Luận văn
Các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác huy động
vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông
thôn Từ Liêm
Trang 1
LỜI NÓI ĐẦU
Hoà nhịp với sự phát triển của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang tiến
những bước vững chắc. Sau một số năm tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng
giảm sút thì đến năm 2000 tỉ lệ này đã tăng lên cùng với sự phát triển khả quan của
nền kinh tế.
Đạt được những thành tựu này không thể bỏ qua vai trò cực kỳ quan trọng
của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với tư cách là một trung gian tài chính trong
nền kinh tế, ngân hàng đã điều chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, ngoài ra ngân
hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động thương mại : bảo lãnh,
tài trợ ngoại thương, thanh toán quốc tế ... Hệ thống ngân hàng trung ương cùng
với các Ngân hàng Thương mại thực sự là “bà đỡ” của nên kinh tế.
Là một trong bốn trụ cột của hệ thống Ngân hàng Thương mại quốc doanh,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đem lại sự thay đổi lớn lao
cho sự phát triển nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Cùng với đóng góp của hệ thống, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Từ Liêm- một chi nhánh làm ăn có hiệu quả của chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Dư nợ
cùng với cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều đó chứng tỏ hoạt động
tín dụng của ngân hàng là tốt.
Nằm trên địa bàn có nhiều triển vọng phát triển trong những năm sắp tới (thị
trấn Cầu Diễn), ban lãnh đạo ngân hàng luôn trăn trở một điều là làm sao hoạt
động của ngân hàng luôn đáp ứng được sự phát triển đó. Do đó vấn đề được đặt ra
là : để mở rộng hoạt động kinh doanh, thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng và
mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng thì ngân hàng phải không ngừng nâng
cao chất lượng công tác huy động vốn - cơ sở làm ra tăng nguồn vốn kinh doanh
của ngân hàng.
Sau một thời gian thưc tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Từ Liêm, nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Các giải
Trang 2
pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Từ Liêm“ làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng công tác huy động vốn của
ngân hàng từ năm 1998 cho đến nay.
Vấn đề huy động vốn là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp song trong quá
trình tìm hiểu thực tiễn tại ngân hàng để giải quyết yêu cầu của khoá luận em xây
dựng kết cấu như sau:
Chương I : Một số vấn đề chung về công tác huy động vốn ở Ngân hàng
Thương mại.
Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Từ Liêm.
Chương III : Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm.
Đề tài nghiên cứu là một vấn đề phong phú. Trong thời gian thực tập tại
ngân hàng em vẫn còn những hạn chế nhất định, cho nên bản khoá luận này
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong sự tham gia góp ý của cơ
quan thực tiễn, các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Trang 3
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC
HUY ĐỘNG VỐN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG:
1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại:
Sự phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của thị
trường tài chính - tài chính trực tiếp và các trung gian tài chính - tài chính gián
tiếp. Các trung gian tài chính tiêu biểu là các Ngân hàng Thương mại với chức
năng chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm từ người thừa vốn sang những đối tượng cần
vốn, cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế không ngừng phát triển.
Ở Việt Nam, hiện đang trong bước phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các Tổ chức tín dụng trong đó có các Ngân
hàng Thương mại đã được thành lập để kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Theo điều
20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có đưa ra các khái niệm sau:
“ Tổ chức tín dụng là một doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm
dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch
vụ thanh toán.”
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt dộng
ngân hàng và các hoạt dộng kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm có Ngân hàng Thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình ngân hàng khác.”
2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại :
2.1. Chức năng trung gian tài chính:
Đây là chức năng đặc trưng nhất của các Ngân hàng Thương mại, các tổ chức
tài chính và các công ty bảo hiểm... Ngân hàng Thương mại nhận tiền gửi và cho
vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư. Người có
tiền dư thừa có thể thực hiện các công việc tài chính như : cổ phiếu, trái phiếu,
Trang 4
chứng khoán của chính phủ và công ty trực tiếp qua trung tâm tài chính. Tuy
nhiên, Tài chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu
tư, vì người có tiền đầu tư và người sử dụng tiền đầu tư thiếu thông tin chính xác
về nhau, hay chi phí giao dịch quá lớn và do đó rủi ro đầu tư là tương đối cao.
Chính vì những hạn chế đó các trung gian Tài chính đã ra đời và phát triển
rất nhanh, điển hình là các Ngân hàng Thương mại. Với mạng lưới giao dịch rộng
khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng
phong phú và chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực, Ngân hàng Thương mại đã thực
sự bổ sung được các hạn chế của Tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả
của quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
2.2. Chức năng tạo tiền và huỷ tiền
Tạo tiền và huỷ tiền là hai chức năng cực kỳ quan trọng của các Ngân hàng
Thương mại. Các chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng
và đầu tư của các Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ với Ngân hàng Trung
ương đặc biệt là trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ, mà mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền, tạo sự tăng trưởng kinh tế và tạo được
nhiều việc làm. Do đó khối lượng tiền cung ứng phải vừa đủ và không được phép
vượt. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu sẽ xảy ra lạm phát và gây ra
những hậu quả xấu mà nền kinh tế phải gánh chịu. Khối lượng tiền được điều tiết
D
R.
1 dr
qua các Ngân hàng Thương mại là :
Trong đó
D : khối lượng tiền qua hệ thống Ngân hàng Thương mại
: hÖ sè nh©n tiÒn
dr : tØ lÖ dù tr÷ b¾t buéc 1 dr
R : số lượng tiền ban đầu ngân hàng phát hành
Các Ngân hàng Thương mại hoạt động như một kênh dẫn để thông qua đó
tiền cung ứng được tăng lên hay giảm xuống nhằm đạt được các mục tiêu quan
trọng nói trên.
Trang 5
Sức mạnh của hệ thống Ngân hàng Thương mại nhằm tạo tiền mang ý nghĩa
kinh tế to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển
kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chẵc. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo
được tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những
hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không thực hiện được và
nguồn tích luỹ từ lợi nhuận, các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Cho nên nói tạo tiền và
huỷ tiền là chức năng vô cùng quan trọng của các Ngân hàng Thương mại.
2.3. Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Cùng với sự phát triển của các Ngân hàng Thương mại đặc biệt là công nghệ
ngân hàng, các phương tiên thanh toán cho ngân hàng cung cấp ngày càng đa
dạng, phong phú và rất thuận tiện cho khách hàng: các loại séc chuyển tiền,
chuyển khoản, thẻ tín dụng, card điện tử... Sự xuất hiện các phương tiện thanh toán
này tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp trong giao dịch thương mại, mua
bán hàng hoá an toàn, nhanh chóng và chi phí thấp.
2.4. Chức năng cung cấp các dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tài trợ ngoại
thương
Các Ngân hàng Thương mại ngày nay thường cung cấp các dịch vụ cho
khách hàng, bên cạnh đó họ cũng tư vấn cho khách hàng. Do nhu cầu phát triển
của nền kinh tế, các ngân hàng mở rộng các hình thức phục vụ của mình : môi
giới, mua bán chứng khoán, tư vấn đầu tư, bảo lãnh...
3. Vị trí và vai trò của công tác huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng Thương mại
Bất cứ một Ngân hàng Thương mại nào cũng hoạt động với mục đích chung
là vì lợi nhuận và vì sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn. Đây là yếu tố
không thể thiếu được để tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh.
Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
của mình. Bởi vì với đặc trưng hoạt động Ngân hàng Thương mại, vốn không chỉ
là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
Ngân hàng Thương mại. Chính vì vậy có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ
kinh doanh của ngân hàng. Do đó ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng
Trang 6
phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt
động của mình.
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân
hàng. Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Các ngân hàng trường vốn sẽ có lợi hơn so với các ngân hàng nhỏ vì khả
năng vốn của họ có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu vay trên thị trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh và đăm bảo uy tín của ngân hàng trên thị
trường. Để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng
phải có uy tín cao, với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh
với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả
vừa giữ chữ tín vừa nâng cao uy tín của ngân hàng.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng vốn lớn là điều
kiện thuân lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt
động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi
hơn trong kinh doanh. Đồng thời vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài
chính để kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết...
Bên cạnh vai trò quan trọng của nguồn vốn trong kinh doanh ngân hàng thì
chức năng hoạt động của ngân hàng là “đi vay để cho vay”đã đặt ra cho các Ngân
hàng Thương mại một vấn đề là: phải không ngừng chăm lo tới sự phát triển của
nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình.
Do đó, hiện nay cùng với công tác sử dụng vốn thì các ngân hàng cũng rất
quan tâm đến công tác huy động vốn. Cho nên công tác huy động vốn có vai trò
hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân hàng Thương mại.
Trang 7
II. NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
1. Các hình thức huy động vốn
1.1. Phân loại theo thời gian huy động
1.1.1 Huy động vốn ngắn hạn
Đây là hình thức ngân hàng huy động vốn để cho vay ngắn hạn thường là
dưới 1 năm. Vốn ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn
huy động ( nếu ngân hàng thuộc khối phục vụ cho vay dân cư) : cho vay để mua đồ
sinh hoạt, cho vay tiêu dùng, cho vay vốn lưu động...Do vậy nguồn vốn này được
huy động với lãi suất thấp.
1.1.2. Huy động vốn dài hạn
Đây là hình thức ngân hàng để huy động để phục vụ hoạt động cho vay trung
và dài hạn, với thời hạn từ 1 năm trở lên. Nguồn vốn huy động dài hạn được sử
dụng chủ yếu cho các khoản tín dụng trung hạn và dài hạn như : đầu tư chiều sâu
cho các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, cải tiến sản phẩm, đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ... Đây là khoản
vốn huy động mà ngân hàng phải trả lãi cao.
1.2. Phân loại theo đối tượng
1.2.1 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước
Đây là lĩnh vực ngân hàng huy động được nhiều vốn nhất vì các đơn vị này
gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ thanh toán của
ngân hàng. Giao dịch tiền tệ giữa các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của họ. Do có sự đan xen
giữa các khoản phải thanh toán và các khoản phải thu tiền mà trên tài khoản của
các tổ chức này tại ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định và trở
thành một nguồn vốn có chi phí thấp giúp các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ
cho vay ngắn hạn đôi khi cả trung hạn. Tuy nhiên, tính ổn định và độ lớn của
nguồn vốn này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và loại hình kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trang 8
1.2.2. Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư
Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản tiền dự phòng cho những
tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì các khoản dự
phòng càng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các Ngân hàng Thương
mại tìm mọi hình thức để huy động các khoản tiết kiệm này, vì nếu gom được
chúng ngân hàng sẽ có một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của
nền kinh tế đồng thời thu được lợi nhuận.
1.2.3.Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính
Các hình thức huy động vốn nói trên đóng vai trò chủ yếu trong công tác huy
động vốn của Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, trong tình hình kinh doanh của
các ngân hàng ngày nay, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến nguồn vốn có thể
huy động được bằng cách vay các Ngân hàng Thương mại khác thông qua thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng. Các Ngân hàng Thương mại là những
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giống như những
doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác, ở các ngân hàng và các tổ chức
tài chính cũng thường xuất hiện tình trạng tạm thời thừa, thiếu vốn so với nhu cầu
ở đầu ra của họ.
1.3. Phân loại theo các công cụ huy động vốn của ngân hàng
1.3.1. Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng
Đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu tài sản nợ của các Ngân hàng Thương
mại. Huy động tiền gửi là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của các ngân hàng.
Tiền gửi bao gồm :
* Tiền gửi thanh toán (thường không có kỳ hạn)
Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành
thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát
sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện.
Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản :
tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi
thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực hiện bằng séc hay
Trang 9
chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư Nợ có lúc dư Có. Với tài
khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng dáp ứng nhu cầu tín dụng trong
một thời gian nhất định.
Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân
hàng phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi
ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi
thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho
nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà ngân hàng được phép sử dụng một phần
làm vốn kinh doanh.
* Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời
gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc khách hàng
ký thác chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này
có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích
hưởng lãi. Do đó, khác với tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn
đến nguồn này. Các Ngân hàng Thương mại nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn : tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (khi rút phải báo trước). Về cơ bản, các khoản
tiền có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các tài khoản chi
trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các
khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, trước hết
các Ngân hàng Thương mại thường áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau nhằm đáp
ứng được mọi nhu cầu của các loại khách hàng khác nhau. Mỗi kỳ hạn ngân hàng
thường áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì
lãi suất càng cao.
* Tiền gửi tiết kiệm
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết
kiệm đứng ở vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của
Trang 10
cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kkỳ. Tiền gửi tiết kiệm
gồm có : tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thoả thuận về thời
hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn.
1.3.2 Huy động vốn qua thị trường
Các Ngân hàng Thương mại còn tăng cường nguồn vốn bằng cách vay vốn
trên thị trường, phát hành các phiếu nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu Ngân
hàng Thương mại. Các hình thức này ngày càng phổ biến và mang lại những kết
quả tốt .
Phát hành các loại phiếu nợ:
Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động vốn rất cơ
động và thoáng. Bằng các công cụ này các ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng
vốn lớn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách.
Điều này đặc biệt cần thiết khi nền kinh tế có lạm phát. Các trái phiếu, kỳ phiếu
ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng duy trì khối lượng huy động vừa có
tác dụng chống lạm phát. Các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn cho
các hình thức huy động này so với lãi suất tiền gửi huy động. Như vậy, khi thực
hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra
để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy
động vốn. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã đủ
khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ
phiếu, trái phiếu.
Huy động vốn thông qua việc vay các Ngân hàng Thương mại, các
tổ chức tín dụng và ngân hàng trung ương (huy động thông qua các hình thức
vay vốn khác trên thị trường ):
Trang 11
Các Ngân hàng Thương mại khi xuất hiện trên thị trường để vay vốn thường
do một số nguyên nhân cấp thiết như thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng trung ương,
thiếu tiền mặt... nên ngoài việc phát hành phiếu nợ, các Ngân hàng Thương mại có
thể đi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng tại những khoản dự trữ tại ngân hàng trung
ương hoặc phát hành RPs thoả thuận mua lại. Đây là các khoản mua bán chứng
khoán mà Ngân hàng Thương mại đang kinh doanh bên tài sản Có đối với các tổ
chức trung gian tài chính khác. Thời hạn vay mượn giữa các Ngân hàng Thương
mại rất linh hoạt có thể ít ngày cũng có thể dài hạn phù hợp với nhu cầu về vốn của
Ngân hàng Thương mại trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được đủ nhu cầu sử
dụng của Ngân hàng Thương mại thì Ngân hàng Thương mại sẽ đi vay của ngân
hàng trung ương. Trong quan hệ với ngân hàng trung ương, các Ngân hàng
Thương mại đóng vai trò là khách hàng thường xuyên và ngân hàng trung ương
với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng đồng thời là người “cứu cánh cuối
cùng” đối với các Ngân hàng Thương mại.
2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn:
Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại với
các doanh nghiệp phi tài chính là: Ngân hàng Thương mại kinh doanh chủ yếu
bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp khác hoạt động
dựa trên vốn tự có là chính. Vì vậy đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn là
công tác không thể thiếu trong nghiên cứu nguồn vốn của các ngân hàng.
Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, các nhà nghiên cứu thường
tập trung vào một số tiêu chí sau đây:
Tỉ lệ quỹ đảm bảo khả năng thanh toán:
Dù tr÷ ®¶m b¶o kh¶ n¨ng thanh to¸n
.100%
TØ lÖ quü ®¶m b¶o kh¶ n¨ng thanh to¸n =
Tæng vèn huy ®éng
Các Ngân hàng Thương mại phải chấp hành tỷ lệ này nhằm đảm bảo an toàn
cho các khoản huy động. Ngân hàng nào có tỷ lệ này đúng theo quy định chứng tỏ
ngân hàng đó rất coi trọng công tác huy động vốn bởi vì bên cạnh huy động vốn -
Trang 12
mục tiêu của ngân hàng thì ngân hàng cũng đảm bảo được an toàn cho khách
hàng, tạo được tâm lý yên tâm cho khách hàng khi họ “gửi gắm ” tiền cho ngân
hàng.
Sở dĩ các ngân hàng phải chấp hành tỷ lệ này vì không phải các khoản huy
động nào cũng có tính ổn định, các ngân hàng phải có khả năng thanh toán để đảm
bảo cho các nhu cầu rút tiền mặt bất thường của khách hàng nhằm không ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó góp phần làm ổn định nguồn
vốn kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân
hàng.
Tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm bình quân đầu người :
Để đánh giá mức độ huy động được từ dân cư, ta xét hệ số
Tæng sè tiÒn göi tiÕt kiÖm cña ®Þa bµn
Tæng sè d©n c cña ®Þa bµn
Nếu tỉ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động huy động vốn đạt kết quả tốt,
bởi vì ngân hàng đã tác động vào ý thức tiết kiệm, ý thức gửi tiền vào ngân hàng
và đã thu hút được một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư để phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế.
So sánh nguồn vốn huy động và việc sử dung vốn:
Nếu một Ngân hàng Thương mại có nguồn sử dụng vốn tương xứng với
nguồn vốn huy động, chứng tỏ nguồn vốn huy động đã được sử dụng có hiệu quả
và công tác huy động vốn của ngân hàng đã thành công. Bởi vì phần lớn thu nhập
từ hoạt động sử dụng vốn sẽ bù đắp phần nào chi phí huy động và đem lại lợi
nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hơn nữa việc sử dụng vốn tốt sẽ thúc đẩy hoạt động
huy động vốn. Cho nên khi đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác huy động
vốn người ta thường xem xét đến công tác sử dụng vốn của ngân hàng đó.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm:
Sự phát triển của các ngân hàng đều tập trung vào mục tiêu lợi nhuận và
tăng trưởng dư nợ. Để tăng trưởng được dư nợ thì ngân hàng phải mở rộng doanh
số cho vay và điều này có liên quan đến nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng lớn
Trang 13
hay nhỏ. Việc gia tăng nguồn vốn biểu hiện qua nghiệp vụ huy động vốn. Nếu huy
động vốn có hiệu quả sẽ làm tăng nguồn vốn kinh doanh, tăng doanh số cho vay,
tăng lợi nhuận. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn vốn của ngân hàng đưcợ bổ sung
như thế nào tuỳ thuộc chủ yếu vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng đó.
Sè d tõng kho¶n huy ®éng
C¬ cÊu c¸c kho¶n huy ®éng =
Tæng vèn huy ®éng
- Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu các khoản huy động:
Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời
hạn...Do đó, việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế
rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào.
Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn dài so với các khoản
vốn có tính thời hạn thấp để xem xét sự ổn định của nguồn vốn huy động. Từ đó
tìm ra nguyên nhân và biện pháp để tăng các khoản huy động có thời hạn dài. Chi
phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng đều quan tâm. Để có được chi phí đầu
vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các ngân hàng phải xem xét khoản mục nào
có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực tế các khoản huy động từ các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế có tính ổn định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động
vốn thì các ngân hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa
trong cơ cấu vốn huy động của mình. Bên cạnh đó các khoản vốn huy động từ khu
vực dân cư rất tiềm tàng giúp Ngân hàng mở rộng kinh doanh tín dụng tiêu dùng,
thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông có lợi cho
nền kinh tế.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác huy động vốn:
Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh truyền
thống của các ngân hàng. Nó có ý nghĩa quan trọng với hoạt động của bất cứ Ngân
hàng Thương mại nào vì nó cung cấp vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân
Trang 14
hàng. Do đó để nghiệp vụ này mang lại kết quả cao nhất thì bên cạnh việc tìm ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng huy động vốn, các Ngân hàng Thương mại
cũng phải xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn, để tìm
cách hạn chế chúng.
3.1 Nhóm nhân tố khách quan:
Ý thức tiết kiệm của dân cư:
Xu hướng hiện nay của các Ngân hàng Thương mại ở các nước phát triển là
đẩy mạnh công tác huy động vốn trong khu vực dân cư, nơi mà tầng lớp trung lưu
đang tăng lên nhanh chóng, có nhiều tiền nhàn rỗi và tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm ở các
nước này chiếm một tỷ trọng khá cao trong vốn huy động( thường là : 80%). Đây
là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được trong dân cư và ngân hàng có thể dùng cho
vay. Thực tế đã chứng minh : nếu quốc gia nào có tỷ lệ tiết kiệm cao thì quy mô và
chất lượng công tác huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng lên và do đó công tác tín
dụng cũng rất phát triển.
Nhân tố thu nhập của dân cư:
Khả năng huy động vốn của ngân hàng tỷ lệ thuận với thu nhập của dân cư,
có nghĩa là thu nhập của dân cư càng cao thì tiền gửi tiết kiệm càng tăng lên. Tuy
nhiên khối lượng tiền trong dân cư không thể xác định một cách dễ dàng. Do vậy,
muốn dân chúng gửi tiền vào ngân hàng thì phải có chính sách lãi suất thích hợp
cùng với sự hấp dẫn về các dịch vụ ngân hàng.
Lòng tin của dân chúng đối với ngân hàng vào đồng bản tệ:
Khi nền kinh tế phát triển không ổn định, có lạm phát hay có nguy cơ xuất
hiện lạm phát thì người dân phần lớn không thích gửi tiết kiệm, họ thích tích trữ
vàng, hoặc ngoại tệ mạnh như đô la, với kỳ vọng là bảo toàn được giá trị. Trong
hoàn cảnh này nếu ngân hàng không có chính sách huy động vốn thích hợp và hấp
dẫn như tiền gửi đảm bảo bằng vàng, tiền gửi có tính đến trượt giá thì sẽ không
huy động được tiền gửi tiết kiệm và lạm phát có thể bị đẩy lên cao hơn.
Nhân tố thời vụ tiêu dùng:
Thời vụ tiêu dùng cũng có ảnh hưởng lớn đến tình hình huy động tiền gửi tiết
kiệm của một Ngân hàng Thương mại trong một thời gian nhất định. Vào thời vụ
tiêu dùng thì nói chung tiền gửi tiết kiệm giảm xuống. Chẳng hạn vào dịp Tết
Trang 15
Nguyên đán chẳng những tiền gửi tiết kiệm không tăng mà còn có thể giảm do dân
chúng rút tiền để sắm Tết.
- Nhân tố môi trường pháp lý
Trong hoạt động ngân hàng đòi hỏi phải có hệ thống luật điều chỉnh thì hoạt
động kinh doanh mới có thể an toàn, đồng thời các Ngân hàng Thương mại tuân
thủ nghiêm chỉnh luật pháp cũng là một hình thức tạo niềm tin đối với khách hàng
của mình, có vậy xã hội mới đi vào trật tự, kỷ cương. Hoạt động huy động vốn của
ngân hàng cũng phải tuân theo sự điều hành của các chính sách tiền tệ do chính
phủ và ngân hàng nhà nước ban hành.
- Nhân tố môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh đó là các điều kiện kinh tế - xã hội nơi ngân hàng
hoạt động và sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng Thương mại trên cùng một địa
bàn. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện hoặc hạn chế khả năng huy động
vốn của bản thân ngân hàng, do vậy ngân hàng phải linh hoạt bám sát thị trường,
quyết đoán trong khi quyết định áp dụng các hình thức huy động vốn cho thích hợp
nhằm huy động tối đa lượng tiền tiết kiệm trong dân chúng.
- Bảo hiểm tiền gửi :
Các tổ chức kinh tế và dân cư gửi tiền vào ngân hàng đều tin tưởng ngân
hàng là nơi giữ tiền an toàn nhất. Nhưng do sự phát triển của nền kinh tế có thể có
biến động ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và tác động đến tâm lý người dân.
Để xoá đi tâm lý lo lắng về sự an toàn của các khoản tiền gửi, các Ngân hàng
Thương mại nên phối hợp với công ty bảo hiểm để mở bảo hiểm tiền gửi. Nếu có
rủi ro xảy ra, ngân hàng không có khả năng thanh toán thì công ty bảo hiểm sẽ
thanh toán thay. Làm tốt bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng sẽ hạn chế được một
nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn góp phần tăng cường công tác huy
động vốn tại ngân hàng.
Trang 16
3.2. Nhân tố chủ quan:
- Chính sách lãi suất cạnh tranh
Chính sách lãi suất cạnh tranh( bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi
suất cạnh tranh cho vay) là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì
lãi suất cạnh tranh huy động đặc biệt cần thiết khi lãi suất thị trường đã ở mức
tương đối cao. Các Ngân hàng Thương mại không chỉ cạnh tranh giành vốn với
nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau
của thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác
biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư
chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một
tổ chức tiết kiệm này sang một tổ chức hay một công ty khác.
- Chính sách khách hàng:
Trong công tác khách hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều
loại để có cách ứng xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, giao dịch thường
xuyên, có số dư tiền gửi lớn, gây được tín nhiệm cho bản thân ngân hàng thì ngân
hàng sẽ có một chính sách thích hợp về lãi suất, kỳ hạn của món vay cũng như việc
bảo lãnh các hợp đồng...
- Công tác cân đối vốn của ngân hàng :
Một chiến lược huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn
trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại đạt được mục
tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hoà giữa huy
động vốn và sử dụng vốn chính là công tác cân đối vốn của ngân hàng. Công tác
cân đối vốn là hết sức quan trọng và cần thiết đối với hoạt động của bất kỳ ngân
hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ, là một công cụ quản lý của các nhà
lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối vốn đã lập, các cán bộ ngân hàng
xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn vốn và từng khoản sử dụng để dự
đoán nhu cầu vốn biến động trong tương lai, từ đó co chính sách huy động vốn
thích hợp.
- Các hình thức huy động vốn của ngân hàng :
Đây cũng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy
động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng đa dạng,
Trang 17
phong phú bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế sẽ càng lớn bấy
nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu tâm lý của các tầng lớp
dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức càng cao thì càng dễ dàng đáp ứng một
cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi
tiết kiệm phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các Ngân hàng Thương mại thường cân
nhắc rất kỹ trước khi đưa vào áp dụng một hình thức huy động mới.
- Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng:
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các
ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đậu xe,
ngân hàng có bãi đậu xe rộng rãi cũng là một lợi thế, hoặc ngân hàng có quầy giao
dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày
đêm... có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm tạo được niềm tin với khách
hàng cũng là những lợi thế đáng quan tâm của các Ngân hàng Thương mại. Khác
với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn, do
vậy đây là điểm mạnh để các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh.
- Chính sách Marketing
Không một ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo trong thời
đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại quảng cáo luôn được đề cao và
cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân hàng cũng
phải có chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả
panô, áp phích nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn.
III. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NHTM :
1. Đối với ngân hàng:
Trong môi trường kinh doanh ngày nay sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì vốn
là một yếu tố giúp các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh. Ngân hàng nào
trường vốn sẽ có khả năng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có khả năng
mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập và củng cố vị thế trên thị
thương trường ... Nhận thức được vai trò to lớn của vốn trong hoạt động kinh
Trang 18
doanh, các Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách phát triển nguồn vốn của mình,
tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh hiệu quả của công tác huy động vốn.
Huy động vốn là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng. Từ khi có các
ngân hàng ra đời thì nghiệp vụ huy động vốn đã gắn liền với các hoạt động của nó,
trải qua quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng thì nghiệp vụ huy động vốn
cũng được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hiệu quả công tác
huy động vốn được các ngân hàng quan tâm không chỉ vì nó là một nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng ma còn vì nó là một trong những hoạt động chủ yếu và
mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó trong mọi giai đoạn, nâng cao hiệu
quả công tác huy động vốn luôn là vấn đề được các Ngân hàng Thương mại chú
trọng.
Nhu cầu phát triển của xã hội ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về vốn của
các thành phần kinh tế, của dân cư... Để đáp ứng được mọi yêu cầu này thì các
ngân hàng phải có một nguồn vốn đủ lớn để có thể phục vụ cho sự phát triển chung
của nền kinh tế, mà nguồn vốn tự có của ngân hàng luôn là quá “nhỏ bé” trước
yêu cầu phát triển của xã hội. Do đó để có thể có một lượng vốn cần thiết để thực
hiện sứ mệnh “bà đỡ” cho nền kinh tế thì các Ngân hàng Thương mại phải tìm
cách tăng trưởng nguồn vốn hiện có của mình và vấn đề nâng cao hiệu quả công
tác huy động vốn được đặt ra rất bức thiết.
Các Ngân hàng Thương mại hoạt động trên thị trường với tư cách là các
trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội,
thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển. Hoạt động huy động vốn chính là
việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để rồi sau đó ngân hàng phân
phối đến nơi thiếu vốn (bằng các hoạt động cho vay, đầu tư). Làm tốt công tác huy
động vốn cũng đồng nghĩa với ngân hàng làm tốt nhiệm vụ quan trọng nhất của
mình . Cho nên mọi Ngân hàng Thương mại đều ý thức được sự cần thiết của việc
đẩy mạnh hiệu quả hoạt động huy động vốn.
2. Đối với khách hàng:
Đối với dân cư:
Nghiệp vụ huy động vốn đã cung cấp cho mọi người dân các phương thức
tiết kiệm tiền hợp lý và an toàn. Nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư rất dồi dào, có
Trang 19
nhiều điều kiện thuận lợi để ngân hàng sử dụng kinh doanh. Để thu hút được các
nguồn vốn này các ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn phong phú
và tiện lợi. Điều này giúp người dân dễ dàng lựa chọn một hình thức gửi tiền phù
hợp với đặc điểm khoản tiền của mình. Do đó tâm lý người dân luôn mong ngân
hàng đưa ra được các hình thức huy động vốn hiệu quả, có lợi cho cả hai bên: vừa
ích nước vừa lợi nhà, vừa an toàn tài sản.
Đối với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp :
Nghiệp vụ huy động vốn đã giúp cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
thuận tiện trong thanh toán giao dịch thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán. Nếu
ngân hàng đẩy mạnh công tác huy động vốn thì sẽ giúp các doanh nghiệp rất
nhiều trong hoạt động kinh doanh, làm cho hoạt động của doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế luôn trôi chảy. Hơn nữa, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế đều có
quan hệ tín dụng với ngân hàng và huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp cho doanh
nghiệp có vốn kịp thời bất cứ lúc nào mà doanh nghiệp cần vốn. Do đó đứng ở
góc độ doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn ở mỗi ngân
hàng là cần thiết.
3. Đối với nền kinh tế :
Nghiệp vụ huy động vốn giúp cho các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được
tập trung về một mối, thuận tiện cho việc phân phối lại chúng. Tránh được tình
trạng lãng phí nguồn vốn, một số người tổ chức “hụi”, “họ” gây mất ổn định trong
xã hội.Với nền kinh tế thì hoạt động huy động vốn là không thể thiếu nhất là khi
nền kinh tế có lạm phát, lúc đó huy động vốn là một trong những công cụ để kìm
chế lạm phát.
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn giúp cho nó phát
triển nhịp nhàng, hiệu quả hơn. Vì thế đẩy mạnh công tác huy động vốn ở mỗi
Ngân hàng Thương mại có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tóm lại, qua cơ sở lý luận chung về công tác huy động vốn ở các Ngân hàng
Thương mại được trình bày ở trên đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan
trọng, vị trí và sự cần thiết phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác huy động vốn
không chỉ với bản thân ngân hàng mà còn với các tổ chức kinh tế, dân cư và toàn
xã hội. Những hiểu biết này là cơ sở để chúng ta hiểu sâu sắc hơn khi nghiên cứu
Trang 20
tình hình huy động vốn của riêng chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Từ Liêmở chương II dưới đây.
Trang 21
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN TỪ LIÊM.
I. TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NHN0 &PTNT TỪ LIÊM
NHN0 &PTNT Từ Liêm được thành lập ngày 01/07/1963 với tên gọi đầu
tiên là chi điếm ngân hàng huyện Từ Liêm ( gọi tắt là ngân hàng Từ Liêm). Thời
kì này ngân hàng Từ Liêm chỉ là một ngân hàng cơ sở đảm nhận nhiệm vụ huy
động vốn tiết kiệm và thực hiện chức năng cung ứng vốn tiền mặt cho toàn bộ các
cơ quan hành chính sự nghiệp và các đơn vị sản xuất trên địa bàn huyện. Lúc này
hoạt động của ngân hàng thực chất là thay ngân sách Nhà Nước cấp phát vốn tiền
mặt cho các đơn vị theo kế hoạch. Hoạt động tín dụng mang tính chất bao cấp,
đồng vốn cho vay không tính đến hiệu quả kinh tế.
Sau đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế Việt Nam được chuyển đổi từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước thì nền
kinh tế nước ta bắt đầu có sự thay đổi lớn. Từ đây hoạt động ngân hàng cũng có sự
thay đổi, phát triển mạnh về qui mô và số lượng, các Ngân hàng Thương mại đã
thực sự ra đời và phát triển. Cùng với sự phát triển chung của đất nước và của hệ
thống ngân hàng, ngân hàng Từ Liêm đã có sự chuyển mình quan trọng. Năm 1988
theo quyết định số 53/QĐ/HĐBT, ngân hàng Từ Liêm đổi tên thành NHN0
&PTNT Từ Liêm với nhiệm vụ chủ yếu của một tổ chức chuyên doanh tiền tệ , tín
dụng và dịch vụ ngân hàng. Ban đầu hình thức cho vay đơn giản, sau đó hình thức
cho vay đa dạng hơn và dần dần ngân hang thực hiện thêm các dịch vụ khác như
chuyển tiền thanh toán quốc tế. Đến nay NHN0 &PTNT Từ Liêm đã trở thành
một ngân hàng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với tổng số 80
cán bộ nhân viên trong đó hơn 80% có trình độ đại học ,cao đẳng và gần 20% trình
độ trung cấp. Trụ sở chính của ngân hàng được đặt tại thị trấn Cầu Diễn.
Chi nhánh đựợc chia làm 4 phòng: phòng hành chính, phòng kinh doanh,
phòng kế toán và ngân quĩ, phòng thanh toán quốc tế.
Trang 22
Về hạch toán: chi nhánh là đơn vị hạch toán độc lập, không phụ thuộc chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, chi nhánh được
phép quản lý vốn tự có.
Về vốn để hoạt động: Do làm tốt công tác huy động vốn nên ngân hàng nông
nghiệp Từ Liêm luôn đáp ứng tốt mọi yêu cầu của hoạt động kinh doanh, giúp cho
tình hình kinh doanh của ngân hàng luôn ổn định.
Về chức năng, nhiệm vụ: Chi nhánh làm đầy đủ chức năng của một ngân
hang thương mại từ huy động vốn ngắn hạn và dài hạn, đến cho vay vốn đối với
các thành phần kinh tế.
Về nghiệp vụ huy động vốn: Mở tài khoản tiền gửi cho các doanh nghiệp, cá
nhân ; huy động bằng trái phiếu, kì phiếu.
Về nghiệp vụ sử dụng vốn : Chi nhánh thực hiện đầy đủ các loại yêu cầu tín
dụng ngắn, trung ,dài hạn, có quĩ tiền mặt riêng để phục vụ khách hàng.
Ngoài ra ngân hàng còn có 3 ngân hàng cở sở (ngân hàng cấp 4): Ngân hàng
Mỗ, Nhổn, Chèm.
II. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Hoạt động huy động vốn:
Bất cứ một ngân hàng nào, chiến lược huy động vốnlà nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng và hết sức cần thiết, nó khẳng định khả năng của một ngân hàng trong cơ chế
thị trường thực hiện phương châm” đi vay để cho vay” và tập trung vốn để phục vụ
phát triển kinh tế xã hội. Vì huy động vốn là nhằm giải quyết “đầu vào” tạo nguồn
vốn cho hoạt động ngân hàng đồng thời nguồn vốn cũng là điểm khởi đầu quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, Cho nên ngân hàng phải tính
toán sao cho lượng vốn huy động phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong năm,
tránh tình trạng thừa vốn ,ứ đọng vốn và thiếu vốn.
Số liệu cho thấy tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng liên tục qua
các năm: năm 1999 tăng hơn so với năm1998 là 8,4%, số tuyệt đối là +20159 triệu,
năm 2000 tăng hơn so với năm 1999 là 20% tương đương với +52105 triệu. Phân
tích số liệu trên ta thấy nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng có mức tăng trưởng
Trang 23
khá, tuy có sự chênh lệch giữa các năm (năm 1999 tăng so với năm 1998 chỉ có
8,4% và năm 2000 tăng 20% so với năm 1999) nhưng đây vẫn là cơ sở vững chắc
cho việc mở rộng đầu tư, mở rộng qui mô tín dụng của ngân hàng. Không những
đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn của khách hàng trên địa bàn mà ngân hàng còn
thường xuyên đóng góp với Trung Ương hàng trăm tỷ đồng để đầu tư cho các
vùng kinh tế khác.
Như vậy với tư cách là Ngân hàng Thương mại chuyển sang kinh doanh đa
năng tổng hợp nhưng với chức năng hoạt động chủ yếu là phục vụ sự nghiệp phát
triển nông nghiệp - nông thôn, Ngân hàng đã tích cực huy độngvốn trong địa bàn
bằng nhiều hình thức. Ngân hàng đã kịp thời và thường xuyên điều chỉnh lãi suất
huy động bám sát thị trường, đồng thời đẩy mạnhhuy động vốn trong nước bằng
nhiều biện pháp để khai thác tiềm lựcvốn của các tổ chức kinh tế, triển khai nhiều
hình thức huy động dân cư như đa dạng cách phát hành kì phiếu trả lãi trước và ta
có thể thấy nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng liên tục trong các năm qua
bảng 1.
2. Hoạt động tín dụng - đầu tư:
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn là công
việc có tính chất sống còn của ngân hàng. Thực hiện định hướng tiếp tục đổi mới
toàn diện sâu sắc, đáp ứng cao nhất yêu cầu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất
nước, kinh doanh đa năng tổng hợp lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách
hàng làm mục tiêu kinh doanh của ngân hàng.
Bước sang hoạt động theo cơ chế của một Ngân hàng Thương mại và thực
hiện chức năng của một ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, chi nhánh
NHN0 &PTNT Từ Liêm đã tập trung cho các Doanh nghiệp quốc doanh, các hộ
sản xuất vay phần lớn vốn để phát triển sản xuất, xây dựng cơ bản và hạ tầng cơ
sở. Chính vì vậy hoạt động đâù tư - tín dụng của chi nhánh rất đa dạng, phong phú.
Qua từng thời kì thì vấn đề sử dụng vốn hay công tác đấu tư tín dụng có
nhiều biến động do nhiều nguyên nhân gây ra. Bảng 2 cho thấy dư nợ của ngân
hàng không ngừng tăng lên qua các thời điểm. Công tác sử dụng vốn có hiệu quả
rõ rệt, dư nợ tín dụng tăng trưởng khá đặc biệt là dư nợ ngắn hạn, vì chi nhánhcho
Trang 24
vay chủ yếu với các hộ sản xuất thường với mục đích tiêu dùng hay mở rộng sản
xuất nhưng với qui mô nhỏ.
Trang 25
Bảng 1: Biến động nguồn vốn của NNN0 &PTNT Từ Liêm
Từ năm 1998 đến 2000
Đơn
vị: triệu đồng
Thời điểm s/12/1998 31/12/1999
Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền %
1.Tiền gửi các tổ chức kinh tế 44320 18,4% 44892 17%
2.T iền gửi tiết kiệm 57557 23,9% 57795 22%
3. Phát hành kỳ phiếu 138489 57,6% 157838 61%
Tổng 240366 100%
Nguồn:phòng kế toán và ngân quĩ
Trang 25
Bảng 2: Tỷ trọng các khoản mục cho vay trong tổng
nguồn sử dụng
Đơn vị tính :triệu đồng
Thời điểm 31/12/1998 31/12/1999
Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền %
I. Nghiệp vụ cho vay 93842 94% 113070 94,6%
1. Cho vay ngắn hạn 59855 60% 69250 58%
2.cho vay trung hạn 33987 34% 28816 24%
3. Cho vay dài hạn 15004 12,6%
II. nghiệp vụ đầu tư 5956 6% 6256 5,4%
Tổng 99789 100% 119326 100%
Nguồn: phòng kinh doanh NHN0 &PTNT Từ Liêm
Trang 26
Cụ thể là: năm 1999 dư nợ ngắn hạn là 69250 triệu tăng +9395 triệu về số
tương đối là +15.7% và năm 2000 là 113709 tăng +44459 triệu, về số tương đối
tăng +64,2%. Dư nợ ngắn hạn thường xuyên chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư
nợ tuy về mặt tỷ trọng thì có xu hướng giảm sút nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng
trưởng mạnh.Dư nợ dài hạn có chiều hướng gia tăng qua các năm: năm 1998 tỷ lệ
cho vay trung hạn là 34%, dài hạn là 0%, năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ cho vay dài
hạn là 12%. Điều này cho thấy nhu cầu về vốn trung ,dài hạn của các doanh nghiệp
ngày càng tăng. Đây là chuyển biến tích cực trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng.
Song song với việc tăng trưởng tín dụng và đầu tư, Ngân hàng còn chú trọng
nâng cao chất lượng tín dụng. Tổng dư nợ quá hạn đến năm 2000 là 1100 triệu
chiếm tỷ trọng0,56% dư nợ giảm rất nhiều so với năm 1999, do ngân hàng đã sử
dụng nhiều biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũ và tăng cường đảm bảo an toàn cho
những khoản tín dụng mới. Ngân hàng đã sử dụng một số biện pháp để không
ngừng nâng cao hiệu quả tín dụng như :
Thông qua các hợp đồng kinh tế( hợp đồng thi công,tín dụng ngắn hạn, hợp
đồng cung ứng vật tư thiết bị cho dự án, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tín dụng
trung và dài hạn) chi nhánh đã xác định chính xác nhu cầu vay vốn cho từng
doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho vay an toàn. Đối với tín dụng trung và dài hạn,
chi nhánh sử dụng các quá trình thẩm địng đàu tư để xác định khách hàng tốt, đáng
tin cậy cũng như sự cần thiết đầu tư và nhu cầu vay vốn của từng doanh nghiệp.
Quan trọng hơn nó giúp các cán bộ ngân hàng xác định được hiệu quả của các
phương án, dự án đầu tư.
Thành lập tổ định giá tài sản thế chấp và ban hành qui chế làm việc của tổ
định chế để định giá tìi sản theo đúng chế độ.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, cán bộ tín dụng đã đi sâu phân tích
để nắm tình hình năng lực tài chính của từng đơn vị, thường xuyên nắm chắc tình
hình thanh toán, thu hồi vốn thông qua khả năng tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp, dự đoán khả năng trả nợ để hạn chế rủi ro. Mặt khác tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi phát tiền vay để ngăn chặn các khoản
tiền vay bị sử dụng sai mục đích, nhất là cho vay bằng ngân phiếu và tiền mặt.
Tổ chức các đợt tổn kiểm tra, phân tích các doanh nghiệp có nợ quá hạn, xác
định nguyên nhân chậm trả nợ và đề ra các biện pháp để thu hồi nợ.
3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ thanh toán quốc tế:
Đối với NHN0 &PTNT Từ Liêm ,tín dụng ngoại tệ và thanh toán quốc tế mới
được mở ra trong một số năm gần đây với tinh thần vừa học hỏi, vừa đúc rút kinh
nghiệm. Trong năm2000 tín dụng ngoại tệ đã có bước tăng trưởng và phát triển.
Việc mở thêm tín dụng ngoại tệ và thanh toán quốc tế đã góp phần thu hút thêm và
giữ vững khách hàng quốc doanh giao dịch. Tồng số L/C đã mở: 82 món tăng
57,6% so với năm 1999. Số tiền đạt 8,498 triệu USD và 6,8 triệu EUR tăng
+47,3% so với năm 1999.Số L/C đã thanh toán: 129 món tăng +78,3% so với năm
1999,số tiền đạt 6,745 triệu USD và 1,2 triệu EUR tăng 34% so với năm
1999.Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 9 triệu USD và 1,2 triệu EUR tăng lên +50%
so với năm 1999.
4. Hoạt động dịch vụ của ngân hàng:
Khi công nghệ hàng ngày càng phát triển thì hoạt động dịch vụ ngân hàng
càng trở nên quan trọng, thông qua hệ thống dịch vụ do ngân hàng cung cấp, khách
hàng được tạo mọi điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình; từ đó
dịch vụ ngân hàng không chỉ là công cụ để thu hút khách hàng mà còn là một động
lực cho sự phát triển kinh tế. Nhận thức được vấn đề này, chi nhánh NHN0
&PTNT Từ Liêm đã coi dịch vụ ngân hàng là một trong các hoạt động rất cần thiết
như bảo lãnh,chuyển tiền.
Các hoạt động bảo lãnh chủ yếu của ngân hàng bao gồm: bảo lãnh dự
thầu(trong xây dựng cơ bản),bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo đảm tiền ứng trước.
Nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh cũng tăng dần qua các năm,tu nhiên khối lượng
phục vụ còn khiêm tốn song ngân hàng đã cố gắng đáp ứng tối đa nhu cầu của bạn
hàng.
Dịch vụ chuyển tiền mặt:chi nhánh đã dùng các phương tiện chuyên dùng và
hiện đạiđể vận chuyển tiền từ chi nhánh đến tận khách hàng theo yêu cầu của họ,
đảm bảo an toàn trong vận chuyển tiền và được khách hàng tín nhiệm.
Dịch vụ thanh toán chuyển tiền qua mạng vi tính, thanh toán bừ trừ khi kỹ
thuật ngày càng tiên tiến,nó đã đem lại nhiều tiện ích cho con người. Vi tính phát
Trang 33
triển giúp cho dịch vụ thanh toán qua mạng trở nên nhanh chóng,dễ dàng hơn.
Khách hàng rất hài lòng vì thời gian thanh toán được rút ngắn. Dịch vụ này cũng
đem lại cho chi nhánh nguồn thu nhập đáng kể.
Như vậy, với nhiều biện pháp tích cực,năng động,linh hoạt cùng với việc vận
dụng công cụ lãi suất một cách mềm dẻo nên trong những năm qua ngân hàng thực
hiện đa dạng hoá các sản phẩm, loại hình kinh doanh
III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
NNN0 &PTNT TỪ LIÊM
Các Ngân hàng Thương mại là một kênh dẫn vốn quan trọng đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển của nênf kinh tế để góp phần thực hiện được mục tiêu
trên;công tác huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam có vaii trò
hết sức quan trọng và không thể thiếu được.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn của hệ thống
Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong những năm qua chi nhánh NHN0 &PTNT
Từ Liêm đã không ngừng đẩy mạnh và tăng cường công tác này.
1. Huy động từ tiền gửi của tổ chức kinh tế:
Các tổ chức kinh tế chủ yếu gửi các khoản tiền vào ngân hàng để hưởng các
dịch vụ thanh toán, chuyển khoản, thu và chi khi mua bán hàng hóa, dịch vụ với
các tổ chức kinh tế khác. Do vậy, khoản tiền này thường có kì hạn ổn định,gồm
có:tiền gửi không kì hạn,tài khoản của các tổ chức kinh tế,tiền gửi có kì hạn. Đây
là loại tiền gửi có chi phí đầu vào tương đối rẻ và ổn định vì các doanh nghiệp gửi
tiền vào ngân hàng với mục đích để thuận tiện hơn trong giao dịch chứ không phải
với mục đích hưởng lãi như tiền gửi dân cư. Cho nên, xu hướng ngày nay các ngân
hàng chú trọng nâng cao loại tiền gửi này.Thời gian qua NHN0 &PTNT Từ Liêm
đã chú trọng tới các biện pháp tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Chi hnánh đã
có những biện pháp thực hiện chính sách khách hàng để giữu và phát triển khách
hàng, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng qua việc rýt ngắn thời
gian xét duyệt, đơn giản hoá các thủ tục cho vay, thường xuyên có những buổi tiếp
xúc với khách hàng lớn để nhanh chóng tiếp thu ý kiến đóng góp và nắm bắt kịp
thời các yêu cầu mới của khách hàng. Ngân hàng chủ yếu thu hút các khách hàng
Trang 34
có tiềm năng tài chính tốt, do vậy cùng với nguồn tiền gửi thì số lượng khách hàng
của chi nhánh bước đầu có chuyển biến.
Đến ngày 31/12/2000 số dư tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 53870 triệu
đồng, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã trở thành một nguồn huy động quan trọng
của ngân hàng tuy rằng là nguồn ngắn hạn nhưng trong những năm qua chi nhánh
đã duy trì được một tỉ lệ nhất định do đảm bảo được luồng tiền vào-ra ổn định và
đều đặn Tuy nhiên nguồn tiền gửi các tổ chức kinh tế có xu hướng tăng chậm hơn
so voứi tiền gửi dân cư , nguyên nhân là do trên địa bàn có số lượng doanh nghiệp
nhà nước , tổ chức kinh tế còn hạn chế, hơn nữa các tổ chức ngày làm ăn chưa thực
sự hiệu quả nên số dư thường xuyên trên tài khoản tiền gửi hầu như không có hoặc
có nhưng không đáng kể. Chính vì vậy tiền gửi có kì hạn của các tổ chức kinh tế
còn chiếm một tỉ trọng rất thấp ( trên 3% trong tổng nguồn vốn huy động từ các tổ
chức kinh tế). Nhìn vào bảng 3 ta thấy: năm 1999 tiền gửi của các tổ chức kinh tế
là 44892 triệu tăng so với năm 1998 là +572 triệu, tăng 1,3%; năm 2000 là 53870
triệu tăng + 8978 triệu tương đương +20%. Mặc dù tiền gửi của các tổ chức kinh tế
của chi hnánh còn thấp: năm 1998 tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm 18,4%
tổng nguồn, năm 1999 tỉ lệ này là17% và năm 2000 là 17,2% nhưng ta không thể
phủ nhận một điều rằng số tiền này có chiều hưóng gia tăng trong các năm. Năm
1998 huy động được 44320 triệu đến năm 1999 tăng khá hơn đạt 44892 triệu và
năm 2000 số tiền gửi đạt con số 53870 triệu. Có thể nói đây là dấu hiệu đáng mừng
cho sự tăng trưởng nguồn tiền gửi này trong những năm tiếp theo. Trong khi nền
kinh tế sản xuất ngày càng phát triển và nhu cầu mở tài khoản tiền gửi phục vụ cho
mục đích giao dịch cũng ngày càng tăng cao do các tổ chức kinh tế đã nhận thấy
vai trò của ngân hàng với tưu cách là trung gian tài chính tanh toán goáp phần đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, đẩy nhanh tốc độ kinh doanh và quay vòng vốn. Nắm bắt
được nhu cầu này, chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm cần thấy rõ hơn nữa
Trang 35
Bảng 3: Biến động tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm 31/12/1998 31/12/1999
Chỉ tiêu
Nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế 44320 44892
So sánh thời điểm sau với thời điểm trước
a) Số tuyệt đối +572
b) Só tương đối +101,3%
Nguồn: phòng kế toán và ngân quĩ
Bảng 4: Cơ cấu tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm 31/12/1998 31/12/1999
Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền %
1. Không kì hạn 42756 96,5% 44892 100%
2. Có kì hạn 1564 3,5% 0 0%
Tổng
Nguồn: phòng kế toán và ngân quĩ
Trang 37
Nhiệm vụ và chức năng của mình trong việc đảm bảo vốn cho nền kinh tế.
Có thể nói tiền gửi có kì hạn là khoản tiền ngân hàng có thể dùng cho vay với
lãi suất huy động tương đối thấp nhưng lượng tiền này ở Ngân hàng Từ Liêm
chiếm một tỉ trọng quá thấp do đặc trưng của các khách hàng là các công ty, xí
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, vốn hoạt động kinh doanh nhỏ vòng
quay vốn lớn nên số dư trên tài khoản rất thấp, đây là hạn chế khá lớn đối với chi
nhánh . Do vậy trong tương lai chi nhánh cần thấy đây là mục tiêu phải đạt được:
tăng tỉ trọng tiền gửi có kì hạn lên tới 50-60% tổng nguồn huy đọng từ các tổ chức
kinh tế. Nhìn vào bảng 4 ta thấy hạn chế của ngân hàng trong huy động từ các tổ
chức kinh tế: tiền gửi có kì hạn năm 1998 là 1564 triệu còn năm 1999 và năm 2000
không có số liệu chính thức. Vì vậy mục tiêu đặt ra cho Ngân hàng là phải khắc
phụcnhững mặt chưa làm được, tìm hiểu rõ nguyên nhân để từ đó đưa ra các biện
pháp và chiến lược mang tính khả thi cao nhằm tăng nguồn tiền gửi của các tổ
chức kinh tế cả về số lượng và chất lượng.
2. Huy động từ tiền gửi dân cư:
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống
của các Ngân hàng Thương mại. Nguồn tiền gửi tiết kiệm thường chiếm tỉ trọng
tương đối lớn và khá ổn định trong tổng nguồn, đây cũng là nguồn phát sinh chi
phí chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại. Sự biến động của nguồn này phụ
thuộc chặt chẽ vào thu nhập của dân cư, tỉ lệ lạm phát, biến động lãi suất huy động
và lãi suất tín phiếu kho bạc, các yếu tố tâm lý xã hội. Chuyển sang hạch toán theo
cơ chế mới, chi nhánh đã sử dụng nhiều biện pháp tích cực như: áp dụng lãi suất
mềm dẻo, linh hoạt do đó nguồn tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên đáng kể qua các năm
, cụ thể là:
Năm 1998 huy động động được 57557 triệu, năm1999 tăng lên 57795 triệu
về số tuyệt đối tăng +238 triệu, về số tương đối tăng +4%; năm 2000 đạt 69354
triệu, tăng +11559 triệu so với năm 1999.
Ta thấy xu hướng tăng của tiền gửi tiết kiệm nhanh hơn tiền gửi của các tổ
chức kinh tế, chi nhánh cần mở rộng loại tiền gửi này hơn nữa để tăng tổng nguồn
huy động vì nó có tính ổn định và lãi suất huy động thường nhỏ hơn mức lãi suất
khác.
Trang 38
Bảng 5: Cơ cấu tiền gửi của
dân cư
Đơn vị tính: triệu đồng
Thời điểm 31/12/1998 31/12/1999
Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền %
1. Tiền gửi tiết kiệm 57557 29,4 57795 26.8
2. Phát hành kì phiếu 138489 70,6 157838 73,2
Tổng 196046 100% 215633 100%
Nguồn: phòng kế toán và ngân quĩ
Trang 40
Một hình thức được Ngân hàng dùng để huy động vốn có hiệu quả đó là phát
hành các kì phiếu ngân hàng. Qua bảng 5 ta thấy huy động qua phát hành kì phiếu
có xu hướng tăng nhanh qua các năm: năm 1998 huy động được 138489 triệu, năm
1999 đạt 157838 triệu, tăng + 19349 triệu và năm 2000 đạt 189406 triệu, tăng +
31568 triệu. Huy động bằng hình thức phát hành kì phiếu tăng mạnh hơn so với
các hình thức khác sở dĩ là do nó hấp dẫn hơn đôí với dân chúng ở lãi suất cao và
thời hạn ngắn. Trong thực tế kì phiếu có thời hạn 3 tháng, 6 tháng rất được dân cư
ưa chuộng.
III. ĐÁNH GIÁVỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG:
1. Những mặt làm được:
Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh của NNN0 &PTNT Từ
Liêm có sự tăng trưởng toàn diện, các mặt chỉ tiêu đều đảm bảo chất lượng và hiệu
quả an toàn trong hoạt động. Riêng công tác huy động vốn đã được những thành
công sau:
1.1. Nguồn vốn chi nhánh huy dộng được tăng nhanh qua các năm
Chi nhánh đã biết phát huy năng lực của mình cũng như các ưu thế hiện có
được để huy động vốn có hiệu quả, thể hiện ở chỗ nguồn vốn huy động năm sau
luôn cao hơn năm trứơc và vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, dân cư khá ổn
định giúp chi nhánh có nguồn tiền gửi chi phí thấp, ít biến động hỗ trợ rất nhiều
cho hoạt động cho vay và đầu tư của Ngân hàng.
1.2. Nguồn vốn huy động đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn trên địa
bàn
Hàng năm nguồn vốn huy động được luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu sử dụng
vốn của ngân hàng, ngoài ra Ngân hàng còn thường xuyên hỗ trợ về vốn cho các
ngân hàng cơ sở ( Mỗ, Nhổn, Chèm) cũng như đóng góp với Nhà nước hàng trăm
tỉ đồng để đầu tư cho các vùng kinh tế khác. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện tốt
vai trò trung gian tài chính của mình.
1.3. Ngân hàng có cơ cấu vốn tương đối hợp lý và ổn định
Qua số liệu phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong một số
năm qua ta thấy tỉ trọng các nguồn huy động ít thay đổi và tỉ trọng này là khá hợp
lý so với tình hình hoạt độngcủa Ngân hàng và địa bàn hoạt động. Điều này chứng
tỏ Ngân hàng đã cố gắng nhiều trong công tác huy động vốn.
1.4. Ngân hàng đã tạo được mối quan hệ gắn bó, sâu sắc và uy tín với
khách hàng
Điều này thể hiện ở chỗ Ngân hàng đã khắc phục được điểm yếu về địa điểm
hoạt động, thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Do Ngân hàng đặt trụ sở xa
đường phố chính nên tạo nên tâm lý ngại đến ngân hàng của khách hàng, phần nào
hạn chế khả năng hút khách và huy động vốn của Ngân hàng, nhưng bằng cách mở
rộng màng lưới và tăng cường công tác tuyên truyền, tiếp thị nên đã giữu được chữ
tín với khách hàng trong việc gửi tiền. Hiện nay Ngân hàng có 7 điểm huy động
vốn trên địa bàn huyện được đặt tại những nơi đông dân cư . Vì vậy bằng những
biện pháp thiết thực, Ngân hàng đã tạo được uy tín với khách hàng trong việc thu
hút vốn, tạo nên thành công chung trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.5. Ngân hàng đã hiện đại hoá giao dịch ngân hàng:
Hiện nay tất cả các phòng ban của Ngân hàng đều được trang bị máy vi tính,
góp phần hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Riêng phòng kế toán và ngân quĩ đảm
nhiệm chức năng quản lý nguồn vốn của Ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ
hiện đại đã giảm nhẹ rất nhiều công việc, mọi giao dịch đều thông qua máy và việc
quản lý nguồn vốn huy động cũng chính xác hơn, đơn giản hơn, góp phần vào hiệu
quả công tác huy động vốn.
1.6. Ngân hàng đã phát huy được tinh thần đoàn kết tập thể trong việc huy
động vốn
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng, đội ngũ cán bộ ngân hàng đã có nhiều sáng kiến đóng góp trong quá
trình huy động vốn tạo nên thành công của ngân hàng trong hoạt động huy động
vốn. Từ đó khơi gợi tinh thần đoàn kết của mỗi cán bộ vì sự phát triển không
ngừng của Ngân hàng trong tương lai.
2. Những mặt hạn chế:
2.1. Nguồn vốn huy động được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có
Không thể thống kê một cách chính xác về số tiền nhàn rỗi trong dân cư hiện
là bao nhiêu, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng con số đó lớn hơn rất nhiều so
với con số mà ngân hàng huy động được. Huyện Từ Liêm đang trong giai đoạn”
thay da , đổi thịt”, thu nhập của người dân ổn định và bắt đầu tăng trưởng, nguồn
vốn tiết kiệm để dành cũng tăng lên. Trong khi địa bàn cần rất nhiều vốn để phát
triển thì một lượng tiền khổng lồ lại nằm rải rác trong dân chúng, đều này thể hiện
ở tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm chưa cao trong tổng nguồn huy động . Trong tương lai
ngân hàng cần đề ra những giải pháp hữu hiệu để thu hút ngày càng nhiều tiền gửi
dân cư, nhằm giải đáp một phần câu hỏi về vốn cho sự phát triển của huyện Từ
Liêm.
2.2. Nguồn vốn huy động được sử dụng chưa nhiều
Tuy vốn huy động tương đối lớn nhưng tổng nguồn lại chưa nhiều: năm 1998
vốn huy động đạt 240366 triệu , nguồn sử dụng đạt 99798 triệu; năm 1999 huy
động được 260525 triệu, sử dụng 119326 triệu và năm 2000 huy động 312630
triệu, sử dụng 198194 triệu. Tổng nguồn vốn được sử dụng để cho vay và đầu tư
có tăng lên trong các năm nhưng còn ít so với tổng nguồn huy động, điều này có
ảnh hưởng đến kế hoạch huy động vốn của ngân hàng vì nhu cầu huy đọng vốn
dựa trên nhu cầu sử dụng vốn. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính ở một số nước
trong khu vực năm 1997 đến nay, nền kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại và
giảm sút gây không ít khó khăn cho các ngân hàng thưong mại: nhu cầu vay vốn
của nền kinh tế giảm nhiều, vốn của các ngân hàng bị đóng băng. Mặc dù bị ảnh
hưởng bởi nguyên nhân chung, nhưng chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm cần chủ
động tìm ra biện pháp tháo gỡ tình thế, tăng doanh số cho vay nhằm tạo điều kiện
cho công tác huy động vốn trong tương lai mà trước mắt là năm 2001 cũng như
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng trôi chảy và hiệu quả.
3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công tác huy động vốn tại
NHN0 &PTNT Từ Liêm
3.1. Công tác sử dụng vốn:
Một ngân hàng không thể xây dựng kế hoạch và chiến lược huy động vốn của
mình mà bỏ qua việc phân tích công tác sử dụng vốn vì nếu ngân hàng không làm
tốt công tác cân đối vốn thì vốn huy động ứ đọng, ngân hàng không thể cho vay
hay đầu tư trong khi vẫn phải tră lãi cho các nguồn huy động. Chính vì điều này
mà NHN0 &PTNT Từ Liêm rất coi trọng công tác sử dụng khi xem xét và xây
dựng chiến lược vốn. Xuất phát từ kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư và cho
vay ngân hàng đã xây dựng cho mình một kế hoạch vốn. Hiện nay do nguồn vốn
huy động trung và dài hạn còn hạn chế, nên Ngân hàng vẫn phải sử dụng nguồn
vốn ngắn hạn để cho vay trung ,dài hạn. Khi mà nhu cầu vốn trung, dài hạn tăng
lên thì ngân hàng không thể sử dụng biện pháp này được mà phải tăng cường huy
động vốn trung và dài hạn . Nhu cầu vốn trung và dài hạn sẽ thúc đẩy huy động
vốn trung ,dài hạn và là một trong những căn cứ để ngân hàng xác định lượng vốn
cần huy động. Ngân hàng cần phải quyết tâm đẩy mạnh công tác huy động vốn
trong toàn bộ chi nhánh từ lãnh đạo đến các cán bộ, tích cực đóng góp đề xuất các
giải pháp.
Tóm lại: chi nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm đã rất quan trọng hoạt động
sử dụng vốn, coi đó là nhân tố hàng đầu tác động trực tiếp đến công tác huy
động vốn của ngân hàng huy động vốn phải thực sự gắn liền với sử dụng vốn .
Có như vậy thì công tác huy động vốn của chi nhánh mới thực sự đáp ứng tối
đa nhu cầu vốn của khách hàng. Đây cũng là phương châm giúp cho sự thành
công của Ngân hàng trong thời gian qua.
3.2. Lãi suất:
Sau khi Ngân hàng đã xây dựng được một chiến lược vốn phù hợp và bắt dầu
tiến hành huy động vốn thì lúc này lãi suất sẽ là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
sự biến động của khối lượng vốn huy động được cũng như quyết định đến tốc độ
huy động vốn và cơ cấu các nguồn huy động. Chính vì thế công cụ lãi suất đã được
sử dụng hết sức mềm dẻo, thường xuyên thay đổi qua các thời kì.
Chỉ tiêu Đơn vị tính 1997 1998 1999 2000
1. Tiền gửi không kỳ hạn % tháng 0,45 0,5 0,25 0,2
2. Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng 0,7 0,75 0,5 0,35
3. Tiền gửi kỳ hạn 6 tháng 0,8 0,9 0,6 0,5
4. Tiền gửi kỳ hạn 12 tháng 0,9 1,0 0,7 0,55
Ta thấy lãi suất tiền gửi của ngân hàng có nhiều biến động qua các năm
nhưng trong đó tiền gửi kì hạn dài hơn luôn có mức lãi suất cao hơn, điều này sẽ
thu hút khách hàng gửi tiền dài hạn tuy vậy tiền gửi dài hạn ở ngân hàng chưa
nhiều.
Vậy bằng công cụ lãi suất Ngân hàng có thể tăng hoặc giảm qui mô huy động
của mình và có thể thay đổi cơ cấu trong nguồn huy động, nhưng để có được một
mức lãi suất hợp lý đòi hỏi Ngân hàng không chỉ phân tích nhu cầu vốn huy động
và tình hình sử dụng vốn của mình mà còn phải thường xuyên theo dõi sự biến
động lãi suất của các Ngân hàng Thương mại khác trên thị trường để có thể điều
chỉnh lãi suất hợp lý cho từng thời điểm cụ thể.
3.3. Các hình thức huy động:
Một yếu tố gây ảnh hưởng đến công tác huy động viốn của NHN0 &PTNT
Từ Liêm là các hình thức huy động chưa phong phú, mới chỉ dừng lại ở những
hình thức quen thuộc như tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,12 tháng, chưa cải tiến
và áp dụng những hình thức mới. Cho nên giảm sự quan tâm của các khách hàng
đối với các loại tiền gửi của ngân hàng, ảnh hưởng đến doanh số huy độnh của kế
hoạch đã đề ra.
NHN0 &PTNT Từ Liêm dã biết được điểm yéu của mình và đang tìm cách
khắc phục. Mong rằng trong thời gian không lâu Ngân hàng sẽ có được những
hình thức huy động đa dạng đáp ưng được cả nhu cầu của khách hàng cũng như
của ngân hàng.
3.4. Các hình thức tiếp thị quảng cáo:
Trong cơ chế thị trường thì công việc quảng cáo là không thể thiếu đối với
các doanh nghiệp hoạt động kinh tế, các Ngân hàng Thương mại cũng đã có nhiều
hình thức quảng cáo tiếp thị trên báo chí ,phát thanh truyền hình... nhằm giới thiệu
các hoạt động sẽ làm hài lòng khách hàng của mình để thu hút nhiều khách hàng
về mình hơn. Thời gian qua công tác tiếp thị quảng cáo ở NHN0 &PTNT Từ Liêm
còn ít gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng nhất là đối với hoạt
động huy động vốn, bởi vì khách hàng không biết đến các hình thức huy động của
ngân hàng, không biết đến các lợi ích mà các dịch vụ ngân hàng mang lại. Do đó
ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến hoạt động tuyên truyền quảng cáo góp phần
vào hiệu quả công tác huy động vốn.
Như vậy qua phân tích ở trên ta có thể thấy công tác huy động vốn của chi
nhánh NHN0 &PTNT Từ Liêm đã đạt được những thành công đáng kể, góp
phần vào thành công chung của hoạt động kinh doanh ngân hàng.Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại tồn tại cần phải khắc phục để ngày một hoàn
thiện công tác này hơn.
Muốn vậy chúng ta phải đề ra được những giải pháp để giải quyết khó
khăn cho ngân hàng, đồng thời có ý kiến kiến nghị lên các cấp nhằm hỗ trợ cho
công tác huy động vốn của chi nhánh NHN0 & PTNT Từ Liêm đạt kết quả cao
hơn. Tất cả những vấn đề vừa nêu sẽ được xem xét ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN TỪ LIÊM
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỪ LIÊM
Nhiệm vụ đặt ra cho chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Từ Liêmtrong thời gian tới là phải tiếp tục triển khai những mục tiêu xuyên
suốt trong chiến lược đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Trong năm 2001
hoạt động kinh doanh của chi nhánh theo hướng sau:
Tiếp tục đẩy mạnh kinh doanh, củng cố và mở rộng thị trường hoạt động,
đảm bảo hiệu quả, an toàn nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất - kỹ thuật để thích ứng trong quá trình hội nhập
Xây dựng và củng cố để trỏ thành một chi nhánh vững mạnh về mọi mặt
Nguồn vốn huy động tăng từ 20 -22 % so với năm 2000
Tổng dư nợ tăng từ 20 -25 % so với năm 2000
Nợ quá hạn : dưới 1% dư nợ
Quỹ thu nhập : tăng +10%.
Đảm bảo đủ chi phí tiền lương và thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
II. NHU CẦU VỐN CỦA HUYỆN TỪ LIÊM
Huyện Từ Liêm là nơi tập trung nhiều dự án phát triển trong thời gian sắp tới
và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Đây sẽ là nơi xây dựng khu liên hợp thể thao,
khu công nghiệp nam Thăng Long, đồng thời có dự án nhà ở mới và đường cao tốc
Láng -Hoà Lạc chạy qua. Những dự án này sẽ làm thay đổi bộ mặt của huyện
nhưng cũng đặt ra không ít vấn đề cho ban lãnh đạo. Thực trạng kinh tế hiện nay
của huyện gặp nhiều khó khăn, cần phải có sự hỗ trợ rất lớn về nhièu mặt. Khi
thành phố ra quyết định thành lập quận mới - quận Cầu Giấy thì một số địa điểm
phát triển đã được tách ra, sát nhập vào quận mới gây không ít thiệt thòi cho
huyện. Với đặc điểm là vùng mạnh về nông nghiệp nên kinh tế của huyện phát
triển còn chậm. Số doanh nghiệp nhà nước đặt tại huyện ít, người dân chủ yếu hoạt
động sản xuất và buôn bán nhỏ, cơ sở vật chất còn nghèo chưa đủ điều kiện để thu
hút các dự án đầu tư nước ngoài.
Để có thể hoà mình vào sự phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của
thành phố nói riêng và để trở thành một trung tâm kinh tế, từng bước xây dựng
huyện hiện đại, vững mạnh thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn.
Trong sự phát triển đó thì bản thân huyện phải đóng vai trò chủ thể. Khi mà
sự trợ giúp từ ngân sách nhà nước là có hạn và vốn đầu tư nước ngoài vào còn hạn
chế, hơn nữa tuy ngân sách huyện thu có đạt nhưng không đủ bù chi nên vai trò
thu hút vốn tư nội tại huyện, nhất là trong tầng lớp dân cư để đầu tư thông qua các
Ngân hàng Thương mại là yếu tố vô cùng quan trọng. Với lợi thế hoạt động lâu
năm trên địa bàn, đã có nhiều mối quan hệ giao dịch với dân cư và có nhiều khách
hàng truyền thống. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm cần
thấy được cơ hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN TỪ LIÊM
1. Ngân hàng nên chuyển đến nơi có địa điểm thuận lợi hơn
Như chúng ta đã biết địa điểm của ngân hàng chiếm vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong công tác huy
động vốn nói riêng. Do vậy chi nhánh nên tích cực hơn nữa trong việc xin chuyển
trụ sở đến địa điểm thuận lợi hơn. Nếu Ngân hàng được chuyển đến các trục
đường chính như trên mặt đương thị trấn Cầu Diễn chẳng hạn, thì có nói đây là
giải pháp hữu hiệu không những tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch với khách
hàng mà còn tăng được vốn huy động từ dân cư.
2. Tập trung thực hiện chiến lược huy động vốn theo chỉ đạo của Trung
ương
Ngân hàng cần nắm bắt và triển khai kịp thời các ý kiến chỉ đạo của ban lãnh
đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thông qua các chủ
trương và chính sách về huy động vốn. Đồng thời kết hợp với tình hình thực tế tại
địa bàn huyện để có chính sách về lãi suất tiền gửi thật mềm dẻo, linh hoạt đảm
bảo vừa thực sự hấp dẫn đối với khách hàng vừa mang tính cạnh tranh cao và bản
thân ngân hàng có lợi. Ngân hàng cần chú trọng nguồn vốn lãi suất thấp, thời gian
dài và ổn định.
3. Luôn tạo sự an tâm đối với người gửi tiền
Như chúng ta đều biết khi rời xa vốn liếng một thời gian dài để gửi vào ngân
hàng, người gửi tiền thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh
tế, sự ổn định của hoạt động ngân hàng nơi mình ký thác tiền vào. Chính vì vậy,
vấn đề giải toả tâm lý cho khách hàng để tăng nguồn vốn huy động là vấn đề mà
các Ngân hàng Thương mại luôn nghiên cứu để đạt được điều mà khách hàng
mong muốn. Xác định được tầm quan trọng của chữ tín trong hoạt động ngân
hàng, ngoài các biện pháp thực hiện hàng ngày như : đảm bảo khả năng thanh toán
tức thời, cung ứng một cách nhanh nhất các tiện ích sẵn có, trụ sở khang trang
thoáng mát thì yếu tố bảo hiểm tiền gửi cần được ngân hàng quan tâm và thực
hiện một cách đầy đủ, kịp thời.
4. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trung
và dài hạn
Trong những năm qua chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Từ Liêm luôn tìm mọi cách đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của
mình. Đặc biệt đối với loại tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư,
đây là những nguồn huy động truyền thống đối với nghành ngân hàng nói chung
thì ngân hàng đã mở rộng bằng nhiều kỳ hạn huy động vốn khác nhau : tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng...Tuy nhiên khó khăn
đối với ngân hàng là việc thiếu các nguồn vốn dài hạn nên thực tế các hình thức
huy động vốn dài hạn chưa được khai thác đúng mức, tiền gửi có kỳ hạn còn
chiếm tỷ trọng nhỏ, xu hướng tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế thấp hơn so với
tiền gửi của dân cư.
Trong khi thị trường chứng khoán ở Hà Nội chưa thực sự được đưa vào hoạt
động thì hình thức huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu (12 tháng, 13 tháng) đã
đáp ứng được nhu cầu trước mắt của chi nhánh. Do tâm lý dân chúng nước ta còn
dè dặt trong việc gửi tiền dài hạn nên trong giai đoạn hiện nay ngân hàng nên tiếp
tục biện pháp này. Bên cạnh đó ngân hàng nên phát hành thêm hình thức chứng chỉ
tiền gửi kỳ hạn ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng vô danh để có thể chuyển
nhượng được hoặc có thể bán lại cho các Ngân hàng Thương mại trước ngày đáo
hạn.
Đối với huy động tiền gửi tiết kiệm, để phát triển hình thức tiết kiệm dài hạn
thì ngân hàng nên tạo ra các loại tài khoản có mục đích, có như vậy dân chúng mới
an tâm gửi tiền dài hạn mà không sợ mất giá vì mục đích của việc gửi tiền tiết
kiệm là để mua nhà, mua các phương tiện sinh hoạt đắt tiền ... sẽ được đảm bảo
bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh như đô la Mỹ. Hơn nữa cần tiếp tục đa dạng hoá
các hình thức gửi tiền như nên mở rộng các hình thức gửi gọn lấy gọn, gửi lẻ lấy
gọn để tăng tiền gửi có kỳ hạn.
Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn mở ra các loại tài khoản phục vụ thường
xuyên giao dịch và không thường xuyên giao dịch, loại dành cho các doanh nghiệp
và loại dành cho dân cư, loại có số dư lớn, loại có số dư nhỏ, loại có hưởng lãi và
không hưởng lãi...Tuỳ theo từng loại khách hàng để mở cho họ một loại tài khoản
thích hợp hoặc một khách hàng có thể mở hai hoặc ba loại tài khoản phù hợp với
hoạt động kinh tế của mình.
Tóm lại, công tác huy động vốn của ngân hàng có nhiều bất cập đặc biệt là
huy động nguồn dài hạn. Một số biện pháp mở rộng huy động vốn dài hạn nói trên
cần phải được ngân hàng phối hợp với sự cộng tác giúp đỡ của nhiều cơ quan, tổ
chức và đặc biệt là phụ thuộc vào những chính sách của Nhà nước và sự phát triển
của các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khoán.
5. Đẩy mạnh chính sách khách hàng
Không như những hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thì quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng mang tính thường
xuyên và lâu dài, khả năng tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc chủ yếu
vào chữ tín của khách hàng kể cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Đặc
biệt, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, có khách hàng chỉ quan tâm đến dịch vụ
và chất lượng các dịch vụ của ngân hàng mà yếu tố lãi suất không phải là yếu tố
quyết định nữa. Điều đó khẳng định rằng, chính sách khách hàng là một biện pháp
quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm.
5.1. Công tác cán bộ
Để làm tốt chính sách này, chi nhánh cần phải làm tốt công tác cán bộ, cụ thể
là phải tuyển chọn những cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt đặc biệt là các
cán bộ làm việc ở phòng giao dịch. Cán bộ cần có thái độ vui vẻ, nhiệt tình phục
vụ, tôn trọng khách hàng để tạo được lòng tin tuyệt đối của khách hàng với ngân
hàng.
5.2. Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng
Để triển khai chính sách khách hàng thực sự có hiệu quả, đi vào nề nếp chi
nhánh nên thành lập tổ nghiên cứu khách hàng, tổ này gồm các lãnh đạo của chi
nhánh như giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng, phó phòng cùng với các cán bộ
phòng kinh doanh - họ luôn phải quan hệ với khách hàng để từ đó có thể nắm bắt
được một cách dễ dàng những yêu cầu đòi hỏi của khách hàng và có những biện
pháp đáp ứng kịp thời những yêu cầu đó.
5.3. Phân loại khách hàng
Đây là công tác rất cần thiết đối với các hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh,
trên cơ sở phân loại khách hàng chi nhánh có những chính sách ưu tiên, khuyến
khích thích hợp đối với các khách hàng có số tiền gửi lớn, ổn định, khách hàng có
uy tín.
Ưu đãi về lãi suất : đây là vấn đề khách hàng hết sức quan tâm khi đặt vấn
đề với ngân hàng, công tác huy động vốn của ngân hàng luôn sống động, phù hợp
với từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. “Người bán vốn" là các tổ chức kinh tế và
dân cư, “người mua vốn" là ngân hàng, hai bên cùng có lợi qua giá cả là lãi suất
ngân hàng trả cho người bán. Như vậy, giá cả có thể lên xuống theo cung và cầu
trên thị trường, theo quy định của ngân hàng nhà nước, theo sự thoả thuận giữa
người bán và người mua. Vì thế ngân hàng phải có chính sách lãi suất mềm dẻo,
linh hoạt, thoả đáng cho những khách hàng có nguồn tiền gửi lớn nhưng vẫn phải
đảm bảo mặt bằng lãi suất của các ngân hàng trên địa bàn.
Đối với các tổ chức tài chính có số dư tiền gửi bình quân lớn, ổn
định thường xuyên chẳng hạn từ 5 tỷ đồng trở lên, thời hạn gửi từ 1 năm trở lên
có thể tăng mức lãi suất lên 0,05%/tháng so với lãi suất huy động hiện hành. Các
đơn vị này nếu có nhu cầu vay trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến ngày đáo
hạn thì Chi nhánh có thể cho vay với lãi suất giảm 0,05% tháng so với lãi suất
hiện hành.
Đối với khách hàng là dân cư, nếu có nhu cầu vay trong khi có kỳ
phiếu, trái phiếu hay tiền gửi tiết kiệm tại chi nhánh còn trong hạn thì được vay
vốn với mức lãi suất giảm 0,02%/tháng so với lãi suất hiện hành.
+ Ưu đãi về dịch vụ : cung cấp các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, kịp
thời và chính xác.
Những khách hàng có số tiền gửi lớn cần gửi vào hoặc lấy ra tại chi
nhánh thì khi có yêu cầu ngân hàng có thể cử cán bộ giao dịch đến tận nơi thu
nhận hay phát cho khách hàng với chi phí tối thiểu.
Khách hàng cần mở tài khoản tiền gửi với số lượng tiền lớn, ổn định
chỉ cần gọi điện đến chi nhánh, cán bộ của ngân hàng có thể đến tận nơi hướng
dẫn khách làm thủ tục, giải đáp thắc mắc và nhanh chóng hoàn tất các thủ tục cần
thiết.
Miễn thu phí ấn chỉ thông thường đối với các đối tượng có sử dụng
các khế ước vay tiền, bảng kê rút vốn, bộ hồ sơ mở tài khoản ...
Khách hàng gửi tiền có nhu cầu chuyển tiền từ USD sang VND chi nhánh
sẽ thực hiện nhanh chóng, thủ tục đơn giản, miễn phí
5.4. Tăng cường và không ngừng mở rộng các dịch vụ
Trong hệ thống Ngân hàng Thương mại đã từ lâu tồn tại sự cạnh tranh gay
gắt, không có giới hạn để kéo về mình những khách hàng lớn. Đối với chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmdoanh thu từ hoạt động
dịch vụ còn rất khiêm tốn, nhưng cũng đã khẳng định được sự đổi mới trong
phong cách hoạt động kinh doanh của mình để thắng các đối thủ cạnh tranh khác
đồng thời hoà nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước. Bên cạnh đó, để hoạt
động dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả trong việc thu hút các
khách hàng mới và tăng nguồn vốn huy động qua đó tăng mức thu nhập của ngân
hàng, chi nhánh ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ
Liêmcần phát triển hơn nữa các dịch vụ sau:
Dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn thông tin : trong dịch vụ này ngân hàng có thể
hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, tính toán
nguồn tài trơ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Trong lĩnh vực kinh
doanh, thông tin được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Cho nên ngân hàng nên
có bộ phận tư vấn quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin chuyên môn liên
quan tới các lĩnh vực hoạt động của các khách hàng của mình để kịp thời nắm bắt
được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và cung cấp cho khách hàng
các thông tin quan trọng, cần thiết.
Dịch vụ tư vấn tài chính : qua thực tế đã chứng minh rằng nhiều khi ngân
hàng cũng phải giúp cho doanh nghiệp trong việc lập, phân tích tài chính... Vì vậy,
sự ra đời dịch vụ này là rất cần thiết cho các doanh nghiệp.
Tư vấn về pháp luật : ngân hàng có thể giúp nhiều cá nhân, doanh nghiệp
nắm rõ các quy định của luật pháp để thực hiện đúng như: luật công ty, luật kinh
tế, luật doanh nghiệp nhà nước. Vì nhiều doanh nghiệp còn chưa được thực sự nắm
vững được quyền và nghĩa vụ của mình, do vậy nhiều khi để xảy ra những lỗi đáng
tiếc, chịu thiệt thòi trong quan hệ kinh tế.
6. Tiếp tục sắp xếp lao động và mở rộng mạng lưới kinh doanh tại những
địa bàn có tiềm năng, từng bước đào tạo nâng cao trình độ và tay nghề của
cán bộ công nhân viên.
Theo kinh nghiệm của các nước, hai yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế là
vốn và con người, trong đó con người đóng vài trò chủ thể chính, quan trọng nhất
trong sự phát triển. Xu hướng trong những năm tới, khi mà các điều kiện vật chất
và vốn của các Ngân hàng Thương mại tương đương nhau thì ngân hàng nào có
đội ngũ cán bộ mạnh sẽ thắng thế trong cạnh tranh. Cho nên vấn đề nhân sự luôn
được các ngân hàng quan tâm bằng các hình thức đào tạo như : tổ chức các buổi
nói chuyện chuyên đề, đào tạo lại, khuyến khích cán bộ học thêm ... Các ngân
hàng thật sự đang bước vào một cuộc cạnh tranh mới - cạnh tranh trí tuệ.
Không nằm ngoài xu hướng phát triển đó, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Từ Liêmcần chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao trình độ
cán bộ công nhân viên để họ có thể nắm bắt kịp thời những thay đổi vầ thích ứng
với sự phát triển chung của xã hội.
7. Áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại:
Nhất là khâu thanh toán, nghiên cứu để áp dụng phương thức “ gửi một nơi,
lấy nhiều nơi” tạo mọi điều kiện thuận lợi khi giao dịch với ngân hàng cấp trên,
thông tin liên lạc và thực hiện thanh toán không chứng từ với các chi nhánh trong
cùng hệ thống
8. Làm tốt công tác tiếp thị:
Công tác này phải được tiến hành đến từng doanh nghiệp, bằng các luồng
thông tin khác nhau, cán bộ tín dụng là người có thể nắm bắt được lý lịch của
khách hàng mà mình muốn đặt quan hệ, sau đó trực tiếp xuống đơn vị, giới thiệu
cho họ biết về các nghiệp vụ, các hình thức huy động vốn của ngân hàng qua đó
thể hiện được ưu thế của ngân hàng so với các ngân hàng khác trong cùng địa bàn.
Có thể có các biện pháp khuyến mãi nhằm thu hút các khách hàng mới tạo cảm
tình tốt ngay từ các quan hệ đầu tiên. Đối với các khách hàng lớn, lãnh đạo chi
nhánh nên xuống tận nơi gặp gỡ trực tiếp khách hàng để tạo sự tôn trọng và tin cậy
lẫn nhau.
Ngoài ra, để thu hút nhiều hơn nữa khách hàng lớn chi nhánh nên dùng
phương thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội nghị
khách hàng lớn, tặng quà lưu niệm để tuyên truyền và giúp khách hàng có điều
kiện hiểu thêm về hoạt động tại chi nhánh mình. Đặc biệt trong việc vận động các
cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh thì công tác quảng cáo vô cùng quan
trọng. Có như vậy, người dân mới hiểu được sự thuận tiện khi sử dụng tài khoản
này, và từ đó chi nhánh mới tăng được nguồn vốn huy động có lãi suất thấp.
9. Huy động thông qua các kênh khác
- Chi nhánh nên hợp đồng với các công ty bảo hiểm để vận động khách hàng
của chi nhánh mua bảo hiểm cho vốn vay hoặc bảo hiểm chất lượng các công
trình. Nếu làm được điều này thì ngoài phần thu từ phí, chi nhánh còn huy động
được vốn thông qua tài khoản tiền gửi của các công ty tại chi nhánh, vàtránh được
rủi ro.
- Hợp đồng với các cơ quan bưu điện, điện lực, sở nhà đất... để tổ chức thanh
toán qua tài khoản tiền gửi cá nhân về tiền nhà, tiền điện, tiền điện thoại hay trả
lương cho các cán bộ của cơ quan đó.
10. Thường xuyên làm tốt công tác thi đua khen thưởng để hỗ trợ tích
cực cho công tác huy động vốn :
Ngân hàng phải có chính sách khen thưởng, khuyến khích hợp lý đối với các
cá nhân, phòng ban có thành tích, sáng kiến trong nghiên cứu khoa học và phương
pháp thực tiễn trong công tác khơi nguồn cho chi nhánh. Có thể thấy rằng, công tác
huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ
Liêmđã đạt được những thành tích nhất định, nhưng so với tiềm năng của địa bàn
thì chưa tương xứng. Các cán bộ ngân hàng cần thấy được vai trò của ngân hàng
trong sự phát triển của huyện, khi nhu cầu vốn của địa bàn cần rất lớn nhưng khả
năng huy động vốn còn hạn chế. Cho nên từ lãnh đạo cho đến toàn bộ cán bộ của
chi nhánh phải thực sự tìm ra giải pháp cho ngân hàng mình bằng tài năng và nỗ
lực của bản thân vì họ là người duy nhất hiểu rõ về đặc điểm và tính chất của
khách hàng, của các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, ban lãnh đạo
ngân hàng cần có các chính sách khen thưởng kịp thời để khuyến khích các cá
nhân, tập thể cùng tham gia.
Rõ ràng, bằng các nghiệp vụ, các biện pháp đa dạng và nâng cao chất lượng
các hoạt động của ngân hàng, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Từ Liêmsẽ tạo ra được một sức cạnh tranh lớn nhằm thu hút khách
hàng về mình ngày càng nhiều và để tiến tới thoả mãn mọi nhu cầu và tâm lý của
khách hàng. Kết quả là, ngân hàng sẽ có khả năng thu hút được ngày càng nhiều
các nguồn vốn trong xã hội. Tuy nhiên, một điều hết sức cơ bản là phải có các điều
kiện cơ bản để đảm bảo cho các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả cao và
thực sự có tính khả thi lớn khi đưa vào thực tiễn. Ta biết rằng trong xu hướng phát
triển ngày nay, không một ngân hàng nào có thể phát triển mà không có sự liên kết
chặt chẽ với các ngân hàng khác, hơn thế nữa chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Từ Liêmlà một chi nhánh trực thuộc chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội và sau đó là ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam, chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ngân hàng Nhà
nước như các Ngân hàng Thương mại khác và cao hơn nữa là chịu sự chi phối, chỉ
đạo của chính phủ Việt Nam như các thành phần kinh tế khác. Các biện pháp đưa
ra sẽ không thể phát huy được tác dụng nếu như chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam không tạo ra được môi trường thuận lợi và ổn định để giúp chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmthực hiện chúng. Bên
cạnh đó để có thể huy động vốn các chi nhánh cần có nhận thức đúng đắn và sâu
sắc về các quan điểm có tính định hướng của Đảng và Nhà nước cho sự phát triển
chung của cả nền kinh tế nói chung và hệ thống các Ngân hàng Thương mại nói
riêng. Chính vì lẽ đó, chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải có
chính sách phù hợp.
IV. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO TÍNH KHẢ THI ĐỂ THỰC HIỆN
CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỪ LIÊM
1. Kiến nghị với chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vai trò điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế do
vậy chính phủ rất quan trọng trong việc điều hướng mọi hoạt động của một quốc
gia. Chính phủ là cơ quan thực hiện luật pháp hoá các chủ trương, chính sách và
những biện pháp cần thiết trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm thể hiện ý chí
của cả nước. Hơn thế, chính phủ cũng cần nắm bắt kịp thời những chi tiết chưa đầy
đủ hoặc chưa cụ thể trong hệ thống luật pháp để từ đó tiến hành bổ sung tạo điều
kiện xây dựng một môi trường pháp lý hoàn thiện và ổn định, đảm bảo cho mọi
người dân an tâm và tin tưởng khi sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng cũng như lĩnh vực ngân hàng và hoạt động
ngân hàng, đặc biệt là trong phạm vi hoạt động huy động vốn nhằm phục vụ công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, cần tiếp tục được sự quan
tâm và hỗ trợ nhiều phía của Chính phủ.
1.1. Tiếp tục hoàn thiện luật ngân hàng
Tại hội nghị Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 từ ngày 21 tháng 11 đến ngày
12 tháng 12 năm 1997 đã tiến hành thông qua hai bộ luật : luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng.
Có thể nói rằng sự ra đời của hai bộ luật trên cùng với sự điều tiết của luật
ngân sách, luật công ty, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thương mại ... sẽ đảm
bảo được tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, thay thế cho hai pháp
lệnh Ngân hàng là pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh hợp tác xã , tổ
chức tín dụng và công ty tài chính đã bộc lộ nhiều bất cập trong việc điều hành
cũng như thực thi có hiệu quả trong điều kiện hệ thống ngân hàng nước ta đang
từng bước chuyển đổi hoà nhập chung với hệ thống ngân hàng các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Trong khi đó, mọi hoạt động tiền tệ tín dụng và kể cả các định chế hoạt động
trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng đòi hỏi phải hoạt động trong khuôn khổ quy định
của pháp luật, làm cho mọi hoạt đọng trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
được kiểm soát chặt chẽ. Chỉ có như vậy, tất cả các nguồn vốn của quốc gia được
tập trung đầy đủ và thoả đáng, lợi ích của các thành phần kinh tế mới được bảo vệ
một cách đúng đắn. Nếu như không có hệ thống luật pháp quy định rõ về thao tác
nghiệp vụ, nội dung, tính chất hoạt động của tất cả các đối tượng hoạt động trên
lĩnh vực tiền tệ tín dụng thì có thể các đơn vị kinh tế không có chức năng tín dụng
cũng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn. Điều này dẫn đến tình trạng nguồn vốn
huy động được bị phân tán, không thể tập trung hoàn toàn vào các định chế ngân
hàng và do đó các ngân hàng cũng không thể có sự phối hợp kịp thời và hợp lý, từ
đó rủi ro cho người gửi tiền là rất có thể xảy ra, gây khó khăn cho công tác huy
động vốn cũng như công tác đầu tư, cho vay theo đúng định hướng của nền kinh
tế.
Sau gần bốn năm ra đời, hai luật đã phát huy được những ưu điểm của mình :
góp phần luật hoá các hoạt động tiền tệ - tín dụng, bảo vệ hoạt động ngân hàng,
định hướng cho các ngân hàng làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, tăng
cường an toàn cho người gửi tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho người vay vốn ...
giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh
đó hai bộ luật cũng còn nhiều điều cần bổ sung và hoàn thiện hơn nữa để trở thành
“ kim chỉ nam “ cho hoạt động ngân hàng ở nước ta.
Rõ ràng, sự ra đời của luật ngân hàng là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển và chuyển đổi của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên để có thể kiểm nghiệm
được tính đúng đắn của nó thì cần phải có thời gian, có sự theo dõi, bổ sung liên
tục những khiếm khuyết tiến tới ngày càng hoàn thiện bộ luật ngân hàng.
1.2. Đẩy mạnh việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì việc hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan và có ý nghĩa to lớn đối
với Việt Nam hiện nay.
Với cơ chế huy động vốn như thời gian trước và hiện nay thì không thể đáp
ứng theo nhu cầu của nền kinh tế đặt ra nhất là nguồn vốn trung và dài hạn, đồng
thời tạo ra điều kiện thu hút và sử dụng tốt nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam.
Thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc huy động vốn, thông qua phát hành chứng khoán, mặt khác đây là nơi tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thnàh tiền mặt
một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thị trường chứng khoán khuyến khích dân
chúng tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Trước đây, người dân
Việt Nam chỉ biết khai thác lợi ích nguồn vốn tiết kiệm và của để dành của mình
bằng cách gửi vào ngân hàng hưởng lãi. Nhưng khi có thị trường chứng khoán với
nhiều loại hàng hoá phong phú mang lại lợi ích cao hơn sẽ thu hút được lượng lớn
khách hàng. Từ đó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi khổng lồ có thể dùng đầu tư
vào nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh làm cho mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội chuyển đến những nơi có nhu cầu đầu tư và sử
dụng có hiệu quả nhất và với giá rẻ nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất
cũng như các hoạt động dịch vụ khác.
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán
lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người có vốn không sợ vốn
của mình bị bất động mà có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường
chứng khoán để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm
sôi động.
Khi chưa có thị trường chứng khoán, các Ngân hàng Thương mại nước ta chủ
yếu huy động vốn ngắn hạn, các nguồn vốn trung và dài hạn được huy động thông
qua việc phát hành các trái phiếu. Tuy nhiên việc sử dụng công cụ này không phải
lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao, vì khả năng thanh khoản của trái phiếu không
phải là đơn giản.
Thị trường chứng khoán sẽ giúp cho việc phát hành và chuyển đổi trái phiếu
trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Chính vì vậy, ngân hàng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều
trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài
hạn trong các tầng lớp dân cư.
Thị trường chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt đông jgần
một năm nay và phần nào thể hiện được “sức mạnh” của mình. Nhưng do số lượng
hàng hoá quá ít và cả nước mới có một sàn giao dịch nên chưa thúc đẩy được thị
trường chứng khoán phát triển. Theo kế hoạch của uỷ ban chứng khoán nhà nước
thì cuối quý 2 năm 2001 sở giao dịch ở Hà Nội sẽ khai trương và đi vào hoạt động.
Mong rằng chính phủ có nhiều biện pháp hỗ trợ hơn nữa để thị trường chứng
khoán ở Việt Nam phát triển và đem lại kết quả như mong muốn.
1.3. Tạo ra sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của
ngân hàng, nó có thể tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn nhưng cũng có thể
cản trở, hạn chế công tác huy động vốn. Nếu nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm phát
thấp, thu nhập người dân cao và đồng nội tệ được giữ vững thì sẽ tạo cho ngân
hàng rất nhiều điều kiện thuận lợi như : hoạt động ngân hàng ổn định, không bị các
yếu tố tác động làm ảnh hưởng, người dân có nhiều tiền nhàn rỗi hơn làm tăng
doanh số huy động của ngân hàng, các tổ chức kinh tế làm ăn vững chắc sẽ có
nguồn tiền gửi ngân hàng nhiều hơn... Và ngược lại, nền kinh tế bất ổn với các
yếu tố vĩ mô luôn thay đổi sẽ làm cho hoạt động ngân hàng bị xáo động, hoạt động
huy động vốn bị cản trở nhiều. Nói chung, sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô là điều
kiện tiền đề cơ bản và quan trọng cho mọi sự phát triển và tăng trưởng của đất
nước và cho việc thu hút các nguồn vốn vào ngân hàng.
Trong tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, một trong những nội dung của
việc tạo lập sự ổn định của kinh tế vĩ mô là giữ vững tỷ lệ lạm phát một con số,
tăng thu nhập bình quân đầu người bền vững, giữ sự ổn định giá trị đồng nội tệ.
Đây là điều kiện hết sức quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm
huy động các nguồn vốn cho các Ngân hàng Thương mại.
2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:
Với chức năng là cơ quan quản lý các Ngân hàng Thương mại và là ngân
hàng của các Ngân hàng Thương mại, có tầm quan trọng rất lớn các chiến lược
huy động vốn của các ngân hàng, đồng thời cũng định hướng cho các Ngân hàng
Thương mại trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn hiện
nay. Chính sách hợp lý và cách thức điều hành đúng đắn sẽ là tiền đề có tác động
tích cực đối với công tác huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại.
Kinh nghiệm thực tế các năm qua đã cho thấy, bằng các biện pháp kìm chế
lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, giữ tỷ giá hối đoái ổn định và tạo ra hệ thống
ngân hàng ngày càng vững mạnh... đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến việc huy
động vốn của các Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua quá
trình điều hành và tổ chức thực hiện các chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
cần tiếp tục hoàn thiện và khắc phục những thiếu sót. Ngân hàng Nhà nước cần
xây dựng và điều hành một chính sách tiền tệ hợp lý nhằm khuyến khích người
dân gửi tiền vào ngân hàng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo theo sát với tín hiệu
của thị trường, các can thiệp của Ngân hàng Nhà nước phải thông qua thị trường
bằng các hệ thống công cụ tiền tệ gián tiếp như : thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi
suất tái chiết khấu. Nếu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước quá chặt chẽ đôi khi
vượt sự cần thiết thì sẽ gây khó khăn cho sự hoạt động của các Ngân hàng Thương
mại. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện:
Tiếp tục kìm chế lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát dưới hai con số; ổn định
giá trị đồng nội tệ. Trong hai năm 1999 và 2000 tình trạng thiểu phát liên tục diễn
ra làm cho nền kinh tế phát triển châm, nguồn vốn huy động của các ngân hàng
được sử dụng không nhiều, có Ngân hàng Thương mại ứ động khá nhiều vốn
không cho vay được làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng:
một mặt các ngân hàng vẫn phải trang trải nguồn chi phí huy động, một mặt phải
tìm mọi cách để tránh tình trạng nguồn vốn bị đóng băng. Thiểu phát không phải
là tốt đối với nền kinh tế đang cần sự phát triển như ở nước ta, thiểu phát sẽ kìm
hãm sự tăng trưởng, làm cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển. Hoạt động kinh
doanh ngân hàng cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Hơn nữa, những tháng
cuối năm 2000 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và USD tăng mạnh, gây tâm lý
dao động cho người dân khiến cho họ rút tiền gửi để dự trữ ngoại tệ, mua vàng
hay dự trũ các tài sản có giá trị làm cho nguồn vốn của các Ngân hàng Thương mại
giảm mạnh.
Năm 2001 là năm bản lề cho thiên niên kỷ mới, có ý nghĩa rất quan trọng đối
với những giai đoạn tiếp theo. Nghành ngân hàng cần thấy được vị trí và vai trò
của mình trong sự phát triển của xã hội, với tư cách là ngân hàng của các ngân
hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những biện pháp hợp lý, tạo điều kiện
cho các Ngân hàng Thương mại hoạt động ổn định. Trong thời gian tới, Ngân hàng
Nhà nước phải tìm cách giúp đỡ các Ngân hàng Thương mại tìm cách phá vỡ tảng
băng ứ đọng vốn, một nguyên nhân làm cho nguồn vốn này không giải ngân được
là do lãi suất còn quá cao đối với các doanh nghiệp vay vốn. Khi mà nền kinh tế
gặp khó khăn, các doanh nghiệp cũng chịu sự ảnh hưởng đó thì việc hạ lãi suất
khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để bứt phá khỏi sự trì trệ là điều hết sức
quan trọng, nó sẽ góp phần khơi thông nền kinh tế. Và như thế nền kinh tế phát
triển, nguồn vốn được sử dụng. Các Ngân hàng Thương mại lại tiếp tục công tác
huy động vốn để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của sự phát triển
Thực hiện lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải đảm
bảo lãi suất thực dương, có lợi cho người gửi tiền, đồng thời cũng mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Nghiên cứu thực hiện cơ cấu lãi suất phù hợp theo hướng
lãi suất trung và ngắn hạn phải có khỏng cách so với lãi suất ngắn hạn để thực sự
thu hút được người gửi tiền trung và dài hạn.
Qua các số liệu phân tích ở chương II, ta thấy tiền gửi không kỳ hạn của dân
cư là khá cao. Thông thường ở các nước phát triển thì loại tiền gửi này chỉ nhằm
mục đích giúp cho các khách hàng thanh toán tiền mua hàng hoá và dịch vụ được
thuận tiện mà ngân hàng không phải trả một đồng lãi suất nào. Ngược lại, khách
hàng cũng không phải trả tiền dịch vụ cho ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
nước ta hiện nay dân chúng vẫn chưa quen với các dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng và công tác thanh toán ngân hàng vẫn chưa thực sự hấp dẫn mới chỉ trong
giai đoạn hiện đại hoá, do vậy ngân hàng vẫn nên trả lãi cho khoản tiền này. Khi
hệ thống thanh toán của ngân hàng đã thực sự hoàn thiện và khách hàng thực sự tin
tưởng vào loại hình dịch vụ này thì ngân hàng nên áp dụng hình thức giảm lãi suất
và tiến tới không trả lãi nữa, khách hàng chỉ được hưởng dịch vụ phí từ ngân hàng
mà thôi. Nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện được nguyên tắc này, đây sẽ là một
nguồn vốn hết sức hấp dẫn cho các Ngân hàng Thương mại.
Thực hiện chế độ điều hành tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị
trường. Tránh tình trạng quy định tỷ giá cố định để rồi lại rơi vào trường hợp của
Thái Lan trong năm 1997 vừa qua. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu và xem
xét biên độ dao động quy định cho các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại
tệ... sao cho thích hợp vừa quản lý được khối lượng ngoại tệ đồng thời vẫn khuyến
khích cá thành phần kinh tế phát triển theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã
vạch ra cho hệ thống ngân hàng.
Nghiên cứu và sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như :
thẻ tín dụng, rút tiền bằng máy tự động... Qua đó sẽ khuyến khích người dân gửi
tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ tự động của ngân hàng đồng thời nó cũng
là hình thức ngân hàng huy động thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong các đơn vị kinh tế
cũng như các tầng lớp dân cư. Đặc biệt Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các cơ
quan như : bưu điện, giáo dục, ngân hàng ... phải trả lương qua hệ thống ngân hàng
bằng cách mở cho họ một tài khoản cá nhân.
Cho phép các Ngân hàng Thương mại được phép thực hiện việc mua bán
các loại giấy tờ có giá cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc... nhất là đối với các
giấy tờ có giá dài hạn.
Thực hiện đổi mới công nghệ ngân hàng, tăng cường công tác thanh toán
không dùng tiền mặt qua ngân hàng, thanh toán liên ngân hàng, chuyển tiền điện
tử, trang bị hệ thống máy tính hiện đại...nhằm cung cấp ngày càng nhiều các dịch
vụ ngân hàng đa dạng, phong phú và thuận tiện cho các khách hàng.
3. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam.
Vói tư cách là cấp quản lý cao nhất của hệ thống Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cần tạo mọi thuận lợi cho
các chi nhánh hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Ngân hàng cần cập nhật nhanh
nhất mọi nguồn tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng để từ đó chắt lọc và có
sự chỉ đạo kịp thời với các chi nhánh. Tuỳ vào tình hình hoạt động của mỗi chi
nhánh mà ngân hàng có thể giao chỉ tiêu hoạt động. Tuy hoạt động trong cơ chế thị
trường nhưng đặc điểm của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp là phục vụ cho nông
nghiệp, góp phần xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân nên cần có sự chỉ đạo sát
sao của các cấp để các chi nhánh đi đúng hướng đã định.
Cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chi nhánh. Do hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp có mạng lưới rộng khắp, cấp độ hoạt động rộng (Ngân hàng Nông
nghiệp cấp 4 ) nên việc quản lý trực tiếp từ ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam đến từng chi nhánh là rất khó thực hiện. Để công tác quản lý
có hiệu quả, ngân hàng cần có một hệ thống quản lý ở các chi nhánh cấp tỉnh,
thành phố thật sự trung thực và hiệu quả.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần cho phép các chi nhánh tự quyết định
hoạt động kinh doanh của mình trong một chừng mực nào đó. Mỗi chi nhánh có
địa bàn hoạt động khác nhau, đặc điểm địa lý dân cư ở mỗi nơi cũng khác nhau.
Nếu như Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cứ cứng nhắc áp dụng một nguyên tắc
nào đấy cho tất cả các chi nhánh thì có thể hiệu quả đem lại sẽ không cao. Ngân
hàng nên cho phép các chi nhánh tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của ngân
hàng, tình hình kinh tế địa phương, tâm lý khách hàng ... để quyết định hành động
cho phù hợp, tránh không gây bất ổn cho địa bàn, cho các ngân hàng trong khu vực
và nhất là không ảnh hưởng đến hoạt động chung của toàn hệ thống.
KẾT LUẬN
Bước vào cơ chế thị trường đã hơn một thập kỷ, hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã có những thành công đáng kể : giảm được chỉ tiêu siêu lạm phát xuống
một tỷ lệ ổn định trong nhiều năm, ổn định nền kinh tế và đóng góp vào sự tăng
trưởng của xã hội. Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmđã thật sự hoà nhập vào môi trường
kinh doanh mới, đầy sức cạnh tranh và hấp dẫn trong nền kinh tế đang có nhiều
thay đổi. Sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước còn đòi hỏi một khối lượng vốn
lớn. Do vậy vai trò tạo vốn của nghành ngân hàng được coi là hoạt động then chốt.
Hoạt động huy động vốn đã, đang và sẽ là một trong những hoạt động có tầm quan
trọng hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại nói chung và của chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêm nói riêng.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định trong công tác huy động
vốn, song chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Từ Liêmsẽ
gặt hái được những thành công mới trong công tác huy động vốn trong một tương
lai gần. Để đạt được kết quả như mong muốn, đòi hỏi chi nhánh phải có các biện
pháp kết hợp đồng bộ : với sự cố gắng của bản thân ngân hàng la chính, trong đó
có sự hỗ trợ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam cũng như các cơ quan hữu quan khác.
Hoàn thành bản khoá luận này bản thân em mong muốn sẽ đóng góp một
phần nhỏ kiến thức của mình vào việc tháo gỡ những khó khăn về công tác huy
động vốn tại ngân hàng. Tuy nhiên, vì đây là một vấn đề hết sức phong phú và bản
thân là một sinh viên mới chỉ dừng lại nghiên cứu về lý luận là chủ yếu, về thực
tiễn còn nhiều hạn chế. Cho nên bản khoá luận có thể chưa đáp ứng được những
mong muốn của cơ quan thực tế. Em rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của
các thầy cô giáo, và cơ quan thực tiễn để bản khoá luận được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường Tài chính - Frederic. S. Mishkin.
2. Tạp chí Ngân hàng các số năm 1998, 1999, 2000 và 2001.
3. Các giải pháp nhằm huy động vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH - Nguyễn
Trung Kiên - NXB Thống kê.
4. Ngân hàng thương mại - Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải - NXB
TP. Hồ Chí Minh.
5. Đề tài nghiên cứu khoa học "Phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ
truyền thống của Ngân hàng đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường". -
TS. Nguyễn Đức Thảo.
6. Tiền và hoạt động Ngân hàng - Lê Vinh Doanh - NXB TP Hồ Chí Minh.
7. Luật Ngân hàng Nhà nước và luật Các Tổ chức Tín dụng.
8. Bải giảng của các thầy cô khoa nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng.
9. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Từ Liêm năm 1998, 1999, 2000.