Báo cáo tốt nghiệp

“Tăng cường huy động và sử dụng vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam “

1

mục lục

Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTM.

Chương II: Thực trạng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam –Băc’ Ha` Nội

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội trong thời gian tới.

2

Lời mở đầu

Sau khi mới giành lại độc lập , thống nhất đất nước, với cơ sở vật chất hết sức tồi

tàn cộng với một nền kinh tế hầu như kiệt quệ sau chiến tranh , Việt Nam lúc đó là một

trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Nhưng dưới sự lãnh đạo tàI tình của Đảng

và Nhà nước với phương châm “ toàn Đảng , toàn dân cùng nhau xây dựng đất nước “

cho dến nay đất nước ta hiện đang vươn lên mạnh mẽ và là một trong số nhiều nước có

tốc độ phát triển cao trên thế giới. Để có thể đạt đươc thành tựu to lớn đó, công tác huy

động nguồn vốn chính là một trong những nhiệm vụ bức thiết được Đảng và Nhà nước

đặt lên hàng đầu.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, nhưng chúng ta vẫn không

thể phủ nhận rằng vẫn còn rất nhiều nguồn vốn mà chúng ta chưa khai thác hết (đặc

biệt là nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn ngoài nước) trong khi nền kinh tế của

đất nước lại đang rất cần vốn. Chính vì vậy , nhiệm vụ của các trung gian tài chính

đặc biệt là các Ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng. Do đó các ngân hàng cần có

những chính sách phù hợp để tăng cường khả năng huy động vốn nhằm đáp ứng kịp

thời nhu cầu của nền kinh tế.

Xuất phát từ những nhận thức trên kết hợp với quá trình thực tập tại chi nhánh

Ngân hàng đầu tư và phát triển –Bắc Hà Nội nên em mạnh dạn chọn đề tài “Một số

giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam - Bắc Hà Nội “ làm chuyên dề tốt nghiệp .

Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong nền

kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam -Bắc Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.

Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương:

Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTM.

Chương II: Thực trạng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam –Băc’ Ha` Nội

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội trong thời gian tới.

3

Chương I

Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM

I- Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại ( NHTM)

1- Khái niệm và đặc điểm hoạt động NHTM

1.1- Khái niệm

4

Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông

hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời

xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến và những

người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước tình hình

đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền

thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt động của Ngân

hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.

Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cững

từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. ở Việt

Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt động

Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường

xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ

thanh toán”.

1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM

Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng

thông qua một số đặc điểm sau:

* Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời (

bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong đó,

hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình

thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm

kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các

nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện

công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ

hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.

* Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện,

nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật

quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được phép hoạt động trên

thị trường.

Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so

với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính chất dây

5

truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân hàng, đặc

biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy động vốn của

người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi

tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho

hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng

như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác

nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những

đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu

quả trong nền kinh tế thị trường.

2- Các hoạt động chủ yếu của NHTM

Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát triển

theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú và đa

dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà các

nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ.

Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM bao

gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng tổng kết

tài sản.

Bảng tổng kết tài sản của NHTM

Tài sản Nguồn vốn

( Tính lỏng giảm dần)

- Dự trữ - Tiền gửi

- Các chứng khoán - Tiền vay

- Cho vay - Vốn của ngân hàng

- Tài sản khác - Nguồn vốn khác

2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản:

6

Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là: Huy

động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.

2.1.1- Huy động vốn

Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi một

NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một số

nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và một số

nguồn khác.

* Huy động từ chủ sở hữu:

Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở

hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh

được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM

không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở

rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,...). Các

NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái

phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước,...

Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở hữu của NHTM quyết

định.

* Huy động từ tiền gửi:

Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng

trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền

gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó trong

một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền. Dựa vào

tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:

-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng. Mục

đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có nhiệm

vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.

- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút tiền

giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ động sử

7

dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải được sự

đồng ý của ngân hàng.

- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân tạm

thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết

kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời.

* Nguồn vay mượn:

Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn

của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các

NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các NHTM khác,

vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay thông thường chiếm

tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất cần thiết và có vị trí

quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.

* Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM có

thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ,... uy tín

của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.

2.1.2 Sử dụng vốn:

Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những

nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động sử

dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay và Đầu tư.

* Dự trữ:

Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng

nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng tiền mặt)

để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào qui mô hoạt

động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi

trả tiền mặt.

Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được hình

thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng trung ương,

Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu.

* Cho vay:

8

Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ hoạt

động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy

nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín dụng có thể do

ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai, Thẩm định hồ sơ

không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng có thể do nguyên nhân

khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay liên quan chặt chẽ với tất cả

các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với

sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn

nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình

thức cho vay chủ yếu như: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn, Cho vay có

đảm bảo,...

* Đầu tư:

Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác:

- Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi nhuận

tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng tin cậy để

cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách hữu hiệu nhất cho

NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM cần phân tích kỹ lưỡng

trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư.

- Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư nhằm mục đích sinh lợi bằng nhiều hình thức

khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,...

2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian

Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo

để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt động trung

gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu nhập khá quan

trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện. ở

các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng con đường “ phi giá”, tức là

luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng

càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển.

Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu tư, cho vay, mà gần phần nửa ở các dịch vụ,

nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.

9

Nghiệp vụ trung gian của NHTM rất đa dạng và phong phú như : Dịch vụ chuyển

tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản, Dịch vụ khấu trừ

tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản phí dịch vụ.

2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản:

Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng vốn,

môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được thừa nhận là

tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở các tài khoản

ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo lãnh công nợ, các hợp

đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái như giao dịch Swaps,

Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại

bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũng là

một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá tình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng

tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của NHTM.

Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các hoạt

động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và diễn

biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm ảnh hưởng

không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM.

Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế càng

phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa, các hoạt

động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể

thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.

II- các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại

Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành

và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong

kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển

bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi

trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn n khác nhau. Song nhìn

chung các NHTM thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau:

1- huy động từ chủ sở hữu:

10

Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang

tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho

một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).

Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong

phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn

điều lệ và các quỹ.

Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai

trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập

một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn

pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng

quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM

thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu;

Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức

phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần

của ngân hàng tham gia liên doanh.

Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít

nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn

điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi

hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định).

Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là các quỹ

buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo

toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...

Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn

của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực,

quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo

uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao,

có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài

trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua

đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.

11

Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông

qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:

- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các

cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ

huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành

thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ

đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về

cổ tức đối với các cổ đông.

- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn tự

có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên

doanh.

- Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả hoạt

động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một số quỹ

khác.

Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một số

NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển

để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định tương đối

cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và lãi cho khoản

tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy

tín và hiệu quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn

ổn định này.

Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền tảng,

là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ

cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển

của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết

quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một

cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các NHTM.

2- Huy động tiền gửi

12

ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số

tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ

hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi là. Trên phương

diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi của các

doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.

2.1-Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)

Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để

thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay

lập tức một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban, được chỉ rõ là người

thụ hưởng.

* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi

Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất

hiện dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài khoản lệnh

rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó

cho phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi

hỏi này ít được thực hiện nên NOW được sử dụng như một tài khoản phát séc để chi

trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể

được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp

vụ là chuyển vốn tự động và khách hàng uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc

chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản phát séc để bù đắp thấu chi. Kết quả

cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu

được từ tài khoản tiền tiết kiệm.

Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi trên thị

trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản này được trả

lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh thoán cho

các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền

trước.

2.2- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội

13

Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh

doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và được

các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm thời

được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng

trong ngắn hạn.

Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là

trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh của

mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài và

nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả quan hơn

về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn

không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng. Cũng như tiền gửi

có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào

ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó.

Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thoả

thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân

hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM thường

cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc

hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền

trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ

hạn.

NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động kinh

doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.

2.3- Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng

Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các nước

công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm

đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.

Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta

cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng

của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng

14

lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan

trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.

Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết

kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.

Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất

đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết

kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền đó

trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của

tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán

quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.

Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã và

đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm

đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và đảm bảo

nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước

nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng

từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố

hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.

Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài trợ

cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ thuộc

vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại

hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó

thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất

như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi

là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM.

3- Vốn đi vay

Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất

nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu

vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ

đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể chia thành hai

loại chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.

15

3.1- Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:

Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình thức

phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...

Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng

việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường

việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của

NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.

Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi

trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát

hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động

thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được trả

cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng hoặc

được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng

thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.

Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng

kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối đa

nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn chúng

ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng.

* Kỳ phiếu:

- ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một

công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một CD

để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là một chứng

nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất định. Người

sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được trả lại chứng

chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ với lãi.

Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của

các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn chung

không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng phát hành.

Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:

16

+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm

phát hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn.

Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn.

+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần.

những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.

+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển

tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng

mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD

loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.

Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi điều

chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành CD, các

NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có hiệu quả đối với

nguồn vốn ngắn và trung hạn.

- ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220-

NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh

phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được phép

phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.

Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát

hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục đích, nhu

cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.

Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn

đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu

tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư

chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp

ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN.

Trong tờ trình “ Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:

+ Lý do xin phát hành

+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn

+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)

17

+ Thời gian phát hành

+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu

+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.

Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn

người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết.

* Trái phiếu:

- ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM

phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thường

việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn

của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng

như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi

suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái

phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.

ở Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống

đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới

hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các

tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một

thời gian nhất định.

Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức

mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay

nếu được người cho vay chấp nhận.

Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi

danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự do

chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì

phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).

Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn

cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát

hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo

18

hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành và có giá trị tối

thiểu là 50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh

giá tối thiểu.

Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn

trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người vay

có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi

cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi

định kỳ...

NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau:

+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh

của đơn vị được quản lý có hiệu quả

+ Có phương án kinh doanh cụ thể

+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định

+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép

NHNN về việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.

Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều

chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao, đáng

được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại một

NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối lượng vốn

như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho

các công trình lớn của quốc gia.

3-2 - Vay vốn các tổ chức tín dụng

Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác,

Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn chung chi

phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình thức huy

động vốn khác.

19

ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể

vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ các

NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.

* Vay từ NHNN và BTC:

- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là

Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.

Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn,

tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những

trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế

hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn

chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.

- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài

chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa

phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các mục

tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân hàng Đầu

tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển

để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có những dự án thuộc

danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM

có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ

chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của

NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh doanh.

* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác

Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn

lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh

dựa trên nguyên tắc:

- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp

- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.

- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của

NHNN.

20

Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ

thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.

* Vay từ nước ngoài:

Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có thể

vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam

hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong khu vực

và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp

dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM

Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này

phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức

bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của

tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến

thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các

NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.

Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do

NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan NHNN

xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài,

qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.

III- Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM.

* Nhân tố khách quan:

- Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế: Động thái của nền kinh tế chính là cơ

sở đầu tiên để người gửi tiền ra quyết định nên gửi tiền vào Ngân hàng, tích trữ vàng,

USD hay mua sắm các tài sản khác. Trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định, giá cả và

sức mua của đồng tiền biến động mạnh thì người dân có xu hướng tích trữ vàng, USD

hoặc các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó gửi tại NHTM. Ngược lại, một nền

kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân sẽ có cái nhìn khả

quan hơn và xu hướng tiền gửi ở các NHTM tăng lên là một điều tất yếu.

- Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ “

Để tạo vốn cho đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là làm ăn có hiệu quả,

phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm kể cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản

21

xuất kinh doanh và trong tiêu dùng của dân cư”. Thực tế cho thấy, người dân có thu

nhập càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể càng lớn, đặc biệt là khi thu

nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ tiết kiệm không

phải tăng lên theo tương quan tỷ lệ với sự gia tăng của thu nhập mà tăng với một tỷ lệ

lớn hơn so với thu nhập do nhu cầu thiết yếu lúc này được thoả mãn hoàn toàn và

lượng tiền dư ra sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, lượng tiền tiết kiệm có được gửi vào

NHTM hay không còn phụ thuộc vào tâm lý tiêu dùng các dân cư. Họ có thể đem gửi

Ngân hàng, giữ tiền mặt, vàng, ngoại tệ hoặc mua các tài sản khác.

Bên cạnh nguồn tiết kiệm từ dân cư thì nguồn tiết kiệm từ các tổ chức kinh tế- xã

hội cũng rất quan trọng. NHTM có thể huy động nguồn vốn này thông qua nghiệp vụ

phát hành trái phiếu. Do đó để NHTM thực hiện tổ chức năng trung gian tài chính,

phục vụ đầu tư phát triển thì đòi hỏi các tổ chức, cá nhân và cả nhà nước phải có

chính sách tiết kiệm hợp lý và coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu.

- Chính sách của Nhà nước:

Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn

của các NHTM. Bởi vì khi Nhà nước khuyến khích việc mở rộng huy động vốn thì sẽ

có các chính sách văn bản hướng dẫn cụ thể. Từ đó, các NHTM sẽ có các căn cứ pháp

lý để thực hiện nghiệp vụ này một cách thuận lợi hơn. Ngược lại, khi Nhà nước không

khuyến khích thì tất yếu công tác này sẽ rất khó có khả năng tồn tại và phát triển.

Hiện nay, Nhà nước ta đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn và đã ban

hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các NHTM ngày càng mở

rộng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

- Nhu cầu vốn của nền kinh tế:

Nền kinh tế đòi hỏi nhiều vốn cho đầu tư phát triển, ngoài vốn ngắn hạn còn rất

nhiều vốn. Song tự bản thân nó không thể đáp ứng đủ lượng vốn cần thiết, NHTM với

vai trò là cầu nối giữa người thiếu vốn và người thừa vốn đã góp phần cung cấp một

nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế. ở nước ta, thị trường chứng khoán mở ở dạng sơ

khai do đó việc đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM

vẫn chiếm vị trí quan trọng và cấp thiết.

- Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý:

22

ở những địa điểm dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh nghiệp

hoạt động và kinh tế phát triển thì NHTM có thể huy động được nhanh hơn và nhiều

hơn những nơi kém phát triển... Đặc biệt ở những thị trường sôi động, có độ nhạy cảm

cao với lãi suất và tiện ích khách do nghiệp vụ huy động vốn của NHTM đem lại thì ở

đó việc mở rộng và bổ sung nguồn vốn của NHTM sẽ thuận lợi hơn các vùng nông

thôn hay miền núi.

* Nhân tố chủ quan:

- Uy tín của NHTM: khi xa rời vốn liếng một thời gian dài để gửi vào NHTM,

người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do đó họ

thườg có sự cân nhắc và lựa chọn Ngân hàng nào được họ thừa nhận là an toàn và

thuận lợi nhất hay nói cách khác là có uy tín nhất đối với gười gửi tiền. Thông thường,

người gửi tiền đánh giá uy tín của NHTM qua các tiêu thức cơ bản như: Sự hoạt động

lâu năm, quy mô, trình độ quản lý, công nghệ,... Do đó các NHTM cần nâng cao uy tín

thông qua các nghiệp vụ của mình, từng bước thoả mãn tối đa nhu cầu của người gửi

tiền. Khi đã tin tưởng vào một NHTM nào đó, tất yếu họ sẽ tạm xa rời vốn liếng của

mình để gửi vào Ngân hàng hưởng lãi. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân ta có câu

tục ngữ “ Chọn mặt gửi vàng”, và trong hoạt động ngân hàng chữ “Tín” và “Lòng tin”

là rất quan trọng.

- Chính sách lãi suất cạnh tranh:

Bao gồm cả lãi suất huy động và cho vay. Đây là một chính sách quan trọng của

NHTM, nó đòi hỏi phải có sự linh hoạt, vừa hấp dẫn người gửi , đồng thời phải đảm

bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Thông thường, quy mô của tiền gửi vào ngân

hàng biến động tỷ lệ thuận đặc biệt thì quy luật này bị phá vỡ. Chẳng hạn khi lãi suất

huy động giảm nhưng người gửi vẫn thu được một khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ

trượt giá thì vốn huy động của ngân hàng vẫn có thể tăng lên. Như vậy có thể nói lãi

suất huy động có ảnh hưởng lớn đến quy mô tiền gửi vào NHTM, đặc biệt là tiền gửi

tiết kiệm. Vì người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ

trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lời của các hình thức đầu tư khác như cổ

phiếu, trái phiếu,... Từ đó dân chúng sẽ đưa ra quyết định có nên gửi tiền vào ngân

hàng hay không? Gửi bao nhiêu và dưới hình thức nào?...

23

Đối với các tổ chức kinh tế- xã hội thì ít nhạy cảm hơn đối với lãi suất mà

NHTM huy động mà họ quan tâm nhiều tới công nghệ ngân hàng, thái độ phục vụ của

nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất và tính tiện ích cũng như thanh khoản của trái

phiếu ngân hàng cũng được các tổ chức này đặc biệt quan tâm.

- Chính sách sản phẩm:

Đa dạng hoá sản phẩm trong lĩnh vực ngân hàng đã khó, đa dạng hoá các hình

thức huy động vốn lại càng nan giải hơn. Tuy nhiên, các NHTM đã cho ra đời nhiều

sản phẩm vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại như: Tiền gửi tiết kiệm,

kỳ phiếu, trái phiếu,... với sự phong phú về kỳ hạn, mệnh giá và chủng loại. Qua đó

từng bước đã thu hút được nhiều khác hàng hưởng ứng. Một NHTM có sự đa dạng

trong nghiệp vụ huy động vốn trong nền kinh tế, thoả mãn được nhu cầu của người gửi

tiền; một sản phẩm phù hợp sẽ làm họ quan tâm và thúc dục họ gửi tiền vào ngân hàng

hơn là tìm kiếm các hình thức đầu tư khác. Vì vậy đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt là

trong huy động vốn có thể coi là” cuộc chạy đua” không có đích cuối cùng của các

NHTM hiện nay.

- Công tác cân đối vốn của Ngân hàng:

Một chiến lược huy động vốn đúng đắn phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong

cùng thời kỳ, sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận

và tăng trưởng nguồn vốn đó chính là công tác cân đối vốn của Ngân hàng. Trong quá

trình đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tình hình công tác cân đối vốn có vai

trò hết sức quan trọng đối với bất cứ NHTM nào. Thông qua cân đối vốn, NHTM sẽ

biết được thực trạng và có những dự đoán nhu cầu biến động vốn trong tương lai. Từ

đó có thể đưa ra chính sách huy động thích hợp về số lượng cũng như là về loại tiền

và kỳ hạn huy động. Qua đó sẽ nâng cao tính chủ động của NHTM trong công tác huy

động vốn.

- Chính sách quảng cáo:

Chính sách quảng cáo đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành trong thời

đại ngày nay, trong đó không loại trừ ngành Ngân hàng. Để tạo được hình ảnh đẹp

trong con mắt khách hàng thì NHTM cần phải thực hiện đồng bộ nhiều yếu tố. Trong

đó không chỉ chú trọng đến các hình thức quảng cáo như: Quảng cáo trên tạp chí,

24

Panô, láp phích, Internet,... mà còn cần có sự kết hợp với các chính sách như: Chính

sách khách hàng, chính sách sản phẩm,... Việc tuyền truyền, quảng cáo để mọi tầng lớp

dân cư hiểu biết về các thông tin là rất cần thiết. Trên cơ sở hiểu biết công tác huy

động của Ngân hàng thì dân chúng mới có thể nhiệt tình hưởng ứng.

- Ngoài một số chính sách sơ bản trên, nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn

chịu sự tác động của một số chính sách như: Chính sách khách hàng, các dịch vụ ngân

hàng,... Trong đó các dịch vụ huy động vốn như: Tư vấn, chiết khấu,... kèm theo

nghiệp vụ huy động vốn có vai trò hỗ trợ quan trọng. Qua đó nhằm tạo ra những tiện

ích hấp dẫn khách hàng và có thể tăng sức cạnh tranh trong công tác huy động vốn n

của NHTM.

Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta, việc tạo lập và tập

trung mọi nguồn lực để phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước là rất cấp bách..

Với vai trò là “ cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, thông qua các nghiệp vụ

huy động vốn của mình, các NHTM đã góp phần quan trọng trong việc khơi thông

nguồn vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế đáp ứng cho nhu cầu tín dụng, góp phần đảm bảo

hiệu quả kinh doanh ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế- xã hội và thực hiện

Chính sách tiền tệ quốc gia.

chương II

Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển -bắc hà

nội

25

I- Tổng quan về ngâ chi nhánh n hàng đầu tư và phát triển -bắc hà nội

1- Lịch sử hình thành và phát triển

Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển khu vực gia lâm được thành lập vào

ngày 31/10/1963 .Tiền thân của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Gia lâm là

từ phòng cấp 3,sau đó chuyển thành chi điếm với tên gọi là chi điếm 3 ngân hàng Kiến

Thiết thành phố Hà Nội thuộc ngân hàng kiến thiết Việt Nam–Bộ tài chính.Khi đó Chi

điếm 3 gồm 25 cán bộ phụ trách cấp phát vốn cho 2 huyện Gia Lâm và Đông Anh.

Đến năm 1981 ,Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Chi nhánh ngân hàng ĐầuT ư

và Xây Dụng khu vực 3 thành phố Hà Nội thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam.Đến

năm 1990,Chi nhánh đổi tên thành chi nhánh ngân hàng Đầu Tư và Phát triển huyện

Gia Lâm thuộc ngân hàng đầu tư và phát triển thành phố Hà Nộitháng 8 năm 2000 lai

chuyển đổi trực thuộc Sở Giao Dịch I Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam.

Ngày 15 tháng 10 năm 2002,Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Gia Lâm

chính thức tách khỏi sở Giao Dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ,trở

thành Chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và đổi tên

thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội.Trải qua 40 năm hoạt động với bao

nhiêu thăng trầm ,sau nhiều lần đổi tên và bổ sung nhiều chức năng ,nhiệm vụ song về

bản chất thì chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội vẫn là một ngân hàng

quốc doanh đóng vai trò phục vụ cho sự nghiệp đầu tư và phát triển của đất nước.

Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội có trụ sở tại 558 đường

Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm-Hà Nội ở xa khu dân cư và thương mại tập trung, vị trí lại

bị che khuất. Ngay tại địa bàn hoạt động có 4 ngân hàng và 2 quỹ tín dụng nhân dân.

Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các đơn vị xây lắp, do đó nhu cầu vốn rất lớn.

Do địa điểm không được thuận lợi nên việc huy động vốn rất khó khăn.

Trải qua quá trình phát triển hiện nay Chi nhánh có 70 cán bộ, công nhân viên:

+ Ban giám đốc: 2 người.

+ Phòng kế toán: 9 người.

+ Phòng tín dụng: 9 người.

26

+ Phòng nguồn vốn: 5 người.

+ Phòng tổ chức hành chính và các bộ phận trực thuộc: 13 người.

+ Tổ kiểm tra nội bộ trực thuộc ban giám đốc: 2 người.

+ 5 bàn tiết kiệm trải rộng 4 quận, huyện: 20 người.

Trước sự chuyển biến của đất nước, ngân hàng nói chung và chi nhánh ngân

hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội nói riêng đang thực sự đóng vai trò là đòn bẩy tích

cực của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chi nhánh đang từng bước khẳng định vị trí của

mình đối với nền kinh tế. Là một chi nhánh có bề dày hoạt động đầu tư, nhất là trong

lĩnh vực xây dựng cơ bản, chi nhánh đã có những kinh nghiệm quý báu trong hoạt

động thẩm định dự án đầu tư, cùng với công nghệ ngân hàng chặt chẽ, hoạt động có

bài bản, chi nhánh đã và đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường tạo lập được niềm

tin với khách hàng. Sự phát triển và thành công của chi nhánh luôn gắn với các doanh

nghiệp, các ngân hàng bạn. Do vậy chi nhánh đã đạt một số thành tựu đáng kể.

2- Các hoạt động chính:

NHĐT&PT - chi nhánh Bắc Hà Nộôảtng thời gian gần đây đã đạt được 1 số kết

quả đáng khích lệ trong các mặt hoạt động : huy động vốn, sử dụng vốn, các dịch vụ

ngân hàng và phát triển khách hàng. Cụ thể như sau :

2.1- Huy động vốn:

Với tầm quan trong của nguồn vốn huy động trong hoạt động kịnh doanh của

ngân hàng,chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội. đã rất chú trọng đến

công tác huy động vốn.

Nguồn vốn huy động trong năm qua đã tăng trưởng một cách nhanh chóng và

vững chắc theo từng năm, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 tổng nguồn vốn huy

động đạt 746.526 triệu đồng tăng 16,05 % so với năm 2002 (số tuyệt đối là 140.612

triệu đồng).

Mặc dù chi nhánh đặt ở vị trí xa trung tâm thương mại và dân cư. Vị trí trụ sở

không thuận lợi cho công tác giao dịch. Nhưng chi nhánh đã có những chủ trương huy

động vốn phù hợp, sử dụng các biện pháp tuyên truyền vận động kết hợp với các biện

27

pháp nghiệp vụ để tăng huy động vốn theo chiều hướng tích cực. Chi nhánh đã đẩy

mạnh và đổi mới phương thức huy động vốn bằng các chính sách như ưu đãi tiền gửi,

ưu đãi cho vay…ngân hàng huy động vốn từ các nguồn vốn chủ yếu: tài khoản tiền gửi

của dân cư, tiền gửi của các cơ quan, tổ chức kinh tế và tư nhân, phát hành trái phiếu

kì phiếu. Với những chính sách đó, chi nhánh bắc hà nội_ngân hàng đầu tư và phát triển việt

nam đã thu hút được nhiều khách hàng, tạo lập được uy tín trên thị trường. Số lượng

khách hàng đến giao dịch, thanh toán, quan hệ với ngân hàng ngày càng tăng. Cụ thể

tính đến cuối tháng 12/2004 đã có khoảng 300 đơn vị và tổ chức kinh tế mở tài khoản

giao dịch tại chi nhánh, tăng 17% so với năm 2003.

Tóm lại, công tác huy động vốn trong những năm qua đã đạt được một số kết quả

bước đầu, hoàn thành kế hoạch đề ra, từng bước chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo

hướng tích cực, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, an toàn, đảm bảo đủ vốn cho hoạt

động kinh doanh của ngân hàng.

2.2- Hoạt động Tín dụng

Trong những năm gần đây, chi nhánh NHĐT&PT - Bắc Hà Nội luôn khẳng đinh

được vị trí của mình trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt

động đầu tư phát triển nói riêng với doanh số cho vay tăng đều đặn trong đó tập trung

chủ yếu cho đầu tư phát triển các ngành công nghiệp và xây dựng.. Bảng số liệu dưới

đây là một minh chứng cho sự thành công này

Quy mô hoạt động Tín dụng (2002-2004).

(đv : tỷ đồng)

Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004

0,712.008 0,767.48 0,859.32 Dư nợ

0,40.208 0,809.64 0,967.02 Cho vay

0,675.838 0,744.11 0,824.18 Thu nợ

28

Nguồn: Báo cáo thường niên chi nhánh NHĐT&PT - Bắc Hà Nội

Qua bảng số liệu trên ta có thể thâý :

+Tổng doanh số cho vay: doanh số cho vay năm 2003 là 808.646 triệu đồng

tăng 9,38% so với năm 2002 (số tuyệt đối là 69.438 triệu đồng) Doanh số cho vay năm

2004 là 907.020 triệu đồng tăng 12,03% so với năm 2003 (số tuyệt đối là 97.374triệu

đồng).

+Tổng doanh số thu nợ năm 2003 là 744.177 triệu đồng tăng 10,11% so với

năm 2002 (số tuyệt đối là 68.339triệu đồng). Tổng doanh số thu nợ năm 2004 là

824.180 triệu đồng tăng 10,75% (số tuyệt đối là 80.003 triệu đồng ). Chính nhờ công

tác thu nợ đạt kết quả tốt nên nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay chiếm tỷ lệ

nhỏ(khoảng dưới 0,5%).

+ Dư nợ cho vay: Tổng dư nợ cho vay tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng

dư nợ năm 2003 là 767.480 triệu đồng tăng 7,79% so với năm 2002. Tổng dư nợ năm

2004 là 859.320 triệu đồng tăng 11,97% so với năm 2003.

Để có được kết quả như trên trước tiên phải kể đến sự lãnh đạo, chỉ đạo sít sao

của ban lãnh đạo chi nhánh đồng thời chi nhánh có một đội ngũ cán bộ tín dụng tận

tuỵ, năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, luôn bám sát các doanh nghiệp

đảm bảo cho vay và thu nợ đúng hạn, sử dụng vốn đúng mục đích. Với sự lãnh đạo

đúng đắn, kịp thời của ban lãnh đạo, sự cố gắng của cán bộ tín dụng chắc chắn rằng

công tác tín dụng của chi nhánh bắc hà nội_ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam sẽ đạt

được những kết quả tốt trong những năm tới.

2.3- Hoạt động Đầu tư

Cùng với sự tăng trưởng không ngừng của hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư

cũng ngày càng được chi nhánh chú trọng. Các chứng khoán đầu tư hiện nay của chi

nhánh là chứng khoán của Chính phủ ( Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc). Đây là

các chứng khoán có độ an toàn cao và mang lại lợi nhuận cho chi nhánh NHĐT&PT -

bắc Hà Nội.Đồng thời nó còn là dự trữ thứ cấp của chi nhánh.

29

Ngoài đầu tư vào chứng khoán của Chính phủ, chi nhánh Bắc Hà Nội còn mở

rộng các hoạt động góp vốn như: Góp vốn liên doanh VID, , Góp vốn liên doanh Qbe,

Góp vốn Quỹ TDND... Nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời. Trong giai đoạn từ năm

2002 - 2004, hoạt động đầu tư của chi nhánh Bắc Hà Nội đã có những bước tiến quan

trọng, góp phần nâng cao thu nhập. Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng sau:

Quy mô hoạt động đầu tư của chi nhánh Bắc Hà Nội ( 2002- 2004)

Đơn vị: tỷ đồng

Đầu tư 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004

Chứng khoán 177 815 797

Góp vốn liên doanh 122 223 230

Tổng cộng 299 1.038 1.027

Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh - chi nhánh Bắc Hà Nội

2.4-Hoạt động dịch vụ khác

Mở rộng dịch vụ khác là giải pháp an toàn và phù hợp với xu hướng hoạt động

của ngân hàng hiện đại. Bằng uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư phát triển,

chi nhánh Bắc Hà Nội đã triển khai tốt các hoạt động dịch vụ khác:

* Kinh doanh tiền tệ: Hoạt động này đang từng bước được củng cố và nhất quán

theo mục tiêu quản lý và kinh doanh của Ngân hàng trong từng giai đoạn. Nếu như

năm 2002 doanh số đầu tư tiền gửi nước ngoài đạt 2,5 tỷ USD thì năm 2003 đã lên tới

3,8 tỷ USD, tăng 52% và vượt 8% so với kế hoạch. Tổng trong năm 2003, doanh số

bán ngoại tệ qui đổi ra USD là 5,3 tỷ USD vượt 179% so với số thực hiện năm 2002 và

112% sơ với kế hoạch, lãi thu được từ hoạt động này là 22 tỷ đồng, tăng gần 60% so

với năm 2002.

* Hoạt động thanh toán: Chất lượng công tác thanh toán của chi nhánh Bắc Hà

Nội cũng được nâng cao, một mặt thực hiện điều hành vốn nhanh chóng kịp thời trong

30

toàn hệ thống,một mặt tiết kiệm được nguồn vốn đáng kể trong thanh toán so với trước

đây. Mạng lưới thanh toán quốc tế cũng ngày càng được mở rộng.

* Hoạt động bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh chi nhánh Bắc Hà Nội ngày càng

được củng cố và mở rộng. Chi nhánh không chỉ dừng lại ở việc bảo lãnh cho các dự

án vay vốn thuộc các ngành công nghiệp trọng điểm của nền kinh tế trên địa bàn mà

còn mở rộn sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, môi

trường... Chi nhánh Bắc Hà Nội cũng đã phát triển mạnh các hình thức như bảo lãnh

dự thầu thực hiện hợp đồng, hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành sản phẩm.

Doanh số bảo lãnh năm 2002 đạt 4.311tỷ đồng, tăng trưởng 109% so với năm 2001.

Năm 2003 doanh số bảo lãnh ước đạt 5000 tỷ đồng với mức phí thu được là 26 tỷ

đồng, tăng 15% so với năm 2002.

Ngoài các hoạt động dịch vụ đã được đề cập, chi nhánh Bắc Hà Nội còn thực

hiện một số loại hình dịch vụ khác như: Cho thuê tài chính, hoạt động trên thị trường

chứng khoán... Tuy nhiên những hoạt động này mới được chi nhánh thực hiện trong

những năm gần đây. Vì vậy nó cần được củng cố và từng bước hoàn thiện thêm.

II- Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh NHĐT&PT bắc hà nội ( từ 2001-

2004)

Là 1 trong những chi nhánh ngân hàng có vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư

phát triển ở Việt Nam , chi nhánh Bắc Hà Nội luôn coi chính sách nguồn vốn là chính

sách hàng đầu trong công tác hoạch định chiến lược phát triển của toàn hệ thống. Với

sự nỗ lực và uy tín trong Kinh doanh, trong vài năm gần đây tốc độ tăng trưởng tổng

nguồn vốn của ngân hàng luôn được giữ vững ở mức cao ( tốc độ tăng trưởng bình

quân 28%/năm)

50000

40000

30000

22870 28807

20000

39177 49790

10000

Biểu đồ tăng trưởng nguồn vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội ( 2000-20003)

31

0

2001

2002

2003

2004

Qua biểu đồ ta thấy, tổng nguồn vốn của chi nhánh luôn được nâng cao. Nếu như

năm 2001 tổng nguồn vốn là 22.870 tỷ đồng thì đến năm 2003 đã đạt tới 49.790 tỷ

đồng ( tăng 118% so với năm 2002 và tăng 27% so với năm 2002). Theo dự kiến năm

2006 tổng nguồn vốn sẽ lên tới 62.000 tỷ đồng, tăng 25 % so với năm 2005.

Sự tăng trưởng trong tổng nguồn vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội thể hiện tiềm lực

phát triển của chi nhánh ngày càng lớn. Đồng thời cũng biểu hiện khả năng tự chủ

trong Kinh doanh của chi nhánh. Nếu phân chia theo hình thức huy động thì nguồn

vốn chi nhánh Bắc Hà Nội bao gồm 4 nguồn chính là: Vốn từ chủ sở hữu, Nguồn huy

động tiền gửi, Vốn vay, Nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư. Chúng ta sẽ phân tích từng

nguồn đó trong tổng thể, dưới đây là bảng số liệu về nguồn vốn phân tổ theo hình thức

huy động:

32

Tình hình huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội ( từ 2002-2004)

(Đơn vị : tỷ đồng)

31/12/2002 31/12/2003 31/12/2002004

Khoản mục Số dư Tỷ trọng Số dư tỷ trọng số dư tỷ trọng

(%) (%) (%)

Vốn từ chủ sở hữu 4484 23,6 4376 19,5 4433 15,5

Nguồn huy động tiền gửi 4230 22,3 5100 22,7 7500 26,1

Vốn vay 6854 36,1 9637 43 1345 46,9

8

Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư 3410 18 3321 14,8 3303 11,5

Tổng cộng 18978 100 2243 100 2869 100

4 4

Nguồn: Phòng nguồn vốn- Kinh doanh, chi nhánh Bắc Hà Nội

1- Vốn từ chủ sở hữu:

Đây là nguồn vốn mang tính chất nền tảng cho sự hình thành và phát triển của

chi nhánh. Nếu phân chia theo nguồn hình thành thì nguồn chủ sở hữu bao gồm hai bộ

phận chính cấu thành là: Vốn tự có và quỹ đầu tư phát triển. Giá trị của mỗi bộ phận

được biểu hiện ở bảng sau:

33

Tình hình huy động vốn từ chủ sở hữu ( 2002-2004)

(Đơn vị: tỷ đồng)

31/3/2002 31/3/2003 31/3/2004

* Vốn từ chủ sở hữu Tỷtrọng tỷtrọng tỷtrọng Số dư số dư số dư (%) (%) (%)

Vốn tự có 784 18 25 1133 26 1076

Quỹ đầu tư phát triển 3700 82 75 3300 74 3300

Tổng cộng 4484 100 4376 100 4433 100

Nguồn: Phòng nguồn vốn Kinh doanh

Chi nhánh Bắc Hà Nội là một trong những chi nhánh trọng yếu của

NHĐT&PTVN. Bởi vậy vốn tự có của chi nhánh được hình thành trên cơ sở: Nhà

nước cấp vốn điều lệ và hàng năm căn cứ vào kết quả Kinh doanh mà ngân hàng trích

lập quỹ bảo toàn vốn điều lệ theo luật định (theo Pháp lệnh Ngân hàng thì các Ngân

hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Mức tối

đa của quỹ do NHTM quy định). Quỹ bảo toàn vốn điều lệ được chuyển từ quỹ bảo

toàn vốn và các quỹ của chi nhánh nhằm bảo toàn giá trị vốn điều lệ được cấp. Việc

chuyển vào quỹ này phải được Bộ tài chính chấp thuận và về mặt pháp lý thì quỹ bảo

toàn vốn điều lệ độc lập với vốn điều lệ được cấp. Theo bảng trên, ta thấy vốn tự có

34

ngày càng lớn. Năm 2003 đạt 1076 tỷ đồng tăngg 37% so với năm 2002 và năm 2004

đã tăng lên tỡi 1133 tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2003. Sự tăng lên của vốn tự có biểu

hiện quỹ bảo toàn vốn điều lệ ngày càng tăng.

Nguồn vốn từ chủ sở hữu có tính ổn định cao. Vì vậy chi nhánh thường sử dụng

nguồn này để tài trợ cho sự phát triển của mình (xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng

mạng lưới...) và cho vay theo kế hoạch của Nhà nước.

2- Nguồn huy động tiền gửi:

Tiền gửi được cấu thành bởi hai nguồn cơ bản đó là: Tiền gửi của các tổ chức

kinh tế- xã hội, và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.

*Tiền gửi của các tổ chức kinh tế-xã hội:

Đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi củâ các tổ chức kinh tế-xã hội nhưng

họ chưa có nhu cầu sử dụng.

* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:

Sự biến động của nguồn vốn này qua từng giai đoạn phụ thuộc nhiều vào yếu tố

kinh tế vĩ mô của nền kinh tế cũng như các chính sách về nguồn vốn của chi nhánh,

đặc biệt là chính sách lãi suất. theo các nhà kinh tế thì tiết kiệm trong tầng lứp dân cư

là khá lớn từ 5- 10 tỷ USD. Để khơi dậy tiềm năng này, chi nhánh Bắc Hà Nội đã

nghiên cứu và đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng với nhiều phương thức, thể lệ

phù hợp với nhu cầu của dân chúng.

Để huy động ngày càng nhiều nguồn tiền gửi, chi nhánh Bắc Hà Nội đã và đang

không ngừng đổi mới áp dụng các nghiệp vụ huy động hiện đại, kích thích dân chúng

gửi tiền với kỳ hạn dài và lãi suất hợp lý.

3- Vốn vay .

Chi nhánh Bắc Hà Nội vay vốn trên thị trường thông qua hình thức chủ yếu: Vay trực

tiếp. .

* Vay NHNN và Bộ Tài chính:

Đây là nguồn vốn cho chi nhánh vay trực tiếp từ NHNN và Bộ tài chính để tài trợ

cho các dự án phát triển, xây dựng và cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng chiến lược đối

35

với nền kinh tế do Chính phủ phê duyệt. Chi nhánh chịu sự rủi ro tín dụng đối với các

khoản cho vay từ nguồn vốn này. Nghiệp vụ này thường phát sinh khi Nhà nước giao

cho chi nhánh thực hiện chương trình tín dụng đầu tư phát triển theo kế hoạch cụ thể

nhưng lại không rót vốn cho chi nhánh hoặc rót vốn ít. Do đó chi nhánh phải tự lo vốn

bằng cách vay từ NHNN và Bộ tài chính, đồng thời kết hợp với các nguồn khác để

phục vụ tốt theo yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước giao. Thông thường nguồn này có lãi

suất ưu đãi hơn các khoản vay khác, cũng như việc chi nhánh cho vay theo sự chỉ định

của Nhà nước sẽ có lãi suất thấp hơn. Để ngân hàng đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì

Nhà nước sẽ tiến hành tài trợ dưới hình thức “ Cấp bù lãi suất”- tức là Nhà nước sẽ cấp

cho phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay thông thường và lãi suất cho vay theo kế

hoạch Nhà nước.

Bên cạnh nguồn vay này, chi nhánh còn vay vốn dưới nhiều hình thức khác nhằm

tài trợ cho đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước và các dự án mà Ngân hàng chủ

động tím kiếm.

* Vay các tổ chức tín dụng (TCTD):

Nguồn vay từ NHNN và BTC rất hạn chế, đặc biệt trong trường hợp chính sách

tiền tệ quốc gia thắt chặt hay NSNN có mức thâm hụt lớn. Do đó chi nhánh đã chủ

động tìm kiếm nguồn vốn bằng việc vay các TCTD trong nền kinh tế khi cần thiết.

Nguồn vốn này chủ yếu được hình thành do chi nhánh vay từ các Công ty bảo hiểm

như: Công ty Bảo hiểm xã hội, Công ty Bảo hiểm Việt Nam....

Nguồn này tăng mạnh và chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu vốn vay cũng gắn

liền với sự tăng trưởng của tín dụng đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước và cá dự

án mà chi nhánh tự tìm kiếm. Sự biến động nguồn vốn vay từ các TCTD cũng dễ hiểu

vì Quỹ đầu tư phát triển và nguồn vay từ nước ngoài đang có xu hướng giảm.

Vay từ các TCTD là nghiệp vụ huy động vốn quan trọng của chi nhánh nhằm tài

trợ cho nhu cầu vốn của các dự án cụ thể. Tuy nhiên, nếu lượng vốn này quá lớn sẽ

làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng ( vì lãi suất thường cao hơn tiền gửi tiết kiệm, kỳ

phiếu cùng kỳ hạn).

36

Tóm lại, nghiệp vụ vay trực tiếp vốn của chi nhánh trong 3 năm qua đã góp phần

quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của

Ngân hàng.

III- Đánh giá công tác huy động vốn tại chi nhánh bắc hà nội

1- Những thành tựu đã đạt được đạt được:

Cũng như các NHTM khác, chi nhánh NHĐT&PT - Bắc Hà Nội luôn coi nguồn

vốn là yếu tố vừa mang tính chất tiền đề, vừa có tính chất quyết định cho sự tăng

trưởng và phát triển của mình. Trong đó công tác huy động vốn của chi nhánh trong

giai đoạn từ 2002-2004 đã đạt được kết quả rất khả quan:

- Tổng nguồn vốn không ngừng tăng lên, nếu như cuối năm 2002 giá trị nguồn

này mới chỉ có 18.978 tỷ đồng thì đến 31/12/2004 nguồn này đã đạt tới 18.694 tỷ

đồng, tăng 30% so với năm 2003 và chiếm 57% tổng nguồn vốn năm 2004 của chi

nhánh.

- Đảm bảo đủ vốn cho đầu tư phát triển. Kết quả đạt được trong công tác huy

động vốn đã góp phần quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các dự án trọng điểm.

Ngoài ra còn góp phần thực hiện cho vay đối với các dự án tự tìm kiếm đã ký hợp

đồng tín dụng ; chương trình phát triển kinh tế …

Kết quả trên đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập và nâng cao uy tín với

khách hàng cũng như sự tin tưởng của NHĐT&PT, Đảng và Nhà nước đối với chi

nhánh. Đây chính là phần thưởng vô giá, là động lực lớn thúc đẩy toàn bộ hệ thống của

chi nhánh không ngừng nâng cao các hoạt động của mình.

Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội đã có được những thành

công đáng khích lệ trong công tác huy động vốn. Tổng nguồn vốn huy động của chi

nhánh tăng liên tục qua các năm, năm sau cao hơn năm trước đảm bảo nhanh vững

chắc. Chi nhánh đã và đang dần dần tự chủ về nguồn vốn để đáp ứng công tác sử dụng

vốn.

37

Chi nhánh đã và đang khắc phục hạn chế nhất định trong công tác huy động vốn..

Hơn nữa khẳng định uy tín của chi nhánh đến khách hàng, khách hàng đã đặt niềm tin

ở ngân hàng khi gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn dài mà không sợ biến động mất

vốn

Nói đến thành công trong công tác huy động vốn ở chi nhánh ngân hàng đầu tư

và phát triển bắc hà nội không thể không nói đến chính sách huy động vốn của chi

nhánh rất đúng đắn, hợp lý. Mặc dù ở vị trí xa trung tâm, xa khu dân cư, trụ sở lại bị

khuất song chi nhánh đã vạch ra chiến lược huy động vốn hợp lý: Đó là mở rộng mạng

lưới huy động tới khắp các địa bàn là dân cư. Từ chỗ năm 2000 chi nhánh chỉ có 1 bàn

tiết kiệm và 1 phòng nguồn vốn tổ chức hoạch định và tiến hành công tác huy động

vốn, đến nay mạng lưới huy động được mở rộng với 5 bàn tiết kiệm, 2 phòng giao dịch

trải rộng 4 quận nội ngọai thành. Cũng với sự tăng lên của doanh số huy động vốn, đội

ngũ cán bộ thực hiện chức năng huy động vốn cũng có sự chuyển biến về số lượng

cũng như về trình độ chuyên môn đảm bảo đáp ứng công tác huy động vốn của chi

nhánh trong tình hình mới. Bên cạnh đó chi nhánh đã thực hiện chính sách lãi suất

mềm dẻo, hấp dẫn được khách hàng. Trên cơ sở các mức lãi suất của NHĐT&PTVN,

kết hợp với việc tham khảo lãi suất của các ngân hàng bạn, phối hợp với công tác phân

tích lãi suất đầu ra đầu vào, cân đối nguồn vốn hợp lý. Chi nhánh đưa ra mức lãi suất

huy động vốn thích hợp, theo các kỳ hạn, đảm bảo huy động đủ nguồn vốn mà ngân

hàng cần,đồng thời cũng hấp dẫn được khách hàng tức là đáp ứng lợi ích của khách

hàng gửi tiền vào ngân hàng. Chính sách lãi suất của chi nhánh hợp lý ở chỗ vừa đủ

sức cạnh tranh với các ngân hàng bạn vừa thực hiện đúng mục tiêu huy động vốn mà

ngân hàng đặt ra: về lượng huy động, thời hạn huy động, loại tiền huy động …

Với những ưu điểm trên, chi nhánh NHĐT&PT – Bắc Hà Nội luôn luôn là cơ đầu

trong công huy động vốn của toàn hệ thống. Trong thời gian tới, chi nhánh cần phát

huy những kết quả đó, và khắc phục những tồn tại xứng đáng là đơn vị tiên phong của

hệ thống NHĐT&PT Việt Nam

2- Những hạn chế:

38

Tuy đạt được một số kết quả khả quan, hoàn thành kế hoạch đề ra nhưng công tác

huy động vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội trong 3 năm qua vẫn còn một số hạn chế sau:

* Nguồn vốn có tăng trưởng nhưng chưa đảm bảo cho sự phát triển bền vững của

Ngân hàng. Cụ thể là:

-Vốn huy động từ tiền gửi có tăng nhưng chiếm tỷ lệ không lớn trong cơ cấu vốn

( dưới 30%).

- Vốn vay trực tiếp vẫn có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối. Điều này minh

chứng rằng các nguồn vốn khác chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu thực tiễn.

* Vốn huy động từ cá tầng lớp dân cư chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của

nó ( Chiếm dưới 50% nguồn vốn trung và dài hạn).

Sở dĩ vẫn còn một số hạn chế trên là do các nguyên nhân cơ bản sau:

+ Các hình thức huy động vốn chưa thực sự đa dạng và phong phú. Huy động từ

dân cư vẫn chủ yếu là các nghiệp vụ truyền thống như: Tiền gửi tiết kiêm

+ Chi nhánh Bắc Hà Nội chưa thực sự chủ động trong việc tìm kiếm nguồn tài

trợ uỷ thác đầu tư, phụ thuộc nhiều vào cơ chế quản lý của NHĐT&PTVN, Nhà nước

và quan hệ với các Bộ, Ngành của Chính phủ.

+ Quá trình thực hiện một nghiệp vụ còn rất nhiều thời gian (từ 20-30 phút),

nhiều khi đông khác thì thời gian lại càng lâu. Điều đó sẽ gây cảm giác khó chịu cho

khách hàng. Bên cạnh đó, thời gian giao dịch của chi nhánh Bắc Hà Nội với khách

hàng chủ yếu là trong giờ hành chính, chưa chủ động phục vụ khách hàng ngoài giờ

trong các ngày nghỉ.

+ Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới công nghệ chưa thực sự hoà

nhập, bắt kịp với sự thay đổi của thị trường khu vực và thế giới.

+ Marketing trong lĩnh vực huy động vốn của chi nhánh chưa thực sự được chú

trọng. Hầu như Ngân hàng chỉ mới dừng lại ở mức độ quảng cáo thông qua báo, tạp

chí,... mỗi khi cần huy động.

Bên cạnh những nguyên nhân trên, những hạn chế trong huy động vốn tại chi

nhánh NHĐT&PT - Bắc Hà Nội giai đoạn từ 2002-2004 còn do các nguyên nhân

khách quan như:

39

+ Cơ chế, văn bản hướng dẫn có nhiều thay đổi chưa sát với tình hình thực tế nên

việc tổ chức và thực hiện còn nhiều vướng mắc. Mặt khác, môi trường cạnh tranh ngày

một quyết liệt và chưa được lành mạnh hoá.

+ Hiện nay lãi suất có xu hướng liên tục giảm. Vì vậy không khuyến khích được

khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài. Hơn nữa, khả năng hấp thụ vốn của các doanh

nghiệp hiện nay thấp. Điều này không khuyến khích được Ngân hàng huy động vốn

trung và dài hạn.

chương iii

Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân

hàng đầu tư và phát triển - Bắc Hà Nội

I- Định hướng phát triển của chi nhánh bắc hà nội trong thời gian tới.

1- Định hướng huy động vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội:

Trên cơ sở định hướng phát triển chung của toàn hệ thống, công tác huy động

vốn của chi nhánh cũng hướng tới một tầm cao mới nhằm tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý

và đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Chi nhánh chủ trương coi khâu vốn là khâu

mở đường, tạo ra nguồn vốn vững chắc, ngày càng tăng trưởng cả VND và ngoại tệ.

Đa dạng các hình thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn, xác định “ vốn

trong nước là quyết định, vốn ngước ngoài là quan trọng”. Với định hướng không

40

ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn thông qua huy động dưới các hình thức phát hành kỳ

phiếu, trái phiếu và tiết kiệm có thời hạn dài; đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn điều

lệ,... Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế, khai

thác triệt để, nguồn vốn nước ngoài để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài

trợ, uỷ thác đầu tư các quỹ các tổ chức quốc tế, các Chính phủ và phi Chính phủ cho

đầu tư phát triển.

Trong thời gian tới, chi nhánh vẫn xác định phát hành trái phiếu là một nghiệp

vụ huy động vốn có hiệu quả. Bên cạnh đó, các nghiệp vụ huy động vốn khác cũng

được chi nhánh chú trọng và từng bước hoàn thiện, phấn đấu mức tăng trưởng vốn

trong giai đoạn 2005-2010 đạt 20%- 25%/năm. Qua đó nhằm nâng cao một bước tiềm

lực tài chính của Ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là những bước đi hay các

giải pháp cụ thể. Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên cứu, hệ

thống hoá các kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều năm đổi mới, đặc biệt là trong công

tác huy động vốn n trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

II- Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHđt&pt - bắc

hà nội trong thời gian tới

Huy động vốn thông qua hệ thống NHTM là vấn đề quan trọng trong cơ chế thị

trường, là một kênh huy động vốn linh hoạt góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho phát

triển kinh tế- xã hội, đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển như nước ta hiện nay.

Muốn thu hút vốn nhàn rỗi của công chúng thì chính NHTM phải tìm hiểu nhu cầu,

tâm lý của công chúng và phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó.

Dưới sự tác động của nhiều nhân tố ( tình hình hấp thụ vốn trung và dài hạn của

nền kinh tế, lãi suất...), công tác huy động vốn luôn là vấn đề thách thức đối với các

NHTM Việt Nam. Do đó sự tìm tòi, nghiên cứu đưa ra những giải pháp huy động vốn

thiết thực trong thời gian tới là rất cần thiết với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung

và với chi nhánh Bắc Hà Nội nói riêng.

1- Chú trọng công tác phân tích nguồn vốn

41

Phân tích nguồn vốn là việc làm quan trọng và rất cần thiết, nhằm giúp cho Ngân

hàng tiếp cận được nguồn vốn có quy mô và cấu trúc đảm bảo cho mục tiêu huy

động.Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi chi nhánh quan tâm tới một số vấn đề sau:

1.1- Phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn

Quy mô và cấu trúc nguồn vốn tối ưu là một trong những cơ sở quan trọng đảm

bảo mục tiêu an toàn và sinh lời của chi nhánh Băc Hà Nội.Nó không phải là yếu tố

bất biến mà thay đổi cùng với sự phát triển của Ngân hàng trong mỗi thời kỳ nhất

định.Hơn nữa, mỗi nguồn vốn trung và dài hạn đều có những yêu cầu khác nhau về chi

phí, thanh khoản, thời hạn trả,…Do đó, Ngân hàng phải quan sát, đánh giá chính xác

từng loại nguồn vốn để kịp thời có những chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng

thời kỳ cụ thể.Muốn vậy , chi nhánh Bắc Hà Nội cần chú trọng tới một số yếu tố sau:

* Việc phân tích, đánh giá có thể dựa vào một số chỉ tiêu như: khả năng cho vay (

Hệ số sử dụng vốn ), Quy mô tăng vốn và một số chỉ tiêu khác

* Cần gắn chặt hơn nữa giữa công tác huy động vốn và sử dụng vốn.Điều này

không có nghĩa là chỉ có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn mà

đòi hoỉ có sự linh hoạt của Ngân hàng trong từng trường hợp cụ thể.

* Chú trọng phân tích khách hàng tiềm năng.Điều này có nghĩa là chi nhánh Bắc

Hà Nội cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc nghiên cứu đặc điểm, tính chất của một

chủ thể hay một nhóm người liên quan đến việc ra quyết định giao dịch với Ngân hàng

( gưỉ tiền, cho vay,…).

Tóm lại, phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn là một giải pháp hữu hiệu giúp

chi nhánh Bắc Hà Nội tiếp cận một cách khoa học và hệ thống với các nguồn vốn, là

cơ sở để Ngân hàng này đưa ra những chính sách huy động vốn phù hợp với đặc điểm,

tính chất của từng nguồn.

1.2- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý

Lãi suất là một công cụ quan tọng trong công tác huy động vốn, đặc biệt là huy

động từ các tầng lớp dân cư. Do đó, một chính sách lãi suất vừa có sức cạnh tranh vừa

đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng là rất cần thiết.

* Thực hiện mức lãi suất tiền gửi hợp lý để kích thích dân chúng

42

Mục đích chủ yếu của khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng là sinh lời. Do đó với

một mức lãi suất thấp sẽ không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi. Vì vậy, lãi

suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, diều này không có nghĩa là phải

tăng lãi suất huy động vốn, điều mà các nhà sản suất không dễ dàng chấp nhận. Hơn

nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao thì họ sẽ không đầu tư trực tiếp vào các phương án kinh

doanh mà gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nếu điều đó xảy ra thì chi nhánh Bắc Hà

Nội sẽ gặp khó khăn vì không giải quyết được đầu ra. Vì vậy, ngân hàng cần có sự

nghiên cứu, cân đối lãi suất tiền gửi .

2-Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện ích cho khách hàng

Để mở rộng huy động vốn trong thời gian tới, ngoài việc tìm kiếm khách hàng

mới thì chi nhánh Bắc Hà Nội còn phải duy trì được những khách hàng truyền thống

đã có. Muốn vậy, ngân hàng cần nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo tiện ích cho

khách hàng thông qua một số nội dung chủ yếu sau:

* Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn, bảo đảm mỗi cán bộ ngoài việc

thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn còn phải có khả năng thực hiện vai trò tư vấn

giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo trong khi gửi tiền, mua kỳ phiếu, Trái phiếu,…Do

đó, cần có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động vốn có đủ trình độ chguyên

môn, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Nên có sự bổ sung, xen kẽ những cán bộ có

nhiều kinh nghiệm với những cán bộ mới được đào tạo trong nền kinh tế thị trường.

* Ngân hàng phải giữ được chữ “ tín” với khách hàng. Muốn vậy thì ngân hàng

phải thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán, không được phép khất chi, hoãn chi

với khách vì lý do thiếu tiền..

* Ngân hàng cần phải công khai các chỉ tiêu tài chính quan trọng thông qua các

phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng có sự hiểu biết về ngân hàng một cách

thuận lợi. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần tăng cường mối quan hệ hữu hảo với cấp uỷ

và địa phương nơi hoạt động. Qua đó tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cấp, các

ngành.

* Ngoài ra, chi nhánh Bắc Hà Nội cũng cần nghiên cứu mở rộng và không ngừng

nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu gửi tiền của khách hàng .

43

3- Nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới công tác quản lý

Nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng nhất, quyết định mọi sự thành công

hay thất bại của mọi hoạt động kinh tế. Trong quá trình hoạt động, chi nhánh Bác Hà

Nội luôn coi phát triển nguồn nhân lực là vấn đề then chốt. Thực tế tại chi nhánh Bắc

Hà Nội có nhiều cán bộ có chuyên môn giỏi, có năng lực quản lý và công tác quản lý

ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá Ngân hàng, bắt

kịp kỹ thuật công nghệ Ngân hàng mới, mở rộng huy động vốn thì ngân hàng cần chú

trọng hơn nữa trong việc nâng cao trình độ công nhân viên và công tác quản lý trong

Ngân hàng.

* Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, đặc biệt là trong công tác huy động

vốn

Chi nhánh Bắc Hà Nội cần tiếp tục thường xuyên mở các khoá đào tạo, bồi

dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ nhân viên và đặc biệt là cán bộ chủ chốt.

Trong đó cần có sự kết hợp giữa đào tạo ngắn hạn, đào tạo bên ngoài và đào tạo tại

chỗ. Bên cạnh đó, ngân hàng nên có chính sách động viên, khuyến khích cán bộ của

mình tự nâng cao trình độ nghiệp vụ bằng cách hỗ trợ vật chất và tinh thần; tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho mọi cán bộ được tìm hiểu, nghiên cứu và học tập hay tiếp cận

với các mô hình, quy trình nghiệp vụ .Qua đó nhằm tạo điều kiện cho cán bộ Ngân

hàng có thể học hỏi kinh nghiệm để vận dụng một cách phù hợp với thực tế. Ngoài ra,

chi nhánh Bắc Hà Nội cũng cần quan tâm hơn nữa tới các cán bộ có điều kiện tự nâng

cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, từng bước hướng tới xây dựng một đội ngũ cán bộ

vừa có “ tâm” vừa có chuyên môn nghiệp vụ giỏi.

Nhưng chỉ có trình độ chuyên môn thì chưa đủ, trong hoạt động kinh doanh Ngân

hàng cần phải có sự phối kết hợp nhiều yếu tố. Trong đó thái độ phục vụ của nhân viên

Ngân hàng sẽ là “ hình ảnh” của Ngân hàng trong con mắt khách hàng. Do đó, ngay từ

khi tuyển dụng cho đến khâu đào tạo, quản lý, chi nhánh Bắc Hà Nội cần phải thường

xuyên chú ý lựa chọn, sàng lọc để Ngân hàng có một đội ngũ cán bộ có phong cách

lịch sự, nhiệt tình, vững vàng về tư tưởng đạo đức, lối sống và giỏi về chuyên môn

nghiệp vụ.

*Đổi mới công tác quản lý điều hành.

44

Bên cạnh việc cải tiến và đầu tư thêm các trang thiết bị phục vụ trong quá trình

hoạt động nói chung và tỏng công tác huy động vốn nói riêng thì chi nhánh Bắc Hà

Nội nên hoàn thiện mô hìh tổ chức bộ máy, bố trí sắp xếp nhân lực hợp lý ổn định theo

hướng “ chọn người phù hợp cho yêu cầu công việc”. Trên cơ sở đó, ngân hàng cần

lựa chọn và đào tạo những cán bộ có thái độ, năng lực và phẩm chất tốt để quản lý

điều hành công tác huy động vốn. Quản lý và điều hành công tác huy động vốn hợp lý

sẽ là động lực lớn để thúc đẩy quá trình mở rộng huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà

Nội trong tương lai.

4- Đa dạng hoá các hình thức huy động

* Đối với huy động tiền gửi

Bên cạnh kỳ hạn đang áp dụng, ngân hàng có thể mở rộng thời hạn tiền gửi như 5

năm, 10 năm và lâu hơn nữa. Việc áp dụng hình thức huy động tiền gửi với kỳ hạn đa

dạng sẽ đáp ứng được nhu cầu của mọi khách hàng, tạo điều kiện đa dạng hoá hình

thức huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng. Bởi lẽ huy động vốn luôn gắn liền

với sử dụng vốn, mặc dù chi nhánh Bắc Hà Nội có thể chuyển hoán vốn theo luật định

nhưng sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động và sử dụng vốn sẽ tạo thế chủ động hơn

cho Ngân hàng. Bên cạnh sự đa dạng về kỳ hạn thì ngân hàng nên duy trì và củng cố

các khách hàng như: Trả lãi trước, trả lãi sau, rút lãi theo các khoảng thời gian bàng

nhau,...

Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi mang tính truyền thống thì ngân hàng cũng

cần nghiên cứu và áp dụng phổ biến các hình thức huy động tiết kiệm có mục đích, cụ

thể:

+Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Hình thức này tạo cho Ngân hàng nguồn vốn, đồng

thời người gửi cũng được hưởng những lợi ích nhất định. Hiện nay thu nhập và nhu

cầu chi tiêu cho nhà ở là khá lớn, do đó chi nhánh Bắc Hà Nội cần áp dụng một cách

rộng rãi hơn loại hình tiết kiệm này.

+ Tiết kiệm học đường: Hình thức này dành cho gia đình trẻ có con hoặc chưa có

con nhưng muốn tiết kiệm để sau này có một khoản tiền chi trả cho con cái học hành,

thành đạt, hình thức này cũng đang được đại đa số các Công ty Bảo hiểm thực hiện.

45

Do đó có thể khẳng định rằng đây là hình thức phù hợp với mong muốn và tâm lý của

mọi người dân.

+ Tiết kiệm gửi góp: Hình thức này chủ yếu dành cho người có thu nhập hiện tại

để dùng cho tương lai hay khi về già bằng cách hàng tháng hay hàng quý gửi một số

tiền nhất định vào Ngân hàng, thời hạn gửi có thể là 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa.

+ Ngoài ra, ngân hàng có thể tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức

khác. Qua đó từng bước thu hút dân chúng quan tâm, kích thích họ tới giao dịch với

Ngân hàng.

Tuy nhiên, các hình thức trên còn khá mới mẻ. Do đó, để áp dụng, chi nhánh Bắc

Hà Nội cần phải có thời gian thử nghiệm và tạo điều kiện để thực hiện. Song chúng ta

có thể tin tưởng rằng. Với sự nỗ lực, sáng tạo của toàn bộ hệ thống trong thời gian tới

chi nhánh Bắc Hà Nội sẽ áp dụng nhiều hình thức tiết kiệm mới, phù hợp để bổ sung

nguồn vốn, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.

* Đối với các hình thức huy động khác như : Huy động vốn từ chủ sở hữu, vay

vốn, nhận tài trợ uỷ thác đầu tư thì vấn đề đa dạng hoá gặp nhiều khó khăn. Song chi

nhánh có thể nỗ lực, năng động trong việc thu hút các nguồn vốn vay thông qua kiến

nghị với Nhà nước tăng thêm vốn điều lệ, tăng bổ sung thêm quỹ đầu tư phát triển, mở

rộng mối quan hệ hữu hảo với các định chế tài chính trong nước (các công ty Bảo

hiểm, Ngân hàng...) và nước ngoài, chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm nguồn tài

trợ uỷ thác,... Qua đó từng bước nâng cao vốn của chủ, có thể vay mượn vốn khi cần

thiết với chi phí hợp lý.

5- Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo

Ngày nay tuyên truyền, quảng cáo là hoạt động cần thiết của kinh doanh nói

chung và kinh doanh Ngân hàng nói riêng. Nó vừa là một phương tiện, phương pháp

kỹ thuật, nghệ thuật vừa là công cụ để nối liền hoạt động kinh doanh của ngân hàng

với thị trường.

Ngoài ra cũng cần tạo dựng và duy trì hình ảnh cá nghiệp vụ huy động cũng như

Ngân hàng trong con mắt xã hội và với khách hàng tiềm năng thông qua nhân viên

Ngân hàng như: Thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, thái độ lịch sự, hướng dẫn nhiệt

46

tình, vui vẻ. Bên cạnh đó có thể tổ chức Hội nghị khách hàng để nắm nguyện vọng và

phổ biến chế độ, chính sách Ngân hàng cho khách hàng

Trên đây là một số giải pháp cơ bản mà chi nhánh Bác Hà Nội cần xem xét,

nghiên cứu và thực hiện nhằm mở rộng huy động vốn, góp phần thực hiện tốt nghiệp

vụ truyền thống cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, những giải pháp trên

chỉ có thể thực hiện được và có hiệu quả trong môi trường phù hợp. Vì vậy, bên cạnh

những giải pháp đã đề cập thì việc kiến nghị với Nhà nước, với NHNN để hoàn thiện

môi trường, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công tác mở rộng huy động vốn tại ngân

hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.

iii- Các kiến nghị:

1- Kiến nghị đối với Nhà nước

Chúng ta có thể nhận thấy chỉ có một phần tiết kiệm trong nước được sử dụng

cho đầu tư trực tiếp, còn lại nằm dưới dạng nhàn rỗi. Muốn khai thác hết tiềm năng

này và nâng sức cạnh tranh thu hút vốn từ thị trường quốc tế, Nhà nước cần ổn định

môi trường kinh tế vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý trong lĩnh vực Ngân hàng,

củng cố lại hệ thống NHTM.

* ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:

Đây là tiền đề quan trọng số một để mở rộng huy động vốn. Đối với Việt Nam

hiện nay thì những điều kiện quan trọng để tạo nên sự ổn định môi trường kinh tế vĩ

mô là: ổn định chính trị, ổn định tiền tệ và có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn.

- ổn định chính trị: Duy trì sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng thúc đẩy

huy động vốn có hiệu quả. Một nền chính trị được kiến tạo vững chắc, có thiết chế hợp

lý, được quần chúng nhân dân tin yêu và hoàn toàn ủng hộ thì những chính sách của

Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực huy động vốn sẽ dễ dàng được thực hiện. Ngược lại,

sự bất ổn địnhvề chính trị xã hội sẽ tạo nên những hoài nghi của dân chúng cũng như

các nhà đầu tư trong và ngoài nước về chế độ, chính sách và làm cho họ e ngại trong

khi bỏ vốn đầu tư.

- ổn định tiền tệ: Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt

Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ thuận lợi hơn. Người dân sẽ an tâm

47

hơn khi gửi tiền với kỳ hạn dài vào các định chế tài chính trong nền kinh tế. Muốn vậy

đòi hỏi Nhà nước cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo lãi suất thực “

dương” cho người gửi tiền; có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt, tránh các đột

biến làm giảm sức mua của nội tệ.

- Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn: Chính phủ cần có các chính sách

ngoại giao, tiết kiệm và đầu tư một cách phù hợp, giảm bớt hệ thống quản lý hành

chính cồng kềnh, tăng cường tính độc lập của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ

quốc gia sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Bên công nghệ đó, Nhà nước cũng

cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là ở các doanh nghiệp Nhà nước bằng

cách đầy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Tránh tình trạng đầu tư dàn trải,

tham ô, lãng phí, lãi giả lỗ thật,... làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân với

chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

* Hoàn thiện môi trường pháp lý:

Môi trường pháp lý trong lĩnh vực Ngân hàng đã từng bước được hoàn thiện

trong thời gian qua. Sự ra đời của luật Ngân hàng đã tạo điều kiện cho môi trường hoạt

động kinh doanh của NHTM thuận lợi hơn, từng bước hoà nhập với các Ngân hàng

trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó sự ra đời của “ Bảo hiểm tiền gửi” đã củng

cố thêm niềm tin của quần chúng vào hệ thống NHTM Việt Nam.

Tuy nhiên để khai thác hết tiềm năng vốn nhàn rỗi trong nước và ngoài nước, mở

rộng huy động vốn qua NHTM thì Nhà nước cần nâng các quy định về quảng cáo,

cạnh tranh thành luật để tạo ra “ sân chơi” bình đẳng cho các NHTM.

* Củng cố lại hệ thống NHTM

Để nâng cao chất lượng hoạt động và tiến tới hội nhập với NHTM trong khu vực

và trên thế giới thì việc cải cách và củng cố lại hệ thống NHTM Việt Nam là rất cần

thiết. Nhà nước cần củng cố theo hướng sau:

- Đối với NHTM quốc doanh: Nhà nước cần cấp đủ, bổ sung thêm vốn điều lệ để

tăng năng lực tài chính cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh để hào nhập với xu thế

chung cảu các NHTM trong khu vực; cần có sự tách bạch giữa cho vay chính sách và

cho vay thương mại, trừ một số trường hợp nhất định ( phải được Bộ Tài chính bảo

48

lãnh); việc tái cấp vốn phải căn cứ vào thực trạng hoạt động của aNHTM theo tiêu

chuẩn quóc tế để có báo cáo chính xác với NHNN và Bộ tài chính.

- Đối với các NHTM ngoài quốc doanh: Nhà nước cần có sự quản lý, thanh tra

giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các NHTM này.

2- Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước

Nhằm hướng tới mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế, đặc

biệt là “kênh” qua NHTM thì NHNN cần có những chính sách mềm dẻo, linh hoạt

theo hướng sau:

* Khởi thảo và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt. trong đó

cần khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh,

thúc đẩy các NHTM và tổ chức tín dụng cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh

doanh. NHNN cần dùng lãi suất làm “ đòn bẩy” thúc đẩy các NHTM chú trọng huy

động vốn trung và dài hạn.

* NHNN cần tăng cường phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư nước

ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ cức Chính phủ và phi chính phủ nước ngoài, nhằm động

viên mọi nguồn vốn nước ngoài chảy qua “kênh” NHTM.

* NHNN cần có những hướng dẫn cụ thể về các hình thức huy động vốn trung và

dài hạn như: Tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng,... Cần có những

quy định cụ thể về áp dụng lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài 10 năm,

20 năm...

* NHNN cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các tổ chức

tín dụng bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ

quốc tế. Qua đó nhằm giúp khách hàng có được hướng giải quyết đúng đắn trong việc

đầu tư, giao dịch với Ngân hàng.

* Duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thích hợp bằng cách NHNN tăng

cường kiểm soát việc cho ra đời các tổ chức tín dụng mới cũng như việc mở thêm chi

nhánh và các phòng giao dịch của tổ chức tín dụng.

49

Kết luận

Vốn có vai trò hết sức quan trọng trong quá tình phát triển kinh tế, là cơ sở cho

sự thành công của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Do vậy, việc mở rộng huy động

vốn trong thời gian tới là rất cần thiết. Qua đó nhằm tạo dựng nguồn vốn vững chắc

cho sự phát triển bền vững của Ngân hàng, đồng thời góp phần quan trọng cho phát

triển kinh tế-xã hội.

Trong những năm gần đây, hoạt động huy động vốn đã có những bước phát triển

đáng kể, lựợng vốn huy động năm sau luôn cao hơn năm trước, đánh dấu những bước

trưởng thành đáng kể của cả hệ thống NHTM cũng như sự lớn mạnh của nền kinh tế.

Tuy nhiên, để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nguồn vốn cho phát triển đất nước đòi hỏi sự

cố nhiều gắng hơn nữa của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bắc hà nội cùng

toàn thể hệ thống NHTM. Ngoài ra, sự giúp đỡ từ phía nhà nước và NHNN là hết sức

cần thiết.

50

Đây là một vấn đề hết sức khó khằn và phức tạp. Với lượng kiến thức và tầm

nhìn còn hạn chế em tin rằng để có thể hiểu sâu xa hơn về vấn đề này thì em phải học

hỏi thêm rất nhiều. Tuy nhiên em tin rằng với tất cả những kiến thức mà em thu lượm

đựơc trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu sẽ là hành trang bổ ích cho em trong

tương lai.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2001,2002,2003

2. Thời báo kinh tế 2002,2003

3. Ngân hàng thương mại, Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải.

4. Frederic S. Mishkin: Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa

học kỹ thuật, 1991.

5. Edward W.Reed, Ph. D và Edward K.Giu Ph.D nghiệp vụ Ngân hàng thương

mại

6. Luật Ngân hàng nhà nước - NXB chính trị quốc gia 1996.

7. Luật các tổ chức tín dụng - NXB chính trị quốc gia 1996.

51

8. Giáo trình Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ - NXB thống kê

2002.

9. Tiền tệ ngân hàng - Thị trường trường tài chính - NXB tài chính 2001.

10. Giáo trình Khoa học quản lý, tập 1, 2 - NXB khoa học kỹ thuật 2002.

11. Lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB thống kê 1997.

12. Giáo trình quản lý kinh doanh tiền tệ- NXB tài chính 1998.

13. Kinh tế vĩ mô - Mankiw- NXB thống kê 2001.

14. Kinh tế 2003- 2004 Việt Nam và thế giới - Thời báo kinh tế Việt Nam - 2004

52

1

1