Báo cáo tốt nghiệp

"Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông

nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân".

Mục lục

Chương I: tổng quan về hoạt động tin dụng của Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thươngmại trong nền kinh tế thị trường ......................

Khái niệm về Ngân hàng thương mại .........................................

Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại .....................

Hoạt động huy động vốn ..................................................................

Mua, bán ngoại tệ .............................................................................

Hoạt động cho vay ............................................................................

Bảo lãnh tài sản hộ ...........................................................................

Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán ............

Quản lý ngân quỹ .............................................................................

Tài trợ các hoạt động của Chính phủ ..............................................

Bảo lãnh ............................................................................................

Cho thuê trang thiết bị trung và dài hạn.........................................

Cung cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn .....................................................

Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán .........................................

Cung cấp dịch vụ bảo hiểm ..............................................................

Cung cấp dịch vụ đại lý ....................................................................

Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại .............................

Vai trò của hoạt động tín dụng đối với Ngân hàng thương mại .

Các hình thức tín dụng ngân hàng ..................................................

Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn ...................................................

Căn cứ vào tài sản thế chấp .............................................................

Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng ..............................................

Căn cứ vào xuất xứ tín dụng ............................................................

Thời gian cho vay .............................................................................

Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại ...........................

Quan điểm về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại ....

Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân

hàng thương mại ........................................................................................

Hiệu suất sử dụng vốn ......................................................................

Vòng quay tín dụng ..........................................................................

Hệ số an toàn vốn lưu động ..............................................................

Tỷ lệ nợ quá hạn ...............................................................................

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng của

Ngân hàng thương mại ...............................................................................

Nhân tố thuộc về môi trường kinh tế ..............................................

Nhân tố thuộc về môi trường pháp lý..............................................

Nhân tố thuộc về phía Ngân hàng ...................................................

Nhân tố thuộc về khách hàng ..........................................................

Nhân tố khách quan .........................................................................

Sự cần thiết nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng

thương mại ..................................................................................................

Đối với chủ thể vay vốn ....................................................................

Đối với ngân hàng ............................................................................

Đối với nền kinh tế ...........................................................................

Chương II: thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNO quận Thanh Xuân

Tổng quan về NHNo Thanh Xuân

Quá trình hình thnàh và phát triển

Cơ cấu tổ chức của NHNo Thanh Xuân

Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo Thanh Xuân năm 2004

Công tác huy động vốn

Tình hình đầu tư vốn tín dụng năm 2004

Hoạt động khác

Bảo lãnh

Thanh toán quốc tế

Hoạt động dịch vụ

Hoạt động ngân quỹ

Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo Thanh Xuân

Huy động vốn

Tình hình sử dụng vốn

Hoạt động tín dụng theo thời gian

Hoạt động tín dụng theo thành phần kinh tế

Tình hình thu nợ

Đánh gía chất lượng tín dụng

Những kết quả đạt được

Hiệu suất sử dụng vốn

Tỷ lệ nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn theo thời gian

Tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế

Chỉ tiêu thu nhập

Những hạn chế và nguyên nhân

Những hạn chế

Nguyên nhân tồn tại những hạn chế đó

Môi trường kinh tế chưa ổn định

Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện

Nhân tố xuất phát từ Ngân hàng

Nhân tố xuất phát từ phía khách hàng

Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân

hàng nông nghiệp Thanh Xuân

Định hướng phát triển đối với hoạt động tín dụng tại NHNo Thanh

Xuân

Định hướng phát triển đến năm 2005

Định hướng phát triển trong những năm tới

Công tác nguồn

Sử dụng vốn

Chiến lược khách hàng

Công nghệ Ngân hàng

Nhân tố con người

Quản trị điều hành

Giải pháp ngân cao chất lượng hoạt động tín dụng tại NHNO

Thanh Xuân

Công tác huy động vốn

Cho vay và thu nợ

Chất lượng thẩm định tín dụng ngăn hạn

Thực hiện thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác

Phân tích tài chính đơn vị vay vốn

Đánh giá khả thi phương án sản xuất kinh doanh

Xử lý các khoản nợ quá hạn

Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý

Với vốn ngắn hạn

Với vốn trung và dài hạn

Tăng cường giám sát khoản vay

Đa dạng hoá hình thức tín dụng

Phân loại khách hàng

Thực hiện chiến lược Marketing Ngân hang

Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tín dụng

Nâng cao trang thiết bị, công nghệ ngân hàng

Kiến nghị

Đối với Ngân hàng nông nghiệp Thanh Xuân

Đối với NHNo Viẹt nam

Đối với Ngân hàng Nhà nước

Đối với Nhà nước

Kết luận

Lời mở đầu

Trong những năm vừa qua, cùng với những thành tựu đổi mới của

đất nước, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc,

đóng góp tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng đồng thời, nền kinh tế vận hành theo

cơ chế thị trường, cùng với việc tạo ra triển vọng và điều kiện thuận lợi cho

các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngân hàng nói riêng, thì

còn nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt.

Đối với hệ thống Ngân hàng, rủi ro tín dụng như là vật cản trong

hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tháo gỡ những khó khăn và hướng

tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận được xem là chiến lược kinh doanh của

ngân hàng.

Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó

đem lại khoảng 80- 95% lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại.

Trong lĩnh vực tín dụng, hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng

thương mại là chỉ tiêu tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt

động Ngân hàng. Khi hiệu quả cho vay đạt ở mức cao sẽ tạo ra động lực

cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cùng hoạt động sản xuất của

toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, khi đồng vốn tín dụng không được sử dụng

tốt sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không ổn định và suy

yếu.

Chất lượng tín dụng hiện nay đang là mối quan tâm không chỉ đối với

nhà quản lý điều hành Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội.

Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài"Nâng cao chất

lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận

Thanh Xuân".

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về Ngân hàng thơng mại, làm

rõ vai trò của tín dụng trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại, từ đó

cho thấy tầm quan trọng của chất lượng tín dụng và ý nghĩa của công tác

nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.

Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại

NHNo&PTNT quận Thanh Xuân để thấy được những mặt mạnh cần phát

huy, đồng thời phát hiện những vấn đề còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân cơ

bản của vấn đề để có những giải pháp nhằm củng cố, nâng cao chất lượng

hoạt động tín dụng, đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh

doanh Ngân hàng.

Đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo &PTNT quận

Thanh Xuân " được kết cấu làm 3 chương, ngoài lời nói đầu và kết luận:

Chương I: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương

mại.

Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông

Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn quận Thanh Xuân

Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại

NHNo&PTNT quận Thanh Xuân.

Chương I: tổng quan về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương

mại

1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường

1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại

Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát

triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và

đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình sự phát triển của hệ thống

ngân hàng là động lực thúc đẩy nền kinh tế.

Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các

thợ vàng. Cùng với việc phát triển của nền kinh tế đòi hỏi việc trao đổi giữa

đồng tiền của khu vực này với khu vực khác, giữa quốc gia này với quốc gia

khác- đây là tiền đề cho nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ.

Sự không thường xuyên và cùng một lúc giữa người gửi tiền và người

lấy tiền ra đã tạo ra số dư trong két của các nhà buôn tiền. Do tính chất vô

danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tam thời một phần tiền gửi của

khách hàng để cho vay. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân

hàng huy động được ngày càng thu hút nhiều tiền gửi vào, là điều kiện để mở

rộng cho vay. Thuật ngữ ngân hàng ngày càng gần gủi với người dân đặc biệt

những người có nhu cầu vay tiền và tạm thời dư tiền. Nhưng chưa có phân

định giữa ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng phát hành.

Đến cuộc khủng hoảng nền kinh tế 1929-1933 các quốc gia thấy rằng

cần phải quản lý việc phát hành tiền một cách chặt chẽ hơn. Các quốc gia lần

lượt quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành hoặc thành lập các ngân hàng phát

hành thuộc sở hữu Nhà nước... Từ đó khái niệm Ngân hàng Trung Ương và

Ngân hàng thương mại được tách bạch rõ ràng.

Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm về ngân ngân hàng nói chung và sau đó

là về ngân hàng thương mại.

Có rất nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng, có thể thông qua chức

năng, các dịch vụ hoặc vai trò của chung thực hiện trong nền kinh tế.

Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên

phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ

chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc

biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng

tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.

Một cách tiếp cận dựa khác trên các hoạt động chủ yếu- theo luật các tổ

chức tín dụng của nước Việt Nam:"Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh

doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền

gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh

toán".

Ngân hàng thương mại(NHTM) cũng thực hiện kinh doanh tiền tệ và

dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi của khách

hàng sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh

toán.

Như vậy, ta có thể hiểu được NHTM là:"NHTM là loại hình tổ chức

tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng

với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín

dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và thực hiện các hoạt động kinh

doanh khác có liên quan".

1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Huy động vốn:

Đây là hoạt động đặc trưng của NHTM, Ngân hàng có thể huy động

vốn dưới các hình thức sau đây:

- Huy động tiền của các doanh nghiệp và dân cư: Ngân hàng được

nhận tiền gửi dưới các hình thức.

Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra

sử dụng bất kỳ lúc nào, bộ phận tiền gửi này bao gồm: Tiền gửi thanh toán

được bảo quản trên tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không

kỳ hạn.

Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có quy định cụ thể thời gian rút

tiền của khách hàng. Nó có thể là tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp

hay các tầng lớp dân cư trong xã hội.

- Huy động vốn trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng:

NHTM có thể huy động vốn trên thị trường liên Ngân hàng dưới các

hình thức tiền gửi có kỳ hạn hoặc ký hợp đồng vay vốn có đảm bảo bằng tài

sản. NHTM có thể vay vốn NHTW mà cụ thể là xin tái cấp vốn và từ các tổ

chức tài chính, tín dụng quốc tế.

- Huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá:

Cùng với việc huy động tiền gửi, Ngân hàng còn huy động vốn bằng

các hình thức khác: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu

- Huy động vốn bằng các hình thức khác:

Ngoài ra NHTM còn huy động các nguồn vốn từ các nguồn khác như:

vốn trong thanh toán và vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý.

1.1.2.2. Mua, bán ngoại tệ

Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao

đổi(mua, bán) ngoại tệ: Mua, ban một loại tiền này lấy một loại tiền khác và

hưởng phí dịch vụ.

1.1.2.3. Cho vay:

Đây là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận của NHTM. NHTM cho

vay đối với các đơn vị kinh tế nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh

của đơn vị được liên tục, công nghệ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng được

đầu tư đổi mới nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Hoạt động này thường được NHTM thực hiện dưới các hình thức sau

đây:

- Cho vay thương mại

- Cho vay tiêu dùng

- Tài trợ cho dự án

1.1.2.4. Bảo quản tài sản hộ

Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các

tài sản khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài

sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của

khách hàng.

1.1.2.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh

toán:

Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo

quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng.Thanh toán qua

ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi

tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả

cho khách hàng, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền-

đó gọi là dịch vụ cung cáp tài khoản cho khách hàng. Dịch vụ này ngày

càng được sử dụng một cách rộng rãi và tiện ích đối với khách hàng cũng

như ngân hàng

1.1.2.6. Quản lý ngân quỹ

Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh

nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với

nhiều khách hàng và uy tín cũng như kinh nghiệm nên nhiều ngan hàng đã

cung cấp các dịch vụ quản lý ngân quỹ của khách hàng, quản lý thu chi và

tiến hành đầu tư phần thặng dư tạm thời nhàn rỗi.

1.1.2.7. Tài trợ các hoạt động của Chính Phủ

Ngân hàng có khả năng huy động lớn và cho vay lớn vì thế trở thành

trọng tâm của Chính phủ khi có nhu cầu chi tiêu tạm thời hoặc lớn. Chính

phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng.

Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các

ngân hàng, ngân hàng cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách

của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái

phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân

hàng huy động được.

1.1.2.8. Bão lãnh:

Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và

do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín

trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo

lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho

khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng

khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…

1.1.2.9. Cho thuê trang thiết bị trung và dài hạn(leasing)

Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là thiết bị có giá trị lớn,

nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách

hàng có thể mua. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa

chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,

trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.

1.1.2.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn

Hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có

rất nhiều uy tín cung như kinh nghiệm. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh

nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ.

Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ

thác phát hành, uỷ thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là

người được uỷ thác di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời.

Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.

Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập,

mua bán, sáp nhập doanh nghiệp…

1.1.2.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán

Đây là dịch vụ ngân hàng mà ngân hàng bán các nghiệp vụ mua bán

chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và

các chứng khoán khác. Ngày nay một số ngân hàng thành lập, tổ chức ra

các công ty chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.

1.1.2.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm

Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,

điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàngbị chết, bị tàn

phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng

liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con người,

ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an

sinh, tiết kiệm hưu trí…

1.1.2.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý

Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi

nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ

ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ

chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.

1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.2.1. Vai trò của hoạt động tín dụng đối với NHTM

Sau gần hai mươi năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng

rõ rệt, đời sống cải thiện, đưa lại sự phồn vinh cho đất nước. Để đạt được

những kết quả đó phải kể đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát

triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng

trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp

phát thay ngân sách. Vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất

thì không có, nhưng có nơi lại ứ đọng vốn. Ngày nay khi chuyển sang nền kinh

tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng

như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu

quả, giúp cho nền kinh tế ngày một phát triển. Ta tìm hiểu về vai trò của tín

dụng:

1.2.1.1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn

nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:

Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp

phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài

chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn

tiền tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan

hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.

Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận,

các ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi

tức thu được của các ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt

động tín dụng và các dịch vụ của ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng

là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của ngân hàng.

Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của ngân

hàng. Ơ đây các ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân

và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp

lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể"thừa" vốn có cơ hội

không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập(thu lãi), còn đối với chủ thể

thiếu vốn, tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản

xuất, kinh doanh hoặc đời sống.

Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các

nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản

xuất được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung

và phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc

dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho

các doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương

án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của

doanh nghiệp...

Như vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát,

thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

1.2.1.2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản

xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển:

Có thể nói tín dụng ngân hàng là một nguồn cơ bản của các doanh

nghiệp nhằm mở rộng tái sản xuất. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với

sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh

nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Tín dụng ngân hàng là

nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh

nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng, tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình

thành cơ cấu vốn hợp lý cho các doanh nghiệp. Muốn vậy các ngân hàng cần

phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình

những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các

thành phần kinh tế. Có như vậy các ngân hàng mới có thể đáp ứng một cách

tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình tái

sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.

1.2.1.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều

hoà lưu thông tiền tệ:

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng

đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra

khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ. Như vậy, NHTM đã can thiệp vào việc

điều hoà lưu thông tiền tệ. Mặt khác, nhằm kiểm soát việc tạo tiền của NHTM,

Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh thông qua các công cụ của mình. Và

kết quả là lượng tiền trong lưu thông có sự thay đổi. Do đó sự vận động của

vốn tín dụng là phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức

điều hoà lưu thông tiền tệ.

Hơn nữa, quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc

thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông

trôi nổi trên thị trường mà không có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích

ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát -

một vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng

nhanh.

Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà

vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

1.2.1.4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành

chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn:

Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay,

Ngân hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay

vốn dựa trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt

cho vay ngân hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản

của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế

đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc

biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong đó

nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như

vậy muốn vay được vốn các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán

thật tốt. Tất cả những công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có

hiệu quả, Ngân hàng có khả năng thu hồi được vốn.

Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn

trả cả gốc lẫn lãi. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải

cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử

dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh

doanh của đơn vị. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng

cam kết thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy, các

đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử

dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành

nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều

này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán

một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng

vốn tín dụng.

1.2.1.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho

các ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển:

Mục tiêu hoạt động của các Ngân hàng là an toàn và sinh lời. Vì thế khi

cung cấp tín dụng Ngân hàng luôn phải cân nhắc những rủi ro sao cho đó là

tối thiểu. Nhưng không phải tất cả các chủ thể có nhu cầu vay đều được Ngân

hàng đáp ứng, bởi để tránh rủi ro tín dụng các Ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư

vào các đơn vị có đủ các điều kiện.

Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước ta hiện nay phần lớn dân số sống

bằng nông nghiệp. ở hầu hết các tỉnh miền núi, nông thôn vấn đề đưa máy

móc vào nông nghiệp còn rất hạn chế. Vì vậy, thông qua công tác tín dụng,

Nhà nước cần tập trung vào phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu

cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế

khác.

Bên cạnh đó nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Bởi vậy chúng ta cần phải tập trung vào việc phát triển các ngành mũi

nhọn như: công nghiệp chế biến, dầu khí... và tín dụng ngân hàng là một

trong những yếu tố cơ bản góp phần quan trọng vào việc phát triển các

ngành này điều đó được thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án, các

chương trình trọng điểm để khai thác triệt để nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch

vụ. Với một chính sách tín dụng và mức lãi suất hợp lý sử dụng trong việc

khuyến khích phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn sẽ là một công cụ

linh hoạt tích cực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần đẩy

nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách vững

chắc.

1.2.1.6. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội:

Trong những năm qua với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà

nước; nước ta đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng

kể như: Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, tăng thu nhập, đời sống nhân dân

được cải thiện... Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã nẩy

sinh các vấn đề xã hội lớn: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, chênh

lệch giữa nông thôn và thành thị, tham nhũng có dấu hiệu gia tăng cả về quy

mô và số lượng, thất nghiệp ở tỷ lệ cao... Nhận thức sâu sắc thực trạng này,

các nghị quyết của Đảng luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng

trưởng với công bằng, giải quyết các yêu cầu về công bằng và tiến bộ xã hội

ngay trong từng bước tăng trưởng và tín dụng ngân hàng được sử dụng như

một công cụ để khắc phục tình trạng này.

Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần dần

khắc phục được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung

nguồn vốn cho một vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt

tới một mục tiêu nào đó. Tín dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi

với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường gọi là lãi suất ưu đãi.

Bằng cách các ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho

người nghèo, người khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất

kinh doanh, áp dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường từ đó tăng thu nhập.

Với mức lãi suất ưu đãi, tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn trong việc giúp

người nghèo tự vươn lên, tự giải quyết được tình trạng nghèo đói của mình.

Ngoài ra các cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề

làm sao để vốn được sử dụng đúng mục đích là phát triển sản xuất, cải tiến kỹ

thuật để tăng thu nhập, tránh rủi ro cho Ngân hàng không thu hồi được vốn...

Trong điều kiện hiện nay chúng ta hy vọng rằng tín dụng ngân hàng sẽ

phát huy tốt vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nguồn lực để giải

quyết các vấn đề xã hội theo hướng chủ động, tích cực, phù hợp với kinh tế thị

trường.

1.2.1.7. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối

ngoại:

Ngày nay khi tất cả các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng chuyển

từ đối đầu sang đối thoại thì việc phát triển kinh tế không chỉ bó hẹp trong

phạm vi đất nước mình mà phải hoà vào sự phát triển chung của các quốc gia

trong khu vực và trên thế giới.

Tín dụng ngân hàng đã trở thành một phương tiện nối liền nền kinh tế

các nước với nhau. Đặc biệt là các nước đang phát triển nói chung và Việt

Nam nói riêng. Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc xuất nhập khẩu

hàng hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Sở dĩ nó có một tầm quan trọng như vậy

là bởi các hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn đặc biệt là vốn

ngoại tệ mà chính bản thân một tổ chức hay một cá nhân không thể có được.

Vì vậy, mà tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ đắc lực cho các nhà đầu

tư, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Hơn nữa nếu Ngân hàng có

một chính sách tín dụng đúng đắn thì nó sẽ có tác động tích cực tới hoạt động

xuất nhập khẩu. Một chính sách tín dụng ưu đãi đối với các sản phẩm xuất

khẩu sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá này trên thị trường quốc tế,

nâng cao vị thế của quốc gia.

Sự phát triển của hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tài chính quốc tế,

các quỹ tiền tệ quốc tế và các ngân hàng nước ngoài với chính phủ Việt Nam

sẽ góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta có những bước tiến

vượt bậc để có thể có khả năng hội nhập với các tổ chức kinh tế trong khu vực

và trên thế giới.

1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng:

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân

hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để

có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa

dạng hóa danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi

nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.

Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà có thể tiến hành phân loại các hình

thức tín dụng ngân hàng khác nhau:

1.2.2.1. Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:

- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và

xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại

dịch vụ.

- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ

sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệp, thương

mại, dịch vụ.

- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản

xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động...

- Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu

tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực

hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát

hành thẻ tín dụng.

1.2.2.2. Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân

hàng sau:

- Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách

hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.

+ Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách

hàng mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng

bảo quản, trong suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng

nhượng bán, cho thuê...

+ Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của

khách hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không

cần mang đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có

quyền bán và cho thuê.

- Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên

cơ sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng.

Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của

tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.

1.2.2.3. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:

- Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng

được cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...

- Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.

1.2.2.4. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:

- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và

khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.

- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc

mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời

hạn thanh toán gồm các hình thức:

1.2.2.5. Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:

- Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12

tháng. Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của

cá nhân...

- Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12

tháng đến 60 tháng. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài

sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công

nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.

- Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở

lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi

mới công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới, với thời gian

thu hồi vốn lâu...

1.3. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.3.1. Quan điểm về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương

mại

Tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn theo nguyên tắc hoàn

trả giữa một bên là Ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế các tổ chức

xã hội và dân cư.

Hoạt động tín dụng phát sinh từ rất lâu trong lịch sử nhân loại, cùng

với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, các quan hệ tín dụng ngày càng

được phát triển và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế

quốc dân.

Nhờ khả năng về nguồn lực, khả năng huy động vốn rất lớn của Ngân

hàng, tín dụng Ngân hàng đã trở thành "bà đỡ" lý tưởng trong việc đáp ứng

nhu cầu vay vốn của các đơn vị, tổ chức kinh tế để phục vụ sản xuất, kinh

doanh và thúc đẩy lưu thông hàng hoá đóng góp phần làm tăng năng lực sản

xuất, khả năng cạnh tranh và phát triển của các lực lượng kinh tế, và nó là

một trong những động lực cơ bản, mang tính quyết định, tạo ra sức bật và

sự tăng trưởng bền vững, ổn định cho nền kinh tế quốc dân.

Nhưng bên cạnh đó hoạt động tín dụng luôn gắn liền và có mối quan

hệ hữu cơ với hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn

cho nên kinh doanh tín dụng là một nghề đặc thù luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố

rủi ro nhất, vì ngoài việc phải đối đầu với những rủi ro nảy sinh trong thị

trường tín dụng (do thay đổi chủ trương, chính sách kinh tế, sự biến động

của thị trường... có thể tổn thất trong cho vay) thì Ngân hàng còn phải gánh

chịu rủi ro của người vay vốn.

Do đó, bất cứ NHTM nào cũng đặt chất lượng tín dụng là vấn đề

quan tâm hàng đầu, nó ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại hay suy vong của một

Ngân hàng.

Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng phù hợp

với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của

ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và bảo đảm từ hai phía là

Ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy, chất lượng hoạt động TD của Ngân

hàng không những phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh nghiệp

mà còn phụ thuộc vào khả năng đáp ứng cao nhất các nhu cầu hợp pháp của

khách hàng từ phía Ngân hàng

Chất lượng tín dụng còn là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh

mức độ thích nghi của NHTM đối với sự thay đổi của môi trường bên

ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh

để tồn tại. Như vậy chất lượng tín dụng là gì?

"Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu

cầu của khách hàng(người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng,

đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho ngân hàng phù

hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội "

1.3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng:

Với số lượng NHTM ngày càng gia tăng, tính cạnh tranh được thể

hiện ngày càng mạnh mẽ. Do đó, đối với mỗi Ngân hàng phải tìm cho mình

một nét riêng, một hướng đi để phù hợp với môi trường thể hiện sức mạnh

của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh.

Để phân tích, đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh tháng,

hàng quý, hàng năm, trong từng thời kỳ, chúng ta phải sử dụng các chỉ tiêu

phân tích

Có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu để đánh giá chất lượng hoạt động tín

dụng, sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản:

1.3.2.1. Hiệu suất sử dụng vốn:

"Đi vay để cho vay" là hoạt động chính của Ngân hàng. Trong hoạt

động đi vay, Ngân hàng là người phải trả các khoản lãi cho các nguồn vốn

huy động được. Đồng thời sẽ thu lại từ hoạt động cho vay. Việc phân bổ

các nguồn vốn đó như thế nào để đảm bảo tính hiệu quả. Nếu nguồn vốn

huy động lớn mà dư nợ thấp sẽ bị ứ đọng vốn.

Tổng dư nợ

Hiệu suất sử =

dụng vốn Tổng nguồn vốn huy động được

Qua công thức này ta ra rằng việc vận dụng một cách linh hoạt giữa

nguồn vốn đi vay và sử dụng vốn đó để cho vay góp phần không nhỏ trong

hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.

1.3.2.2. Vòng quay tín dụng:

Doanh số thu nợ/năm

Vòng quay tín dụng =

Dư nợ bình quân/năm

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn. Nếu tỷ lệ vòng quay vốn

tín dụng càng cao, chứng tỏ kỳ luân chuyển vốn tín dụng nhanh, hiệu quả hoạt

động tín dụng tốt, bởi vì kỳ luân chuyển vốn tín dụng càng nhanh, chứng tỏ

công tác thu nợ trong kỳ tốt và ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp, phản ánh việc thu

nợ kém, vốn tín dụng bị"đóng băng".

1.3.2.3. Hệ số an toàn VLĐ:

Tài sản lưu động

Hệ số an toàn = * 100 ≥ 1

VLĐ Nợ ngắn hạn

1.3.2.4. Tỷ lệ Nợ quá hạn:

Nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư Nợ

Đây là một chỉ tiêu quan trọng, đánh giá đúng hơn chất lượng hoạt

động tín dụng NHTM, tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng hoạt động

tín dụng tại Ngân hàng cao, độ an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân

hàng cao hay nói cách khác mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng thấp.

Tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện chất lượng hoạt động tín dụng tại

Ngân hàng thấp, rủi ro trong hoạt động cao. Phần lớn các khoản nợ quá hạn

là các khoản nợ"có vấn đề", có thể bị mất một phần, có thể bị mất toàn bộ

vốn cho vay.

Chất lượng hoạt động tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa

khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của Ngân hàng. Thu nhập từ

hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của

Ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại.

1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng

của NHTM:

Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các ngân hàng rất quan

tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt

nhất. Để quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một

cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có một sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố

tác động đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân

hàng nhưng chúng ta có thể phân thành các nhóm nhân tố như:

1.3.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế :

Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân

hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp

được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát,

khủng hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay

không có biến động lớn.

Đất nước đang trong thời kỳ mở cửa, nước ta đã có quan hệ với nhiều

nước trên thế giới và đem lại nhiều thuận lợi. Song việc đầu tư nước ngoài vào

trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ gây ra lạm phát

làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Vì thế cần phải kiểm soát luồng tiền từ

nước ngoài vào trong nước, bởi luồng tiền này sẽ làm tăng khối lượng tiền

trong lưu thông gây ra lạm phát ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.

Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín

dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm

gây nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng

khó hoàn trả. Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh

nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn.

1.3.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý:

Hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền

kinh tế nói chung muốn hoạt động có hiệu qủa thì cần phải có một hệ thống

pháp luật đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Không có pháp luật hoặc

một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát

triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn.

Pháp luật tạo lập hành lang giúp cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh tiến

hành thuận tiện và đạt kết quả cao.

Trong điều kiện nước ta hệ thống văn bản chưa được hoàn thiện đã gây

khó khăn cho Ngân hàng trong hoạt động của mình. Vì vậy Ngân hàng Nhà

nước và các ban ngành có liên cần sớm ban hành các văn bản cần thiết nhằm

hoàn thiện dần hệ thống các văn bản; tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân

hàng trong hoạt động của mình, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

1.3.3.3. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng:

Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của Ngân hàng có liên

quan, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm:

- Chính sách tín dụng:

Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công

hay thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín

dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền,

của Ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng

phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được

dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất định.

Đối với các Ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn

phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi

ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo

công bằng xã hội.

- Công tác tổ chức của ngân hàng:

Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có

khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã

được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý đựơc cơ cấu tài

sản nợ, tài sản có của Ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín

dụng lành mạnh. Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý

có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề

có liên quan đến tín dụng khi cần thiết.

- Chất lượng nhân sự:

Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín

dụng nói riêng và trong hoạt động của Ngân hàng nói chung. Hiện nay khi

nghiệp vụ hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng

nhân sự ngày càng cao. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến

hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức

nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn, như thế mới tăng khả năng cạnh tranh

của Ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa

dạng của một xã hội ngày càng phát triển.

- Quy trình tín dụng:

Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục

nhất định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách

hàng cho đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín

dụng phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng có đảm bảo tính khoa

học không và việc thực hiện các giai đoạn trong quy trình tín dụng cũng như

sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào?

Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính:

+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai

đoạn rất quan trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín

dụng của khoản tín dụng sẽ được thực hiện và là cơ sở định lượng rủi ro trong

khi cho vay. Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào

công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các quy định về điều kiện,

thủ tục cho vay của ngân hàng.

+ Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro:

Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu áp dụng có hiệu quả các hình

thức, biện pháp sẽ giúp cho Ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin về

các khoản tín dụng đã cung cấp để có thể đưa ra kịp thời những quyết định can

thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng

cao chất lượng tín dụng.

+ Thu nợ và thanh lý: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định đến

sự tồn tại của Ngân hàng bởi nếu không thu được nợ đến hạn, Ngân hàng sẽ

mất vốn kinh doanh, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng,

khủng hoảng có thể xảy. Sự linh hoạt của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp

thời điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý

chính xác, kịp thời sẽ giúp Ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế

những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng.

- Thông tin tín dụng:

Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, giúp

cho các cán bộ tín dụng có câu trả lời đúng, cho vay hay không cho vay? Xét

trên tầm vĩ mô thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và đưa

ra các dự báo phát triển kinh tế. Thông tin tín dụng có thể thu được từ nhiều

nguồn: Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình

hình hoạt động sản xuất kinh doanh ... thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp

thời thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.

- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng:

Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín

dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý

ngân hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao

dịch với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông

tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho Ngân hàng cập nhật được

thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín

dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản

lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện, nhanh chóng.

1.3.3.4. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng:

Để đảm bảo khoản tín dụng đựoc sử dụng đúng mục đích và có hiệu

quả, mang lại lợi ích cho Ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển

kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có

tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng

hoàn trả đầy đủ những khoản vay vốn của ngân hàng khi đến hạn qua đó đảm

bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng.

1.3.3.5. Các yếu tố khách quan:

Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn,

dịch bệnh... Khi xẩy ra thường gây ra hậu quả lớn tác động đến cả Ngân

hàng và khách hàng, Ngân hàng khó có khả năng thu hồi được vốn điều đó

ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Trước sự tác động của các yếu tố này,

Ngân hàng khi tiến hành đầu tư cần phải cân nhắc, báo cáo một cách cụ thể,

chủ động phòng ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro nếu có thể.

Như vậy việc nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng

ngân hàng và biết tận dụng các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế của ngân

hàng mình sẽ tạo ra một chất lượng tín dụng tốt, góp phần vào sự phát triển

vững mạnh của ngân hàng và của nền kinh tế quốc dân.

1.3.4. Sự cần thiết nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của

NHTM:

Với sự phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay ngoài các Ngân hàng

quốc doanh; đã xuất hiện hàng loạt các loại hình ngân hàng khác nhau như:

Các ngân hàng liên doanh, các Ngân hàng thương mại cổ phần, các chi nhánh

Ngân hàng nước ngoài. Chính sự xuất hiện này đã làm cho mức độ cạnh tranh

trên thị trường ngân hàng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng

phải luôn luôn tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao uy tín, vị thế của mình

trên thị trường. Một trong những biện pháp đó chính là phải nâng cao chất

lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có

thể tính toán được như kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn... đồng thời nó

cũng được thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng và mức độ tác động tới

nền kinh tế.Việc nâng cao chất lượng tín dụng là rất cần thiết không chỉ riêng

đối với bản thân Ngân hàng mà còn rất quan trọng đối với nền kinh tế và các

chủ thể có liên quan. Cụ thể:

1.3.4.1. Đối với chủ thể vay vốn:

Lợi nhuận được xem là mục tiêu hàng đầu, nhưng đồng thời nó cũng

là thách thức đối với các chủ thể kinh tế. Để đạt được mục tiêu đó, các chủ

thể kinh tế phải biết kết hợp hài hoà giữa điều kiện chủ quan và khách

quan, giữa nội lực và ngoại lực. Phần lớn các chủ thể kinh tế đều phải đối

mặt với một thực tế đó là vốn tự có của các đơn vị, tổ chức kinh tế không

đủ để phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh cho nên việc vay vốn

Ngân hàng là một tất yếu, lúc này đồng nghĩa với quan hệ tín dụng ra đời.

Mối quan hệ này được thiết lập giữa một bên thiếu vốn và một bên tạm

thời thừa vốn. Do đó, để thắt chặt mối quan hệ và đảm bảo cho hai bên

cùng có lợi, đòi hỏi các khoản tín dụng phải có hiệu quả, chất lượng cao.

Nâng cao chất lượng tín dụng thực sự cần thiết với đơn vị, tổ chức

kinh tế bởi nó gắn liền với hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh. Kết

quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp phải đảm bảo bù đắp các chi

phí bỏ ra, hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng đúng thời hạn và thu được

lợi nhuận. Có như vậy, mới tạo được sự tin tưởng với Ngân hàng. Ngoài ra

còn giúp cho doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, chiếm

được chỗ đứng trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Ngược lại, nếu hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không có

hiệu quả, thua lỗ doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong nhiều vấn đề, nhưng

nổi cộm sẽ là vấn đề tài chính, khả năng thanh toán với Ngân hàng, với các

đối tác trong kinh doanh, sự tin tưởng và uy tín giảm dần trong môi trường

kinh doanh. Không những không duy trì được sự tồn tại của mình trong nền

kinh tế mà còn làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng (thất

thoát vốn), ảnh hưởng xấu đến kinh tế - xã hội.

1.3.4.2. Đối với Ngân hàng:

Cũng như các tổ chức kinh tế khác, hoạt động kinh doanh của Ngân

hàng cũng nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Với tư cách là trung gian tín

dụng, hoạt động chính của Ngân hàng là "đi vay để cho vay".

Trong điều kiện hiện nay, số lượng NHTM ngày càng nhiều, cạnh

tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt cho nên Ngân hàng luôn phải có

các biện pháp để huy động vốn và sử dụng vốn một cách linh hoạt, có hiệu

quả, tạo ra được nguồn vốn đa dạng và dồi dào, làm cơ sở cho việc tạo ra

các tài sản có sinh lời, đồng thời đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay,

có khả năng thu hồi được nợ và lãi vay. Hơn nữa, tín dụng là hoạt động

chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động của Ngân hàng(80-95%), nên lợi

nhuận mang lại phần lớn là từ hoạt động này.

Do đó, việc nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện tiên quyết, tác

động tới tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của Ngân hàng. Sự kết hợp giữa

đảm bảo khả năng thanh toán đồng thời tăng nguồn thu, lợi nhuận đạt được

ngày càng cao sẽ góp phần mở rộng quy mô, thực hiện các mục tiêu kinh tế

- xã hội góp phần hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển trên cơ sở

sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng.

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng sẽ giúp Ngân hàng tránh

được những tổn thất.

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng góp phần tăng khả năng sinh

lời cho Ngân hàng thông qua việc tăng dư nợ tín dụng, từ đó tăng lợi nhuận

thu được từ hoạt động tín dụng.

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng làm tăng khả năng cung cấp

dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay

vốn tín dụng và thu hút được thêm nhiều khách hàng.

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng còn góp phần củng cố mối

quan hệ xã hội của Ngân hàng, điều đó cũng có ý nghĩa là tạo được môi

trường thuận lợi nhất cho hoạt động Ngân hàng.

1.3.4.3. Đối với nền kinh tế:

NHTM được xem là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt - kinh

doanh tiền tệ. Là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính của Quốc

gia, nếu hoạt động kinh doanh của NHTM có hiệu quả, nó sẽ ảnh hưởng

tích cực đến khu vực tài chính, góp phần ổn định tiền tệ, lạm phát. Tạo điều

kiện cho Ngân hàng Trung Ương thực hiện chính sách tiền tệ.

Mặt khác, NHTM là nơi đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa

với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả, tăng khả

năng cạnh tranh, có điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Như vậy, hoạt động tín dụng gắn liền với sự phát triển của cả nền

kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng thực sự là cần thiết và cấp bách đối

với các Ngân hàng thương mại nói riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói

chung.

Chương II: thực trạng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp&phát

triển nông thôn quận thanh xuân

2.1. Tổng quan về Ngân hàng nông nghiệp quận Thanh Xuân

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng nông

nghiệp& phát triển nông thôn(NHNo&PTNT) Thanh Xuân:

Nhằm thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị

trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN, ngành

Ngân hàng đã có những bước chuyển biến tích cực vào sự nghiệp phát triển

kinh tế đất nước, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,

lạc hậu, sánh vai cùng các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.

Bước chuyển biến đầu tiên lớn nhất của hệ thống Ngân hàng Việt

Nam phải kể đến đó là sự chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang

hệ thống Ngân hàng hai cấp với sự phân biệt rõ ràng giữa hai chức năng;

quản lý và kinh doanh tiền tệ. Sự chuyển biến này đánh dấu bước ngoặt

trong quá trình hoạt động của hệ thống Ngân hàng, tạo điều kiện cho các

Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn góp phần vào

sự phát triển chung của ngành Ngân hàng.

Quyết định số 59/QĐ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vào tháng

08/1988 chuyển hệ thống Ngân hàng một cấp thành hai cấp và thành lập 4

Ngân hàng Thương mại Quốc doanh: Ngân hàng nông nghiệp& phát triển

nông thôn; Ngân hàng công thương; Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng

đầu tư và phát triển.

Cùng với Quyết định đó, NHNo&PTNT Hà Nội ra đời với trụ sở

chính tại số 77 Lạc Trung quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.

Xuất phát từ nhu cầu mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm đáp ứng

nhu cầu của nền kinh tế, ngày 01/04/1996 Tổng giám đốc NHNo&PTNT

Việt Nam ký Quyết định số 18/NHN-02 thành lập chi nhánh NHNo&PTNT

quận Thanh Xuân; địa chỉ giao dịch tại 106 Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà

Nội.

Ngày 03/07/1996, Ngân hàng khai trương và chính thức đi vào hoạt

động với tư cách là một Ngân hàng cấp 4. Sau một thời gian hoạt động, ngày

01/01/1999 NHNo&PTNT quân Thanh Xuân được nâng lên thành Ngân hàng

cấp 3, loại 2. Sau một năm hoạt động NHNo & PTNT quận Thanh Xuân được

nâng lên thành Ngân hàng cấp 2 loại 4, trực thuộc NHNo&PTNT Chi nhánh

Thành phố Hà Nội. Sau mười năm hoạt động NHNo&PTNT quận Thanh

Xuân từng bước khẳng định vị trí của mình và có những thành tích đáng kể.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT quận Thanh Xuân:

Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Thanh Xuân:

Giám đốc Giám đốc

Phó Giám đốc

Phòng kinh doanh

Phòng Kế toán - ngân quỹ

Cơ cấu bao gồm các bộ phận, phòng, ban sau:

2.1.2.1. Ban giám đốc bao gồm:

Giám đốc: Phụ trách chung và trực tiếp chỉ đạo phòng kinh doanh, tổ

hành chính tổng hợp.

Phó giám đốc: Được sự uỷ quyền của giám đốc phụ trách phòng kế

toán và ngân quỹ.

2.1.2.2. Các phòng chức năng:

- Phòng kinh doanh bao gồm 10 người: Trong đó có hai phó phòng

kinh doanh.

+ Chủ yếu đảm nhiệm nghiệp vụ tín dụng, có chức năng quản lý điều

hành chỉ đạo thực hiện các chủ trương về công tác tín dụng.

+ Trực tiếp đi thẩm định các dự án có quy mô sản xuất vừa và lớn,

tập trung các thông tin đã thu thập được để từ đó phân tích, đưa ra những

phương hướng thực hiện công tác tín dụng tháng tới, cả năm và năm tới.

+ Đề xuất ý kiến cho vay hay không cho vay đối với các dự án thuộc

quyền hạn của mình.

+ Cố vấn cho Ban Giám đốc trong quá trình đưa ra quyết định cho

vay hay không cho vay các dự án vượt quá quyền hạn của mình.

- Phòng kế toán và ngân quỹ bao gồm 18 người: Trong đó có một

trưởng phòng, một phó phòng và bốn trưởng phòng giao dịch đảm nhiệm cả

hai việc: kế toán nội bộ và kế toán giao dịch.

+ Kế toán nội bộ:

. Thực hiện công tác kế toán và quản lý chi tiêu nội bộ như: chi trả

lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí và công tác hành chính.

. Báo cáo tổng hợp thu, chi hàng tháng, hàng quý và cả năm với Ban

Giám đốc.

+ Kế toán giao dịch:

. Xử lý các nghiệp vụ như: nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ

chức kinh tế và cá nhân.

. Thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền và thanh toán cho khách hàng.

. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt như: Uỷ

nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc chuyển khoản, L/C, chuyển tiền, cung cấp

dịch vụ phone banking, dịch vụ WERTUION .

. Tổ chức ghi chép phản ánh một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời

từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh về các hoạt động huy động vốn và sử dụng

vốn.

. Tổ chức thanh toán bù trừ và thanh toán liên hàng.

. Lập bảng cân đối ngày, tuần, tháng, quý và cả năm.

. Hàng tháng tổng hợp báo cáo gửi lên Ngân hàng cấp trên.

2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2004 của

NHNo&PTNT Thanh Xuân

2.1.3.1. Công tác huy động vốn:

Là một tổ chức chuyên"đi vay để cho vay", do vậy công tác tạo vốn ở

ngân hàng là tiền đề để mở rộng thị trường tín dụng và là điều kiện sống còn

trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của việc huy

động vốn Chi nhánh Thanh Xuân luôn đề cao công tác này. Năm 2004 đã thực

hiện nghiêm túc chủ chương và chỉ tiêu kế hoạch Tổng giám đốc giao về

nguồn vốn huy động. Với nhiều hình thức, nhiều thể loại huy động và tuỳ từng

địa điểm mà Chi nhánh Thanh Xuân đã áp dụng các biện pháp năng động

mềm dẻo để thu hút nguồn vốn cả ngoại tệ và nội tệ đáp ứng nhu cầu tín dụng.

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004:

Tổng nguồn vốn huy động đạt 345.018 triệu đồng, tăng gần 6% so với

năm 2003

Cơ cấu nguồn vốn như sau :

+ Nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ lệ 20,89% tổng nguồn vốn

+ Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ lệ 26,02% tổng nguồn

vốn

+ Nguồn kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ lệ 56,69% tổng nguồn vốn

+ Nội tệ đạt 280.237 triệu đồng, chiếm 80,52%trên tổng nguồn vốn,

tăng so với 31/12/2003 là: 304 triệu đồng, riêng kỳ phiếu giảm do phần lớn do

đến hạn, khách hàng chuyển sang sổ tiết kiệm ngoại tệ.

+ Nguồn vốn ngoại tệ đạt 79.790 triệu đồng (quy đổi), chiếm

19,47%/tổng nguồn vốn, tăng 19.044 triệu đồng so với 31/12/2003, tăng chủ

yếu ở tiết kiệm 12 tháng USD và EUR.

2.1.3.2. Tình hình đầu tư vốn tín dụng năm 2004:

Tổng doanh số cho vay 223 tỷ đồng tăng 59 tỷ đạt 135% so với năm

2000 trong đó:

Đầu tư vốn đến 31/12/2004 đạt 159.769 triệu đồng, tăng 19% so với

năm 2003, tuy nhiên vẫn không đạt được chỉ tiêu theo kế hoạch được giao.

Như vậy tốc độ tăng tín dụng toàn Chi nhánh là 19%, trong đó cơ cấu đầu tư

như sau:

- Dư nợ ngắn hạn đạt 116.495 triệu đồng, chiếm 73%/tổng dư nợ.

- Dư nợ trung hạn đạt 43.274 triệu đồng, chiếm 27%.

Trong đó, nội tệ chiếm 95%, ngoại tệ chiếm 5%/tổng dư nợ. Đặc biệt

Chi nhánh đã phục vụ được cả các doanh nghiệp vừa nhập khẩu và vừa xuất

khẩu, về cơ bản cân đối được cung cầu ngoại tệ như: Cty CP điện tử chuyên

dụng HANEL, Cty CP Thiền Quang, Cty TNHH Vĩnh Phát...

Dư nợ của Chi nhánh ước tính chiếm 7- 8% trên tổng số các đơn vị

đóng trên địa bàn. Mặc dù có sự phát triển tốt các chỉ tiêu nhưng công nợ còn

gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức tín

dụng trên địa bàn quận, như: NHNNo Nam Hà nội, NHNNo Hà Tây, NHCT

Thanh Xuân, NHCT Hà Tây, NHĐT Hà Tây, NHCP quân đội, NHTMCP

Phương Nam, NGTMCP Đông á... Đối với các đơn vị lớn như NHCT Thanh

Xuân, NHĐT Hà Tây đều trực thuộc địa bàn, mỗi ngân hàng lại có những

chính sách thu hút khách hàng, có sự cạnh tranh về lãi suất, các sản phẩm dịch

vụ hoàn hảo, đồng bộ cũng như khuyến mãi khác nhau đã có những tác động

không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Đây không chỉ là yếu tố

ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển dư nợ và ảnh hưởng cả đến tăng trưởng

nguồn vốn, phí dịch vụ.

+ Tín dụng DNNN: Hiện có 4 doanh nghiệp nhà nước quan hệ tín dụng

tại chi nhánh, chiếm 8%/tổng dư nợ. Nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước

kinh doanh đều gặp nhiều khó khăn do cơ chế, chính sách thay đổi. Tuy nhiên,

các doanh nghiệp đều trả gốc, lãi đều hàng tháng, chưa có nợ quá hạn phát

sinh cuối tháng.

+ Tín dụng DN ngoài Quốc doanh: Đây là đối tượng đầu tư trọng điểm

của Chi nhánh, các dự án vay vốn của đối tượng này có tính hiệu quả cao và

an toàn vốn, đồng thời đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn của ngành. Dư nợ

của thành phần kinh tế này chiếm 74%/tổng dư nợ. Tuy nhiên, để phát triển

được cần phải có chính sách phát triểm sản phẩm ngân hàng đồng bộ, đáp ứng

được các nhu cầu của các đơn vị này.

+ Tín dụng hộ gia đình, cá nhân: Tỷ trọng dư nợ của đối tượng này

không nhiều, chiếm 16,5% bao gồm các hộ SXKD và cho vay phục vụ tiêu

dùng.

+ Cho vay ngoại tệ đạt 4000 ngàn USD giảm 4518 ngàn USD và đạt

46,33% so với năm 2003.

+ Cho vay nội tệ là 169 tỷ đồng tăng 120 tỷ, đạt 344,9% so với 2003

+ Doanh số thu nợ trong năm đạt 230 tỷ đồng tăng 107 tỷ, đạt 186,9%

so với năm 2000.

Tóm lại công tác tín dụng năm 2004 của Chi nhánh Thanh Xuân đã có

nhiều cố gắng và thực sự đi vào chất lượng: Đối với những món vay mới thực

hiện nghiêm túc thể lệ, chế độ, quy trình, nghiệp vụ tín dụng; đảm bảo tất cả

các món vay đều được kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay, thực hiện

quy chế thế chấp tài sản, không tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng, chiếm đoạt

tài sản hoặc sử dụng vốn sai mục đích. Tiến hành phân loại khách hàng, chọn

lựa các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản xuất kinh doanh đúng hướng, có

tín nhiệm để tạo ra một đội ngũ khách hàng tin cậy và mang tính chiến lược

lâu dài.

Năm 2004 Chi nhánh đã đôn đốc thu nợ, đồng thời Chi nhánh phối hợp

với chính quyền địa phương nơi con nợ cư trú, với cơ quan bảo vệ pháp luật

để xử lý đối với khách hàng không có khả năng thanh toán, nợ dai do làm ăn

thua lỗ, phá sản hoặc khách nợ có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân

hàng. Vì vậy năm 2004 dư nợ quá hạn đã có những chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn còn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong

tổng doanh số cho vay trong năm, đặc biệt là đầu tư dài hạn - phải chăng

nguyên nhân ở đây là do hầu hết các khách hàng của Chi nhánh đều có quy mô

nhỏ, không đồng đều và không ổn định. Vì vậy, trong năm 2004 mặc dù Chi

nhánh đã thực sự cố gắng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh cho các doanh

nghiệp, các công ty song sang năm 2005 Chi nhánh cần phải tích cực hơn nữa

trong công tác tìm kiếm những khách hàng có dự án đầu tư hiệu quả, góp phần

nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình..

2.1.3.3. Các hoạt động khác

2.1.3.3.1. Nghiệp vụ bảo lãnh:

Chi nhánh thường thực hiện các loại hình bảo lãnh như: bảo lãnh dự

thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành sản phẩm trong thẩm

quyền phán quyết của Chi nhánh. Dư nợ bảo lãnh đến 31/12/2004 đạt 8.442

triệu đồng, doanh số cả năm Chi nhánh đã bảo lãnh tổng cộng 16.323 triệu

đồng bao gồm 160 món, thu phí bảo lãnh đạt trên 70 triệu đồng.

2.1.3.3.2. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế:

- Nhập khẩu: Tổng cộng khối lượng thanh toán qua Chi nhánh đạt gần 3

triệu USD (quy đổi), phí thu được đạt 270 triệu đồng. Bao gồm: 49 món mở

L/C, 71 món thanh toán L/C và 145 món chuyển tiền và nhờ thu.

- Xuất khẩu: Chi nhánh đã thu hút được một số khách hàng tham gia

nhập khẩu về giao dịch như: Công ty CP Thiền Quang, Cty SX hàng XK Bình

Thuận, Cty Thực phẩm Thông Tấn, Cty TM&XD Vĩnh Phát và đã một phần

cân đối được nhu cầu ngoại tệ chi Chi nhánh.

Thanh toán quốc tế ngày càng mở rộng. Số lượng các doanh nghiệp

thanh toán quốc tế qua chi nhánh ngày càng nhiều, đây là một dịch vụ hỗ

trợ tích cực cho việc mua bán ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh. Do vậy phí thu

được từ dịch vụ thanh toán quốc tế, phí bảo lãnh ngày càng cao.

2.1.3.3.3. Dịch vụ:

+ Năm 2004, Chi nhánh đã phát hành tổng số 1.217 thẻ ATM, vượt so

với kế hoạch 17 thẻ, luỹ kế là 1.469 thẻ với số dư 2.669,961 triệu đồng- Đây

là nguồn tiền gửi không kỳ hạn rẻ nhất.

+ Chi nhánh đã thực hiện chuyển 4.623 món tiền với tổng số tiền là

560.918 triệu đồng, thu được 135 triệu đồng phí dịch vụ. So với cùng kỳ năm

trước tăng 706 món, tuy nhiên phí thu nhờ dịch vụ này giảm 9 triệu đồng

(những món chuyển tiền cùng hệ thống NHNo HN không đuợc thu phí).

+ Dịch vụ chi trả tiền WESTERN UNION đạt 29 món với số tiền là

13.423 USD phí thu được luỹ kế 7 triệu đồng.

+ Số khách hàng mở tài khoản tiền gửi:

- Doanh nghiệp: 180 khách hàng với số dư 13.347 triệu. Số khách hàng

tăng so với năm 2003 là 7%.

- Cá nhân: 1.590 khách hàng với số dư 3.085 triệu, so với năm 2003 số

khách hàng mở TK cá nhân tăng 26%.

2.1.3.3.4. Công tác kế toán ngân quỹ:

Năm 2004 Chi nhánh đạt được kết quả kinh doanh như sau :

- Tổng thu từ lãi và các khoản có tính chất lãi: 25.232 triệu đồng tăng

6%so với năm 2003 trong đó:

+ Thu lãi tiền vay: 13.956 triệu đồng, tăng 43% so với năm 2003

+ Thu lãi tiền gửi : 1.710 triệu đồng, tăng 28% so với năm 2003

+ Thu lãi từ trái phiếu, tín phiếu: 40 triệu đồng

+ Thu khác về huy động vốn: 0

+ Thu phí thừa vốn: 9.526 triệu đồng, tăng 12% so với năm 2003

+ Thu cấp bù lãi suất: 0

- Thu ngoài lãi: Tổng thu 537 triệu đồng

+ Thu dịch vụ: 447 triệu đồng, tăng 76% so với năm 2003

+ Thu kinh doanh ngoại tệ: 56 triệu đồng

+ Thu bất thường: 34 triệu đồng, giảm 19% so với năm 2003

- Chi trả lãi: 16.501triệu đồng, trong đó:

Chi trả lãi tiền gửi: 16.125 triệu đồng, tăng 36% so với năm 2003

Chi trả lãi tiền : 0

Chi trả lãi phát hành kỳ phiếu: 376 triệu đồng

- Chi ngoài lãi: tổng chi :2.750 triệu đồng, trong đó

. Chi nộp thuế : 8 triệu đồng chiếm tỷ lệ 300% so với năm 2003

. Chi dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: 17 triệu đồng,tăng 55% so với

năm 2003

. Chi cho cán bộ công nhân viên : 840 triệu đồng,tăng 13% so với

năm 2003

. Chi phí kinh doanh ngoại tệ: 8 triệu đồng 100% so với năm 2003

. Chi về tài sản : 1.050 triệu đồng, tăng 13% so với năm 2003

. Chi bảo hiểm tiền gửi: 211 triệu đồng, giảm 18% so với năm 2003

. Trích dự phòng rủi ro : 0

Chênh lệch thu chi 25.769 - 19.251 = 6.518 triệu đồng tăng 62% so

với năm 2003.

Nguồn thu ở đây chủ yếu là thu từ lãi tiền gửi đạt 59,887 tỷ đồng chiếm

tỷ lệ 48% tổng thu. Nguồn thu lãi cho vay chiếm tỷ lệ 34,2 % so với tổng thu

đạt thấp hơn so với năm trước là do nhiều khách hàng vay vốn gặp khó khăn

về tài chính dẫn đến nợ quá hạn cao không thu được lãi.

Năm 2004 là năm đã áp dụng nhiều biện pháp giảm chi phí và đã dẫn

đến tốc độ tăng chi phí là 17% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng thu nhập

(30,4%). Vì vậy đã đảm bảo chênh lệch thu chi tăng trưởng 62% so với năm

2003 góp phần đảm bảo thu nhập cho cán bộ công nhân viên, khuyến khích

công nhân viên hăng say làm việc với tinh thần đoàn kết cống hiến nhiều lợi

ích của toàn hệ thống.

Như vậy với rất nhiều hoạt động đa dạng Chi nhánh Thanh Xuân đã đáp

ứng hầu hết các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, nâng cao hiệu quả

kinh doanh, tự khẳng định mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế

góp phần tăng trưởng và phát triển đất nước.

2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Thanh

Xuân:

Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong những năm

qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã có những bước tiến

mới từ hệ thống ngân hàng một cấp với hình thức cấp phát tín dụng sang hệ

thống ngân hàng hai cấp: Quản lý nhà nước và kinh doanh đầu tư tín dụng

theo đúng nghĩa của nó, đáp ứng được nhu cầu lớn về vốn phát triển cho nền

kinh tế, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được các ngân hàng thương mại hiện nay

cũng đang gặp một số khó khăn cần được khắc phục như: Chất lượng, hiệu

quả đầu tư tín dụng còn thấp, tỷ lệ quá hạn đang ở mức cao. Các ngân hàng

thương mại đang tiếp nhận và quản lý một khối lượng lớn tài sản gán nợ, xiết

nợ và việc sử lý vô cùng khó khăn phức tạp... Vấn đề này sẽ được cụ thể hoá

thông qua thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Thanh

Xuân.

2.2.1. Công tác huy động vốn:

bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2002-2004

Đơn vị : Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền

%so với 2001 %so với 2002 %so với 2003

nguồn 258.716 138 325.670 125 345.018 106 Tổng huy động

Nội tệ 215.952 149 279.933 129 280.237 100,1

tệ quy 43.800 105 45.737 104 64.781 142 Ngoại đổi ra VND

(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 của

NHNo Thanh Xuân)

biểu đồ so sánh nguồn huy động qua các năm:

350000

300000

250000

2002

200000

2003

150000

2004

100000

50000

0

Tổng nguồn vốn đến 31/12/2002, Chi nhánh đạt kế hoạch Thành phố

giao (260 tỷ đồng), so với năm 2001 tăng 71.535 triệu đồng, tỷ lệ tăng 38,2%.

Nguồn vốn tăng chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm( 29 tỷ ), tiền gửi kỳ phiếu.

Năm 2003 tổng nguồn vốn tăng 66.954 triệu đồng so với năm 2002,

tăng25,88% so với năm trước.

Năm 2004 tổng nguồn vốn tăng 19.348, tăng 5,94% so với năm 2003.

Mạng lưới các phòng giao dịch huy động tiền gửi dân cư ngày càng ổn định và

phát triển tạo nguồn vốn ổn định cho toàn Chi nhánh. Đặc biệt trong năm qua

Chi nhánh đã đứng thứ hai trong toàn thành phố Hà nội về công tác huy động

vốn.

2.2.2. Tình hình sử dụng vốn:

bảng 2: tình hình sử dụng vốn:

Đơn vị : Triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Tổng dư nợ 85.625 134.022 159.463

Tổng nguồn vốn huy động 258.716 325.670 345.018

173.091 191.648 185.555 Chênh lệch huy động và cho vay

(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2002, 2003, 2004 của NHNo Thanh

Xuân)

Chi nhánh chú trọng mở rộng tín dụng đi đôi với việc nâng cao chất

lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn.... Thường xuyên nhắc nhở về đạo đức,

tác phong nghề nghiệp để có niềm tin từ khách hàng. Tập trung thu nợ quá hạn

thông thường và nợ quá hạn đã xử lý rủi ro để tăng thu nhập bất thường. Hạn

chế nợ quá hạn mới phát sinh. Trong năm đã thu được 222.823 triệu đồng tiền

nợ quá hạn đã xử lý rủi ro, trong đó 173.002 triệu đồng tiền gốc và 49.821

triệu đồng tiền lãi.

Kiểm tra hồ sơ và chuyển lên thành phố hàng trăm món thanh toán quốc

tế, thu được hơn 100 triệu đồng tiền phí thanh toán, góp phần tạo thuận lợi cho

khách hàng hưởng các dịch vụ ngân hàng hoàn thiện hơn.

Thực hiện khoán việc, giao việc cụ thể từng cán bộ và đánh giá hưởng

lương, thi đua theo A,B,C từ đó thúc đẩy trách nhiệm, lòng nhiệt tình say mê

nghề nghiệp cho cán bộ công nhân viên và thực sự đã có hiệu quả.

2.2.2.1. Hoạt động tín dụng theo thời gian:

Bảng 3: Tình hình hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Thanh Xuân

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền

So với 2001 (%) So với 2002 (%) So với 2003 (%)

Tổng dư Nợ 85.652 114,5 134.022 53 159.463 18,98

65.818 121 95.133 45 108.760 14,3

21.834 117 38.889 78 50.703 30,4 Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm, 2002, 2003, 2004 của Ngân hàng No

Thanh Xuân)

Qua bảng trên ta thấy được rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng

được mở rộng. Năm 2002 mức dư nợ rất cao, đạt 85.652 triệu đồng.

Tổng dư Nợ năm 2002 đạt 39.909 triệu đồng tăng 47.743 triệu đồng

tương đương 114,5% so với năm 2001. Năm 2003 mức dư nợ đạt 134.022

triệu đồng tăng 46.373 triệu đồng tương đương 53% so với năm 2002. Năm

2004 mức dư nợ đạt 159.463 triệu đồng tăng 25.441 triệu đồng tương

đương 18,98% so với năm 2003.

Nhìn một cách tổng quát ta thấy, tốc độ dư nợ tăng mạnh qua các

năm, đây là dấu hiệu tốt về hoạt động tín dụng của Ngân hàng, thị phần

ngày càng được mở rộng. Đi vào cụ thể theo thời hạn của từng khoản cho

vay, ta thấy rằng:

Dư nợ cho vay ngắn hạn tăng dần qua các năm, tốc độ ngày một cao.

Năm 2002 đạt 65.818 triệu đồng tăng 35.977 triệu đồng tương đương với

121% so với năm 2001. Năm 2003 đạt 95.133 triệu đồng tăng 29.315 triệu

đồng tương đương với 45% so năm 2002. Năm 2004 đạt 108.760 triệu đồng

tăng 13.627 triệu đồng tương đương với 14% so năm 2003.

Dư nợ cho vay trung và dài hạn cũng tăng với tốc độ cao. năm 2002

đạt 21.834 triệu đồng, tăng 11.766 triệu đồng tương đương với 117%. Năm

2003 đạt 38.889 triệu đồng tăng 17.055 triệu đồng, tương đương với 78%

so với năm 2002. 9 Tháng đầu năm 2004 đạt 50.703 triệu đồng tăng 11.814

triệu đồng, tương đương với 30% so với năm 2003. Chênh lệch tỷ trọng

giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn và dài hạn lớn dần qua các

năm.

Qua việc phân tích thực trạng về hoạt động tín dụng NHNo & PTNT

quận Thanh Xuân, có thể rút ra một số nhận xét:

Thứ nhất: mức dư Nợ cho vay hàng năm của Ngân hàng tăng đều, nó

khẳng định một điều rằng Ngân hàng đã có chiến lược kinh doanh tốt, thể

hiện hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng, thị phần tăng lên, số

lượng khách hàng ngày càng đông hơn.

Thứ hai: Đối với cho vay ngắn hạn đây là một trong những hoạt động

sôi nổi nhất hiện nay trong công tác sử dụng vốn của Ngân hàng. Nó phục

vụ cho nhu cầu vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp, là nguồn vốn thiết thực

để tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Với nguồn vốn huy động cho

vay ngắn hạn dồi dào, đội ngũ khách hàng đông đảo mức lãi suất được điều

chỉnh nhanh nhạy và hợp lý của NHNo & PTNT quận Thanh Xuân đã gia

tăng dư Nợ cho vay ngắn hạn. Chính nhờ sự tăng trưởng về hoạt động cho

vay ngắn hạn mà tốc độ phát triển nói chung của hoạt động cho vay tăng

lên. Đây cũng là một thành công trong hoạt động tín dụng, làm tiền đề quan

trọng cho sự phát triển của Ngân hàng trong cơ chế kinh doanh mới.

Thứ ba: Vốn đầu tư trung và dài hạn, Ngân hàng chủ yếu tập trung

cho các dự án đầu tư mua máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến,

xây dựng cơ sở vật chất... có tính chất quyết định cơ cấu phát triển kinh tế

của các ngành, địa phương trong quận cũng như trong Thành phố.

2.2.2.2. Tình hình hoạt động tín dụng theo thành phần kinh tế:

bảng 4: Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế:

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Đơn vị Số tiền Số tiền Số tiền

% so với 2001 % so với 2002 % so với 2003

Quốc doanh 54.348 61,5 52.312 -4 49.136 -6,1

148.531 145 207.002 39,3 245.074 141

18.287 15,4 21.635 18,3 24.268 12,2 Ngoài Quốc doanh Tư nhân, hộ gđình, cá thể

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002, 2003, 2004, của NHNo Thanh

Xuân)

Đối với thành phần kinh tế quốc doanh, doanh số cho vay năm 2002

doanh số là 54.348 triệu đồng, tăng 61,5% so với năm 2001. Năm 2003 doanh

số là: 52.312 triệu đồng giảm 4%. Cho vay khu vực kinh tế quốc doanh ngày

càng thu hẹp, cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng tương

đối lớn trong doanh số cho vay của Ngân hàng. Thực tế, khu vực này có môi

trường kinh doanh tương đối ổn định, đầu tư tín dụng có độ rủi ro thấp hơn

thành phần kinh tế quốc doanh nên hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT

quận Thanh Xuân luôn chú trọng tập trung vào khu vực này. Biểu hiện là

doanh số cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2002 doanh số cho

vay là 148.531 triệu đồng, tăng 87.883 tiệu đồng so với năm 2001, năm 2003

doanh số cho vay là 207.002 triệu, tăng 58.491 triệu đồng so với năm 2002.

Theo sự phát triển của nền kinh tế, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

ngày càng sôi động, điều đó tác động đến cơ cấu của doanh số cho vay. Tỷ

trọng doanh số cho vay của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên rất

cao. Tuy nhiên, mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các thành

phần kinh tế ngoài quốc doanh còn cao.

Đối với thành phần kinh tế cá nhân, cá thể, hộ gia đìnhcó xu hướng

tăng, nhưng cũng tăng không đáng kể. Năm 2002 đạt 18.287 triệu đồng,

tăng 2.817 triệu đồng. Năm 2003 đạt 21.635 tăng 3.348 triệu đồng so với

năm 2002. Năm 2004 đạt 24.268 triệu đồng, tăng 2.633 triệu đồng so với

năm 2003.

Điều này chứng tỏ hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT quận

Thanh Xuân đã được mở rộng, khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân

hàng ngày càng tăng và đa dạng.

2.2.3. Tình hình thu nợ:

Bảng 5: Doanh số thu nợ tại NHNo & PTNT quận Thanh Xuân

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền

So với 2001 (%) So với 2002 (%) So với 2003 (%)

126.320 57,1 212.944 68,6 288.577 35,5

44.309 9,4 45.520 3 47.156 3,6

quốc 82.011 29,5 167.424 104 241.421 44,2 Tổng doanh số thu nợ Khu vực quốc doanh Ngoài doanh

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002, 2003,2004 của NHo Thanh

Xuân)

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy:

Doanh số thu nợ qua các năm 2002, 2003 và 2004 đều tăng khá

mạnh. Cụ thể là năm 2002 doanh số thu nợ là 126.320 triệu đồng tăng so

với năm 2001 là 57,1% tương đương với 45.895 triệu đồng. Năm 2003

doanh số thu nợ 12.944 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 68,6% tương

đương với 98.624 triệu đồng. Năm 2004 doanh số thu nợ 288.577 triệu

đồng tăng so với năm 2003 là 35,5% tương đương với 75.633 triệu đồng.

Trong đó: khu vực kinh tế quốc doanh tăng mạnh và khá ổn định:

Doanh số thu năm 2002 tăng 9,4% so với năm 2001.

Còn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, doanh số thu nợ tăng

mạnh qua các năm: Năm 2002 tăng 29,5% so với năm 2001. Năm 2003 là

167.424 triệu đồng tăng 104%, số tuyệt đối là 85.413 triệu đồng so với năm

2002.

Về cơ cấu thu nợ thì doanh số thu nợ khu vực ngoài quốc doanh

chiếm tỷ trọng rất lớn: tỷ trọng doanh số thu nợ ngoài quốc doanh, năm

2001 là 78,76%, năm 2002 là 64,9% năm 2003 là 78,6 % trên tổng số thu

nợ của năm.

Qua việc xem xét tỷ trọng thu nợ quốc doanh và tốc độ tăng trưởng của

nó ta cũng thấy được rằng đối với Chi nhánh Thanh Xuân, là một chi nhánh

cấp 2 loại 4 quy mô đang còn nhỏ cho nên tỷ trọng cho vay và thu nợ ở khu

vực quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng. Đây là

dấu hiệu tốt cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh.

2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT

Thanh Xuân

2.3.1. Những kết quả đạt được:

- Thực hiện tốt nội dung đề án cơ cấu lại ngân hàng của Ngân hàng

No&PTNT TP Hà Nội.

Các biện pháp tạo nguồn lực trong kinh doanh:

+ Ban giám đốc thực sự đoàn kết nhất trí trong chỉ đạo điều hành, luôn

năng động, sáng tạo và nghiêm túc nên việc triển khai nhiệm vụ đạt hiệu quả,

cùng bàn bạc và đưa ra những quyết định trong kinh doanh một cách hợp lý,

dân chủ.

+ Tạo nguồn nhân lực: Mặc dù cán bộ có nhiều bất cập, nhưng Chi

nhánh đã bố trí cán bộ hợp lý theo năng lực. Cán bộ hợp đồng không thời hạn

giảm 1 người so với đầu năm, hợp đồng tăng 1 người.

+ Tập hợp được sức mạnh tập thể trong hoạt động kinh doanh, chú

trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm và phong cách giao dịch.

+ Trụ sở được mở rộng và được ổn định lâu dài từ việc thuê thêm trụ sở

và được cải tạo với diện tích sử dụng hơn 300m2, mặt tiền, vị trí đẹp và đã

làm lại biển, bàn quầy, xây kho tạo thuận tiện cho việc giao dịch của khách

hàng.

Những giải pháp nâng cao năng lực tài chính:

Tập trung huy động nguồn vốn để cho vay và thực hiện các dịch vụ

khác;

Lựa chọn khách hàng để cho vay nhằm tạo lãi suất chênh lệch cao.

Tăng các nguồn thu từ các dịch vụ thanh toán quốc tế, bảo lãnh, cầm cố,

chuyển tiền.

Thực hiện xoá bao cấp trong điều hành bằng cách thay đổi thường

xuyên chỉ đạo điều hành để phù hợp với cơ chế kinh doanh thị trường, cơ chế

cạnh tranh giữa các ngân hàng. Nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho

các trưởng phòng và cán bộ nhân viên bằng giao khoán công việc trên cơ sở

mức lương và khả năng chuyên môn nghiệp vụ;

Để nâng cao chất lượng tín dụng Ban lãnh đạo điều hành bằng cách tập

thể cùng thẩm định cùng kiểm tra cùng chịu trách nhiệm. Sáng kiến trên đã

mang lại hiệu quả cao trong tăng trưởng tín dụng, đặt biệt là chất lượng tín

dụng.

Việc khoán tài chính đến người lao động đã kích thích tính tự giác của

CBCNV.

Thường xuyên khuyến khích cán bộ làm tốt, phê bình, giúp đỡ những

cán bộ còn yếu kém.

Thực hiện tốt các phong trào thi đua của Thành phố và của Chi nhánh

đề ra và có đánh giá tổng kết.

Công tác phát triển thị trường: Chi nhánh đã tích cực quảng bá, vận

động khách hàng bằng nhiều hình thức như: phát tờ rơi, thông tin trên đài phát

thanh của phường … và từng bước đã tiếp cận được một số các doanh nghiệp,

tổ chức… Tuy nhiên vẫn chỉ chiếm ít thị phần trên địa bàn quận.

- Để đánh giá được kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh của

ngân hàng (hoạt động tín dụng là chủ đạo), chúng ta phải sử dụng những

chỉ tiêu phản ánh một cách rõ nét nhất.

Phân tích chất lượng hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT quận

Thanh Xuân thông qua một số chỉ tiêu sau:

2.3.1.1. Hiệu suất sử dụng vốn:

Tổng dư nợ

Hiệu suất sử dụng vốn =

Tổng nguồn vốn huy động được

Bảng 6: Hiệu suất sử dụng vốn của NHNo Thanh Xuân

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Chỉ tiêu Tổng dư nợ 85.625 134.022 159.463

Tổng nguồn vốn huy động 259.752 325.670 361.567

172.127 191.648 202.104

Chênh lệch huy động và cho vay Hiệu suất sử dụng vốn 33,7% 41% 44%

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002,2003,2004 của NHNo Thanh

Xuân)

Năm 2002, nguồn vốn huy động 259.752 triệu đồng trong khi tổng dư

nợ 85.625 triệu đồng hiệu suất sử dụng vốn là 33,7%. Năm 2003, hiệu suất sử

dụng vốn tăng lên rất nhanh là 41%. Năm 2004 hiệu suất sử dụng vốn tăng là

44% mặc dù nguồn vốn năm 2002 và năm 2003 tăng rất cao so với năm 2001

nhưng hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng lại tăng.

Nguyên nhân do Ngân hàng tăng cường tìm kiếm khách hàng, có

phương án khả thi mở rộng cho vay với tất cả các thành phần kinh tế, huy

động nguồn vốn để điều chuyển vốn thừa lên NHTW, Ngân hàng được hưởng

một khoản phí tương đối cao mà NHTW trả cho các NHTM. Đây là chiến

lược kinh doanh của Ngân hàng, vừa có lãi mà vốn lại được đảm bảo an toàn.

2.3.1.2. Tỷ lệ nợ quá hạn:

Nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư nợ

Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn tại NH No Thanh Xuân

Đơn vị: Triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Tổng dư nợ 85.652 134.022 159.463

Nợ quá hạn 27 14 115

% so với tổng nợ 0,032% 0,01% 0,072%

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2002, 2003, 2004 của NHNo Thanh

Xuân)

NHNo& PTNT Thanh Xuân là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, do đó

trong hoạt động của mình NHNo& PTNT Thanh Xuân không thể tránh khỏi

rủi ro, mà chủ yếu hàng đầu là rủi ro tín dụng. Biểu hiện trực tiếp và đầu

tiên của rủi ro tín dụng là tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi.

Trong những năm qua, NHNo& PTNT quận Thanh Xuân đã không

ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế cho vay đối với những doanh

nghiệp làm ăn không hiệu quả, tình hình tài chính không rõ ràng, dự án

không đảm bảo tính khả thi. Do đó đã hạn chế tối đa các khoản nợ quá hạn.

Tuy nhiên, rủi ro tất yếu vẫn xảy ra, nợ quá hạn vẫn còn tồn tại.

Qua các thông số về nợ quá hạn, ta thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn của

Ngân hàng giảm nhiều qua các năm do Ngân hàng đã có những biện pháp

phòng ngừa rủi ro có hiệu quả cho nên. Đến cuối năm 2002 thì tỷ lệ nợ quá

hạn giảm xuống và chỉ còn 0,032%, năm 2003 chỉ còn lại 0,01%, nhưng

năm 2004 lại là 0,072%.

Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tương đối thấp (dưới 3% qui định)

chứng tỏ chất lượng tín dụng tốt. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động

tín dụng của Ngân hàng.

2.3.2.2.1. Nợ quá hạn theo thời gian:

biểu đồ: về nợ quá hạn theo thời gian của NHNo Thanh Xuân từ 2002-2004

12

10

8

2002

6

2003

4

2004

2

0

Ng¾n h¹ n

Trung h¹ n

Như vạy ta thấy nợ quá hạn tại Chi nhánh chỉ tập trung ở trung hạn,

còn ngắn hạn không có nợ quá hạn

2.3.2.1.2. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế:

Bảng 8: nợ quá hạn theo thành phần kinh tế của NHo Thanh Xuân từ 2002-

2004

Đơn vị: Triệu đồng

so so so Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền

Năm 2002 % với 2001 Năm 2003 % với 2002 Năm 2004 % với 2003

quốc 0 0 0 0 0 0

0 0 0 0 0 0

nhân,cá 15 14 -6 105 104 6 DN doanh DN ngoài quốc doanh Tư thể, hộ gđình

(Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2000, 2003, 2004 của NHNo Thanh

Xuân)

- Các món vay chuyển nợ quá hạn chủ yếu là vay tiêu dùng của các cá

nhân là cán bộ công nhân viên có thu nhập không ổn định, bản thân bị ốm đau

(cán bộ hưu trí) dẫn đến chậm trả.

- Biện pháp thu hồi nợ quá hạn: Lãnh đạo phòng cùng cán bộ tín dụng

kết hợp cùng với cơ quan quản lý người vay (Các doanh nghiệp, đơn vị,

UBND phường xã), thu dần hàng tháng từ thu nhập của người vay.

- Đối với nợ quá hạn đã XLRR: Chi nhánh kết hợp với chính quyền địa

phương nơi người vay cư trú để đôn đốc thu hồi nợ dần hàng tháng.

Tuy nhiên có một vấn đề là nợ quá hạn của các doanh nghiệp là không

có hay thực chất là Ngân hàng chưa thu hút được một lượng doanh nghiệp đến

với Ngân hàng.

2.3.1.3. Chỉ tiêu thu nhập:

Để đánh giá chính xác hơn về hoạt động tín dụng của NHNo& PTNT

quận Thanh Xuân ta phải xem xét đến lợi nhuận và lãi suất thu được từ hoạt

động tín dụng của Ngân hàng. Mặc dù điều kiện kinh doanh ngày càng khó

khăn, chênh lệch lãi suất ngày càng thu hẹp nhưng Ngân hàng vẫn giữ được

tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập năm sau cao hơn năm trước.

Bảng 9: Kết quả tài chính

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004

Năm Tổng thu nhập 4.110 21.900 22.794

Tổng chi phí 6.810 15.959 14.045

Quỹ thu nhập -2.700 5.941 8.749

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 của

NHNo Thanh Xuân)

Tổng thu nhập năm 2002 đạt 4.110 triệu đồng tăng 1.862 triệu đồng

so với năm 2001 tuy nhiên tổng chi phí là 6.810 triệu đồng do đó quỹ thu

nhập năm 2002 bị âm là 2.700 triệu đồng. Năm 2003 đạt 21.900 triệu đồng

tăng 17.790 triệu đồng so với năm 2002, tổng chi phí là 15.959 triệu đồng

do đó quỹ thu nhập năm 2003 là 5.941 triệu đồng. Năm 2004 đạt 22.794

triệu đồng tăng 894 triệu đồng so với năm 2003. tổng chi phí là 14.045 triệu

đồng do đó quỹ thu nhập năm 2004 là 8.749 triệu đồng.

Nguyên nhân quỹ thu nhập năm 2002"âm" chủ yếu là do Ngân hàng

phải trả lãi trước cho các loại tiền gủi tiết kiệm và kỳ phiếu. Ngoài ra, sự mất

cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, việc phải bù cho chi phí năm trước

dồn sang, và do những năm gần đây NHNo&PTNT Thành phố Hà Nội chưa

thực hiện cơ chế khoán đến các chi nhánh, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu

ra trong cơ chế cạnh tranh quyết liệt là rất thấp, không được phép tự chủ trong

lãi suất huy động vốn.

Nhưng đến năm 2003 đã có quĩ thu nhập 5.959 triệu đồng vì Ngân

hàng phân bổ đều số tiền lãi trả trước cho các tháng thì quĩ thu nhập của Ngân

hàng không bị âm mà vẫn đảm bảo quĩ thu nhập và quỹ tiền lương theo cơ

chế khoán, mở rộng tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng.

Dư nợ ngắn hạn có tốc độ tăng trưởng mạnh chiếm 71% trong tổng

dư nợ, dư nợ trung và dài hạn tăng trưởng và đảm bảo cân bằng trong tổng

dư nợ(chiếm 29% tổng dư nợ) tốc độ tăng trưởng phù hợp và bảo đảm chất

lượng tốt, tỷ trọng thu dịch vụ ngày càng cao, thu lãi cho vay triệt để và có

chênh lệch dương so với đầu vào, nên góp phần lớn trong việc tạo nên lợi

nhuận lớn.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân:

2.3.2.1. Những hạn chế:

Trong hoạt động tín dụng ngắn hạn, ngân hàng vẫn chưa khai thác

triệt để thị phần tín dụng vốn ngắn hạn trên địa bàn Thủ đô.

Nguồn vốn và dư nợ không đạt chỉ tiêu so với kế hoạch. Nguyên nhân

do nguồn vốn không tăng dẫn đến không mở được dư nợ.

Công tác khách hàng tại Ngân hàng đã được xem xét, cân nhắc nhưng

vẫn chưa được chú trọng đúng mức.

Trong công tác phân tích, thẩm định khách hàng, phương án kinh

doanh chưa khai thác hết các thông tin liên quan, do đó chưa đánh giá đúng

vấn đề quan tâm.

Hiện nay, các Tổng Công ty lớn, các dự án đang có nhu cầu đầu tư rất

lớn, nhưng khả năng tìm kiếm các dự án của ngân hàng còn chưa triển khai,

vẫn còn hạn chế.

Cán bộ tín dụng còn chiếm tỷ lệ thấp (30%) so với tổng số cán bộ của

Ngân hàng, trình độ và năng lực còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm

trong chuyên môn. Đây cũng là một vấn đề còn tồn tại của Ngân hàng.

Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc, khác địa bàn với Chi nhánh Ngân hàng

No cấp I nên việc ủng hộ của chính quyền địa phương, đoàn thể trong địa bàn

về phát triển các mối quan hệ với các doanh nghiệp nhằm tăng nguồn vốn và

tín dụng còn gặp khó khăn.

Trên đây là một số tồn tại còn vướng mắc tại NHNo&PTNT quận

Thanh Xuân tìm ra nguyên nhân để có các giải pháp phù hợp là rất cần

thiết.

2.3.2.2. Nguyên nhân tồn tại những hạn chế đó:

2.3.2.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế chưa ổn định:

Cơ chế và chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong

quá trình điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, sản xuất kinh doanh trong

nước phải cạnh tranh gay gắt với nạn hàng giả và hàng nhập lậu. Chính vì vậy

mà các doanh nghiệp phải chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất

kinh doanh để theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô của nhà

nước cũng như tình hình thực tế. Trên thị trường hiệm nay doanh nghiệp phải

đối mặt với vô vàn khó khăn như: hàng giả. hàng tồn kho, không tiêu thụ được

…dẫn đến tình hình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán.

Ngay như biểu thuế suất đối với vật tư hàng hóa xuất khẩu mỗi năm cũng thay

đổi nhiều lần và mỗi lần thay đổi đã làm cho nhiều doanh nghiệp đang kinh

doanh có lãi lại bị lỗ, ảnh hưởng đến công tác thanh toán chi trả của doanh

nghiệp.

Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ tín

dụng đã buộc ngân hàng đôi khi phải bỏ qua những nguyên tắc tín dụng cũng

như hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để thu hút khách hàng.

2.3.2.2.2. Môi trường pháp lý trong lĩnh vực tín dụng chưa thực sự

hoàn thiện:

Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã được kỳ họp thứ 2 khóa X

của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào tháng 12 năm 1997 và

đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 10/ 1998. Cả một thời gian dài trước khi

Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời đã có sự tham gia đóng góp để

hoàn chỉnh của rất nhiều các cấp, các ngành, song thực tế khi đã được thông

qua vẫn còn rất nhiều vướng mắc và chưa thực sự hoàn thiện để tạo ra hành

lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín dụng của các NHTM.

Các văn bản pháp lý chưa đồng bộ nên khi thực hiện gặp nhiều khó

khăn, trong đó nổi cộm lên là vấn đề cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn ngân

hàng của các DNNN. Trong thời gian trước, mặc dù đã có Thông tư liên bộ

01/ TT - LB ngày 03/ 07/ 1996 hướng dẫn về thủ tục thế chấp cầm cố tài sản

đối với DNNN nhưng trong quá trình thực hiện cho đến nay, đây vẫn là vấn đề

gặp nhiều khúc mắc nhất. Lý do là phần lớn các DNNN vẫn chưa được quyền

sử dụng đất, một tài sản thế chấp để vay vốn phổ biến nhất. Hơn nữa, việc quy

định vay vốn có tài sản thế chấp bắt buộc phải có xác nhận của cơ quan có

thẩm quyền là chưa cụ thể và chưa rõ ràng nên nhiều doanh nghiệp không thể

xác định được cơ quan đó là cơ quan nào. Đối với ngân hàng, việc xem xét

giấy tờ gốc về quyền sử hữu tài sản gặp nhiều khó khăn do thông tư chưa quy

định rõ như tại điểm 1.2 nên đối với tài sản là bất động sản mà DNNN được

sử dụng để cầm cố theo quy định của pháp luật thì lập danh mục riêng kèm

theo các bản gốc giấy tờ về quyền sở hữu và quản lý nếu có.

Cho nên nhiều DNNN thắc mắc giấy tờ gốc là loại giấy tờ nào và có thể

coi hóa đơn xuất nhập kho là một loại giấy tờ gốc không. Đối với việc cho

phép các dây chuyền sản xuất được là vật cầm cố thế chấp cũng rất nguy hiểm

cho những khoản vay dài hạn bởi nó chỉ có giá trị tương đương ở thời điểm

vay. Sau một thời gian sử dụng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,

nó sẽ trở nên mất giá do đã bị lạc hậu, đó là chưa kể đến sự hao mòn hữu hình

xảy ra trong quá trình sản xuất cho nên khi phát mại để thu hồi vốn sẽ là rất

khó khăn.

Hay như Quyết định số 198/ QĐ - NH ngày 16/ 9/ 1994 của NHNN về

thể lệ tín dụng ngắn hạn và Quyết định số 02/ 07/QĐ - NH ngày 17/ 6/ 1996

của NHNN về việc ban hành quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn,

ngân hàng đều quy định mức tiền vay tối đa là 70% giá trị tài sản thế chấp

được xác định ghi trên hợp đồng. Căn cứ để xác định giá trị tài sản thế chấp

cầm cố này lại quy định tổ chức và người có tài sản thế chấp thỏa thuận định

giá trên cơ sở giá thị trường địa phương tại thời điểm đó. Nhưng mà ở mỗi địa

phương không có một cơ quan nào quyết định giá cả của thị trường đối với

từng loại tài sản. Nếu căn cứ vào Quyết định số 02/07/QĐ - NH1 ngày

17/8/1996 và Thông tư liên bộ số 01/TT - LB ngày 03/08/1996 và Quyết định

số 198/QĐ - NH ngày 16/9/1994 thì việc chấp hành quy định cho vay phải

tuân theo đúng chế độ. Do đó, NHNN đã có công văn 417/CV - NH14 ngày

31/05/1997 và công văn 02/04/CV - TD2 ngày 16/7/1997 để bổ sung, sửa đổi

đảm bảo tính thực tiễn của các chính sách, chế độ nhằm tháo gỡ ách tắc rào

cản trong quan hệ cung cầu về vốn giữa các doanh nghiệp với ngân hàng.

Nhưng trong thực tế, khi thực hiện các công văn trên thì việc đảm bảo an toàn

vốn vay của ngân hàng lại có nhiều vướng mắc.

Trước đây, DNNN khi vay vốn các tổ chức tín dụng phải thế chấp tài

sản, điều này quy định cụ thể trong luật DNNN. Nay vay vốn không có điều

kiện này, gặp rủi ro DNNN phá sản thì ngân hàng sẽ thu nợ như thế nào vì

trong Nghị định 59/ CP của Chính phủ đã quy định DNNN chỉ chịu trách

nhiệm hữu hạn về dân sự trong phạm vi vốn của mình và theo luật phá sản thì

chỉ ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ có đảm bảo trước.

Như vậy, chính môi trường pháp lý chưa đồng bộ trong khi môi trường

xã hội còn nhiều nhức nhối đã gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng

của hệ thống NHTM nói chung và NHNo & PTNT Thanh Xuân nói riêng.

2.3.2.2.3. Các nguyên nhân về phía khách hàng:

Điều đầu tiên phải nói ở đây, đó vốn tự có của các doanh nghiệp. Mặc

dù đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng nhìn chung thì vốn của các

doanh nghiệp còn ít ỏi, nghèo nàn, để hoạt động được các nhà kinh doanh đều

phải dựa vào vốn vay của Ngân hàng do đó chỉ cần một sự biến động nhỏ của

thị trường… cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài

chính. Cũng vì đồng vốn ít ỏi đã khiến cho các doanh nghiệp thiếu khả năng

chủ động trong sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ.

Sự yếu kém về trình độ kỹ thuật, máy móc thiết bị lạc hậu làm cho

năng suất lao động thấp, chất lượng kém, giá thành cao dẫn đến hàng hóa

ứ đọng, thua lỗ trong kinh doanh.

Ngoài ra, chúng ta nhận thấy rằng không ít chủ doanh nghiệp, cá nhân

vay vốn của Ngân hàng không chỉ kém về năng lực quản lý điều hành kinh

doanh mà còn yếu kém cả về tư cách, đạo đức khi xét theo góc độ ý muốn trả

nợ Ngân hàng.

Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế. Trong

nền kinh tế thị trường, muốn thành công trong kinh doanh thì các doanh

nghiệp cần phải có kiến thức, kỹ năng quản trị kinh doanh chứ không thể

thành đạt chỉ bởi lòng nhiệt tình và sự chịu đựng gian khổ. Nhưng ở nước ta,

đặc biệt là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà quản lý chưa đáp ứng được

những yêu cầu đó. Một số doanh nghiệp khi vay vốn, họ lập phương án kinh

doanh có hiệu quả, chứng minh đầu vào, đầu ra khả thi nhưng do bỏ qua

những biến động thị trường nên đã bị thua lỗ.

2.3.2.2.4. Các nguyên nhân về phía ngân hàng:

Để thực hiện một khoản cho vay hoàn chỉnh, cán bộ tín dụng thường

phải thực hiện kiểm tra đánh giá khoản vay trước, trong và sau khi cho vay.

Đánh giá rủi ro trước khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Mức độ rủi ro đối

với những khoản vay sẽ là rất lớn nếu khâu này làm không chính xác. Để làm

tốt việc này, các cán bộ tín dụng phải tập hợp và xử lý các thông tin về mọi

mặt của khách hàng bao gồm cả tình hình tài chính, kinh doanh, tư cách đạo

đức của khách hàng, nghĩa là cán bộ tín dụng phải hiểu rõ khách hàng trước

khi có quyết định cho vay. Đánh giá rủi ro trong khi giải ngân giúp cho cán bộ

tín dụng kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tình hình tài sản thế chấp và khả

năng thanh toán của khách hàng. Cuối cùng, sau khi khách hàng trả nợ xong,

ngân hàng sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng và đánh giá hiệu quả vốn vay. Đánh

giá giai đoạn này giúp cán bộ tín dụng thấy được khả năng sử dụng vốn của

doanh nghiệp.

Từ các khâu đánh giá kiểm tra như vây, có thể rút ra một số thiếu sót từ

phía cán bộ tín dụng của ngân hàng như sau:

+ Mặc dù đã được quan tâm đào tạo, song vẫn chưa đáp ứng được kịp

với những diễn biến thay đổi liên tục của nền kinh tế thị trường: sự am hiểu về

nền kinh tế còn hạn chế nên quá trình tính toán cho vay còn chưa sát.

+ Chưa quan tâm nhiều đến tính khả thi của dự án vay, mới chỉ chú

trọng vào tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay của khách hàng dẫn đến tình trạng

khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.

+ Chưa phân tích hết được năng lực tài chính của khách hàng, thường là

vốn tự có tham gia vào dự án thấp, dẫn đến hiệu quả của dự án không cao, khả

năng trả nợ thấp.

+ Công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản vay tuy đã được chú trọng và

tăng cường nhưng công tác tự sửa sai còn chậm nên chưa đáp ứng được yêu

cầu.

Chương III: giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại

NHNo& PTNT Thanh Xuân

3.1. Định hướng phát triển đối với họat động tín dụng của NHNo

Thanh Xuân

3.1.1. Định hướng phát triển năm 2005:

Bằng mọi biện pháp nâng nguồn vốn huy động đối với các thành phần

kinh tế như: Tổ chức kinh tế, đặc biệt là tiền gửi dân cư có tính ổn định cao.

Thâm nhập vào các trường học, bệnh viện trên địa bàn tăng nguồn vốn và phát

triển các dịch vụ ngân hàng như phát hành, thanh toán bằng thẻ ATM cho các

học sinh, sinh viên.

- Tổ chức màng lưới marketing một cách khoa học từ việc tiếp cận, tư

vấn, chăm sóc khách hàng nhằm thu hút nhiều khách hàng về giao dịch tại Chi

nhánh. Mở rộng các dịch vụ tiện ích như thẻ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán

quốc tế, phonbanking. Lấy nguồn thu dịch vụ làm mũi nhọn.

- Mở rộng đầu tư tín dụng một cách an toàn, có hiệu quả bằng nhiều

hình thức. Chấp hành tốt quy trình tín dụng. Chú trọng các doanh nghiệp vừa

và nhỏ, đặc biệt sẽ quy hoạch lại tín dụng đối với từng phường, thông qua các

tổ chức như Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ …

- Tận thu các khoản thu nội bảng như thu lãi cho vay, thu nợ đã xử lý

rủi ro, thu phí dịch vụ ngân hàng.

- Tiếp tục giao khoán tài chính triệt để đến từng cán bộ nhằm đủ tạo ra

quỹ thu nhập cho riêng từng cán bộ và toàn chi nhánh.

- Cùng Thành phố cơ cấu lại ngân hàng, thực hiện tốt Văn hoá doanh

nghiệp nhằm vươn lên ngang tầm với các ngân hàng thương mại khác trên địa

bàn Thủ đô.

3.1.2. Định hướng phát triển trong những năm tới:

3.1.2.1. Công tác nguồn vốn:

Nguồn vốn lớn chính là thế mạnh, là động lực cho việc thực hiện

thành công chiến lược phát triển của ngân hàng trong thời gian tới. Vì vậy,

việc tiếp tục đa dạng hoá nguồn vốn huy động tối đa lượng tiền tệ nhàn rỗi

trong toàn xã hội là hết sức cần thiết. Bên cạnh tăng trưởng nguồn chung,

NHNo&PTNT quận Thanh Xuân đặc biệt chú trọng việc huy động nguồn

vốn có chi phí thấp là nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn từ các tổ chức (đây

là nguồn tiền làm cho chi phí đầu vào của Ngân hàng thấp) bằng cách nâng

cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Mặt khác trong huy

động NHNo&PTNT quận Thanh Xuân sẽ thực hiện các giải pháp để tăng tỷ

trọng nguồn vốn trung và dài hạn để gia tăng đầu tư vốn cho các hoạt động

đầu tư phát triển.

3.1.2.2. Công tác sử dụng vốn:

Chiến lược huy động vốn đòi hỏi phải gắn liền với chiến lược sử

dụng vốn - Một hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa đối với sự phát triển

của xã hội.

Ngân hàng phải chọn lọc và có bước đi thích hợp đối với việc áp

dụng các sản phẩm dịch vụ, cho vay khép kín đồng bộ về vốn đối với doanh

nghiệp được Ngân hàng cho vay đầu tư trung và dài hạn.

Đa dạng hoá các sản phẩm, các loại hình đầu tư kinh doanh mở rộng

thị trường vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ khác.

Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ về an toàn tín dụng bảo lãnh,

hạch toán kế toán và chỉ tiêu tài chính đúng pháp luật.

3.1.2.3. Chiến lược khách hàng:

Trong những năm tới chiến lược khách của Ngân hàng No &PTNT

quận Thanh Xuân là:

Củng cố, giữ vững và phát triển khách hàng truyền thống. Mở rộng

từng bước có chọn lọc các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác,

nhằm mục đích vừa mở rộng hoạt động tín dụng vừa đảm bảo độ an toàn.

Đối với các Doanh nghiệp lớn, Ngân hàng phải giữ vững được mối

quan hệ. Ngoài ra còn phải mở rộng đối tượng khách hàng, tự tìm đến với

khách hàng, tư vấn cho khách hàng về phương án sản xuất kinh doanh.

3.1.2.4. Công nghệ Ngân hàng:

Ngân hàng coi công nghệ Ngân hàng là phương tiện, là công cụ quan

trọng để đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Vì thế NHNo&PTNT

Quận Thanh Xuân cần phải nhanh chóng hiện đại hoá, tin học hoá các

nhiệm vụ Ngân hàng để cung cấp các dịch vụ một cách nhanh nhất, chất

lượng tốt nhất, an toàn đối với khách hàng, đáp ứng yêu cầu quản lý, tăng

sức cạnh tranh.

3.1.2.5. Nhân tố con người:

Ngân hàng xác định con người là nhân tố mấu chốt của mọi thắng lợi.

Việc xây dựng một mẫu hình con người có trình độ, có trí tuệ cao, am hiểu

nghề nghiệp, có nhân cách, có tâm hồn tạo nên nhân tố quyết định cho sự

phát triển bền vững.

3.1.2.6. Quản trị điều hành:

Coi quản trị điều hành là khâu then chốt quyết định sự thành đạt

trong kinh doanh, là yếu tố quyết định đổi mới và hội nhập.

Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó

đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Vì vậy các định hướng

này đồng nghĩa với việc tăng cường các yếu tố liên quan nhằm nâng cao

chất lượng hoạt động tín dụng, tạo ra sự phát triển mới cho Ngân hàng

trong những năm tới.

Như vậy, thông qua định hướng hoạt động của NHNo&PTNT quận

Thanh Xuân trong những năm tới, ta khẳng định được rằng, Ngân hàng

đang nỗ lực vươn lên với tinh thần chủ động trên cả ba mặt: Nâng cao năng

lực tài chính; đổi mới và nâng cao công nghệ; nâng cao trình độ cán bộ và

kỹ năng nghiệp vụ.

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại NHNo

Thanh Xuân

Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro

và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các ngân

hàng thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm

tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính

quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy

mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín

dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát

triển của mỗi ngân hàng thương mại.

Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng?

Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng

No Thanh Xuân trong chương II chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại Chi

nhánh đang còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Để chất lượng tín dụng tại Chi

nhánh trong thời gian tới thực sự hiệu quả thì Chi nhánh cần phải thực hiện

một số giải pháp sau đây:

3.2.1. Công tác huy động vốn:

Nguồn vốn mà ngân hàng huy động bao gồm có: Tiền gửi không kỳ

hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác như phát hành

các giấy tờ có giá... Các loại tiền gửi này có thể được hưởng lãi hoặc không và

Ngân hàng phải hoàn trả khi khách hàng yêu cầu. Đây là nguồn vốn cơ bản để

Ngân hàng hoạt động cho vay và các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho Ngân

hàng.

Trong công tác này khách hàng yêu cầu cần phải nhanh chóng dễ dàng,

tạo thoải mái khi giao dịch... Do đó đòi hỏi sự hướng dẫn của cán bộ nhân

viên ngân hàng.

Chi nhánh là một đơn vị kinh doanh có nhiều ưu thế trong sự canh tranh

giữa các ngân hàng như:

+Là một Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước: Đây là một ưu

thế tâm lý bởi khách hàng rất tin tưởng vào các Ngân hàng thương mại quốc

doanh, khi gửi vào họ không sợ bị mất nhất là sau khi hàng loạt các trung tâm

tín dụng đổ vỡ.

+Là một ngân hàng có uy tín, có địa điểm vị trí hoạt động thuận lợi địa

bàn hoạt động ngay tại Thủ đô Hà Nội là nơi đông dân cư có đời sống cao.

+Về công nghệ ngân hàng: Đã đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính

cập nhật thông tin hàng ngày, sử dụng máy ATM (máy rút tiền tự động)

Như vậy để phát huy được những thuận lợi trên nhằm thu hút tối đa

lượng tiền gửi, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế

trên địa bàn thì trong thời gian tới: Chi nhánh vẫn phải quan tâm hơn nữa đến

trình độ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đối với các nhân viên giao dịch có quan

hệ trực tiếp với khách hàng gửi tiền

Củng cố và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trụ sở giao

dịch. Việc nâng cấp, tân trang các phòng tiếp khách, điểm giao dịch sẽ khiến

khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng hơn.

Thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng phong phú hấp dẫn khách

hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ

chức các đợt phát hành kỳ phiếu trái phiếu bằng nội tệ, ngoại tệ ...

Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để Sở

tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn

bộ phận dân cư còn chưa hiểu biết đầy đủ về Chi nhánh nên việc làm trên sẽ

tạo được ưu thế của Chi nhánh trên thị trường có như vậy các nguồn tiền tạm

thời nhàn rỗi trong dân cư mới có thể tập trung về Chi nhánh.

Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá

hiện đại hoá nên lượng vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế ngày càng lớn.

Vì vậy nếu Chi nhánh thực hiện tốt những công tác trên sẽ thu hút được một

lượng vốn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng góp phần điều

hoà vốn tốt nhất cho nền kinh tế.

3.2.2. Trong công tác cho vay và thu nợ:

Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các

khoản tín dụng và sự tồn tại của Ngân hàng do vậy mục tiêu của ở đây không

chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu quả

trong công tác này Ngân hàng cần phải áp dụng các biện pháp như:

3.2.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng:

Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến

việc không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Để có thể đưa ra được

quyết định cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những

rủi ro. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay

thẩm định tín dụng.

Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay

trong việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các nhà ngân hàng cần

phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các

điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan

trọng đó là: Năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong

các nhân tố này uy tín nổi lên là nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín

dụng được cấp với hy vọng sẽ được hoàn trả như thoả thuận.

Nếu như khâu thẩm định được được thực hiện tốt thì các nhà quản trị

ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được

việc này các nhà ngân hàng phải:

3.2.2.2. Thực hiện thu thập và xử lí thông tin một cách chính xác:

Trong điều kiện Chi nhánh hiện nay mới chỉ thực hiện cho vay đối với

các Doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Vì

vậy việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin về tình hình

tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, các thông

tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng hàng

đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá

chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin

vay của doanh nghiệp, Ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp,

sổ sách kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát

triển và đưa vào thị trường các sản phảm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi

nhuận.

Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất các hoạt động của doanh

nghiệp những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào

được đưa ra, hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất.

Ngoài ra Ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về tính ổn định của nguồn

nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm. Các

điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi nhuận...

Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp,

Ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, phỏng vấn người xin vay để có

được những thông tin về mục đích vay tiền, thu thập các thông tin về tình hình

vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín

của đơn vị vay vốn. Bên cạnh đó Ngân hàng còn điều tra các thông tin từ bên

ngoài như: thông tin điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tra từ

các bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ Trung tâm thông tin

tín dụng Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của

NHNo&PTNT...Tuy nhiên hoạt động của các trung tâm này mới chỉ đạt được

một số kết quả nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín

dụng.

Vì vậy ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập

huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi

ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu tạo lập thông tin về doanh

nghiệp một cách chính xác.

Trong thời gian tới khi Chi nhánh thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất

thì nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ,

trình độ học vấn, đạo đức... kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia

đình(số lao động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác,

mức thu nhập bình quân/ tháng và một số tình hình khác .

Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các

thông tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định

chính xác.

3.2.2.3. Phân tích tài chính đơn vị vay vốn:

Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn, để hiểu rõ về

năng lực tài chính của đơn vị đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín

dụng là việc làm hết sức cần thiết. Mặt khác việc phân tích tài chính là việc

phân tích tình hình hoạt động của đơn vị vay vốn từ đó biết được tình hình tài

chính, khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có

hợp lý không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính

được các khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho Ngân hàng...Chính vì

vậy các cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi

phí, lợi nhuận, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được

hệ thống các chỉ số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh

toán, hệ thống tài trợ vốn...

3.2.2.4. Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và

trình độ của người điều hành:

Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ

các nguồn khác nhau Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà

khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả

thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn

được hoàn trả. Hơn nữa, sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất

phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm của người quản lý.

Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản

xuất kinh doanh với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm

sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một

yếu tố quan trọng không thể thiếu được trước khi xem xét có cho vay hay

không.

3.2.3. Xử lý các khoản nợ quá hạn:

Để nâng cao chất lượng tín dụng song song với việc thực hiện những

giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ qúa hạn mới thì việc xử lý các khoản nợ

quá hạn, nợ khó.

Đây là một biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến thực

hiện chu trình khép kín của khoản tín dụng

Để tăng cường công tác quản lý nợ, Ngân hàng cần phải:

- Chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về hoạt động tín

dụng, phát hiện và kiến nghị kịp thời những điều bất hợp lý, không phù hợp

với Ngân hàng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Mỗi khi đưa ra quyết

định tín dụng phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, không được xem xét hời hợt và

phê duyệt dễ dàng, phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các

nhân tố: Pháp luật, chủ trương chính sách, chu trình cho vay, quan trọng

nhất là phải biết rõ khách hàng của mình là người như thế nào?… Ngân

hàng nên kiên quyết không cho vay các dự án không có tính khả thi, kém

hiệu quả kinh tế, mặc dù khách hàng có đầy đủ các tài sản thế chấp, vì mục

đích cho vay không đơn thuần chỉ là thu nợ mà giúp khách hàng có vốn để

duy trì hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế

cho khách hàng, cho xã hội và chính bản thân Ngân hàng.

- Thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng, phát hiện và

ngăn chặn kịp thời các hành vi của khách hàng làm ảnh hưởng tới mức độ

an toàn của khoản tiền đã cho vay.

- Tổ chức đánh giá phân loại các khoản nợ để định hướng rủi ro trong

quá trình cho vay. Việc đánh giá phân loại này được tiến hành ngay từ khi

quyết định cho vay.

Giải pháp trong công tác thu hồi nợ quá hạn:

- Trước hết phải có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nợ quá hạn như

chấn chỉnh lại các thiếu sót ở các khâu trong quá trình cho vay, thiết lập bổ

sung đầy đủ hồ sơ pháp lý, hạn chế đến mức tối đa những kẽ hở trong khâu

nghiệp vụ để đề phòng lừa đảo, chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.

- Tổ chức kiểm tra sử dụng vốn chi tiết đến từng khách hàng, từng

món vay kết hợp với đánh giá, phân loại nợ cụ thể. Qua đó phân tích chính

xác những nguyên nhân dẫn đến không thu hồi được nợ. Có cơ chế khen

thưởng kịp thời cho những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Những trường hợp khách hàng có tính dây dưa, để nợ quá hạn kéo

dài, Ngân hàng cần sử dụng những biện pháp cứng rắn, kết hợp với sự hỗ

trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để phát mại tài sản

thế chấp, khởi kiện, cưỡng chế để thu hồi nợ.

3.2.4. Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý:

Khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp, Cán bộ tín dụng cùng

với doanh nghiệp cần phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với đặc điểm

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Về nguyên tắc: Kỳ hạn nợ phải được xác định theo thời gian luân

chuyển vốn. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra sự

gấp gáp cho khách hàng trong việc trả nợ, khiến cho doanh nghiệp phải sử

dụng các nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn của đối tượng khác để hoàn trả,

tạo nên sự rối loạn trong trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nhiều khi làm

tăng chi phí vốn. Ngược lại, xác định kỳ hạn nợ quá thời gian luân chuyển vốn

sẽ tạo ra khả năng sử dụng vốn vào mục đích khác, vận động của vốn tín dụng

sẽ thoát ra khỏi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự kiểm soát

của ngân hàng. Do đó việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý là yếu tố quyết định đến

việc khách hàng có trả nợ Ngân hàng khi đến hạn hay không.

3.2.4.1. Đối với các khoản vay ngắn hạn:

Kỳ hạn nợ ban đầu: Được xây dựng trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào một năm doanh nghiệp quay

được mấy vòng vốn tức là xác định một vòng quay vốn của Doanh nghiệp là

mấy tháng và lấy số tháng đó để định ra kỳ hạn trả nợ.

Muốn làm được điều này một mặt các Doanh nghiệp phải cung ứng đầy

đủ số liệu để cùng với Ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ chính xác hoặc bản

thân Doanh nghiệp phải tự tính các khoản và thu được trong tương lai để lên

kế hoạch trả nợ Ngân hàng. Vì nếu không trả đúng hạn Doanh nghiệp sẽ phải

chịu một mức lãi suất của khoản nợ quá hạn(150% lãi suất trên hợp đồng tín

dụng). Do đó không chỉ Ngân hàng bị rủi ro là không thu được vốn mà Doanh

nghiệp đương nhiên bị tăng chi phí do phải trả lãi suất cao hơn cho Ngân

hàng.

Kỳ gia hạn nợ: Không phải bất cứ Doanh nghiệp nào cũng được gia hạn

nợ; mà Ngân hàng chỉ nên gia hạn cho các Doanh nghiệp thực sự khó khăn

hoặc Doanh nghiệp phải chứng minh cho Ngân hàng thấy được là có những

khoản thu mà Doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được trong tương lai và Ngân

hàng phải đàm phán với Doanh nghiệp chắc chắn về kỳ hạn tới.

3.2.4.2. Đối với những khoản vay trung và dài hạn:

Khi tính toán thời hạn trả nợ cuối cùng mà chưa hết thời hạn tối đa cho

phép, thì thời gian gia hạn được phép tối đa bằng thời gian còn lại.

Ví dụ: Thời gian cho vay dài hạn tối đa 10 năm. Nhưng khi tính toán dự

án cho vay thời gian thu hồi vốn là 7 năm. Nếu thực tế khách hàng cần gia hạn

nợ Ngân hàng có thể xem xét kéo dài thêm 3 năm nữa.

3.2.5 Tăng cường kiểm tra giám sát các khoản vay:

Để các khoản tín dụng thực sự được hiệu quả, có nghĩa là các khoản cho

vay ra phải thu hồi được. Muốn vậy các Cán bộ tín dụng phải thường xuyên

kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đây là một hoạt động rất quan trọng

bởi có kiểm tra, giám sát mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn vay

như thế nào? Có đúng mục đích không và tình hình hoạt động sản xuất kinh

doanh ra sao.

Tuy nhiên trong thời gian qua công tác kiểm tra kiểm soát ở Chi nhánh

còn kém hiệu quả vì thế đã xuất hiện nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh do

nguyên nhân từ phía khách hàng. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới

Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức các

đợt kiểm tra bất ngờ nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Công

tác kiểm tra giám sát, không chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan

trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ lãnh đạo, cán bộ tín dụng.

mất phẩm chất, tiêu cực, thiếu trách nhiệm gây thất thoát tài sản xã hội chủ

nghĩa, làm mất uy tín của ngân hàng.

3.2.6. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng:

Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một biện pháp hữu hiệu nhằm

phân tán rủi ro cho ngân hàng tránh tình trạng"bỏ tất cả trứng vào một rổ".

Căn cứ vào việc phân loại các hình thức tín dụng trong chương I thì hiện nay

Chi nhánh đã thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước, Doanh

nghiệp tư nhân, công ty TNHH, thực hiện cho vay gián tiếp thông qua chiết

khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho vay ngắn, trung, dài hạn... Trong thời gian

Chi nhánh tới cần phải tập trung hơn nữa trong việc đa dạng hoá các hình thức

cho vay nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của

khách đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.

Mặt khác đa dạng hoá các hình thức tín dụng đó cũng là một giải pháp

nhằm phân tán cũng như giảm rủi ro tín dụng đôia với Ngân hàng.

3.2.7. Phân loại khách hàng:

Để đánh giá các khách hàng Ngân hàng phải dựa vào một số tiêu chí

nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ A,B,C khác nhau để từ

đó đưa ra các giải pháp như: Tiến hành tập trung cho vay các doanh nghiệp

sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh, vay trả sòng phẳng. Các

đơn vị hiện nay có khó khăn nếu ổn định được sản xuất kinh doanh có khả

năng vượt lên, phản ánh kinh doanh hiệu quả thì nghiên cứu thẩm định kỹ

lưỡng để có giải pháp tháo gỡ cho đơn vị vay vốn hoạt động nâng cao năng

lực sản xuất kinh doanh, có điều kiện trả nợ ngân hàng.

Từ chối, hạn chế cho vay khách hàng không có khả năng ổn định và

phát triển trong sản xuất kinh doanh, không có các phương án sản xuất kinh

doanh khả thi, có hiệu quả và khách hàng mới không hội đủ các nguyên tắc,

điều kiện tín dụng, xu hướng phát triển không vững chắc.

Tiếp tục xây dựng và kiên trì thực hiện chiến lược khách hàng, xây

dựng các cơ chế ưu đãi, tăng cường tìm kiếm khách hàng có chất lượng tốt,

quy mô hoạt động lớn.

3.2.8. Thực hiện các hoạt động Marketing ngân hàng:

Đây là biện pháp quảng cáo để khách hàng có thể hiểu rõ hơn về ngân

hàng và từ đó đến giao dịch với ngân hàng Marketing Ngân hàng có nhiều

biện pháp như: Treo biểu lãi suất ra ngoài, thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng để Ngân hàng tự giới thiệu về mình, tổ chức các hội nghị khách

hàng theo định kỳ hoặc nhân dịp nào đó. Các loại hình hội nghị khách hàng có

thể tổ chức là: Hội nghị khách hàng lớn, hội nghị khách hàng truyền thống,

hội nghị khách hàng mở rộng từ việc mở hôị nghị khách hàng Ngân hàng có

thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ những ý kiến đóng góp của khách

hàng.

Ngoài ra Ngân hàng có thể tác động vào tâm lý khách hàng qua việc

trao đổi quà tặng cho khách hàng thứ bao nhiêu của mình hoặc có thể nhân

một dịp nào đó trao quà tặng hay dành những ưu đãi riêng cho khách hàng...

Những biện pháp này sẽ có tác dụng tâm lý tốt, có thể đem lại hiệu quả khi

thực hiện.

Hiện nay tại Chi nhánh thiết nghĩ việc thành lập ra phòng Marketing

cũng rất quan trọng vì với một đội ngũ các bộ chuyên về công tác Marketing

sẽ đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu về Chi nhánh, các dịch vụ của

Chi nhánh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi

nhánh.

3.2.9. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tín:

Trong mọi lĩnh vực con người là yếu tốt quyết định đó là một chân lý,

song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải

do chính những người trực tiếp làm tín dụng - cán bộ tín dụng quyết định. Cán

bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan

đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách

hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành

vi vụ lợi... Vì vậy người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn thận,

được bố trí hợp lý được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một

số tiêu chuẩn cơ bản sau:

+ Phải có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cán bộ tín dụng cần phải

được đào tạo kiến thức nghiệm vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách

chính qui ở trình độ đại học hoặc cao đẳng. Trong quá trình làm việc Cán bộ

tín dụng còn cần phải có tinh thần học hỏi, nghiên cứu học tập, nhằm cập nhật,

bổ xung kiến thức để phù hợp và đáp ứng được sự vận động và phát triển của

xã hội.

+ Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao: Người cán bộ tín dụng

hơn bao giờ hết phải có đạo đức tốt, không thể bị cám dỗ bởi các lợi ích vật

chất, phải coi sự nghiệp, danh dự bản thân và lợi ích của ngân hàng lên trên

hết. Bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm nghề nghiệp rất cao mới có thể xử lý

tốt công việc được giao. Thể hiện có trách nhiệm cao trong việc tìm tòi, học

hỏi nghiệp vụ, trách nhiệm cao trong từng công việc, dám làm dám chịu trách

nhiệm với cách xử lý của mình. Thực tế đã có một số cán bộ tín dụng đã

không có đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng cương vị quyền hạn để lừa đảo hoặc

cấu kết với khách hàng để lừa đảo lấy tiền ngân hàng cũng có một số cán bộ

tín dụng mặt dù không vụ lợi nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý

nghiệp vụ làm theo chỉ đạo của người khác hoặc về cảm tình cá nhân mà bỏ

qua các qui trình, tiêu chuẩn tín dụng nên gây thất thoát làm giảm chất lượng

tín dụng.

+ Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. Để có được kinh nghiệm

và xác định được bản lĩnh nghề nghiệp của một cán bộ cần phải có thời gian.

Vấn đề này đề cập đến việc cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn

luyện và ngân hàng phải có chính sách đào tạo trong quá trình hoạt động thực

tế. Đồng thời khi phân công giao việc cho cán bộ tín dụng cần chú ý đến kinh

nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp tương xứng với tính khó khăn phức tạp của

công việc, lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phụ trách...

Trên cơ sở những tiêu chuẩn nêu trên Chi nhánh với tư cách là một Chi

nhánh đầu mối của toàn ngành thì tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng

lại càng nên chặt chẽ hơn. Thấy được tầm quan trọng của người cán bộ nên

trong năm vừa qua nhno&ptnt Việt Nam đã tổ chức ra cuộc thi tuyển chọn

người tài để củng cố cán bộ nhno&ptnt Việt Nam nói chung và Chi nhánh nói

riêng. Mặc dù vậy nhưng số lượng cán bộ tín dụng tại phòng kinh doanh Chi

nhánh vẫn còn thiếu.

3.2.10. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và hiện đại hoá

công nghệ Ngân hàng

Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá với những đặc trưng nổi bật là

tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng phát triển mạnh mẽ

đã và đang chi phối khuynh hướng cả cấu trúc vận động của hệ thống Tài

chính-Ngân hàng từng Quốc gia. Từ khi đổi mới nền kinh tế, hệ thống

NHTM Việt nam đã sớm bắt kịp quá trình hội nhập với cộng đồng tài chính

tiền tệ khu vực và thế giới. Do đó việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết

bị và công nghệ Ngân hàng ngày càng tiên tiến và hiện đại là phù hợp với

xu thế chung. Đồng thời nó góp phần làm tăng năng suất lao động trong

hoạt động Ngân hàng. Ngân Hàng No&PTNT quận Thanh Xuân cần tập

trung hoàn thiện các chương trình phần mềm trong công tác huy động vốn

và các nghiệp vụ khác. Phối hợp chặt chẽ các mặt nghiệp vụ khác với công

tác huy động vốn theo nguyên tắc tính toán lãi suất hiệu quả do từng khách

hàng mang lại như áp dụng chính sách lãi suất cho vay ưu đãi đối với khách

hàng có số dư tiền gửi thường xuyên, thanh toán trước hạn các chứng từ có

giá theo lãi suất, các mức phí dịch vụ phù hợp, công khai khả năng cung

ứng ngoại tệ giao ngay, kỳ hạn đối với khách hàng…nhằm mở rộng khả

năng giao dịch của khách hàng.

Một khi cơ sở vật chất, trang thiết bị và công nghệ Ngân hàng tiên

tiến, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng, với tốc độ nhanh, đảm bảo an

toàn... sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô, số lượng khách

hàng, khả năng hội nhập với cộng đồng tài chính Quốc tế nhanh hơn.

3.3. Kiến nghị

Để hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT quận Thanh Xuân an

toàn, tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho nền kinh tế thì ngoài

sự nỗ lực phấn đấu cho bản thân toàn Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT

quận Thanh Xuân cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện của các cơ quan có thẩm

quyền của Nhà nước, Ngân hàng cấp trên về việc tạo lập hành lang pháp lý

để hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả và chất lượng

cao.

Về vấn đề này tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:

3.3.1. Đối với chính bản thân Ngân hàng No Thanh Xuân:

- Củng cố tổ chức, thêm dần các Phòng hành chính, thanh toán quốc tế,

bổ sung cán bộ lãnh đạo.

- Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ cán chuyên môn của các

nhân viên ngân hàng.

- Tạo điều kiện trong mối quan hệ với Chính quyền địa phương (tham

gia Đảng, Chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên tại quận).

- Tạo ra môi trường làm việc đoàn kết, cùng nhau giúp đỡ làm việc- đó

là một việc rất cần thiết.

- Tiếp tục nâng cấp trụ sở Chi nhánh đẹp đẽ, khang trang hơn tạo vị thế

cho Chi nhánh nói riêng và thương hiệu AGRIBANK nói chung.

3.3.2. Đối với Ngân Hàng No & PTNT Việt Nam

Để hoạt động Ngân hàng có hiệu quả cao cần đảm bảo sự liên kết, hỗ

trợ giữa NHNo & PTNTVN với các Chi nhánh về các chính sách, chế độ

của Nhà nước, của ngành và được hướng dẫn thực hiện thống nhất trong cả

hệ thống.

- Quy trình nghiệp vụ phải đồng bộ, hỗ trợ nhau.

- Thông tin phải luôn mở rộng, cập nhật trong các Ngân hàng.

- NHNo& PTNT VN cần hỗ trợ nguồn vốn cho các chi nhánh thuộc hệ

thống.

- Hỗ trợ thông tin về các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ.

- Hướng dẫn thực hiện việc bảo hiểm tín dụng, nhất là những khoản tín

dụng mà rủi ro có thể dễ xảy ra.

3.3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng là đầu mối các thông tin về kinh tế, thông tin về rủi ro

trong kinh doanh do vậy Ngân hàng cần phải:

- Ban hành cơ chế quy định về thiết lập quỹ bù đắp rủi ro để các tổ

chức tín

dụng có các cơ sở giải quyết các khoản rủi ro quá hạn.

- Xem xét lại cơ chế các doanh nghiệp được vay vốn ở nhiều tổ chức

tín dụng, đây là khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát vốn vay của Ngân

hàng

- Nên có quy định bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng phải khai báo

tất cả các doanh nghiệp và cá nhân có quan hệ với tổ chức tín dụng mình

nhanh chóng và kịp thời để đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, chính xác,

đầy đủ cho các tổ chức tín dụng khác.

- Thu thập các thông tin về quan hệ tín dụng từ các Ngân hàng trên

toàn quốc để đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, chính xác, đầy đủ cho các

tổ chức tín dụng.

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét đề nghị Chính phủ về việc

thành lập các tổ chức bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu

đồng bộ,

không còn phù hợp với thực tế để hệ thống văn bản của ngành mang tính

pháp lý cao, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng có hiệu

quả và chất lượng cao hơn.

3.3.4. Đối với Nhà nước

Cần xác lập một hành lang pháp lý đầy đủ và an toàn cho hoạt động

tín dụng của Ngân hàng.

Môi trường pháp lý không đầy đủ là một cản trở lớn đến sự phát triển

các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Chúng ta đều biết rằng

hoạt động Ngân hàng liên quan đến hầu hết các ngành trong nền kinh tế

quốc dân, chính vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế tạo ra

hành lang pháp lý yểm trợ cho hoạt động Ngân hàng vừa là nhiệm vụ cấp

bách vừa là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Để tạo hành lang pháp lý

thuận lợi cho hoạt động tín dụng Ngân hàng chúng tôi thấy rằng nhà nước

cần sớm hoàn thiện về mặt pháp lý một số nội dung sau đây.

+ Quyền về tài sản của pháp nhân và cá nhân khi thế chấp vay vốn

Ngân hàng.

+ Quyền sử lý tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo nợ vay (hình thành

từ vốn vay Ngân hàng ).

+ Trách nhiệm phối hợp hoạt động của các cơ quan chức năng trong

hỗ trợ hoạt động tín dụng Ngân hàng.

Xác định vị trí của các Ngân hàng thương mại như một loại hình

doanh nghiệp kinh doanh có lỗ có lãi. Những rủi ro trong hoạt động tín

dụng (ở mức cho phép) cần phải coi như các khoản chi phí.

Các cơ quan có thẩm quyền cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc

đối với các doanh nghiệp theo định kỳ để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng

có cơ sở phân tích tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng

vay vốn chính xác, để các khoản tiền vay do Ngân hàng phát ra được an

toàn.

Các cơ quan có thẩm quyền cho phép Ngân hàng phối hợp cùng

khách hàng bán tài sản thế chấp, tài sản gán nợ của khách hàng cho Ngân

hàng không phải nộp lệ phí, sang tên chuyển nhượng tài sản, tạo điều kiện

cho Ngân hàng làm thủ tục bán tài sản thế chấp của khách hàng được thuận

lợi.

Các cơ quan pháp luật như: Viện kiểm soát, Toà án, công an đã tạo

điều kiện cho Ngân hàng thu giữ và quản lý tài sản thế chấp và giải quyết

nhanh các vụ án để nhanh chóng thu hồi vốn cho Ngân hàng.

Ngoài ra, đảm bảo môi trường kinh tế ổn định, góp phần đảm bảo

hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Môi trường kinh tế

không ổn định sẽ gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng, dẫn đến khó

khăn cho các doanh nghiệp trong việc trả nợ Ngân hàng.

Kết kuận

Nghiệp vụ tín dụng luôn luôn chứa đựng nhiều rủi ro đối với Ngân

hàng nó cũng mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Theo thời gian

tín dụng Ngân hàng vẫn sẽ giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được

trong nền kinh tế. Mặc dù Ngân hàng đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt

của các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng như: Quỹ bảo hiểm, Quỹ Đầu tư..

và đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán trong thời gian gần

đây.

Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng để đánh giá

hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị

trường chỉ tiêu này thể hiện tiềm lực kinh tế, vị thế của mỗi Ngân hàng trên

thị trường. Chính vì vậy, công tác nâng cao chất lượng tín dụng luôn được

chú trọng đối với hệ thống Ngân hàng Thương mại nói chung và

NHNo&PTNT quận Thanh Xuân nói riêng.

Trong khuôn khổ bản chuyên đề này, tôi đã trình bày một vài nét về

hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT quận Thanh Xuân và đưa ra giải

pháp, góp phần nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng mong

rằng có thể góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của Ngân

hàng trong giai đoạn hiện nay.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Lê Vinh Danh, 1996, Tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, NXB Chính

Trị Quốc gia

2. TS. Phan Thị Thu Hà(chủ biên),2004, Giáo trình Ngân hàng Thương

mại, NXB Thống Kê

3. Frederic S. Mishkin, 2001, Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài

chính, NXB Khoa học Kỹ thuật

4. Peter S.Rose, 2001, Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài

Chính

5. Hoàng Xuân Quế, 2002, Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng Trung

Ương, NXB Thống Kê

6. PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài(chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài

chính tiền tệ, NXB Thống Kê

7. Sổ tay Tín dụng của Ngân hàng nông ngiệp& phát triển Việt Nam.

Phụ lục

Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2002-2004

Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn

Bảng 3: Hoạt động tín dụng theo thời gian

Bảng 4: Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế

Bảng 5: Doanh số thu nợ

Bảng 6: Hiệu suất sử dụng vốn

Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn tại NHNo Thanh Xuân

Bảng 8: Tình hình nợ quá hạn tại NHNo Thanh Xuân

Băng 9: Kết quả tài chính