
1
LỜI NÓI ĐẦU
Vào tháng 6 năm 2011, tại Hội nghị cấp cao về HIV/AIDS ở New York, Mỹ, Việt
Nam đã khẳng định lại quyết tâm của mình trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS và cam
kết thực hiện những mục tiêu mới thông qua việc ký Tuyên bố Chính trị năm 2011 về
HIV/AIDS: Tăng cƣờng nỗ lực để loại trừ HIV/AIDS. Chúng tôi coi trọng cam kết này và
đảm bảo rằng bản báo cáo quốc gia về tiến trình thực hiện cam kết mang tính toàn diện và
phản ánh chính xác tình hình thực tế của ứng phó với HIV tại Việt Nam, thể hiện sự đồng
thuận quốc gia về các thành tựu và thách thức chính trong công cuộc phòng, chống
HIV/AIDS giai đoạn 2010 và 2011.
Việt Nam tiếp tục có sự tiến bộ vƣợt bậc nhƣ đã từng thể hiện qua các kỳ báo cáo
trƣớc. Chúng ta đã chứng kiến độ bao phủ trong công tác điều trị đƣợc mở rộng hơn và thể
hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện tiếp cận phổ cập về điều trị cho tất cả những ai có
nhu cầu, đặc biệt là với việc thực hiện thí điểm sáng kiến Điều trị 2.0. Các dịch vụ giảm tác
hại dành cho nhóm ngƣời tiêm chích ma túy đƣợc đẩy mạnh, đáng chú ý là liệu pháp duy trì
Methadone (MMT) tiếp tục đƣợc mở rộng để hƣớng tới mục tiêu có 80.000 ngƣời tiêm chích
ma túy đƣợc sử dụng Methadone vào năm 2015. Công tác điều phối đa ngành, môi trƣờng
chính sách liên quan đến HIV dần đƣợc hoàn thiện và củng cố, những bƣớc tiến mạnh mẽ
hơn trong các can thiệp cho ngƣời bán dâm và ngƣời quan hệ tình dục đồng giới nam cũng là
những thành tựu quan trọng trong giai đoạn vừa qua.
Việt Nam cũng đã hoàn thành xây dựng Chiến lƣợc Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS
đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, đƣợc chuẩn bị với sự tham vấn rộng rãi các bên liên
quan. Các mục tiêu của Chiến lƣợc quốc gia mới khẳng định lại các mục tiêu nêu ra trong
Tuyên bố chính trị 2011 và thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc hƣớng tới mục tiêu
không còn ngƣời nhiễm mới HIV, không còn phân biệt đối xử và không còn tử vong do AIDS.
Chúng tôi cũng nhận thấy những quan ngại cho sự bền vững của công cuộc phòng
chống HIV khi các nhà tài trợ bắt đầu giảm nguồn lực đầu tƣ vào Việt Nam, đồng thời chúng
tôi cũng hiểu đƣợc tầm quan trọng của việc tăng cƣờng tính tự chủ quốc gia trong lĩnh vực
này. Những lo lắng này là có cơ sở. Để đối phó với thách thức này, Việt Nam một mặt tiến
hành thông qua và thực hiện Chƣơng trình mục tiêu quốc gia trong đó lần đầu tiên coi
chƣơng trình phòng chống HIV là một chƣơng trình riêng rẽ và cam kết tăng nguồn lực cho
HIV trong giai đoạn 2011- 2015. Mặt khác, Việt Nam tiếp tục vận động các nhà tài trợ duy trì
với khả năng có thể, sự hỗ trợ, hợp tác với Việt Nam, hết sức tránh việc cắt giảm đột ngột tài
trợ, gây xáo trộn lớn các kết quả đã đạt đƣợc.
Trên đây chỉ là một số điểm chính về công cuộc phòng, chống HIV/AID tại Việt Nam
giai đoạn 2010- 2011. Các nhà lãnh đạo đã cam kết Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vững những tiến