Báo cáo tốt nghiệp
“Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở nước ta hiện nay”
1
Mục lục “Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” ............................................ 1 Lời mở đầu ........................................... 4 Chương I ............................................ 7 Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và ...................... 7 I./ Khái niệm, bản chất và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng ........... 7 2.Bản chất ........................................... 9 3.Đặc điểm .......................................... 10 II./ Mô hình pháp luật thuế giá trị gia tăng ...................... 11 1.1.Phạm vi áp dụng thuế GTGT .......................... 11 1.2.Căn cứ tính thuế GTGT .............................. 14 1.3.Phương pháp tính thuế GTGT ......................... 17 Giá trị gia tăng = Tiền công + Lợi nhuận ....................... 17 1.4.Vấn đề quản lý thu,nộp thuế GTGT ...................... 20 1.4.2.Về vấn đề nộp thuế ................................. 21 Có hai hình thức nộp thuế : ............................... 21 Có hai cơ chế nộp thuế : ................................. 21 1.4.3.Về vấn đề hoàn thuế và khấu trừ thuế ..................... 22 Tính chất của hoàn thuế : ................................ 22 2.2.Hiệu quả pháp luật thuế GTGT .......................... 27 Chương II .......................................... 32 I./ Thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng ..................... 32 1.Các kết quả đạt được ................................. 33 2.Các tồn tại ......................................... 41 2.2.Các quy định về căn cứ tính thuế ......................... 42 2.3.Các quy định về phương pháp tính thuế ..................... 44 2.4.Các quy định về khấu trừ thuế,hoàn thuế .................... 44 2.5.Các quy định về quy định quản lý hoá đơn ................... 45 2.7.Các quy định về quản lý thu,nộp thuế GTGT .................. 46 II./ Thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng ..................... 48 Chương III.......................................... 59 Các biện pháp bảo đảm nâng cao .......................... 59 I./ Hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng ................. 59 2.2.Thuế suất ......................................... 61
2
2.3.Phương pháp tính thuế ................................ 63 2.4.Các quy định về miễn giảm thuế.......................... 63 2.5.Các quy định về hoá đơn chứng từ ........................ 64 3.6.Các quy định về khấu trừ và hoàn thuế ..................... 65 3.7.Các quy định về quản lý thuế ............................ 67 2.Tổ chức lại lực lượng cán bộ thuế ......................... 70 4.Tăng cường công tác quản lý hoá đơn,chứng từ ............... 73 Kết Luận .......................................... 77
3
Lời mở đầu
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì hiện nay trên thế giới
có khoảng hơn 100 nước đang áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng,một chế độ
thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn thu
cho Ngân sách nhà nước, đem lại số thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số
thu Ngân sách nhà nước.Do vậy,trong hệ thống pháp luật thuế,pháp luật về
thuế giá trị gia tăng có vị trí rất quan trọng.
Việc áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam thay thế cho chế
độ thuế doanh thu trong thời gian qua có tác động nhiều mặt đến đời sống
kinh tế – xã hội.Qua ba năm thực hiện,bên cạnh những thành công bước đầu
và những giá trị kinh tế – xã hội đáng ghi nhận của chế độ thuế giá trị gia tăng
đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn và sự cần thiết của việc áp dụng chế độ
thuế này. Mặt khác,thực tiễn áp dụng chế độ thuế GTGT bộc lộ những bất cập
trong các quy định của pháp luật đã gây ra những vướng mắc khi áp dụng,đặc
biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chưa cao,hoạt động của các
doanh nghiệp còn thấp,sự suy giảm kinh tế do những tác động và ảnh hưởng
hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu vực,cùng với
thiên tai liên tiếp diễn ra đã càng tạo ra nhiều khó khăn hơn trong việc triển
khai áp dụng trên thực tế.Điều đó đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu đánh giá
những quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT từ đó rút ra những gì đã
đạt được và những gì chưa đạt được nhằm mục đích sửa đổi,bổ sung các văn
bản pháp luật về thuế GTGT để nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia
tăng,đáp ứng những yêu cầu của đời sống kinh tế luôn luôn vận động và phát
triển.
4
Tuy nhiên,bản thân pháp luật và chất lượng của nó không thể tự thể
hiện trong đời sống xã hội mà phải thông qua cơ chế bảo đảm thực hiện.Do
đó,để đảm bảo phát huy vai trò của chế độ thuế GTGT thì cùng với việc hoàn
thiện pháp luật cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện.Mối liên
hệ giữa pháp luật về thuế GTGT và cơ chế bảo đảm thực hiện đặt ra yêu cầu
là cần nghiên cứu làm sáng tỏ những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật
thuế giá trị gia tăng từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Đến nay ở nước ta,đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,hội thảo,bàn
luận về thuế giá trị gia tăng,trong số các công trình nghiên cứu đó có các công
trình nghiên cứu điển hình là : Báo cáo khảo sát về thuế giá trị gia tăng ở các
nước Pháp,Thuỵ Điển,Trung Quốc…(Tổng cục thuế,Bộ tài chính,1993);Mô
hình áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ của Tổng cục thuế,Bộ tài chính năm 1993);Báo cáo tổng kết công tác
triển khai thực hiện các Luật thuế mới(Tổng cục thuế,Bộ tài
chính,5/2000);Một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành…
Với mong muốn góp sức vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng và
các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT,tác giả đã lựa chọn đề
tài: “Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở
nước ta hiện nay” .
Với đề tài trên,tác giả luận văn không mô tả lại toàn bộ những nội dung
điều chỉnh của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng,mà việc nghiên cứu
nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng ,hiệu quả pháp luật
thuế giá trị gia tăng và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá
trị gia tăng.Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và phát hiện những
vướng mắc trong áp dụng và nguyên nhân của nó từ đó kiến nghị những biện
pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
5
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng
kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp,đối chiếu,so sánh.Phương
pháp phân tích,so sánh,đối chiếu được sử dụng nhằm làm sáng tỏ các khái
niệm,các vấn đề đặt ra trong các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế
giá trị gia tăng .Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng chủ yếu để
đưa ra những nhận xét mang tính chất khái quát hoá từ đó luận chứng cho
những kiến nghị thích hợp.
Về mặt bố cục,ngoài lời mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo
thì Luận văn được chia làm ba chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và hiệu quả pháp
luật của thuế giá trị gia tăng
Chương II : Thực trạng pháp luật và thực tế áp dụng thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam
Chương III : Các biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế
giá trị gia tăng
6
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và
hiệu quả pháp luật của thuế giá trị gia tăng
I./ Khái niệm, bản chất và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Cùng với sự ra đời của nhà nước,sự xuất hiện của thuế như là một sự
đảm bảo cho hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước,bởi thuế là một
nguồn thu quan trọng nhất của nhà nước,là cơ sở để đảm bảo chi cho ngân
sách nhà nước.
Thuế được nghiên cứu dưới rất nhiều giác độ khác nhau.ở giác độ KT –
TC,thuế thường được hiểu là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc của
các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp
luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Còn dưới giác độ pháp lý,thuế là nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức và cá
nhân phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào Ngân
sách nhà nước khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành do luật thuế quy định.
Thực tiễn ở các nước cho thấy,việc có áp dụng thuế GTGT hay không
là tuỳ thuộc vào điều kiện riêng của từng nước.Đa số nước áp dụng thuế
GTGT là do hệ thống thuế cũ không còn phù hợp nữa.Một số nước có nền
kinh tế phát triển nhưng chưa áp dụng thuế GTGT như Mỹ,úc.Các nước này
chưa áp dụng thuế GTGT lý do chính là họ đã có thuế doanh thu đánh vào
khâu bán lẻ,là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,vì vậy không
bị đánh trùng thuế.Cách thu thuế này được thu theo từng bang đã có nề nếp và
thói quen,đang hoạt động tốt.Nếu ban hành thêm thuế GTGT áp dụng trên
toàn liên bang thì phải thay đổi lại hệ thống thuế của các bang,điều này sẽ rất
phức tạp cho nên họ chưa áp dụng.
7
Cũng theo kinh nghiệm của các nước áp dụng thuế GTGT thì thuế
doanh thu có nhược điểm cơ bản là thu thuế trùng lặp qua mỗi lần bán
hàng;đối với cùng một mặt hàng nếu tổ chức sản xuất kinh doanh khác
nhau,thì số thuế phải nộp khác nhau(do một cơ sở sản xuất thuế phải nộp một
lần;do nhiều cơ sở sản xuất thì qua mỗi cơ sở đều phải nộp làm số thuế nộp
tăng)không phù hợp với cơ chế thị trường,chưa khuyến khích đầy đủ cho sản
xuất hàng xuất khẩu;nhiều thuế suất nhưng tiêu thức sắp xếp các mặt
hàng,dịch vụ vào từng thuế suất cụ thể rất khó xác định rõ ràng,chính xác,dễ
dẫn đến việc thắc mắc về thuế và lợi dụng để trốn thuế,lách thuế.Do đó,nhằm
khắc phục những nhược điểm trên của thuế doanh thu,các nước đã chuyển
sang áp dụng thuế GTGT (theo tiếng Anh viết là Value Added Tax và viết tắt
là VAT).
Thuế GTGT là thuế gián thu được thu trên giá trị tăng thêm ở từng
khâu của quá trình kinh doanh(đối tượng nộp thuế sẽ tính số thuế giá trị gia
tăng phát sinh khi bán hàng, và được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đã nộp
khi mua hàng hoá vật tư,chỉ phải nộp phần chênh lệch vào ngân sách nhà
nước).Thuế GTGT đã được áp dụng thống nhất đối với các loại hàng hoá
nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước nhằm đảm bảo tính nhất quán của
thuế GTGT.
Đối tượng tính thuế GTGT là giá trị gia tăng của hàng hoá,dịch vụ.”Giá
trị gia tăng “ là giá trị mà người sản xuất kinh doanh làm tăng thêm vào giá
nguyên vật liệu hay hàng hoá mua vào trước khi bán ra sản phẩm hay dịch vụ
mới.Về bản chất kinh tế,đó là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào do
đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất,lưu thông.
Về mặt nguyên tắc,nhà nước chỉ đánh thuế vào phần giá trị tăng thêm
của hàng hoá,dịch vụ.Tuy vậy,cách hiểu “thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị
tăng thêm”chỉ đúng khi xét trên góc độ mỗi công đoạn sản xuất hay lưu
8
thông.Trên thực tế,thuế GTGT được tính theo một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ
giá hàng hoá dịch vụ cuối cùng đến người tiêu dùng.Như vậy tên gọi “thuế
GTGT” hoàn toàn không phải với ý nghĩa là loại thuế chỉ đánh khi phát sinh
giá trị tăng thêm mà nó thể hiện phương pháp thu thuế theo phần trên giá trị
gia tăng của hàng hoá,dịch vụ ở từng công đoạn sản xuất hoặc lưu thông(điều
này cũng giải thích cho việc ở khâu nhập khẩu,thuế GTGT đánh trên toàn bộ
giá trị hàng chứ không xác định trên giá trị tăng thêm).Thuế GTGT do tổ chức
hay cá nhân kinh doanh phải nộp được xác định trên “giá trị” phát sinh thêm
qua mỗi khâu từ sản xuất,lưu thông đến tiêu dùng.Giá trị tăng thêm đó được
xác định bằng hiệu số giữa giá trị bán ra ở cuối mỗi khâu với giá trị mua vào
ở đầu mỗi khâu.Tuy nhiên tổng số thuế GTGT mà tổ chức hay cá nhân kinh
doanh phải nộp cho các công đoạn từ sản xuất đến chu kỳ lưu thông cuối cùng
đúng bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
2.Bản chất
Về bản chất,thuế GTGT là một loại thuế gián thu,là loại thuế mà nhà
nước sử dụng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người tiêu dùng
hàng hoá,dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất,kinh doanh
hàng hoá,dịch vụ.Tính gián thu của thuế GTGT thể hiện ở chỗ người nộp thuế
và người chịu thuế không đồng nhất.Người nộp thuế là tổ chức hay cá nhân
sản xuất,kinh doanh hàng hoá,dịch vụ thuộc diện đối tượng chịu thuế,còn
người chịu thuế chính là người tiêu dùng nên người nộp thuế chỉ là người nộp
thay cho người chịu thuế.
Khi nói thuế GTGT do người tiêu dùng chịu,có nghĩa là tiền thuế mà
trên danh nghĩa được trả bởi tổ chức hay cá nhân kinh doanh bán hàng
hoá,cung ứng dịch vụ sẽ được chuyển qua cho người tiêu dùng chịu dưới
dạng cộng thêm vào giá bán hàng hoá,dịch vụ đó.
9
Với bản chất thuế GTGT là thuế đánh vào tiêu dùng nên dễ điều chỉnh
vì người chịu thuế thường không cảm nhận được đầy đủ gánh nặng của thuế.
Hơn nữa,thuế GTGT còn góp phần khuyến khích đầu tư vốn,và kích
thích phát triển kinh tế.Bởi vì việc thu thuế của nhà nước không ảnh hưởng
tới thu nhập của nhà đầu tư.
3.Đặc điểm
Thứ nhất,đối với thuế doanh thu,Nhà nước đánh thuế đối với toàn bộ
doanh thu phát sinh của mỗi khâu sản xuất lưu thông.Do đó,nếu các sản phẩm
chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua
các khâu.Còn đối với thuế GTGT,nhà nước chỉ đánh vào phần giá trị tăng
thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất lưu thông,như vậy tổng số thuế
GTGT mà nhà nước thu được không tăng thêm qua các khâu sản xuất,lưu
thông.
Thứ hai,thuế GTGT có tính trung lập,có nghĩa là về mặt lý thuyết thuế
GTGT không phải là một yếu tố trong chi phí của doanh nghiệp.Nó không
làm ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá,vì khi nó phải nộp bởi doanh nghiệp này
thì nó cũng được khấu trừ ở doanh nghiệp khác,chỉ có người tiêu dùng cuối
cùng mới không được khấu trừ.
Thứ ba,hiệu quả của thuế GTGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và
phân chia các chu trình kinh tế.Các khâu sản xuất kinh doanh của một sản
phẩm dù được tập trung tại một doanh nghiệp hoặc phân chia cho nhiều
doanh nghiệp khác nhau thì tổng số thuế Nhà nước thu được luôn bằng với số
thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ tư,thuế GTGT có khấu trừ số thuế nộp ở giai đoạn trước.Về cơ
bản,các khâu sản xuất kinh doanh hàng hoá,dịch vụ trung gian không tạo ra số
thu thuế GTGT cho nhà nước,vì số thuế nộp ở những giai đoạn này sẽ được
khấu trừ hoặc hoàn lại,cho đến khi sản phẩm cuối cùng được tiêu dùng.
10
Như vậy,thuế GTGT vẫn đảm bảo được số thu kịp thời và thường
xuyên cho Ngân sách nhà nước do được thu qua từng công đoạn của quá trình
từ sản xuất đến lưu thông,và lại khắc phục được sự đánh trùng thuế của thuế
doanh thu.
Thứ năm,áp dụng thuế GTGT tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn về
thuế,góp phần chống trốn lậu thuế có hiệu quả.Do việc khấu trừ thuế đầu vào
phải dựa trên cơ sở hoá đơn chứng từ nên buộc doanh nghiệp phải lưu giữ sổ
sách kế toán đầy đủ,hoạt động mua bán phải có hoá đơn thì mới được khấu
trừ thuế.Doanh thu hay giá bán ra của người bán phải là giá mua vào hay chi
phí của người mua nên các đơn vị mua và bán không thể thông đồng trốn thuế
vì quyền lợi mâu thuẫn nhau.
Thứ sáu,ngoài những đặc điểm trên,việc quản lý thu thuế GTGT khá
phức tạp. Để thu thuế đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ hoạt
động sản xuất kinh doanh và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế
phải được tăng cường.Yêu cầu cơ bản là các doanh nghiệp phải ghi chép sổ
sách chứng từ kế toán đầy đủ,minh bạch.Công việc kiểm soát tờ khai thuế của
đối tượng nộp thuế chi phí rất lớn và đòi hỏi phải được điện toán hoá.Quản lý
không chặt chẽ có thể dẫn đến tình trạng số thuế khấu trừ và hoàn thuế cao
hơn so với số thu được của Nhà nước.
II./ Mô hình pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.Cấu trúc pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.1.Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Với bản chất là thuế gián thu,thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu
nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá
cả hàng hoá và dịch vụ,điều đó có nghĩa là ba khái niệm “đối tượng chịu thuế
“, “đối tượng nộp thuế” và “người chịu thuế” không đồng nhất với nhau.Do
vậy,việc phân biệt ba khái niệm trên là rất quan trọng về phương diện pháp lý.
11
Người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng hàng hoá,dịch vụ
thuộc diện chịu thuế GTGT.Người tiêu dùng cuối cùng là người sử dụng hàng
hoá,dịch vụ không vì mục đích tạo ra hàng hoá,dịch vụ khác và làm cho hàng
hoá,dịch vụ đó thoát ra khỏi chu trình lưu thông.Vì vậy,người chịu thuế
GTGT không bị ràng buộc bởi những điều kiện pháp lý như người nộp thuế
GTGT và theo thông lệ người chịu thuế thường không được quy định trong
luật thuế,mặc dù họ là người đã phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình vào Ngân sách nhà nước khi thực hiện hành vi tiêu dùng hàng
hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT.
Đối tượng nộp thuế GTGT là những cá nhân,tổ chức có hoạt động sản
xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá,kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng
chịu thuế.Như vậy,đối tượng nộp thuế bao trùm lên hầu hết mọi đối tượng sản
xuất kinh doanh và không chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất kinh doanh trong
nước mà còn bao gồm cả các tổ chức,cá nhân nước ngoài có hoạt động sản
xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá thuộc diện chịu thuế tại nước đánh
thuế.
Tuy nhiên,ở nhiều nước,để đảm bảo hiệu quả công tác quản lý thu thuế
GTGT,đối với đại bộ phận các cá nhân,tổ chức sản xuất,kinh doanh ở quy mô
nhỏ không áp dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán.Diện miễn
thuế GTGT áp dụng cho những đối tượng kinh doanh nhỏ có doanh thu hàng
năm dưới mức quy định (ví dụ : 200.000 pê xô ở Philipines; 200.000 Sek ở
Thuỵ Điển; 30.000 Đô la Canada ở Canada; 100.000 DKK ở Đan Mạch;
1000.000 Đô la Singapore ở Singapore; 600.000 bạt ở Thái Lan ….).Quy định
không áp dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán với một số đối
tượng trên có tác dụng làm giảm gánh nặng quản lý thu thuế đối với các đối
tượng kinh doanh nhỏ.Vì các đối tượng này trong kinh doanh,việc thực hiện
12
chế độ sổ sách kế toán thường không đảm bảo và chi phí quản lý thu thuế
GTGT thường không hiệu quả so với số thu được.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế
GTGT,các nước thường có ba hình thức triển khai áp dụng thuế GTGT :
Thứ nhất,áp dụng thuế GTGT toàn bộ,có nghĩa là áp dụng đối với các
đối tượng nộp thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất,kinh doanh,bán
buôn và bán lẻ.Điển hình áp dụng hình thức này là các nước : Thuỵ
Điển,Pháp,Thái Lan,Hungari.
Thứ hai,áp dụng thuế GTGT từng phần,tức là áp dụng đến từng khâu
của quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá.Ví dụ như Inđônêxia,Nhà nước
ban hành đạo luật từ năm 1983,nhưng do trình độ quản lý của cán bộ ngành
thuế và nhận thức của người nộp thuế nên đến 1985,đạo luật thuế mới được
thi hành và thực hiện theo từng bước như sau :
Năm 1985 : Đối tượng nộp thuế là những người sản xuất
Năm 1989 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn
Năm 1993 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán lẻ.
Thứ ba,thực hiện thí điểm thuế GTGT đối với một số ngành,điển hình
áp dụng hình thức này là Trung Quốc : Bước thí điểm chỉ áp dụng đối với các
sản phẩm : Xe ô tô,tàu biển,năm 1984 mở rộng diện áp dụng đối với các sản
phẩm xe đạp,quạt điện,kim khí,máy móc thiết bị,phụ tùng,động cơ,thép.Năm
1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ,vật liệu xây
dựng,khoáng sản,kim loại.
Qua tổng kết đánh giá của các nước,trong ba hình thức tiến hành thuế
GTGT thì hình thức áp dụng mang tính đồng loạt là hiệu quả nhất.Tuy
nhiên,hình thức này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị đầy đủ về luật,các văn bản
hướng dẫn dưới luật,trình độ hiểu biết của người nộp thuế,trình độ quản lý
của cơ quan thuế,chứng từ hoá đơn,ý thức chấp hành pháp luật…Hình thức áp
13
dụng thuế GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế,còn hình thức áp dụng thí
điểm ở phạm vi hẹp,ở một số ngành là không đem lại kết quả.
Theo thông lệ chung của các nước áp dụng thuế giá trị gia tăng thì đối
tượng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng nội địa bao gồm
cả hàng hoá nhập khẩu.Về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng ,các
nước có quy định khác nhau,thường là những hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng
phục vụ thiết yếu cho con người và phục vụ cho lợi ích công cộng xã hội và
an ninh quốc phòng không nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận.Số lượng
nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế tuỳ theo luật của từng nước quy
định.Ví dụ : ở Đài Loan quy định 30 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu
thuế;ở Inđônêxia quy định có 15 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế;ở
Hungari quy định có 5 nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế.
1.2.Căn cứ tính thuế GTGT
Về giá tính thuế GTGT có hai cách xác định như sau :
Cách thứ nhất,giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT.Ví dụ như ở
Pháp, thuế GTGT được tính vào giá bán và là yếu tố cấu thành giá bán sản
phẩm hàng hoá.Có nghĩa là thuế được tính trên giá bán đã bao gồm thuế.
Cách thứ hai,giá tính thuế là giá chưa bao gồm thuế.Cách tính này áp
dụng ở hầu hết các nước.Cách tính này làm cho bên mua và bên bán thấy rõ
ràng hơn giá chưa có thuế và số thuế GTGT.
Trong trường giá thực và giá ghi trên hoá đơn,chứng từ có sự khác biệt
thì xét về phương diện pháp lý chừng nào chưa chứng minh được giá ghi trên
hoá đơn chứng từ là không phù hợp với giá thực thì vẫn phải dựa vào giá ghi
trên hoá đơn chứng từ để xác định phạm vi mức độ nghĩa vụ thuế GTGT.Còn
ngược lại, nếu chứng minh được thì phải dựa vào giá thực để xác định mức độ
nghĩa vụ thuế GTGT đồng thời chủ thể vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm
pháp lý về hành vi gian lận của mình.
14
Thời điểm tính thuế thông thường được xác định khi một trong các yếu
tố sau phát sinh : giao hàng,chuyển giao quyền sở hữu,nhận thanh toán,phát
hành hoá đơn GTGT,sử dụng hàng hoá,dịch vụ.Nhưng thông thường đối với
hàng hoá là khi hàng hoá được bán,còn đối với dịch vụ là khi người cung cấp
dịch vụ nhận được tiền trả cho dịch vụ.
Thuế suất là đại lượng xác định mức độ,phạm vi nghĩa vụ nộp thuế
trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế.Hay nói cách khác thuế suất là định
mức thu thuế(mức thuế phải thu)trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế.Đây
chính là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế.Vì vậy, việc xác định
thuế suất phải quán triệt được quan điểm vừa coi trọng lợi ích chung của quốc
gia vừa phải chú ý đến lợi ích của người nộp thuế.
Mỗi nước tuỳ vào đặc điểm kinh tế – xã hội và chế độ thu thuế doanh
thu trước đó mà có các quy định về thuế suất thuế GTGT cho phù hợp.Hầu
hết các nước đều áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu.Đối tượng
áp dụng thuế suất 0% được thoái trả lại số thuế GTGT đã chịu trên hàng hoá
đầu vào.Biện pháp này được đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc khuyến
khích xuất khẩu.Cũng có một số nước áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt
hàng và dịch vụ khác như Thuỵ Điển(đối với báo chí xuất bản hàng
ngày,xăng máy bay phản lực),Canada(đối với lương thực,thực phẩm,các dịch
vụ tài chính quốc tế).Bên cạnh đó,cũng có nước không áp dụng thuế suất 0%
như Đan Mạch và Trung Quốc.
Hiện nay ở các nước hai loại cơ cấu thuế suất thuế GTGT :
Thứ nhất,loại hình áp dụng một thuế suất(không kể thuế suất 0% áp
dụng với xuất khẩu và một số mặt hàng thiết yếu) : Theo thống kê thì trong số
100 nước thì có 44 nước áp dụng thuế GTGT với cơ chế một thuế suất,trong
đó Đan Mạch là một nước có mức thuế suất cao nhất(32%);Nhật,Singapore là
nước có mức thuế suất thấp nhất(3%).
15
Thứ hai,loại hình áp dụng nhiều thuế suất(không kể thuế suất 0%) :
Ngoài các nước áp dụng một thuế suất,các nước còn lại áp dụng thuế GTGT
với nhiều mức thuế suất và số lượng thuế suất khoảng từ 2 đến 5 thuế
suất(trường hợp Côlômbia 5 thuế suất);thuế suất thấp nhất là 1% (Bỉ,Thổ Nhĩ
Kỳ),2%(Hàn Quốc) và thuế suất cao nhất là 50%(Senegal),45% (Trung
Quốc),38%(ý) và 36%(Hy Lạp).Phần lớn các nước áp dụng cơ chế 3 thuế
suất,chỉ một số nước áp dụng cơ chế 5 thuế suất(Bỉ và Côlômbia),cơ chế 4
thuế suất(ý),cơ chế 2 thuế suất(Đức và Nhật).Với các nước áp dụng cơ chế
nhiều thuế suất,thì mức thuế suất tiêu chuẩn được áp dụng cho hầu hết các
hàng hoá,dịch vụ.Mức thuế suất thấp nhất được áp dụng cho các hàng hoá
dịch vụ thiết yếu,cần khuyến khích.Còn mức thuế suất cao nhất được áp dụng
cho hàng hoá,dịch vụ cần hạn chế.
Trong hai dạng cơ chế trên thì cơ chế một thuế suất được coi là cơ chế
lý tưởng,nhiều ưu điểm.Theo như ý kiến không chính thức của Phòng thương
mại Đức trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT đã cho rằng khoảng 80% sự
phức tạp tạo ra đối với doanh nghiệp là do áp dụng cơ cấu nhiều thuế suất1.Các nước đều cố gắng giảm số lượng thuế suất áp dụng,như nước Anh
ban đầu chuyển từ cơ chế một thuế suất sang hai thuế suất rồi lại phải quay
trở lại áp dụng cơ chế một thuế suất thống nhất.
Cơ chế nhiều thuế suất chỉ đạt được hiệu quả ở giai đoạn đầu khi
chuyển từ chế độ thuế doanh thu(nhiều mức thuế suất)sang áp dụng chế độ
thuế GTGT, nhưng cơ chế này có nhược điểm,đó là không đảm bảo sự bình
đẳng,công bằng giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành nghề
khác nhau,bởi vì cùng một giá trị tăng thêm nhưng ở mỗi ngành nghề khác
1 Theo”The Value – Added Tax,the UK position and the European experience”,trang 9,David Stout
16
nhau lại áp dụng mức thuế suất khác nhau do đó số thuế phải nộp cao thấp
khác nhau.
Ngoài việc phản ánh đúng chính sách thuế trong việc xác định số lượng
thuế suất và mức thuế suất thì pháp luật thuế GTGT cần xác định thật rõ ràng
các tiêu chí để phân định danh mục hàng hoá,dịch vụ trong biểu thuế, làm thế
nào để một mặt hàng hay dịch vụ chỉ có thể áp dụng vào một loại thuế suất
chứ không thể là hai hoặc ba mức.Đây là nội dung hết sức quan trọng về
phương diện pháp lý để xác định đúng phạm vi mức độ của nghĩa vụ thuế
GTGT.
1.3.Phương pháp tính thuế GTGT
Phương pháp tính thuế GTGT là những cách thức tính toán số thuế
GTGT phải nộp của các đối tượng nộp thuế vào Ngân sách nhà nước.
Để tính số thuế GTGT mà tổ chức hay cá nhân kinh doanh phải nộp
được xác định trên cơ sở căn cứ tính thuế(thu nhập,doanh thu,giá trị tài
sản,vốn….) và áp dụng thuế suất đối với giá trị đó.Giá trị gia tăng có thể được
tính bằng hai cách :
Giá trị gia tăng = Tiền công + Lợi nhuận
hay Giá trị gia tăng = Giá đầu ra – Giá đầu vào
Như vậy nếu gọi t% là thuế suất thì ta có thể có bốn cách tính thuế GTGT
như sau1 :
1)Thuế GTGT = t x(tiền công + lợi nhuận) (phương pháp cộng trực tiếp)
2)Thuế GTGT = t x(tiền công) + t x(lợi nhuận) (phương pháp cộng gián
tiếp)
3)Thuế GTGT = t x(Giá đầu ra – Giá đầu vào) (phương pháp trừ trực tiếp)
1 Xem “Thuế giá trị gia tăng”,Tài liệu tham khảo,Bộ Tài Chính,1993.Tr3 – Tr5
17
4)Thuế GTGT = t x(Giá đầu ra) – t x(Giá đầu vào) (phương pháp trừ gián
tiếp)
Trong bốn phương pháp trên thì phương pháp 1 và 3 là các phương
pháp kế toán,vì vậy cần phải xác định được lợi nhuận,giá đầu ra và đầu vào
của từng kỳ nộp thuế.Trên thực tế,điều này là rất phức tạp,nhất là đối với
trường hợp nhiều nguyên vật liệu đầu vào khác nhau,mức tiêu hao khác nhau
và còn phải chia doanh thu bán hàng của từng loại sản phẩm có thuế suất áp
dụng khác nhau.Các cách tính này không áp dụng được nếu sử dụng thuế
GTGT có nhiều thuế suất.Vì vậy,các phương pháp này chỉ tồn tại về mặt lý
thuyết.Phương pháp 2 cũng là phương pháp lý thuyết vì việc phải xác định lợi
nhuận kịp thời là không khả thi.
Thực tế áp dụng thuế GTGT ở các nước cho thấy chỉ có phương pháp
thứ tư là mang tính thực tế hơn cả.Bởi vì,chỉ cần xác định tổng số thuế nộp
trên doanh thu bán ra và tổng số thuế nộp trên hàng hoá dịch vụ mua vào(bất
kể thuế suất áp dụng là bao nhiêu),chênh lệch giữa hai tổng trên chính là số
thuế phải nộp vào cuối kỳ.Phương pháp này còn gọi là phương pháp khấu trừ
hay phương pháp hoá đơn,nhờ đó có thể dễ dàng tính được nghĩa vụ thuế một
cách kịp thời theo từng tháng,từng quý hoặc từng năm,và cho phép áp dụng
ở các nước đã thực hiện thuế GTGT hiện nay áp dụng một trong hai
nhiều loại thuế suất.
phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ theo hoá đơn và
phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán.
Theo phương pháp khấu trừ theo hoá đơn thì số thuế phải nộp bằng số
thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào.Nếu kết quả là một số dương thì đó là số
thuế GTGT phải nộp vào Ngân sách nhà nước trong tháng đó,nếu kết quả là
một số âm thì được chuyển bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp của tháng sau
hoặc đề nghị cơ quan thuế hoàn lại theo quy định của pháp luật.
18
Trong phương pháp khấu trừ,số thuế đầu ra bằng giá tính thuế của hàng
hoá bán ra nhân với thuế suất(được ghi trên hoá đơn GTGT đầu ra),còn số
thuế đầu vào được tính bằng giá tính thuế của hàng hoá mua vào nhân với
thuế suất (cũng được ghi trên hoá đơn).
Việc xác định nghĩa vụ thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hoàn
toàn loại trừ khả năng tính thuế chồng lên thuế, vì vậy hầu hết các nước đều
áp dụng phương pháp này.Sở dĩ vậy, bởi vì :
Thứ nhất,tính thuế dựa vào hoá đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở và
có căn cứ để kiểm tra thuế bởi giá tính thuế,thuế suất cũng như số thuế phải
nộp được ghi rất rõ ràng trên hoá đơn.
Thứ hai,có thể áp dụng chính sách thuế với nhiều thuế suất(nếu thu
thuế theo phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán chỉ có thể áp
dụng 1 thuế suất)
Thứ ba,có thể tính thuế GTGT thu thuế theo thời gian ấn định một
tháng,một quý thậm chí là một năm.
Phương pháp thu thuế GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán :
Phương pháp này xác định thuế phải dựa vào số liệu báo cáo kế toán của đơn
vị. áp dụng phương pháp này sẽ nảy sinh những vấn đề sau :
Thứ nhất,các xí nghiệp coi thuế GTGT chỉ là thuế bổ sung đánh vào lợi
nhuận,còn các nhân viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh
vào quỹ tiền lương.
Thứ hai,báo cáo chỉ kết thúc một lần trong năm,vậy là tất cả các khoản
thanh toán thuế GTGT phải dựa vào số quyết toán năm.
Thứ ba,khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phương pháp sử dụng
hoá đơn và không có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn
vị mua và bán.
19
Mô hình thuế GTGT Nhật Bản được sử dụng theo phương pháp này
1/4/1989 : Thu thuế GTGT trên cơ sở báo cáo kế toán với một thuế suất là 3%
và đã quyết định điều chỉnh lên 5% để thi hành từ tháng 4/1997.Nhật Bản
không phát hành hoá đơn áp dụng riêng đối với thuế GTGT vì các doanh
nghiệp phản ứng,theo phương pháp tính thuế hiện hành các doanh nghiệp tự
tính và nộp thuế.Các doanh nghiệp nhỏ không phải nộp thuế GTGT.
Trong thực tế vận hành thuế GTGT tại các nước phát triển,luật chỉ quy
định duy nhất một phương pháp tính thuế GTGT là : Thuế GTGT phải nộp
bằng thuế GTGT thu khi bán hàng trừ đi thuế GTGT phải trả khi mua hàng
theo từng kỳ hạch toán.Về bản chất đây chính là phương pháp khấu trừ.
1.4.Vấn đề quản lý thu,nộp thuế GTGT
1.4.1.Về đăng ký thuế
Sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ đăng ký thuế GTGT là sự ra đời,thay
đổi hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh.Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này
được xác định kể từ ngày đối tượng nộp thuế được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.Khoảng thời gian mà đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa
vụ đăng ký thuế,được gọi là thời hạn thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế,khoảng
thời gian này tuỳ vào sự quy định pháp luật của mỗi nước,song đều lấy thời
điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tính thời hạn thực hiện
nghĩa vụ đăng ký thuế.Kết quả của đăng ký thuế là mỗi một đối tượng nộp
thuế được cấp một mã số thuế.
Việc đăng ký thuế phải tuân theo quy trình sau : Các đối tượng nộp
thuế phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là đăng ký thuế tại các cơ quan thuế địa
phương nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của mình theo mẫu thống nhất do cơ
quan thuế cung cấp.Cơ quan thuế cấp giấy chứng nhận đăng ký nộp thuế cho
đối tượng nộp thuế.Trong giấy chứng nhận có số đăng ký thuế GTGT quy
định riêng cho đối tượng nộp thuế đó.Ngoài cách thông thường là quy định số
20
đăng ký mới(mã số thuế mới) cho từng đối tượng nộp thuế, một số nước sử
dụng mã số đăng ký thuế cũ(thuế doanh thu) và thêm vào đuôi của dãy số
đăng ký một số bổ sung để chỉ rõ là số đăng ký thuế GTGT. Riêng Nhật Bản
không sử dụng hệ thống mã hoá và số đăng ký trong công tác quản lý thuế
GTGT.
Về nguyên tắc cơ quan thuế chỉ cấp một mã số thuế duy nhất cho đối
tượng nộp thuế và khi đối tượng này không còn hoạt động nữa thì mã số thuế
đã được cấp sẽ không được sử dụng và không được dùng lại để cấp cho đối
tượng nộp thuế khác.Các đối tượng sau khi đã chấm dứt hoạt động mà hoạt
động trở lại thì phải thực hiện lại việc đăng ký thuế và được cấp mã số thuế
mới.
1.4.2.Về vấn đề nộp thuế
Nộp thuế GTGT là việc người cung cấp hàng hoá,dịch vụ chuyển số
thuế đã thu hộ nhà nước do người tiêu dùng trả thông qua cơ chế giá khi mua
hàng hoá,dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT vào Kho bạc nhà nước.
Có hai hình thức nộp thuế :
Thứ nhất,đối tượng nộp thuế nộp trực tiếp cho cơ quan thuế,hình thức
này có ưu điểm là cơ quan thuế dễ kiểm tra giữa số thực nộp và số phải
nộp.Song hình thức này biểu lộ nhiều nhược điểm như bộ máy hành chính
thuế cồng kềnh, hiện tượng xâm tiêu thuế dễ phát sinh.
Thứ hai,đối tượng nộp thuế nộp gián tiếp thông qua ngân hàng hoặc
kho bạc nhà nước.Hình thức này khắc phục được nhược điểm của hình thức
trên nhưng nó lại có một nhược điểm đó là khó kiểm soát được số thuế thực
nộp và số thuế phải nộp, nếu mối quan hệ giữa cơ quan thuế với ngân
hàng,kho bạc thiếu sự chặt chẽ.
Có hai cơ chế nộp thuế :
21
Thứ nhất,các đối tượng nộp thuế tự tính thuế và nộp thuế.Cơ chế này có
nhiều ưu điểm: 1. Nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của đối
tượng nộp thuế; 2. Giảm khối lượng công việc cho cơ quan thuế cũng như chi
phí quản lý hành chính thuế; 3. Phân định rạch ròi trách nhiệm của cơ quan
thuế,của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế GTGT.
Thứ hai,các đối tượng nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế.Cơ
chế này chỉ phù hợp với cơ chế quản lý hành chính bao cấp, còn trong cơ chế
thị trường thì việc nộp thuế theo thông báo bộc lộ rõ sự thiếu phù hợp.Do vậy,
cơ chế này chỉ được áp dụng khi các đối tượng có gian lận trong quá trình tự
kê khai nộp thuế hoặc các đối tượng không thể nào tự tính đúng số thuế phải
nộp của mình.
Đa số các nước áp dụng thuế GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự
kê khai,tính và nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thuế cung cấp,các đối
tượng nộp thuế phải nộp tờ khai và thanh toán thuế theo định kỳ
tháng,quý(tuỳ theo chế độ nộp thuế quy định cho từng loại đối tượng).Thuỵ Điển là nước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự kê khai nộp thuế GTGT1
1.4.3.Về vấn đề hoàn thuế và khấu trừ thuế
Việc hoàn thuế(thoái thuế) được giao cho cơ quan thu thuế,trong
trường hợp số thuế được khấu trừ lớn(xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài
sản giá trị lớn)đối tượng kinh doanh có quyền kê khai đề nghị cơ quan thuế
thoái trả tiền thuế đã trả khâu trước.Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả thuế
cho cơ sở ngay một lần hoặc thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo quy
định của từng nước và khả năng ngân sách của mỗi nước.Theo cách này cơ
quan thuế thường có một tài khoản thu thuế GTGT và sử dụng nguồn thu để
thoái thuế,khoản còn lại nộp vào Ngân sách nhà nước.
Tính chất của hoàn thuế :
1 Theo báo cáo khảo sát của Tổng cục thuế năm 1993
22
Thứ nhất,hoàn thuế là quyền pháp lý của đối tượng nộp thuế được xuất
hiện trên cơ sở yếu tố luật định một cách khách quan.
Đối tượng nộp thuế chỉ là người trung gian trong quan hệ nộp thuế,lợi
ích của họ sẽ không bị ảnh hưởng gì nếu số thuế đúng,nếu số thuế sai thì họ sẽ
phải nộp lại số thuế còn thiếu hoặc được nhận lại số thuế đã nộp thừa do nhà
nước trả theo chế độ hoàn thuế.Vấn đề này được pháp luật đa số các nước
thừa nhận và coi đó là một quyền pháp lý của đối tượng nộp thuế.
Thứ hai,hoàn thuế GTGT mang tính chất ưu đãi,tài trợ của Nhà nước.
Không phải bất cứ chủ thể nào cũng có quyền được hoàn thuế mà chỉ
những chủ thể nào mà Nhà nước cần khuyến khích mới được hoàn thuế.
Với tính chất ưu đãi,tài trợ của Nhà nước,hoàn thuế cũng là một khoản
chi của Ngân sách nhà nước.Do vậy,quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế
được coi như một lệnh chi.Kho bạc nhà nước căn cứ vào quyết định hoàn thuế
của cơ quan thuế thực hiện chi hoàn thuế.
Phạm vi hoàn thuế và điều kiện hoàn thuế tuỳ thuộc vào điều kiện kinh
tế và khả năng quản lý thuế của từng nước.Nói chung,các nước thường áp
dụng hoàn thuế cho các đối tượng là hàng hoá,dịch vụ xuất khẩu nhằm
khuyến khích xuất khẩu.
Trên thực tế vấn đề hoàn thuế GTGT cũng được quy định khác nhau ở
mỗi nước,như theo quy định của Luật thuế GTGT của Thái Lan,bất kỳ tháng
nào mà thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì đều được quyền xin hoàn
thuế,hoặc từng lần đối với kinh doanh xuất khẩu.Đối tượng nộp thuế được lựa
chọn xin hoàn thuế hoặc khấu trừ vào kỳ sau.Thuế đầu vào phát sinh trong
tháng mà chưa khấu trừ có thể được khấu trừ vào số thuế đầu ra trong vòng 3
năm tiếp theo,với điều kiện được phép của giám đốc Sở thuế.
Theo Luật thuế GTGT ở Pháp thì nếu như trong tháng số thuế phải nộp
nhỏ hơn số thuế được khấu trừ thì số thuế không được khấu trừ sẽ được
23
chuyển dần sang các tháng sau.Việc hoàn thuế có thể được thực hiện vào đầu
năm sau cho số thuế nộp quá của năm trước,hoặc được hoàn theo quý,nếu số
tiền chưa được khấu trừ lớn hơn một mức nhất định.
Khấu trừ thuế GTGT có thể được tổng quát như sau : Để sản xuất một
loại hàng hoá hay cung ứng một dịch vụ thì cần phải có các chi phí đầu
vào,đối với những chi phí đầu vào trực tiếp cấu thành lên giá thành của hàng
hoá thì khi tính số thuế phải nộp,đối tượng nộp thuế được quyền trừ khoản
thuế này từ số thuế mà họ thu được ghi trên hoá đơn cho khách hàng,có nghĩa
là đối tượng nộp thuế chỉ phải nộp phần chênh lệch giữa số thuế đã thể hiện
trên hoá đơn và số thuế được khấu trừ.
Phạm vi áp dụng khấu trừ thuế GTGT : Khấu trừ thuế GTGT chỉ áp
dụng đối với những chi phí đầu vào trực tiếp phục vụ cho quá trình hình thành
nên sản phẩm chịu thuế GTGT.Đối với các chi phí là tài sản cố định thì tỷ lệ
khấu trừ theo phần áp dụng cho mọi tài sản cố định được xác định bằng cách
so sánh giữa khoản tiền doanh thu hàng năm và tổng doanh thu đạt được.
Đối với tài sản khổng thuộc tài sản cố định và các hoạt động dịch vụ thì
khi khấu trừ phải áp dụng nguyên tắc phân bổ – thường phân bổ theo thực tế
(theo mức tiêu hao vật chất cho các nghiệp vụ chịu thuế)
Tỷ lệ khấu trừ được tính theo năm dương lịch,căn cứ vào doanh thu của
năm dương lịch trước đó hoặc căn cứ vào doanh thu dự toán của năm đang
thực hiện.
Điều kiện để được khấu trừ : đó là những tài liệu chứng minh về số
thuế được khấu trừ.Nhìn chung thuế GTGT phải được thể hiện trên hoá
đơn,vì vậy về nguyên tắc người nộp thuế có quyền khấu trừ số thuế thể hiện
trên hoá đơn mua do người cung cấp viết với điều kiện những nhà cung cấp
này về mặt pháp lý có quyền được thể hiện số thuế trên hoá đơn.
24
Quyền khấu trừ chỉ được thực hiện nếu người nộp thuế nắm giữ hoá
đơn tương ứng với thời điểm mà họ thực hiện quyền khấu trừ.
Những tài liệu gốc chứng minh các nghiệp vụ có quyền khấu trừ phải
được bảo quản trong một thời gian nhất định,điều này tuỳ thuộc sự quy định
của pháp luật từng nước,như Thuỵ Điển quy định là 10 năm,Pháp quy định là
6 năm…
Cơ sở để quản lý vấn đề hoàn thuế và khấu trừ thuế là hoá đơn
thuế.Các nước đều quy định cụ thể các yếu tố cơ bản phải có của một hoá đơn
thuế hợp lệ.Mọi đối tượng có hoạt động bán hàng hoá dịch vụ chịu thuế đều
phải cấp hoá đơn khi bán hàng hoá,cung cấp dịch vụ cho người mua.Hoá đơn
phải thể hiện rõ ràng hàng hoá dịch vụ chưa có thuế,và số thuế GTGT tính
trên giá hàng.
Chế độ kế toán cùng là yếu tố bắt buộc để các doanh nghiệp thực hiện
luật thuế GTGT như : các đối tượng nộp thuế phải ghi sổ đầy đủ doanh số
từng lần bán hàng, và phân biệt theo từng loại hàng chịu thuế và không chịu
thuế(nếu có), và mọi chi phí mua nguyên vật liệu,hàng hoá,dịch vụ đầu
vào;các hoá đơn chứng từ liên quan đến các hoạt động có thể được khấu trừ
phải là chứng từ gốc và hợp lệ;sổ sách và hoá đơn chứng từ phải được lưu giữ
theo thời hạn quy định của pháp luật.
2.Hiệu quả pháp luật thuế GTGT
2.1.Định nghĩa hiệu quả pháp luật
Pháp luật là một hiện tượng xã hội quan trọng và vô cùng phức tạp,do
vậy có thể xem xét nó dưới nhiều góc độ và phương diện với những biểu hiện
cụ thể khác nhau.Dưới góc độ hiệu quả pháp luật thì có rất nhiều quan niệm
khác nhau :
Một số tác giả cho rằng hiệu quả pháp luật thể hiện ở sự đúng đắn,sự
phù hợp của pháp luật.Theo các tác giả này thì pháp luật càng phù hợp với các
25
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội,các định hướng chính trị và các
yếu tố khác bao nhiêu thì càng có hiệu quả cao bấy nhiêu.Tuy nhiên đây mới
chỉ là tiền đề,là điều kiện chứ chưa phải hoàn toàn là hiệu quả pháp luật
được.Bởi lẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật được ban hành rất chính xác,phù
hợp nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng không được thực hiện trên
thực tế.Như vậy, không thể đánh giá được hiệu quả của chúng nếu chỉ dựa
vào sự phù hợp của quy phạm pháp luật.
Một số tác giả khác lại cho rằng hiệu quả pháp luật xuất phát từ hiệu
quả của từng bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật .Trên thực tế hiệu
quả pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng,sự đầy đủ,sự thích hợp của
từng bộ phận cấu thành quy phạm pháp luật.Tuy nhiên từng bộ phận của một
quy phạm pháp luật lại không thể tồn tại và tự tác động riêng rẽ.Chúng chỉ
phát huy được tác dụng của mình khi liên kết với các bộ phận khác tạo nên
quy phạm pháp luật.Do vậy,chỉ có thể nói tới hiệu quả của quy phạm pháp
luật nói chung chứ không thể nói tới hiệu quả của từng bộ phận của quy phạm
pháp luật được.
Một số tác giả khác lại tiếp cận hiệu quả pháp luật từ lĩnh vực áp dụng
pháp luật .Theo họ hiệu quả pháp luật là mức độ thực tế đạt được những mục
đích xã hội có ích mà vì chúng pháp luật đã được ban hành.Cách xác định
hiệu quả pháp luật như vậy cũng sẽ không bao quát hết được tính hiệu quả
của bản thân pháp luật bởi cách tiếp cận này chỉ có thể sử dụng đối với
những luật đang có hiệu lực thực tế và khi luật có những khiếm khuyết,sai sót
nhất định mà không được khắc phục thì sẽ làm giảm đi tính hiệu quả của hoạt
động áp dụng pháp luật .
Ngoài ra,còn có quan điểm cho rằng hiệu quả pháp luật là sự đạt được
mục đích đề ra khi ban hành quy phạm pháp luật với những chi phí ít nhất hay
hiệu quả pháp luật là khả năng pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội theo
26
những hướng đã được xác định.Nhưng tất cả các quan điểm trên không phản
ánh đúng nhất về hiệu quả pháp luật.
Tổng hợp tất cả các cách tiếp cận trên,chúng ta có thể rút ra định nghĩa
về hiệu quả pháp luật như sau :
Hiệu quả pháp luật là kết quả cụ thể đạt được trong quá trình pháp
luật tác động vào các quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích và yêu
cầu đặt ra.
2.2.Hiệu quả pháp luật thuế GTGT
Từ định nghĩa trên chúng ta có thể đưa ra định nghĩa về hiệu quả pháp
luật thuế GTGT như sau :
Hiệu quả pháp luật thuế GTGT là kết quả cụ thể đạt được trong quá
trình pháp luật GTGT tác động vào các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật thuế GTGT nhằm đạt được những mục đích và yêu cầu đặt ra.
Như vậy,để đánh giá một cách chính xác hiệu quả pháp luật thuế GTGT
ở nước ta hiện nay,đòi hỏi phải nghiên cứu đánh giá kỹ càng các quy định của
chế độ thuế GTGT hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó làm phát
sinh những vấn đề gì để có thể kết luận chính xác rằng chúng ta đã đạt mục
đích mà khi ban hành luật thuế GTGT đã đặt ra hay chưa.Và từ đó mới có thể
kết luận rằng hiệu quả pháp luật thuế GTGT hiện hành đã cao hay chưa.
2.3.Những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT
Những yếu tố và điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả pháp
luật nói chung là những yếu tố có liên quan tới cơ chế điều chỉnh pháp luật và
các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật.Đó là :
- Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
- Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật.
- ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của
công dân.
27
2.3.1.Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế GTGT
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng rất lớn
tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT.Hệ thống pháp luật thuế GTGT có hoàn
chỉnh, đồng bộ,sát với thực tế,phù hợp với các quy luật khách quan của sự
phát triển của xã hội,phù hợp với các điều kiện kinh tế chính trị,văn hoá xã
hội…đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển thì hiệu
quả pháp luật thuế GTGT mới cao.Ngược lại,một hệ thống pháp luật còn
thiếu,còn nhiều bất cập thì không thể có hiệu quả pháp luật cao được mà nó
còn làm phát sinh nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng làm giảm hiệu
quả của hệ thống pháp luật đó.
2.3.2.Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT
Để góp phần nâng cao hiệu quả tác động của pháp luật thuế GTGT
trong đời sống xã hội thì vấn đề quan trọng là thực hiện đúng đắn,nghiêm
minh các quy định của luật thuế.Trong đó,áp dụng pháp luật là một hình thức
thực hiện pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì trong đó có sự hiện
diện của chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước.
Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật là đảm bảo cho các quy phạm
pháp luật được thực hiện đầy đủ,chính xác,nghiêm minh trong cuộc sống.Nếu
thiếu sự đảm bảo này thì trong nhiều trường hợp các quy phạm pháp luật sẽ
không được thực hiện,hoặc được thực hiện không chính xác,không đúng và
như vậy chúng sẽ không phát huy được hiệu quả trong đời sống thực tế.
Hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ tới hoạt động
xây dựng pháp luật.Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trước hết
phải có pháp luật tốt hay nói cách khác hệ thống pháp luật thuế GTGT phải
được hoàn thiện ở mức độ cao.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT thì bản lĩnh chính
trị,trình độ pháp lý cũng như ý thức pháp luật của cán bộ thuế có ảnh hưởng
28
rất lớn tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT,bởi vì người cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng,có sự hiểu biết về pháp luật,có ý thức pháp luật cao,có
phẩm chất đạo đức tố thì mới có thể độc lập áp dụng pháp luật,áp dụng có
hiệu quả.
Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện ở những
điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp
luật được tiến hành bình thường.Đặc biệt trong tình hình hiện nay,với sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế,sự tiến bộ vượt bậc của khoa học và công
nghệ,đòi hỏi phải quản lý thuế theo một quy trình mới,ứng dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại mà đặc biệt là công nghệ thông tin vào quản lý thuế,do đó,phải
tăng cường trang thiết bị hiện đại vào quản lý thuế thì áp dụng luật thuế mới
hiệu quả được.Bên cạnh đó,kinh phí cho hoạt động áp dụng pháp luật thuế
cũng là một trong những điều kiện cần thiết,quan trọng để việc áp dụng luật
thuế có hiệu quả.Ngoài ra còn phải quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần
của người cán bộ và gia đình họ,giúp họ giảm bớt những khó khăn về vật
chất,để có thể tận tâm dồn hết thời gian,sức lực và trí tuệ cho công việc,không
bị mua chuộc về vật chất,giữ được thái độ vô tư khách quan trong công việc.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật,thì hoạt động xử lý vi phạm pháp
luật thuế GTGT cũng chiếm một vị trí quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả pháp luật.Bởi vì,việc xử lý nghiêm minh,dứt điểm,kịp thời các
trường hợp vi phạm luật thuế có thể ngăn chặn được tình trang vi phạm xảy ra
trên quy mô rộng,giáo dục được những đối tượng vi phạm chấm dứt hành vi
vi phạm và tái phạm,ngăn ngừa được những đối tượng khác vi phạm luật
thuế.
Bên cạnh đó, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng như
cơ quan thuế,hải quan,viện kiểm sát,công an…cũng có ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả pháp luật thuế GTGT,bởi vì giữa các cơ quan trên có sự phối hợp
29
chặt chẽ thì việc áp dụng pháp luật mới được diễn ra một cách thuận lợi,liên
tục,đúng trình tự thủ tục,và đảm bảo các quy định của pháp luật được thực
hiện đúng và đầy đủ.
Tóm lại,sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật chiếm một vị trí
quan trọng và ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả tác động của pháp luật thuế
GTGT, hoạt động áp dụng được thực hiện tốt thì hiệu quả pháp luật mới được
nâng cao và ngược lại nếu áp dụng pháp luật không tốt thì không những
không nâng được hiệu quả tác động của luật thuế mà còn làm giảm hiệu quả
đó.
2.2.3. ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán
bộ thuế,đối tượng nộp thuế và nhân dân
Một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu quả pháp luật thuế
GTGT là ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của
cán bộ thuế,đối tượng nộp thuế và nhân dân,bởi vì :
Đối với người cán bộ nếu có ý thức pháp luật tốt,có phẩm chất tốt thì
có thể độc lập áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả,không bị sự cám dỗ
của vật chất để áp dụng sai luật,áp dụng không đầy đủ làm giảm đi hiệu quả
tác động của luật thuế trên thực tế,trong quá trình áp dụng luật thuế thì người
cán bộ phải dựa vào trình độ pháp lý,ý thức pháp luật của mình và những
nguyên tắc của pháp luật để giải quyết vụ việc theo những cách thức tốt
nhất,phù hợp nhất.
Đối với đối tượng nộp thuế,nếu có ý thức pháp luật tốt và nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật sẽ có đủ khả năng để bảo vệ lợi ích cho mình,hạn chế
được tình trạng các đối tượng lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để chiếm đoạt
tài sản của nhà nước làm giảm đi hiệu quả tác động của Luật thuế
Đối với nhân dân,có tri thức pháp luật và ý thức pháp luật ,họ sẽ có
niềm tin vào pháp luật ,thấy được giá trị của việc tôn trọng và thực hiện chính
30
xác,đẩy đủ các quy định của pháp luật,từ đó tự giác tuân theo pháp luật và vận
động những người khác tuân theo pháp luật.Bên cạnh đó,có trình độ nhận
thức sâu sắc về luật thuế,người dân có thể phản ánh những bất cập trong các
quy định của luật thuế,giám sát được việc thực hiện luật thuế,chống tiêu cực
từ phía cán bộ thuế.
Tóm lại,đó là những yếu tố có ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế
GTGT,nghiên cứu những yếu tố đó sẽ giúp chúng ta những biện pháp để
nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT hiện hành.
31
Chương II
Thực trạng pháp luật và thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng ở
việt nam
I./ Thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng
Những nghiên cứu về việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta được bắt đầu
từ cuối giai đoạn cải cách thuế bước I năm 1990 – 1995.Từ tháng 7 năm
1993,Bộ Tài Chính đã ban hành chế độ thuế GTGT và chủ trương áp dụng thí
điểm mô hình thuế GTGT ở một số doanh nghiệp thuộc ba ngành : sản xuất xi
măng,dệt và sản xuất đường từ tháng 9 năm 1993,nhưng việc thực hiện thí
điểm trên phạm vi hẹp này không đem lại kết quả.Tuy nhiên đó mới chỉ là
bước khởi đầu nên chưa thể đem lại những nhận xét đánh giá một cách đầy
đủ,toàn diện về kết quả thực hiện.
Trên cơ sở các nghiên cứu đánh giá tổng thể,phân tích tổng hợp kinh
nghiệm của các nước đã áp dụng thuế GTGT,qua nhiều lần soạn thảo,sửa
đổi,lấy ý kiến đóng góp của các Bộ,ngành,các địa phương và doanh
nghiệp,chuẩn bị các điều kiện thi hành,Quốc hội khoá IX,kỳ họp thứ 11 đã
thông qua Luật thuế GTGT ngày 10 tháng 5 năm 1997,Luật này đã được Chủ
tịch nước ký lệnh công bố vào ngày 22 tháng 5 năm 1997,và có hiệu lực kể từ
ngày 1 tháng 1 năm 1999.
Luật thuế GTGT là một luật thuế hoàn toàn mới trong lịch sử pháp luật
tài chính nước ta và trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân.Việc thực hiện
Luật thuế GTGT có tầm quan trọng đặc biệt,có tác động nhiều mặt đến tình
hình kinh tế xã hội,thời gian đầu không tránh khỏi những khó khăn,vướng
mắc trong áp dụng,và nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chưa
cao,hoạt động của các doanh nghiệp còn thấp.Sự suy giảm kinh tế do tác động
ảnh hưởng hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu
32
vực,cùng với thiên tai liên tiếp diễn ra đã càng tạo ra nhiều khó khăn hơn
trong việc triển khai áp dụng trên thực tế.Điều đó đặt ra nhiệm vụ phải nghiên
cứu đánh giá nhưng quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT từ đó rút ra
những gì đã đạt được và những gì chưa đạt được nhằm mục đích sửa đổi,bổ
sung các văn bản pháp luật về thuế GTGT để đáp ứng những yêu cầu của đời
sống kinh tế luôn luôn vận động và phát triển :
1.Các kết quả đạt được
Qua hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT,các thành công bước đầu
đã khẳng định chủ trương áp dụng luật thuế mới này là hoàn toàn đúng đắn.
Việc xây dựng các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Luật thuế
GTGT khá đầy đủ,từ Luật,các Nghị quyết,Nghị định,Thông tư và Công văn
hướng dẫn cụ thể,các quy định về thuế GTGT chưa phù hợp đã được điều
chỉnh dần.Vì số lượng văn bản quy định hướng dẫn về thuế GTGT trong hai
năm thực hiện đã lên đến hàng chục văn bản các loại,vì vậy,đến cuối năm
2000, Chính Phủ đã rà soát các quy định hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT
trước đó và ban hành thống nhất Nghị định 79/2000/NĐ - CP ngày
29/12/2000,Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư 122/2000/TT – BTC hướng
dẫn chi tiết Nghị định này để áp dụng thống nhất kể từ ngày 1 tháng 1 năm
2001,bãi bỏ các Thông tư hướng dẫn về thuế GTGT trước đây.Việc ban hành
các văn bản pháp luật trên là một bước tiến bộ,giúp cho cán bộ ngành thuế
cũng như các đối tượng nộp thuế có thể dễ dàng tra cứu và thực hiện Luật
thuế GTGT.
Theo pháp luật hiện hành,đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ
chức,cá nhân sản xuất,kinh doanh và nhập khẩu hàng hoá dịch vụ chịu thuế
33
GTGT ở Việt Nam,không phân biệt ngành nghề,hình thức,tổ chức kinh doanh1.
Đối tượng chịu thuế GTGT là tất cả các hàng hoá,dịch vụ dùng cho sản
xuất,kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam(trừ các đối tượng không chịu thuế được pháp luật quy định cụ thể)1.
Như vậy,khác với thuế doanh thu,thuế GTGT không những đánh vào
hầu hết các hàng hoá,dịch vụ trong nước mà còn áp dụng thu đối với hàng
nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.Do đó,bên cạnh việc tạo ra nguồn thu mới
đáng kể trong kết cấu nguồn thu của Ngân sách nhà nước,thuế GTGT còn có
tác dụng cùng với thuế nhập khẩu bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong
nước.Nhất là trong bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại đa
phương,song phương phải cam kết tuân thủ lịch trình cắt giảm thuế quan,thực
hiện thuế suất ưu đãi hoặc phải cắt bỏ hàng rào phi thuế quan thì việc bảo hộ
sản xuất trong nước bằng thuế GTGT(và thuế tiêu thụ đặc biệt)đánh vào hàng
nhập khẩu là biện pháp cực kỳ quan trọng.
Về đối tượng không thuộc diện chịu thuế : Luật thuế GTGT quy định 26 nhóm mặt hàng,dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT2.Tổ chức,cá nhân
sản xuất,kinh doanh,nhập khẩu hàng hoá,bán hàng hoá,cung ứng dịch vụ
không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ hoặc hoàn thuế
GTGT đầu vào của các hàng hoá,dịch vụ này.Như vậy,đối với các tổ chức,cá
nhân sản xuất,kinh doanh hàng hoá,dịch vụ hay nhập khẩu hàng hoá không
thuộc diện chịu thuế GTGT lại làm cho họ thực tế phải “chịu” thuế GTGT,vì
1 Theo điều 3 Luật thuế GTGT,điều 3 Nghị định 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000 của Chính Phủ 1 Xem Luật thuế GTGT,Nghị định 79/2000/NĐ - CP của Chính Phủ,Thông tư 122/2000/TT – BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thuế GTGT. 2 Xem điều 4 Luật thuế GTGT,Nghị định 79/2000/NĐ - CP của Chính Phủ,Thông tư 122/2000/TT – BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thuế GTGT.
34
lúc này họ không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào trên hàng hoá dịch vụ họ
sử dụng,có nghĩa là họ được coi như người tiêu dùng cuối cùng các hàng
hoá,dịch vụ đó.Nói cách khác,khi “không thuộc diện chịu thuế GTGT” có
nghĩa là bị loại ra khỏi hệ thống thuế GTGT và thuế GTGT lúc này trở thành
chi phí của nhà kinh doanh.Còn các các nhân,tổ chức nằm trong diện chịu
thuế GTGT thì lại không bị ảnh hưởng gì vì họ không phải chịu thuế
GTGT,thuế GTGT tính trên đầu vào của họ thì được khấu trừ,còn thuế GTGT
đầu ra được chuyển qua cho người mua hàng chịu.
Pháp luật quy định đối với doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị
trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp thì
không phải nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu.Vì thực chất thì thuế GTGT
không nằm trong chi phí của doanh nghiệp,nên nếu họ nộp ở khâu nhập
khẩu,doanh nghiệp cũng được hoàn lại hoặc khấu trừ dần vào thuế đầu ra của
doanh nghiệp.Hơn nữa,quy định này cũng có mặt tích cực đó là giúp doanh
nghiệp không phải bỏ ra một số tiền thuế trên giá trị thiết bị nhập
khẩu,thường là rất lớn,làm ảnh hưởng đến luân chuyển tiền tệ trong kinh
doanh,đảm bảo cho doanh nghiệp yên tâm về mặt tâm lý.
Pháp luật thuế GTGT cũng quy định đối với các công trình đầu tư bằng
vốn ODA không hoàn lại thì không chịu thuế GTGT;nếu công trình đầu tư sử
dụng vốn ODA vay thuộc diện Ngân sách nhà nước đầu tư không hoàn trả thì
được hoàn thuế GTGT đầu vào,do đó làm giảm được chi phí công
trình,khuyến khích thu hút nguồn vốn đầu tư này.
Về thuế suất thuế GTGT : So với thuế doanh thu trước đây(với 11 mức
thuế suất) thì cơ cấu thuế suất thuế GTGT đơn giản hơn với bốn mức thuế
suất 0%,5%,10%,20%,nhưng vẫn đảm bảo được nguồn thu tương đương với
nguồn thu của thuế doanh thu trước đây.
35
Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia
công xuất khẩu,hàng sản xuất chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu,và mới có
một số dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% này như dịch vụ phần
mềm máy tính,sản phẩm phần mềm máy tính xuất khẩu.
Khái niệm xuất khẩu ở đây bao gồm xuất khẩu ra nước ngoài,bán cho
doanh nghiệp thuộc khu chế xuất và các trường hợp khác theo quy định của
Chính Phủ, chẳng hạn như cơ sở gia công hàng xuất khẩu,hàng của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán cho người mua nước ngoài nhưng giao
hàng tại Việt Nam (gọi là xuất khẩu tại chỗ).
Quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là doanh
nghiệp xuất khẩu được hoàn toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào đối với
hoạt động xuất khẩu này.Do vậy,cùng với các biện pháp khuyến khích xuất
khẩu như : áp dụng mức thuế xuất khẩu 0% hoặc giảm thuế suất khẩu,cho
phép các doanh nghiệp sản xuất trong nước được xuất khẩu trực tiếp,thành lập
quỹ hỗ trợ xuất khẩu…thì việc thực hiện Luật thuế GTGT có tác dụng rõ nét
nhất,trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu.Việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối
với hàng hoá xuất khẩu thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất
khẩu,nên có tác dụng giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn
hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn
hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên
thị trường quốc tế. Trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế,giá xuất
khẩu giảm nhưng với sự cố gắng của các ngành,các doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu và tác động của cơ chế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của
nước ta năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là : 23,18%,năm 2000 tăng
21,3%.
Mức thuế suất 5% áp dụng đối với những hàng hoá dịch vụ thiết yếu
cho đời sống như nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt,lương thực,thực
36
phẩm tươi sống,lâm sản chưa qua chế biến;phân bón,thuốc trừ sâu bệnh và
chất kích thích tăng trưởng vật nuôi,cây trồng;thiết bị máy móc và dụng cụ
chuyên dùng cho y tế,thuốc chữa bệnh;các loại sản phẩm cơ khí sản xuất,sản
phẩm luyện cán,kéo kim loại;hoá chất cơ bản,vật liệu nổ,than đá,đất đá cát
sỏi;máy vi tính,sách,giấy in báo,giáo cụ,đồ chơi trẻ em;hoạt động xây dựng
lắp đặt,vận tải bốc xếp;dịch vụ khoa học kỹ thuật,dịch vụ sản xuất nông
nghiệp;hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu kinh doanh thương mại
nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
Mức thuế suất 20% áp dụng đối với vàng,bạc,đá quý (trừ vàng nhập
khẩu dưới dạng thỏi miếng chưa qua chế tác);hoạt động xổ số kiến thiết và
các loại hình xổ số khác,đại lý tàu biển,dịch vụ môi giới.
Về mặt nguyên tắc,thuế suất 10% là thuế suất tiêu chuẩn và áp dụng đối
với tất cả các loại hàng hoá,dịch vụ còn lại không được quy định trong ba
nhóm thuế suất 0%,5% và 20% trên.Tuy nhiên,để thuận lợi cho việc áp
dụng,Luật thuế GTGT có liệt kê ra một số loại hàng hoá dịch vụ trong diện
thuế suất 10% như dầu mỏ,khí đốt,điện thương phẩm,sản phẩm cơ khí tiêu
dùng,sản phẩm điện tư,các loại thực phẩm chế biến;dịch vụ bưu điện,bưu
chính,viễn thông;dịch vụ cho thuê nhà,văn phòng,kho tàng,bến bãi,nhà
xưởng,máy móc,thiết bị,phương tiện vận tải;dịch vụ tư vấn,khảo sát,thiết
kế,dịch vụ kiểm toán,kế toán;dịch vụ khách sạn,du lịch,ăn uống…
Về phương pháp tính thuế : Theo luật thuế GTGT,thuế GTGT được
tính theo hai phương pháp là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Hầu hết các cơ sở kinh doanh phải áp dụng phương pháp khấu trừ và
phải đáp ứng quy định về sổ sách kế toán,hạch toán số thuế đầu ra và số thuế
đầu vào. Số thuế phải nộp được xác định bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số
thuế GTGT đầu vào được phép khấu trừ.
37
Thuế GTGT của hàng hoá,dịch vụ bán ra tính trên giá chưa có thuế.Khi
lập hoá đơn bán hàng hoá,dịch vụ,cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa
có thuế,thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán.Trường hợp
hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán,không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì
thuế GTGT tính trên giá thanh thoán ghi trên hoá đơn,chứng từ.
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT
mua hàng hoá,dịch vụ đầu vào của cơ sở kinh doanh.Ngoài ra,cơ sở kinh
doanh còn được tính khấu trừ theo tỷ lệ 3% trên các hoá đơn bán hàng thông
thường mua hàng hoá,dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT của đơn vị
nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng ,hay hàng
hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt do cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở
sản xuất để bán ra;tiền bồi thường bảo hiểm theo bảng kê chi bồi thường bảo
hiểm;và 2% trên giá trị hàng hoá mua vào theo bảng kê đối với hàng hoá là
nông,lâm,thuỷ sản chưa qua chế biến;đất,đá,cát,sỏi,các phế liệu mua của
người bán không có hoá đơn.Tỷ lệ % khấu trừ này áp dụng thống nhất cho cả
trường hợp kinh doanh trong nước và xuất khẩu.
Theo quy định của luật thuế GTGT,chỉ có ba loại đối tượng áp dụng
phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là : cá nhân sản xuất,kinh
doanh là người Việt Nam,và tổ chức,cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt
Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ
các điều kiện về kế toán,hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo
phương pháp khấu trừ thuế,và cơ sở kinh doanh mua,bán vàng,bạc,đá
quý,ngoại tệ.Theo phương pháp này,thuế GTGT được tính trực tiếp trên giá
trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ chịu thuế,nhân với thuế suất tương ứng.Giá
trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ được xác định là doanh số của hàng hoá dịch
vụ bán ra trừ đi giá vốn của hàng hoá dịch vụ bán ra.
38
Để thực hiện luật thuế GTGT các quy định bắt buộc về chế độ hoá đơn
chứng từ đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng phải được thực hiện
một cách chặt chẽ.Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT phải sử
dụng hoá đơn GTGT.Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp trên GTGT khi bán hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT
phải sử dụng hoá đơn bán hàng.
Khi lập hoá đơn,cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ,đúng các quy định
trên hoá đơn.Đối với hoá đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có thuế,phụ thu
và phí tính ngoài giá bán(nếu có),thuế GTGT,tổng giá thanh toán đã có
thuế;nếu không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế và thuế GTGT,chỉ ghi
chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán.
Hoá đơn chứng từ mua vào phải hợp pháp theo quy định của Bộ tài
chính thì mới được khấu trừ thuế và chỉ được khấu trừ theo số thuế ghi trên
hoá đơn. Riêng đối với một số trường hợp được khấu trừ khác theo tỷ lệ quy
định.
Do thuế GTGT nói chung không còn là chi phí của doanh nghiệp,việc
thực hiện Luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư
xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây.Toàn bộ thuế GTGT của
công trình xây dựng cơ bản và tài sản cố định được hạch toán riêng và không
tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu,vì vậy chi phí khấu hao tài
sản cũng giảm thấp hơn.Từ khi giảm 50% mức thuế GTGT(xuống còn 5% so
với thuế suất 10% ban đầu)đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế
GTGT của các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào
thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu,thậm chí còn được hoàn thuế.
Các doanh nghiệp khi mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được
khấu trừ hoặc hoàn thuế;còn nếu nhập khẩu thiết bị,máy móc,phương tiện vận
39
tải chuyên dùng loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư làm tài sản cố
định,thì không phải nộp thuế GTGT ngay từ khâu nhập khẩu.
Hoàn thuế giá trị gia tăng là một vấn đề quan trọng nhất trong cơ chế
thuế GTGT.Nhận thức được vấn đề này,các nhà lập pháp đã nghiên cứu sửa
đổi,bổ sung các quy định về hoàn thuế,nhằm đảm bảo thực hiện hoàn thuế
được nhanh chóng thuận tiện cho doanh nghiệp đồng thời cũng ngăn ngừa
được những gian lận thuế trong quá trình hoàn thuế.Cơ sở kinh doanh đạt đủ
các điều kiện để được hoàn thuế như : có luỹ kế số thuế đầu vào và được khấu
trừ lớn hơn số thuế đầu ra trong 3 tháng liên tục;có hàng hoá xuất khẩu nếu có
số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên;đầu tư
tài sản mới trong thời gian từ một năm trở lên nhưng chưa phát sinh doanh thu
bán hàng,thì được xét hoàn thuế ngay trong vòng 15 ngày khi có hồ sơ hoàn
thuế hợp lệ gửi lên cơ quan thuế,riêng đối với trường hợp hoàn thuế cho dự án
ODA và viện trợ nhân đạo,viện trợ không hoàn lại thời gian hoàn thuế là 3
ngày.
Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh,lưu thông
hàng hoá phát triển do thuế GTGT chỉ thu trên GTGT của hàng hoá dịch vụ
qua các khâu sản xuất,lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng,khắc phục
được nhược điểm của thuế doanh thu là thu trùng lên thuế,thúc đẩy chuyên
môn hoá,hợp tác sản xuất,nhất là trong lĩnh vực sản xuất cơ khí như : sản
xuât,lắp ráp xe đạp,xe máy,ô tô,điện,điện tử…
Tóm lại,qua những năm đầu triển khai thực hiện luật thuế GTGT,chúng
ta đã đạt được kết quả nhất định;các quy định của pháp luật bước đầu đã phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế của nước ta,học tập được kinh nghiệm của
các nước đã áp dụng Luật thuế GTGT…tuy nhiên,thực tế hiện nay cho thấy
vẫn còn nhiều bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành cần được bổ
sung,sửa đổi để nâng cao hiệu quả áp dụng.
40
2.Các tồn tại
Việc triển khai thực hiện các luật thuế mới nói chung và luật thuế
GTGT nói riêng vừa kịp thời thực hiện tháo gỡ khó khăn và đạt được kết quả
ban đầu
khá khả quan.
Tuy nhiên,thuế GTGT ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện
hành còn tỏ ra khá phức tạp và có một số bất cập.Đó là điều không thể tránh
khỏi,kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy thực tế áp dụng thường
phải sửa đổi,bổ sung thường xuyên và cũng chỉ hoàn thiện dần sau một
khoảng thời gian nhất định.
2.1.Các quy định về đối tượng chịu thuế và đối tượng không thuộc diện
chịu thuế
Điều 3, Luật thuế GTGT quy định : “Tổ chức,cá nhân sản xuất,kinh
doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế(gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức
khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế(gọi chung là người nhập khẩu) là đối
tượng nộp thuế GTGT”.Theo quy định này thì đối tượng nộp thuế GTGT rất
rộng,điều này hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết nhưng trên thực tế đây
cũng là vấn đề cần phải bàn, bởi số lượng hộ kinh doanh cá thể ở nước ta
chiếm tỷ trọng khá lớn nhưng phần lớn hoạt động sản xuất kinh doanh chưa
có hiệu quả.Trong khi đó,luật thuế GTGT lại không quy định các ngưỡng chịu
thuế như Luật của các nước khác nên chi phí quản lý hành chính thuế rất lớn
so với số thuế GTGT thu được từ những đối tượng này.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các doanh nghiệp sản xuất
cung cấp các mặt hàng,dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không thuộc diện
chịu thuế GTGT,có nghĩa là số thuế GTGT đầu vào cho các chi phí sản xuất
kinh doanh không được khấu trừ.Như vậy tạo nên sự bất bình đẳng trong sản
xuất kinh doanh bởi vì hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là loại hàng
41
hạn chế tiêu dùng những để sản xuất nó thì cũng phải dùng nguyên vật liệu
đầu vào có chịu thuế GTGT như vậy nếu quy định nó không thuộc diện chịu
thuế GTGT thì đã tước đi cái quyền được khấu trừ thuế đầu vào của doanh
nghiệp sản xuất loại hàng đó.
Quy định việc các cơ sở kinh doanh thương mại các mặt hàng chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt được khấu trừ”khống”theo tỷ lệ 3%,hiện cũng gây trở ngại
trong việc khấu trừ thuế đầu vào ở khâu lưu thông.
Hiện nay,việc quy định dịch vụ xuất khẩu không thuộc diện chịu thuế
GTGT làm cho thuế đầu vào không được khấu trừ trở thành chi phí của doanh
nghiệp và không tạo điều kiện khuyến khích ngành hoạt động kinh doanh này.
2.2.Các quy định về căn cứ tính thuế
Theo quy định của pháp luật hiện hành,ngoài các đối tượng không
thuộc diện chịu thuế theo quy định chung và một số trường hợp đặc biệt,cơ
cấu thuế suất gồm có bốn mức 0%, 5%,10% và 20%.Như vậy là quá phức tạp
và không khỏi gây trở ngại cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các
ngành nghề sản xuất,kinh doanh khác nhau,bởi cùng một đại lượng giá trị
tăng thêm cấu thành trong một giá trị sản phẩm hàng hoá,dịch vụ của một
ngành nghề nào đó ứng với một mức chi phí hợp lý,được xã hội chấp
nhận,trong mối quan hệ cân đối giữa các ngành sản xuất kinh doanh,nhưng lại
phải chịu thuế GTGT với các mức thuế suất khác nhau,nên sẽ khó đảm bảo
được sự công bằng,bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề
khác nhau.
Trong thực tế,mặc dù quy định áp dụng các mức thuế suất thuế GTGT
thấp hơn thuế doanh thu trước kia thì có lợi thế hơn về chi phí và giá thành
sản phẩm,nhưng nhiều ngành nghề kinh doanh lại gặp phải khó khăn,cho nên
Nhà nước đã đưa ra biện pháp tình thế là điều chỉnh giảm thuế suất với nhiều
tỷ lệ khấu trừ.Thực tế việc điều chỉnh giảm thuế suất này lại làm cho quy định
42
của Luật thuế GTGT bị biến dạng với nhiều mức thuế suất mới gây thêm
phức tạp,khó khăn cho công tác quản lý.
Một mặt việc quy định nhiều đối tượng được giảm thuế trong luật làm
bóp méo tính trung lập của thuế GTGT,dễ làm cho doanh nghiệp hiểu sai lệch
về thuế GTGT.Việc thực hiện giảm thuế trên thực tế không phát huy được
hiệu quả tích cực,việc quản lý thuế cũng phức tạp lên rất nhiều và chi phí
quản lý thuế sẽ cao.Hơn nữa,việc áp dụng biện pháp giảm thuế tràn lan và
thiếu căn cứ sẽ tạo ra tâm lý chờ đợi đối với các doanh nghiệp,dẫn đến các
doanh nghiệp khiếu nại kêu ca và cơ quan chức năng lúng túng bị động trong
giải quyết.Điều này gây tâm lý không tốt trong kinh doanh và rất dễ tạo ra sự
bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Thêm vào đó,các quy định về giảm thuế khác cũng cần được xem xét
điều chỉnh sao cho thể hiện được tính hiệu quả.Vì bản thân thuế GTGT thực
tế không phải là chi phí của doanh nghiệp,do vậy việc doanh nghiệp được
giảm thuế thực chất là được hỗ trợ về giá và tiền giảm thuế được tính vào thu
nhập bất thường,vì vậy việc thực hiện giảm thuế chỉ nên xem như một biện
pháp tình thế trong thời gian đầu và áp dụng hạn chế.
Việc quy định thuế suất 5% hay 10% đối với một số loại hàng hoá phân
biệt theo nguyên vật liệu trong kết cấu hàng hoá,hay theo công dụng(ví dụ như hàng cơ khí tiêu dùng2)thực tế gây khó khăn trong giải thích và vận
dụng.Bản thân các quy định này không được hướng dẫn chi tiết,nên gây ra
nhầm lẫn vô tình hoặc cố ý khi thực hiện của doanh nghiệp.
Với quy định về giá tính thuế hiện nay cho thấy việc công bố và niêm
yết giá chưa phù hợp với cơ chế của thuế GTGT.Theo cơ chế thuế
GTGT,hàng hoá có 3 yếu tố : giá bán,thuế GTGT và giá thanh toán.Về
2 Xem đoạn 2 khoản 2 điều 7 Nghị định 79/2000/NĐ - CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT
43
nguyên tắc,trên hoá đơn phải ghi đầy đủ 3 yếu tố trên nhưng do công bố và
niêm yết giá chưa rõ ràng,một số đơn vị kinh doanh đã lợi dụng việc này để
trốn thuế bằng cách ghi giá trên hoá đơn bán hàng thấp hơn giá thực thanh
toán.
2.3.Các quy định về phương pháp tính thuế
Cách tính theo phương pháp trực tiếp ban đầu được coi là phù hợp với
tình hình thực tế nước ta với một số lượng lớn các cơ sở kinh doanh quy mô
nhỏ và các hộ kinh doanh cá thể song số thuế phải nộp không lớn,thường kinh
doanh ở các ngành nghề thương nghiệp,ăn uống,dịch vụ và chưa thực hiện tốt
chế độ hoá đơn,chứng từ đầy đủ để áp dụng phương pháp khấu trừ.Nhưng
trên thực tế phương pháp này lại không phát huy được hiệu quả.Bởi các đối
tượng này vẫn phải ghi sổ sách đầy đủ thì mới xác định được doanh số bán
hàng và giá vốn đầu vào để tính giá trị gia tăng làm căn cứ tính thuế.Như
vậy,nếu họ thực hiện được và chấp hành tốt chế độ ghi sổ thì họ đã có đủ căn
cứ để nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.Còn trong trường hợp họ không
thực hiện được thì việc xác định giá trị gia tăng làm căn cứ tính thuế chỉ là
hình thức,và dễ tạo ra sự lẩn tránh nghĩa vụ thuế bằng cách khai giảm doanh
thu.
2.4.Các quy định về khấu trừ thuế,hoàn thuế
Việc cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào cho các trường hợp mua hàng
hoá không có hoá đơn GTGT : như hàng hoá là nông,lâm,thuỷ sản chưa qua
chế biến nhằm giúp đỡ khuyến khích hoạt động sản xuất nông nghiệp,nhưng
cũng dẫn đến việc tạo ra sơ hở khi công tác kiểm tra còn chưa tốt,chưa được
thực hiện thường xuyên rất dễ bị các đối tượng lợi dụng để kê khai,khấu
trừ,hoàn thuế khống.
Việc khấu trừ thuế GTGT đối với hoá đơn bán hàng thực chất là cho
phép khấu trừ một phần thuế đã nộp ở các hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo
44
phương pháp trực tiếp,loại bỏ phần nào việc đánh thuế trùng,tuy nhiên quy
định về khấu trừ trên bảng kê tạo ra sự lộn xộn khó kiểm soát và dễ dẫn đến
tình trạng các cơ sở kinh doanh lợi dụng để gian lận thuế của Nhà nước.
Các quy định về vấn đề hoàn thuế cho thấy,cơ chế hoàn thuế hiện nay
không còn phù hợp nữa,cơ chế “hoàn trước,kiểm sau” với thời hạn hoàn thuế
ngắn : 3 ngày đối với các dự án sử dụng vốn ODA,15 ngày đối với các trường
hợp khác.Trường hợp kiểm tra trước khi hoàn thuế thời gian tối đa là 30 ngày
nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng đối với cơ quan thuế lại gặp
nhiều khó khăn trong việc kiểm tra đối chiếu xác minh hoá đơn,Bản kê mua
hàng đối với các trường hợp lập hồ sơ hoàn thuế khống liên quan đến nhiều
doanh nghiệp ở địa phương khác nhau.
Với quy định về đối tượng hoàn thuế như hiện nay là quá rộng,điều đó
gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc kiểm soát,kiểm tra đối tượng được
hoàn thuế.
Mặt khác,điều kiện để được hoàn thuế còn có chưa chặt chẽ,các đối
tượng chỉ cần thuộc diện được hoàn thuế có đơn xin hoàn thuế và các giấy tờ
cần thiết thì sẽ được xem xét hoàn thuế mà không cần kiểm tra xem cơ sở đó
có hoạt động kinh doanh bình thường hay không.
2.5.Các quy định về quy định quản lý hoá đơn
Các quy định về chế độ hoá đơn còn chưa được tập trung,rườm rà và
thực tế chưa đầy đủ.Bản thân Bộ tài chính phát hành hoá đơn thuế GTGT để
các doanh nghiệp sử dụng,nhưng lại không kiểm soát được số hoá đơn do
chính mình phát hành này(hàng năm khoảng 6 triệu quyển hoá đơn).Chế độ
hoá đơn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh,nhiều thủ đoạn trốn lậu tinh vi
như hoá đơn giả,hoá đơn khống,sử dụng hoá đơn Bộ tài chính để hợp pháp
hoá việc mua bán hàng trốn lậu thuế,ghi doanh thu chênh lệch giữa các liên
45
của hoá đơn…Do đó hoá đơn là con dao hai lưỡi trong công tác quản lý thu
thuế.
Một mặt Bộ tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn cho
chính mình nhưng lại chưa có biện pháp thực hiện có hiệu quả.
2.7.Các quy định về quản lý thu,nộp thuế GTGT
Giai đoạn triển khai áp dụng Luật thuế GTGT có nhiều văn bản quy
phạm pháp luật,và các văn bản hướng dẫn cụ thể như công văn của Tổng cục
thuế và các cục thuế địa phương.Việc này mặc dù có tác dụng trực tiếp giải
quyết các vấn đề vướng mắc của doanh nghiệp theo từng trường hợp cụ
thể,nhưng dẫn đến quyền hạn tự định đoạt của cơ quan thuế cao,áp dụng pháp
luật không công bằng đối với các đối tượng nộp thuế.Nhiều trường hợp đối
tượng nào biết thông tin thì được hưởng lợi thế hơn,cán bộ thuế có thể lợi
dụng để tư lợi…
Các quy định pháp luật về thuế GTGT,để phù hợp với tình hình thực tế
nên đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần.Ngoài Luật thuế GTGT và hai Nghị
quyết của UBTV Quốc hội,số văn bản hướng dẫn thi hành rất nhiều,bao gồm
bốn Nghị định,hàng chục Thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính,và nhiều văn
bản pháp quy khác của Bộ tài chính và các Bộ,ngành có liên quan.Do quá
nhiều văn bản nên khó khăn cho việc tra cứu và áp dụng trên thực tế đối với
cả cán bộ thuế lẫn doanh nghiệp,ví dụ như việc xác định đúng thuế suất.Mặc
dù đến cuối năm 2000 các quy định này đã được gộp vào một Nghị định
79/2000/NĐ - CP và một Thông tư 122/2000/TT – BTC áp dụng thống nhất
kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2001,nhưng đây mới chỉ thể hiện việc gộp các quy
định lại vào một văn bản,mà chưa thực sự được hệ thống hoá đầy đủ,hoặc có
những quy định được hướng dẫn cụ thể tại các Thông tư trước đây giờ đã bị
bãi bỏ thì vẫn chưa được tiếp tục làm rõ trong Thông tư mới,nên gây ra tâm lý
làm cho doanh nghiệp không rõ nên áp dụng như thế nào.Ví dụ việc áp dụng
46
thuế GTGT đối với doanh nghiệp chế xuất trước đây,tại Thông tư số
34/1999/TT – BTC ngày 1 tháng 4 năm 1999 và Công văn 1159TC/NV5 ngày
20 tháng 7 năm 1999 hướng dẫn chi tiết đã có quy định cụ thể một số loại
hàng hoá dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất thì được áp dụng thuế
suất 0%,hoặc không thuộc diện chịu thuế GTGT,hoặc chịu thuế GTGT như
đối với hàng hoá dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp khác trong nước.Tuy
nhiên,Thông tư 122/2000/TT – BTC đã thay thế Thông tư số 34/1999/TT –
BTC,do đó đã bãi bỏ hướng dẫn chi tiết tại Công văn trên.Như vậy hiện hành
chỉ còn quy định chung đối với hàng hoá cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất
áp dụng thuế suất 0%,và dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất thì không thuộc diện chịu thuế GTGT theo quy định của Chính phủ1.Do vậy,các
doanh nghiệp chế xuất cũng như các đơn vị kinh doanh có liên quan đến
doanh nghiệp chế xuất đến nay vẫn không rõ việc thực hiện theo quy định cũ
còn phù hợp hay không.
Việc thất thu thuế không những làm ảnh hưởng đến số thu Ngân sách
nhà nước mà còn không đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành
mạnh,không thực hiện được yêu cầu công bằng trong chính sách động
viên,làm nhờn kỷ cương phép nước.
Việc xử lý các trường hợp nộp chậm tiền thuế,kê khai không đầy
đủ,chưa đúng quy định mặc dù đã được quy định rõ trong luật và các văn bản
dưới luật nhưng mới chỉ được thực hiện gần đây và chưa đầy đủ.
Mặc dù đã bước đầu thực hiện vi tính hoá nhưng phần lớn các công
việc quản lý thuế quan trọng như đối chiếu kiểm tra tờ khai,bảng kê hoá đơn
đầu ra và đầu vào,việc kiểm tra chéo giữa các liên của hoá đơn…để xác định
kê khai của doanh nghiệp và khấu trừ,hoàn thuế vẫn được thực hiện một cách
1 Xem khoản 22 mục II phần A và khoản 1.1 mục II phần B Thông tư 122/2000/TT – BTC
47
thủ công,nên hiệu quả không cao.Bản thân việc quản lý chưa tốt,kỹ thuật còn
kém của hệ thống quản lý thuế còn dẫn đến việc ra thông báo thuế sai với số
kê khai là rất phổ biến,vì vậy làm doanh nghiệp mất thời gian và công sức để
xin điều chỉnh,làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Tóm lại,pháp luật về thuế GTGT ở nước ta đang từng bước được sửa
đổi,bổ sung,hoàn thiện.Nhưng hiện tại,các quy định của pháp luật đã làm phát
sinh nhiều vướng mắc cần giải quyết trong quá trình áp dụng Luật thuế
GTGT.
II./ Thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng
1.Các kết quả đạt được trong quá trình thực hiện thuế GTGT
Trong những năm đầu triển khai thực hiện luật thuế GTGT tuy gặp
nhiều khó khăn,nhưng với tinh thần chủ động,lại được sự lãnh đạo,chỉ đạo sát
sao của Bộ chính trị,của UBTVQH,và sự điều hành thường xuyên,cụ thể của
Chính phủ,cùng với sự cố gắng của các ngành,các cấp,của các cơ quan,đoàn
thể,sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế và sự đồng tình của nhân dân,sự
nỗ lực của ngành tài chính,ngành thuế,đến nay sau 3 năm thực hiện cho thấy
Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn cuộc sống;sản xuất,kinh doanh giữ được
ổn định và phát triển.
Trong quá trình thực hiện,một số ngành nghề lĩnh vực sản xuất,kinh
doanh một số mặt hàng,dịch vụ đã gặp khó khăn do thu thuế GTGT tăng cao
hơn thuế doanh thu nhưng chưa chuyển đổi kịp cho phù hợp với cơ chế thuế
mới và chịu ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính,tiền tệ trong khu
vực.UBTV Quốc hội,Chính phủ,Bộ tài chính đã có những điều chỉnh,sửa
đổi,bổ sung danh mục không chịu thuế GTGT và giảm 50% thuế suất thuế
GTGT cho 18 loại hàng hoá,dịch vụ;mở rộng diện khấu trừ thuế GTGT đầu
vào theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng…,và các biện pháp xử lý,tháo
gỡ khó khăn khác như : giảm mức thuế nhập khẩu của 569 mặt hàng là vật
48
tư,nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế giảm gần 1.000 tỷ
đồng.
Bằng các nội dung chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên
các luật thuế mới nói chung và luật thuế GTGT mặc dù được thực hiện ngay
sau thời gian khủng hoảng kinh tế tài chính – tiền tệ nhưng nền kinh tế không
những vẫn giữ được ổn định sản xuất,kinh doanh mà còn góp phần khuyến
khích đầu tư,tăng dần nhịp độ phát triển kinh tế.
Trong năm 1999,tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng
kinh tế,tốc độ tăng trưởng kinh tế so với các năm trước giảm,nhưng vẫn đạt
4,8%,cao hơn năm 1998,giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 10,4%,tổng
sản lượng nông nghiệp đạt 5,2%.Cả năm số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
giảm khoảng 12,3% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998;trong
đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,6%;vốn ODA tăng khoảng 16%.
Năm 2000,đà sút giảm kinh tế đã được chặn lại,nhịp tăng trưởng kinh
tế đã khá lên,đạt khoảng 6,7%,sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng
cao,tăng 15,5% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra,giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng 4,9% so với kế hoạch,các hoạt động dịch vụ được đẩy mạnh,tăng khoảng
6%.Tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng 10%,doanh thu du lịch tăng
14%,doanh thu ngành bưu điện tăng 8,5%,doanh thu ngành hàng không tăng
14%,vận tải hàng hoá và vận tải hành khách tăng 10,4% và 5,5%.
Về thị trường giá cả,trong hai tháng đầu năm khi thực hiện các luật
thuế mới,giá một số mặt hàng như : lương thực,thực phẩm,công nghệ
phẩm,dược phẩm,y tế…có nhích lên so với tháng 12 năm 1998 là do ảnh
hưởng của Tết nguyên đán và một phần do một số doanh nghiệp,hộ tư nhân
chưa hiểu rõ về thuế GTGT hoặc lợi dụng đã cộng thêm thuế GTGT vào giá
cả để bán.Nhưng Chính phủ đã chủ động chỉ đạo về việc chuẩn bị hàng hoá
phục vụ Tết;có quyết định miễn thuế GTGT trong 6 tháng đối với các cơ sở
49
kinh doanh thương mại kinh doanh các mặt hàng lương thực,thực phẩm tươi
sống và rau quả tươi… đồng thời chỉ đạo các ngành,các cấp từ trung ương đến
địa phương tăng cường quản lý thị trường,chống nhập lậu,đầu cơ hàng
hoá,chống hàng giả;quản lý tốt giá cả;thực hiện niêm yết giá và bán đúng giá
niêm yết…Vì vậy,thị trường giá cả đã 0trở lại ổn định và không có biến động
lớn.Năm 1999,chỉ số hàng tiêu dùng tăng khoảng 0,1% và năm 2000 chỉ tăng
khoảng 1%.
Như vậy,tình hình giá cả thị trường trong năm qua đã cho thấy rằng giá
cả là do cung – cầu quyết định và Nhà nước đã có biện pháp quản lý giá kịp
thời đối với những mặt hàng có sự khan hiếm giả tạo.
Về thu Ngân sách nhà nước,về nguyên tắc xây dựng luật thuế GTGT là
phải đảm bảo số thu về thuế GTGT tương đương với số thuế doanh thu trước
đây. Đối với những địa phương bị hụt thu phần điều tiết cho ngân sách địa
phương do tác động của thuế GTGT thì được ngân sách Trung ương bù
đủ,nếu thu vượt được thưởng 50% đối với số thu vượt so với dự toán.Nguồn
hoàn thuế do ngân sách trung ương bố trí,không lấy từ ngân sách địa phương.
Cơ chế trên cũng tạo sự yên tâm và quan tâm tích cực của các địa
phương trong công tác chỉ đạo điều hành ngân sách nói chung,thu ngân sách
nói riêng. Mặt khác,do cơ chế chính sách được điều chỉnh,sửa đổi phù hợp
hơn cũng góp phần thúc đẩy sản xuất,kinh doanh đối với các doanh
nghiệp;công tác chỉ đạo, quản lý thu cũng chặt chẽ và tiến bộ nên triển khai
các luật thuế mới vẫn đảm bảo hoàn thành được dự toán thu Ngân sách nhà
nước do Quốc hội thông qua. Năm 1999 thu Ngân sách nhà nước đạt 112,9%
so với dự toán,năm 2000 đạt 117,4% và tăng 11,5% so với thực hiện năm
1999.Các khoản thu từ thuế và phí : năm 1999 đạt 111,5% so với dự toán,năm
2000 đạt 117,5% và tăng 13 % so với năm 1999.Trong đó thuế GTGT chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số thu,và đều đạt so với dự kiến thiết kế chính sách và
50
dự toán từng năm.Riêng số thu từ thuế GTGT năm 1999 là 16.590 tỷ đồng,sau
khi trừ đi số thuế phải hoàn,số thuế còn lại tương đương với thuế doanh thu
tính theo mặt bằng cùng năm.
Về công tác quản lý hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp,các quy
định về hạch toán thuế,cũng như việc áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế
doanh thu trước đây bắt buộc doanh nghiệp phải xem xét sắp xếp tổ chức lại
sản xuất và quản lý doanh nghiệp,đổi mới trang thiết bị và nâng cao trình độ
quản lý để thực hiện hiệu quả trong môi trường thuế mới.
Đối với cơ quan thuế,các quy định về việc đăng ký mã số thuế và việc
lập tờ khai thuế đã góp phần giúp cơ quan thuế năm được số lượng đối tượng
nộp thuế và quản lý tốt hơn.Đến hết năm 2000 là 1.212.139 đối tượng,trong
đó khu vực kinh tế nhà nước có 19.517 đối tượng,doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài : 2.806,công ty TNHH : 20.029,công ty cổ phần : 1.518,doanh
nghiệp tư nhân : 27.554 đối tượng,tổ chức nước ngoài không hoạt động theo
Luật đầu tư nước ngoài : 61,tổ chức kinh tế của các tổ chức chính trị,đoàn thể
: 684,các đơn vị sự nghiệp và lực lượng vũ trang : 7.154,hợp tác xã :
17.459,hộ cá thể : 1.110.655,và các đối tượng khác là 4.702 đối tượng.
Phần lớn các đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp đã thực hiện công tác
kế toán,hoá đơn chứng từ theo đúng chế độ của Nhà nước,kê khai nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ.Cơ chế tự kê khai đã thúc đẩy việc các đối tượng
nộp thuế chủ động kê khai lập và nộp tờ kê khai hàng tháng tương đối đầy đủ
và đúng thời hạn.
Việc kê khai thuế GTGT,khấu trừ thuế GTGT đầu vào,tính đúng thuế
TNDN thực hiện trên nguyên tắc phải có hoá đơn chứng từ,từ đó thúc đẩy các
doanh nghiệp,người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác
mở sổ sách kế toán,ghi chép,quản lý và sử dụng tốt hoá đơn chứng từ.Trong
năm 1999,số lượng hoá đơn chứng từ sử dụng tăng gấp đôi so với năm 1998
51
và mức sử dụng hoá đơn tăng thể hiện một bước tiến mới trong công tác sử
dụng hoá đơn chứng từ và quản lý của doanh nghiệp.
Đến nay khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước và hơn 2400 doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,30.000 doanh nghiệp tư nhân và công ty
TNHH,công ty cổ phần đã thực hiện công tác kế toán,hoá đơn chứng từ theo
đúng chế độ của Nhà nước,và kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Cũng do làm tốt hơn công tác kế toán,hoá đơn chứng từ,việc quyết toán
tài chính,quyết toán thuế được thực hiện nhanh chóng,và có nhiều tiến bộ so
với những năm trước đây.Như vậy,chính sách thuế mới gắn nghĩa vụ nộp thuế
với khấu trừ và hoàn thuế nên cũng đã gắn liền với nghĩa vụ và quyền lợi của
người nộp thuế,khuyến khích người nộp thuế chủ động thực hiện nghĩa vụ với
Ngân sách nhà nước.
Tóm lại,việc nước ta triển khai thực hiện luật thuế GTGT trong bối
cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn do thiên tai lũ lụt và cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực,nhưng tình hình giá cả thị trường
không có biến động lớn,vẫn đảm bảo số thu ngân sách theo yêu cầu đặt
ra,không những thế còn góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư phát triển và
xuất khẩu,thúc đẩy các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh,tăng cường quản
lý ….là một thành công rất lớn,được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất
cao.Một điểm quan trọng là Luật thuế đã đề cập được tất cả các đối tượng của
nền kinh tế,mở rộng đối tượng thu đối với hàng hoá nhập khẩu bảo đảm phù
hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam hội nhập quốc tế.
2.Các trường hợp gian lận phổ biến trong hoàn thuế giá trị gia tăng hiện
nay
Qua 3 năm thực hiện Luật thuế GTGT,các cơ quan chức năng đã phát
hiện nhiều hành vi vi phạm nghiêm trọng,đặc biệt là trong lĩnh vực hoàn
thuế,gây thiệt hại lớn cho Ngân sách nhà nước.
52
Theo báo cáo của lực lượng cảnh sát kinh tế,từ năm 1999 đến tháng 11
năm 2001,Nhà nước đã chi 12.660 tỷ đồng cho việc hoàn thuế.Tuy nhiên một
phần không nhỏ trong tổng số tiền nói trên lại rơi vào tay những kẻ kinh
doanh bất chính,lập hồ sơ hoàn thuế khống để chiếm đoạt tiền của Nhà
nước.Chỉ tính riêng năm 2001,trong số 3.947 doanh nghiệp có hồ sơ hoàn
thuế,ngành thuế mới kiểm tra 1.302 doanh nghiệp và đã phát hiện 493 doanh
nghiệp vi phạm,chiếm đoạt 40.155 triệu đồng(trong đó mới thu hồi 15.828
triệu đồng).
Thực tế áp dụng Luật thuế GTGT cho thấy các trường hợp gian lận phổ
biến trong hoàn thuế GTGT là :
Thứ nhất,lợi dụng việc cho tính khấu trừ theo tỷ lệ %(còn gọi là khấu
trừ khống)đối với hàng nông sản,lâm sản,thuỷ sản mua của người sản xuất
không có hoá đơn hoặc hàng hoá mua của người bán là hộ kinh doanh có hoá
đơn thông thường để kê khai,lập hồ sơ,chứng từ hoá đơn khống hoặc không
đúng về hàng hoá mua vào và hàng hoá xuất khẩu đề được khấu trừ thuế hoặc
đúng về hàng hoá mua vào và hàng hoá xuất khẩu để được khấu trừ thuế hoặc
hoàn thuế giá trị gia tăng không đúng nhằm lấy tiền của Nhà nước.Các trường
hợp này,xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là
nông ,lâm,thuỷ sản qua đường biên giới đất liền và lợi dụng nhiều là ở các
công ty,doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Điển hình là trường hợp Công ty xuất
nhập khẩu Lâm sản Hà Nội bằng thủ đoạn thông đồng với người bán
hàng,khai khống số lượng và giá trị hàng hoá xuất sang Trung Quốc để chiếm
dụng tiền hoàn thuế GTGT trên 1,4 tỷ đồng; hay vụ doanh nghiệp Hoàng Việt
(Quảng Ngãi) trong 2 năm 1999 và 2000 đã lập bảng kê khống để chiếm đoạt
hơn 12 tỷ đồng,và gần đây nhất là vụ Công ty bách hoá điện máy TP.HCM đã
tạo lập 77 hồ sơ khống để xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Trung Quốc chiếm
đoạt hơn 7,5 tỷ đồng tiền hoàn thuế của nhà nước.
53
Thứ hai,một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá khai khống hàng hoá
xuất khẩu do lợi dụng thủ tục kiểm hoá hàng hoá xuất khẩu của Hải quan đối
với hàng xuất khẩu qua biên giới,nhất là hàng nông sản quá thông thoáng(có
trường hợp hàng vận chuyển qua biên giới quay vòng xuất khẩu nhiều
lần,hoặc không có hàng nhưng vẫn có tờ khai hải quan hàng xuất khẩu có xác
nhận của hải quan)để khai khống giá trị hàng mua vào được tính khấu trừ
khống tương ứng với giá trị hàng đã kê khai xuất khẩu.
Lợi dụng thủ tục hợp đồng xuất khẩu đơn giản và việc thanh toán hàng
xuất khẩu bằng tiền mặt khó kiểm soát đối với các trường hợp xuất khẩu qua
các cửa khẩu biên giới đất liền để khai man về hàng xuất khẩu.Điển hình là
trường hợp Công ty TNHH sản xuất và chế biến tinh dầu Hà Nội do Nguyễn
Viết Thìn làm giám đốc,từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1999,đã làm khống hồ sơ
hoàn thuế 7,335 tỷ đồng; hay vụ Lê Minh Sơn,Phó giám đốc Xí nghiệp Vật tư
chế biến hàng xuất khẩu I thuộc Công ty Ong Trung ương và đồng bọn làm
khống 79 bộ hồ sơ xuất khẩu hàng sang Trung Quốc để xin hoàn thuế 3.874
triệu đồng.
Thứ ba,một số trường hợp lợi dụng quy định thông thoáng về thủ tục
thành lập doanh nghiệp của Luật doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp
mới,nhưng thực tế không có sản xuất kinh doanh,chỉ nhằm mục đích đăng ký
thuế để được mua hoá đơn,chứng từ;từ đó lợi dụng mua bán hoá đơn(thực tế
không có hàng),lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế kiếm lời bất chính.Điển
hình là trường hợp Công ty TNHH Phượng Bình ở Hải Dương thành lập
công ty con là doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Phượng Bình,thuê
người ngoài làm giám đốc trong thời gian ngắn (từ 20/11/2000 đến 6/3/2001)
dùng chính hoá đơn của Công ty mẹ để hợp thức hoá chứng từ đầu vào chiếm
đoạt tiền hoàn thuée trên 4,6 tỷ đồng sau đó bỏ trốn.Hiện nay cơ quan thuế
54
đang đề nghị cơ quan Công an truy tìm để thu hồi số tiền hoàn thuế trên vào
Ngân sách nhà nước nhưng vẫn chưa có kết quả.
Thứ tư,là thủ đoạn mua bán hoá đơn không hợp pháp(hoá đơn giả,ghi
hoá đơn không đúng mã số,tên đơn vị bán) để chiếm dụng tiền thuế.Điển hình
là vụ Hợp tác xã Thương mại dịch vụ An Lợi – An Giang đã bán hoá đơn cho
nhiều công ty để lập hồ sơ hoàn thuế với số tiền 26,5 tỷ đồng,hay vụ án Công
ty Việt Hải Hải Phòng bán hoá đơn khống(không có hàng) cho 11 đơn vị tại
các tỉnh Hải Dương,Hà Tây,Bắc Ninh,Bắc Giang,TP.Hà Nội để các đơn vị
này lập chứng từ rút tiền hoàn thuế GTGT khoảng 8 tỷ 883 triệu đồng.
Đó là những thủ đoạn chính mà các doanh nghiệp làm ăn bất chính
thường sử dụng để lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để chiếm đoạt tài sản
của Nhà nước.Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là :
Thứ nhất,về cơ chế chính sách còn nhiều khe hở để các đối tượng lợi
dụng khai man thuế :
Lợi dụng quy định tại điểm 1d-Điều 10 Luật thuế giá trị gia tăng và
điểm 1d-Điều 9 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP của Chính Phủ quyđịnh chi tiết
thi hành Luật thuế giá trị gia tăng cho khấu trừ hoàn thuế giá trị gia tăng đầu
vào theo tỷ lệ % theo Bản kê mua hàng đối với hàng hoá là nông sản,lâm sản
,thuỷ sản doanh nghiệp mua của người bán không có hoá đơn hoặc mua hàng
hoá,dịch vụ của các hộ kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp
tính trực tiếp trên giá trị gia tăng có hoá đơn bán hàng(quy định này được mở
rộng áp dụng cho cả hàng hoá xuất khẩu)để lập Bản kê hoá đơn chứng từ mua
bán,xuất khẩu hàng hoá khống.
Thực hiện quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng theo phương pháp kê
khai của doanh nghiệp,kiểm tra sau,thời hạn hoàn thuế ngắn : 3 ngày đối với
các dự án sử dụng vốn ODA,15 ngày đối với các trường hợp khác.Trường
hợp kiểm tra trước khi hoàn thuế thời gian tối đa là 30 ngày nhằm tạo thuận
55
lợi cho doanh nghiệp,nhưng cơ quan Thuế gặp nhiều khó khăn trong việc
kiểm tra đối chiếu xác minh hoá đơn,Bản kê mua hàng đối với các trường hợp
lập hồ sơ hoàn thuế khống liên quan đến nhiều doanh nghiệp ở nhiều địa
phương khác nhau.
Về việc quản lý hoá đơn,chứng từ : Mở rộng cho các hộ kinh doanh
nhỏ nộp thuế theo mức khoán ổn định sử dụng hoá đơn bán hàng trong tình
hình mua bán thanh toán ở các khu vực NQD chủ yếu vẫn là thanh toán bằng
tiền mặt nên nhiều cá nhân lợi dụng để mua bán hoá đơn,lập hoá đơn chứng
từ mua bán hàng hoá kể cả xuất khẩu.
Thứ hai,công tác quản lý của cơ quan thuế còn nhiều yếu kém,chưa đạt
hiệu quả công tác cao :
Việc quản lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp của các cơ
quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan Thuế chưa có sự phối hợp chặt
chẽ từ việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tới hoạt động sản xuất kinh
doanh và việc tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Công tác thanh tra,kiểm tra đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp chưa bao quát hết được đối tượng cần thanh tra do nhiều đối
tượng vi phạm về trốn thuế nhưng lực lượng cán bộ thanh tra còn hạn
chế,chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành,các cấp.
Quản lý hoá đơn chưa được chặt chẽ,chưa có biện pháp kiểm tra phát
hiện để xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về phát hành và sử dụng hoá
đơn chứng từ.
Thứ ba,ý thức chấp hành Luật thuế của các doanh nghiệp,cá nhân chưa
tốt. Trên thực tế, hầu như không có trường hợp doanh nghiệp vi phạm do
không biết rõ quy định của pháp luật mà đa số trường hợp cố tình lợi dụng cơ
chế chính sách để vi phạm kiếm lời bất chính.
56
Thứ tư,việc xử lý các trường hợp vi phạm quy định của Luật thuế chưa
kịp thời,chưa nghiêm minh.
Tuy việc thanh tra,kiểm tra sau hoàn thuế đã đạt được một số kết quả
bước đầu nhưng việc xác định được những hành vi vi phạm còn gặp nhiều
khó khăn như :
Cơ quan Công an mặc dù đã xác định được đối tượng bán hàng khai
nhận là chỉ bán hoá đơn khống cho người mua (không có hàng hoá), nhưng
người mua vẫn khẳng định là có mua hàng và xuất khẩu vì có tờ khai xuất
khẩu do cơ quan Hải quan cửa khẩu xác nhận,cơ quan thuế không có chức
năng điều tra,khởi tố cho nên rất khó khăn về mặt pháp lý khi kết luận hành vi
phạm pháp của doanh nghiệp.
Mặt khác,việc lập bảng kê thu mua hàng hoá rất khó xác định chính xác
địa chỉ của người bán hàng,số lượng,giá cả hàng hoá (người bán khai không
đúng địa chỉ,lấy tên của người khác),do vậy khi đi xác minh thường là không
tìm được đúng người bán nên không thể kết luận người mua hàng có mua
thực tế hay không.
Việc mua,bán hàng hóa thường thực hiện giao tay ngay tại cửa khẩu
biên giới,thanh toán bằng tiền mặt không có chứng từ qua ngân hàng nên rất
khó kiểm tra,giám sát.
Công tác thanh tra sau hoàn thuế tại các Cục thuế hiện nay chủ yếu
được dựa vào sổ sách kế toán,chứng từ lưu giữ tại đơn vị,cán bộ thuế không
có chức năng và nghiệp vụ điều tra nên không thể tìm ra bằng chứng đấu
tranh với hành vi gian dối của doanh nghiệp.
Tóm lại,thực tế hiện nay cho thấy,các tiêu cực trong áp dụng thuế
GTGT chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực hoàn thuế,thủ đoạn chủ yếu là các đối
tượng lợi dụng sự quy định không chặt chẽ của pháp luật để tiến hành kê khai
57
hoàn thuế khống,rút tiền từ Ngân sách nhà nước; nguyên nhân chủ yếu là do
các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập chưa được hoàn thiện , công tác
quản lý của cơ quan thuế còn nhiều yếu kém,chưa đạt hiệu quả ,ngoài ra,ý
thức tuân theo pháp luật của các đối tượng chưa cao.
58
Chương III
Các biện pháp bảo đảm nâng cao
hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng
I./ Hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật thuế GTGT
Các kết quả bước đầu đạt được đã khẳng định định hướng đúng đắn về
sự cần thiết xây dựng chế độ thuế GTGT thay cho chế độ thuế doanh thu.Như
trên đã phân tích,pháp luật hiện hành về thuế GTGT đã từng bước được sửa
đổi,bổ sung phù hợp với yêu cầu đặt ra và đã có những đóng góp quan trọng
trong việc động viên nguồn tài chính vào Ngân sách nhà nước.Tuy nhiên,pháp
luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số điểm bất cập chưa phù hợp với
thực tiễn và yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn tới,vì vậy cần
phải được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi hoàn thiện.
Trước hết,cần nhận thức đầy đủ rằng thuế GTGT là một sắc thuế cơ
bản và quan trọng,đem lại nguồn thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong thu Ngân
sách nhà nước,do vậy việc đảm bảo và phát triển nguồn thu này là hết sức
quan trọng.Pháp luật về thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng vì vậy cần phải được cải cách hoàn thiện dần để đảm bảo yêu cầu này1.
Một trong những mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách thuế giai
đoạn II của Nhà nước,gắn liền với mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2001 –2010,là phải tập trung vào xây dựng một nền kinh tế độc lập tự
chủ, phát huy cao độ nội lực,nâng cao hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam2.Vì vậy,yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện pháp luật thuế
1 Xem Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng 2 Xem báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
59
để phù hợp hơn nữa yêu cầu phát triển kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế
trong thời gian tới.
Về mặt chủ quan,luật thuế GTGT là một luật thuế mới mẻ ở Việt
Nam,mặc dù đã được chuẩn bị kỹ càng từ trước và triển khai thực hiện tích
cực trong gần ba năm vừa qua,nhưng do trong thời kỳ quá độ có những đan
xen cần phải lưu ý về ảnh hưởng do khác biệt với thuế doanh thu trước
đây,nên còn nhiều phức tạp,bề bộn trong công tác xây dựng pháp luật.Ba năm
đầu pháp luật thuế GTGT được sửa đổi ,bổ sung dần cho phù hợp với diễn
biến tình hình thực tế một cách tình thế,thiếu đâu bổ sung đấy.Cho đến đầu
năm nay,mặc dù Bộ tài chính đã nỗ lực tập hợp các quy định dưới luật trong
các văn bản pháp quy về thuế GTGT vào một văn bản quy định chung hướng
dẫn chi tiết cụ thể,nhưng vẫn còn nhiều những vấn đề mang tính pháp lý cần
phải điều chỉnh,hoàn thiện dần.
2.Nội dung cụ thể về hoàn thiện pháp luật thuế GTGT
2.1.Phạm vi áp dụng thuế GTGT :
Về đối tượng nộp thuế,Luật thuế GTGT sửa đổi cần thu hẹp diện đối
tượng nộp thuế GTGT bằng cách quy định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với
các hộ kinh doanh cá thể như nhiều nước trên thế giới đã áp dụng.Những đối
tượng nào không đạt được mức doanh số này sẽ chuyển sang áp dụng thuế
khoán ấn định trên doanh thu,còn những hộ kinh doanh cá thể còn lại bắt buộc
phải thực hiện đầy đủ chế độ kế toán chứng từ hoá đơn để tính thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ.Làm được điều này sẽ giúp giảm bớt chi phí quản
lý hành chính thuế và việc quản lý hoá đơn chứng từ sẽ bớt khó khăn hơn.
Diện các đối tượng chịu thuế cần được mở rộng bao quát hơn theo
hướng : bổ sung cá mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất và
nhập khẩu, bổ sung một số lượng hạn chế các dịch vụ xuất khẩu,đảm bảo thực
hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và
60
dịch vụ.Đi đôi với việc mở rộng đối tượng chịu thuế là việc giảm và hạn chế
đối tượng không chịu-- thuế GTGT.
Trước hết cần thiết phải chuyển dần các đối tượng chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt sang diện được áp dụng thuế GTGT để đảm bảo bình đẳng trong
khâu khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các hàng hoá dịch vụ chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt.Điều này đảm bảo được tính trung lập của thuế GTGT,để thuế
GTGT không còn là yếu tố trong chi phí giá thành của hàng hoá dịch vụ chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt như hiện nay.Mặt khác,việc sửa đổi như vậy là hợp lý vì
hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu phải nộp thuế GTGT như các
hàng hoá nhập khẩu khác(hiện nay,hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt mới chỉ
được áp dụng thuế GTGT khi xuất khẩu với thuế suất 0%).
Trong quá trình thúc đẩy hội nhập quốc tế hiện nay,các dịch vụ xuất
khẩu cũng cần được xem xét đưa vào diện dược áp dụng thuế GTGT(thuế
suất 0% như hàng hoá xuất khẩu).Ngành kinh doanh dịch vụ ngày càng phát
triển và tạo ra giá trị gia tăng đáng kể đối với nền kinh tế thế giới.Hiện
nay,việc quy định dịch vụ xuất khẩu không thuộc diện chịu thuế GTGT làm
cho thuế đầu vào không được khấu trừ trở thành chi phí của doanh nghiệp và
không tạo điều kiện khuyến khích ngành hoạt động kinh doanh này.Trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng loại dịch vụ nào được áp
dụng thuế GTGT,vì như đã nêu,dịch vụ là một loại hàng hoá vô hình rất khó
xác định liệu có thực tế xuất khẩu hay không,do đó rất có thể bị lợi dụng để
được hoàn thuế đầu vào khống,làm thất thoát tiền của Ngân sách nhà nước.
Đối với hoạt động xây dựng,lắp đặt công trình ở nước ngoài và cho các
doanh nghiệp chế xuất nên đưa vào đối tượng chịu thuế (với thuế suất 0%) để
tiến hành khấu trừ thuế đầu vào cho các hoạt động này nhằm khuyến khích
chúng phát triển.
2.2.Thuế suất
61
Cơ cấu bốn mức thuế suất là phù hợp với giai đoạn mới chuyển từ cơ
chế thuế doanh thu sang áp dụng cơ chế thuế GTGT,nhưng hiện nay để nâng
cao hiệu quả áp dụng thì cơ cấu thuế suất phải được xem xét và sửa đổi theo
hướng tăng tính đơn giản của biểu thuế áp dụng đối với các loại hàng
hoá,dịch vụ.
Thực tế cho thấy nên bỏ mức thuế suất 20%,vì đây là mức thu quá cao
và hiện nay cũng chỉ áp dụng rất hạn chế đối với một số đối tượng như : “
kinh doanh mua bán vàng bạc đá quý,xổ số,đại lý tàu biển và dịch vụ môi giới “1.Các đối tượng trên nếu chúng ta chuyển xuống áp dụng mức thuế suất 10%
thì cũng không ảnh hưởng lớn đến số thu Ngân sách nhà nước.Bởi số lượng
các đối tượng trên không nhiều,hơn nữa tránh được tình trạng thất thu thuế do
các doanh nghiệp kinh doanh các đối tượng trên băn khoăn vì mức thuế suất
mình quá cao do đó tìm cách biến tấu để nộp thuế ít hơn.
Như vậy,để phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay,trước mắt
cần quy định giảm xuống chỉ áp dụng hai mức thuế suất là 5% và 10%(không
kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu).Mức thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với một
số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu,còn đại bộ phận các loại hàng hoá,dịch vụ
đều áp dụng thuế suất 10%.Trong tương lai cần chuyển sang chỉ áp dụng một
mức thuế suất thống nhất là 10%. Qua quá trình tổng kết kinh nghiệm áp dụng
thuế GTGT cho thấy cơ chế một thuế suất là cơ chế lý tởng,nhiều u điểm,do
đó có những nớc nh nớc Anh ban đầu áp dụng cơ chế một thuế suất sau đó
chuyển sang áp dụng cơ chế nhiều thuế suất,cuối cùng vẫn phải quay trở lại
áp dụng cơ chế một thuế suất.
Riêng đối với mức thuế suất 0%,cần có quy định chặt chẽ về đối tượng
được hưởng thuế suất này vì áp dụng thuế suất 0% gắn liền với việc phải hoàn
thuế thuế từ Ngân sách nhà nước.Tuy nhiên,phù hợp với chính sách khuyến
1 Theo khoản 4 điều 8 Luật thuế GTGT
62
khích xuất khẩu nói chung và đối với một số hoạt động nói riêng(ví dụ như
sản phẩm dịch vụ phần mềm),cần xem xét và quy định cho áp dụng thuế suất
0% đối với các dịch vụ xuất khẩu mang tính chất hàng hoá.Nhưng cũng cần
có các quy định chặt chẽ để xác minh rõ ràng dịch vụ thực tế xuất khẩu để hạn
chế và ngăn ngừa gian lận thuế có thể xảy ra.
2.3.Phương pháp tính thuế
Trong thời gian tới cần tiến hành nghiên cứu,xem xét khống chế mức
doanh thu hợp lý đối với đối tượng nộp thuế để tiến hành áp dụng duy nhất
phương pháp khấu trừ thuế mà không áp dụng phương pháp trực tiếp.
Thực tế,đối với chủ thể nộp thuế theo phương pháp trực tiếp như hiện
nay thì thuế GTGT vẫn là một yếu tố cấu thành trong giá thành hàng hoá,dịch
vụ,tạo nên sự khác biệt với các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ.Cách tính trực tiếp trên giá trị tăng thêm dựa trên phân định giữa “giá đầu
vào” và “giá đầu ra” xét trên góc độ tính thuế,thu thuế và hạch toán mang ý
nghĩa thực tế rất thấp.
Việc loại trừ này là dựa trên nguyên tắc hiệu quả của chính sách
thuế,bởi số chi phí để quản lý việc nộp thuế của các đối tượng này rất tốn kém
và phức tạp,trong khi số thuế GTGT thu từ các đối tượng này là không đáng
kể.Do vậy,nên áp dụng tính thuế khoán trên doanh thu với các đối tượng này
cho đơn giản và hiệu quả.
Do vậy để đảm bảo hiệu quả thực tế nên bỏ phương pháp trực
tiếp,chuyển các đối tượng nộp thuế có doanh thu dưới một mức quy định sang
áp dụng phương pháp khoán thuế,và khuyến khích các doanh nghiệp có điều
kiện đáp ứng được các quy định về sổ sách,kế toán và hoá đơn chứng từ sang
áp dụng thống nhất theo phương pháp khấu trừ.
2.4.Các quy định về miễn giảm thuế
63
Bản chất thuế GTGT là thuế gián thu do người tiêu dùng chịu,do đó
cần phải xoá bỏ quy định về miễn,giảm thuế GTGT bởi vì có miễn,giảm thì
người tiêu dùng cũng không được hưởng,mà nhà nước lại mất đi một khoản
thuế.
Tuy nhiên,trong thời gian đầu,để hỗ trợ cho các doanh nghiệp gặp khó
khăn có thể xem xét cho giảm thuế tạm thời trong phạm vi ngành nghề cụ thể
và phải xác định rõ thời hạn áp dụng chỉ trong vòng một đến hai năm.Hết thời
hạn trên phải áp dụng đúng mức thuế quy định và không được gia hạn thêm.
Việc quy định miễn thuế (không được khấu trừ đầu vào) khi cung cấp
hàng hoá dịch vụ cho một số đối tượng đặc biệt cũng làm ảnh hưởng đến chi
phí kinh doanh của doanh nghiệp (ví dụ như trường hợp doanh nghiệp Việt
Nam là nhà thầu phụ cung cấp hàng hoá dịch vụ cho dự án ODA thuộc diện
miễn thuế GTGT).Trong trường hợp này,để đảm bảo công bằng và bình
đẳng,cần phải cho doanh nghiệp được khấu trừ thuế đầu vào,vì thuế GTGT là
thuế đánh vào hàng hoá,dịch vụ chứ không phải là đánh vào đối tượng,nếu
Nhà nước quy định riêng một số loại dự án ODA không thuộc diện chịu thuế
GTGT,thì phải có biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp cung cấp
hàng hoá ,dịch vụ cho dự án trên nguyên tắc đối xử bình đẳng.
Các quy định xét giảm thuế phải nộp cho đối tượng nộp thuế gặp khó
khăn cũng cần phải được xem xét lại kỹ lưỡng.Nếu thực hiện nguyên tắc thuế
GTGT không phải là chi phí của doanh nghiệp thì quy định này không có ý
nghĩa khuyến khích hỗ trợ thực sự đối với doanh nghiệp,mà lại làm giảm
nguồn thu của ngân sách và tạo ra thêm nhiều phức tạp cho cơ quan thuế
trong việc xác định các điều kiện được hưởng giảm thuế.Do vậy,không nên áp
dụng giảm thuế cho các đối tượng trên.
2.5.Các quy định về hoá đơn chứng từ
64
Các quy định về hoá đơn chứng từ cần được tập hợp thống nhất trong
một văn bản,để thuận lợi cho việc tra cứu và áp dụng.Hiện nay,phổ biến các
quy định về quản lý hoá đơn chứng từ và xử lý vi phạm được ban hành dưới
hình thức các văn bản có hiệu lực thấp như công văn của Tổng cục thuế.Cần
phải sửa đổi bổ sung các quy định về quản lý hoá đơn chứng từ và ban hành
dưới hình thức văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn nhằm tăng hiệu quả pháp
luật và áp dụng phổ biến đối với mọi đối tượng một cách thống nhất.
Cần tiến tới thực hiện thống nhất quy định doanh nghiệp tự phát hành
hoá đơn,với các nội dung nhất quán theo quy định của Bộ tài chính.Hoá đơn
tự in của doanh nghiệp phải mang tính đặc thù riêng của doanh nghiệp,khó bị
lợi dụng và dễ dàng trong việc kiểm tra đối chiếu.
3.6.Các quy định về khấu trừ và hoàn thuế
Luật thuế GTGT quy định khấu trừ thuế GTGT đầu vào cho các trường
hợp mua hàng hoá không có hoá đơn GTGT như : hàng hoá là nông,lâm,thuỷ
sản
chưa qua chế biến mua của người sản xuất không có hoá đơn là biện pháp xử
lý tình thế trong những năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT,phù hợp với tình
hình thực tế của Việt Nam do các loại hàng hoá trên chủ yếu do nông dân sản
xuất bán ra không có hoá đơn,giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc hỗ trợ thông
qua việc hoàn thuế cho các cơ sở kinh doanh các mặt hàng này,đặc biệt là các
cơ sở kinh doanh xuất khẩu,đảm bảo không làm biến động giá đối với các mặt
hàng lương thực,thực phẩm thiết yếu,thực hiện khấu trừ một phần thuế GTGT
của hàng hoá vật tư sử dụng cho hoạt động sản xuất nông,lâm,thuỷ sản chưa
được khấu trừ,tránh thu thuế trùng.Quy định trên đã bị một số cơ sở kinh
doanh lợi dụng để kê khai,khấu trừ,hoàn thuế khống.Do đó,chúng ta nên bỏ
quy định khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % áp dụng đối với hàng hoá
là nông sản,lâm sản,thuỷ sản,chưa qua chế biến mua của người sản xuất
65
không có hoá đơn bán ra theo quy định tại điểm 1d,Điều 10 Luật thuế
GTGT.Trường hợp cần duy trì quy định này thì hạn chế đối tượng áp
dụng,chuyển sang áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ % tính trên thuế GTGT đầu ra
để tránh khấu trừ khống về số lượng và doanh số mua.Đây là biện pháp khắc
phục triệt để nhất nhưng sẽ gặp khó khăn do hiện nay đang áp dụng khấu trừ
thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ %,nếu bỏ quy định này các cơ sở kinh doanh
hàng hoá nông sản,lâm sản,thuỷ sản sẽ có phản ứng thắc mắc.
Cơ chế hoàn thuế đóng vai trò rất quan trọng trong chế độ thuế GTGT.
Việc đánh giá hiệu quả của hệ thống thuế GTGT chính là dựa vào hoạt động
của hoàn thuế được thực hiện như thế nào ,có kịp thời và không gây phiền hà
cho doanh nghiệp hay không.Do vậy,các quy định về hoàn thuế phải được sửa
đổi,bổ sung cho phù hợp.
Để quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế,cần thu hẹp lại đối tượng được hoàn
thuế,chỉ nên hoàn thuế cho trường hợp xuất khẩu mậu dịch có đủ thủ tục hồ
sơ quy định như hợp đồng xuất khẩu theo quy định tại điều 81 của Luật
thương mại,có thủ tục xác nhận của cơ quan hải quan về hàng hoá xuất
khẩu,thanh toán qua ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc tiền đồng có gốc ngoại tệ
và các trường hợp thanh toán khác theo quy định của Chính phủ.
Đối với hàng hoá xuất khẩu dưới hình thức mậu dịch thì chỉ cho xuất
khẩu qua một số cửa khẩu để tạo điều kiện cho cơ quan hải quan quản lý chặt
chẽ hàng hoá xuất khẩu,khắc phục hiện tượng lợi dụng làm thủ tục xác nhận
khống hàng hoá xuất khẩu để lập hồ sơ xin hoàn thuế GTGT.
Cần quy định các đối tượng được hoàn thuế phải được xác minh là cơ
sở kinh doanh đang hoạt động bình thường.
Về điều kiện hoàn thuế thì phải bắt buộc mọi đối tượng được hoàn thuế
phải có đủ các thủ tục theo quy định hiện hành và bổ sung đối với các cơ sở
kinh doanh xuất khẩu phải thanh toán chuyển khoản qua Ngân hàng.áp dụng
66
quy định này sẽ hạn chế gian lận khâu xuất khẩu nhưng các cơ sở kinh doanh
xuất khẩu hàng hoá theo đường biên giới đất liền hiện nay chủ yếu thanh toán
theo hình thức biên mậu bằng tiền mặt sẽ không được hoàn thuế.
Về thời hạn hoàn thuế nên sửa đổi kéo dài thời hạn hoàn thuế để cơ
quan thuế có đủ thời gian kiểm tra đối chiếu xác minh hoá đơn;bổ sung quy
định không khống chế thời gian hoàn thuế đối với các trường hợp có dầu hiệu
vi phạm quy định hoàn thuế.
Phải sửa đổi quy trình hoàn thuế GTGT theo hướng : phân loại đối
tượng được hoàn thuế theo các nhóm căn cứ vào ý thức chấp hành Luật thuế
GTGT.Chỉ áp dụng hoàn thuế theo kê khai và thực hiện kiểm tra sau hoàn
thuế đối với các đối tượng có ý thức chấp hành Luật thuế tốt.Các đối tượng có
vi phạm quy định Luật thuế thì chỉ thực hiện hoàn thuế sau khi đã kiểm tra
thanh tra.
3.7.Các quy định về quản lý thuế
Trước hết, cần tăng cường chế độ tự kê khai và nộp thuế,thúc đẩy tính
tự giác chấp hành luật thuế của các đối tượng.Nhà nước cần quy định rõ ràng
trách nhiệm tự giác kê khai và nộp thuế theo kê khai của các đối tượng,bỏ quy
định nộp thuế theo thông báo thuế,gây tâm lý cho các đối tượng chờ đợi thông
báo mới nộp thuế,trong khi do việc quản lý chưa được tốt mà hiện nay thông
báo thuế thường ra chậm,nhiều sai sót,dẫn đến việc các đối tượng chậm nộp
tiền thuế mà lại phải mất thời gian để điều chỉnh lại các sai sót với cơ quan
thuế.
Nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý để nâng cao hiệu quả thực tế của
các quy định về trách nhiệm hành chính,áp dụng hình phạt hành chính đối với
vi phạm về thuế,đảm bảo tính nghiêm minh của luật thuế,thực hiện cưỡng chế
đối với hành vi vi phạm.Các vi phạm ở mức độ vi phạm nghiêm trọng cần
phải xử lý bằng hình sự theo đúng quy định của pháp luật.
67
Về hệ thống hoá văn bản pháp luật thuế GTGT,việc hệ thống hoá các
văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Luật thuế GTGT vào một Thông tư
góp phần dễ tra cứu và thực hiện.Cần ban hành các quy định thống nhất và chi
tiết về xử lý khiếu nại thuế.
II./ Các biện pháp bảo đảm hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng
Để nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT,bên cạnh việc phải hoàn
thiện các quy định của pháp luật,chúng ta còn phải làm tốt công tác áp dụng
pháp luật,thể hiện được tinh thần của pháp luật và đạt được mục đích mà
pháp luật thuế GTGT đã đề ra :
1.Tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục,giải thích pháp
luật về thuế GTGT
Đi đôi với việc cải cách hành chính thuế,công tác tuyên truyền,giải
thích, giáo dục pháp luật về thuế GTGT cần được chú trọng hơn.
Một mặt,tuyên truyền,giải thích,giáo dục pháp luật về thuế GTGT cho
các đối tượng nộp thuế để họ có nhận thức được về pháp luật thuế,hiểu rõ
những quy định của pháp luật thuế thì họ mới thực hiện tốt được các quy
định đó,tạo thuận lợi cho chính họ cũng như cho cơ quan thuế trong quản lý
thu và nộp thuế,tránh được tình trạng do không hiểu biết mà khiếu nại,thắc
mắc thường xuyên.Việc tuyên truyền phổ biến rộng rãi kiến thức về thuế sâu
rộng trong các tầng lớp nhân dân cũng hết sức cần thiết,bởi vì người dân có
thể phản ánh kịp thời các bất cập trong các quy định của pháp luật, hạn chế
được tiêu cực từ phía cán bộ thuế,giám sát được việc thực hiện Luật thuế.
Bên cạnh đó,tuyên truyền giáo dục pháp luật còn góp phân nâng cao ý
thức tự giác tuân thủ pháp luật cho các đối tượng nộp thuế ,thực tế hiện nay
đa số các trường hợp vi phạm pháp luật thuế GTGT là do các đối tượng cố
tình vi phạm;với trình độ hiểu biết sâu rộng về luật thuế,các đối tượng luôn
lợi dụng những khe hở của pháp luật để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
68
Như vậy,để nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức tự giác chấp hành Luật
cho các đối tượng nộp thuế và nhân dân,đảm bảo được hiệu quả pháp luật
thuế GTGT chúng ta cần phải tăng cường tuyên truyền,giải thích,giáo dục
pháp luật về thuế GTGT với những nội dung chủ yếu sau :
Song song với việc tăng cường tuyên truyền giải thích pháp luật trên
các phương tiện thông tin đại chúng,nên đẩy mạnh các hình thức tuyên
truyền như tổ chức các buổi nói chuyện về pháp luật thuế GTGT,tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu về Luật thuế GTGT,để thông qua các đó, nhân dân cũng
như các đối tượng nộp thuế có cơ hội đi sâu vào tìm hiểu các quy định của
luật thuế,nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức,đảm bảo cho các đối tượng
thực hiện đúng các quy định của Luật thuế.
Bên cạnh đó,chúng ta tăng cường công tác giải thích,giáo dục pháp luật
cho từng đối tượng cụ thể,phải xây dựng một lực lượng cán bộ chuyến tư vấn
cho các đối tượng,giải quyết những thắc mắc về Luật thuế,đảm bảo cho các
đối tượng hiểu thông suốt về Luật thuế để họ có thể thực hiện tốt hơn các quy
định về thuế GTGT.
Cơ quan thuế cần nghiên cứu tổ chức riêng và có quy định về hoạt động
dịch vụ hướng dẫn và tư vấn về thuế của cơ quan thuế,nhằm giúp tuyên
truyền hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện đúng quy định của pháp luật
thuế một cách hiệu quả,tiết kiệm thời gian.Việc thiết lập bộ phận dịch vụ về
thuế để hỗ trợ đối tượng nộp thuế sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho
đối tượng,công khai và bình đẳng giữa các đối tượng và tạo điều kiện để thu
thuế một cách hiệu quả.
Tăng cường những bài viết có tính chất chuyên môn cao,in thành sách
những bài viết đó,để tạo điều kiện cho các đối tượng có nguồn tài liệu phục
vụ cho công tác nghiên cứu ,đi sâu vào tìm hiểu Luật thuế.
69
Ngoài ra,chúng ta cũng phải tổ chức một lực lượng trực tiếp tuyên
truyền,giải thích pháp luật về thuế GTGT đến từng hộ sản xuất,kinh
doanh,phải có chế độ khen thưởng thích đáng với những đối tượng thực hiện
tốt công tác tuyên truyền,giải thích pháp luật.
2.Tổ chức lại lực lượng cán bộ thuế
Trong thời gian qua,công tác về cán bộ của chúng ta nói chung còn
nhiều yếu kém,bên cạnh những cán bộ vững chắc về trình độ nghiệp vụ thì
còn những cán bộ có trình độ nghiệp vụ non kém và số lượng này hiện nay
không phải là ít,điều đó không đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế theo quy
trình mới trong việc cải cách chính sách thuế hiện nay là cần những cán bộ
có “chất lượng” chứ không cần số lượng.
Bên cạnh đó,trong đội ngũ cán bộ của chúng ta vẫn còn có những cán
bộ thoái hoá biến chất,tiếp tay cho các đối tượng thực hiện hành vi vi
phạm,chia chác những lợi ích có được do vi phạm pháp luật,chính những
hành vi tiếp tay đó đã tạo thuận lợi cho các đối tượng dễ dàng thực hiện hành
vi vi phạm,chiếm đoạt một nguồn tài sản khá lớn từ ngân sách nhà nước,đặc
biệt là trong tình hình hiện nay với sự bất cập trong các quy định của pháp
luật thì sự tiếp tay của các cán bộ thoái hoá biến chất không những không
hạn chế được các lỗ hổng của pháp luật mà còn mở rộng các lỗ hổng đó để
các đối tượng dễ dàng “ lọt qua”,điển hình là trong các vụ án về hoàn
thuế,các đối tượng không thể khấu trừ khống một cách dễ dàng nếu không có
sự tiếp tay của các cán bộ thuế.
Trước tình hình đó,đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại lực lượng cán bộ
thuế theo hướng :
Tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về công tác tổ chức
cán bộ cũng như công tác đào tạo cán bộ.
70
Nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ của lực lượng cán bộ thuế,phải tổ
chức thi công chức đầu vào một cách chặt chẽ để lựa chọn được những cán
bộ có trình độ nghiệp vụ cơ bản vững chắc,phải tổ chức các lớp đào tạo nâng
cao nghiệp vụ cán bộ thuế,khuyến khích các cán bộ thuế tự nâng cao trình độ
của mình,tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ đó và phải có chế độ chính
sách thích hợp đối với những cán bộ đó,cần xây dựng các quy định về tổ
chức đào tạo chuyên môn đội ngũ cán bộ ngành thuế,trường đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ thuế đảm bảo trình độ đội ngũ cán bộ thực sự được nâng cao.
Tiến hành cân nhắc,bổ nhiệm các chức vụ phù hợp với trình độ cán
bộ,tránh tình trạng những cán bộ không có trình độ lại giữ những chức vụ
lãnh đạo gây khó khăn cho công tác quản lý,không khuyến khích được các
cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Đáp ứng yêu cầu của cuộc cải cách hành chính hiện nay,chúng ta phải
tinh giảm những cán bộ không có trình độ nghiệp vụ,những cán bộ thoái hoá
biến chất,để tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế cũng như hiệu
quả áp dụng của pháp luật thuế nói chung,pháp luật thuế GTGT nói riêng.
Nhà nước cần thiết lập cơ chế lương và thưởng thoả đáng để đảm bảo
cán bộ thuế có thu nhập phù hợp với sức lao động bỏ ra,đồng thời quy định
trách nhiệm và các hình thức kỷ luật,truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc nhằm
ngăn ngừa việc cán bộ thuế thông đồng trốn thuế với đối tượng nộp thuế.
Tăng cường nâng cao phẩm chất đội ngũ cán bộ,đặc biệt là đối với
những cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo,không bao che cho cán bộ thuế có hành
vi vi phạm pháp luật,kiên quyết xử lý những trường hợp cán bộ tiếp tay cho
các đối tượng vi phạm,công bố công khai lỗi của cán bộ cũng như các hình
thức xử lý để thông qua đó răn đe những đối tượng có ý định vi phạm,tăng
cường tổ chức các lớp nâng cao ý thức,tư tưởng của người cán bộ.
71
Tăng cường phối hợp với tổ chức Đảng,Đoàn…nhằm giáo dục,nâng
cao phẩm chất cho đội ngũ cán bộ thuế,tác động tới những cán bộ thoái
hoá,biến chất để giáo dục,cải tạo họ có được phẩm chất tốt nhằm ngăn chặn
tình trạng cán bộ tiếp tay cho đối tượng thực hiện hành vi vi phạm,tạo niềm
tin của quần chúng nhân dân vào đội ngũ cán bộ thuế.
Ngoài ra,cũng cần phải giảm thiểu quan hệ trực tiếp giữa cá nhân cán
bộ thu thuế với đối tượng nộp thuế để tránh tình trạng đối tượng nộp thuế
dùng lợi ích vật chất tác động tới cán bộ thuế,làm biến chất những đối tượng
đó để thực hiện hành vi vi phạm,chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
3.Tăng cường công tác thanh tra,kiểm tra,xử lý nghiêm minh các trường
hợp vi phạm pháp luật thuế GTGT
Trong năm 2001 công tác thanh tra,kiểm tra việc chấp hành Luật thuế
đã đạt được kết quả khá,toàn ngành đã kiểm tra quyết toán thuế được 5.851
doanh nghiệp và 177.946 hộ cá thể với số thuế phải truy thu lên tới trên
486.023 triệu đồng.Riêng công tác thanh tra,kiểm tra sau hoàn thuế được
1.268 doanh nghiệp với số tiền thuế phải thu hồi là 40.079 triệu đồng.Thông
qua công tác thanh tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng
hoàn thuế GTGT rút tiền Ngân sách nhà nước.Tuy nhiên khi thực hiện thanh
tra,kiểm tra sau hoàn thuế có một số cán bộ thuế ở địa phương chưa thực hiện
đúng quy định và quy trình nghiệp vụ của Bộ tài chính và Tổng cục thuế ban
hành,cơ quan pháp luật đã khởi tố điều tra cán bộ thuế liên quan đến việc sai
phạm trong hoàn thuế GTGT của doanh nghiệp.
Để tránh các trường hợp sai phạm xảy ra và thực hiện tốt nhiệm vụ của
ngành thuế trong những năm tới,phải tăng cường công tác thanh tra,kiểm tra
theo các hướng sau :
Tổ chức quán triệt các nội dung chỉ đạo của Bộ tài chính và Tổng cục
thuế về công tác thanh tra,kiểm tra các đối tượng nộp thuế cho toàn thể cán
72
bộ thuế có liên quan đến công tác thanh tra và quản lý như : Quy trình nghiệp
vụ kiểm tra,thanh tra báo cáo quyết toán thuế tại cơ sở kinh doanh;Quy trình
nghiệp vụ kiểm tra,thanh tra việc hoàn thuế GTGT và các văn bản,chỉ thị của
Tổng cục hướng dẫn việc kiểm tra,thanh tra sau hoàn thuế…
Tập trung vào thanh tra,kiểm tra những đối tượng thuộc các ngành,các
lĩnh vực,các khâu,các địa bàn có dấu hiệu vi phạm,phải thường xuyên tổ
chức các đoàn thanh tra chủ động tiến hành kiểm tra quyết toán thuế trực tiếp
tại các doanh nghiệp theo quy định hiện hành.
Đặc biệt,trong công tác hoàn thuế,phải đẩy mạnh thanh tra,kiểm tra hoá
đơn chứng từ,sổ sách của đối tượng xin hoàn thuế nhằm phát hiện kịp thời
các sai phạm của đối tượng để có biện pháp xử lý phù hợp,đối với đối tượng
có dấu hiệu vi phạm thì tiến hành thanh tra kiểm tra trước rồi mới hoàn thuế
sau.
Bên cạnh đó,Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra thuế trên cơ
sở xác định các trường hợp vi phạm hoặc nghi ngờ có vi phạm : không kê
khai,chậm kê khai,kê khai sai,không nộp đủ số thuế;tăng cường hoạt động
thanh tra kiểm tra sau thuế (hậu kiểm) nhằm phát hiện ngăn chặn,đồng thời
có tính răn đe,giáo dục đối tượng nộp thuế chấp hành quy định của pháp luật
tự giác kê khai nộp thuế đúng,đủ.
Đối với các đối tượng có hành vi vi phạm thì ngoài việc phải xử lý theo
quy định của pháp luật ,chúng ta phải có biện pháp giáo dục về mặt tư tưởng
đối với các đối tượng này,để họ có ý thức tự giác tuân thủ pháp luật hơn,còn
đối với những trường hợp vi phạm có tính chất điển hình thì phải xử lý
nghiêm minh để làm gương cho các đối tượng khác,ngăn ngừa những hành vi
vi phạm có thể xảy ra.
4.Tăng cường công tác quản lý hoá đơn,chứng từ
73
Thực tế áp dụng Luật thuế GTGT cho thấy,công tác quản lý hoán
đơn,chứng từ của cơ quan thuế chưa được chặt chẽ,hàng năm Bộ tài chính
phát hành khoảng 6 triệu quyển hoá đơn nhưng chính bản thân Bộ tài chính
cũng không kiểm soát được chính xác số lượng hoá đơn được lưu thông trên
thị trường,đối với những hoá đơn đã phát hành nhưng không được sử
dụng,cơ quan thuế cũng không có biện pháp để thu hồi, và với số lượng hoá
đơn lớn như vậy cơ quan thuế cũng không thể kiểm soát được sự lưu hành
của chúng trên thị trường do đó các đối tượng có thể lợi dụng để mua
bán,trao đổi hoá đơn cho nhau dẫn đến tình trạng các đối tượng thường mua
hoá đơn về để khai khống số lượng hoá đơn,chiếm đoạt tiền từ Ngân sách
nhà nước thông qua các chế đố hoàn thuế,khấu trừ thuế.
Mặt khác,với chế độ khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn,nếu
không có biện pháp quản lý chặt chẽ sẽ gây khó khăn rất nhiều trong việc
thực hiện chế độ thuế GTGT.
Do vậy,yêu cầu hiện nay là phải tăng cường quản lý chặt chẽ hoá đơn
chứng từ theo các hướng sau :
Tổ chức thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về quản lý hoá đơn
chứng từ,tuân thủ đúng pháp luật về việc ghi chép hoá đơn cũng như công tác
thanh tra,kiểm tra việc sử dụng hoá đơn…Đẩy mạnh việc đối chiếu,xác minh
hoá đơn GTGT(mua,bán),đảm bảo độ chính xác cao và thời gian đối
chiếu.Thường xuyên kiểm tra việc sử dụng,quản lý hoá đơn và thực hiện
nghiêm chế độ quản lý,sử dụng hoá đơn bán hàng.Khuyến khích các doanh
nghiệp tự in hoá đơn theo thông báo của Tổng cục thuế.
Đối với việc in,ấn hoá đơn chứng từ,cơ quan thuế phải kiểm soát chặt
chẽ hơn nữa số lượng phát hành ra mỗi năm,kiểm soát chặt chẽ số lượng hoá
đơn của từng doanh nghiệp và việc sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp
đó.Đối với trường hợp doanh nghiệp tự in hoá đơn thì cơ quan thuế phải
74
kiểm soát được mẫu hoá đơn đó và số lượng hoá đơn mà doanh nghiệp phát
ra.
Cơ quan thuế phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng hoá đơn trên thị
trường,phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp mua bán hoá đơn,phải áp
dụng những chế tài thật nặng đối với những doanh nghiệp mua, bán hoá đơn
GTGT.
5.Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng khác để phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm
Trong thời gian vừa qua,việc phát hiện và xử lý các trường hợp vi
phạm pháp luật về thuế GTGT gặp rất nhiều khó khăn,bởi vì chưa có sự phối
hợp giữa các cơ quan chức năng với nhau,cơ quan thuế có kỹ năng nghiệp vụ
có thể phát hiện ra vi phạm thì lại không có thẩm quyền giải quyết ngay mà
chỉ được phép đề nghị với cơ quan có thẩm quyền để cơ quan đó giải quyết
nhưng đến khi cơ quan có thẩm quyền ra tay thì các đối tượng đã tìm mọi
cách để đối phó gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc tìm ra
bằng chứng vi phạm của đối tượng.
Đặc biệt là trong tình hình hiện nay,nếu không có sự phối hợp với các
cơ quan chức năng của các nước,đặc biệt là đối với các nước láng giềng có
chung đường biên giới như Trung Quốc,Lào,Campuchia,thì việc phát hiện ra
các thủ đoạn gian lận trong trường hợp xuất khẩu khống để được hoàn thuế
là rất khó khăn.
Trước tình hình đó,cơ quan thuế phải tăng cường phối hợp với các cơ
quan chức năng như : Hải quan,Viện kiểm sát,Công an…nhằm phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế GTGT.
Các cơ quan chức năng phải thường xuyên trao đổi bàn bạc với nhau về
công tác nghiệp vụ,biện pháp phối hợp và hướng xử lý đối với các trường
hợp vi phạm,phải nắm bắt được tình hình thực hiện Luật thuế.
75
Bênh cạnh đó phải phối hợp với cơ quan chức năng nước ngoài để kiểm
soát chặt chẽ các trường hợp xuất khẩu hàng hoá,dịch vụ ra nước ngoài nhằm
ngăn chặn tình trạng lợi dụng chế độ hoàn thuế đối với hàng hoá,dịch vụ xuất
khẩu để khai khống,xuất khẩu khống chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
6.Tăng cường trang bị máy tính đáp ứng yêu cầu quản lý thuế theo quy
trình mới
Để hội nhập với khu vực cũng như với thế giới,thì yêu cầu của cải cách
chính sách thuế là tiến hành quản lý thuế theo quy trình mới là rất cần
thiết,nhất là trong tình hình hiện nay,”sự bùng nổ” của công nghệ thông tin đã
tác động phần nào tới yêu cầu này.Quản lý thuế theo quy trình cũ với đa số
các khâu được thực hiện thủ công không còn phù hợp nữa và kém hiệu quả
hơn so với quản lý thuế bằng máy tính,việc tính toán số thuế,kiểm tra việc ghi
chép sổ sách,hoá đơn chứng từ của đối tượng nộp thuế…được dễ dàng,thuận
tiện hơn, các cơ quan thuế địa phương có thể tra cứu dễ dàng các số liệu được
lưu trữ trong máy,thông tin về đối tượng nộp thuế…thông qua mạng máy
tính.
Bên cạnh đó,các cơ quan thuế ở các địa phương có thể dễ dàng trao đổi
kinh nghiệm với nhau thông qua mạng máy tính cục bộ,cơ quan thuế của Việt
Nam có thể dễ dàng phối hợp với cơ quan thuế các nước thông qua mạng máy
tính toàn cầu.
Do vậy,để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế theo quy trình mới,Nhà nước
phải tăng cường trang bị máy tính cho cơ quan thuế,tiến hành tổ chức các
mạng liên kết cục bộ,liên kết quốc tế cho cơ quan thuế.
Tăng cường các lớp đào tạo cho cán bộ thuế làm quen với việc quản lý
thuế bằng máy tính,đẩy mạnh việc sử dụng máy tính trong việc quản lý thuế.
76
Kết Luận
Nâng cao hiệu quả pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế GTGT
nói riêng là một yêu cầu tất yếu để đáp ứng được với sự phát triển kinh
tế,nhằm thúc đẩy phát triển gắn liền với xu thế cải cách chính sách thuế trên
thế giới và xu hướng toàn cầu hoá,khu vực hoá ngày càng mạnh mẽ.Quá trình
này phải được tiến hành một cách nhanh chóng,do đó đòi hỏi phải có sự đánh
giá chính xác các quy định của pháp luật hiện hành và rút ra những kinh
nghiệm thông qua việc đánh giá những thực tế phát sinh trong quá trình áp
dụng luật thuế.Các kiến nghị cũng phải đảm bảo có tính khả thi,phù hợp với
tình hình nước ta và tuân thủ các nguyên tắc chung của pháp luật.
Trên cơ sở đó,với đề tài : “ Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật
thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay “ ,luận văn này đã tập trung vào giải
quyết được những vấn đề sau :
Thứ nhất,tập trung làm rõ được những vấn đề có tính chất lý luận
chung về pháp luật thuế GTGT trong đó có đánh giá,so sánh mô hình thuế
GTGT của một số nước điển hình.Phân tích,làm rõ được vấn đề hiệu quả pháp
luật và các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật.
Thứ hai,trên cơ sỏ những nghiên cứu ở phần lý luận chung về thuế
GTGT,luận văn đã nghiên cứu đánh giá được những kết quả đã đạt được và
những mặt còn tồn tại trong các quy định của pháp luật hiện hành về thuế
GTGT,nêu và chứng minh được những vấn đề thực tế phát sinh trong quá
trình áp dụng do những bất cập trong các quy định về chế độ thuế và những
yếu kém trong công tác áp dụng Luật thuế.
Thứ ba,trên cơ sở các đánh giá của phần trên,luận văn đã kiến nghị một
số biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT cần thực hiện
trong thời gian tới.
77
Trong khuôn khổ một luận văn cử nhân thì việc giải quyết các vấn đề
đánh giá pháp luật và kiến nghị các biện pháp bảo đảm còn gặp khó khăn và
chưa đạt được mục đích mong muốn,do đó những nội dung như vậy phải
được nâng lên nghiên cứu ở cấp độ cao hơn để đảm bảo độ chính xác của sự
đánh giá và tăng tính khả thi của các kiến nghị.Tuy nhiên,tác giả luận văn vẫn
hy vọng rằng những nghiên cứu trên đây sẽ có những đóng góp nhất định
trong việc nhận thức và hoàn thiện pháp luật thuế GTGT đáp ứng yêu cầu của
cải cách chính sách thuế và nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT ở Việt
Nam trong giai đoạn tới.
78