dựa vào Bắc thiên cực.

+ Ở mỗi nơi quan sát khác nhau, mặt phẳng chân

trời tạo thành với trục vũ trụ những góc khác nhau.

+ Ở mỗi điểm trên mặt đất, độ cao của cực vũ trụ

trên đường chân trời thì bằng vĩ độ địa lý của điểm đó.

Hình 2.3. Độ cao cực vũ trụ

17

Nhưng trên bầu trời ta không nhìn thấy được thiên cực nên phải dựa vào các

thiên thể, các sao hoặc Mặ Trời để tìm vĩ độ.

* Một số phương pháp thường dùng:

- Dựa vào ngôi sao lớn hoặc Mặt Trời (dùng cho vùng có vĩ độ thấp) h + z = 900 (1)

v = δ +(-) z (2)

- Đo bằng ngôi sao gần cực: Ví dụ sao Bắc cực chẳng hạn. Ta biết sao này có góc cách cực là 0054’. Ta đo độ cao của sao Bắc cực ở vị trí cao nhất hoặc thấp nhất

rồi trừ (hoặc cộng) góc cách cực.

Trường hợp không có lịch thiên văn, ta đo độ cao của một ngôi sao gần cực

nào đó vào 2 lần: cao nhất (α) và thấp nhất (β) rồi áp dụng công thức:

φ = (α – β) / 2

2.1.5.2. Xác định tọa độ địa lý trên quả cầu hoặc bản đồ

Xác định tọa độ địa lý trên quả cầu phải dựa vào hệ thống kinh vĩ tuyến. Muốn

xác định tọa độ một điểm ta xác định vĩ độ của vĩ tuyến gần nhất ở phía Nam của

điểm cần tìm và kinh độ của kinh tuyến gần nhất về phía Tây của điểm đó.

Ví dụ: Tọa độ điểm B được xác định

φ VT + Δφ

φB =

λ KT + Δλ

λB =

Δφ: số gia vĩ độ

φ VT: vĩ độ của vĩ tuyến gần nhất nằm ở phía Nam của điểm B

Δλ: số gia kinh độ

λ KT: kinh độ của kinh tuyến gần nhất về phía Tây của điểm B

Vĩ độ và kinh độ của vĩ tuyến gần nhất và kinh tuyến gần nhất đo đươc trên

quả cầu.

Số gia vĩ độ và số gia kinh độ được tính bằng phương pháp nội suy và giải tỉ lệ

thức.

2.2. Tỷ lệ bản đồ

- Tỉ lệ (map scale) là tỉ số của khoảng cách trên bản đồ và khoảng cách thực tế

mà nó thể hiện.

18

- Tỷ lệ bản đồ thường được thể hiện ở 3 dạng:

+ Tỷ lệ số được xác định bằng một phân số, có tử số là một và mẫu số

thường là một số chẵn thể hiện số lần được thu nhỏ trên bản đồ của một đoạn s so

với khoảng cách S ngoài thực địa. Ví dụ tỉ lệ bản đồ 1:25.000

+ Tỷ lệ chữ cụ thể hóa tỉ lệ số bằng lời: 1cm trên bản đồ ứng với bao nhiêu m

(km) trên thực địa. Ví dụ: 1 cm trên bản đồ bằng 250 m ngoài thực địa.

+ Tỷ lệ thước: là một đoạn thẳng có chiều dài được tính sẵn

Thước tỷ lệ thẳng:

Thước tỷ lệ xiên:

Hình 2.4. Thước tỷ lệ

Ngoài ra, còn có tỉ lệ chung, tỉ lệ riêng.

* Các yếu tố được chú ý khi chọn tỉ lệ bản đồ là:

- Mục tiêu sử dụng của bản đồ

- Yêu cầu của người sử dụng bản đồ

- Thành phần của bản đồ

- Kích thước của vùng được thể hiện

- Kích thước lớn nhất của bản đồ (xét yếu tố dễ sử dụng)

- Độ chính xác yêu cầu

* Một vài hạn chế trong việc lựa chọn tỉ lệ bản đồ cần chú ý:

- Tỉ lệ quá lớn: yêu cầu nhiều thông tin chi tiết cho thành phần chính của bản

đồ dẫn đến tăng công việc vẽ bản đồ, tăng thời gian và giá thành sản phẩm.

- Tỉ lệ quá nhỏ: bản đồ khó đọc khi có nhiều thông tin cần trình bày, có thể

19

làm người sử dụng bản đồ đọc sai thông tin.

2.3. Phép chiếu hình bản đồ địa lý

2.3.1. Khái niệm về đặc điểm phép chiếu bản đồ

- Phép chiếu bản đồ là phép chiếu hình kinh tuyến, vĩ tuyến từ mặt elipxôit lên

mặt phẳng bằng phương pháp toán học.

- Phép chiếu bản đồ xác định sự tương ứng điểm giữa bề mặt elipxoit quay và

mặt phẳng.

Phương trình chiếu:

X = f1 ( , )

Y = f2 ( , )

- Đối với một bề mặt có diện tích 30km x 30km, thì ta có thể xem bề mặt Trái

Đất là phẳng (độ cong quả đất <1/1.000.000).

Sự lựa chọn hệ qui chiếu được dựa trên các yếu tố sau:

+ Mục tiêu của bản đồ

+ Yêu cầu của người sử dụng bản đồ

+ Vị trí của vùng được thể hiện

+ Hình dạng và kích thước của khu vực được thể hiện.

2.3.2. Sai số trong phép chiếu bản đồ

- Do các đối tượng biểu hiện có những yếu tố hình học: về diện tích, hình

dạng, góc cạnh… nên cũng có các loại sai lệch như sau:

+ Sai lệch về độ dài

+ Sai lệch về diện tích

+ Sai lệch về góc

+ Sai lệch về hình dạng

■ Phân tích bảng 2 – tr 58 – giáo trình  rút ra kết luận về bản chất của

các loại sai số trên bản đồ

- Khi chiếu mặt cầu lên mặt phẳng, bản thân mỗi đối tượng được biểu hiện đều

có các sai lệch về khoảng cách, về diện tích, về góc và về hình dạng

- Tương ứng với các yếu tố hình học sẽ có 4 loại sai lệch trong chiếu đồ:

+ Sai lệch về độ dài: Tỉ lệ chiều dài thay đổi theo địa điểm và theo hướng.

20

+ Sai lệch về diện tích: Tỉ lệ diện tích thay đổi theo vị trí trên bản đồ, không

phụ thuộc vào hướng.

+ Sai lệch về góc: Các góc trên bản đồ không phù hợp với các góc trên bề

mặt Trái Đất.

+ Sai lệch về hình dạng: Hình dạng của các đối tượng trên bản đồ không

phù hợp với hình dạng của đối tượng trên bề mặt Trái đất.

 Việc hạn chế độ sai lệch là nhiệm vụ trung tâm của công tác chiếu đồ.

- Để hình dung sự biến dạng:

Trên bề mặt của Elipxôid, ta lấy một hình tròn có bán kính vô cùng bé. Hình

chiếu của nó lên trên mặt phẳng bản đồ sẽ bị biến dạng thành hình elip. Vì vậy nó

được gọi là elip sai số. Hình dạng và kích thước của các elip sai số trong các phép

chiếu khác nhau thì khác nhau.

- Các trường hợp biến dạng:

+ Nghịch biến

+ Đồng biến

2.3.3. Phân loại phép chiếu bản đồ

- Theo đặc điểm sai số chiếu hình

+ Các phép chiếu giữ góc: Tại mọi điểm trên bản đồ không có sai số về góc

+ Các phép chiếu giữ diện tích: Tỉ lệ diện tích ở mọi nơi trên bản đồ không

bị thay đổi

+ Các phép chiếu giữ khoảng cách: Tỉ lệ độ dài theo một trong hai hướng

chính là không thay đổi

+ Các phép chiếu tự do: Không có các đặc tính đồng góc, đồng diện tích

hoặc đồng khoảng cách

- Theo bề mặt hình học hỗ trợ (bề mặt nhận hình chiếu)

+ Phép chiếu hình phương vị (Mặt phẳng)

+ Phép chiếu hình nón

+ Phép chiếu hình ống

- Theo vị trí của mặt chiếu hình hỗ trợ với trục quả địa cầu

+ Phép chiếu đứng

21

+ Phép chiếu ngang

+ Phép chiếu nghiêng

2.3.4. Một số phép chiếu bản đồ thường gặp

a: phương vị, b: hình nón, c: hình trụ, d: phương vị giả,

e: hình nón giả, f; hình trụ giả, g: đa hình nón

Hình 2.5. Hình dạng các lưới chiếu

2.4. Hệ tọa độ địa lý

Hệ tọa độ địa lý cho phép tất cả mọi điểm trên Trái Đất đều có thể xác định

được bằng ba tọa độ của hệ tọa độ cầu tương ứng với trục quay của Trái Đất.

2.4.1. Tọa độ địa lý: được xác định bằng kinh độ (λ) và vĩ độ (φ) (Đã học ở

mục 2.1.3)

2.4.2. Tọa độ cực cầu

Các đường cơ bản trong hệ thống tọa độ cực cầu không phải là kinh tuyến và

vĩ tuyến mà là vòng thẳng đứng và vòng đồng cao.

- Vòng thẳng đứng là vòng tròn lớn của hình cầu Trái Đất đi qua một trong các

đường kính của hình cầu Trái Đất. Đường kính này chính là đường kính QQ’ đi qua

cực Q của hệ tọa độ cực cầu.

- Vòng đồng cao là những vòng tròn nhỏ; mặt phẳng của nó vuông góc với

đường kính QQ’.

Vị trí của một điểm A bất kỳ trong hệ tọa độ cực cầu có cực là Q được xác

định bằng khoảng cách thiên đỉnh Z và góc phương vị α.

+ Z là độ lớn của cung vòng thẳng đứng QA, bằng góc ở tâm QCA tính ra

22

độ. Z = const cho các vòng đồng cao.

+ α là góc nhị diện hợp bởi đường kinh tuyến PQ đi qua điểm Q và vòng

thẳng đứng đi qua điểm A. α = const cho các vòng thẳng đứng.

Phụ thuộc vào vị trí của điểm cực Q, người ta chia ra ba hệ thống tọa độ cực

cầu:

+ Hệ thống thẳng khi cực Q của tọa độ cực cầu trùng với cực P của tọa độ

địa lí φo = 90°.

+ Hệ thống ngang khi cực Q nằm trên đường xích đạo φo = 0°

+ Hệ thống xiên khi cực Q là một điểm bất kỳ trên mặt cầu Trái Đất

0°<φo<90°

Hình 2.6. Tọa độ cực cầu

2.4.3. Tọa độ vuông góc

Vị trí địa lý của một đối tượng được xác định trong hệ tọa độ vuông góc phẳng

gọi là tọa độ vuông góc của điểm đó, được ký hiệu là A(x,y). Giá trị x là giá trị theo

hướng Bắc Nam và thường đặt lên trước; giá trị y là giá trị theo hướng Đông Tây.

Hình 2.7. Tọa độ vuông góc

- Đối với hệ tọa độ Đề Các, các giá trị dương đồng thời của x và y chỉ có được

ở góc một phần tư bên phải phía trên của hệ tọa độ. Tại các góc phần tư còn lại,

23

hoặc x, hoặc y, hoặc cả x và y phải nhận giá trị âm.

Để tránh các giá trị âm khi xác định tọa độ ô vuông của các đối tượng trong hệ

tọa độ vuông góc, người ta dịch gốc tọa độ sang phái Tây và xuống phía Nam một

số km nào đó để các giá trị nhận được đều là giá trị dương.

- Hệ tọa độ vuông góc thường chỉ được xây dựng ở những bản đồ tỷ lệ lớn.

Ví dụ, trong Hệ VN 2000, sử dụng phép chiếu UTM, múi chiếu 6°. Mỗi múi

chiếu có một hệ tọa độ vuông góc. Gốc tọa độ là giao điểm của kinh tuyến giữa của

múi chiếu đó với xích đạo. Trục tung là kinh tuyến giữa của múi chiếu mang giá trị

x (trong bản đồ sử dụng trục tung là hướng Bắc Nam); trục hoành là xích đạo mang

giá trị y. Để tránh có giá trị âm, gốc tọa độ được dịch chuyển sang phía Tây 500km

(gốc tọa độ thật cách rìa múi một khoảng xấp xỉ 333km). Vì Việt Nam nằm ở Bắc

Bán Cầu nên các giá trị x đều mang giá trị dương, vì vậy không cần dịch chuyển

gốc tọa độ xuống phía Nam.

Hình 2.8

Tọa độ vuông góc của điểm P (x = 2150000m, y = 48572000m) được hiểu là

điểm P cách xích đạo 2150000m và cách kinh tuyến 105° Đông (kinh tuyến giữa

của múi 48) về phía Đông 72000m.

2.5. Phương hướng và các phương pháp xác định phương hướng trên bản

đồ

2.5.1. Phương hướng

2.5.1.1. Cách gọi theo chữ:

- Bốn phương chính: Đông, Tây, Nam, Bắc

- Bốn phương phụ: ĐB, TB, ĐN, TN

24

Ngoài ra còn bốn phương phụ xen kẻ: B-ĐB, Đ-ĐB, T-TB, B-TB, N-ĐN, Đ-

ĐN, N-TN và T-TN

2.5.1.2. Cách gọi phương hướng theo góc phương vị: (góc hướng)

Hình 2.9. Phương hướng

2.5.2. Trên bản đồ thường có 3 hướng Bắc:

- Bắc địa lý (Bắc thực) theo đường kinh tuyến

- Bắc địa bàn: theo kim địa bàn

- Bắc địa đồ: theo đường dọc trong hệ thống

ô vuông. Hình 2.10. Ba loại hướng Bắc

2.6. Khung và bố cục bản đồ

2.6.1. Khung bản đồ

- Khung trong: giới hạn nội dung bản đồ

- Khung giữa: Biểu hiện số độ, phút, giây của kinh độ, vĩ độ hoặc km

- Khung ngoài: Chủ yếu để trang trí

2.6.2. Bố cục bản đồ

Bố cục của bản đồ là sự trình bày vị trí của lãnh thổ thể hiện so với khung bản

đồ; cách bố trí tên, bản chú giải, bản đồ phụ hoặc đồ thị của bản đồ.

2.7. Hệ thống phân mảnh và danh pháp bản đồ địa hình

2.7.1. Cơ sở của việc phân mảnh bản đồ là quy ước của lưới chiếu Gausse:

- Theo chiều kinh tuyến, chia bề mặt TĐ thành 60 múi. Múi được đánh số thứ tự từ 1 đến 60 (Quy ước múi từ 00 ­ đến 60 Đ là múi số 31) có kinh sai là 6 độ.

(khoảng cách kinh tuyến của múi; nói cách khác là khoảng cách giữa khung Tây và

khung Đông)

- Theo chiều vĩ tuyến, từ XĐ trở lên Bắc cực và trở xuống Nam cực, cứ 40 chia

25

thành một đai (nói cách khác: đai có vĩ sai là 40). Đai được đánh thứ tự bằng chữ Latinh in hoa: A B C D E F G H I J K L… Từ 00 đến 40 B (hoặc từ 00 đến 40 N): đánh chữ A. Và cứ như thế, từ 40 đến 80 đánh chữ B, từ 80 đến 120 kí hiệu là C...

Nếu ở Bắc bán cầu thì thêm trước đó chữ N (North: Bắc) Ví dụ: NA, còn ở Nam

bán cầu thì thêm chữ S (South: Nam) Ví dụ: SA

Kết quả: TĐ được chia ra nhiều mảnh, mỗi mảnh hình thang như trên là tờ bản

đồ có tỉ lệ 1/1.000.000 và danh pháp của nó được gọi theo tên đai và tên múi.

Ví dụ: NF-48 (trường hợp ở bán cầu Bắc)

hoặc SF-48 (trường hợp ở bán cầu Nam)

Hình 2.11. Hệ thống phân mảnh

26

HHììnnhh 22..1122.. SSơơ đđồồ pphhâânn mmảảnnhh

Tỉ lệ bản đồ Danh pháp (Ví dụ) Mảnh cơ sở Chia ra Kinh sai

1/1.000.000 NF - 48 Trái đất (60*22)2 60 Vĩ sai 40

1/100.000 NF - 48-144 1/1.000.000 144 30’ 20’

1/50.000 NF - 48-144-B 1/100.000 4 15’ 10’

1/25.000 NF - 48-144-B-a 1/50.000 4 7’30” 5’

1/10.000 NF - 48-144-B-a-4 1/25.000 4 3’45” 2’30”

VVíí ddụụ::

Xác định tỉ lệ và tọa độ của mảnh bản đồ có danh pháp: NC-34-111-B-a-2

- Trước tiên ta xác định tỉ lệ và tọa độ khung của mảnh bđ có danh pháp

NC-34

Theo quy ước của lưới chiếu Gausse, đây là danh pháp của tờ bản đồ có tỉ lệ

1/1triệu, trên cơ sở chia Trái Đất ra 60 múi và 22 đai ở mỗi bán cầu. Nó có kinh sai

là 6 độ và vĩ sai 4 độ.

Cụ thể ở đây là đai C thuộc bán cầu Bắc (vì NC) và múi 34 thuộc bán cầu

Đông (vì theo quy ước, bán cầu Đông là từ múi 31 đến 60)

27

+ Đai C (BCB): Từ XĐ (00) đến đai C cách 2 đai, mỗi đai có vĩ sai 40  40 x 2 = 80 Vậy đai C nằm từ 80 B (khung Nam) cho đến 120 B (khung Bắc)

+ Múi 34 (BCĐ): Múi 34 nằm cách kinh tuyến gốc (0) 3 múi (vì 34 –31 = 3

múi) mỗi múi có kinh sai 6 độ: 6 x 3 = 180

Vậy múi 34 nằm từ 180 Đ (khung Tây) cho đến 240 Đ (khung Đông)

120 B

180 Đ 240 Đ

80 B

- Tiếp theo, ta xác định tỉ lệ và toạ độ khung của mảnh bđ có danh pháp

NC-34-111:

Đây là danh pháp của tờ bđ có tỉ lệ 1/100.000 trên cơ sở lấy tờ bđ 1/1 triệu để

chia thành 144 mảnh và cụ thể ở đây là mảnh 111.

Mảnh 1/1tr chia ra 144 mảnh có nghĩa là mỗi cạnh của nó chia ra 12 phần (vì

144 = 12)

Nói cách khác là mảnh đó được chia thành 12 hàng và 12 cột để tạo thành 144

mảnh có tỉ lệ 1/100.000. Mảnh cần xác định tọa độ khung là mảnh số 111, nó có

kinh sai là 30’và vĩ sai là 20’

Ta có thể lý luận: 111 chia 12 được 9 lần còn dư 3. Điều này có nghĩa là mảnh

số 111 nằm ở hàng thứ 10 (từ trên xuống) và ở cột thứ 3 (từ trái sang)

+ Hàng thứ 10 từ trên xuống cũng có nghĩa là cách khung Nam 2 hàng từ dưới

lên, mỗi hàng

28

có vĩ sai là 20’; 20’x2 = 40’. mà khung Nam là 80 B Vậy khung Nam của mảnh NC-34-111 là 8040’B Từ đó suy ra khung Bắc của nó là (80 40’+20’) = 90 B

+ Tương tự ta tính khung Đông và khung Tây:

Nằm ở cột thứ 3 tức là cách khung Tây của mảnh 1/1tr 2 cột, mỗi cột có kinh sai 30’ tức là cách 1 độ (30’x 2 = 10) mà khung Tây như đã tính ở trên là 180 Đ. Vậy khung Tây của mảnh NC-34-111 là (180 +10) = 19 0 Đ. Từ đó suy ra khung Đông của nó sẽ là 19 030’ Đ

90 B

19 0 Đ 19 030’ Đ

NC-34-111

8040’B

- Xác định tỉ lệ và tọa độ khung mảnh bđ có danh pháp NC-34-111-B

Đây là mảnh có tỉ lệ 1/50.000 trên cơ sở mảnh 1/100.000 được chia làm 4 và

đánh thứ tự A,B,C,D Và cụ thể đây là mảnh B; Nó có kinh sai 15’ và vĩ sai là 10’

A B 90 B

C D

19015’Đ 19030’Đ

NC-34-111-B 8050’B

Khung B trùng với khung B của mảnh 1/100.000: 90B

29

Khung N: 90-10’= 80 50’ Khung Đ trùng với khung Đ của mảnh 1/100.000: 19030’Đ Khung T: 190 30’-15’= 19015’

- Tương tự như vậy ta sẽ tính được mảnh bđ có danh pháp NC-34-111-B-

a và mảnh NC-34-111-B-a-2 Từ 80 57’ 30”  90 B Từ 190 18’45” 190 22’ 30”Đ

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2

1. Trình bày các khái niệm: Kinh tuyến, vĩ tuyến, kinh độ, vĩ độ?

2. Phân biệt các hệ tọa độ: tọa độ địa lý, tọa độ cực?

3. Tỉ lệ bản đồ là gì? Tỉ lệ bản đồ được trình bày trên bản đồ ở những dạng

nào? Cách thể hiện các dạng đó?

4. Chiếu hình bản đồ (chiếu đồ) là gì? Tại sao các bản đồ địa lý phải được

thành lập trên cơ sở phép chiếu hình bản đồ?

5. Phân tích các loại sai số trong phép chiếu bản đồ?

6. Nếu căn cứ vào bề mặt hình học hỗ trợ, có thể chia các phép chiếu hình

bản đồ thành những phép chiếu cơ bản nào? Trình bày những nét chính của các

phép chiếu đó?

7. Cách nhận biết phép chiếu? Trong thành lập và sử dụng bản đồ tại sao

phải lựa chọn phép chiếu? Dựa trên các cơ sở nào để lựa chọn?

30

Chương 3. NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ

Mục tiêu:

- Nắm được hệ thống ký hiệu và các phương pháp thể hiện bản đồ

- Phân tích và so sánh gữa các phương pháp thể hiện bản đồ

3.1. Khái quát về ngôn ngữ bản đồ

Ngôn ngữ mà nhờ nó khoa học biểu thị được đối tượng nhận thức của mình

được gọi là ngôn ngữ “nhân tạo”. Ngôn ngữ nhân tạo của khoa học bản đồ là ngôn

ngữ bản đồ - hệ thống ký hiệu đặc thù, nhờ nó biểu thị được đối tượng nhận thức

của khoa học bản đồ - không gian cụ thể của các đối tượng và hiện tượng trong hiện

thực khách quan và sự thay đổi của nó theo thời gian. Sự biểu thị thực hiện bằng

ngôn ngữ này được gọi là Bản đồ.

Hiện thực khách quan trong bản đồ được phản ánh bằng những phương tiện

ngôn ngữ đặc biệt và toàn bộ chúng trong tác phẩm bản đồ được gọi là ngôn ngữ

bản đồ và được xem như hệ thống ký hiệu đặc thù.

Việc nghiên cứu khoa học các hệ thống ký hiệu và đề ra lí thuyết chung về

chúng trên cơ sở triết học thống nhất là phạm vi nghiên cứu của bộ môn ký hiệu

học.

Song mỗi hệ thống ký hiệu cụ thể nói riêng cần được nghiên cứu chi tiết hơn

bằng một khoa học đã sản sinh ra nó, sử dụng nó và căn cứ theo mức độ hoạt động

thực tiễn của mình đang hoàn thiện nó. Đối với ngôn ngữ bản đồ thì lĩnh vực bản đồ

học là khoa học như vậy. Nhưng ngôn ngữ bản đồ như là một hệ thống ký hiệu đặc

thù, vẫn chưa được tìm hiểu sâu về mặt khoa học cả từ phía môn bản đồ lẫn từ phía

ký hiệu học.

3.2. Hệ thống ký hiệu quy ước trên bản đồ

3.2.1. Thành phần cơ bản, hệ thống ký hiệu đặc thù của ngôn ngữ bản đồ

Hệ thống thống nhất các phương tiện thể hiện bản đồ bao gồm:

- Số lượng lớn các ký hiệu diễn đạt những ý nghĩa nhất định, biểu thị các đối

tượng trong thực tế.

- Các nguyên tắc và phương pháp sử dụng những ký hiệu này tương ứng với

31

các đặc thù không gian - thời gian của hiện thực cần được biểu thị.

Hệ thống thống nhất các phương tiện thể hiện bản đồ là hệ thống ký hiệu đặc

thù trong bản đồ học, là thành phần cơ bản của “ngôn ngữ bản đồ”.

3.2.2. Cái “vỏ” không gian và “nhân” ý nghĩa nội dung

Toàn bộ nội dung bản đồ có thể xem như sự thống nhất giữa các phương pháp

biểu thị của hai mặt hiện thực:

- Không gian

- Nội dung.

Mặt thứ nhất được phản ánh bởi “trạng thái” không gian của ký hiệu.

Mặt thứ hai bởi ý nghĩa được mã hoá trong đó.

Ý nghĩa được mã hoá trong các ký hiệu có thể trình bày rộng hơn và chi tiết

hơn ở mức độ bất kỳ bằng ngôn ngữ tự nhiên. Nhưng tính cụ thể mà các ký hiệu

biểu thị ra bằng “trạng thái” không gian của mình thì không thể biểu thị được bằng

thứ ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ bản đồ.

Giữa các mặt hiện thực này (không gian và nội dung) tồn tại sự thống nhất

biện chứng; chúng không thể có được nếu tách khỏi nhau. Tuy nhiên giữa chúng

cũng có sự độc lập tương đối.

3.2.3. Tính xác định không gian và sự thay đổi theo thời gian

Khi thực hiện các chức năng ngôn ngữ, các ký hiệu bản đồ bộc lộ “trạng thái”

không gian mà nó được quy định bởi tính xác định không gian của hiện tượng được

biểu thị. Tính xác định không gian được hình thành từ ba yếu tố sau đây:

3.2.3.1. Sự định vị không gian của đối tượng hay là sự xác định vị trí của nó so

với hệ quy chiếu không gian được chấp nhận.

3.2.3.2. Sự định vị tương quan của đối tượng hay là sự xác định vị trí của nó

so với các đối tượng khác.

3.2.3.3. Hình dạng bên ngoài của đối tượng hay là sự xác định những thay đổi

không gian bao quanh nó.

Mặc dù hết sức đa dạng về hình thức định vị không gian của các đối tượng,

nhưng chúng được nhóm thành ba dạng chung nhất: các đối tượng định vị theo

điểm, theo tuyến và theo diện tích.

32

Sự thay đổi theo thời gian của tính xác định không gian được biểu thị bằng

ngôn ngữ bản đồ kết hợp với hệ quy chiếu thời gian.

3.2.4. Tính xác định nội dung và sự thay đổi theo thời gian của nó

Khi biểu hiện “trạng thái” không gian trong việc thực hiện các chức năng ngôn

ngữ của mình, các ký hiệu bản đồ thể hiện tính xác định không gian của chính nội

dung mã hoá trong chúng dưới dạng ý nghĩa.

Khi nói về ý nghĩa của các ký hiệu, chúng ta chỉ đề cập đến cái đã được mã

hoá trong đó. Nhưng ý nghĩa các ký hiệu của toàn bản đồ chưa phải là nội dung của

chính bản thân bản đồ. Toàn bộ nội dung bản đồ hợp thành từ hai dạng tính xác

định:

3.2.4.1. Tính xác định không gian và sự thay đổi theo thời gian của nó.

3.2.4.2. Tính xác định nội dung và sự thay đổi theo thời gian của nó (còn gọi

là thuộc tính của đối tượng).

Tính xác định nội dung là toàn bộ những mặt có thể có của các đối tượng, trừ

không gian của chúng. Số lượng mặt nhiều vô hạn, nó phụ thuộc không chỉ vào đối

tượng, mà còn vào các mục đích và chiều sâu của công trình nghiên cứu. Tuy nhiên,

số lượng các mặt của đối tượng có thể và cần phải phân nhóm. Xuất phát từ đó,

trong ý nghĩa của ký hiệu cần mã hoá cái cơ bản nhất - bản chất của đối tượng hay

là cái là nó.

Ngoài bản chất, trong ý nghĩa của ký hiệu, tuỳ theo mức độ cần thiết có thể mã

hoá: khả năng định tính, khả năng định lượng và cấu trúc định tính - định lượng của

đối tượng. Khả năng định tính có thể trình bày dưới dạng: a) bản chất của sự phát

triển (ví dụ: các kiểu dao động địa hình trên bản đồ địa mạo); b) Sự thống nhất giữa

các mặt khác biệt (ví dụ, các kiểu khí hậu) và c) Sự thống nhất giữa các mặt đối lập

(ví dụ, sự chuyên canh và đa canh trong sản xuất nông nghiệp).

3.3. Chữ viết và ghi chú trên bản đồ

Kí hiệu trên bản đồ không chỉ có quan hệ với tư duy, với ý nghĩa nội dung đối

tượng, mà còn có quan hệ mật thiết với chính bản thân đối tượng do kí hiệu chỉ ra

(biểu hiện ở phần chữ và ghi chú).

Như vậy, quan hệ kí hiệu bản đồ chỉ ra đối tượng duy nhất nhờ tên của nó.

33

Chữ viết trên bản đồ làm phong phú thêm nội dung bản đồ.

Những chữ viết thường gặp trên bản đồ gồm các nhóm sau đây:

- Các thuật ngữ địa lý, xác định khái niệm về đối tượng như biển, (biển

Đông)…

- Các tên gọi đối tượng mà không được phản ánh bằng các kí hiệu, thí dụ như

tên các loại cây gỗ…

- Ghi chú số lượng hoặc tính chất như độ cao các đỉnh núi, độ cao dòng thác…

Sự lựa chọn, giới hạn và bố trí chữ viết trên bản đồ có ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng, tải trọng và tính mỹ thuật của bản đồ. Vì thế, bố trí chữ viết trên bản đồ

cần bảo đảm các yêu cầu sau:

- Mỗi chữ viết phải gắn với một đối tượng địa lý nhất định, không nên thiết kế

chữ viết khó xác định nó thuộc vào đối tượng nào, gây sự hoài nghi đối với người

sử dụng bản đồ.

- Chữ viết trên bản đồ không được làm che lấp (hoặc làm gián đoạn) những

chi tiết quan trọng của các đối tượng địa lý.

- Sự phân bố các tiêu đề trong sự tập hợp của chúng phản ánh được mật độ

tương đối của các đối tượng tương ứng ở địa phương, bảo đảm được sự cân đối, hài

hoà.

Chữ viết trên bản đồ ngoài chức năng dẫn đường, giải thích, bản thân chúng có

khả năng phản ánh những đặc điểm đối tượng, thông qua hình thức biểu hiện như

kiểu chữ, độ nghiêng của chữ và kích thước, màu sắc của chữ.

Hiện nay như đã thành qui ước, người ta lấy kiểu chữ khác nhau kết hợp với

màu sắc để thể hiện các loại đối tượng khác nhau. Kiểu chữ đứng màu đen hoặc đỏ

cho các đối tượng hành chính – chính trị, kiểu chữ nghiêng xanh lam cho các đối

tượng nước (thuỷ văn), kiểu chữ nghiêng màu nâu đối với các yếu tố địa hình. Để

đặc trưng cho độ lớn hoặc giá trị, ý nghĩa của các đối tượng, người ta thường biểu

hiện thông qua kiểu và kích thước của chữ, ví dụ như các cấp hành chính được thể

hiện thông qua kiểu và kích thước chữ v.v…

Như vậy, chữ viết là một yếu tố không thể thiếu trên bản đồ và tự nó đã đóng

vai trò của một loại kí hiệu bản đồ, làm tăng thêm giá trị và chất lượng bản đồ.

34

3.4. Các phương pháp biểu hiện bản đồ

- Việc phân chia các phương pháp biểu hiện bản đồ theo các trường phái biên

vẽ bản đồ khác nhau:

+ Trường phái Ănglô-Xắcxông: Anh, Mỹ

+Trường phái Áo-Đức

+ Trường phái Pháp

+ Trường phái Nga

- Hệ thống ký hiệu bản đồ có thể xem như là một ngôn ngữ nghệ thuật đặc

biệt: Đó là ngôn ngữ bản đồ, nó thỏa mãn ba chức năng cơ bản sau:

+ Dạng đối tượng (hoặc cấu trúc): hình vẽ ký hiệu gợi cho ta liên tưởng đến

đối tượng cần phản ánh.

Vd: sông hồ, đầm lầy…

+ Bản thân ký hiệu phải chứa trong đó một nội dung nào đó về số lượng,

chất lượng, cấu trúc, động lực phát triển của đối tượng cần phản ảnh trên bản đồ.

+ Ký hiệu trên bản đồ phải phản ảnh vai trò của đối tượng trong không gian

và vị trí tương quan của nó đối với các yếu tố khác. Các ký hiệu được sắp xếp theo

một quy định nhất định trong không gian.

- Hệ thống ký hiệu qui ước bản đồ:

Kí hiệu bản đồ có thể ở dạng đồ họa, màu sắc, chữ và con số. Các ký hiệu trên

bản đồ thường ở các dạng ký hiệu điểm, ký hiệu tuyến và ký hiệu diện tích.

+ Ký hiệu điểm (point): áp dụng với đối tượng địa lý phân bố theo những

điểm riêng biệt (cột mốc trắc địa, đối tượng diện tích nhỏ khi biểu hiện trên bản đồ

không thể theo đường biên của nó như nhà, trụ điện,...). Các ký hiệu được đặt đúng

vào vị trí của hiện tượng, kích thuớc ký hiệu đó không cần theo tỉ lệ.

35

+ Ký hiệu tuyến (polyline): là kí hiệu dạng đường dùng thể hiện ranh giới

(quốc gia, tỉnh, huyện, xã) hay đường giao thông, sông ngòi, đường dây điện... là

loại đối tượng phân bố theo chiều dài. Ngoài ra còn có dạng tuyến tính đặc biệt như

đường đẳng trị (đồng cao độ, đẳng mặn, đẳng nhiệt...), các ký hiệu phải thể hiện

đúng tỷ lệ theo chiều dài, chiều rộng có thể tăng rộng ra hai bên đường trung tâm.

+ Ký hiệu diện tích (hay vùng: region): thể hiện các hiện tượng phân bố

theo vùng như các khu vực sử dụng đất đai (rừng, nông nghiệp, đầm lầy,...). Toàn

khu vực phải vẽ theo tỷ lệ bản đồ và giới hạn bởi đường biên ngoài của nó, đường

biên ngoài được thể hiện theo ký hiệu dạng đường (nét liền, chấm gạch, màu...).

Trong khu vực thể hiện bằng một mẫu tô nào đó phản ảnh tính chất của đối tượng

(khu trồng lúa có mẫu tô hình cây lúa màu xanh, khu đô thị tô màu đỏ sâm,...)

Hệ thống kí hiệu có khả năng vô tận để thiết kế các kí hiệu cho các loại bản đồ

nhờ sự phân hóa các kí hiệu theo hình dạng, kích thước, phương hướng, màu sắc,

độ đậm nhạt và cấu trúc bên trong của mỗi kí hiệu, đồng thời còn nhờ vào khả

năng phối hợp giữa các loại.

Sự biểu hiện bản đồ, ngoài nhiệm vụ đưa ra và phân biệt các đối tượng, hiện

tượng địa lý được biểu hiện, còn phải nêu lên được những đặc trưng của các đối

tượng, hiện tượng đó như sự phân bố không gian, hình dạng và số lượng (định

lượng), chất lượng (định tính), kể cả cấu trúc, động lực phát triển v.v... nếu có của

chúng.

Như đã biết, các đối tượng, hiện tượng địa lý có các dạng phân bố rất khác

nhau: Có đối tượng phân bố theo điểm (định vị theo từng điểm riêng biệt) như nhà

máy, hải cảng, công trình văn hoá ...; theo đường như sông ngòi, đường giao thông;

36

theo diện, như các dải rừng, các vùng cây trồng nông nghiệp.

Có những đối tượng phân bố toàn bộ, liên tục như địa hình, đất đai, khí hậu,

song cũng có những hiện tượng phân bố cục bộ, phân tán.

Vì thế phải có những phương pháp biểu hiện phù hợp

Trong quá trình phát triển của Bản đồ học, đã hình thành nhiều phương pháp

biểu hiện bản đồ và ngày càng được cải tiến, hoàn thiện.

Sau đây là những phương pháp được sử dụng phổ biến:

3.4.1. Phương pháp kí hiệu điểm

Phương pháp kí hiệu điểm là phương pháp biểu hiện dùng để thể hiện những

đối tượng, hiện tượng được định vị theo các điểm, hoặc tập trung trên những diện

tích nhỏ

Ví dụ: thể hiện các mốc giới, các mốc chỉ đường, các cây to đứng riêng biệt...

trên các bản đồ địa hình hoặc nhà máy, các trung tâm công nghiệp, dân cư các thị

xã, thành phố, v.v... trên các bản đồ tỉ lệ nhỏ.

3.4.1.1. Đối tượng biểu hiện

- Dùng để biểu hiện các hiện tượng phân bố theo điểm, phân bố liên tục.

- Dùng để chỉ dẫn các yếu tố giá trị định tính, định lượng

3.4.1.2. Hình thức biểu thị

Dùng các kí hiệu đặt ở đúng vị trí của đối tượng. Các kí hiệu đó có thể là kí

hiệu hình học, kí hiệu chữ, kí hiệu tượng hình.

Kí hiệu có thể không theo tỉ lệ bản đồ

Căn cứ về mặt hình thức của ký hiệu, chia ra thành các dạng:

+ Ký hiệu tượng hình

37

+ Ký hiệu hình học

+ Ký hiệu chữ

- Ký hiệu tượng hình:

+ Ưu: Thể hiện một cách sinh động các hình dạng bên ngoài của đối tượng,

giúp người đọc dễ nhận ra sự phân bố không gian của đối tượng thể hiện.

+ Nhược: Dạng ký hiệu này khó so sánh và khó xác định vị trí chính xác của

đối tượng.

- Ký hiệu hình học

Là dùng hình dạng bên ngoài của các hình học đơn giản: vuông, tròn, tam

giác…

+ Ưu: Dễ vẽ, dễ nhớ, chiếm ít diện tích, phản ảnh chính xác vị trí, dễ so sánh

độ lớn.

Tuy số lượng các hình học đơn giản không nhiều nhưng số lượng có thể tăng

lên nhờ sử dụng các màu sắc khác nhau và các hình vẽ phụ bên trong

+ Nhược: Khó phân biệt hơn so với kí hiệu tượng hình

- Ký hiệu chữ:

Dùng 1 hoặc 2 chữ cái đầu tiên của tên gọi đối tượng

Au : Vàng

Fe : Sắt

Al : Bô xit

38

+ Nhược:

Khó xác định chính xác vị trí đối tượng

Không so sánh được về độ lớn

+ Khắc phục: Kết hợp kí hiệu chữ với kí hiệu hình học

■ Cho nhận xét về ưu, nhược điểm của 3 dạng kí hiệu ?

- Trong ba dạng kí hiệu này, kí hiệu hình học có nhiều ưu điểm: dễ vẽ, phản

ánh chính xác vị trí phân bố, dễ ứng dụng công nghệ hiện đại và có khả năng nêu

được nhiều đặc trưng của đối tượng.

- Kí hiệu tượng hình, tượng trưng có tính trực quan cao, dễ nhận biết đối

tượng, nhưng khó vẽ, khó thể hiện định lượng, sự chính xác địa lý hạn chế, khó áp

dụng công nghệ tiên tiến, nên thường chỉ được thể hiện ở các bản đồ mang tính

quảng bá như bản đồ du lịch và bản đồ giáo khoa cấp Tiểu học.

3.4.1.3. Khả năng biểu hiện

■ Dựa vào bản đồ bạn, hãy cho biết phương phương pháp kí hiệu điểm thể

hiện được những nội dung nào của đối tượng?

- Các ký hiệu có khả năng biểu hiện được vị trí, đặc điểm phân bố của đối

tượng

+ Tâm của kí hiệu chỉ vị trí của đối tượng

+ Tập hợp các kí hiệu và mối quan hệ giữa chúng nói lên đặc điểm phân bố

- Biểu hiện chất lượng đối tượng:

Chất lượng đối tượng có thể được thể hiện bằng hình dạng và màu sắc của

các kí hiệu (xem các dạng kí hiệu đã nói ở phần trước).

Ví dụ: màu đỏ cho công nghiệp cơ khí, màu vàng cho công nghiệp thực phẩm,

màu nâu cho công nghiệp xây dựng v.v...

Sự sử dụng hình dạng hay màu sắc của các kí hiệu để phản ánh chất lượng

hiện tượng, đối tượng, tuỳ thuộc vào từng trường hợp, từng bản đồ và thói quen

truyền thống.

Hai hình thức này thường được sử dụng kết hợp, nhất là đối với những bản đồ

có nhiều nội dung, thể hiện nhiều loại đối tượng và nhiều khía cạnh của đối tượng.

- Biểu hiện số lượng đối tượng

39

Số lượng đối tượng được biểu hiện thông qua kích thức kí hiệu

Để thể hiện số lượng, có thể lựa chọn những kiểu phụ thuộc toán học khác

nhau:

+ Phụ thuộc theo chiều dài

+ Phụ thuộc theo diện tích

+ Phụ thuộc theo thể tích.

Cùng một số lượng, tuỳ thuộc vào các kiểu phụ thuộc toán học khác nhau này sẽ

cho kích thước kí hiệu khác nhau.

* Kiểu phụ thuộc theo chiều dài

Số lượng của đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng trực tiếp với

cạnh dài của kí hiệu.

Ví dụ: Trên bản đồ công nghiệp, tổng sản lượng công nghiệp được thể hiện

bằng kí hiệu cột với:

1 mm chiều dài tương ứng với giá trị 1 tỉ đồng

10 mm ……………………………. 10 tỉ đồng

20 mm ……………………………. 20 tỉ đồng

Song nếu số lượng của các đối tượng biểu hiện có sự chênh lệch quá lớn (số

lượng tối đa và tối thiểu) thì kích thước kí hiệu sẽ biến thiên mạnh, điều này sẽ ảnh

hưởng đến sự thể hiện các đối tượng khác và gây cảm giác quá tải của bản đồ.

Vì thế, kiểu phụ thuộc này chỉ vận dụng trong trường hợp số lượng của các đối

tượng được biểu hiện không khác nhau quá lớn.

Trong những trường hợp biên độ số lượng có tính cực đoạn, người ta thường

viện tới các kiểu phụ thuộc toán học khác, là phụ thuộc theo diện tích và thể tích.

* Kiểu phụ thuộc theo diện tích

Số lượng của đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng với diện tích của

ký hiệu.

Kích thước ký hiệu vẫn tăng hoặc giảm theo số lượng đối tượng nhưng sự tăng

giảm này nhỏ hơn (theo căn bậc hai của ký hiệu)

Ví dụ có 2 số lượng chênh nhau 10 lần, diện tích của ký hiệu lớn nhỏ hơn nhau

10 lần nhưng kích thước của ký hiệu chỉ chênh hơn 3 lần.

40

Theo kiểu phụ thuộc này, độ lớn của các ký hiệu được tính theo công thức P = Qm2

P là diện tích của ký hiệu

Q là số lượng của đối tượng m2 là đơn vị đo diện tích tương ứng với 1 đơn vị số lượng quy định

Nếu ký hiệu là hình vuông, độ lớn cạnh a =

* Kiểu phụ thuộc theo thể tích

Số lượng đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng với thể tích của kí

hiệu. Kí hiệu sẽ có dạng hình khối như khối cầu, khối lập phương, khối nón, v.v...

Với kiểu phụ thuộc này, kích thước kí hiệu sẽ tăng giảm không lớn (chỉ bằng căn

bậc ba của thể tích kí hiệu).

Trong thực tế xây dựng bản đồ, sự vận dụng kiểu phụ thuộc nào phải căn cứ

vào đặc điểm số lượng cụ thể của các đối tượng hoạ đồ.

- Nếu số lượng của các đối tượng khác nhau không nhiều thì nên vận dụng

kiểu phụ thuộc toán học theo chiều dài

- Nếu chúng khác nhau lớn thì nên vận dụng kiểu phụ thuộc toán học theo diện

tích hoặc thể tích.

Trong thực tiễn hoạ đồ, kiểu phụ thuộc toán học theo diện tích được dùng phổ

biến nhất do có nhiều ưu điểm: Kích thước kí hiệu không biến thiên quá mạnh, dễ

tính toán và thể hiện.

Ví dụ: hai đối tượng có số lượng lớn nhỏ hơn nhau 100 lần, nếu thể hiện

chúng trên bản đồ với kiểu phụ thuộc theo thể tích, thì kích thước kí hiệu của chúng

chỉ lớn nhỏ hơn nhau 4, 64 lần ( ).

Công thức tính kích thước của kí hiệu như sau:

a = (khối lập phương)

a là cạnh của kí hiệu

v là thể tích của kí hiệu.

Với kiểu phụ thuộc này, khi số lượng của các đối tượng chênh nhau không

nhiều thì kích thước của chúng khác biệt nhau rất ít, khó nhận biết.

- Thể hiện động lực của hiện tượng (sự phát triển)

41

Phương pháp kí hiệu còn có khả năng phản ánh sự biến động (động lực) của

các đối tượng, hiện tượng được họa đồ trong quá trình phát triển ở những thời điểm

nhất định.

Vd: Dân số của các điểm quần cư ở hai thời điểm tổng điều tra dân số; giá trị

sản lượng công nghiệp của các trung tâm công nghiệp ở một số năm nào đó v.v...

Động lực phát triển này, được thể hiện bằng các “kí hiệu tăng trưởng”, tức là

dùng một hệ thống các kí hiệu có kích thước khác nhau tương ứng với số lượng của

đối tượng ở thời điểm biểu hiện đặt chồng lên nhau.

- Thể hiện cấu trúc của đối tượng

Chia ký hiệu ra thành những cấu trúc tương ứng với đối tượng

Tóm lại: Phương pháp ký hiệu điểm có khả năng biểu hiện

- Vị trí, đặc điểm phân bố của đối tượng.

- Số lượng của đối tượng.

- Chất lượng của đối tượng.

- Cấu trúc của đối tượng

- Động lực (xu hướng phát triển, xu hướng thay đổi) của đối tượng hay hiện

tượng.

3.4.2. Phương pháp chấm điểm

3.4.2.1. Hình thức biểu hiện:

Phương pháp chấm điểm là phương pháp biểu hiện bản đồ được sử dụng để

thể hiện đặc điểm các đối tượng, hiện tượng phân bố phân tán theo các cụm, các

khối.

Ví dụ:

+ Dân số của các nơi quần cư nông thôn

+ Lượng đàn gia súc của các nơi chăn thả

+ Diện tích các khu vực đất canh tác, v.v...

3.4.2.2. Khả năng biểu hiện:

- Phương pháp chấm điểm chủ yếu đưa ra số lượng hiện tượng. Số lượng hiện

tượng được xác định thông qua số lượng các điểm chấm mang những trọng số.

Công thức chung để xác định số lượng là:

42

Q = Pn

Trong đó: Q: số lượng hiện tượng

P: trọng số của điểm chấm

n: số lượng điểm chấm

Trường hợp sự phân bố về lượng của đối tượng ở các điểm khác nhau trên

lãnh thổ quá chênh lệch, biên độ giữa chúng quá lớn, không thể chọn một trọng số

chung cho tất cả các địa điểm được, thì có thể chọn vài ba cấp trọng số.

Cấp trọng số lớn dùng cho những địa điểm có số lượng lớn và các cấp trọng số

nhỏ hơn dùng cho những địa điểm có số lượng nhỏ.

- Phương pháp chấm điểm còn có khả năng biểu hiện chất lượng, cấu trúc và

động lực của đối tượng, hiện tượng.

Chất lượng của đối tượng thường được phản ánh qua màu sắc của điểm chấm

và hình thức điểm chấm thể hiện động lực của đối tượng.

Ví dụ: trên bản đồ dân số có tính đến cấu trúc dân số theo dân tộc và số dân ở

các thời điểm khác nhau có thể thể hiện các điểm chấm có màu sắc khác nhau và

hình thức điểm chấm khác nhau.

Mỗi màu đặc trưng cho một dân tộc và mỗi hình thức điểm chấm (hình tròn,

hình vuông...) đặc trưng cho một thời điểm. Số điểm chấm theo màu và hình thức

đó tương ứng với số dân của dân tộc và ở thời điểm biểu hiện. Trong trường hợp

này cần thể hiện kết hợp sao cho các đặc trưng của đối tượng cần biểu hiện (số

lượng, chất lượng, động lực) có thể dễ dàng nhận biết, nhưng không ảnh hưởng đến

đặc điểm (bản chất) của phương pháp chấm điểm và tính mĩ thuật của bản đồ.

Có 3 vấn đề cần giải quyết:

+ Trọng lượng điểm

+ Kích thước điểm

+ Cách bố trí các điểm

Về trọng lượng điểm: Thay đổi trọng lượng điểm sẽ thay đổi số lượng điểm

+ Trọng lượng điểm nhỏ sẽ tính được số điểm để thể hiện ở những khu vực

thưa thớt

+ Trọng lượng điểm to sẽ dễ thể hiện ở những khu vực dày đặc với ít số điểm

43

+ Như vậy cần có một sự thỏa hiệp

Về kích thước điểm: Các điểm phải đủ cách nhau để có thể đếm được số lượng

điểm

+ Kích thước điểm to sẽ khó bố trí ở những nơi dày đặc

+ Kích thước điểm nhỏ làm cho các điểm dường như cách xa nhau ngay cả ở

những nơi dày đặc.

+ Chọn kích thước điểm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu ứng bản đồ về độ mau

thưa.

Về cách bố trí điểm:

+ Bố trí theo sự phân bố thực tế

+ Bố trí không theo sự phân bố thực tế

+ Bố trí theo sơ đồ

Tóm lại, về phương pháp chấm điểm

- Thể hiện sự phân tán của hiện tượng trên một vùng (phân bố dân cư).

- Dùng cho các đối tượng dạng vùng

- Mỗi điểm (hay một ký hiệu) sẽ tương đương với một số lượng hiện tượng qui

ước. (trọng số)

- Không đòi hỏi sự chính xác về mặt địa lý, chỉ thể hiện sự phân bố về mặt số

lượng và sự phân bố của hiện tượng

- Có thể dùng màu sắc hay các loại ký hiệu điểm khác nhau để thể hiện chất

lượng và động lực của hiện tượng (vd: chấm đỏ: nam, chấm xanh: nữ)

3.4.3. Phương pháp vùng phân bố

Thuật ngữ “Vùng phân bố” bắt nguồn từ gốc La tinh “Area” có nghĩa là diện

tích, nên phương pháp vùng phân bố ở một số tài liệu còn được gọi là phương pháp

Khoanh diện tích hoặc phương pháp Diện tích giới hạn.

3.4.3.1. Phương pháp này thường được dùng để biểu hiện những đối tượng,

hiện tượng phân bố theo diện nhưng không đều khắp và liên tục trên lãnh thổ, mà

chỉ có ở từng vùng, từng diện tích riêng lẻ nhất định.

Vd: Thể hiện sự phân bố các loài động vật, thực vật cụ thể trên bản đồ Động

vật và địa thực vật, các vùng băng tuyết vĩnh cửu, các vùng băng hà cổ trên bản đồ

44

khí hậu, v.v... Ở các bản đồ KT-XH như: Các bản đồ sử dụng đất, sự phân bố đất

cày, đồng cỏ hoặc sự phân bố các cây trồng khác nhau, v.v...

Các đối tượng, hiện tượng được thể hiện trên bản đồ với phương pháp vùng

phân bố có thể là:

- Vùng tuyệt đối: Hiện tượng được biểu hiện chỉ phổ biến ở một khu vực,

không gặp lại ở khu vực khác

- Vùng tương đối: Hiện tượng được biểu hiện không chỉ phân bố ở một khu

vực nhất định mà còn có mặt ở những khu vực khác

- Vùng tập trung: Hiện tượng được biểu hiện có sự phân bố dày đặc, liên tục

trong khu vực

- Vùng phân tán: Hiện tượng biểu hiện không liên tục, xen kẽ hiện tượng khác.

Bản chất có tính nguyên tắc của phương pháp vùng phân bố là nêu lên sự phổ

biến của một đối tượng, hiện tượng riêng lẻ nhất định nào đó dường như tách hẳn

với các đối tượng, hiện tượng khác chung quanh. Sự tách rời đó được xác định bằng

những đường giới hạn.

Trong mỗi khu vực giới hạn đó, được thể hiện các màu hoặc nét chải khác

nhau đặc trưng cho các đối tượng.

Tuy nhiên, không phải đối tượng, hiện tượng nào cũng có thể xác định được

chính xác các đường ranh giới trên bản đồ.

3.4.3.2. Khả năng biểu hiện

- Biểu hiện được số lượng tương đối, (tuyệt đối nếu có ranh giới rõ ràng)

- Thể hiện được chất lượng: màu sắc hoặc kẻ vạch khác nhau

- Động lực: các ranh giới có ghi chú thời gian

- Cấu trúc: chia nhỏ vùng phân bố

3.4.4. Phương pháp nền chất lượng

3.4.4.1. Phương pháp nền chất lượng được dùng để đặc trưng sự khác nhau về

chất của các hiện tượng họa đồ giữa các bộ phận (vùng) của lãnh thổ.

Vd: Sự phân bố các loại nham thạch khác nhau trên bản đồ địa chất, các quần

thể thực vật khác nhau trên bản đồ thực vật, các loại đất khác nhau trên bản đồ thổ

nhưỡng, các vùng cư trú của các dân tộc khác nhau trên bản đồ dân cư - dân tộc, các

45

vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau trên bản đồ kinh tế, v.v...

3.4.3.2. Cách thể hiện:

Trên bản đồ được phân chia thành những vùng theo những dấu hiệu nhất định

nào đó và được giới hạn bởi những đường ranh giới cụ thể.

Mỗi vùng được thể hiện bằng một màu sắc khác nhau hoặc các nét chải khác

nhau và cũng có thể là các tiêu đề, các chữ số qui ước.

Thường sử dụng cho bản đồ về các điều kiện và hiện tượng tự nhiên, tài

nguyên thiên nhiên.

Chỉ dùng để biểu hiển các đối tượng phân bố liên tục

Lưu ý trong phương pháp nền chất lượng:

- Các ranh giới không được chồng lên nhau

- Không có phần để trống trên bản đồ

- Nếu dùng màu thì nên dùng nền màu nhạt

Khi thành lập bản đồ theo phương pháp nền chất lượng, điều quan trọng nhất

và thực hiện đầu tiên là khởi thảo sự phân loại hiện tượng biểu hiện. Tuỳ thuộc vào

đối tượng, hiện tượng biểu hiện mà lựa chọn sự phân loại khác nhau:

+ Phân loại theo một dấu hiệu phân loại nhất định

+ Phân loại tổng hợp: sự phân loại dựa trên sự phối hợp nhiều dấu hiệu khác

nhau.

- Ưu: Trực quan, có thể kết hợp với các phương pháp khác, đôi khi có thể sử

dụng 2 nền chất lượng trên cùng một bản đồ

- Khuyết: Không thể hiện số lượng

■ So sánh sự khác nhau giữa phương pháp vùng phân bố và phương pháp nền

chất lượng ?

Vùng phân bố Nền chất lượng

- Ranh giới có thể không rõ ràng - Ranh giới rõ ràng

- Có phần trống trên bản đồ - Không có phần trống trên bản đồ

- Các ranh giới có thể chồng lên - Các ranh giới không được chồng lên

nhau nhau

46

3.4.5. Phương pháp đường chuyển động

Phương pháp kí hiệu đường chuyển động là phương pháp được sử dụng để thể

hiện sự dịch chuyển (chuyển động) của các đối tượng, hiện tượng địa lý.

Các đối tượng, hiện tượng được biểu hiện có thể là các hiện tượng tự nhiên

(các dòng hải lưu, hướng di cư của các loài chim …), các hiện tượng kinh tế - xã hội

(như sự di dân, sự trao đổi hàng hoá...), các mối liên hệ chính trị - lịch sử và các

hướng tiến công trong các chiến dịch quân sự v.v…

3.4.5.1. Phương pháp kí hiệu đường chuyển động được sử dụng đối với mọi

đối tượng tồn tại dưới các dạng phân bố:

- Theo điểm (sự chuyển động của một con tàu)

- Theo đường (sự chuyển dịch của các front)

- Theo diện liên tục (sự di chuyển của các khối khí)

- Theo diện phân tán (sự di trú của các đàn gia súc chăn thả), v.v…

5.4.5.2. Phương pháp kí hiệu đường chuyển động có khả năng phản ánh mọi

đặc tính chuyển động của các đối tượng họa đồ như đường chuyển dịch, hướng

chuyển dịch, phương thức chuyển dịch, tốc độ chuyển dịch, cường độ chuyển dịch

và chất lượng, cấu trúc của các hiện tượng chuyển dịch.

Phương tiện chủ yếu của phương pháp kí hiệu đường chuyển động để biểu

hiện sự chuyển dịch của các đối tượng, hiện tượng họa đồ là các vectơ (mũi tên).

Thông qua hình thức của các vectơ có thể phản ánh hướng chuyển dịch, số

lượng, chất lượng và cấu trúc của các đối tượng, hiện tượng biểu hiện.

- Số lượng hiện tượng được thể hiện bằng chiều dài hoặc chiều rộng của các

vectơ.

- Chất lượng hiện tượng được thể hiện bằng màu sắc, hình dáng của vectơ

- Cấu trúc của hiện tượng được thể hiện theo các đoạn hoặc các dải trong

vectơ có tỉ lệ tương ứng với các thành phần của đối tượng.

3.4.6.Phương pháp kí hiệu dạng đường

3.4.6.1. Phương pháp kí hiệu đường là phương pháp biểu hiện có dạng đường,

được dùng để truyền đạt các đối tượng địa lý phân bố theo những đường nhất định,

chạy dài theo tuyến, mà chiều rộng của chúng khi thể hiện lên bản đồ không theo tỉ

47

lệ, ví dụ đường giao thông, sông ngòi, v.v... Cũng có thể phản ánh những đối tượng

mà theo cách hiểu hình học, chúng được xem như những đường. Ví dụ: các đường

chia nước, các đường đứt gãy kiến tạo, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, đường bờ

biển, ranh giới hành chính, v.v…

Đôi khi các kí hiệu đường cũng được dùng để nhấn mạnh những hướng của

các đối tượng phân bố theo diện nhưng có dạng chạy dài, ví dụ các hướng chủ yếu

của các dải núi, thường thấy trên các bản đồ sơn văn.

3.4.6.2. Phương pháp kí đường có khả năng phản ánh

- Đặc điểm hình dạng: Đối tượng phân bố theo đường có dạng ngoại hình rất

đa dạng, như các đường bờ biển, các sông ngòi tự nhiên. Bằng kí hiệu đường,

phương pháp kí hiệu đường vẫn có thể phản ánh trung thực những đặc điểm ấy. Ví

dụ các kiểu bờ biển có nguồn gốc hình thành khác nhau (bờ biển frio, bờ biển bồi

tụ…), sông ngòi tự nhiên với những công trình thuỷ lợi nhân tạo.v.v…

- Chất lượng: màu sắc hoặc hình dạng khác nhau

- Số lượng: chiều rộng của đường

- Động lực và cấu trúc: sự kết hợp của các kí hiệu đường các đường này đặc

trưng cho các thời điểm khác nhau.

3.4.7. Phương pháp đường đẳng trị

- Các đường đẳng trị (chữ Hilap “usos” có ý nghĩa bằng nhau, đồng nhất) là

những đường cong mềm mại nối các điểm có cùng một trị số số lượng trên bản đồ.

Các đường đẳng trị có tính cổ điển là các đường bình độ hoặc các đường đẳng

cao trên bản đồ địa hình.

Ngày nay chúng được sử dụng rộng rãi trong các bản đồ khí hậu, bản đồ từ

trường, bản đồ địa chấn…

- Các đường đẳng trị được sử dụng để biểu hiện những hiện tượng phân bố

liên tục, biến đổi về lượng dần dần trong không gian

- Để vẽ được các đường đẳng trị, trước hết, trên bản đồ phải xác định giá trị về

lượng của đối tượng ở những điểm xác định.

Về nguyên tắc, mật độ các điểm xác định này càng dày, tính xác thực của

đường bình độ càng cao và sự thể hiện càng dễ dàng. Sau đó tính nội suy để tìm các

48

đường có cùng giá trị và nối các điểm có cùng một trị số số lượng với nhau bằng

những đường cong mềm mại - đó là các đường đẳng trị.

Bản đồ được thể hiện bằng phương pháp đường đẳng trị bao giờ cũng gồm

một hệ thống các đường đẳng trị, vì thế vấn đề xác định biên độ (khoảng cách đều

về lượng) các đường đẳng trị là cực kì quan trọng, quyết định chất lượng bản đồ.

- Phương pháp các đường đẳng trị không trực tiếp biểu hiện chất lượng hiện

tượng, mà ẩn dưới đặc trưng số lượng. Có thể thông qua đặc trưng số lượng tìm

thấy đặc trưng chất lượng.

Ví dụ qua sự phân bố các đường đẳng nhiệt, đẳng mưa, biết được đđ khí hậu

của lãnh thổ.

- Để nâng cao tính trực quan và nhấn mạnh thêm các đặc trưng số lượng, trên

cơ sở các đường đẳng trị, có thể kết hợp thêm nền màu. Các nền màu khác nhau

giữa hệ thống các đường đẳng trị không những cho ta dễ nhận biết được đặc tính về

lượng của đối tượng mà thông qua đó còn nhận thức và phân biệt được đặc tính về

chất của đối tượng. các đường đẳng trị cũng có thể phản ánh động lực đối tượng

theo thời gian bằng sự sử dụng các đường đẳng trị có màu khác nhau. Ví dụ sự khác

nhau giữa các đường

- Phương pháp đẳng nhiệt, đẳng áp tháng Giêng và tháng Bảy, v.v...

Ưu điểm: Phương pháp các đường đẳng trị thể hiện đơn giản, trực quan và

không đòi hỏi những thuyết minh phức tạp trong phần chú giải, tiết kiệm diện tích

thể hiện trên bản đồ. Trên cùng một bản đồ có thể sử dụng đồng thời nhiều hệ thống

các đường đồng mức (phân biệt bằng màu) đặc trưng cho các đối tượng khác nhau

hoặc cũng có thể phối hợp với các phương pháp biểu hiện khác.

Ví dụ, trên bản đồ khí hậu, có thể đồng thời biểu hiện cả đặc trưng nhiệt độ,

lượng mưa, áp suất khí quyển, gió, v.v...

3.4.8. Phương pháp biểu đồ định vị

3.4.8.1. Phương pháp Biểu đồ định vị: là phương pháp dùng các biểu đồ đặt ở

những điểm đặc trưng nhất định trên bản đồ để phản ánh những hiện tượng phân bố

toàn bộ hoặc trên diện rộng nhưng có sự biến động theo mùa và có tính chất chu kì

như nhiệt độ, mưa, gió, v.v… nhằm nêu lên những đặc trưng như tiến trình, tần suất,

49

cường độ, xác suất của hiện tượng.

Ví dụ như tiến trình nhiệt độ không khí, lượng mưa các tháng trong năm,

hướng gió, tần suất và tốc độ gió, sự phân bố tổng lượng dòng chảy hàng năm của

sông ngòi, v.v...

3.4.8.2. Thể hiện các hiện tượng: phân bố liên tục hoặc trên toàn bộ mặt đất có

sự biến đổi theo chu kỳ và việc nghiên cứu chúng được tiến hành ở những điểm

nhất định như các hiện tượng trong khí quyển.

- Đặt biểu đồ thể hiện mối tương quan giữa các đặc trưng đo đạc hay tính chất

của hiện tượng muốn thể hiện vào vị trí của hiện tượng đó.

- Thường dùng cho đối tượng dạng điểm.

- Những hiện tượng phân bố liên tục hoặc bao phủ trên một diện tích rất lớn

và có sự biến đổi theo chu kì với những tần suất nhất định.

Ví dụ như các yếu tố khí tượng, mà khi nghiên cứu thường được tiến hành

theo những trạm quan trắc đặt trên các điểm đặc trưng, thì để biểu hiện chúng trên

bản đồ.

3.4.8.3. Các biểu đồ biểu thị sự biến động về lượng của các hiện tượng theo

thời gian, có thể được thể hiện với các hệ toạ độ và các dạng biểu đồ khác nhau.

Những hệ tọa độ được sử dụng tương đối phổ biến là hệ tọa độ Đề Các (hệ tọa độ

vuông góc) và hệ tọa độ cực với các dạng biểu đồ thường dùng như biểu đồ cột,

biểu đồ đường và biểu đồ kết hợp (cột và đường).v.v…

- Các biểu đồ “Hoa hồng” (dạng hoa) thường được dùng để biểu thị hướng

gió, tần suất, tốc độ gió diễn ra trong năm. Các biểu đồ “Hoa hồng” có thể được thể

hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thông thường là dạng tia xuất phát từ tâm: Hướng của tia chỉ hướng gió tính

theo phần trăm (%), độ dài của tia chỉ tần suất hướng gió, màu sắc các tia chỉ tốc độ

trung bình của hướng gió tính bằng m/giây và tâm hoa hồng chỉ thời gian lặng gió

(phần trăm).

Lưu ý: Về hình thức kí hiệu biểu đồ của phương pháp Biểu đồ định vị rất gần

gũi với các biểu đồ của phương pháp Bản đồ biểu đồ và các kí hiệu của phương

pháp kí hiệu điểm, vì thế rất dễ dẫn đến sự lầm lẫn.

50

Để phân biệt chúng, phải phân tích bản chất của phương pháp:

+ Phương pháp kí hiệu điểm thể hiện các đối tượng phân bố độc lập từng

điểm

+ Phương pháp Bản đồ biểu đồ thể hiện tổng lượng đối tượng theo các lãnh

thổ

+ Phương pháp Biểu đồ định vị phản ánh đặc điểm hiện tượng phân bố toàn

bộ hoặc trên diện rộng nhưng được đặc trưng ở những điểm nhất định.

3.4.9. Phương pháp bản đồ – biểu đồ (Cartodiagram)

- Trường hợp mà các tư liệu bản đồ chỉ đưa ra sự phân chia lãnh thổ (thường

là lãnh thổ hành chính), không định vị được từng vị trí phân bố của đối tượng và các

tài liệu đặc trưng cho đối tượng là các số liệu thống kê theo những lãnh thổ đó, hoặc

yêu cầu của bản đồ thành lập chỉ dừng ở mức nêu lên tổng lượng của đối tượng

trong mỗi đơn vị lãnh thổ, thì phương pháp biểu hiện được sử dụng phổ biến là phương pháp Bản đồ biểu đồ.

- Biểu hiện các đối tượng, hiện tượng họa đồ bằng cách đặt biểu đồ trong các

đơn vị phân chia lãnh thổ.

Mỗi đơn vị lãnthổ họa đồ được đặt một biểu đồ có giá trị tổng lượng theo số

lượng thống kê của đối tượng phân bố trong lãnh thổ đó.

- Nếu trong một đơn vị lãnh thổ, muốn biểu hiện nhiều đối tượng khác nhau,

có thể thể hiện nhiều biểu đồ khác nhau. Mỗi biểu đồ đặc trưng cho một đối tượng.

Vd: như tổng diện tích canh tác, tổng giá trị sản lượng, v.v…)

Điều này cho phép kết hợp biểu hiện được nhiều nội dung và xác lập các mối

tương quan số lượng của các đối tượng. Vì thế phương pháp này còn được gọi là

phương pháp Bản đồ thống kê. Phương pháp Bản đồ biểu đồ được sử dụng rộng rãi

đối với các bản đồ KT-XH - những đối tượng được nghiên cứu gắn liền với thống

kê.

- Khả năng:

Phương pháp Bản đồ biểu đồ có khả năng phản ánh được nhiều đặc tính của

đối tượng như số lượng, chất lượng, cấu trúc và động lực.

+ Mỗi biểu đồ được xem như một kí hiệu đặt trong một đơn vị lãnh thổ, các

51

đặc trưng của đối tượng được phản ánh qua biểu đồ.

+ Số lượng đối tượng được thể hiện theo kích thước biểu đồ. Kích thước này

có thể tính theo sự phụ thuộc theo đường, theo diện tích hoặc theo thể tích và theo

sự khả ước tuyệt đối hoặc tương đối, có thể là sự khả ước tuyệt đối liên tục và cũng

có thể là khả ước tuyệt đối theo thang bậc.

+ Cấu trúc và chất lượng hiện tượng được thể hiện qua các thành phần của

biểu đồ có tỉ lệ tương ứng với các thành phần của đối tượng bằng màu sắc khác

nhau.

+ Động lực hiện tượng được thể hiện bằng các biểu đồ đặt lồng lên nhau

(biểu đồ hình tròn, hình vuông) hoặc đặt cạnh nhau (biểu đồ hình cột) (xem lại phần

phương pháp kí hiệu điểm).

- Ưu điểm:

+ Thể hiện rõ ràng, dễ đọc, dễ so sánh.

+ Có thể kết hợp nhiều chỉ tiêu (nội dung) và xác lập các mối tương quan số

lượng của các đối tượng.

- Nhược điểm:

Khó kết hợp với các phương pháp khác.

* Lưu ý:

Khi thành lập bản đồ biểu đồ không được đặt biểu đồ chờm ra ngoài ranh giới

của lãnh thổ.

Phương pháp bản đồ biểu đồ và phương pháp kí hiệu điểm, về hình thức có

những điểm giống nhau.

Kí hiệu của phương pháp kí hiệu điểm và biểu đồ của phương pháp bản đồ

biểu đồ rất giống nhau về hình dạng cũng như cách thể hiện.

Phương pháp kí hiệu điểm Phương pháp Bản đồ biểu đồ

- Phân bố cụ thể theo điểm. - Biểu hiện tổng lượng của đối

- Mỗi đối tượng được đặc trưng tượng theo từng đơn vị lãnh thổ.

bằng một kí hiệu đặt đúng vị trí phân bố - Không thể hiện đến từng điểm

của chúng trên bản đồ. phân bố của đtượng, mà chỉ thể hiện sự

- Sự biểu hiện bản đồ không quan phân bố của đối tượng theo từng đơn vị

52

hệ trực tiếp đến sự phân chia lãnh thổ, lãnh thổ.

không nhất thiết phải có đường ranh giới - Phương pháp Bản đồ biểu đồ gắn

của các đơn vị lãnh thổ. liền với sự phân chia lãnh thổ, đến các

- Cơ sở của sự biểu hiện là các đơn vị lãnh thổ.

điểm phân bố cụ thể. - Cơ sở của sự biểu hiện là các đơn

vị lãnh thổ.

Bản đồ được thành lập bằng phương pháp Bản đồ biểu đồ có tính địa lý không

cao nhưng được sử dụng rất phổ biến, nhất là đối với các bản đồ KT-XH vì phương

pháp này có nhiều ưu thế.

- Tài liệu thành lập bản đồ không đòi hỏi cao và chi tiết. Tài liệu cơ bản là các

số liệu thống kê theo các đơn vị phân chia lãnh thổ (thường là đơn vị hành chính) và

bản đồ nền có sự phân chia lãnh thổ theo các đơn vị tương ứng.

- Sự thành lập bản đồ đơn giản, sử dụng bản đồ không phức tạp và dễ dàng so

sánh, đối chiếu sự phân hoá của đối tượng, hiện tượng theo các đơn vị lãnh thổ.

■ Quan sát trang bản đồ tài nguyên nước của các hệ thống sông, hãy cho biết

biểu đồ nào chưa được thể hiện một cách đúng nhất phương pháp bản đồ biểu đồ?

Tại sao? Đối với những lãnh thổ quá nhỏ, nên thể hiện biểu đồ như thế nào cho hợp

lý?

3.4.10. Phương pháp bản đồ đồ giải (Cartogram)

Phương pháp Bản đồ đồ giải là phương pháp được dùng để biểu hiện cường

độ trung bình (giá trị tương đối) của các đối tượng, hiện tượng địa lý theo các đơn vị lãnh thổ. Ví dụ mật độ dân số trên 1 km2, năng suất cây trồng trên 1 km2 đất canh

tác của xã, huyện, tỉnh, v.v…

- Thể hiện số lượng tương đối:

Các cường độ TB của đối tượng được biểu hiện trên các đơn vị lãnh thổ bản

đồ không theo sự biến thiên liên tục, mà được chia ra các nhóm, tạo thành các thang

cấp bậc. Mỗi thang cấp bậc được chọn một cường độ màu sắc hoặc nét chải.

Quan trọng nhất là hệ thống phân chia các đơn vị lãnh thổ và hệ thống thang

bậc sao cho hợp lý.

53

Tuy nhiên, nếu quá nhiều thang bậc thì sự phân biệt về màu sắc khó khăn, tính

rõ ràng của bản đồ bị hạn chế. Vì thế, phải tuỳ theo mục đích thành lập bản đồ và

đặc trưng các chỉ số tương đối của đối tượng mà chọn hệ thống các thang bậc thích

hợp.

Theo kinh nghiệm, một bản đồ không nên sử dụng quá 6 hoặc 7 thang bậc. Có

thể chọn biên độ thang theo cấp số cộng, cấp số nhân hoặc thang hỗn hợp.

Thang cấp số cộng (sử dụng khi cường độ các đối tượng thay đổi chậm với

biên độ không lớn) được tính theo nguyên tắc: a; a+b; a+b+b; ...

Ví dụ: nhỏ hơn 50

Từ 51 - 100

Từ 101 - 150

Từ 151 - 200,v.v…

Thang cấp số nhân (khi cường độ các đối tượng thay đổi nhanh với biên độ

lớn) được tính theo nguyên tắc: a; ak; ak2; ak3;

Ví dụ: nhỏ hơn 100

Từ 101 - 1000

Từ 1001 - 10.000

Từ 10001 - 100.000,v.v...

Thang hỗn hợp được tính tuỳ ý (khi cường độ các đối tượng biến đổi thất

thường, đột biến, phân tán).

- Ưu: Phương pháp Bản đồ mật độ sử dụng rất có hiệu quả trong việc nêu lên

những số lượng tương đối của các đối tượng, hiện tượng địa lý phân bố theo các

đơn vị lãnh thổ khác nhau.

Thành lập bản đồ tương đối đơn giản, dễ chế biến, xử lí số liệu và bản đồ có

tính trực quan cao. Tài liệu thành lập bản đồ dễ thu thập, chỉ cần có các số liệu

thống kê các đối tượng cần biểu hiện theo các đơn vị lãnh thổ và trên bản đồ nền có

sự phân chia lãnh thổ tương ứng. Vì thế phương pháp này được sử dụng rất phổ

biến ở cả các bản đồ địa lý tự nhiên và địa lý KT-XH.

- Nhược: Làm sai lệch sự phân bố thực tế

(khắc phục bằng cách chia nhỏ lãnh thổ)

54

■ Quan sát bản đồ và cho biết: cách nhận biết nhanh một bản đồ thể hiện

bằng phương pháp bản đồ đồ giải khác phương pháp nền chất lượng cơ bản ở chỗ

nào?

Lưu ý: Một đối tượng, hiện tượng có thể được thể hiện bằng nhiều phương

pháp biểu hiện bản đồ khác nhau.

3.5. Phối hợp các phương pháp biểu hiện khi biên vẽ bản đồ

Qua sự phân tích các phương pháp biểu hiện bản đồ như đã trình bày, ta thấy

các phương pháp biểu hiện bản đồ có những đặc điểm bản chất khác nhau, khả năng

đặc trưng đối với các loại đối tượng, hiện tượng họa đồ khác nhau, những yêu cầu

về các điều kiện thành lập (nguồn tư liệu) và sự thể hiện khác nhau.

Vì thế khi vận dụng các phương pháp biểu hiện trong thành lập bản đồ, phải

căn cứ vào nhiều yếu tố: đặc điểm của đối tượng, hiện tượng họa đồ, mức độ chi tiết

và phong phú của các nguồn tài liệu có quan hệ với nội dung bản đồ, mục đích-yêu

cầu của bản đồ thành lập và đặc điểm bản chất của phương pháp biểu hiện.

- Cần phải hiểu rằng, không phải một phương pháp biểu hiện chỉ biểu hiện đối

với một đối tượng, hiện tượng nhất định, mà có thể được vận dụng biểu hiện đối với

nhiều đối tượng, hiện tượng và ngược lại một đối tượng, hiện tượng có thể được

biểu hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau.

- Trong thực tế thành lập bản đồ, ở từng trường hợp cụ thể, có thể sử dụng và

phối hợp các phương pháp biểu hiện khác nhau trên mỗi bản đồ cụ thể, để biểu hiện

các đối tượng, hiện tượng.

Cụ thể là:

- Để truyền đạt một đối tượng, hiện tượng, có thể sử dụng những phương pháp

biểu hiện khác nhau.

- Để truyền đạt một đối tượng, hiện tượng có thể cùng sử dụng nhiều phương

pháp biểu hiện để nêu lên nhiều đặc trưng của hiện tượng.

- Để truyền đạt một số đối tượng, hiện tượng khác nhau, có thể sử dụng cùng

một phương pháp.

- Để truyền đạt nhiều đối tượng, hiện tượng trên bản đồ có thể sử dụng phối

hợp nhiều phương pháp biểu hiện khác nhau.

55

Vì thế, sử dụng phối hợp các phương pháp biểu hiện bản đồ không thể thực

hiện tuỳ ý, phải dựa trên cơ sở bản chất của phương pháp biểu hiện và đặc điểm đối

tượng, hiện tượng được biểu hiện, đồng thời lựa chọn hệ thống ngôn ngữ bản đồ

một cách khoa học.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III

1. Khái niệm ngôn ngữ bản đồ? Ý nghĩa của ngôn ngữ bản đồ và những

đặc trưng cơ bản của ký hiệu bản đồ?

2. Những nguyên tắc cơ bản trong sự thể hiện ngôn ngữ bản đồ trên bản

đồ địa lý?

3. Tại sao sự biểu hiện các đối tượng, hiện tượng địa lý trên bản đồ phải

vận dụng nhiều pp biểu hiện khác nhau? Những phương pháp biểu hiện được sử

dụng phổ biến là những phương pháp biểu hiện nào? Đối tượng của chúng?

4. Trong các phương pháp biểu hiện bản đồ, những phương pháp có hình

thức thể hiện tương đối giống nhau? Cơ sở phân biệt chúng? Những phương

pháp biểu hiện nào có thể chuyển đổi hoặc kết hợp được với nhau?

5. Sự vận dụng phương páp biểu hiện bản đồ dựa trên những cơ sở nào?

Nêu một số trường hợp vận dụng và phối hợp phương pháp biểu hiện bản đồ

trong thành lập các bản đồ địa lý?

6. Ý nghĩa của chữ viết trên bản đồ và việc sử dụng chúng?

56

Chương 4. TỔNG QUÁT HÓA BẢN ĐỒ

Mục tiêu:

- Hiểu được khái niệm tổng quát hóa

- Hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến tổng quát hóa, quá trình tổng quát hóa.

4.1. Khái niệm

Bản chất của tổng quát hóa bản đồ là sự lựa chọn cái thực chất, cái chủ yếu, là

sự tổng quát hóa không gian và tổng quát hóa nội dung của các đối tượng địa lý.

D.D. Gorski, V.A. Shtoph, K.Bakradze, S.B.Certeli, và nhiều tác giả cho rằng:

Bên cạnh tổng quát hóa bản đồ còn có cả trừu tượng hóa.

Như vậy, mỗi sự tổng quát hoá đều bao hàm trong nó cả qúa trình trừu tượng

hoá.

Tổng quát hoá - trừu tượng hóa bản đồ là dạng trừu tượng hoá logic - đồ họa

và tư duy cảm tính. Nó nằm trong cái riêng, cái cá biệt. Nhưng trong mỗi cái riêng

thể hiện dưới dạng tổng quát - trừu tượng những dấu hiệu chung, thực chất, tiêu

biểu và có tính quy luật. Không gian được trừu tượng hóa trong bản đồ biểu hiện sự

thống nhất đặc trưng giữa cái riêng và cái chung. Cái riêng về không gian trong sự

thống nhất với cái chung về nội dung trong biểu hiện bản đồ đạt được bởi “trạng

thái” ký hiệu được “nhồi nhân” ý nghĩa nội dung.

Như vậy, không gian của các đối tượng được biểu thị trong bản đồ luôn luôn

được trừu tượng hóa, còn nội dung thì luôn luôn được tổng quát hoá.

4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tổng quát hóa bản đồ

4.2.1. Mục đích sử dụng

Trong các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình tổng quát hoá phải kể

đến nhân tố mục đích. Hai bản đồ có cùng nội dung nhưng mục đích sử dụng khác

nhau sẽ khác nhau về mức độ tổng quát hoá

Bản đồ giáo khoa được tổng quát hoá rất cao phù hợp với chương trình học tập

của sinh viên. Trong khi bản đồ dùng để nghiên cứu đòi hỏi phản ảnh chi tiết đối

tượng và đảm bảo tính rõ ràng của bản đồ

Vd: Bản đồ hệ thống sông ngòi dùng để giảng dạy thì chỉ cần nêu lên sự phân

57

bố không gian mạn lưới sông ngòi. Ngược lại, bản đồ dùng để nghiên cứu phải nêu

được lưu vực sông, đặc tính của sông dưới ảnh hưởng địa hình.

Tóm lại do mục đích sử dụng khác nhau nên nội dung bản đồ khác nhau. Nội

dung được lựa chọn nhiều hay ít, chi tiết hay đơn giản phụ thuộc vào mức độ tổng

quát hoá ít hay nhiều, phù hợp với mục đích sử dụng đó.

4.2.2. Chủ đề của bản đồ

Sự lựa chọn các đối tượng thể hiện trên bản đồ phải phù hợp với chủ đề bản

đồ.

Vd: Bản đồ giao thông có các yếu tố về giao thông như đường bộ, đường thuỷ,

đường hàng không ... được ưu tiên thể hiện, những yếu tố không liên quan đến chủ

đề thì bị loại bỏ hoặc chỉ thể hiện ở mức độ cần thiết để làm nổi rõ nội dung chính

mà thôi.

4.2.3. Tỷ lệ của bản đồ

Tỷ lệ bản đồ ảnh hưởng thuần tuý về mặt hình học đối với quá trình tổng quát

hoá, tỷ lệ bản đồ càng nhỏ thì khoảng rộng để biểu hiện các kí hiệu càng nhỏ nên

đòi hỏi mức độ tổng quát hoá càng cao, nghĩa là không biểu hiện khía cạnh chi tiết

các đối tượng. Ngược lại bản đồ tỷ lệ lớn đòi hỏi nên chi tiết đối tượng nên mức độ

tổng quát hoá thấp hơn. Ta thấy rằng tỷ lệ bản đồ ảnh hưởng trực tiếp tới nội dung,

phương pháp biểu hiện và mức độ tổng quát hoá đối tượng.

4.2.4. Đặc thù địa phương

Mức độ tổng quát hoá đối tượng không những phải căn cứ vào những đặc

điểm riêng biệt của đối tượng mà còn ưu tiên biểu hiện những đối tượng đó để nói

lên những đặc điểm địa phương.

Vd: con đường mòn miền núi phải được thể hiện và có thể còn cường điệu lên

vì nó có ý nghĩa lớn đối với miền núi.

4.2.5. Tài liệu tư liệu

Đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tổng quát hoá. Các tài liệu tư liệu

càng chi tiết, đầy đủ bao nhiêu càng tạo sự thuận lợi cho quá trình tổng quát hoá bấy

nhiêu. Hơn nữa có thể thông qua các tài liệu đó để xét bản chất của đối tượng

Vd: Trên bản đồ dân cư, tài liệu đầy đủ cho phép ta vạch được sự phân bố cụ

58

thể của từng điểm dân cư và xu hướng phát triển của chúng

Nguồn tài liệu tư liệu thành lập bản đồ càng mới, càng hiện đại, càng phù hợp

với xu hướng phát triển của KHKT hiện nay thì bản đồ càng trở thành công cụ đắc

lực trong việc tích luỹ và truyền đạt thông tin hiện đại nhất.

4.2.6. Phương pháp biểu hiện

Vì mỗi phương pháp biểu hiện bản đồ đều có đặc tính riêng nên chúng đòi hỏi

mức độ tổng quát hoá nhất định

Vd: Phương pháp kí hiệu qua quá trình tổng quát hoá vẫn giữ được độ chính

xác chi tiết. Ngược lại phương pháp đường đồng cao, qua quá trình tổng quát hoá

không thể giữ được mức độ chi tiết

4.3. Quá trình tổng quát hóa bản đồ

4.3.1. Chọn lọc các đối tượng lập bản đồ

Vì thành lập bản đồ là xây dựng mô hình thực tế khách quan của một vài đối

tượng, hiện tượng liên quan đến nội dung. Nên theo yêu cầu của nội dung bản đồ,

lựa chọn các đối tượng hiện tượng cần phải phù hợp với nội dung, loại bỏ những đối

tượng không cần thiết. Những hiện tượng chọn lọc phải: liên quan đến nội dung,

phù hợp với nhiệm vụ đề tài, với tỷ lệ bản đồ và phù hợp với đặc điểm địa lý lãnh

thổ

Vd: Trên bản đồ giao thông vận tải thì các yếu tố về thổ nhưỡng, thực vật,

địa chất khí hậu... là không cần thiết.

4.3.2. Tổng quát hoá các đặc trưng số lượng

Là quá trình chuyển từ thang liên tục sang thang bậc và tăng dần khoảng cách

giữa các bậc.

Vd: Trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1:1.000.000 thì thang tầng độ cao là 0-50-100-

150-200-300... còn trên bản đồ 1:5.000.000 là 0-200-500-1000-2000 ...

Tỷ lệ càng nhỏ thì khoảng cao đều giữa các tầng địa hình càng tăng.

4.3.3. Tổng quát hoá các đặc trưng chất lượng

Nhằm giảm bớt sự khác nhau về chất giữa các mặt nào đó của đối tượng

Vd: Trên bản đồ phân bố nông nghiệp 1:500.000 thể hiện chi tiết sự phân bố các

loại đất: đất trồng lúa, khoai, sắn, ngô... Trên bản đồ 1:1.000.000 thì 3 loại đất trên

59

gọi chung là đất trồng cấy lương thực.

4.3.4. Tổng quát hoá về mặt hình học

Khi thu nhỏ các đối tượng lại thì đường nét của chúng phải được đơn giản hoá,

nhưng vẫn có thể giữ được đặc điểm của các đường ngoại hình.

4.3.5. Tổng quát hoá tập hợp đối tượng

Là thay đổi những đối tượng riêng biệt (đảo nhỏ, đồi, gò...) bằng các kí hiệu

tập hợp đối tượng, kí hiệu này phải nêu rõ hướng phân bố, dáng phân bố và mối

quan hệ giữa các đối tượng

Vd: Trên bản đồ tỷ lệ lớn (1:25.000) thể hiện từng khu nhà, bản đồ tỷ lệ nhỏ

(1:50.000) thể hiện từng khu phố, đường phố. Tỷ lệ nhỏ hơn (1:100.000) thể hiện

đường ngoại hình của các thành phố, tỷ lệ nhỏ hơn nữa (1:1.000.000) dân cư được

biểu hiện bằng một chấm tròn (phương pháp kí hiệu)

Hình 4. Tổng quát hóa số lượng

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG V

1. Tổng quát hóa bản đồ là gì?

2. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự tổng quát hóa bản đồ?

3. Trình bày quá trình tổng quát hóa trên bản đồ.

60

Chương 5. PHÂN LOẠI BẢN ĐỒ

Mục tiêu:

- Nắm được các nguyên tắc phân loại bản đồ

- Biết cách phân loại bản đồ dùng trong nhà trường

5.1. Ý nghĩa và nguyên tắc phân loại bản đồ

Sự phân chia hệ thống bản đồ địa lí theo nhóm dựa trên những dấu hiệu nhất

định gọi là sự phân loại bản đồ.

5.1.1. Phân loại khoa học các bản đồ địa lí nhằm

- Nghiên cứu và xác định quy luật, xác định đặc điểm của các bản đồ riêng

biệt

- Tìm cách phản ánh trong các tác phẩm bản đồ và tổ chức xuất bản bản đồ.

- Lập danh mục bản đồ và sắp xếp có hệ thống ở nơi lưu giữ bản đồ

5.1.2. Nguyên tắc phân loại

Sự phân loại khoa học bản đồ cần phải thoả mãn các yêu cầu lôgíc sau:

- Đảm bảo tính liên tục khi chuyển từ khái niệm chung (lớp) sang khái niệm

riêng (loại, kiểu), nghĩa là tuần tự phân chia khái niệm rộng sang khái niệm hẹp

hơn.

Vd: tất các bản đồ địa lí được phân ra bản đồ địa lý chung và bản đồ chuyên

đề.

- Đảm bảo tính nhất quán trong quá trình phân loại.

Mỗi cấp phân loại cần sử dụng một dấu hiệu nhất định (cơ sở phân loại).

Vd: Bản đồ địa lí chung được phân ra bản đồ khái quát, bản đồ địa hình khái

quát, bản đồ địa hình và bản đồ giáo khoa. Việc làm này là không đúng, vì trong

phân loại đã sử dụng đồng thời hai dấu hiệu phân loại: theo tỉ lệ và theo mục đích.

- Khi phân chia khái niệm rộng ra các khái niệm hẹp hơn, tổng các khái niệm

hẹp phải tương đương với dung lượng của khái niệm rộng.

Vd: Phân chia bản đồ địa chất ra 2 nhóm: bản đồ địa tầng và bản đồ kiến tạo là

chưa đầy đủ. Bởi vì 2 nhóm này không bao trùm toàn bộ các bản đồ địa chất. Trong

số các bản đồ địa chất còn có bản đồ trầm tích đệ tứ, bản đồ khoáng sản có ích…

61

5.2. Các hệ thống phân loại bản đồ chủ yếu

5.2.1. Phân loại bản đồ theo phạm vi lãnh thổ biểu hiện

Bản đồ TG, bản đồ bán cầu, bản đồ lục dịa, đại dương, bản đồ khu vưc, quốc

gia, vùng, miền…

5.2.2.Phân loại bản đồ theo nội dung biểu hiện

Nếu dựa vào tính chất của nội dung, thì tất cả các bản đồ địa lí có thể được

phân thành hai nhóm lớn: Bản đồ địa lí chung và bản đồ chuyên đề.

Nhóm bản đồ địa lí chung thể hiện những đối tượng tự nhiên, kinh tế, văn hoá,

xã hội có trên bề mặt Trái Đất. Những đối tượng đó là thuỷ hệ, địa hình, đất, thực

vật, quần cư, kinh tế, văn hoá, ranh giới hành chính - chính trị. Những đối tượng

này được biểu hiện trên bản đồ bằng các dấu hiệu bề ngoài, biểu hiện một cách

đồng đều, không ưu tiên đối tượng nào.

5.2.3. Phân loại bản đồ theo tỷ lệ bản đồ

Là sự phân loại căn cứ vào mức độ thu nhỏ của bản đồ so với thực tế, cùng

đồng nghĩa với mức độ tổng quát hoá. Theo dấu hiệu tỉ lệ, các bản đồ được phân

thành ba loại:

- Bản đồ tỉ lệ lớn (tỉ lệ lớn hơn 1/.200 .000)

- Bản đồ tỉ lệ trung bình (tỉ lệ từ 1/ 200.000 – 1/1.000.000)

- Bản đồ tỉ lệ nhỏ (tỉ lệ nhỏ hơn 1/ 1000.000)

5.2.4. Phân loại bản đồ theo mục đích

Nhằm phục vụ các đối tượng sử dụng bản đồ khác nhau, giải quyết những

nhiệm vụ nhất định.

Do đối tượng sử dụng ngày càng rộng rãi và lĩnh vức sử dụng bản đồ ngày

càng đa dạng, hiện nay chưa có một sơ đồ phân loại bản đồ theo mục đích nào đầy

đủ và được thống nhất thừa nhận, tuy nhiên về cơ bản có thể phân ra một số loại

chính sau đây:

- Những bản đồ phục vụ các nhu cầu khoa học, giáo dục, văn hoá.

- Những bản đồ phục vụ nền kinh tế quốc dân.

- Những bản đồ phục vụ quốc phòng, kỹ thuật.

62

5.3. Tập bản đồ địa lý (Atlas) và hướng dẫn khai thác tập bản đồ

Tập bản đồ là một hệ thống các bản đồ có sự liên hệ với nhau một cách hữu cơ

và bổ sung cho nhau, được thành lập theo những chủ định và mục đích sử dụng nhất

định. Các bản đồ trong tầp bản đồ được xây dựng theo một chương trình chung như

một tác phẩm hoàn chỉnh.

Hiện nay, nhiều tập bản đồ đã được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích

khác nhau, với những chủ đề khác nhau, với quy mô lãnh thổ khác nhau và kích cỡ

khác nhau. Vì thế các tập bản đồ cũng được phân loại để bảo đảm cho sự thành lập

và sử dụng một cách khoa học và thuận tiện.

5.3.1 Tính hoàn chỉnh

Tính hoàn chỉnh là phẩm cơ bản và quan trọng nhất của một tập bản đồ địa lí,

được quy định bởi sự thống nhất đầy đủ bên trong của tập bản đồ. Một tập bản đồ

được coi là hoàn chỉnh, đẩy đủ khi các bản đồ trong tập bản đồ phản ánh tới mức

cần thiết và giải thích được đầy đủ tất cả các vấn đề thuộc về phạm vi đề mục theo

mục đích của tập bản đồ.

5.3.2 Tính thống nhất

Tập bản đồ là một tác phẩm bản đồ. Các bản đồ trong tập bản đồ phải bảo đảm

được sự bổ sung, sự phù hợp và sự so sánh. Tập bản đồ không phải là một tập hợp

các bản đồ được sắp xếp một cách cơ giới. Vì thế, tập bản đồ phải đảm bảo sự thống

nhất bên trong của tập bản đồ về nguyên tắc biểu hiện, về cấu trúc và nhiều yếu tố

khác nữa.

Tính thống nhất được biểu hiện qua

- Cơ sở toán học của bản đồ là sự lựa chọnhợp lí các phép chiếu hình bản đồ.

Nên lựa chọn ít phép chiếu trong một tập bản đồ trên cùng một lãnh thổ. Tuy nhiên,

các bản đồ được sử dụng chung một phép chiếu chỉ giới hạn ở một tỉ lệ nhất định và

các tỉ lệ có thể dễ dàng thiết lập mối quan hệ với nhau (các tỉ lệ là bội số của nhau).

- Phương pháp biểu hiện và kí hiệu bản đồ. Bảo đảm tính thống nhất của các

phương pháp biểu hiện và các chỉ số thu nạp, sự tương đồng của các kí hiệu trên các

bản đồ.

- Tổng quát hoá đối tượng thống nhất về phương hướng

63

- Sự ứng hợp của nội dung bản đồ với những thời kì nhất định.

- Cấu trúc lôgíc, bố trí các bản đồ trong tập bản đồ đảm bảo tính liên tục, hệ

thống.

Hiện nay, nhiều tập bản đồ được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích khác

nhau, với những chủ đề khác nhau, với quy mô lãnh thổ khác nhau và kích cỡ khác

nhau. Vì thế các tập bản đồ cũng được phân loại để đảm bảo cho sự thành lập và sử

dụng các tập bản đồ một cách khoa học và thuận tiện.

Cụ thể sự phân loại các tập bản đồ như sau:

5.3.2.1. Phân loại theo lãnh thổ:

Với sự phân loại này, các tập bản đồ được phân thành:

- Các tập bản đồ thế giới, biểu hiện những hiện tượng, đối tượng địa lí trên

toàn hành tinh và các châu lục.

- Các tập bản đồ quốc gia, phản ánh những đặc điểm địa lý của đất nước. Ví

dụ: Tập bản đồ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Các tập bản đồ khu vực (có thể là vùng hoặc tỉnh) trình bày những đặc điểm

địa lí của các bộ phận lãnh thổ của quốc gia, như tập bản đồ Tây Nguyên, tập bản

đồ tỉnh Lai Châu.

5.3.2.2. Theo nội dung (chủ đề)

- Tập bản đồ địa lý đại cương, phản ảnh những đặc điểm địa lí chung, thường

gặp là tập bản đồ địa lý đại cương thế giới (tập bản đồ tra cứu thế giới của Liên Xô -

1967).

- Các tập bản đồ địa lý tự nhiên, biểu hiện những đặc điểm địa lý tự nhiên

chung hoặc địa lí tự nhiên bộ phận, như các tập bản đồ khí hậu, tập bản đồ địa lý

động thực vật…

- Các tập bản đồ kinh tế – xã hội, có thể là tập bản đồ chung nền kinh tế quốc

dân hoặc từng ngành kinh tế – xã hội, như tập bản đồ dân cư, tập bản đồ nông

nghiệp.

- Các tập bản đồ địa lý tổng hợp, phản ảnh toàn bộ các đặc điểm địa lí lãnh thổ

bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và kinh tế – xã hội - chính trị (tập bản đồ quốc

gia của các nước).

64

5.3.2.3. Theo mục đích

Theo dấu hiệu phân loại này, có các tập bản đồ giáo khoa, tập bản đồ nghiên

cứu khoa học, tập bản đồ lịch sử, tập bản đồ du lịch, tập bản đồ quốc phòng v.v.

5.3.2.4. Theo khuôn khổ, kích thước

- Căn cứ vào khuôn khổ, kích thước của tập bản đồ chia ra:

- Các tập bản đồ lớn (đại Atlat), kích thước khoảng 60cm x 45cm (tập bản đồ

biển của Liên Xô; tập bản đồ quốc gia Việt Nam)

- Các tập bản đồ cỡ trung bình, kích thước khoảng 40cm x 25 cm

- Các tập bản đồ cỡ nhỏ (tiểu Atlat).

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 5

1. Ý nghĩa và nguyên tắc của sự phân loại bản đồ địa lý?

2. Phân tích mục đích, ý nghĩa và nội dung của các hệ thống phân loại bản

đồ địa lý?

65

Chương 6. BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP

SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH

Mục tiêu:

- Nắm được các đặc điểm của bản đồ địa hình

- Biết cách sử dụng bản đồ trong phòng và ngoài thực địa.

6.1. Khái quát chung về bản đồ địa hình

6.1.1. Khái niệm bản đồ địa hình

Bản đồ địa hình thuộc bản đồ địa l í chung có tỷ lệ lớn (≥ 1:100.000)

Bản đồ địa hình thể hiện chính xác, đầy đủ các đối tượng. Thể hiện đồng đều các

yếu tố địa hình, TN, KTXH. Mức độ tỉ mỉ của nội dung phải phù hợp với mục đích

sử dụng, tỉ lệ bản đồ và khu vực thành lập bản đồ.

Bản đồ địa hình được dùng trong các ngành KT khác nhau, trong quân sự quốc

phòng, trong qui hoạch, khảo sát thiết kế, trong giảng dạy học tập và dùng để thành

lập những bản đồ đồ có tỷ lệ nhỏ hơn.

6.1.2. Cơ sở toán học bản đồ địa hình

Bao gồm các yếu tố: tỷ lệ, hệ thống tọa độ, phép chiếu, phân mảnh…

Tỷ lệ: Bản đồ địa hình được thành lập theo các tỉ lệ 1:2.000, 1:5.000, 1:10.000,

1:25.000, 1:50.000 và 1:100.000

Phép chiếu Gauss và UTM: Ở nước ta những bản đồ có tỷ lệ ≥ 1:500.000 được thành lập theo phép chiếu Gauss hoặc UTM. Sử dụng múi chiếu 60 đối với những bản đồ có tỷ lệ ≤ 1:10.000, múi chiếu 30 đối với những bản đồ có tỷ lệ >1:10.000

Lưới chiếu: Trong phép chiếu Gauss các kinh vĩ tuyến là những đường cong

nhưng độ cong của các đường kinh tuyến rất nhỏ nên hầu như được thể hiện là

đường thẳng ở các tỷ lệ. Đối với đường vĩ tuyến, ở bản đồ có tỷ lệ £ 1:100.000 thì

được thể hiện là đường cong, còn những tỷ lệ lớn hơn được biểu hiện bằng đường

thẳng.

Trên bản đồ ≤ 1:500.000 các đường kinh vĩ tuyến được vẽ trên bản đồ. Những

bản đồ có tỷ lệ lớn hơn các kinh vĩ tuyến được đánh dấu dọc theo khung bản đồ,

trên bản đồ thể hiện mạng lưới các đường tọa độ vuông góc (X,Y), gọi là lưới km.

66

Chia mảnh và danh pháp bản đồ: Bản đồ địa hình có tỷ lệ lớn nên muốn

thành lập bản đồ cho một khu vực rộng lớn cần phải có nhiều mảnh, khi cần ta ghép

chúng lại với nhau. Mỗi mảnh bản đồ có tên gọi tương ứng (danh pháp bản đồ)

trong hệ thống phận mảnh. Bao giờ cũng có sự tướng ứng giữa danh pháp bản đồ,

diện tích khu vực, giới hạn khung của bản đồ trong hệ thống. Mỗi phép chiếu Gauss

hay UTM đều có cách phân mảnh riêng.

6.1.3. Phương pháp biểu diễn các đối tượng trên bản đồ địa hình

6.1.3.1. Phương pháp đường bình độ

- Đường bình độ là đường nối liền các điểm có cùng độ cao tạo thành đường

cong khép kín.

- Các đường bình độ có những tính chất căn bản:

+ Các đường bình độ không bao giờ cắt nhau vì chúng song song với nhau.

Mỗi đường mang 1 đặc tính số lượng về độ cao.

+ Các đường bình độ bao nhau thì đặc tính số lượng tăng hay giảm dần.

+ Các đường bình độ bao nhau mà số hiệu bằng nhau thì hướng dóc luôn

ngược nhau.

Các đường bình độ đối xứng nhau thì có độ cao bằng nhau. Địa hình âm có độ

cao tăng từ trong ra ngoài địa hình dương có độ cao tăng từ ngoài vào trong.

+ Các đường bình độ cách đều nhau theo chiều cao, khoảng cách giữa chúng

trên bản đồ đặc trưng cho độ dốc của sườn. Độ dốc bằng nhau thì khoảng cách giữa

các đường bình độ bằng nhau, sườn thoải thì các đường bình độ thưa, sườn dốc thì

các đường bình độ dày.

Trên bản đồ những đường vuông góc với các đường bình độ nối liền những

điểm độ cao phân chia nước xuống hai phía là các đường phân thủy. Đường tụ nước

chính là đường trục của vùng trũng sâu và vuông góc với các đường bình độ.

Các đường bình độ thường cách nhau bằng độ cao đều đặn gọi là khoảng cao

đều. Mỗi loại bản đồ có tỉ lệ khách nhau thì khoảng cao đều khác nhau. Khoảng cao

đều được quy định đối với từng kiểu địa hình và theo tỉ lệ.

Các đường bình độ vẽ theo các điểm cao đều cơ bản đã quy định theo tỉ lệ gọi

là các đường bình độ cơ bản (bình độ con) được vẽ theo nét thường. Đường bình độ

67

vẽ nét đậm thường cứ 5 đường bình độ cơ bản lại vẽ 1 đường bình độ nét đậm gọi là

đường bình độ cái.

Như vậy phương pháp thể hiện địa hình bằng đường bình độ là một trong

những phương pháp tốt nhất với các ưu điểm đảm bảo độ chính xác cao giúp ta dễ

dàng tính độ cao độ đốc các điểm trên đường bình độ hay nằm giữa các đường

đường bình độ.

Thể hiện chi tiết các điểm địa hình nhưng không làm che lấp các yếu tố khác

Hình dạng các đường bình độ phản ánh trung thực hình dạng địa hình thực địa

Nhược điểm: Phương pháp này chỉ biểu hiện được các địa hình biến thiên liên tục,

trường hợp đột biến không thể thể hiện được như núi đá vôi.

Nếu độ dốc trên 40 độ thì khó biểu hiện được các đường bình độ vì khoảng

cách giữa haiđường bình độ giáp nhau rất nhỏ khi in dễ bị chập vào nhau và khó

đọc

6.1.3.2. Phương pháp phân tầng màu

Là phương pháp thể hiện địa hình bằng các đường bình độ có tô màu các các

tầng độ cao.

6.1.3.3. Phương pháp nét chải (kẻ gạch)

Dùng các đường bình độ làm cắn cứ để vẽ các nét gạch thể hiện các đường

dóc nhất giữa các đường bình độ. Độ mau thưa của các nét chải chỉ rõ độ dốc nhiều

hay ít, dốc nhiều thì nét chải mau, dốc ít thì nét chải thưa.

- Nội dung bản đồ địa hình

Các yếu tố nội dung bản đồ địa hình được chia thành 7 nhóm lớp theo 7

chuyên đề là: Cơ sở toán học, Thủy hệ, Địa hình, Dân cư, Giao thông, Ranh giới và

Thực vật.

- Nhóm lớp "Cơ sở toán học" bao gồm khung bản đồ, lưới km, các điểm

khống chế trắc địa, giải thích, trình bày ngoài khung và các nội dung có liên quan.

- Nhóm lớp "Dân cư" bao gồm nội dung dân cư và các đối tượng kinh tế, văn

hoá, xã hội.

- Nhóm lớp "Địa hình" bao gồm các yếu tố dáng đất, chất đất, các điểm độ

cao.

68

- Nhóm lớp "Thủy hệ" bao gồm các yếu tố thủy văn và các đối tượng liên

quan.

- Nhóm lớp "Giao thông" bao gồm các yếu tố giao thông và các thiết bị phụ

thuộc.

- Nhóm lớp "Ranh giới" bao gồm đường biên giới, mốc biên giới; địa giới

hành chính các cấp; ranh giới khu cấm; ranh giới sử dụng đất.

- Nhóm lớp "Thực vật" bao gồm ranh giới và các loại thực phủ trên bề mặt địa

hình.

6.2. Phương pháp sử dụng bản đồ địa hình

6.2.1. Đọc hiểu nội dung bản đồ địa hình

Bản đồ địa hình có nội dung phong phú, chi tiết, có độ chính xác cao nên được

sử dụng rộng rãi trong thực tiễn. Việc đọc hiểu nội dung bản đồ là rất cần thiết, giúp

ta tìm hiểu nét chung về lãnh thổ (đặc điểm , vị trí, phân bố của hiện tượng…) Đọc

kỹ bản đồ để nhận biết được đối tượng ngoài thực địa.

6.2.2. Tính toán trên bản đồ địa hình

- Xác định tọa độ địa lý và tọa độ ô vuông

- Đo tính cao độ trên bản đồ

- Đo tính khoảng cách trên bản đồ

- Đo tính độ dốc

- Đo tính diện tích trên bản đồ

- Xác định diện tích lưu vực

- Xác địn đường lên núi theo một độ dốc nhất định

- Vẽ lát cắt địa hình

6.2.3. Sử dụng bản đồ địa hình ngoài thực địa

- Đặt bản đồ phù hợp với ngoài thực địa

+ Phương pháp sử dụng la bàn

+ Phương pháp không sử dụng la bàn

- Xác định vị trí quan sát thực địa trên bản đồ

+ Dựa vào những địa vật đặc biệt

+ Phương pháp ngắm 3 điểm

69

Chương 7. THÀNH LẬP VÀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ

DÙNG TRONG NHÀ TRƯỜNG

Mục tiêu:

- Biết cách thiết kế, biên tập bản đồ, sơ đồ dùng trong nhà trường.

- Biết cách sử dụng các mô hình bản đồ giáo khoa.

7.1. Quá trình thành lập bản đồ

7.1.1. Khái quát quá trình thành lập bản đồ

- Xác định mục đích và nhiệm vụ của bản đồ

- Xác định cơ sở toán học

- Xác định nội dung của bản đồ

- Thiết kế các pp và phương tiện biểu hiện (ký hiệu và chữ)

- Thiết kế bảng chú giải

7.1.2. Công tác biên tập và biên vẽ bản đồ, sơ đồ

Sau khi lập kế hoạch biên tập bản đồ, tiến hành biên vẽ bản đồ

- Đầu tiên là sao hoặc thu phóng bản đồ bằng bút chì, có thể sao từng yếu tố

nội dung hoặc từng khu vực

- Tô nền bản đồ, chú ý tô màu sáng trước, màu tối sau, tô nền trước, vẽ nét sau

- Vẽ nét, các ký hiệu…

Kẻ chữ: chữ trên bản đồ phải mẫu mực, gọn gàng, dễ đọc

- Kẻ khung bản đồ, tên bản đồ, tỉ lệ, ghi chú…

7.2. Sử dụng bản đồ trong dạy học địa lý ở trường phổ thông

7.2.1. Phương pháp sử dụng bản đồ treo tường

7.2.1.1. Đọc và chỉ bản đồ

- Rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo đọc và sử dụng bản đồ

Nguyên tắc:

+ Đọc tên bản đồ

+ Làm rõ tỉ lệ bản đồ

+ Nghiên cứu bản chú giải

70

7.2.1.2. Mô tả và nêu đặc điểm hiện tượng

Trên cơ sở hiểu ngôn ngữ bản đồ, hs quan sát, mô tả, nêu đặc điểm hiện tượng

- Mức độ thấp: phát hiện dấu hiệu bề ngoài, riêng biệt

- Mức độ cao: phát hiện nguyên nhân bên trong, mối quan hệ tương hỗ giữa

các hiện tượng.

7.2.2. Phương pháp sử dụng átlát

- Dùng để khai thác kiến thức bài học

- Sử sử dụng phương pháp chồng ghép, so sánh

- Sử dụng trong học bài và làm bài ở nhà

7.2.3. Phương pháp sử dụng bản đồ trong sgk

- Phù hợp với từng chủ để bài học

- Tư duy địa lý gắn liền với lãnh thổ

- Sử dụng trên lớp và ở nhà (khi không có đủ átlát)

- Khi giảng, giáo viên có thể dừng lại trên trang bản đồ này để giải thích,

hướng dẫn quan sát, nêu vấn đề để học sinh trả lời…

7.2.4. Phương pháp sử dụng bản đồ câm

- Bản đồ câm lớn được giáo viên dùng trong giờ học, dạy đến đâu điền nội

dung đến đó (học sinh dễ theo dõi)

- Bản đồ câm nhỏ dùng cho học sinh (thường đóng thành tập). Học sinh cũng

vừa nghe giảng, vừa chuyển nội dung vào bản đồ.

- Ra bài tập cho học sinh tự làm với bản đồ câm.

- Kiểm tra bằng bản đồ câm.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 6 & 7

1. Trình bày các phương pháp biểu diễn các đối tượng trên bản đồ địa

hình.

2. Vận dụng các kiến thức đã học, xây dựng một bản đồ giáo khoa vẽ

tay dùng cho giảng dạy địa lý ở phổ thông cơ sở.

71

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lâm Quang Dốc (2005), Bản đồ học đại cương, NXB Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

[2]. Ngô Đạt Tam (1986), Bản đồ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[3]. Lê Huỳnh (1998), Bản đồ học, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh

[4]. Lâm Quang Dốc (2003), Thực hành Bản đồ học, NXB ĐHS

[5]. A.M.Berliant (2004), Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ, NXB

ĐHQG Hà Nội.

[6]. K.A.Xalixev (2006), Bản đồ học, NXB ĐHQG Hà Nội.

72

MỤC LỤC

Trang

Chương 1. BẢN ĐỒ HỌC VÀ BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ 1.1. Định nghĩa bản đồ học và bản đồ địa lý……………………………………….3 1.2. Các tính chất cơ bản của bản đồ địa lý ……………………………………… 5 1.3. Đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ môn học …………………………………6 1.4. Vai trò và ý nghĩa của bản đồ học đối với khoa học, đời sống và sản xuất ….. 7 1.5. Vài nét về lịch sử phát triển của ngành bản đồ học ………………………….. 8 Chương 2. CƠ SỞ TOÁN HỌC BẢN ĐỒ 2.1. Mô hình biểu diễn Trái đất ………………………………………………… 14 2.2. Tỷ lệ bản đồ ……………………………………………………………… . .18 2.3. Phép chiếu hình bản đồ địa lý ……………………………………………….20 2.4. Hệ tọa độ địa lý ……………………………………………………………...22 2.5. Phương hướng và các phương pháp xác định phương hướng ……………… 24 2.6. Khung và bố cục bản đồ ……………………………………………………. 25 2.7. Hệ thống phân mảnh và danh pháp bản đồ địa hình ………………………. 25 Chương 3. NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ 3.1. Khái quát về ngôn ngữ bản đồ ………………………………………………31 3.2. Hệ thống ký hiệu quy ước trên bản đồ ………………………………………31 3.3. Các phương pháp biểu hiện bản đồ ………………………………………… 33 3.4. Phối hợp các phương pháp biểu hiện khi biên vẽ bản đồ ………………….. 35 3.5. Phối hợp các phương pháp biểu hiện khi biên vẽ bản đồ …………………55 Chương 4. TỔNG QUÁT HÓA BẢN ĐỒ 4.1. Khái niệm …………………………………………………………………... 57 4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tổng quát hóa bản đồ ………………. 57 4.3. Quá trình tổng quát hóa bản đồ ……………………………………………. 59 Chương 5. PHÂN LOẠI BẢN ĐỒ 5.1. Ý nghĩa và nguyên tắc phân loại bản đồ …………………………………… 61 5.2. Các hệ thống phân loại bản đồ chủ yếu ……………………………………. 62 5.3. Tập bản đồ địa lý (Atlas) và hướng dẫn khai thác tập bản đồ ……………… 63 Chương 6. BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH 6.1. Khái quát chung về bản đồ địa hình ……………………………………….. 66 6.2. Phương pháp sử dụng bản đồ địa hình ……………………………………...69 Chương 7. THÀNH LẬP VÀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ DÙNG TRONG NHÀ TRƯỜNG 7.1. Quá trình thành lập bản đồ ………………………………………………… 70 7.2. Sử dụng bản đồ trong dạy học địa lý ở trường phổ thông …………………. 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………... 73

73