52
4.1
Sự phát triển chung
CHƯƠNG 4
THỰC TRẠNG DI ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
Sau một thời gian dài nghiên cứu, phát triển, lịch sử Internet Việt Nam ghi nhận
ngày 19/11/1997 ngày Việt Nam gia nhập mạng internet. Trong suốt gần 20 m qua,
Internet đã có những tác động trực tiếp đến xã hội.
Theo đó, không chỉ bản thân đường truyền Internet, ngay cả mạng di động
cũng những biến chuyển mang tính cách mạng trong suốt thời gian qua, giúp Việt
Nam hội nhập, tiếp cận ngày một gần hơn với xu thế công nghệ trên thế giới và trong khu
vực.
Từ căn bản với mạng thông tin di động 1G
1G - mạng thông tin di động không dây cơ bản đầu tiên trên thế giới với các thế hệ
máy di động đầu tiên kích thước khá to cồng kềnh do tích hợp cùng lúc 2 module
thu tín hiện phát tín hiệu analog. Tuy nhiên khi mạng 1G trở nên phổ biến trên thế
giới, thì tại Việt Nam vẫn chưa thực sự được nhiều người biết đến. Vào thời điểm này,
hầu hết người Việt đều sử dụng điện thoại bàn với kết nối y, chỉ một bộ phận nhỏ
được trang bị những chiếc bộ đàm có tần số từ 136-174MHz để liên lạc qua không dây.
Những bước đầu tiên cùng 2G
53
Bước hội nhập đầu tiên của Việt Nam với mạng di động được đánh dấu bằng công
nghệ GSM (Global System for Mobile Communication) được sử dụng trên điện thoại di
động (khoảng đầu năm 2006), cũng trùng với thời điểm Internet xuất hiện trên toàn
cầu. GSM hệ thống số thay cho analog của 1G, thiết bị di động được sử dụng chủ
yếu trong thời ky là những chiếc Nokia huyền thoại
Mạng 2G mang tới cho người sử dụng di động 3 lợi ích tiến bộ trong suốt một thời
gian dài: hoá dữ liệu theo dạng kỹ thuật số, phạm vi kết nối rộng hơn 1G đặc biệt
sự xuất hiện của tin nhắn dạng văn bản đơn giản SMS. Theo đó, các tin hiệu thoại
khi được thu nhận sẽ đuợc hoá thành tín hiệu kthuật số dưới nhiều dạng hiệu
(codecs), cho phép nhiều gói thoại được lưu chuyển trên cùng một băng thông, tiết
kiệm thời gian và chi phí.
Song song đó, tín hiệu kthuật số truyền nhận trong thế hệ 2G sử dụng các chip
thu phát nhỏ hơn, tiết kiệm diện tích bên trong thiết bị hơn… Cũng trong giai đoạn này,
người ta bắt đầu thấy những chiếc điện thoại di động kích thước nhỏ nằm gọn trong
lòng bàn tay, kiểu dáng đa dạng,... Cho tới nay thì mạng 2G vẫn được sử dụng làm
phương thức liên lạc chính để phục vụ nhu cầu gọi điện, nhắn tin.
Khi mạng di động hội nhập cùng Internet
54
Với sự hội nhập cùng Internet, con người cảm thấy chỉ nghe gọi, nhắn tin SMS
trên điện thoại qua 2G không đủ. Một vài m sau, GPRS (General Packet Radio
Service), hay còn gọi 2.5G được ra đời với vai trò mạng viễn thông đời đầu giúp
người dùng kết nối được với internet.
Dù có tốc độ khá chậm cũng đã ra mắt khá lâu nhưng GPRS thực sự mở ra một
kỷ nguyên hoàn toàn mới, khi lần đầu tiên được biết Internet gì, cũng như sử dụng
GPRS để tải các ứng dụng trò chơi, tải nhạc, gửi văn bản MMS,...
Một khái niệm rất dễ bị hiểu lầm với mạng 2.5G, đó là là mạng E, hay EDGE (viết
tắt của Enhanced Data rate for GSM Evolution), giờ vẫn xuất hiện trên smartphone
khi đi vào những khu vực sóng 3G yếu, sóng không ổn định. Mạng E trên thực tế là
GPRS nâng cao, hay còn gọi 2.75G (giữa 2.5G & 3G). Đây hệ thống làm nền tảng
cho sự phát triển của 3G và 4G sau này.
Bên cạnh điều chế GMSK, EDGE dùng phương thức điều chế 8-PSK để tăng tốc
độ dữ liệu truyền lên thành 384 kbit/s, nhanh hơn khá nhiều so với mạng 2.5G. Nhưng
cũng chính thế, để triển khai EDGE, các nhà cung cấp mạng phải thay đổi trạm phát
sóng BTS cũng như là thiết bị di động so với mạng GPRS.
3G
3G cho phép người ng di động truyền tải cdữ liệu thoại dữ liệu ngoài thoại
(tải dữ liệu, gửi email, tin nhắn nhanh, hình ảnh, âm thanh, video clips…). Giá tần số cho
công nghệ 3G rất đắt tại nhiều nước, chi phí này phải trang trải trong nhiều năm trước
khi các thu nhập từ mạng 3G đem lại, nên một khối ợng vốn đầu khổng lồ cần
thiết để xây dựng mạng 3G.
Trong khi đó tại Việt Nam, xuất hiện nhiều trong các đề án hồi cuối năm 2006
đến đầu 2008, nhưng mãi tới tháng 10/2009, mạng 3G mới lần đầu tiên được phủ sóng
bởi VinaPhone 13 tỉnh, thành phố trên cả nước là: Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Tp.HCM, Cần Thơ, Đồng
Nai, Bình Dương Vũng Tàu. Vào tháng 12/2009, MobiFone cũng tiếp bước
VinaPhone để phủ sóng 3G tại nhiều tỉnh thành trên cả nước.
55
Ngoài ra, người dùng còn quen thuộc với biểu tượng H, hay H+ xuất hiện khá
nhiều. Đây thực chất mạng HSPA, hay 3G tăng cường. Đây chính giao thức chuẩn
3G khi đạt tốc độ internet lên tới 7,2Mbps, giúp cho các thiết bị hỗ trợ chuẩn này
thể dễ dàng lướt web một cách mượt mà. Với HSPA, người dùng thể xem video
trên YouTube không cần bộ nhớ đệm. Trong khi đó H+ viết tắt của (Evloved High
Speed Packet Access) tăng cường của HSPA giúp cải thiện khoảng 40% so với H
4G (LTE) đánh dấu tiêu chuẩn mới cho Internet di động tại Việt Nam
Trong năm 2017, 4G đã được phủ sóng tại nhiều tỉnh thành trên cả nước Việt
Nam. Tuy nhiên nhìn rộng hơn thì công nghệ này đã được thế giới công nhận sử dụng
tử rất lâu.
Công nghệ 4G được hiểu chuẩn tương lai của các thiết bị không y. Các
nghiên cứu đầu tiên của NTT DoCoMo cho biết, điện thoại 4G có thể nhận dữ liệu với
tốc độ 100 Mbit/s khi di chuyển tới 1 Gbit/s khi đứng yên, cũng như cho phép người
sử dụng có thể tải và truyền lên các hình ảnh, video clips chất lượng cao. Mạng điện thoại
56
3G hiện tại của DoCoMo có tốc độ tải là 384 Kbit/s và truyền dữ liệu lên với tốc độ 129
Kbit/s.
Tính tới tháng 8/2017, hơn 80.000 trạm thu phát sóng 4G đã đang được triển
khai nhằm mục tiêu phủ sóng 4G trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, đồng thời triển khai
nhiều gói cước hấp dẫn giá thậm chí rẻ hơn mạng 3G truyền thống, ớng đến một
tương lai tất cả người dùng chuyển sang sử dụng mạng 4G, thậm chí 5G trong
những năm tới.
Nhìn lại toàn bộ chặng đường phát triển của mạng di động tại Việt Nam dưới sự
tác động của Internet, có thể thấy rằng chúng ta đã những thay đổi lớn trong thói quen
sử dụng chiếc điện thoại nhỏ bé. Từ những nhu cầu đơn giản như nghe gọi, nhắn tin, giờ
đây bất cứ ai đều cần nhiều n khi muốn truy cập vào Internet để ớt web, gọi video,
lướt Facebook, gửi email, xem video, hay chơi game trực tuyến.
Nếu không những bước đầu hội nhập đầy k khăn, đánh dấu sự nỗ lực
nhiệt thành của những nhà mạng cung cấp dịch vụ cùng mục đích mang đến nhiều ưu đãi
và làm thay đổi thói quen của người dùng di động Việt Nam, thì có lẽ giờ đây chúng ta đã
ở một khoảng cách còn xa hơn nhiều so với sự phát triển chung trên thế giới.
4.2
Đặc điểm chung các mạng dịch vụ di động chính ở Việt Nam
Các mạng thông tin di động chính tại Việt Nam như Viettel, Vinaphone, Mobile
Phone… đều đã cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ của mạng 3G ổn định với phạm
vi phủ song tại 63 tỉnh thành trên cả nước và đang dần triển khai hệ thống 4G.
Các mạng di động y đều phát triển lên 3G từ chuẩn GSM của 2G trên sở kế
thừa cơ sở hạ tầng của thế hệ cũ để tiết kiệm tối đa chi phí triển khai.
Băng tần được các mạng di lựa chọn để khai thác của 3G 1800MHz
2100MHz.
Các nhà mạng lớn tại Việt Nam đang thực hiện đổi đầu số để chuyển hết thuê bao
di động 11 đầu số về 10 đầu số để thuận tiện cho việc quản lý. Đồng thời các nhà mạng
cũng đang thực hiện hỗ trợ người dùng chuyển đổi mạng để tăng tính linh hoạt cho người
sử dụng đồng thời tạo môi trường cạnh tranh chất lượng dịch vụ giá thành một cách
lành mạnh.