Báo cáo thực tập tốt nghiệp

“Một số vấn đề cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang -

thực trạng và giải pháp”

mục lục

lời nói đầu

Chương I:

Hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối

với sự phát triển của hộ sản xuất

Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta I.

Hộ sản xuất 1.

Sự phát triển của kinh tế hộ và vai trò của hộ sản xuất 2.

2.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất

2.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với các ngành kinh tế nói chung và ngành

Ngân hàng nói riêng.

3. Đặc điểm của kinh tế hộ

II. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế hộ

Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế nông thôn 1.

Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất 2.

Cơ chế tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp đối với hộ sản xuất 3.

chương ii:

tình hình và thực tiễn tại Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

I. Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động

kinh doanh của Ngân hàng.

Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân hàng 1.

Đặc điểm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất 2.

trên địa bàn thị xã Hà Giang

II. Khái quát hoạt động của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát

triển nông thôn Hà Giang

Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở 1.

Công tác huy động vốn 2.

3. Công tác sử dụng vốn

4. Công tác khác

III. Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và

phát triển nông thôn Hà Giang

1. Tình hình cho vay kinh tế hộ nông dân ở Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

2. Một số tồn tại và nguyên nhân

chương iii:

giải pháp nhằm mở rộng cho vay gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng

hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà

Giang

I. Những giải pháp

II. Một số kiến nghị cụ thể

Đối với Nhà nước 1.

Đối với Ngân hàng cấp trên 2.

3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà

Giang

Kết luận

Lời nói đầu

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII về việc tiếp tục sự

nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của Đại hội Đảng đã đề ra là:

Tập trung mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ vượt qua thử thách thách, đẩy mạnh

công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu khách quan và có tính quyết định đến đường lối, chính sách của

Đảng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội phải nói đến vấn đề vốn, chỉ có con

đường đầu tư tín dụng, đồng với mới phát huy được hiệu quả.

Các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền

kinh tế nói chung và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp phần

quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi khu vực nông

thôn.

Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân ngày

càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết quả đó có sự

đóng góp to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp, với phương châm “đi vay để cho

vay”, Ngân hàng Nông nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn lớn để đáp

ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần khu vực nông nghiệp nông thôn.

Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách hàng,

đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của bộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng

hoá trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp

lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời nó cũng là

1

thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công văn việc làm, tận

dụng mọi nguồn lực lao động trong nông thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội

nhất là trong khu vực nông thôn hiện nay.

Để mọi tầng lớp nhân dân đều có thể được vay vốn phát triển sản xuất kinh

doanh, ngày 30 tháng 3 năm 1999 Chính phủ đã ban hành Quyết định số

67/1999/QĐ-TTg về “Một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ cho việc phát

triển nông nghiệp và nông thôn” với quy định hộ gia đình vay đến 10 triệu đồng

không phải thế chấp tài sản. Và mới đây là Nghị quyết số 11/2000/NQ-CP ngày 31

tháng 7 năm 2000 của Chính phủ về “Một số giải pháp điều hành kế hoạch phát

triển kinh tế xã hội 6 tháng cuối năm 2000”, nâng mức vay vốn không phải thế chấp

lên 20 triệu đồng. Văn bản này đã được triển khai sâu rộng tới tận thôn bản làm nức

lòng nông dân, tạo động lực mới, thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, củng cố

thêm lòng tin yêu của dân với Đảng, với Chính phủ, với ngành Ngân hàng.

Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy rõ sự

cần thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh tế quốc

doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản xuất. Đây là sự

chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác đi vào thị trường

tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn. Thị trường tín dụng nông thôn là mảnh đất còn chứa

ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải

vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng

và Nhà nước là xoá đói - giảm nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân

hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp

do nhiều vướng mắc và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra

nguyên nhân và cách tháo gỡ là rất cần thiết.

Qua thời gian học tập tại Học viện Ngân hàng và quá trình công tác thực tế

nghiên cứu, khảo sát thực tế tại hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn Hà Giang, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số vấn đề cho vay hộ sản xuất ở

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang - thực trạng và

giải pháp” làm đề tài viết khoá luận tốt nghiệp.

2

Tuy nhiên, đây là đề tài phong phú, nhưng rất phức tạp, trong nghiên cứu và

tìm hiểu thực tiễn, bản thân tôi còn nhiều hạn chế, nên bài viết không tránh khỏi

những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô

giáo và của cơ quan đang công tác cùng các bạn đồng nghiệp.

Luận văn này chỉ nghiên cứu giới hạn trong phạm vi ba chương.

Chương I: Hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta và vai trò tín dụng Ngân

hàng đối với sự phát triển của hộ sản xuất.

Chương II: Thực trạng và cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang.

Chương III: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay gắn liền với nâng cao chất lượng

tín dụng hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn.

3

Chương I

hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta

và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp

đối với sự phát triển của hộ sản xuất

I. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta.

1. Hộ sản xuất

Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở khu

vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai trò hết sức

quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và phát triển kinh

tế của đất nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp hoá - hiện đại hoá, khi

học vấn, kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong tay nông dân, được bà con sử

dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi

xưởng máy mọc lên ở các làng mạc, thị trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một

bộ phận đáng kể nông dân trở thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện

mới ở các vùng nông thôn thì lúc đó mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ bản trên phạm vi cả nuớc”(1). Chính vì lẽ đó kinh tế nông

nghiệp nông thôn mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị trí vô cùng quan trọng trong

công cuộc đổi mới đất nước.

Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện chủ

trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị 100 khoán 10

ra đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng. Thực chất hộ sản

xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất cũng như tiêu

thụ sản phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản xuất là chủ thể trong mọi mối

quan hệ sản xuất kinh doanh.

1 Trích bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội nghị Khoa giáo toàn quốc

4

2. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất.

2.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất.

a. Trước Chỉ thị 100.

Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như hợp tác

xã, nông trường quốc doanh... người lao động làm việc theo kiểu ghi công tính

điểm, họ không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản xuất, ăn chia, phân

phối hay sở hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản xuất chưa có, hiệu quả

sản xuất kém.

b. Sau Chỉ thị 100 và khoán 10.

Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán sản

phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận khoán ra

đời. Họ là người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản xuất, tiến hành

đầu tư thâm canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản phẩm theo quy định cho

tập thể. Nhất là khi có quyết 652 của Nhà nước thực hiện giao ruộng đất lâu dài cho

hộ gia đình thì kinh tế sản xuất đã được thực sự phát triển theo hướng đa năng trong

tất cả các ngành nông - lâm - ngư - diêm nghiệp... Cùng trong bối cảnh đó, do biết

sắp xếp bố trí lao động phù hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp

dịch vụ đã hình thành, củng cố ngày càng phát triển.

2.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với sự phát triển của nền kinh tế nói

chung và ngành nông nghiệp nói riêng.

a. Vai trò của sản xuất đối với sự phát triển của nền kinh tế.

Nền kinh tế nước ta từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang chế

độ quản lý kinh doanh theo cơ chế thị trường đã làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi rõ

rệt. Hàng loạt các xí nghiệp, hợp tác xã bị giải thể, sáp nhập hoặc chia nhỏ thành

những bộ phận nhận khoán trực tiếp... đã làm cho một số lượng không nhỏ người

lao động chuyển sang làm kinh tế tư nhân, các thể... tự mình buơn trải tìm kiếm thị

trường, tự mình bố trí sắp xếp công việc, từ khâu dự trữ chuẩn bị sản xuất đến kết

thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra.

5

Chính vì vậy, trên cục diện nền kinh tế đã hình thành đa dạng các ngành

nghề ở mọi nơi, mọi lúc, người lao động cũng tận tâm, tận lực mở rộng sản xuất

trên các lĩnh vực. Người lao động gần như hầu hết đã có công ăn việc làm, thời gian

lao động được sử dụng tối đa, kinh nghiệm sản xuất cùng với áp dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật đã góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.

Tiềm năng đất nước và năng lực sản xuất của toàn bộ xã hội đã được khai thác triệt

để, có hiệu quả.

Việc mở mang ngành nghề đặc biệt là ngành nghề truyền thống, đã tạo ra cơ

cấu sản phẩm đa dạng phong phú, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của người dân

và góp phần xuất khẩu, tạo nên nền sản xuất hàng hoá khá phát triển.

Khi hộ sản xuất đã biết tự chủ về hoạt động của sản xuất kinh doanh và đã

thu được hiệu quả kinh tế thì đời sống của họ được nâng lên, tiện nghi sinh hoạt và

tư liệu sản xuất cũng trở nên hiện đại hơn, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế

nông thôn với hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang đẹp đẽ, an ninh trật tự xã hội

được giữ vững. Thật đúng là hộ sản xuất là những người “dân giàu làm nên nước

mạnh, xã hội văn minh”.

b. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch, hiệu quả

thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất và phân phối sản

phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ sản xuất ra đời, kinh tế

hộ sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao động về mặt số lượng, cường độ

đã được sử dụng hợp lý.

Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ việc

mua sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù

hợp với đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ nhằm thu được

hiệu quả cao và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho xuất khẩu. Có thể nói

Việt Nam từ một nước nghèo, đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên thế giới về xuất

khẩu gạo. Đó là sự đóng góp to lớn của kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp nông thôn.

6

Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai thác

mặt nước trồng thuỷ - hải sản... đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong phú về sản

phẩm, đa dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với truyền thống, kinh

nghiệm lâu đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp nông

thôn được đổi mới toàn diện.

3. Đặc điểm của kinh tế hộ.

Đặc điểm của kinh tế hộ - nhất là kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp - có vai trò

quan trọng như đã nêu ở phần trên, tuy nhiên kinh tế hộ còn gặp phải nhiều khó

khăn và còn bộc lộ một số hạn chế nhất định.

 Sản xuất còn bị ảnh hưởng nhiều của yếu tố tự nhiên như: Thiên tai, hạn

hán, bão, lụt, dịch bệnh...

 Hộ sản xuất tuy có kinh nghiệm lâu năm, có tinh thần cần cù chịu khó

nhưng chưa được đào tạo phổ biến nên việc áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất

còn hạn chế, chỉ dừng lại ở một số ít hộ hoặc một ít cây con chuyên canh, một số

vùng địa phương...

 Hộ sản xuất chưa thực sự tiếp cận và làm quen với kinh tế thị trường, chỉ

sản xuất những cái gì mà mình có chứ chưa sản xuất những cái mà thị trường cần.

 Nhìn chung vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh là quá ít ỏi vì phần lớn

dân ta còn nghèo, tích luỹ chưa được là bao, về mặt tâm lý hộ sản xuất còn ngại vay

vốn Ngân hàng vì nhiều lý do. Chính vì những đặc điểm trên cho nên việc phát triển

ngày càng cao hơn, đòi hỏi rất cả các ngành, các cấp phải có sự hỗ trợ về mọi mặt,

trên mọi lĩnh vực để tạo ra một sự phát triển đồng bộ và cân đối của nền kinh tế.

ii. vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế hộ.

Tín dụng Ngân hàng là quan hệ Ngân hàng vay mượn với các doanh nghiệp,

tư nhân trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi.

Trong cơ chế thị trường tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng, nó là

trung gian tín dụng, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.

7

Tín dụng Ngân hàng đáp ứng yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, tư nhân,

các thành phần kinh tế... nhằm duy trì quá trình tái sản xuất được liên tục. Từ đó

thúc đẩy quá trình tập trung, tái tạo vốn để tập trung phát triển sản xuất. Ngoài ra tín

dụng Ngân hàng còn là công cụ để tài trợ cho các ngành kinh tế theo mục tiêu của

Chính phủ.

1. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế nông thôn.

Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế khác, kinh tế nông nghiệp, nông

thôn đã được xác định đúng vị trí và vai trò của mình trong chiến lược phát triển

kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.

Mục tiêu của sự phát triển đó là: Tạo ra một nền sản xuất hàng hoá đa dạng ở

nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng cho nền kinh tế và tạo ra bộ mặt

xã hội nông thôn Việt Nam hiện đại mà lành mạnh, phát triển và trong sạch.

Vì thế tín dụng Ngân hàng trở lên vô cùng cần thiết đối với sự phát triển kinh

tế nông thôn, có tín dụng Ngân hàng thì việc tập trung các nguồn vốn ổn định đầu tư

tái sản xuất cho sản xuất nông nghiệp. Bởi một lẽ dân ta còn rất thiếu vốn để sản

xuất, trong khi đó thế mạnh và khả năng tiềm tàng của đất nước lại rất dồi dào. Nếu

có vốn, mọi ngành nghề sẽ được mở mang và phát triển, tạo ra một sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế quan trọng: Cơ cấu sản phẩm sẽ thay đổi phù hợp với nhu cầu của thị

trường trong nước, tiến tới đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Mặt khác nếu

có vốn tín dụng thì người sản xuất có thêm vốn giúp họ mạnh dạn đầu tư, áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thu được hiệu quả kinh tế cao hơn.

Như vậy, rõ ràng tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển

kinh tế nông nghiệp và chỉ có vốn tín dụng là nguồn vốn gần nhất, tiện lợi nhất giúp

các nhà sản xuất có đủ vốn để sản xuất kinh doanh, có cơ sở để hạch toán lãi, lỗ và

giúp ngăn chặn tệ nạn xã hội cho vay nặng lãi ở nông thôn.

2. Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ.

8

Trước đây hộ sản xuất do tâm lý ngại vay vốn Ngân hàng và do nhiều lý do

khác nữa nên đồng vốn Ngân hàng chưa đến được tận tay người nông dân, họ phải

đi vay nặng lãi khi vụ mùa giáp hạt, cho nên kinh tế hộ sản xuất chưa có dịp để phát

triển và bùng ra như bây giờ.

Ngày nay với hình thức cho vay tới tận tay người sản xuất, đồng vốn Ngân

hàng đã len lỏi đến tận các ngõ xóm, vùng sâu, vùng xa, miền núi. Hộ sản xuất đã

quen dần và phấn khởi khi mình có vốn trong tay bất kể lúc nào, đã tự chủ với đồng

vốn, tự sản xuất kinh doanh, tính toán thu chi và sắp xếp tiêu dùng gia đình. Họ

không phải lo lắng quá nhiều mỗi khi thời vụ đến bởi vì bên cạnh họ đã có người

bạn thân thiết vừa cho vay lại vừa tham mưu, giúp đỡ họ trong sản xuất kinh doanh.

Với mô hình Ngân hàng mở rộng từ Ngân hàng loại IV, Ngân hàng lưu động

và hình thức cho vay người nghèo thông qua tổ chức tương trợ, Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn đã trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu

được của kinh tế hộ nông nghiệp nông thôn.

Tuy nhiên cho vay tới hộ sản xuất là hình thức phổ biến rộng rãi, làm một thị

trường rộng lớn mới mẻ đầy triển vọng nhưng cũng không tránh khỏi những hạn

chế và những khó khăn thử thách kể cả những rủi ro tín dụng đối với ngành Ngân

hàng. Song phải khẳng định rằng sự phát triển của nền kinh tế nói chung và nền

kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng có một phần đóng góp rất lớn của ngành

Ngân hàng, hiệu quả kinh tế xã hội mang lại cho đất nước thật lớn lao so với chính

những gì mà ngành mang lại cho bản thân mình.

3. Cơ chế tín dụng của ngành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Việt Nam đối với hộ sản xuất.

Nhằm tạo điều kiện và khuyến khích giúp đỡ các hộ sản xuất nông - lâm-

ngư diêm nghiệp khai thác tiềm năng đất đai và lao động phát triển sản xuất hàng

hoá, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm về lương thực, thực phẩm và nguyên liệu

cho công nghiệp, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đẩy mạnh

thâm canh cây trồng, vật nuôi, mở rộng kinh doanh ngành nghề, tận dụng diện tích

mặt nước, bãi triều, đồi trọc để phát triển sản xuất, tăng thu nhập cải thiện đời sống

9

nhân dân. Ngày 28 tháng 6 năm 1991 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ

tướng Chính phủ) ra Chỉ thị 202/CT về việc cho vay vốn sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp đến hộ sản xuất. Để thực hiện chỉ thị trên, ngày 21 tháng 7 năm

1991 Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ký

văn bản số 499 quy định về cho vay hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Sau một năm thực hiện chỉ thị trên đã tổng kết

những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trong cho vay hộ sản xuất. Chính

phủ đã ra Nghị định số 14/CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 ban hành chính sách cho hộ

sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn.

Thông tư số 01/TTNH ngày 26 tháng 3 năm 1993 hướng dẫn thực hiện Nghị

định của Chính phủ về chính sách sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư -

diêm nghiệp về kinh tế nông thôn. Ngay sau đó quy định 499/TDNT ban hành ngày

2 tháng 9 năm 1993 của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam “Về biện pháp nghiệp

vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế

nông thôn” đã thực sự trở thành cẩm nang tín dụng của ngành và của mỗi cán bộ

Ngân hàng.

Song để ngày một hoàn thiện hơn về quy chế cho vay tới khách hàng

cũng như khuyến khích sự phát triển ngày càng lớn mạnh của hộ kinh tế. Ngân

hàng Nông nghiệp Việt Nam đã căn cứ vào quyết định số 324/1998/QĐ-

NHNN1 ngày 30 tháng 9 năm 1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

về việc ban hành “quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”.

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã ban hành

quyết định số 180/QĐ-HĐQT: “Quy định cho vay đối với khách hàng” ngày 15

tháng 12 năm 1998.

Đây là văn bản đầu tiên cụ thể hoá các quy định của hoạt động các tổ chức

tín dụng về hoạt động tín dụng.

Để bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về hoạt động tín dụng cho các tổ

chức tín dụng, ngày 25 tháng 8 năm 2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết

10

định ban hành “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” số

284/2000/QĐ-NHNN.

Theo đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã có

Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18 tháng 1 năm 2001 về việc ban hành quy định

cho vay đối với khách hàng. Trong đó đã cụ thể hoá từng biện pháp nghiệp vụ đối

với cho vay hộ sản xuất như sau:

3.1. Nguyên tắc vay vốn.

3.1.1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín

dụng.

3.1.2. Phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng

tín dụng.

3.1.3. Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện quy định của Chính phủ, Thống

đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về đảm bảo tiền vay của Ngân hàng Nông

nghiệp đối với khách hàng.

3.2. Điều kiện vay vốn.

3.2.1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách

nhiệm dân sự theo quy định cụ thể của pháp luật.

* Đối với hộ gia đình, cá nhân:

 Cư trú tại địa bàn quận, huyện, thị xã, thành phố nơi chi nhánh Ngân

hàng Nông nghiệp cho vay đóng trụ sở

 Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch với Ngân hàng Nông nghiệp là chủ

hộ hoặc là người đại diện của hộ. Chủ hộ hoặc người đại diện phải có đủ năng lực

pháp luật dân sự. Cụ thể:

+ Đại diện cho hộ gia đình phải đủ tuổi từ 18 trở lên.

+ Đại diện cho hộ gia đình không bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn

chế năng lực hành vi dân sự.

3.2.2. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ

11

 Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch

vụ, đời sống.

 Kinh doanh có hiệu quả.

 Không có nợ quá hạn khó đòi hoặc nợ quá hạn trên 6 tháng tại Ngân hàng

Nông nghiệp.

3.2.3. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp:

3.2.4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có

hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo

phương án trả nợ khả thi.

3.2.5. Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính

phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Nông

nghiệp Việt Nam.

3.3. Loại cho vay.

3.3.1. Cho vay ngắn hạn.

3.3.2. Cho vay trung, dài hạn:

3.4. Đối tượng cho vay:

3.4.1. Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị bao gồm cả thuế giá

trị gia tăng nằm trong tổng giá trị lô hàng và các khoản chi phí để khách hàng thực

hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư,

phương án phục vụ đời sống.

Các nhu cầu tài chính của khách hàng sau đây:

3.4.2.

 Số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục

xuất khẩu, nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó Ngân hàng Nông nghiệp cho vay.

 Số lãi tiền vay trả cho Ngân hàng Nông nghiệp trong thời hạn thi công,

chưa nghiệm thu bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung,

dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản trả lãi được tính trong giá trị tài sản cố

định đó.

12

 Số tiền khách hàng vay để trả cho khoản vay tài chính (bằng tiền) cho

nước ngoài mà các khoản vay đó đã được Ngân hàng Nông nghiệp bảo lãnh, nếu có

đủ các điều kiện sau: dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc

dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống sử dụng khoản vay trên đang được thực

hiện có hiệu quả, khoản vay nằm trong hạn trả nợ, khách hàng đạt được điều kiện

vay vốn thuận lợi hơn hoặc tiết kiệm chi phí so với vay vốn nước ngoài và có khả

năng trả nợ.

 Các nhu cầu tài chính khác phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ và phục vụ đời sống theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp.

3.5. Thời hạn cho vay:

 Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu

kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.

 Cho vay trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời

hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất

nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.

+ Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng.

+ Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên, nhưng không quá thời

hạn hoạt động còn lại của doanh nghiệp và không quá 15 năm đối với cho vay các

dự án đầu tư phục vụ đời sống.

3.6. Lãi suất cho vay:

 Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay và khách

hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng

Nông nghiệp Việt Nam về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.

Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi

suất cho vay cho khách hàng biết.

 Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi

về lãi suất theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp.

13

 Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất

nợ quá hạn theo mức quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn

của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.

 Trong trường hợp có quy định thay đổi về lãi suất và các trường hợp cần

thiết, khi khách hàng và Ngân hàng Nông nghiệp có nhu cầu, Ngân hàng Nông

nghiệp nơi cho vay cùng khách hàng thoả thuận mức lãi suất cho vay phù hợp và

phải ghi bổ sung vào hợp đồng tín dụng.

3.7. Mức cho vay:

 Ngân hàng Nông nghiệp căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng,

mức cho vay so với giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay theo quy định về đảm bảo

tiền vay của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; khả năng trả nợ của khách hàng và

khả năng nguồn vốn, mức phán quyết của Ngân hàng Nông nghiệp để quyết định

mức cho vay, nhưng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng Nông nghiệp và

phát triển nông thôn Việt Nam, trừ trường hợp đối với khoản vay từ các nguồn uỷ

thác hoặc khách hàng vay là tổ chức tín dụng.

 Vốn tự có được tính cho tổng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh trong kỳ

hoặc cho từng dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.

+ Đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20%

trong tổng nhu cầu vốn.

+ Đối với cho vay trung, dài hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu

30% trong tổng nhu cầu vốn.

+ Khách hàng có tín nhiệm với Ngân hàng Nông nghiệp (xếp loại A), nếu

vốn tự có thấp hơn quy định trên thì Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay

quyết định mức vốn tự có tham gia và xác định mức cho vay phù hợp với khả năng

trả nợ.

+ Đối với khách hàng được Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay lựa chọn,

áp dụng cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Việc xác định vốn

tự có tham gia, mức cho vay theo điều 17 quy định việc thực hiện các biện pháp

14

đảm bảo tiền vay trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ban hành kèm

theo quyết định 167/HĐQT-03.

3.8. Trả nợ gốc và lãi:

Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khả năng

3.8.1.

tài chính, thu nhập và nguồn trả nợ của khách hàng, Ngân hàng Nông nghiệp nơi

cho vay và khách hàng thoả thuận việc trả nợ gốc và lãi tiền vay như sau:

 Các kỳ hạn trả nợ gốc;

 Các kỳ hạn trả lãi theo định kỳ hàng tháng, quý, vụ, chu kỳ kinh doanh,

hoặc trả lãi cùng với kỳ trả gốc;

 Đồng tiền trả nợ và bảo toàn giá trị nợ gốc bằng các hình thức thích hợp,

phù hợp với quy định của pháp luật.

3.8.2. Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu

khách hàng không trả được nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ

hoặc không được gia hạn nợ, thì số nợ đến hạn không trả được phải chuyển sang nợ

quá hạn, khách hàng phải trả lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền chậm trả.

3.8.3. Đối với khách hàng vay trả bằng nội tệ nếu trả trước hạn, số lãi

phải trả chỉ tính từ ngày vay đến ngày trả nợ; Đối với khách hàng vay bằng ngoại tệ,

nếu trả trước thời hạn thì Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay và khách hàng thoả

thuận về số lãi tiền vay phải trả, nhưng không vượt quá số lãi đã ghi trong hợp đồng

tín dụng.

3.9. Hợp đồng tín dụng:

Hợp đồng tín dụng theo mẫu quy định gồm:

3.9.1. Hợp đồng tín dụng dùng cho khách hàng là pháp nhân, doanh

nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh;

3.9.2. Hợp đồng tín dụng dùng cho khách hàng là hộ gia đình, cá

nhân, tổ hợp tác (trừ hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp theo điểm

3.9.3).

15

Sổ vay vốn dùng cho khách hàng là hộ gia đình sản xuất nông,

3.9.3.

lâm, ngư, diêm nghiệp vay vốn đến 10 triệu đồng.

Quyền và nghĩa vụ của khách hàng:

3.10.

3.11.1. Khách hàng vay có quyền:

 Từ chối các yêu cầu của Ngân hàng Nông nghiệp không đúng với các

thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

 Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của

pháp luật.

3.11.2. Khách hàng có nghĩa vụ:

 Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay

vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp.

 Sử dụng tiền vay đúng mục đích và thực hiện đúng các nội dung khác đã

thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

 Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

 Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả

thuận về việc trả nợ vay và thực hiện các nghĩa vụ đảm bảo nợ vay đã cam kết trong

hợp đồng tín dụng.

Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng Nông nghiệp:

3.11.

3.11.1. Ngân hàng Nông nghiệp có quyền:

 Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương

án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống

khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho

vay;

 Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện

vay vốn, dự án hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy

định của pháp luật hoặc Ngân hàng Nông nghiệp không đủ nguồn vốn để cho vay.

16

 Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của

khách hàng;

 Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng

cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng;

 Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có

thoả thuận khác, thì Ngân hàng Nông nghiệp có quyền bán tài sản làm đảm bảo tiền

vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật

hoặc yêu cầu của người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp

khách hàng được bảo lãnh vay vốn;

 Miễn, giảm lãi tiền vay thực hiện theo hướng dẫn hiện hành của Ngân

hàng Nông nghiệp Việt Nam, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, mua bán nợ theo

quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và thực hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, giãn nợ

theo quy định của Chính phủ.

3.11.2. Ngân hàng Nông nghiệp có nghĩa vụ:

 Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

 Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.

Bộ hồ sơ cho vay:

3.12.

3.12.1. Hồ sơ pháp lý:

 Chứng minh nhân dân, hộ khẩu (chỉ xuất trình khi làm thủ tục vay vốn);

 Đăng ký kinh doanh đối với cá nhân phải đăng ký kinh doanh.

 Giấy uỷ quyền cho người đại diện (nếu có).

3.12.2. Hồ sơ vay vốn:

 Hộ sản sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp vay vốn không phải thực

hiện đảm bảo bằng tài sản: giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất, kinh

doanh, sổ đỏ.

 Hộ gia đình, cá nhân (trừ hộ gia đình quy định tại điểm trên):

17

 Giấy đề nghị vay vốn;

 Dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;

 Hồ sơ đảm bảo tiền vay theo quy định.

 Hộ gia đình, cá nhân vay qua tổ vay vốn:

 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất, kinh doanh của hộ gia

đình, cá nhân;

 Biên bản thành lập tổ vay vốn;

 Hợp đồng làm dịch vụ.

 Hộ gia đình, cá nhân vay thông qua doanh nghiệp như quy định trên và

phải có thêm hợp đồng làm dịch vụ.

 Doanh nghiệp vay chuyển tải vốn cho họ gia đình, cá nhân, ngoài hồ sơ

đã quy định đối với doanh nghiệp phải có thêm:

 Hợp đồng cung ứng vật tư, tiền vốn cho hộ gia đình, cá nhân nhận khoán.

 Danh sách hộ gia đình, cá nhân đề nghị Ngân hàng cho vay.

Như vậy: Qua khái quát quy định cho vay theo quyết định 06/QĐ-HĐQT cho

thấy, các quy định rất cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế của các hộ mà vẫn đảm

bảo tính pháp lý và khả năng bảo toàn của Ngân hàng.

18

Chương II

tình hình thực tiễn tại hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

i. tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động kinh

doanh của Ngân hàng

1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân hàng:

Thị xã Hà Giang là trung tâm hành chính, trung tâm kinh tế, văn hoá của

tỉnh. Là thị xã của tỉnh miền núi nên địa hình, địa lý tự nhiên rất khó khăn, hiểm trở,

có tới 75% diện tích là đồi núi cao, sông, suối sâu, giao thông khó khăn, lâm thổ sản bị

khai phá bừa bãi, lại bị chiến tranh biên giới (1979-1986) tàn phá chưa khôi phục

được.

Thị xã Hà Giang có diện tích tự nhiên 97km2 với 5 xã thuần nông và 4

phường bán nông nghiệp, diện tích canh tác đất nông nghiệp là 1.200ha.

Dân số của thị xã có gần 30 vạn người, hơn 10 dân tộc cùng chung sống.

Tổng số hộ sản xuất 4.100 hộ với 13.900 khẩu, trong đó có 3.500 lao động.

Kinh tế nông nghiệp đã chuyển dần từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất

chuyên canh và giao lưu hàng hoá đã phát triển. Trình độ dân trí dần được nâng cao,

nhiều hộ đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, phá

bỏ tập tục du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc thả rông.

Bên cạnh đó, các điều kiện về môi sinh của thị xã chưa được tốt như nạn chặt

cây, phá rừng, đào đãi vàng, quặng đã làm cho nguồn nước cạn kiệt, xói mòn, lũ

quét và hạn hán xảy ra... gây nên sự mất mùa, gây thiệt hại tiền của cho các hộ sản

xuất nông nghiệp.

Trong những năm gần đây do chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước, quan

hệ Việt - Trung được nối lại, cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ (cách thị xã Hà Giang

19

20km) đã thông thương, giao lưu buôn bán được mở rộng, hàng ngàn hộ nông dân

trước kia do chiến tranh biên giới phải bỏ nhà, ruộng nương đi sơ tán, nay trở lại

làm ăn sinh sống. Phần lớn những hộ này đều thiếu vật tư, tiền vốn để tổ chức lại

sản xuất, nhất là vốn một nhu cầu cấp bách đối với hộ nông dân ở Hà Giang

Trước yêu cầu đó, các cấp uỷ, chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực

tập trung đưa nông nghiệp thị xã Hà Giang đi lên. Quan tâm tới vốn liếng và kỹ

thuật cho hộ nông dân là mục tiêu, chính sách của nhiều ngành, nhiều cấp. Các giải

pháp về cấp vốn xoá đói, giảm nghèo, đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng, chuyển

dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi của hộ nông dân là hàng loạt những cố gắng của

chính quyền địa phương - trong đó tín dụng hộ sản xuất là công cụ quan trọng nhất.

2. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa bàn

thị xã Hà Giang:

Hà Giang là một tỉnh miền núi cao mới được chia tách từ tháng 10/1991, nơi

chưa hề có cho vay nông hộ, lại có những đặc thù như đã nêu trên, có nhu cầu vốn

đầu tư rất lớn để khai thác tiềm năng tự nhiên, ứng dụng khoa học công nghệ, tổ

chức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho lao động... Trong khi các nguồn vốn khác

không đáng kể, mọi nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu trông vào vốn

tín dụng Ngân hàng.

Với hơn 2.100 hộ sản xuất trên địa bàn thị xã rộng 97km2, gồm 5 xã, 4

phường, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, việc cho vay

hộ sản xuất tại địa bàn thị xã Hà Giang không chỉ đơn thuần là vốn kinh doanh mà

còn phục vụ chính sách chiến lược của Đảng, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,

nông thôn, nông dân là bước đi lên công nghiệp hoá.

Để cho vay được tới hộ sản xuất ở thị xã Hà Giang, thực chất là phải giải

quyết được các vấn đề sau:

Một là về cán bộ tín dụng: Yêu cầu về cán bộ tín dụng phải thực sự toàn diện

trên mọi mặt, phải có trình độ, có năng lực, có đạo đức nghề nghiệp, có sức khoẻ,

có quan điểm phục vụ nhân dân hết mình.

20

Khi xuống cơ sở làm việc, cán bộ tín dụng phải độc lập xử lý các tình huống

nghiệp vụ. Vì vậy không có đủ năng lực, không có đạo đức nghề nghiệp thì sẽ

không giải quyết được công việc, dễ phát sinh tiêu cực. Mặt khác, muốn là bạn với

nhà nông cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am hiểu kỹ thuật về cây trồng, vật nuôi

để cùng tham gia với hộ nông dân, lựa chọn phương án tốt để đầu tư phát triển kinh

tế.

Với địa hình, địa lý tự nhiên của địa bàn phải trèo đèo, lội suối... nếu người

cán bộ tín dụng không có sức khoẻ thì không thể tới các thôn bản, tới hộ sản xuất,

không thể bám trụ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Nếu không có quan điểm vững vàng sẽ không thấy hết vai trò, trách nhiệm

của mình trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn của Đảng và Nhà

nước, sẽ bị co lại trước khó khăn và nảy sinh tiêu cực, gây thiệt hại đến sức lao

động, tiền bạc, thời gian của người dân, thay vì làm lợi cho họ.

Hai là vấn đề màng lưới và hình thức đầu tư: Nếu để riêng cho cán bộ tín

dụng trực tiếp nắm bắt nhu cầu của từng hộ, thẩm định từng món vay ở thôn bản thì

không thể đáp ứng được nhu cầu đông đảo của hộ sản xuất mang tính thời vụ được.

Thời vụ là cùng lúc có phân bón, cây giống làm sao hộ sản xuất thiếu vốn chờ được

cán bộ tín dụng đi thẩm định từng hộ. Vì vậy vấn đề đòi hỏi là phải tổ chức cho vay

qua các tổ trung gian: liên gia, tín chấp, tổ hỗ trợ vay vốn... Thành lập những tổ này

sẽ chắp thêm những cánh tay vươn dài cho Ngân hàng nông nghiệp đến tận ngõ

ngách, thôn, bản, tạo cơ sở nắm chắc địa bàn, nắm vững đối tượng để đầu tư đúng

hướng, có hiệu quả.

Ba là vấn đề pháp lý: Trong điều kiện môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh

mà việc cho vay phải tuân thủ những quy định chặt chẽ để bảo toàn vốn, để vừa

phục vụ đắc lực cho nông thôn, nông dân, vừa đạt được yêu cầu trên, thì không có

cách nào khác là phải vận dụng linh hoạt luật với lệ để cho vay. Pháp luật đôi khi

còn mơ hồ, khó hiểu đối với nông dân miền núi, nhưng luật lệ làng bản, dòng tộc lại

có sức mạnh thiêng đối với họ. Nếu làm cho hoạt động tín dụng hộ sản xuất gắn với

21

đời sống của bà con, gắn được với quyền lợi của làng bản thì khả năng đầu tư sẽ

không ngừng được mở rộng với sự đảm bảo ngày càng cao.

Bốn là hoạt động tín dụng phải đi đôi với ứng dụng khoa học kỹ thuật: Ngân

hàng sẽ không thể đầu tư đại trà vào nông nghiệp, một ngành có tỷ suất lợi nhuận

thấp, nếu không tính đến sự đầu tư khoa học kỹ thuật tương ứng để nâng cao năng

suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, tạo tỷ suất hàng hoá cao, tỷ suất lợi nhuận lớn

hơn, đảm bảo có lãi trả đủ vốn cho Ngân hàng (gốc và lãi) và tái sản xuất mở rộng.

Ngân hàng không chỉ đơn thuần cho vay hộ sản xuất mà không tính đến điều kiện

cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... là

những yếu tố có vai trò quan trọng đến việc tổ chức sản xuất của người nông dân.

Năm là về lãi suất: Cần có một chính sách lãi suất hợp lý cho nông nghiệp,

cho hộ sản xuất. Đặc biệt trước cơ chế khoán tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp,

nếu cứ bình đẳng lãi suất với các thành phần kinh tế thì nông dân chỉ có thể vay đủ

vốn cho sản xuất giản đơn mà không dám vay nhiều để mở rộng sản xuất vì đơn

giản là làm không đủ trả lãi cho ngân hàng.

ii. khái quát hoạt động của hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang:

1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở:

Hà Giang là tỉnh mới được chia tách ra từ tỉnh Hà Tuyên cũ vào tháng

10/1991. Cùng đó, hệ thống Ngân hàng Hà Giang đã được chia tách và hình thành,

trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt

động của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh lúc đó chủ yếu là tiếp quản và kiện toàn lại

bộ máy hoạt động sẵn có của Ngân hàng thị xã Hà Giang và các Ngân hàng huyện.

Đầu năm 1992, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang được thành lập

trên cơ sở tiếp quản mọi hoạt động của Ngân hàng thị xã Hà Giang trước đây. Mô

hình tổ chức của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang thực chất là thực hiện

mô hình kéo dài từ Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trực tiếp tổ chức hoạt

động kinh doanh theo quy chế tổ chức hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Việt

Nam trên địa bàn thị xã Hà Giang.

Cơ cấu tổ chức và biên chế của Hội sở như sau:

22

 Phó giám đốc trực tiếp phụ trách: 01 người

 Phòng kế toán giao dịch: 07 người

 Phòng ngân quỹ: 04 người

 Phòng kinh doanh: 09 người

Cộng: 21 người

sơ đồ mô hình tổ chức của hội sở

Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh

Phòng

9 Ngân hàng huyện

Phòng Tổ chức, HCQT

Phòng Kiểm soát nội bộ

Kế toán tài vụ

Phòng Kế hoạch nghiệp vụ

Phòng Ngân quỹ 

Phòng Kế toán Giao dịch 

Phòng Kinh doanh

phó giám đốc nhn0 tỉnh 

(Bộ máy của Hội sở gồm ---)

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang là đơn vị nhận khoán tài chính

trực tiếp với Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh (như các Ngân hàng huyện),

23

có bảng cân đối, quyết toán riêng. Thực hiện điện báo, báo cáo thống kê và các hoạt

động theo quy định của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp.

Địa bàn hoạt động gồm 3 xã, 4 phường thuộc thị xã Hà Giang.

2. Công tác huy động vốn:

Nhờ có đổi mới phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng, thực hiện

đúng khẩu hiệu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đã thu hút được nhiều

khách hàng đến gửi tiền, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.

Nhận thức được chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại là huy

động vốn để cho vay, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp Hà Giang đã huy động vốn bằng các hình thức sau:

 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế.

 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.

 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng.

 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng.

 Kỳ phiếu 13 tháng.

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp là đơn vị đóng tại Trung tâm kinh tế của tỉnh

nên công tác huy động vốn có nhiều thuận lợi so với các chi nhánh khác ở huyện.

Vì vậy kết quả huy động hàng năm luôn đáp ứng kịp thời cho các mục tiêu, chương

trình phát triển kinh tế của địa phương và bổ sung cho các chi nhánh huyện.

24

Biểu số liệu về công tác huy động vốn

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu 31/12 31/12 31/12

/1999 /2000 /2001 Số TĐ % Số TĐ %

Tổng nguồn vốn huy động 38.006 45.274 49.176 +7.268 +19,0 +11.170 +29,39

6

1. Tiền gửi không kỳ hạn 25.475 29.319 26.688 +3.844 +15,0 +1.213 +4,76

0

- Tiền gửi cácTCKT 24.109 27.961 21.457 +3.852 +15,9 -2.652 -11,00

7

- Tiền gửi tiết kiệm 1.366 1.358 5.231 -8 +3.865 +282,90

2. Tiền gửi có KH < 12T 9.117 15.659 21.968 +6.542 +71,7 +12.851 +141,00

5

- Tiền gửi các TCKT 2.400 3.500 8.500 +2.100 +87,5 +6.100 +254,00

0

- Tiền gửi tiết kiệm 6.717 12.159 13.468 +5.442 +81,0 +6.751 +100,50

0

3. Tiền gửi có KH > 12T 3.414 296 520 -3.118 -91,32 -2.894 -84,76

- Tiền gửi tiết kiệm 3.414 296 520 -3.118 -91,32 -2.894 -84,76

60

49

45,2

50

38

40

30

20

10

0

N¨ m 1999

N¨ m 2000

Quý I/2001

Có thể biểu diễn số liệu huy động vốn qua các năm bằng sơ đồ:

25

* Nhận xét:

Qua biểu số liệu trên, cho thấy số dư nguồn vốn huy động vẫn tăng đều hàng

năm, đó là điểm tích cực của đơn vị. Tuy nhiên, xét về cơ cấu nguồn vốn qua các kỳ

ta thấy, tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn huy

động. Cụ thể năm 1999 chiếm 69,74% (26.509/38.000); năm 2000 chiếm 69,49%

(31.461/45.274); quý I/2001 chiếm 60,91% (29.957/49.176). Đây là nguồn vốn tương

đối ổn định của khách hàng truyền thống (TCKT) đã mở tài khoản giao dịch tại Hội

sở.

Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư rất hạn chế, chiếm tỷ lệ nhỏ.

Nguyên nhân do các hình thức huy động vốn còn hạn chế, chưa phong phú, tiền gửi

tiết kiệm và kì phiếu có kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ lệ quá nhỏ, không phải do

không có khách hàng mà do Hội sở chỉ huy động trong thời gian ngắn và hạn chế số

lượng. Mặt khác quan trọng hơn, đó là lãi suất huy động chưa hấp dẫn khách hàng,

bên cạnh đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển luôn có mức lãi suất huy động cùng

loại cao hơn, có nhiều hình thức huy động phong phú hơn.

3. Về công tác sử dụng vốn:

biểu số liệu về sử dụng vốn

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001

Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%)

Tổng dư nợ 13.726 100 33.589 100 41.331 100

1. Dư nợ theo loại cho vay

- Cho vay ngắn hạn 8.457 61,61 200.02 59,62 22.121 53,52

9

- Cho vay trung, dài hạn 5.269 38,39 13.560 40,38 19.210 46,48

26

2. Dư nợ theo thành phần

kinh tế

- Dư nợ DN Nhà nước 7.250 52,81 7.832 23,31 7.802 18,87

- DNTN, Công ty TNHH 470 3,42 13.175 39,22 14.264 34,51

- Hộ tư nhân, các thể 6.006 43,77 12.582 37,47 19.265 46,62

Biểu số liệu trên nói lên công tác mở rộng đầu tư tín dụng của Hội sở rất tích

cực, liên tục qua các thời điểm đều tăng mạnh, dư nợ 31/12/2000 tăng so

31/12/1999 là 19.863 triệu đồng, tỷ lệ tăng 144,7%, dư nợ 31/3/2001 tăng so với

31/12/2000 là 7.742 triệu đồng, tỷ lệ tăng 23,04%.

Do thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế của tỉnh, đẩy mạnh và phát

triển nông - lâm nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, vì vậy Hội sở đã có cơ hội đầu tư vào

các dự án vừa và nhỏ cho các hộ phát triển kinh tế. Mặt khác số cán bộ công chức ở

địa phương đã thế chấp thu nhập để vay tiền làm kinh tế và cải thiện điều kiện sinh

hoạt.

Bên cạnh đó, tác phong giao dịch, thủ tục cho vay đối với khách hàng đã

được giải quyết nhanh chóng, từ khâu thẩm định đến xét duyệt cho vay.

Xét về cơ cấu vốn, cho thấy dư nợ ngắn hạn ở các thời điểm đều chiếm tỷ

trọng lớn trên tổng dư nợ (61,61%, 59,62% và 53,52%), chứng tỏ rằng Hội sở chỉ

có nhiều dự án nhỏ, thời hạn ngắn, chưa có nhiều dự án vừa và lớn (trung, dài hạn).

Tuy nhiên, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn cũng giảm dần, nhường thị phần cho dư nợ

trung, dài hạn với tốc độ tăng dần (38,39%; 40,38%; 46,48%). Điều đó chứng tỏ

Hội sở đã tập trung khai thác đầu tư cho các dự án có chiều sâu theo các mục tiêu,

chương trình phát triển kinh tế của tỉnh.

Xét về cơ cấu theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ của doanh nghiệp nhà

nước có nhu cầu vốn luôn ổn định về số tuyệt đối từ 7  8 tỉ đồng. Dư nơ của kinh

tế ngoài quốc doanh và hộ nông dân chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng qua các thời

điểm, chứng tỏ Hội sở đã đầu tư đúng hướng, phù hợp với mục tiêu, phương hướng

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Đặc biệt dư nợ của khu vực tư nhân và các

27

thể (kinh tế hộ) tốc độ tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng, dư nợ

31/12/2000 so 31/12/1999 tăng 6.576 triệu đồng, tỷ lệ tăng 109,5%; dư nợ

31/3/2001 so 31/12/2000 tăng 6.683 triệu đồng, tỷ lệ tăng 53,11%.

Để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của Hội sở, ta đi vào phân tích kết

quả cho vay, thu nợ và dư nợ quá hạn của đơn vị.

3.1. Kết quả cho vay và thu nợ:

chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 Quý I/2001

1. Tổng doanh số cho vay 38.669 64.913 9.625

Trong đó:

32.734 50.287 3.539 - Cho vay ngắn hạn

5.935 14.626 6.086 - Cho vay trung, dài hạn

36.021 45.050 1.883 2. Tổng doanh số thu nợ

Trong đó:

33.912 38.715 1.447 - Thu nợ ngắn hạn

2.109 6.335 436 - Thu nợ trung, dài hạn

* Nhận xét:

 Doanh số cho vay năm 2000 là 65 tỷ so với năm 1999 tăng 26 tỷ, tỷ lệ

tăng 66,66%.

Trong đó:

+ Cho vay ngắn hạn 50 tỷ, chiếm 76,92%; so với năm 1999 cho vay ngắn

hạn tăng 17,5 tỷ, tỷ trọng tăng 53,62%.

+ Cho vay trung - dài hạn 14,6 tỷ, chiếm 23,98% tăng so với năm 1999 là

8.691 triệu, tỷ lệ tăng 146,43%.

Chứng tỏ việc đầu tư cho vay vào các dự án trung hạn có chiều hướng tăng

nhanh hơn cho vay ngắn hạn.

28

 Doanh số thu nợ năm 2000 là 45 tỷ tăng 9 tỷ so với năm 1999, tỷ lệ tăng

25%.

Trong đó:

 Doanh số thu nợ ngắn hạn là 38,7 tỷ, tăng so với năm 1999 là 4,7 tỷ, tỷ lệ

tăng 13,82%.

 Doanh số thu nợ trung dài hạn là 6,3%, tuy có tăng so với năm 1999 là

4,2 tỷ, tỷ lệ tăng 200%, nhưng doanh số thu nợ trung - dài hạn chỉ chiếm có 14%

trên tổng doanh số thu nợ, vì phần lớn dư nợ trung - dài hạn mới đầu tư chưa đến

hạn, chủ yếu thu các món đến hạn theo kỳ hạn nợ và một số nợ đến hạn, quá hạn

của những năm trước.

3.2. Đánh giá kết quả chất lượng tín dụng qua biểu dư nợ quá hạn của

Hội sở:

Chỉ tiêu 31/12 31/12 31/12 SS 2001/1999 SS 2000/1999

/1999 /2000 /2001 Số TĐ % Số TĐ %

I. Tổng số nợ quá hạn 722 327 242 -395 -54,7 -480 -66,48

1. Phân loại NQH theo loại

- Nợ quá hạn ngắn hạn 80 68 -259 -76,40 -271 -79,94 339

- Nợ quá hạn trung - dài hạn 247 174 -136 -35,50 383

2. Phân loại NQH theo thời

gian

148 - NQH đến 180 ngày 97 88 -51 -34,45 -60 -40,54

138 - NQH đến 181-360 ngày 101 84 -37 -26,81 -54 -39,13

436 - NQH trên 360 ngày 129 70 -307 -70,41 -36,6 -83,94

II. Tổng dư nợ 10.726 30.589 31.520

III. Tỷ lệ NQH/TDN 6,73 1,06 0,76 -5,67 -5,97

Số liệu biểu trên đã nói lên chất lượng tín dụng của Hội sở chuyển biến rất

tích cực, nợ quá hạn ở các thời điểm đều giảm. So sánh 31/12/2000 với 31/12/1999

số nợ quá hạn giảm một cách đột biến, với số tuyệt đối giảm 395 triệu đồng, tỷ lệ

giảm 54,7%. Nguyên nhân do năm 2000, Hội sở đã tăng trưởng dư nợ rất mạnh

29

(tăng 185%) và xử lý rủi ro được 184 món = 383 triệu đồng, đồng thời cán bộ tín

dụng cũng đã rất tích cực trong công tác thu nợ quá hạn và nợ đến hạn, nhằm giảm

nợ quá hạn và không cho nợ quá hạn mới phát sinh.

Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn đã chấn chỉnh kịp thời các

sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ của Hội sở. Vì vậy công tác

thẩm định, xét duyệt cho vay trong những năm gần đây chặt chẽ và hiệu quả hơn, ít

phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ Ngân hàng.

Tóm lại: Với tốc độ tăng trưởng dư nợ, kết quả công tác cho vay - thu nợ, số

dư nợ quá hạn giảm thấp dưới 1%, theo các biểu phân tích như trên, có thể kết luận

chất lượng tín dụng của Hội sở rất tốt. Đồng thời cũng có thể kết luận việc thực hiện

phát triển kinh tế của các hộ có kết quả và chất lượng cao. đó chính là môi trường

kinh doanh tiềm tàng cho Ngân hàng nông nghiệp đầu tư và khai thác.

4. Công tác khác:

* Tình hình tài chính của Hội sở:

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu 1999 2000 Quý SS 2000/1999

I/2001 Số TĐ %

1. Tổng thu nhập 3.385 2.504 -881 -26 948

2. Tổng chi phí 2.817 1.851 -966 -34,3 287

3. Chênh lệch thu - chi +468 +653 +661 +193 +41,23

4. Hệ số lương 1,4 1,65 1,65

Trong quá trình kinh doanh, Hội sở đã luôn cố gắng tiết kệm các khoản chi

phí không cần thiết và tích cực đôn đốc thu. Vì vậy kết quả kinh doanh hàng năm

luôn có lãi và đạt được hệ số lương tối đa do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam

quy định (hệ số lương tối đa năm 1999 là 1,4, năm 2000 và 2001 là 1,65), thu nhập

bình quân cán bộ công nhân viên là 1.800.000đ/người không kể ăn ca.

30

* Về thực hiện chế độ nghiệp vụ kế toán cho vay, kế toán thanh toán, kế toán

tài sản... số liệu đảm bảo chính xác, cập nhật đầy đủ, đúng chế độ quy định, các

nghiệp vụ kế toán khác như thanh toán liên hàng, chuyển tiền được thực hiện

thường xuyên, đảm bảo nhanh chóng, chính xác theo yêu cầu của khách hàng và

đúng chế độ quy định, thái độ và tác phong giao dịch của cán bộ tận tình, chu đáo.

* Công tác ngân quỹ

 Tổng thu tiền mặt và ngân phiếu trong năm 2000: 139.395 triệu

 Tổng chi tiền mặt, ngân phiếu năm 2000: 139.353 triệu

Trong năm đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 144 món, số tiền 27.605.000đ,

phát hiện và thu hồi tiền giả 640 tờ tiền giả với số tiền 23.355.000đ

Nhìn chung công tác ngân quỹ của Hội sở đã chấp hành tốt các quy định về

an toàn kho quỹ, các sổ quỹ, sổ ra vào kho, sổ bàn giao chìa khoá kho... đều được

lập và ghi chép đúng chế độ quy định, không để xảy ra mất mát, thiếu hụt quỹ.

Ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hội sở còn làm tốt

các mặt công tác khác như thiết lập tốt mối quan hệ với các cơ quan pháp luật trên

địa bàn cùng kết hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đặc biệt trong công tác

thu nợ. Bên cạnh đó, Hội sở còn luôn tổ chức và tham gia các phong trào văn hoá -

thể thao, hội thi tìm hiểu luật, thi công đoàn, thi nghiệp vụ kiểm ngân, tin học, cán

bộ tín dụng giỏi... tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong cơ quan, động viên cán bộ

thêm hăng say trong công việc.

31

iii. thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà

Giang

1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà

Giang:

Thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi hệ thống

Ngân hàng từ 1 cấp sang Ngân hàng 2 cấp. Hoạt động Ngân hàng nói chung trong

đó có hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp nói riêng có vị trí rất quan

trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự chỉ đạo

củaBan lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trong các năm qua kết quả hoạt động

kinh doanh của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã đi đúng hướng, thực

hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, phục vụ kịp thời cho các chương trình, mục tiêu phát

triển kinh tế của địa phương, đã góp phần thúc đảy nền kinh tế nông nghiệp địa

phương phát triển với các chương trình về lương thực, thực phẩm, chuyển đổi cơ

cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, xây dựng một nông thôn mới giúp cho

hộ sản xuất từkinh tế thuần nông chuyển dần sang đa canh, từ kinh tế tự cung, tự

cấp của người nông dân sản xuất nhỏ, manh mún sang kinh tế hàng hoá.

Cũng từ nền kinh tế thuần nông mà dân còn nghèo, việc tạo lập nguồn vốn

trong nông nghiệp rất khó khăn, các món vay nhỏ lẻ, tản mạn, chi phí cao, kết quả

kinh doanh thấp, mức thu nhập của cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp không cao, môi

trường và địa bàn hoạt động còn nhiều khó khăn phức tạp, đó là những khó khăn

nhất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.

Nhưng trong những năm gần đây, Hội sở đã bám sát chủ trương, chính sách

của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn,

bám sát thị trường nông thôn, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sản xuất, chăn nuôi

phục vụ chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Hiện nay trên địa bàn có nhiều tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho nông

nghiệp - nông thôn, nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn vẫn là

tổ chức tài chính lớn nhất cung cấp tín dụng cho lĩnh vực này. Chỉ có Ngân hàng

32

Nông nghiệp mới tới tận thôn bản, tận hộ để cung cấp vốn cho từng dự án, cho từng

con trâu, bò, cung cấp vốn cho từng cân phân bón, từng cân giống lúa mới... cho bà

con có cơ hội để phát triển kinh tế, chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới là người bạn

tận tuỵ với nhà nông.

Cơ cấu đầu tư tín dụng của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã

thực sự chuyển biến một cách tích cực, tỷ lệ đầu tư trung hạn cho hộ sản xuất mỗi

năm một tăng, thực chất đó là tạo lập thị trường, tạo khách hàng ổn định trong quá

trình kinh doanh.

1.1. Công tác cho vay và thu nợ đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp Hà Giang:

Sau khi có luật Ngân hàng Nhà nước , luật các tổ chức tín dụng, theo các văn

bản hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng Nhà

nước, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã ban quyết định

180/QĐ-HĐQT ngày 15/12/998, gần đây là quyết định số 06 ngày 18/1/2001 quy

định cho vay đối với khách hàng. Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã thực

hiện đúng các quy định trên.

Nhìn chung, từ khi Hội sở triển khai cho vay hộ sản xuất, bước đầu đã đúc

kết được kinh nghiệm về quá trình cho vay hộ sản xuất.

Thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn, góp phần từng bước hình thành các

vùng kinh tế, tạo khả năng phát triển kinh tế hàng hoá trên địa bàn thị xã Hà Giang.

Góp phần củng cố các đoàn thể xã hội, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn,

tạo điều kiện ban đầu để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào sản xuất và

chế biến nông sản, giải phóng phần nào sức lao động cho nông dân, mở rộng các

ngành nghề, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn.

Năm 2000, Hội sở đã đầu tư tín dụng vào các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp

như sau:

 Lĩnh vực trồng trọt: 3.270 triệu đồng

 Lĩnh vực chăn nuôi: 3.112 triệu đồng

33

 Tiểu thủ công nghiệp, vận tải: 1.950 triệu đồng

 Thương nghiệp dịch vụ: 3.550 triệu đồng

 Ngành nghề khác: 700 triệu đồng

Số lượt hộ đến Hội sở vay vốn trong năm 2000 là 1.850 lượt.

Biểu số liệu cụ thể về hoạt động tín dụng

hộ sản xuất của Hội sở như sau:

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu 31/12 31/12 31/3 SS 2000/1999

/1999 /2000 /2001 Số TĐ %

I. Tổng dư nợ hộ sản 6.006 12.582 19.265 + 6.576 + 109,4

xuất 9

1. Dư nợ ngắn hạn 3.604 6.669 9.247 + 3.065 + 85,00

2. Dư nợ trung, dài hạn 2.402 5.913 10.018 + 7.616 + 317,0

0

II. Tổng doanh số cho 5.830 15.397 8.080 + 9.567 + 164,0

vay 0

1. Cho vay ngắn hạn 2.974 5.630 3.539 + 2.656 + 89,30

2. Cho vay dài hạn 2.856 9.767 4.541 + 6.911 + 242,0

0

III. Tổng doanh số thu 3.275 6.821 1.559 + 3.546 + 108,2

nợ 7

1. Thu nợ ngắn hạn 1.259 2.565 1.123 + 1.306 + 103,7

3

34

2. Thu nợ dài hạn: 2.016 4.256 436 + 2.240 + 111,0

0

Số liệu biểu trên cho thấy đã rất chú trọng trong việc mở rộng đầu tư tới

thành phần kinh tế theo các chương trình kinh tế của tỉnh đề ra.

Các số liệu về cho vay, thu nợ, dư nợ trung, dài hạn đã ngày càng mở rộng,

chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào các dự án chiều sâu có hiệu quả, nhằm tạo

lập một thị trường lâu dài và bền vững tới các hộ. Đồng thời cũng phù hợp với

chương trình kinh tế của địa phương về phát triển cây chè là mũi nhọn của địa

phương, phát triển đàn trâu, bò của địa phương, cho vay chất lợp đối với đồng bào

nông thôn gặp khó khăn (tỉnh hỗ trợ lãi suất).

Bên cạnh việc mở rộng đầu tư cho vay, thì công tác thu hồi nợ của Hội sở

cũng đạt được kết quả tốt. Từng cán bộ tín dụng đã bám sát địa bàn của mình,

thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, có

hiệu quả, làm tiền đề thuận lợi cho công tác thu nợ, hạn chế tối đa nợ quá hạn phát

sinh.

biểu số liệu dư nợ quá hạn hộ sản xuất

Đơn vị: triệu đồng

31/12 31/12 31/03 So sánh 2000/1999

/1999 /2000 /2001 Chỉ tiêu Số tuyệt đối %

I. Tổng dư NQH hộ SX 722 327 242 - 395 - 54,7

1. NQH theo loại cho vay

339 - NQH cho vay ngắn hạn 80 68 - 259 - 76,4

383 - NQH cho vay trung, dài hạn 247 174 - 136 - 35,5

2. NQH phân theo thời gian

35

- NQH đến 180 ngày 148 97 88 - 51 - 34,45

- NQH từ 181 - 360 ngày 138 101 84 - 37 - 26,81

- NQH trên 360 ngày 346 1129 70 - 307 - 70,41

II. Tỷ lệ NQH/TDN hộ SX 12,02% 2,59% 1,25% - 9,43%

Số liệu biểu trên cho biết số nợ quá hạn của Hội sở 100% là dư nợ của hộ sản

xuất. Nợ quá hạn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ quá hạn

(53,04%; 75,53%; 71,9%). Nguyên nhân là do những năm trước đây Hội sở thực

hiện cho vay theo chương trình trồng cây cà phê của tỉnh đã bị thất bại, do thời tiết

và khí hậu của Hà Giang không phù hợp, hạn hán kéo dài đã làm chết hàng loạt đồi

rừng cà phê. Số ít còn sống thì năng suất và chất lượng không cao, đã tác động

mạnh vào thu nhập của các hộ và Ngân hàng Nông nghiệp nói chung, Hội sở nói

riêng.

Tuy nhiên, trong những năm qua, Hội sở đã có rất nhiêu biện pháp tích cực

giúp các hộ có điều kiện để khôi phục lại sản xuất, thu hồi được vốn của Ngân hàng.

Các trường hợp có nợ quá hạn khó đòi, kéo dài, Hội sở đã phối hợp tốt với

các cơ quan chức năng của địa phương để thu nợ như phát mại tài sản thế chấp, cầm

cố, bảo lãnh...

Kết quả công tác thu nợ quá hạn của Hội sở rất tốt, không những giảm tỷ lệ

mà còn giảm cả số tuyệt đối. So sánh 31/12/200 với 31/12/1999, tỷ lệ nợ quá hạn

giảm 9,43%, số tuyệt đối giảm 395 triệu.

1.2. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp Hà Giang:

Với tốc độ tăng trưởng của dư nợ, kết quả công tác cho vay, thu nợ, tỷ lệ nợ

quá hạn giảm thấp dưới 3%. Theo các biểu số liệu và phân tích như trên, chứng tỏ

chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở rất tốt, các chiến lược đầu tư, kinh

36

doanh của Hội sở đúng hướng, đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho

Hội sở đầu tư và khai thác.

Với kết quả hoạt động kinh doanh như vậy, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp

Hà Giang đã có đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế nông nghiệp và

nông thôn, đồng vốn của Ngân hàng đã được sử dụng đúng mục đích, khai thác triệt

để khả năng tiềm tàng, tăng nhanh vòng quay đồng vốn.

Nhiều hộ gia đình đã giàu lên nhờ được vay vốn Ngân hàng, hàng nghìn lao

động đã có công ăn việc làm, bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới.

Nhờ đồng vốn Ngân hàng, từ các nhu cầu thiết yếu của hộ nông dân như cây,

con giống, phân bón... đến các phương tiện khoa học kỹ thuật như ứng dụng khoa

học, máy móc, thiết bị... đều được đáp ứng đầy đủ và kịp thời. Vốn Ngân hàng đã

thực sự góp phần giúp nông dân khắc phục khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Với số vốn đầu tư trong năm 2000 của Hội sở đã giúp cho các hộ mua sắm

và đầu tư được như sau:

2793 con 2.150 triệu đồng. =

 Lợn giống và lợn thịt:

1820 con 5.460 triệu đồng =

 Trâu, bò giống và sức kéo:

= 1.000 tỷ đồng

 Mua sắm máy móc, thiết bị trị giá:

 Cho vay trồng và chăm sóc cây chè 102ha = 2.117 triệu đồng

= 2.292 triệu đồng

 Cho vay trồng và tu bổ rừng 372ha

1.710 triệu đồng

 Cho vay thâm canh lúa, ngô lai 857ha =

= 772 triệu đồng

 Cho vay ngành nghề khác

Ví dụ:

+ Hộ ông Nguyễn Văn Thái - Tổ 3 xã Phú Linh, thị xã Hà Giang vay Ngân

hàng 10 triệu đồng cùng với vốn tự có của gia đình, ông vừa đầu tư vào máy xay

xát, vừa đầu tư vào chăn nuôi. Gia đình ông lúc nào cũng có từ 30-40 con lợn thịt

trong chuồng, mỗi năm xuất chuồng bình quân từ 2-3 tấn thịt lợn hơi, ngoài ra còn

37

có thu nhập từ nuôi gà, cá... mỗi năm gia đình ông thu nhập được từ 20 - 25 triệu

đồng.

+ Hộ ông Hoàng Ngọc Hùng - Tổ 10, phường Nguyễn Trãi, thị xã Hà

Giang vay Ngân hàng số tiền 100 triệu đồng mua một xe chở khách 24 chỗ ngồi, dự

án này đã giải quyết việc làm cho 2 lao động có thu nhập đều đặn, bình quân mỗi

tháng thu nhập trừ chi phí còn được lãi 6 triệu đồng, dự kiến sau 2 năm sẽ tất toán

dư nợ với Ngân hàng.

2. Một số tồn tại và nguyên nhân:

Tồn tại:

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh

Hà Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn một số tồn tại cần

được khắc phục.

 Về tài sản đảm bảo tiền vay:

Đối với các hộ nông thôn ở miền núi, tài sản lớn có giá trị để đảm bảo tiền

vay là ngôi nhà. Xét về mặt giá trị có thể tới 3-4 chục triệu đồng, nhưng vẫn không

đủ tiêu chuẩn làm đảm bảo vì khi khách hàng vay vốn không trả được nợ phải phát

mại tài sản thì thật khó tìm đươc người mua ngôi nhà ở lưng chừng đồi, bên bờ suối,

với nhà nọ cách nhà kia khá xa (200-300m). Khi có người mua thì giá trị đã bị mất

tới 50-60% cho nên việc định giá tài sản khi cho vay và số tiền thu được khi thanh

lý tài sản là quá trình khó khăn và phức tạp, thường kéo dài thời gian tới vài năm,

gây nên nhiều phí tổn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cũng như việc tập trung

nguồn vốn của Ngân hàng.

Đối với việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay thì có thể

các hộ có nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có thể vay được và Ngân hàng cũng yên

tâm hơn vì đối với đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng không thể thiếu đối với các hộ

sản xuất, nhưng quyền này do cơ quan có thẩm quyền xét cấp. Cho đến nay ở thị xã

Hà Giang mới chỉ có khoảng 60-65% số hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất. Do vậy một số hộ có nhu cầu về vốn sản xuất lại không có quyền sử dụng

38

đất lâu dài, rất khó trong việc đảm bảo tiền vay, hoặc khi không trả được nợ nếu

không có quyền sử dụng đất khi bán thanh lý vì ít người mua, hoặc có mua cũng bị

giảm giá từ 20-30%, làm thiệt hại cho khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng thu nợ

của Ngân hàng.

- Trong quá trình cho vay phục vụ các chương trình kinh tế của tỉnh (ngân

sách tỉnh trợ cấp lãi suất trong thời hạn vay) như cho vay trồng cây cà phê, mua

máy sao sấy chè mi ni, máy bóc vỏ cà phê, máy tuốt lúa, máy cày, máy gặt... Bằng

chính sách cởi mở để đưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. Nhưng trên

thực tế, do cây cà phê không phù hợp với chất đất và khí hậu đã bị chết đến 70%

diện tích trồng, mặt khác do trình độ nhiều hộ có hạn đã không biết sử dụng máy

móc nên chẳng được bao lâu máy hỏng, làm ăn thua lỗ, hết thời hạn không trả được

nợ Ngân hàng, ngân sách cũng không trả lãi, dẫn đến Ngân hàng là người gánh hậu

quả.

Đây là vấn đề nan giải do lực lượng sản xuất còn bất cập so nhu cầu sản xuất

hàng hoá trên quy mô lớn, sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân

tán, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, đã làm ảnh hưởng đến

việc đầu tư vốn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

 Việc đầu tư vốn phần nào còn mang tính chắp vá, dàn trải theo diện rộng,

đầu tư theo chiều sâu chưa nhiều, tính khả thi của một só dự án vay vốn chưa cao.

 Trình độ dân trí có hạn, nên khi vay vốn Ngân hàng với số lượng lớn để

đầu tư trung hạn như trồng rừng, trồng cây ăn quả... chỉ quen làm theo kinh nghiệm

nhà nông thì khi phải lập một dự án sản xuất kinh doanh lại không có khả năng làm

được. Do vậy nhiều khi nhu cầu vốn rất cần, song lại ngại phiền hà, không làm

được dự án, đây cũng là trở lại cho việc đẩy mạnh đầu tư tín dụng.

 Khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp trên

địa bàn còn nhiều hạn chế, chủ yếu là về cơ chế lãi suất. ở mọi thời điểm, bao giờ

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng có lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay

thấp hơn so với Ngân hàng Nông nghiệp, chính vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới

39

kết quả huy động vốn cũng như việc mở rộng đầu tư cho vay, nhất là đối với các dự

án có tính chiều sâu, cần khối lượng vốn lớn, thời hạn dài.

 Đối với các ngành pháp luật chưa đồng bộ, chưa cương quyết cùng với

Ngân hàng để phát mại tài sản khi khách hàng làm ăn thua lỗ do chủ quan gây ra

không trả được nợ, các hồ sơ khi chuyển sang toà thụ lý và giải quyết phải mất thời

gian khá dài, tốn kém chi phí.

* Nguyên nhân tồn tại:

 Do điều kiện của một Ngân hàng miền núi chưa thực sự theo kịp với yêu

cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và yêu cầu đổi mới trong hoạt

động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng.

 Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, chưa ngang

tâm với việc quản lý một khối lượng vốn lớn trên địa bàn rộng, đường sá đi lại khó

khăn, với số lượng hộ sản xuất quá lớn. Do vậy việc kiểm tra thẩm định dự án cho

vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ, thu lãi không được kịp thời, do vậy không phát hiện

được sớm những món vay có tỷ lệ rủi ro cao làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh

của Ngân hàng và với việc tập trung nguồn vốn. Điều này cũng dễ nảy sinh tư

tưởng hạn chế cho vay cho các hộ sản xuất.

 Cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, đường sá đi lại

chưa thuận tiện, các hộ nông dân còn thiếu nhiều thông tin cần thiết về giá cả và thị

trường tiêu thụ, dẫn đến thị trường tiêu thụ của người sản xuất còn hạn hẹp và

không ổn định.

 Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn từ ngân sách quốc gia và nguồn nguồn

ưu đãi khác tập trung đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn, qua các

định chế tài chính khác như Ngân hàng Phục vụ người nghèo, Hệ thống quỹ tín

dụng nhân dân, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc... cũng làm hạn chế

đến việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp. Cũng do có nhiều ưu đãi này

làm cho một số hộ nông dân có tư tưởng ỷ nại vào Nhà nước, không chủ động xây

dựng các phương án sản xuất kinh doanh có lãi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và

lãi.

40

 Đối với các cấp, các ngành ở địa phương, chỉ chú trọng đến việc đầu tư

vốn phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, nhưng lại không

quan tâm đến chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng.Vì vậy khi hộ sản xuất sử

dụng vốn vay không có khả năng trả được nợ thì buộc Ngân hàng phải xử lý nợ vay

để đảm bảo thu hồi vốn. Nhưng việc làm này của Ngân hàng lại không được các

cấp, các ngành hữu quan đồng tình ủng hộ, làm ảnh hưởng tới công tác thu nợ của

Ngân hàng để đầu tư quay vòng đồng vốn, từ đó làm hạn chế rất nhiều đến những

hộ vay vốn nhưng tài sản quá ít.

 Ngoài ra còn một số nguyên nhân tồn tại khác phải bàn đến, đó là cơ chế

lãi suất còn bất cập, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra còn thấp so chi phí một

món vay quá cao. Cụ thể đối với hộ sản xuất ở cách xa nhau thường hay vay lẻ tẻ,

mỗi lần đến kiểm tra, giải quyết cho hộ vay vốn phải mất nhiều thời gian của cán bộ

tín dụng và chi phí công tác, nhiều khi hạch toán số lãi thu được và chi phí bỏ ra

Ngân hàng phải chịu lỗ. Nhưng so với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trên địa bàn

thì cao hơn, do vậy lợi thế trong kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp phải chịu

nhiều thiệt thòi.

 Công tác dịch vụ khuyến nông chưa mang lại hiệu quả cao, dẫn dến tính

khả thi của một số dự án đầu tư thấp. Cụ thể đối với một số cây trồng, vật nuôi điển

hình như: dự án trồng cây cà phê, cây cải dầu, dự án nuôi dê bách thảo...

Trên đây là những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới công tác đầu tư tín

dụng hộ sản xuất chưa được khai thác triệt để khả năng tiềm tàng sẵn có trong nông

nghiệp. Vì vậy Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang cần có những biện pháp

hữu hiệu để hạn chế và khắc phục tồn tại, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả

vốn vay, đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước, tăng thu nhập cho Ngân hàng, đồng

thời phục vụ tốt nhất, đắc lực nhất cho sự nghiệp xây dựng nông nghiệp - nông thôn

trên địa bàn, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình kinh tế

củaTỉnh Đảng bộ về phát triển nông nghiệp - nông thôn.

41

Chương III

giải pháp nhằm mở rộng cho vay gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng hộ

sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

i. những giải pháp:

Một là: Yếu tố con người quyết định mọi sự thành công hay thất bại của một

Ngân hàng hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ. Với số lượng cán bộ tín

dụng hiện nay của Hội sở: 9 người (2 người quản lý cho vay các doanh nghiệp, còn 7 người cán bộ tín dụng nông thôn) trên địa bàn 97km2 với trên 4.000 hộ sản xuất là

quá lớn. Hội sở cần trình Ban giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh bổ sung thêm

biên chế cho cán bộ tín dụng nông thôn để mỗi cán bộ có khả năng tăng trưởng dư

nợ nhưng cũng đảm bảo chất lượng tín dụng, nhằm khai thác mọi khả năng tiềm

tàng trong nông nghiệp.

Đi đôi với việc bổ sung biên chế, cần thường xuyên giáo dục nâng cao tư

tưởng đạo đức cách mạng, thường xuyên tổ chức học tập văn bản nghiệp vụ, kiến

thức pháp luật, kiến thức xã hội, kiến thức về nông - lâm nghiệp, nhằm không

ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, am hiểu pháp luật và xã hội, mỗi cán bộ

Ngân hàng cũng cần phải nắm vững chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển

kinh tế của tỉnh nhà để vận dụng vào công việc chuyên môn đạt kết quả cao.

Hai là: Bám sát các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh để mở rộng tín

dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nguồn vốn cho sản xuất và kinh doanh trên địa

bàn.

Ba là: Hoạt động Ngân hàng phải luôn gắn liền với đời sống kinh tế - xã hội

của địa phương, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng, thái độ

phục vụ khách hàng.

Bốn là: Thông qua quan hệ vay - trả của khách hàng, thực hiện nghiêm túc

việc phân loại, sàng lọc khách hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu đối với

42

khách hàng đủ điều kiện, làm ăn có hiệu quả, sòng phẳng trong thanh toán. Kiên

quyết hạn chế hoặc ngừng cấp tín dụng đối với những khách hàng làm ăn thua lỗ

triền miên, không hiệu quả, không đủ điều kiện vay vốn,do đó phải tuân thủ nghiêm

túc quy trình cho vay, chấp hành tốt các quy định, thể thể, chế độ của ngành.

Năm là: Thường xuyên củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ

thóng máy vi tính, trang bị kịp thời các phương tiện cần thiết phục vụ giao dịch với

khách hàng, đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và an toàn trong hoạt động kinh

doanh.

Sáu là: Có hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện thực tế tại địa bàn,

phải làm sao vẫn tăng trưởng được nguồn vốn vừa đảm bảo tình hình ài chính của

đơn vị, tích cực tuyên truyền, vân động khách hàng trên địa bàn mở tài khoản tiền

gửi cá nhân, áp dụng rộng rãi hình thức mở và sử dụng tài khoản cá nhân.

ii. kiến nghị:

Qua thời gian khảo sát và nghiên cứu thực tiễn cho vay hộ sản xuất tại Hội

sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang, để phù hợp với tính chất, đặc thù của tín

dụng miền núi, để đồng vốn đến với người sản xuất có hiệu quả và không ngừng

nâng cao mức sống giữa các vùng nông thôn, thực hiện các chính sách dân tộc và

miền núi, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, hy vọng sẽ góp phần thúc đẩy,

hoàn thiện việc cho vay, thu nợ đối với hộ sản xuất ở khu vực Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp Hà Giang như sau:

1. Đối với Nhà nước:

Để khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn, thúc

đẩy công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, Nhà nước

cần phải có chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, có như vậy mới

tạo điều kiện cho nhu cầu sản xuất phát triển, áp dụng công nghệ

tiên tiến, sử dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất để tạo ra môi trường sản

xuất hàng hoá thực sự trong nông thôn.

43

Cần có chính sách trợ giá đối với sản xuất nông nghiệp, chính sách bảo hiểm

và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ sản xuất. Có thể tìm cách xác định thị trường tiêu

thụ ở tầm vĩ mô, tránh sự thua lỗ và ứ đọng sản phẩm không đáng có của nông dân,

có chính sách tài trợ cho ngành nông nghiệp khi thiên tai mất mùa.

Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho các

hộ sản xuất để tạo điều kiện cho họ làm thủ tục vay vốn Ngân hàng, phát triển sản

xuất.

Đối với chính quyền địa phương cần thường xuyên phối hợp và tập trung chỉ

đạo mọi hoạt động, xử lý tồn đọng cùng với Ngân hàng cơ sở để cùng phấn đấu vì

mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương.

2. Đối với Ngân hàng cấp trên:

Nên tiếp tục cải tiến hồ sơ vay vốn sao cho gọn nhẹ, không phiền hà mà vẫn

đảm bảo tính pháp lý và phù hợp với trình độ của người dân, nhất là đối với trình độ

dân trí của một tỉnh miền núi còn thấp.

Cụ thể: Bổ sung sửa đổi mẫu hồ sơ cho vay (phần theo dõi trả nợ, trả lãi)

không đủ dòng theo dõi nợ hàng tháng, nhất là các món cho vay trung hạn, dài hạn.

Mẫu dự án, phương án sản xuất kinh doanh cần cụ thể hơn các chỉ tiêu cho

phù hợp với trình độ hộ nông dân miền nũi có trình độ dân trí chưa cao, để họ có thể

cố gắng làm được các dự án vay vốn mà không cảm thấy ngại và phiền hà. Có như

vậy thì ngân hàng cơ sở mới có thêm các dự án trung và lớn để mở rộng đầu tư cho

vay và hộ nông dân mới có vốn để mở rộng sản xuất, ngành nghề, phát triển kinh tế

nông nghiệp nông thôn.

Cải tiến bộ hồ sơ vay vốn đối với hộ gia đình vay những món nhỏ nhưng lại

vay nhiều món trong năm, nhiều đối tượng vay khác nhau theo hướng gọn nhẹ tránh

phiền hà cho khách hàng và giảm thiểu công việc cho cán bộ tín dụng.

Tăng cường công tác thông tin thị trường, giúp cho các chi nhánh có thông

tin, góp phần tổ chức cho vay có hiệu quả.

44

Cho phép uỷ quyền cho tổ trưởng thu lãi hàng tháng nhằm giảm bớt khối

lượng khách hàng giao dịch tại bộ phận kế toán ngân quỹ, trên cơ sở nâng cao khâu

kiểm tra hàng tháng của cán bộ tín dụng, tránh hiện tượng tổ trưởng lợi dụng xâm

tiêu tiền lãi.

Về lãi suất: Cần có chính sách lãi suất hợp lý cho nông nghiệp - nông thôn,

sao cho phù hợp với đặc thù của sản xuất kinh doanh ở từng khu vực, môi trường

kinh doanh của từng Ngân hàng.

3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà

Giang:

Cần xác định mức khoán cho các chi nhánh cơ sở, cán bộ tín dụng sao cho

phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn khác nhau, để họ thực sự đến được từng nhà,

từng hộ vay vốn Ngân hàng, hay thực chất là họ trực tiếp điều tra món vay và thu

nợ trực tiếp. Hiện nay ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh thực

hiện giao khoán các chỉ tiêu tín dụng như tổng dư nợ cho vay, chất lượng dư nợ, chỉ

tiêu thu nợ, thu lãi cho cán bộ tín dụng theo mức bình quân đối với từng khu vực

(khu vực các huyện phía Bắc, khu vực các huyện phía Tây, khu vực các huyện vùng

thấp và thị xã). Như vậy là chưa sát thực đối với từng cán bộ tín dụng vì trong khu

vực có những xã, những thôn thuộc khu vực vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí thấp,

điều kiện, môi trường phát triển kinh tế hạn chế. Cán bộ tín dụng phụ trách những

địa bàn đó không thể đạt tới chỉ tiêu bình quân về số lượng cũng như chất lượng.

Như vậy thì thu nhập của cán bộ tín dụng đó cũng rất thấp, dẫn đến có một số cán

bộ tín dụng đã nảy sinh tiêu cực.

Xem xét kỹ việc hợp đồng với tổ, nhóm ở địa phương, họ giúp Ngân hàng

một số khâu cần thiết, nhưng không phải là vai trò quyết định, cần tránh hiện tượng

chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà mở rộng tín dụng tràn lan trong lĩnh vực naỳ

không hợp lý, vì rủi ro tiềm ẩn ở lĩnh vực này rất cao, vì các tổ trưởng, nhóm trưởng

chỉ là những người có uy tín ở tổ, nhóm, họ chưa có kiến thức về nghiệp vụ ngân

hàng, đặc biệt là kiến thức thẩm định, kiểm tra vốn vay... Vì vậy họ không thực hiện

45

được đầy đủ các nguyên tắc, điều kiện vay vốn, mà vì tình làng nghĩa xóm họ nể

nang và xác nhận đề nghị cho vay.

Cần phối hợp với cơ quan Báo, Đài Truyền hình địa phương để tuyên truyền

phổ biến các chính sách tín dụng triển khai trên địa bàn và các văn bản hướng dẫn

của ngành, thực hiện công khai hoá để cho mọi nhà, mọi người đều biết. Có như

vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho dân vay vốn và có thể kiểm tra và họ có thể

kiểm tra, giúp đỡ lẫn nhau trong sử dụng vốn vay an toàn và hiệu quả, giúp ngân

hàng có điều kiện tăng trưởng dư nợ có chất lượng.

Thực hiện tốt công tác phối hợp với các ngành, đặc biệt với Sở Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn, Hội nông dân tỉnh trong việc cung cấp nguồn vốn cho các

chương trình dự án phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn trên địa bàn. Từ đó,

một mặt giúp cho các hộ có vốn phát triển kinh doanh ngày càng lớn có hiệu quả,

mặt khác mở rộng được đầu tư tín dụng ngân hàng có hiệu quả.

Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các chi nhánh cơ sở, phát

hiện và ngăn chặn kịp thời các sai sót trong nghiệp vụ cho vay, đảm bảo thực hiện

nghiêm chỉnh quy trình nghiệp vụ cho vay.

Do đặc điểm công việc của cán bộ tín dụng, đòi hỏi phải có sức khoẻ, có

trình độ về chuyên môn, các kiến thức về các ngành nghề của hộ sản xuất, hơn nữa

các thôn bản ở xa, đường sá đi lại khó khăn. Đề nghị Ngân hàng tỉnh cần nghiên

cứu có chế độ thoả đáng đối với cán bộ tín dụng, hỗ trợ thêm về phương tiện đi lại.

4. Đối với Hội sở:

Thường xuyên quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

đối với cán bộ Ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng, nhất là những kiến

thức cơ bản trong kinh doanh theo cơ chế thị trường hiện nay.

Cần lập hồ sơ kinh tế theo từng vùng, xã để nắm bắt kịp thời các dự án đầu

tư, tiếp cận các nhu cầu vay mới như đường, điện nông thôn, nhà ở, vệ sinh môi

trường theo hướng khách hàng phải có đủ điều kiện vay vốn, nhất là khách hàng có

khả năng trả nợ và đủ tài sản đảm bảo, nhằm tìm kiếm và khai thác tối đa các dự án

vừa, lớn và có chiều sâu, có hiệu quả.

46

Căn cứ vào mức giao khoán bình quân về các chỉ tiêu tín dụng cho cán bộ tín

dụng của khu vực, căn cứ vào đặc điểm, tình hình cụ thể của địa bàn để xây dựng

mức giao khoán cụ thể cho từng cán bộ tín dụng của mình, sao cho vẫn đảm bảo

thực hiện được chỉ tiêu phát triển tín dụng do ngân hàng tỉnh giao cả về số lượng và

chất lượng, mặt khác tạo ra được sự công bằng tương đối cho các cán bộ tín dụng,

khuyến khích và động viên họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ uỷ thác... đến cán bộ hội

nông dan, tổ trưởng vay vốn. Tạo điều kiện uỷ thác từng phần những món vay ngắn

hạn thường xuyên, nhỏ lẻ, giảm bớt được phần nào khối lượng công việc cho cán bộ

tín dụng có thời gian khai thác các dự án trung và lớn, và có chiều sâu.

Tăng cường công tác phối hợp tốt hơn nữa với chính quyền địa phương, Hội

nông dân, Viện Kiểm sát, ... trong việc kiểm tra và xử lý vốn vay, đặc biệt là những

hộ sử dụng vốn vay sai mục đích và trây ỳ không trả nợ ngân hàng.

Công tác cho vay và thu nợ của Hội sở hiện nay đã được thực hiện tương đối

tốt, chất lượng tín dụng cao tỷ lệ nợ quá hạn thấp. Để duy trì và làm tốt hợn nữa

công tác mở rộng tín dụng và hạn chế tối đa nợ quá hạn, đặc biệt không để phát sinh

nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ ngân hàng, thì cán bộ tín dụng cần nâng

cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn vay, đảm bảo

thực hiện tốt quy trình nghiệp vụ cho vay theo quy định của ngân hàng Nông nghiệp

Việt Nam.

47

kết luận

Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp và nông thôn. Để

thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, hình

thành các vùng tập trung chuyên canh. Có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có

sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương

thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường

trong và ngoài nước.

Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp - nông thôn nước ta có những

chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng liên tục

cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương thực đã được giải

quyết, từ chỗ thiếu ăn, nay đã có dư thừa xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề đã hình

thành tương đối rõ nét, các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả

và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu thế chung của cả nước,

cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi đựoc quan tâm, đầu tư, cải tạo nâng cấp và xây

dựng mới.

Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn nước

ta được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của

nhiều vùng nông thôn được cải thiện, làm cho dân giàu, nước mạnh.

Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp - nông thôn là do có sự

nỗ lực, phấn đấu, đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp. Trong đó có vai trò to lớn

của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang nói riêng, trong việc

đầu tư tín dụng, một sự cần thiết tất yếu khách quan và không thể thiếu trong quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn.

48

Cho vay hộ sản xuất, một nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng Nông nghiệp,

và nhiệm vụ hàng đầu là cho vay hộ sản xuất - khách hàng tiềm năng của Hội sở

Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.

Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với công tác thực tiễn, tôi

đã chọn đề tài: Một số vấn đề về cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang. Trong đề tài nghiên cứu đã thực hiện

được một số nội dung cơ bản sau:

 Đã khái quát hoá được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được một

số biên phápđể góp phần nâng caohiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ sản xuất

cảu Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang.

 Khoá luận đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay

hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tạicơ bản trong quá trình cho vay

hộ sản xuất tại Hội sở.

 Trên cơ sở phân tích thực trạng khoá luận đã đưa ra được hệ thống các

giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, với Ngân hàng cấp trên, Ngân

hàng cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất, nhằm góp phần

nâng cao, hoàn thiện để mở rộng khối lượng tín dụng cũng như các vấn đề cho vay

hộ sản xuất và làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức tối thiểu.

danh mục tài liệu tham khảo

---------

49

1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

2. Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng.

3. Các tài liệu, tập san, tạp chí Ngân hàng.

4. Giáo trình giảng dạy của Học viện.

5. Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999.

6. Quyết định 324 - 284 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban

hành: Quy chế cho vay đối với khách hàng của tổ chức tín dụng.

7. Quyết định 180-06 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt

Nam ban hành: Quy định cho vay đối với khách hàng.

8. Các báo cáo, chứng từ, tài liệu của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà

Giang.

9. Các tài liệu khác có liên quan.

50