Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

LỜI MỞ ĐẦU

Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

hiện nay là nguồn tài chính rất quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp

phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với

khoản ODA trị giá 17,5 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt

Nam và 41% trong số đó đã được giải ngân trong 8 năm qua, ODA đã khẳng

định vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này đóng

góp một phần quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn và cơ sở hạ tầng,

khoa học kỹ thuật thấp kém ở nước ta.

Bên cạnh đó, sự gia tăng của nguồn vốn ODA còn giúp Chính phủ Việt

Nam trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là trong lĩnh

vực y tế và giáo dục cơ bản.

Trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua, mức

giải ngân thấp luôn luôn là chủ đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương

và đa phương nhằm tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để khắc phục.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự tiến bộ đáng kể mà còn xuất hiện xu

hướng tốc độ giải ngân chậm lại trong thời gian gần đây. Giải ngân thấp thể

hiện sự không hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn ODA và là một sự lãng

phí lớn, trong điều kiện nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế còn rất lớn như

hiện nay.

Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Những giải pháp nhằm đẩy

nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005 " làm đề tài nghiên cứu cho bài Luận văn

tốt nghiệp của mình. Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở khái quát những vấn đề

lý luận về ODA, phân tích thực trạng giải ngân ODA ở Việt Nam trong những

năm qua để tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm

1

thúc đẩy tốc độ giải ngân ODA, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, bài Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

này được bố cục như sau:

Chương I : Cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA) và giải ngân vốn ODA.

Chương II : Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA

tại Việt Nam giai đoạn 1993-1999.

Chương III : Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA

giai đoạn 2001-2005.

2

CHƯƠNG I

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)

I-NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ODA

1-Khái niệm và đặc điểm của ODA

1.1-Khái niệm

ODA là tên gọi tắt của ba từ tiếng Anh Official Development Assistance

có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển

chính thức.

Năm 1972, tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra định nghĩa

như sau: "ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài

chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn

lại chiếm ít nhất 25%".

Tại Điều I Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính

thức ban hành ngày 5-8-1977 có nêu khái niệm về ODA như sau :" Hỗ trợ

phát triển chính thức được hiểu là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao

gồm các hình thức sau:

1) Hỗ trợ cán cân thanh toán.

2) Hỗ trợ theo chương trình.

3) Hỗ trợ kỹ thuật.

4) Hỗ trợ theo dự án.

ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA cho vay ưu đãi có yếu tố

không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay.

Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại ,

viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức

thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các

3

nước đang và chậm phát triển.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Nguồn vốn đưa vào các nước đang và chậm phát triển được thực hiện

qua nhiều hình thức:

-Tài trợ phát triển chính thức ( Official Development Finance - ODF ) là

nguồn tài trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn

này bao gồm ODA và các hình thức ODF khác, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu

trong nguồn ODF.

-Tín dụng thương mại từ các ngân hàng ( Commercial Credit by Bank )

là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thương

mại...

-Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Invesment - FDI ) là loại

hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tự thiết lập cơ sở sản xuất,

kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê

người quản lý (đầu tư 100% vốn ), hoặc góp vốn với một hay nhiều xí nghiệp

của nước sở tại thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, rồi cùng các đối tác của

mình làm chủ sở hữu và cùng quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này ( xí

nghiệp liên doanh ).

-Viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ ( Nongovernment

Organisation - NGO ).

-Tín dụng tư nhân: loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với

các ràng buộc chính trị - xã hội, song các điều kiện cho vay khắt khe ( thời

hạn hoàn trả vốn ngắn và mức lãi suất cao), vốn được sử dụng chủ yếu cho

các hoạt động xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Vốn này cũng được

dùng cho đầu tư phát triển và mang tính dài hạn. Tỷ trọng của vốn dài hạn

trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng tăng trưởng lâu dài, đặc

biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là khả quan.

Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu

một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hện

4

đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, thì cũng khó có thể thu hút được

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

các nguồn vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng khác để mở rộng kinh doanh.

Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút các

nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác thì chính phủ sẽ không có đủ

thu nhập để trả nợ cho các loại vốn ODA.

1.2-Đặc điểm của nguồn vốn ODA:

-ODA là một giao dịch quốc tế, thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao

dịch này không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát

triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang

phát triển hay các nước gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các

vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường.

-ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song

phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp

ODA trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương , các tổ

chức quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên

cung cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì

đây là cách cung cấp ODA gián tiếp.

-ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện ở

chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự

chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận

đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài trợ.

-ODA được cung cấp với mục đích rõ ràng. Mục đích của việc cung cấp

ODA là nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Đôi

lúc ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các nước gặp hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh...Do đó, có lúc các nước

phát triển cũng được nhận ODA. Nhưng không phải lúc nào mục đích này

cũng được đặt lên hàng đầu, nhiều khi các nhà tài trợ thường áp đặt điều kiện

của mình nhằm thực hiện những toan tính khác.

5

-ODA có thể được các nhà tài trợ cung cấp dưới dạng tài chính, cũng có

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

khi là hiện vật. Hiện nay, ODA có ba hình thức cơ bản là viện trợ không hoàn

lại (Ggant Aid), vốn vay ưu đãi ( Loans Aid ) và hình thức hỗn hợp.

2-Phân loại ODA

2.1-Phân loại theo tính chất

-ODA không hoàn lại : Đây là nguồn vốn ODA mà nhà tài trợ cấp cho

các nước nghèo không đòi hỏi phải trả lại. Cũng có một số nước khác được

nhận loại ODA này khi gặp phải các vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, dịch

bệnh...

Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn này thường được cấp dưới

dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật, các chương trình xã hội hoặc hỗ trợ cho công tác

chuẩn bị dự án. ODA không hoàn lại thường là các khoản tiền nhưng cũng có

khi là hàng hoá, ví dụ như lương thực, thuốc men hay một số đồ dùng thiết yếu.

ODA không hoàn lại thường ưu tiên và cung cấp thường xuyên cho lĩnh

vực giáo dục, y tế. Các nước Châu Âu hiện nay dành một phần khá lớn ODA

không hoàn lại cho vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ rừng và các

loài thú quý.

-ODA vốn vay ưu đãi : đây là khoản tài chính mà chính phủ nước nhận

phải trả nước cho vay, chỉ có điều đây là khoản vay ưu đãi. Tính ưu đãi của

nó được thể hiện ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại vào thời điểm

cho vay, thời gian vay kéo dài, có thể có thời gian ân hạn. Trong thời gian ân

hạn, nhà tài trợ không tính lãi hoặc nước đi vay được tính một mức lãi suất

đặc biệt. Loại ODA này thường được nước tiếp nhận đầu tư vào các dự án cơ

sở hạ tầng xã hội như xây dựng đường xá, cầu cảng, nhà máy...Muốn được

nhà tài trợ đồng ý cung cấp, nước sở tại phải đệ trình các văn bản dự án lên

các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ nước tài trợ. Sau khi xem xét khả

thi và tính hiệu quả của dự án, cơ quan này sẽ đệ trình lên chính phủ để phê

duyệt. Loại ODA này chiếm phần lớn khối lượng ODA trên thế giới hiện nay.

6

-Hình thức hỗn hợp : ODA theo hình thức này bao gồm một phần là

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

ODA không hoàn lại và một phần là ODA vốn vay ưu đãi. Đây là loại ODA

được áp dụng phổ biến trong thời gian gần đây. Loại ODA này được áp dụng

nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

2.2-Phân loại theo mục đích:

-Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng

cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường. đây thường là những khoản cho

vay ưu đãi.

-Hỗ trợ kỹ thuật : là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức,

công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu

tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực...Loại hỗ trợ này chủ yếu là

viện trợ không hoàn lại.

2.3-Phân loại theo điều kiện :

-ODA không ràng buộc : Là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng

buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.

-ODA có ràng buộc :

+Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp

dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số

công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát ( đối với viện trợ song phương

), hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).

+Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ được

cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho

những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.

-ODA ràng buộc một phần: Nước nhận viện trợ phải dành một phần

ODA chi ở nước viện trợ (như mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ

của nước cung cấp ODA), phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.

2.4-Phân loại theo hình thức:

-Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án

7

cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

hoặc cho vay ưu đãi.

-Hỗ trợ phi dự án: Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện.

Nhận thức về các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính

phủ nước sở tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được

chính phủ chấp thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận

của hai bên. Loại ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ

phía chính phủ nước tài trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các

đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng

thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung hoà điều kiện của cả hai phía. Loại

ODA này thường có mức không hoàn lại khá cáo, bao gồm các loại hình sau:

+Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp

(chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại

tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để

hỗ trợ cho ngân sách.

+Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ

mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu.

+Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng

quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử

dụng như thế nào.

3-Nguồn gốc lịch sử của ODA

Sau Đại chiến thế giới lần thứ II, nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng

khủng hoảng nghiêm trọng. Nhiều nước tham chiến bị thiệt hại nặng nề về cả

người và của. Với mục đích vực dậy nền kinh tế thế giới, nhiều tổ chức tài

chính quốc tế đã được thành lập vào thời kỳ này. Một trong những kế hoạch

tái thiết kinh tế lúc đó là kế hoạch Marshall, tiền thân của hình thức hỗ trợ

phát triển chính thức sau này, có mục đích là hỗ trợ các nước châu Âu khôi

phục lại nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn phá. Ngày 14-12-1960, tại Paris, Tổ

chức hợp tác kinh tế châu Âu (OEEC ), tiền thân của tổ chức Hợp tác Kinh tế

8

và Phát triển (OECD) được thành lập để thực hiện kế hoạch Marshall. Các

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

nước tham dự hội nghị Paris đã thống nhất mục tiêu của Tổ chức hợp tác kinh

tế châu Âu gồm:

-Cải thiện mức sống và điều kiện lao động của các nước thành viên.

-Đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững, duy trì sự ổn định

về tài chính.

-Hỗ trợ các nước khác đặc biệt là các nước thành viên và các nước chịu

sự tàn phá nặng nề sau chiến tranh trong quá trình phát triển kinh tế.

-Tăng cường phát triển thương mại quốc tế dựa trên cơ sở đa phương.Tổ

chức này ban đầu có 19 thành viên gồm có Áo, Bỉ, Canađa, Đan Mạch, Pháp,

Đức, Hy Lạp, Aixơlen, Ý , Lucxămbua, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy

Sỹ, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ. Các nước gia nhập thêm sau đó là

Nhật Bản (năm 1964), Phần Lan (năm 1969), Ôxtrâylia (năm 1971), Niuzilân

(năm1973) và Mêhicô (năm 1994).

OECD thành lập nhiều uỷ ban để phân chia quyền hạn và nhiệm vụ trong

hoạt động của mình. Một trong số đó là Ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC). Đây

là ủy ban chuyên cung cấp ODA dạng tài chính cho các nước đang phát triển.

Thành viên của ủy ban này gồm có Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Hà Lan,

Vương Quốc Anh, Canađa, Thụy Điển, Đan Mạch, Ý, Na Uy, Ôxtrâylia,

Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, Áo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Ailen, Niuzilân,

Luxcămbua và Ủy ban châu Âu.

Ban đầu, OECD chỉ tập trung viện trợ cho các nước tham chiến trong

chiến tranh thế giới thứ II và các nước bị chiến tranh tàn phá. Sau khi kinh tế

các nước này đã được phục hồi, việc viện trợ được mở rộng ra các quốc gia

khác với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước đang phát triển thuộc phe Xã

hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam hầu như không nhận được sự viện trợ

trực tiếp từ các nước thuộc DAC mà chỉ nhận gián tiếp thông qua các tổ chức

9

phi chính phủ và Liên Hợp Quốc. Việt Nam trong nhiều năm liền chủ yếu

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

nhận viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Thời kỳ này việc cung cấp

ODA chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố chính trị.

Sau khi Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, các

nước Xã hội chủ nghĩa khác đã phải tiến hành cải cách chính trị cho phù hợp

với tình hình mới, các nước tư bản đã nối lại viện trợ cho Việt Nam, Trung

Quốc và Cuba. Nhìn chung hiện nay, vấn đề chính trị không còn ảnh hưởng nhiều

tới việc cung cấp ODA nữa. Nhờ những cải cách mang tính chất tích cực, nước ta

nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ.

Trong những năm qua, hoạt động của viện trợ chính thức đã góp nhiều

công sức cho việc phát triển kinh tế toàn thế giới và giảm khoảng cách giàu

nghèo giữa các quốc gia. Một số nước đã vươn lên từ đói nghèo và lạc hậu

như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô... đã chứng minh cho những thành công

của ODA trên thế giới. Bên cạnh đó, ODA trong những năm qua còn bộc lộ

nhiều khiếm khuyết. Tuy vậy nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong con đường

phát triển của toàn nhân loại.

4- Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển:

Trong mỗi xã hội luôn tồn tại sự hoạt động của các ngành, các lĩnh vực

không sinh lợi. Chẳng hạn như trong lĩnh vực môi trường, các công nhân thu

dọn vệ sinh có thể bị coi là "ăn bám" xã hội bởi lẽ công việc của họ chẳng làm

ra một đồng của cải nào cho xã hội cả. Thế nhưng chỉ thiếu họ một tuần hay

một ngày thôi thì mùi xú uế sẽ bốc lên nồng nặc cả thành phố. Có hay không

tồn tại của một công viên cây xanh cũng chẳng phải là vấn đề sống còn của

bất cứ ai, nhưng nếu không có nó thì mọi người sẽ không có chỗ nghỉ ngơi,

giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng. Đây là những lĩnh vực mà tư nhân

hầu như không quan tâm đầu tư mặc dù nó giữ vai trò thiết yếu đối với bất kỳ

xã hội hiện đại nào ngày nay. Bởi vì lĩnh vực này không sinh lời, nếu có thì

cũng cần thời gian thu hồi vốn lâu. Hãy thử tưởng tượng một thành phố không

10

có bóng dáng công nhân quét rác hay một công viên cây xanh thì điều gì sẽ

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

xảy ra. Chắc chắn, người ta sẽ không chịu nổi sự ô nhiễm môi trường nặng nề

mà chính họ là nguyên nhân gây ra.

Môi trường không sinh lợi đã đành, ngay cả những lĩnh vực có sinh lợi

nhưng hiệu quả kinh tế chậm như giao thông, thuỷ lợi, điện, nước... cũng

chẳng có cá nhân nào dám bỏ tiền ra để xây dựng. Vì nó đòi hỏi vốn lớn và

thời gian thu hồi chậm. Do đó các công trình cộng cộng thường phải do Nhà

nước đầu tư thực hiện.

Thế nhưng, Chính phủ các nước đang phát triển lại gặp rất nhiều khó

khăn trong việc đầu tư vào các lĩnh vực công cộng. Đây hầu hết là các nước

nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Do đó, có rất ít vốn tích lũy

cho đầu tư phát triển. Dân nghèo thì số tiền thu ngân sách cũng không được là

bao, không đủ để xây dựng các công trình công cộng, hạ tầng kỹ thuật. Các

quốc gia đang phát triển hầu hết đều đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, cơ

sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu. Vì vậy vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng để đáp

ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang trở lên hết sức cấp

bách.

Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang là điều kiện bắt buộc các

nước đang phát triển phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh của

nền kinh tế và vấn đề thiếu vốn đang là trở ngại lớn nhất trên con đường tìm

kiếm sự phát triển của các nước này. Hàng năm, với tinh thần nhân đạo cao

cả, các nước phát triển đã cung cấp một khối lượng ODA đáng kể trị giá hàng

trăm tỷ USD cho các quốc gia đang phát triển. khối lượng ODA đó có vai trò

rất quan trọng đối với các nước này, nó cho phép họ có một khoản tiền để giải

quyết một số vấn đề cấp thiết, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở, các công trình

công cộng.

Có thể nói, một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ là nền tảng cho sự phát

triển của một đất nước. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển có hệ

11

thống cơ sở hạ tầng lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

tế. Hiện nay, xu hướng chung của các nước đang phát triển là tìm cách thu hút

nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA), bổ sung cho nguồn vốn eo hẹp

trong nước. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có ưu điểm là khối

lượng vốn đầu tư lớn và nước tiếp nhận không phải chịu gánh nặng nợ nần.

Nhưng nếu muốn thu hút được nhiều nguồn vốn FDI thì đòi hỏi các nước

đang phát triển phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, một môi trường kinh

doanh thuận lợi. Đây là những yếu tố mà các nước đang phát triển còn thiếu.

Nếu chỉ thu hút riêng vốn FDI thì không đủ nhu cầu ngày càng cao về vốn

cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thu hút nguồn vốn ODA để bổ

sung nhu cầu về vốn. ODA có ưu điểm là nước tiếp nhận được chủ động trong

việc sử dụng nguồn vốn này vào những lĩnh vực mà mình quan tâm. Ngoài

việc sử dụng vốn ODA để giải quyết các vấn đề khác của đất nước thì ODA

có thể tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, làm cho môi trường kinh

doanh thuận lợi hơn. Điều này sẽ góp phần tích cực tăng khả năng thu hút

nguồn vốn FDI của các nước đang phát triển.

II- SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ ĐẨY NHANH TIẾN

ĐỘ GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT

NAM

1-Một số hình thức chủ yếu của ODA ở Việt Nam

1.1-Hỗ trợ theo chương trình

Hình thức này thường tập trung giải quyết các vấn đề xã hội như y tế,

giáo dục và các vấn đề xã hội khác... Các chương trình thường được phía nhà

tài trợ chủ động đề xuất.

Đối với lĩnh vực y tế, một số chương trình chủ yếu của hình thức này là

chương trình bảo vệ sức khoẻ sinh sản, chương trình tiêm chủng cho trẻ sơ

sinh, chương trình kế hoạch hoá gia đình, chương trình thanh toán một số

bệnh xã hội, xây mới và cải tạo hệ thống trạm xá, chương trình phẫu thuật nụ

12

cười, chương trình cấp thuốc miễn phí cho một số vùng sâu, vùng xa... Các

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

chương trình hỗ trợ cho ngành y tế thường mang tính nhân đạo cao và rất

được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế.

Đối với lĩnh vực giáo dục, một số hình thức chủ yếu là xây mới và cải

tạo trường học cho một số tỉnh gặp khó khăn, chương trình cấp học bổng cho

sinh viên đại học, chương trình đào tạo đại học và sau đại học...

Ngoài ra hình thức này còn bao gồm nhiều chương trình khác như

chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình cấp cây và con giống cho bà

con nông dân, chương trình nước sạch nông thôn...

Đối với Việt Nam, hình thức ODA hỗ trợ theo chương trình khá quan

trọng, nó đảm bảo cho chúng ta một sự phát triển hài hoà, bền vững. Tuy vậy

khối lượng ODA thời gian qua dành cho hình thức này chưa nhiều, mới chỉ

giải quyết được một số vấn đề cấp bách nhất. Do đó, trong thời gian tới chúng

ta phải tăng cường thu hút ODA hỗ trợ cho các chương trình.

1.2-Hỗ trợ theo dự án

Hình thức này khá phổ biến ở Việt Nam thời gian qua. Hỗ trợ theo dự án

thường được thực hiện bằng nguồn vốn vay ưu đãi và hỗn hợp. Các dự án

thường phải đáp ứng được một số yêu cầu từ phía các nhà tài trợ. Hình thức này

thường phổ biến ở lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, thủy

lợi, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội và lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Khối lượng ODA dành cho hỗ trợ dự án là rất lớn, chiếm phần lớn lượng

vốn mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam kể từ năm 1993 đến nay.

Đây là hình thức rất quan trọng bởi vì nó góp phần tạo đựng cơ sở vật chất

thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.

1.3-Hỗ trợ cán cân thanh toán

Chi ngân sách của nước ta thời gian qua thường lớn hơn thu hàng chục

ngàn tỷ đồng mỗi năm. Bội chi ngân sách cũng là tình trạng chung của các

nước đang phát triển. Các nhà tài trợ đã sử dụng hình thức hỗ trợ cán cân

13

thanh toán như một công cụ để giữ vững sự ổn định của thị trường tài chính

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

quốc tế và giúp đỡ một phần chính phủ các nước đang phát triển giảm nhẹ

gánh nặng bội chi ngân sách. Hình thức này chưa phát triển ở Việt Nam và

chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ưu đãi nhỏ.

1.4-Hỗ trợ kỹ thuật

Đây là một hình thức ODA quan trọng, đặc biệt là đối với những nước

có trình độ kỹ thuật lạc hậu như Việt Nam. Hình thức này được thực hiện

dưới dạng các chương trình hợp tác kỹ thuật như: chương trình cử chuyên gia,

chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật, chương trình cung cấp trang thiết bị...

Thời gian qua, các chương trình này đã đóng góp một phần quan trọng vào

việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đẩy nhanh quá trình

chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.

2-Sự cần thiết phải tăng cường thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải

ngân nguồn vốn ODA để phát triển nền kinh tế Việt Nam

Đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, đất nước ta còn nghèo nàn và lạc

hậu, hiện nay chúng ta chưa có đủ các tiền đề cần thiết cho một sự phát triển

bền vững.

Để phát triển nền kinh tế với tốc độ nhanh trong khi nền kinh tế nhỏ bé

đang thiếu vốn nghiêm trọng và tiết kiệm trong nước còn quá thấp thì cần

phải bổ sung vốn đầu tư bằng khối lượng lớn nguồn vốn nước ngoài. Huy

động vốn nước ngoài rất cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, phát triển nền kinh tế để hoà nhập với kinh tế thế giới, trong đó tranh thủ

vốn ODA là một chủ trương lớn của nước ta từ giai đoạn mở cửa.

Các công trình thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay đã

xuống cấp nghiêm trọng, không thể duy trì phát triển kinh tế lâu dài. Hệ thống

giao thông đường bộ chắp vá. Để nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông quốc

gia xuyên suốt từ nay đến năm 2005, mỗi năm chúng ta cần hàng chục ngàn

tỷ đồng, đó là chưa kể đến hệ thống giao thông nội tỉnh. Hệ thống giao thông

14

đường thủy được xây dựng từ nhiều năm nay lại không được quan tâm bảo

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

dưỡng hàng năm nên không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá.

Muốn phục vụ tốt cho xuất khẩu thì trước mắt phải nâng cấp một số cảng

quan trọng như cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng; phải xây

mới và nâng cấp các cầu cảng và hệ thống kho bãi của các cảng này. Hệ thống

sân bay cũng cần được cải tạo hàng năm cho phù hợp với nhu cầu. Hệ thống

thông tin liên lạc đã phát triển rất nhanh thời gian qua cần tiếp tục phát huy và

có một số đổi mới cho thích hợp hơn. Mỗi ngành này cũng cần đầu tư hàng

trăm, hàng ngàn tỷ đồng.

Bên cạnh đó, các vấn đề cũ còn tồn tại và các vấn đề xã hội mới nảy sinh

cũng đòi hỏi phải có nguồn lực để giải quyết. Một xã hội không thể phát triển

bền vững nếu trẻ em không được đi học, người già và người tàn tật không

được chăm sóc, bệnh dịch không được thanh toán... Do đó phát triển con

người là chiến lược của Đảng ta trong công cuộc phát triển kinh tế. Để giải

quyết những vấn đề đó mỗi năm chính phủ phải chi hàng chục ngàn tỷ đồng.

Hiện nay các khoản thu của ngân sách không đủ đáp ứng các nhu cầu

trên. Thuế là nguồn thu chủ yếu nhưng mỗi năm vẫn bị thất thu một số lượng

lớn. Năm 1999 tổng thu ngân sách của Nhà nước khoảng trên 70.000 tỷ đồng

trong khi tổng các khoản chi xấp xỉ 90.000 tỷ đồng. Như vậy chúng ta phải bù

đắp bội chi ngân sách khoảng 20.000 tỷ đồng. Do đó, việc thu hút nguồn lực

bên ngoài sẽ giúp chính phủ trong việc giảm bội chi ngân sách.

Kể từ năm 1987, các công ty nước ngoài được phép chính thức hoạt

động tại Việt Nam. Khối lượng vốn của các công ty này đã giúp đỡ rất nhiều

cho chính phủ trong việc khắc phục tình trạng thiếu vốn. Chính nhờ quyết

định mở cửa này, nền kinh tế Việt Nam đã có bước tăng trưởng vượt bậc

trong hơn 10 năm qua, quan hệ sản xuất tỏ ra phù hợp hơn, lực lượng lao

động được giải phóng, nến kinh tế trong nước phát triển cả chiều rộng lẫn

chiều sâu, về cơ bản nền kinh tế đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài hàng

chục năm qua. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất lớn trong công

15

cuộc phát triển kinh tế đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng bộc lộ những

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

mặt hạn chế. Nhà đầu tư chỉ quan tâm bỏ vốn đầu tư vào những lĩnh vực có

khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế nhanh. Điều này đã gây ra sự phát triển

mất cân đối trong nền kinh và không thực hiện được nhiều mục tiêu kinh tế-

xã hội khác. Ngoài ra còn có nguy cơ mất ổn định nền kinh tế, cuộc khủng

hoảng tài chính năm 1997 vừa qua của các nước khu vực Đông Nam Á là một

minh chứng cụ thể.

Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng

đặc biệt của nguồn vốn ODA đối với tiến trình phát triển nền kinh tế- xã hội

của đất nước. Do đó, phải tăng cường khả năng thu hút và sử dụng có hiệu

quả nguồn vốn này. Hiện nay, việc giải ngân chậm đang là một tồn tại rất lớn

cần sớm được khắc phục.

Thời gian qua, Việt Nam đã khá thành công trong việc vận động, thu hút

nguồn vốn ODA thông qua việc tổ chức Hội nghị các nhà tài trợ (CG). Kết

quả của những nỗ lực trên là 15,14 tỷ USD vốn ODA mà cộng đồng các nhà

tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-1999. Tuy nhiên,

muốn có được số vốn này để đầu tư vào các chương trình, dự án thì còn là

một quá trình từ xác định dự án, chuẩn bị dự án, thẩm định dự án, đàm phán

vay vốn và phê duyệt khoản vay cho tới thực hiện dự án. Có thể hiểu, để đưa

những đồng vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết vào thực hiện các

chương trình, dự án chính là quá trình giải ngân vốn ODA. Như vậy, muốn

tận dụng tốt nguồn vốn ODA, biến những cam kết của các nhà tài trợ thành

hiện thực, chúng ta phải giải quyết triệt để những yếu tố gây cản trở quá trình

giải ngân nguồn vốn này. Có tăng được tỷ lệ giải ngân thì việc thu hút nguồn

vốn ODA mới thực sự có tác dụng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân mới làm cho

đồng vốn ODA thực sự đi vào cuộc sống góp phần tích cực vào công cuộc

phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Trong những năm qua, vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào

việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều dự án đã hoàn

16

thành và có tác động tích cực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Nguồn vốn ODA đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hiện

nay của ngành năng lượng. Một loạt các nhà máy sản xuất điện đã được xây

dựng bằng vốn ODA như nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy Nhiệt điện

Phả Lại, Thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi... Việc xây dựng những nhà máy này

làm giảm bớt sự quá tải của mạng lưới điện Quốc gia, đáp ứng nhu cầu về

năng lượng điện ngày càng cao cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Những

công trình giao thông chủ chốt của nền kinh tế Việt Nam đã được thực hiện

bằng nguồn vốn ODA như cải tạo, nâng cấp và phát triển các đường quốc lộ

huyết mạch (Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, xây dựng cầu Mỹ Thuận...).

Phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi được sự hỗ trợ của nguồn

vốn ODA thông qua một loạt các dự án phát triển cà phê, chè; chồng rừng; xây

dựng các cảng cá ; phát triển chăn nuôi; thực hiện chương trình xoá đói giảm

nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng ở nhiều tỉnh nghèo. Một số hệ thống thủy lợi

lớn ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam đang được khôi phục và phát triển.

Nguồn vốn ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các lĩnh vực y tế, xã hội,

giáo dục và đào tạo như Dự án giáo dục tiểu học, Dự án Hỗ trợ y tế Quốc

gia... Ngoài ra, việc cải thiện, cung cấp nước sinh hoạt tại các thành phố, thị

xã và các vùng nông thôn, miền núi là lĩnh vực ưu tiên cao trong sử dụng vốn

ODA. Đến nay, hầu hết các thành phố, thị xã của các tỉnh đã có các dự án

ODA về phát triển hệ thống cung cấp nước sinh hoạt được thực hiện. Nguồn

vốn ODA cũng góp phần hỗ trợ đáng kể nhằm thực hiện điều chỉnh cơ cấu

kinh tế thông qua các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ

cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa...

Một số chương trình, dự án ODA thực hiện xong và hiện đang phát huy

tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như

Nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2 - giai đoạn 1 (công

suất 400 MW). Một số công trình giao thông quan trọng đã đưa vào sử dụng

và phát huy hiệu quả như Quốc lộ 5; Quốc lộ 1A đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn

17

TPHCM - Cần Thơ, đoạn TPHCM - Nha Trang. Cảng Hải Phòng; các hệ

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

thống cung cấp nước sinh hoạt ở Hà Nội, Lào Cai, Hoà Bình... Nhiều bệnh

viện ở các thành phố và thị xã như Bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí

Minh), Việt Đức (Hà Nội) và 9 bệnh viện ở Hà Nội... Chương trình tiêm

chủng mở rộng quốc gia, các chương trình y tế khác (chống sốt rét, bướu cổ,

AIDS - HIV...) được thực hiện có hiệu quả. Nhiều trường học nhất là các

trường tiểu học ở các tỉnh hay bị bão, lũ lụt ở miền Bắc và miền Trung đã

được xây dựng.

Như vậy, ODA đã tham gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội,

ODA đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển

của Việt Nam. Trong Văn kiện Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 8 đã

chỉ rõ: "Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa

phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng

kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và quản lý đồng thời

dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản

xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng

chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững

chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần

không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản

18

lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực".

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

CHƯƠNG II

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993- 1999

I-TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI QUAN

HỆ VỚI NGUỒN VỐN ODA

1-Những chuyển biến về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời

gian qua

Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986), nền kinh tế nước ta lâm vào

cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Việt Nam bị xếp vào một trong 10 nước

chậm phát triển nhất thế giới với thu nhập dưới 200 USD/ người . Nhập siêu

liên tục gia tăng, nợ nước ngoài hầu như không có khả năng trả. Cơ chế bao

cấp bộc lộ nhiều khuyết điểm và không còn phù hợp. Tệ quan liêu, bao cấp,

cửa quyền hoành hành trong bộ máy tổ chức Nhà nước làm cho nền dân chủ

bị vi phạm nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Kẻ địch đã tận dụng cơ hội này để

19

gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Đứng trước nguy cơ đó, năm 1986,

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá như sau:

"Cơ chế tập trung quan liêu dựa trên bao cấp của Nhà nước được thực

hiện từ nhiều năm nay, đã không tạo được động lực phát triển, lại còn làm

suy yếu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các

thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, giảm sút năng suất , chất lượng

sản phẩm và hiệu quả kinh tế, đẩy phân phối và lưu thông vào tình trạng rối

loạn và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội chúng ta."

Kết luận quan trọng này đã mở đầu giai đoạn tăng cường công cuộc đổi

mới ở Việt Nam. Quyết định đổi mới toàn diện, mở cửa hội nhập với nền kinh

tế thế giới của Đảng là tiền đề để các nhà tài trợ hướng tới Việt Nam. Khối

lượng lớn nguồn vốn ODA mà Việt Nam nhận được kể từ năm 1993 thể hiện

sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.

Đến nay sau hơn 10 năm đổi mới, tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam đã

có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá

cao, tuy rằng sau cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của khu vực đã làm

cho

Tốc độ tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn đạt cao so với các nước trong

vùng. Tốc độ tăng GNP bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm và giai

đoạn 1996-2000 là 6,7%/năm. Với việc hoàn thành vượt mức và toàn diện

những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 mà các kế hoạch 5

năm trước đó chưa bao giờ thực hiện được đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc

khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa

được vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ

phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt được

nhiều kết quả. Vốn đưa vào thực hiện hàng năm chiếm khoảng 28% tổng vốn

đầu tư toàn xã hội. Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi , phù hợp với yêu cầu

20

chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Một số ngành công nghiệp quan trọng phát triển mạnh cả về chiều rộng

và chiều sâu:

-Giao thông vận tải : Giao thông đường bộ được thiết lập trên 96,8%

tổng số xã của cả nước. Hệ thống giao thông đường thủy được hiện đại hoá và

mở rộng quy mô, hiện có khả năng vận chuyển 45 triệu tấn hàng mỗi năm.

Giao thông hàng không cũng không ngừng nâng cao khả năng và chất lượng

phục vụ.

-Bưu chính viễn thông có bước phát triển khá, được hiện đại hoá về cơ

bản. Tất cả các tỉnh và các huyện được trang bị tổng đài điện tử và nối với

nhau qua các tuyến cáp quang, các tuyến viba số. Mật độ điện thoại đạt 4/100

dân, tăng 13,8 lần so với năm 1991. Mạng viễn thông quốc tế được xây dựng

khá hiện đại, hoàn chỉnh và ngày càng được tăng cường về quy mô. Mạng

lưới bưu chính được mở rộng. Công tác phát hành báo chí được bảo đảm tới 7

điểm truyền và in báo từ xa. Tất cả các tỉnh thành và 895 huyện thị và 74% số

xã, phường có báo đến hàng ngày.

-Điện: Cho đến nay, tổng công suất nguồn điện đạt 5.284,91 Mw, tổng

chiều dài lưới điện là 105,096 km. Hết năm 2000, mục tiêu 100% số huyện,

80% số phường xã có điện là có thể đạt được.

-Thủy lợi : Cả nước đã xây dựng được 743 hồ đập vừa và lớn, 3.500 hồ

đập vừa và nhỏ, hơn 1.000 cống tưới tiêu lớn, khoảng 10.600 trạm bơm nước,

tổng công suất tưới đạt 3,7 triệu ha, tiêu đạt 1,4 triệu ha. Các công trình thủy

lợi đó đã đảm bảo tưới cho khoảng 6 trong 7 triệu ha gieo trồng lúa, 90 vạn ha

rau và cây công nghiệp.

Một số ngành công nghiệp khác cũng có chuyển biến rõ rệt như dầu khí,

dệt, điện tử , may mặc, vật liệu xây dựng...

Bên cạnh đó, nông nghiệp cũng đạt được những thành công rực rỡ.

Chẳng những giải quyết triệt để vấn đề an ninh lương thực mà còn là nguồn

thu ngoại tệ lớn với các mặt hàng xuất khẩu như gạo , cà phê, hạt tiêu...

21

Giá cả được ổn định trong nhiều năm cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

phát triển vững vàng hơn. Giá đồng Việt Nam giảm đều đặn so với đồng Đô

la Mỹ ở một tỷ lệ chấp nhận được, giúp cho việc xuất khẩu hàng hoá thuận lợi

hơn. Nhờ đó, cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt. Năm 2000, xuất khẩu

đã xấp xỉ nhập khẩu, tuy chưa hoàn toàn là điều đáng mừng vì nó cho thấy

suy giảm đầu tư sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, song cũng không thể

phủ nhận thành công của chính sách xuất khẩu.

Tình hình xã hội cũng có những chuyển biến tích cực. Thu nhập của

người dân, đặc biệt là của người nông dân tăng nhiều so với trước đây. GDP

bình quân năm 2000 đạt 400 USD/người gấp 1,8 lần so với năm 1990. Đời

sống vật chất và tinh thần được cải thiện tốt hơn. Công tác xoá đói giảm

nghèo được đặc biệt quan tâm đã trở thành phong trào sâu rộng trong quần

chúng nhân dân và đạt được nhiều kết qủa, số hộ nghèo đã giảm từ 30% năm

1992 xuống còn 20% năm 1995 và 10% năm 2000. Xuất hiện ngày càng

nhiều các hộ gia đình làm kinh tế giỏi mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu

đồng.

Chất lượng khám chữa bệnh được từng bước nâng lên, trang thiết bị y tế

được nâng cấp ở các tuyến, y tế cơ sở được củng cố, hầu hết các xã đều có

trạm xá. Đã hình thành một số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân.

Giáo dục cũng rất được chú trọng đầu tư, nhất là cơ sở vật chất. Trường

lớp đã khang trang hơn, điều kiện học tập của học sinh, sinh viên đã tốt hơn

nhiều so với trước đây. Đầu tư cho giáo dục tuy chưa đáp ứng được yêu cầu

đặt ra song đã góp phần nâng cao dân trí của toàn dân.

An ninh chính trị được giữ vững, sự ổn định xã hội cơ bản được duy trì.

Tính dân chủ được phát huy trong nội bộ Đảng và toàn xã hội. Đảng cộng sản

nhận được sự ủng hộ to lớn của toàn thể nhân dân. Quan hệ quốc tế được

củng cố và mở rộng.

Như vậy, thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc cải cách kinh

tế là rất lớn, trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của nguồn vốn ODA.

22

Mặt khác, những thành quả đầy ấn tượng có được trong việc đổi mới nền kinh

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

tế cũng giúp cho Việt Nam nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng

đồng các nhà tài trợ.

2-Một số đặc điểm của nền kinh tế có ảnh hưởng đến việc thu hút

vốn ODA

-Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao, nền kinh tế phát

triển khá ổn định tạo niềm tin cho các nhà tài trợ ODA. Đặc điểm này cùng đặc

điểm vị trí địa lý giúp cho nước ta trở thành mối quan tâm lớn của các nước khác

trong chính sách ngoại giao nói chung và việc tài trợ ODA nói riêng.

-Thứ hai, về cơ bản nước ta vẫn còn là một nước nghèo, GDP bình quân

đầu người thấp. Đây là một đặc điểm khá thuận lợi vì một điều kiện quan trọng

cho việc tài trợ ODA của các nước DAC là mức thu nhập bình quân thấp.

-Thứ ba, cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều nơi thiếu điện, nước

sạch, hệ thống giao thông xuống cấp nghiêm trọng. Do đó, việc thu hút ODA

để đầu tư phát triển hạ tầng là rất quan trọng và luôn được ưu tiên trong chính

sách phát triển kinh tế của Chính phủ ta.

-Thứ tư, nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, công

nghiệp kém phát triển. Có tới gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp, do đó phần lớn lực lượng lao động chưa được đào tạo, chất lượng lao

động thấp. Công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế, thiếu công

nghệ, công nhân lành nghề. Phong cách làm việc của cán bộ nhà nước còn

chịu ảnh hưởng bởi tác phong nông nghiệp và chế độ bao cấp trước đây nên

hiệu quả thấp, nhiều khi gây khó khăn cho phía đối tác cung cấp ODA. Do

đó, các lĩnh vực như phát triển khoa học công nghệ, đào tạo, cơ khí hoá nông

nghiệp còn gặp nhiều khó khăn và cần được đầu tư thích đáng. Việc thu hút

ODA để giải quyết vấn đề này được Chính phủ ta rất chú trọng.

-Thứ năm, môi trường đầu tư còn nhiều bấp bênh , rủi ro. Cuộc cải cách

23

hành chính diễn ra rất chậm và chưa thu được kết quả đáng kể. Bộ máy hành

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

chính vẫn còn cồng kềnh và trùng lắp chức năng, chưa đảm bảo được sự điều

hành tập trung, thống nhất. Bên cạnh đó, hệ thông pháp luật còn chồng chéo,

nhiều chỗ bất hợp lý gây khó khăn không ít cho các nhà đầu tư và các nhà tài

trợ ODA.

Tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung nước ta đang có điều kiện

thuận lợi cho việc thu hút nguồn vốn ODA và nâng cao tính hiệu quả của nó.

Chúng ta cần phát huy những điểm thuận lợi và giảm thiểu những mặt hạn

chế để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA phục

vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội.

II- THỰC TRẠNG GIẢI NGÂN NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 1993 - 1999

1-Đánh giá chung về tình hình giải ngân ODA

1.1-Tình hình cam kết

Có thể nói các biện pháp cải cách kinh tế của Việt Nam trong hơn 10

năm qua đã giúp cho mức cam kết viện trợ tăng lên đáng kể. Nhìn chung,

chúng ta đã tạo được lòng tin và xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các

nhà tài trợ.

Tính đến hết năm 1999, qua 7 hội nghị nhóm tư vấn của các nhà tài trợ

(CG) dành cho Việt Nam, tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết

dành cho Việt Nam là 15,14 tỷ USD, cụ thể là:

Năm

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999 Tổng số

Cam kết ODA

1,81

1,94

2,26

2,43

2,40

2,20* 2,10**

15,14

(tỷ USD)

Tốc độ tăng

---

7,19 16,67

7,35

-1,27

-8,33

-4,54

(%)

Bảng 1: Khối lượng vốn ODA cam kết giai đoạn 1993-1999

24

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Dấu * , ** trong số liệu cam kết của hai năm 1998 và 1999 có nghĩa là:

(*) Chưa kể 0,5 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế.

(**) Chưa kể 0,7 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế.

Số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nói trên

được sử dụng trong một số năm để thực hiện các chương trình và dự án. Qua

bảng số liệu có thể thấy được là nguồn vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam

liên tục tăng lên từ năm 1993 đến năm 1996, năm 1993 mới chỉ là 1,81 tỷ

USD nhưng đến năm 1996 đã là 2,43 tỷ USD. Đây là giai đoạn nền kinh tế

nước ta tăng trưởng cao và liên tục, đồng thời kinh tế thế giới không có những

biến động lớn. Tuy nhiên, năm 1997, số ODA cam kết chững lại và giảm dần.

Nguyên nhân của sự sút giảm trên là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ trong khu vực Đông Nam Á, tác động tiêu cực đến kinh tế Việt

Nam và các nhà tài trợ. Lượng vốn ODA tuy có giảm, nhưng thể hiện một sự

cố gắng, quan tâm rất lớn của các nhà tài trợ đối với nước ta trong bối cảnh

kinh tế của họ cũng gặp không ít khó khăn.

1.2- Tình hình ký kết các Hiệp định

Muốn sử dụng được nguồn vốn ODA đã cam kết, Việt Nam và các nhà

tài trợ phải ký các Hiệp định (Nghị định thư, Bản ghi nhớ (MOR), văn kiện

dự án...) để thực hiện các chương trình, dự án được hai bên thỏa thuận.

Tính đến hết năm 1999, cam kết ODA được hợp thức hoá thành các Hiệp

định có giá trị 10.894 triệu USD, bằng 72% tổng nguồn ODA được cam kết

trong thời kỳ 1993 - 1999.

Trong tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết, ba nhà tài trợ chủ yếu là Nhật

Bản, Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) có

giá trị các Hiệp định đã ký kết là 8.373 triệu USD, chiếm 76,8% tổng giá trị

các Hiệp định đã ký kết, trong đó:

25

-Nhật Bản: 4.399 triệu USD, chiếm 40,3% tổng giá trị các hiệp định đã

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

ký kết.

-WB: 2.366 triệu USD, chiếm 21,7% tổng giá trị các Hiệp định đã ký

kết.

-ADB: 1.608 triệu USD, chiếm 14,7% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết.

Như vậy, đây là ba nhà tài trợ giữ vai trò quan trọng hàng đầu đối với

nguồn vốn ODA vào Việt Nam, đặc biệt Nhật Bản đã đóng góp tới 40,3%

tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. Do đó, cần phải khai thác triệt để sự hỗ

trợ của các nhà tài trợ này, đẩy nhanh tiến độ giải ngân làm cho đồng vốn

được sử dụng có hiệu quả hơn.

Về cơ cấu nguồn vốn theo hình thức cung cấp, (ODA vốn vay và ODA

không hoàn lại) của các Hiệp định đã ký kết, ODA vốn vay có giá trị 9.167,7

triệu USD, chiếm 84,1% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. vốn ODA viện

trợ có hoàn lại là 1.726,8 triệu USD chiếm 15,9% giá trị các Hiệp định đã ký.

Trong số các nhà tài trợ, hiện chỉ có một vài nhà tài trợ cung cấp thuần

túy viện trợ không hoàn lại như Úc (bình quân hàng năm khoảng 50 triệu đôla

Úc), Canađa (bình quân hàng năm khoảng 20 triệu đô la Canađa)... Đại bộ

phận các nhà tài trợ cung cấp cả ODA vốn vay và ODA không hoàn lại.

Riêng ODA vốn vay cũng có nhiều hình thức khác nhau. Có nhà tài trợ

chỉ cung cấp một hình thức vốn vay ưu đãi, thí dụ Nhật Bản. Có nhà tài trợ

cung cấp vốn vay hỗn hợp, một phần vốn vay ưu đãi kết hợp với một phần

vốn vay thương mại từ các ngân hàng, thí dụ như Tây Ban Nha.

Việc cung cấp ODA thường được thực hiện dưới hai hình thức: có điều

kiện ràng buộc (do các công ty nước ngoài thực hiện thông qua đấu thầu hoặc

chỉ định thầu); không có điều kiện ràng buộc (đấu thầu quốc tế rộng rãi hoặc

hạn chế).

Bảng 2: Tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết phân theo ngành

giai đoạn 1993-1999

26

Ngành Tỷ lệ (%)

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Tổng số 100

Trong đó:

1. Năng lượng điện 25

2. Giao thông vận tải 19

3. Tín dụng và điều chỉnh cơ cấu 16

4. Nông, lâm, thủy sản bao gồm cả thủy lợi 13

5. Y tế, xã hội, giáo dục- đào tạo 11

6. cấp thoát nước 7

7. Các ngành khác 9

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

1.3 Khái quát về tình hình giải ngân

Trong thời kỳ từ năm 1993 đến hết năm 1999, tổng số vốn ODA đã được

giải ngân là 6,367 tỷ USD bằng 58 % tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết và

chiếm 41,6% tổng số vốn ODA được cam kết. Con số này cho thấy, hiện nay

vẫn còn một khối lượng lớn vốn ODA chưa được đưa vào thực hiện, đây là sự

lãng phí lớn trong khi nền kinh tế Việt Nam đang rất cần vốn cho sự nghiệp

CNH, HĐH đất nước. Một tỷ lệ giải ngân thấp sẽ làm cho tính hiệu quả trong

việc sử dụng nguồn vốn này bị hạn chế và làm giảm lòng tin của các nhà tài

trợ đối với nước ta.

Năm

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

Mức cam kết

1,81

1,94

2,26

2,43

2,40

2,20

2,1

(tỷ USD)

Mức giải ngân

0,413

0,725

0,737

0,726

0,791

1,04

1,866

(tỷ USD)

27

Bảng 3: Giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-1999

Tỷ trọng giải ngân

22,8

37,3

32,5

29,9

32,5

47,3

87

so với cam kết (%)

Tốc độ tăng mức

75,5

1,65

-1,49

8,95

31,4

79,4

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

__

giải ngân (%)

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Nhìn chung, về lượng tuyệt đối thì giá trị giải ngân tăng đều qua các

năm. Năm đầu tiên chúng ta tiếp nhận ODA, lượng giải ngân mới chỉ là 0,413

tỷ USD, nhưng đến năm 1999, giải ngân đã đạt mức 1,866 tỷ USD. Điều đó

chứng tỏ cố gắng của Việt Nam về mọi mặt, từ tiếp cận, phối hợp với các nhà

tài trợ đến khắc phục, giải quyết những tồn tại để tranh thủ tối đa nguồn ngoại

lực quan trọng này. Năm 2000, thực hiện thêm khoảng 1,69 tỷ USD và như

vậy, thời kỳ 1996-2000, tổng vốn ODA thực hiện được là 6,2 tỷ USD, tương

đương với 78% chỉ tiêu kế hoạch.

Tuy nhiên, nếu xét về tỷ trọng giải ngân so với ODA mà các nhà tài trợ

cam kết dành cho Việt Nam còn thấp, tính chung cho cả thời kỳ 1993-1999

thì con số này chỉ là 41%, thấp hơn so với mức bình quân trong khu vực. Sự

chênh lệch lớn về giải ngân ODA so với cam kết cho thấy tình trạng chúng ta

đã chú trọng nhiều đến vận động ODA mà không quan tâm thích đáng đến

quá trình thực hiện, sử dụng nguồn vốn này.

Tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ và tuỳ thuộc

vào loại hình dự án là đặc điểm nổi bật nhất của tình hình thu hút và sử dụng

nguồn vốn ODA thời gian qua. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường đạt hoặc

vượt mức kế hoạch giải ngân hàng năm, thí dụ các dự án hỗ trợ kỹ thuật do

Úc, Đan Mạch, Na Uy,... tài trợ. Tuy nhiên, các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường

có chi phí chuyên gia rất cao (tới 60-70% giá trị dự án), hơn nữa chi phí này

thường ở ngoài Việt Nam.

Các dự án xây dựng cơ bản tập trung và giải ngân nhanh của WB và

28

ADB có mức giải ngân tương đối khá. Thí dụ, tính đến năm tài chính 1999,

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

mức giải ngân đối với các dự án của WB đạt 24,7% trên tổng giá trị các Hiệp

định đã ký kết (mức trung bình của khu vực là 21%). Tuy nhiên, nếu chỉ tính

riêng các dự án xây dựng cơ bản tập trung của WB thì chỉ đạt mức 19%. Đối

với các dự án của ADB, mức giải ngân cho cả giai đoạn 1993- 1999 đạt

15,3%, được đánh giá gần sát với mức bình quân của ADB nhưng thấp hơn

một số nước khác trong khu vực.

Các dự án sử dụng nguồn vốn JBIC (Nhật Bản) đạt mức giải ngân thấp,

khoảng 10,7 % trên tổng giá trị các Hiệp định đã ký cho cả giai đoạn 1993-

1999 (mức trung bình là 11,9%). Tuy nhiên, nếu so sánh mức giải ngân qua

các năm thì thấy đã có những tiến bộ trong việc giải ngân nguồn vốn này, ví

dụ năm 1996 chỉ đạt 2% , năm 1997 đã đạt 6,4%.

Mặt khác, xét theo ngành đối với riêng các dự án của ba nhà tài trợ lớn

(WB, ADB và Nhật Bản) thì các dự án thuộc ngành công nghiệp và năng

lượng có mức giải ngân khá hơn cả, đạt 17% tổng giá trị ký kết và các dự án

cấp nước đô thị kém hơn cả, chỉ đạt 5,8% giá trị ký kết. Các dự án giao thông,

bưu điện đạt 13,6% giá trị ký kết. Đây là những con số cho thấy mức giải

ngân của các ngành còn rất thấp cần sớm được khắc phục.

So với các dự án của ba nhà tài trợ lớn (WB, ADB, Nhật Bản) thì quy

mô dự án của các nhà tài trợ song phương thường nhỏ hơn và đa phần là các

dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA), không có xây dựng cơ bản tập trung có tốc độ giải

ngân nhanh hơn (ví dụ các dự án của các nhà tài trợ song phương như Pháp,

Đức, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển,...).

Trong tình hình thế giới gặp nhiều khó khăn, một số nhà tài trợ tập trung

nguồn lực để đối phó với những khó khăn trong nước nên đã cắt giảm nguồn

ODA cho những nước đang phát triển. Cuộc khủng hoảng tiền tệ tại các nước

Đông Nam Á lan sang một số nước châu Á khác vốn là các nền kinh tế mạnh

của châu lục cũng đã có tác động nhất định đến tình hình cung cấp viện trợ

29

cho Việt Nam. Khối lượng vốn ODA giải ngân đều được quy ra đồng đô la

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Mĩ nên trong bối cảnh các đồng ngoại tệ mạnh giảm giá so với đồng đô la Mĩ

thì mức giải ngân trong những năm gần đây là có tích cực. Mặc dù vậy cũng

không thể phủ nhận được tốc độ giải ngân trong những năm qua còn nhiều

hạn chế, không có sự chuyển biến đáng kể, đây chính là những yếu kém mang

tính hệ thống trong quá trình thực hiện vốn ODA của Việt Nam.

1.4-Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn

1993-1999 theo các tiêu thức khác nhau

1.4.1-Giải ngân ODA theo ngành

Từ năm 1993, cơ sở hạ tầng ngày càng trở thành lĩnh vực nhận được nhiều

ODA nhất. Chiều hướng này diễn ra đồng thời với sự gia tăng danh mục đầu tư

của ba nhà tài trợ lớn nhất, đó là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới và ADB cũng

như sự gia tăng các dự án sử dụng vốn vay ODA. Trong những năm qua , nguồn

vốn ODA dành cho phát triển con người tăng dần về giá trị tuyệt đối, nhưng hiện

nay tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực này trong tổng vốn ODA bị giảm dần. Để phục

vụ cho những ưu tiên của Việt Nam, các nhà tài trợ cũng đã cam kết đầu tư cho

phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Từ năm 1997, các khoản vay giải

ngân nhanh chủ yếu chỉ để cho vay lại phục vụ các quỹ tín dụng nông thôn,

trong khi mức giải ngân nhanh hỗ trợ cán cân thanh toán và điều chỉnh cơ cấu là

không đáng kể do không có các chương trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu của

Ngân hàng thế giới và Qũy tiền tệ quốc tế.

*)Giải ngân ODA cho cơ sở hạ tầng:

Trong những năm qua, ngành năng lượng đã có mức giải ngân lớn nhất,

do xuất phát từ tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nó. Các dự án ODA tập trung

chủ yếu vào xây dựng nhà máy phát điện. Hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường

năng lực quản lý hệ thống cấp điện cũng đi kèm với các dự án đầu tư này.

Hầu như toàn bộ mức tăng giải ngân trong năm 1997 và 1998 xuất phát từ

việc thực hiện ba dự án lớn do JBIC hỗ trợ nhằm xây dựng và mở rộng ba nhà

30

máy phát điện. Tuy nhiên, vẫn còn 40% dân số chưa có điện. Có thể nhanh

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

chóng giải quyết nhu cầu điện ở nông thôn thông qua các phương án mở rộng

mạng lưới điện, ví dụ như áp dụng các hệ thống phân cấp quản lý các hệ

thống cấp điện hay sử dụng các nguồn năng lượng tái sinh.

Biểu 1: Giải ngân ODA cho cơ sở hạ tầng

Triệu USD

700

600

500

400

300

200

100

0

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Năng lượng Đường giao thông Nước sạch, vệ sinh

Phát triển đô thị (Nguồn: Điều tra của UNDP)

Trong hai năm qua mức giải ngân cho ngành giao thông vận tải đã

tăng lên gấp đôi từ 110 triệu USD trong năm 1996 lên 212 triệu USD trong

năm 1998. Các chương trình tập trung vào một số ít các nhà tài trợ (JBIC

Ngân hàng thế giới và ADB). Đáng chú ý là 10 dự án đường giao thông lớn

nhất chiếm khoảng 90% tổng vốn viện trợ dành cho mục đích này từ năm

1993, trong khi đó hệ thống đường giao thông nông thôn rất kém phát triển,

làm khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm và giảm khả năng tiếp cận với các

dịch vụ xã hội cơ bản.

Các chương trình khôi phục hệ thống cấp nước và phát triển đô thị: Năm

1998, mức giải ngân cho các chương trình này đạt 45 triệu USD. Con số này

đã được duy trì khá ổn định từ năm 1994 đến nay. Hệ thống nước sạch và vệ

31

sinh môi trường có ý nghĩa hết sức quan trọng việc nâng cao sức khỏe cho

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

người dân, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Trong những thập kỷ qua, chính

phủ đã phát động các chương trình hằm cải thiện hệ thống nước sạch và vệ

sinh môi trường. Tuy nhiên số liệu điều tra chính thức cho thấy chưa đến một

nửa số dân được cung cấp nược sạch và có điệu kiện vệ sinh thực sự.

*)Giải ngân ODA cho phát triển nông thôn:

Các chương trình ODA ngày càng tập trung nhiều hơn cho công tác phát

triển nông thôn, phù hợp với việc Chính phủ khẳng định dành ưu tiên cho lĩnh

vực này từ năm 1997.

Biểu đồ 2: Giải ngân ODA cho phát triển nông thôn

Triệu USD

250

200

150

100

50

0

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Chương trình thông thường Chương trình giải ngân nhanh

(Nguồn: Điều tra của UNDP)

Năm 1993, mức giải ngân ODA mới chỉ là 73 triệu USD, chiếm tỷ lệ

17,6% trong tổng số ODA đã giải ngân của năm. Năm 1999, giải ngân ODA

cho phát triển nông thôn đã là 240 triệu USD, chiếm 17,7%. Như vậy, lượng

tuyệt đối có tăng lên, nhưng về tỷ trọng giải ngân ODA cho phát triển nông

thôn trên tổng số thì vẫn không có thay đổi nhiều.

Vài năm gần đây, các chương trình giải ngân nhanh ngày càng chiếm tỷ

lệ lớn trong tổng số ODA giải ngân cho phát triển nông thôn. Các chương

32

trình này đã góp phần làm cho mức giải ngân ODA cho lĩnh vực này tăng

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

nhanh. Các khoản ODA dùng để cho vay lại phục vụ tín dụng nông thôn cũng

như đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở nông thôn đều tăng. Dự kiến mức

đầu tư ODA cho phát triển nông thôn sẽ tiếp tục tăng thông qua một số

chương trình hỗ trợ (Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình hỗ trợ

1.715 xã nghèo và Chương trình 5 triệu ha rừng).

*)Giải ngân ODA cho phát triển con người:

Trong khuôn khổ "sáng kiến 20/20" được công bố năm1995 tại Hội nghị

Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển xã hội ở Copenhagen, cả Chính phủ và

cộng đồng tài trợ đều cam kết dành 20% ngân sách của mỗi bên cho các dịch

vụ xã hội cơ bản (DVXHCB). Theo định nghĩa của Hội nghị Copenhagen,

DVXHCB bao gồm giáo dục tiểu học và mẫu giáo, xoá mù chữ cho người

lớn, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, các chương trình tiêm chủng, kế hoạch hoá

gia đình, bệnh viện cấp huyện và xã, cứu trợ thiên tai, nước sạch và vệ sinh

nông thôn.

Biểu đồ 3: Giải ngân ODA cho phát triển con người

Triệu USD

250

200

150

100

50

0

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Giáo dục Ytế Phát triển xã hội

(Nguồn: Điều tra của UNDP)

Qua biểu đồ cho thấy, nguồn vốn ODA đã giải ngân dành cho phát triển

con người có sự tăng dần kể từ năm 1993 đến 1999. Năm 1993 mới chỉ là 68

33

triệu USD, nhưng đến năm 1999 đã giải ngân được 210 triệu USD.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

-Giải ngân ODA cho giáo dục có bước tăng trưởng khá. Thông qua các

chương trình hợp tác giữa các trường đại học và cơ sở giáo dục trong và ngoài

nước cũng như các chương trình đào tạo và học bổng. Một khoản 30 triệu

USD được chi cho các chương trình giáo dục tiểu học. Tỷ lệ nhập học ở các

cấp tiểu học trên toàn quốc rất cao. Tuy nhiên, việc đảm bảo khả năng tiếp

cận bình đẳng (về giới, dân tộc và vùng lãnh thổ) cũng như chất lượng giáo

dục là những thách thức cần giải quyết.

-Mức giải ngân cho ngành y tế cũng tăng đáng kể. Chiều hướng tăng

mức giải ngân cho lĩnh vực này là rất đáng hoan nghênh vì tình trạng sức

khỏe sinh sản ở Việt Nam hiện nay là rất đáng lo ngại. Hiện nay, các dịch vụ

kế hoạch hoá gia đình đang được triển khai với phạm vi và mức độ sử dụng

cao, song tỷ lệ nạo phá thai và tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh chứng tỏ khả

năng sử dụng các biện pháp tránh thai vẫn còn hạn chế và khả năng chăm sóc

sức khoẻ bà mẹ còn yếu kém.

Về phía các nhà tài trợ, mức viện trợ cho các lĩnh vực xã hội nói chung

vẫn tăng thường xuyên. Tuy nhiên mức chi tiêu cho các DVXHCB vẫn tăng

chậm so với yêu cầu. Khoảng 50% nguồn vốn ODA dành cho các DVXHCB

được chi cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm an toàn thực phẩm và

dinh dưỡng, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, sức khỏe sinh sản. Giáo dục tiểu học

chiếm 30% nguồn vốn ODA dành cho các DVXHCB thông qua một số

chương trình khôi phục trường học và nâng cấp trang thiết bị, cũng như nâng

cao chất lượng và khả năng tiếp cận với giáo dục cho tất cả trẻ em.

1.4.2-Giải ngân ODA theo loại hình viện trợ

Nguồn vốn ODA cung cấp cho Việt Nam trong những năm qua luôn tồn

tại dưới hai hình thức là viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi. Kể từ năm

1993 đến 1999, tỷ lệ giữa hai loại hình viện trợ này đã có những thay đổi, thể

34

hiện qua biểu đồ dưới đây.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Biểu đồ 4: Giải ngân ODA theo loại hình viện trợ

Triệu USD

1400

1200

1000

800

600

400

200

0

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Viện trợ không hoàn lại Cho vay

(Nguồn: Điều tra của UNDP)

Xu hướng giải ngân nguồn vốn ODA theo các điều kiện tài chính trong

những năm qua là tăng ODA cho vay và giảm ODA viện trợ không hoàn lại.

Năm 1993, các nhà tài trợ cung cấp cho Việt Nam chủ yếu dưới dạng viện trợ

không hoàn lại, ODA cho vay chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhưng năm 1999, tỷ lệ giữa

ODA vốn vay và ODA viện trợ không hoàn lại đã rất lớn. Vì vậy, nếu không

sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này thì ODA sẽ trở thành gánh nặng nợ nần

mà thế hệ sau phải gánh chịu.

1.4.3-Giải ngân ODA của một số nhà tài trợ chủ yếu

Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác phát triển với hầu hết các nhà

tài trợ song phương và đa phương trên thế giới. Trong số này, thời gian qua,

nổi trội ba tài trợ thường chiếm trên 70% tổng số cam kết ODA là Nhật Bản,

Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng thế giới.

35

*)Nhật Bản

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Tỷ lệ giải ngân ODA Nhật Bản giai đoạn 1993-1999 là 23,01% không

cao so với các nguồn ODA khác. Ba năm 1994-1996 tỷ lệ giải ngân thấp do

nhiều đề xuất không được Chính phủ Nhật Bản chấp thuận, tốc độ giải ngân

các dự án đã ký rất chậm.

Nhìn tổng thể thời gian qua, hình thức viện trợ không hoàn lại chung và

hỗ trợ kỹ thuật có chất lượng tương đối cao, giải ngân khá tốt. Do nguyên tắc

của Chính phủ Nhật Bản là "viện trợ theo chương trình" chứ không phải theo

"lượng tiền rót vào". Cũng chính do nguyên nhân này, các dự án thường có

giá thành cao hơn mặt bằng chung ở Việt Nam, gây khó khăn cho khâu xét

duyệt dự án. Một số dự án còn bị thay đổi nội dung sau khi đã ký Công hàm

trao đổi (E/N). Điều này làm cản trở tiến độ giải ngân ODA.

Vốn vay là hình thức tài trợ có tỷ lệ giải ngân thấp nhất. Thời gian đầu,

tình hình giải ngân ODA vốn vay rất thấp, năm 1994 chỉ đạt xấp xỉ 2,3%

lượng vốn cam kết. Có rất nhiều nguên nhân làm cho việc giải ngân vốn vay

kém, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là công tác chuẩn bị chưa tốt, không

đáp ứng được yêu cầu của phía Nhật Bản. Trong những năm gần đây, công

tác giải ngân vốn vay được cải thiện rất nhiều. Năm 1999, tỷ lệ giải ngân đạt

cao nhất là 13,9%. Vốn vay được tập trung vào hai lĩnh vực: năng lượng và

giao thông. Tuy tỷ lệ giải ngân của vốn vay rất thấp so với các hình thức tài

trợ khác của Chính phủ Nhật Bản nhưng cũng có những dự án làm tốt công

tác này. Điển hình là nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2 bắt đầu tổ chức đấu thầu

tháng 11-1996 và hoàn thành vào đầu năm 2001. Tổng số vốn đầu tư là

653,33 triệu USD (trong đó vốn vay của Nhật Bản là 590,03 triệu USD). Tính

đến hết năm 1999 đã giải ngân được 386,91 triệu USD. Riêng trong năm

1999, lượng vốn giải ngân là 253,38 triệu USD và năm 2000 giải ngân được

172,1 triệu USD. Tốc độ giải ngân một số dự án thuộc lĩnh vực giao thông

vận tải khá tốt. Như dự án xây dựng 42 cầu trên Quốc lộ 1 giai đoạn 1 có thời

gian thực hiện là 5 năm thì đến hết năm 1999 đã giải ngân được trên 70% và

36

đã đưa vào sử dụng trong năm 2000. Dự án Quốc lộ 18 đoạn Chí Linh- Bãi

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Cháy có thời gian thực hiện là 3 năm, trong 2 năm 1998-1999 đã giải ngân

được 456,9 tỷ đồng, bằng 60% tổng giá trị dự án. Dự án đã hoàn thành và đưa

vào sử dụng đúng tiến độ trong năm 2000.

Vốn đối ứng trong nước chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, tuy nhiên là điều kiện bắt

buộc trong đa số các dự án thuộc lĩnh vực giao thông. Bởi vì theo quan điểm

của Chính phủ Nhật Bản thì việc bỏ tiền ra sẽ nâng cao chất lượng của công

trình. Đây chính là thiện chí của phía Nhật Bản. Ngoài ra, còn cho phép Việt

Nam chọn hình thức góp vốn thuận lợi nhất (đa số là quyền sử dụng đất).

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều dự án giải ngân rất chậm do

một số khâu như chuẩn bị vốn đối ứng chưa kịp thời và đúng với điều ước đã

ký, thủ tục phê duyệt các dự án còn rườm rà, công tác giải phóng mặt bằng

còn khó khăn do mức đền bù chưa thoả đáng...

Dự án nâng cấp Quốc lộ 10 có thời gian thực hiện là 3 năm 1998-2000,

nhưng đến hết năm 1999 mới giải ngân được 231,9 tỷ đồng, bằng 6% tổng giá

trị dự án. Dự án xây dựng 19 cầu trên Quốc lộ 1 giai đoạn 3 theo đúng dự kiến

ban đầu thì sẽ hoàn thành trong năm 2000, nhưng đến hết năm 1999 mới chỉ

giải ngân được 38% tổng giá trị dự án.

Nhìn chung, công tác giải ngân trong những năm qua chưa tốt, nhiều dự

án không được Chính phủ Nhật Bản chấp thuận, tốc độ giải ngân nói chung

vẫn còn chậm. Cam kết vẫn chỉ là lời hứa. Sẽ rất lãng phí nguồn lực nếu

chúng ta không biết cách tận dụng những cam kết đó. Trong những năm tới,

chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để nâng cao số vốn ODA được giải ngân.

*)Ngân hàng thế giới (WB)

Kể từ năm 1993 đến năm 1999, thông qua 7 Hội nghị của các nhà tài trợ,

WB đã cam kết cung cấp một lượng ODA trị giá 3.253 triệu USD cho Việt

Nam. Tính đến hết năm 1999, WB đã ký kết các Hiệp định vay với tổng số

vốn là 2.366 triệu USD theo các điều kiện tín dụng là lãi suất 0%, dịch vụ phí

37

0,75%/năm; thời hạn vay là 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Các dự án

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

giải ngân bằng vốn vay của WB Sẽ được thực hiện thông qua đấu thầu quốc

tế. Ngoài ra, Việt Nam đã đàm phán 3 dự án với tổng số vốn vay 245,5 triệu

USD, hiện đang hoàn tất các thủ tục để ký kết.

Nguồn vốn đã ký vay này tập trung vào các dự án thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế-

xã hội như giao thông (Quốc lộ 1, giao thông nông thôn, giao thông đường

sông ở Nam Bộ), truyền tải điện, tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC), dịch vụ

khuyến nông, thủy lợi, lâm nghiệp, các dự án thuộc hạ tầng cơ sở xã hội như

giáo dục, dân số, y tế...

Ngân hàng thế giới dành 50% nguồn viện trợ của mình cho các dự án cơ

sở hạ tầng qui mô lớn, 23% cho tín dụng nông thôn và cơ sở hạ tầng qui mô

nhỏ ở nông thôn, 14% cho viện trợ trả nợ và 12% cho chương trình phát triển

con người. Phương thức phân bổ này được phản ánh trong các loại hình trợ

giúp của Ngân hàng thế giới: 2/3 nguồn vốn ODA của ngân hàng được giải

ngân cho các dự án đầu tư, phần còn lại cho các dự án giải ngân nhanh.

Tính đến cuối năm 1999, nếu chỉ tính riêng các dự án, mức giải ngân vốn

ODA của WB đạt được là 835 triệu USD, chiếm tỷ lệ 35,2% so với các Hiệp

định đã ký kết. Như vậy, trong ba nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam thì vốn

ODA của WB có tỷ lệ giải ngân cao hơn cả. Tỷ lệ giải ngân nói trên được coi

là tương đối khả quan trong khu vực, đặc biệt là với một nước tiếp nhận viện

trợ như Việt Nam. Một số dự án vốn vay của WB thực hiện là tốt như phục

hồi ngành điện, giải ngân đạt 80% so với kế hoạch đặt ra là 47%; Phát triển

điện lực, giải ngân đạt 96% so với kế hoạch là 89%. Tuy nhiên, những dự án

thực hiện tốt như vậy không nhiều.

Một số dự án có tỷ lệ giải ngân thấp chủ yếu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng

xã hội như Giáo dục tiểu học, Hỗ trợ Y tế quốc gia, Dân số và Sức khoẻ gia

đình. Tình trạng này đang được từng bước khắc phục, nhưng đến nay chưa có

nhiều chuyển biến tích cực.

38

*)Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Qua 7 Hội nghị các nhà tài trợ (1993-1999), ADB đã cam kết cung cấp

cho Việt Nam 2.131 triệu USD. Đến nay, Việt Nam đã ký với ADB 1.608

triệu USD với lãi suất là 0%, dịch vụ phí là 1%/năm, thời hạn vay là 40 năm

trong đó có 10 năm ân hạn. Các dự án này được thực hiện qua đấu thầu quốc

tế. Đến hết năm 1999, vốn vay ADB đã giải ngân được 495 triệu USD, đạt

33,9% số vốn đã ký kết. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA cao hơn so với Nhật Bản.

Tuy nhiên, vẫn còn ở mức thấp.

ADB vẫn tiếp tục giữ vị trí thứ ba về mức độ giải ngân ODA ở Việt

Nam. ADB tăng cường các hoạt động của mình trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng

với hơn 50% tổng vốn ODA. Phát triển nông thôn chiếm vị trí thứ hai trong

các hoạt động của ADB với các dự án tập trung vào tín dụng nông thôn và

một dự án mới có qui mô lớn về cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn.

1.4.4-Giải ngân ODA theo vùng kinh tế

Cho tới nay, tất cả các vùng trong nước đều được hưởng lợi từ nguồn

vốn ODA đã được giải ngân. Nhiều chương trình, lĩnh vực thuộc nguồn vốn

này đã được trải đều trên cả nước như: Chương trình y tế cơ sở, chương trình

tiêm chủng mở rộng; chương trình sinh đẻ có kế hoạch; chương trình phòng

chống HIV; chương trình đường giao thông nông thôn; chương trình cấp nước

sạch cho các thành phố, thị xã các tỉnh; chương trình trồng rừng các tỉnh ven

biển; chương trình hạ tầng nông thôn...

Các vùng

ODA đã ký kết

% tỷ lệ trong

ODA

bình

tổng số ODA

quân / người

(1993- 1999)

đã ký (%)

(USD/người)

(Triệu USD)

Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

2169,6

20

206,7

Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ

599,3

5,5

139,2

Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ

1070

10

124,5

Vùng Tây Nguyên

293,1

2,7

71,4

39

Bảng 4: Nguồn vốn ODA thuộc các vùng

Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long

1081,9

10

66,9

Vùng núi Bắc Bộ

478

4,4

47,4

(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Thời gian qua, chênh lệch về lượng vốn ODA giữa các vùng ngày càng

được cải thiện (các địa phương đều có ODA). Sự đa dạng, phong phú về vốn

ODA thực hiện theo lĩnh vực, theo tính chất nguồn vốn trên các vùng trong

những năm gần đây tăng lên rõ rệt. Tuy vậy, sự chênh lệch về vốn ODA giữa

các vùng còn khá lớn, sự chênh lệch này được thể hiện trong bảng số liệu

trên.

Như vậy, sự chênh lệch về thu hút và giải ngân ODA giữa các vùng là

rất lớn. Do đó, mục tiêu trước mắt và lâu dài của Chính phủ Việt Nam và các

nhà tài trợ là phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng còn gặp nhiều

khó khăn theo hướng tập trung vào hạ tầng cơ sở (điện, đường, thủy lợi,

khuyến nông...) và hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, văn hoá...). Cộng đồng các

nhà tài trợ quốc tế cũng có sự nhất trí cao về tập trung nguồn lực và tăng

cường giải ngân cho chương trình xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa.

*Vùng núi Bắc Bộ:

Cho đến nay vẫn là khu vực nghèo nhất Việt Nam với 59% dân cư được

coi là nghèo đói. Trong những năm gần đây, nguồn vốn ODA đầu tư vào vùng

đã tăng lên đáng kể , tuy nhiên, vẫn còn thấp nhất so với các vùng khác trong

cả nước. Trong giai đoạn 1993-1999, tổng vốn ODA đầu tư vào vùng mới chỉ

đạt 478 triệu USD, với tỷ lệ trong tổng số ODA đã ký kết rất thấp là 4,4%.

Nguồn vốn ODA này được tập trung đầu tư mới toàn bộ hệ thống cấp nước

sạch cho các tỉnh lỵ như: Hà Giang (Pháp), Tuyên Quang (ADB), Cao Bằng

(Pháp), Lạng Sơn (Pháp), Sơn La (Pháp), Điện Biên Phủ- Lai Châu (Pháp),

Việt Trì- Phú Thọ (Đức), Bắc Giang (Úc), Lào Cai (Pháp), Yên Bái (Pháp),

Thái Nguyên (ADB), Bắc Cạn (Nhật Bản). Nâng cấp, cải tạo các bệnh viện

40

của tỉnh như: Yên Bái (Pháp), Phú Thọ (Ý), Cao Bằng (Đan Mạch), Chương

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

trình y tế của WB cho các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Chương trình

y tế của Thụy Điển cho các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai. Ngoài ra,

phát triển nông nghiệp và nông thôn ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ cũng chiếm

một khối lượng đáng kể nguồn vốn ODA vào vùng.

Như vậy, nguồn vốn ODA vào vùng đã được tập trung đều cho khắp các

tỉnh và đáp ứng được các lĩnh vực ưu tiên. Các chương trình, dự án đã đem lại

những hiệu quả nhất định. Song vùng núi phía Bắc là vùng kinh tế chậm phát

triển, trình độ sản xuất thấp, kết cấu hạ tầng yếu và thiếu, trình độ dân trí và

mức sống dân cư còn rất thấp so với các vùng khác trong cả nước. Vì vậy, bên

cạnh các nguồn vốn đầu tư khác, Chính phủ cần kêu gọi các nhà tài trợ quan

tâm và dành ưu tiên cao nguồn vốn ODA cho khu vực này. Đồng thời, cần áp

dụng những biện pháp thúc đẩy giải ngân nguồn vốn ODA.

*Vùng Tây Nguyên:

Hiện nay, Tây Nguyên là một trong ba khu vực nghèo nhất trong cả nước

(Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ). Giai đoạn 1993- 1999,

Tây Nguyên là khu vực tiếp nhận ít nhất nguồn vốn ODA với giá trị các Hiệp

định đã ký kết là 293 triệu USD, chỉ chiếm 2,7% trong tổng số. ODA bình

quân đầu người cũng ở mức rất thấp là 71,4%, chỉ đứng trên vùng núi Bắc Bộ.

Thời gian qua, ODA đặc biệt gia tăng trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi

trường. Phát triển nông, lâm nghiệp và nông thôn cũng nhận được một phần

đáng kể ODA ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là vùng thường xuyên bị hạn hán,

lũ lụt, do vậy để đảm bảo phát triển nông nghiệp cần tập trung đầu tư vốn cho

các công trình thủy lợi. Ytế, giáo dục- đào tạo, cải cách thể chế cũng là những

lĩnh vực được tiếp nhận vốn ODA, song chưa phải là lớn. Các chương trình,

dự án đã giải ngân thời gian qua, nhìn chung, đều đúng định hướng về cơ cấu

ngành, lĩnh vực ưu tiên thu hút viện trợ của Việt Nam. Trong 7 năm qua, hầu

hết các dự án viện trợ đều là vốn không hoàn lại hoặc vay ưu đãi. Về công tác

quản lý, nhìn chung tính chủ động chưa cao. Hầu hết các dự án viện trợ đều

41

do các nhà tài trợ nghiên cứu, thiết kế. Do vậy, hiệu quả của các dự án đối với

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương trong vùng còn ở mức độ.

*Vùng Đồng bằng sông Cửu Long:

Đây là vùng sản xuất gần 47,5% sản lượng lúa cả nước, đóng vai trò

quan trọng trong chiến lược an toàn lương thực quốc gia. Giai đoạn 1993-

1999, với 1081 triệu USD vốn đầu tư từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức,

tuy không phải là lớn nếu so với các nguồn vốn đầu tư khác, nhưng đã đóng

góp một phần không nhỏ trong sự phát triển của toàn vùng. Trong thời gian

qua, vốn ODA giải ngân chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng

với các dự án điện nông thôn, các nhà máy điện Ô Môn, Phú Mỹ và Hàm

Thuận- Đa Mi hoạt động ở cả hai khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông

Cửu Long. Các dự án này làm tăng mức giải ngân cho ngành năng lượng.

Thời gian qua, ODA đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển

kinh tế- xã hội của các tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu

quả nguồn vốn ODA đầu tư trong vùng, thời gian tới cần tăng tỷ lệ giải ngân

đồng thời hướng các nhà tài trợ tập trung đầu tư hơn nữa vào các lĩnh vực mà

các tỉnh trong vùng có thế mạnh như phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản

xuất lương thực và phát triển nông thôn.

*Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ:

Là địa bàn thu hút lớn vốn đầu tư nước ngoài (cả ODA và FDI). Trong

giai đoạn 1993-1999, nguồn vốn ODA tập trung vào vùng là 2169,6 triệu

USD, chiếm 20% tổng số vốn ODA đã được ký kết. Trong đó các chương

trình, dự án các tỉnh trong vùng trực tiếp thụ hưởng là 1020,9 triệu USD, và

các chương trình, dự án các tỉnh trong vùng được thụ hưởng thông qua các bộ,

ngành trung ương là 1148,79 triệu USD. ODA được phân bổ cho các tỉnh

trong vùng chưa được đồng đều, chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm

ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh (đặc biệt Hà Nội chiếm khoảng 650

triệu USD). Có thể nói, cùng với các nguồn vốn đầu tư khác, ODA đã đóng

một vai trò quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế- xã hội của toàn

42

vùng.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

*Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ:

Vùng bao gồm 4 tỉnh Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng

Ngãi, là vùng nằm ở vị trí địa lý thường xuyên bị thiên tai bão lụt xảy ra. So

với các vùng kinh tế trọng điểm khác, vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ

không có lợi thế về nhiều mặt. Nói riêng về nguồn vốn ODA, vùng nhận được

nguồn vốn ODA còn ít. Trong giai đoạn 1993-1999, tổng vốn ODA vào vùng

chỉ đạt gần 600 triệu USD, chỉ chiếm 5,5% tổng vốn ODA đã ký kết.

Là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, hơn nữa lại nằm

trong khu vực chịu nhiều thiên tai bão lụt. Thời gian qua, các địa phương

trong vùng đã cố gắng tranh thủ thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, nhất là nguồn

vốn ODA để phát triển kinh tế- xã hội. Song, nguồn vốn ODA vào vùng còn

hạn chế. Để tương xứng với tiềm năng kinh tế của vùng, Chính phủ cần có

những chính sách, biện pháp phù hợp để thu hút và giải ngân ngày càng nhiều

nguồn vốn ODA, tạo đà cho sự phát triển của các địa phương.

*Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ:

Là vùng lãnh thổ phát triển năng động nhất cả nước. Thời kỳ 1991-1999,

nhịp độ tăng trưởng bình quân cả nước đạt 7,6% thì vùng kinh tế trọng điểm

Nam Bộ đạt 11,2%. Một trong những nguyên nhân làm cho tốc độ tăng

trưởng kinh tế của vùng đạt mức cao là do tạo ra được môi trường thuận lợi

huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh nguồn vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài tương đối lớn, nguồn vốn ODA vào vùng tuy không

lớn nhưng đã đem lại hiệu quả nhất định, góp phần quan trọng vào thành tựu

phát triển chung của các tỉnh trong vùng. 7 năm qua (1993-1999), vùng kinh

tế trọng điểm Nam Bộ đã thu hút một khối lượng ODA trị giá khoảng 1 tỷ

USD, chiếm 10% lượng ODA đã ký kết.

2-Nghiên cứu và đánh giá một số Nghị định liên quan đến giải ngân

nguồn vốn ODA

43

Các Nghị định liên quan đến giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

thức như Nghị định 87/CP ngày 5 tháng 8 năm 1997 về Quy chế quản lý và sử

dụng nguồn vốn ODA, Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999

ban hành Quy chế đầu tư và xây dựng, Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1

tháng 9 năm 1999 ban hành Quy chế đấu thầu, Nghị định 22/1998/NĐ-CP

ngày 24 tháng 4 năm 1998 về giải phóng mặt bằng là kết quả của một quá

trình nghiên cứu công phu, chỉnh sửa và thay đổi nhiều lần cho phù hợp với

tình hình thực tế. Ưu điểm của các Nghị định này là cơ bản, song vẫn có

nhiều bất cập mới xuất hiện trong quá trình thực hiện. Dưới đây là những xem

xét, đánh giá về hai trong số những Nghị định nêu trên:

1.1.1-Nghị định 87/CP

Nói chung, Nghị định này được hoan nghênh và đánh giá cao vì nó chỉnh

sửa được cơ bản những thiếu sót của Nghị định 20/CP ngày 15 tháng 3 năm

1994 ban hành trước đó:

Thứ nhất, nó đã quy định một cách cụ thể trách nhiệm, chức năng ,

quyền hạn của các bộ, ngành có tham gia vào quá trình quản lý, điều phối

nguồn vốn ODA, đặc biệt là năm cơ quan tham mưu như Bộ Kế hoạch và Đầu

tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ

Thương mại, Văn phòng Chính phủ.

Thứ hai, có sự phân cấp mạnh trong quá trình thẩm định, phê duyệt các

dự án ODA theo hướng trao trách nhiệm nhiều hơn cho các bộ và địa phương.

Thứ ba, thủ tục tinh gọn hơn một cách đáng kể nên đã đẩy nhanh quá

trình tiếp nhận và giải ngân nguồn vốn ODA, nhất là những dự án đầu tư.

Thứ tư, nội dung các văn bản liên quan đã thống nhất với nhau hơn, đặc

biệt là những văn bản trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.

Tuy nhiên, Nghị định 87/CP cũng còn có những tồn tại cần được chỉnh

sửa như sau:

-Nghị định đã quy định sự tham gia quản lý của một số cơ quan Nhà

44

nước đối với nguồn vốn ODA. Đó là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Văn

phòng Chính phủ, Bộ Khoa học- Công nghệ và Môi trường. Tuy nhiên, trách

nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan này cần được nghiên cứu để

điều chỉnh nhằm tránh tình trạng có nhiều đơn vị quản lý mà vẫn lỏng lẻo,

chậm chạp.

-Một số ý kiến đề xuất việc xem xét tính phù hợp của các quy định phân

cấp phê duyệt dự án như mức 500.000 USD trong dự án do Chính phủ phê

duyệt đối với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại. Hơn nữa, Nghị định 87/CP

đã quá chú trọng các khâu đầu như kêu gọi, chuẩn bị dự án, thẩm định, trình

duyệt... mà coi nhẹ khâu kiểm tra, theo dõi và đánh giá dự án. Ngoài ra, chưa

có công cụ chế tài để kiểm tra chặt chẽ chế độ báo cáo của các chủ dự án và

cơ quan chủ quản.

-Thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA cần được cải tiến cho

phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay, trình tự và thủ

tục thanh toán còn rườm rà, chậm trễ.

-Cơ cấu cho vay lại theo quyết định số 02/2000/QĐ-BTC của Bộ Tài

chính cần được xem xét lại vì nếu tính lãi suất ưu đãi trong trường hợp cho

vay bằng ngoại tệ bằng 2/3 lãi suất thương mại tham chiếu tại thời điểm ký

hiệp định cộng với phí nước ngoài (nếu có) và phí dịch vụ cho vay lại điều đó

sẽ gây khó khăn rất lớn cho chủ dự án.

- Hiện nay, nguồn vốn cho xây dựng đề cương, báo cáo tiền khả thi đối

với các dự án tiền khả thi vẫn chưa được cấp. Có nhiều ý kiến miễn thuế

(nhập khẩu, VAT...) đối với những dự án ODA.

1.1.2-Nghị định 22/1998/NĐ-CP

Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/8/1998 đã

thể hiện những mặt tiến bộ sau:

-Chính sách đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng đã được áp dụng

45

thống nhất trong mọi trường hợp đất bị Nhà nước thu hồi như dự án thu hồi

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

đất sử dụng vào sản xuất kinh doanh, xây dựng khu chế xuất, khu công

nghiệp. Dự án thu hồi đất vào xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phi sản

xuất vật chất. Dự án sử dụng vốn trong nước và dự án có vốn nước ngoài...

-Nghị định đã chi tiết và cụ thể hoá các trường hợp được đền bù thiệt hại

về đất, về tài sản cho phù hợp với thực tế quản lý, sử dụng đất đai, tài sản ở

nước ta và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện.

-Nghị định đã có những quy định để đảm bảo mức đền bù tương xứng

với mức thiệt hại thực tế. Chẳng hạn, giá đền bù đất và tài sản không những

được quy định phù hợp với giá trị thực tế cho người có đất bị thu hồi mà Nhà

nước còn có những chính sách hỗ trợ nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho

người có đất bị thu hồi phải di chuyển đến nơi ở mới hoặc ổn định tại chỗ cho

họ.

-Nghị định đã có những quy định cụ thể về khâu tổ chức thực hiện, trong

đó cơ chế bảo đảm quyền tự chọn phương thức đền bù (bằng đất, bằng tiền...)

cho người có đất bị thu hồi đã được thay cho cơ chế áp đặt từ phía Nhà nước.

Đồng thời, Nghị định cũng giao trách nhiệm tổ chức thực hiện đề bù, giải

phóng mặt bằng cho địa phương, tạo điều kiện cho địa phương chủ động trong

việc thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực

hiện dự án.

Tuy nhiên, Nghị định 22/1998/NĐ-CP còn có những tồn tại nhất định cả

về chính sách và công tác tổ chức thực hiện, cụ thể như sau:

-Nghị định chưa có quy định về mức đất ở đối với những trường hợp đã

sử dụng đất đai trước ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành, nhất là

các trường hợp thừa kế đất do ông, bà, cha, mẹ để lại. Điều đó đã dẫn đến

những vướng mắc khó xử khi xác định mức đền bù thiệt hại về đất ở, làm

chậm tiến độ thực hiện dự án, gây khiếu kiện nhiều.

-Các điều kiện được đền bù hoặc không được đền bù thiệt hại về đất và

46

quy định đền bù về đất được quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 10 và Điều

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

11... của Nghị định 22/CP chưa cụ thể, chưa thống nhất với các văn bản về

thu tiền sử dụng đất. Điều này dẫn đến cách hiểu và cách làm khác nhau.

-Việc xác định hệ số để tính giá đất đền bù khiến việc tính toán trở lên

phức tạp và nếu thực hiện quy định đó thì chi phí đền bù sẽ tăng, khiến chủ dự

án không thể chịu nổi.

-Quy định hiện hành nêu rằng, ngoài việc phải đền bù thiệt hại theo quy

định tại Nghị định 22/CP, các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đủ đất,

cho thuê đất phải nộp tối thiểu 40% tiền sử dụng đất hoặc phải trả tiền thuê

đất. Quy định này bất hợp lý và gây khó khăn cho người được giao đất, thuê

đất và ít khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển sản xuất kinh

doanh. Vì như vậy, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải bỏ chi

phí tương đương với số tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sau

đó họ còn phải nộp 40% tiền sử dụng đất.

-Chính sách tái định cư chưa chi tiết và chưa đồng bộ. Điều đó đã ảnh

hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng, làm chậm tiến độ thực hiện dự án và

tác động của việc phải di chuyển chỗ ở tới người bị thu hồi đất chưa được giải

quyết một cách thống nhất.

-Một số khái niệm về người bị thu hồi đất, giá đền bù, công trình bất hợp

pháp của các tổ chức tài trợ như WB, ADB và Việt Nam tuy có nội dung gần

giống nhau nhưng có tên gọi khác nhau. Điều này đã dẫn đến sự khác nhau

trong tổ chức thực hiện ở không ít trường hợp.

-Nghị định chưa quy định thật cụ thể và chặt chẽ đối với một số lĩnh vực

về tổ chức thực hiện, làm ảnh hưởng tới sự phối hợp giữa các ngành ở Trung

ương với địa phương. Chẳng hạn như công tác giám sát đền bù, tái định cư.

Trước thực trạng đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc khẩn trương

sửa đổi, bổ sung Nghị định 22/1998/NĐ-CP nhằm tập trung giải quyết những

ách tắc, đáp ứng nhu cầu đền bù giải phóng mặt bằng đang diễn ra hàng ngày,

47

đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đẩy nhanh tiến độ đầu tư của các dự án. Đồng

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

thời cần đưa ra một số quy định cụ thể về tái định cư để kiểm nghiệm trong

thực tế nhằm tiến tới nghiên cứu xây dựng Pháp lệnh về đền bù và tái định cư.

3-Ưu nhược điểm của việc giải ngân ODA trong những năm qua

3.1-Ưu điểm

Trong tình hình thế giới gặp nhiều khó khăn, một số nhà tài trợ tập

trung nguồn lực để đối phó với những khó khăn trong nước nên đã cắt giảm

nguồn ODA cho các nước đang phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

tại các nước Đông Nam Á lan sang một số nước châu Á khác vốn là các nền

kinh tế mạnh của châu lục cũng đã có những tác động nhất định đến tình hình

cung cấp viện trợ của nước ngoài cho Việt Nam. Giá trị của các khoản giải

ngân những năm qua đều được quy ra đồng đô la Mĩ. Do đó, trong bối cảnh

các đồng ngoại tệ mạnh giảm giá so với đồng đôla Mĩ thì mức giải ngân trong

những năm gần đây là tích cực. Nguyên nhân đạt được những kết quả trên là

do:

-Qua 7 năm tiếp nhận và sử dụng ODA, cán bộ Việt Nam đã dần làm

quen với các thủ tục triển khai vốn ODA, có kinh nghiệm trong việc thực hiện

dự án ODA.

-Có sự phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ, đặc biệt là ba đối tác lớn của

Việt Nam là Nhật Bản, Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á kể từ

khâu hình thành, lựa chọn đến khâu thực hiện các chương trình, dự án ODA.

-Các cơ quan quản lý phía Việt Nam cũng đã nghiên cứu và đưa ra được

hàng loạt các biện pháp cải thiện đáng kể các thủ tục trong quá trình thực hiện

các chương trình, dự án ODA như thủ tục rút vốn, cấp phát vốn đối ứng...

-Một số dự án lớn đã vượt qua được những khó khăn trong giai đoạn

chuẩn bị đầu tư như thẩm định , giải phóng mặt bằng, xét thầu... để đi vào

thực hiện. Chính phủ đã có nhiều cố gắng để tháo gỡ các vướng mắc gây

48

chậm giải ngân, đặc biệt là Chính phủ đã cho phép bổ sung nguồn vốn đối

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

ứng cho các chương trình, dự án ODA có khả năng bị chậm thực hiện vì thiếu

vốn đối ứng.

-Môi trường pháp lý được cải thiện: Chính phủ đã ban hành Nghị định

87/CP về quy chế quản lý và sử dụng ODA nhằm nâng cao hiệu quả của công

tác này. Sau khi Nghị định được ban hành, hàng loạt các Thông tư hướng dẫn

nhằm cụ thể hoá tới mức cao nhất nội dung Nghị định

3.2-Nhược điểm

Bên cạnh những kết quả bước đầu trong việc thu hút và sử dụng nguồn

vốn ODA, trong thời gian qua vấn đề mức giải ngân ODA thấp luôn luôn là

vấn đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương và đa phương nhằm tìm ra

những nguyên nhân và vạch ra những giải pháp để khắc phục. Qua tình hình

thực hiện ODA trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân

nổi cộm sau:

3.2.1-Nguyên nhân khách quan

Quy định về điều kiện tài trợ của các nhà tài trợ rất đa dạng, có khi phức

tạp. Quy trình thực hiện của các nước, các tổ chức tài trợ quốc tế và quy trình

của Việt Nam có những điểm chưa phù hợp lẫn nhau. Có các khoản vay ràng

buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn. Có nhiều dự án thực

hiện trên địa bàn trải rộng (Các dự án dân số, y tế, giáo dục, cấp nước, giao

thông nông thôn thường trải dài trên phạm vi từ 6 đến 18 tỉnh). Một số nhà tài

trợ chậm trả lời những vấn đề phát sinh hoặc thay đổi đột ngột chính sách tài

trợ. Ngoài ra, gần đây còn có nguyên nhân do cuộc khủng hoảng tài chính tiền

tệ của các nước trong khu vực đã làm cho một số dự án gặp khó khăn do

thiếu vốn và do việc ký vay bằng tiền tệ nhưng hợp đồng mua sắm hoặc xây

dựng căn cứ theo giá tính bằng USD , quy ra bản tệ theo giá cố định. Khi

đồng bản tệ bị mất giá, nhà thầu bị lỗ vốn không thể thực hiện dự án theo cam

kết.

49

3.2.2-Nguyên nhân chủ quan

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Để triển khai thực hiện dự án theo cơ chế quản lý ODA đòi hỏi phải có

sự đồng bộ trong tất cả các khâu của qui trình, trong đó vai trò của Bộ Kế

hoạch và Đầu tư là hết sức quan trọng từ khâu vận động ODA đến việc xét

duyệt dự án, phân bổ vốn, đấu thầu và xét duyệt nhà thầu, những khâu này là

cơ sở để bắt đầu thực thi dự án. Tuy nhiên trong thực tế việc qui định trách

nhiệm của từng Bộ, ngành, chủ dự án trong từng khâu chưa được rõ ràng, chặt

chẽ dẫn đến sự chồng chéo chức năng. Đồng thời, từng Bộ, ngành chưa thấy

được và cũng chưa làm hết được trách nhiệm của mình nên việc thực hiện dự

án bị ách tắc ở nhiều khâu. Vấn đề này đã và đang được sửa đổi, bổ sung tại

Nghị định số 87/CP ngày 5/8/1997 về ban hành quy chế nguồn hỗ trợ phát

triển chính thức ODA và Nghị định 90/CP ngày 7/11/1998 (thay thế Nghị

định 58/CP) ban hành quy chế vay và trả nợ nước ngoài đã được Chính phủ

ban hành.

Bên cạnh nguyên nhân bao trùm trên, các yếu tố chính ảnh hưởng đến

qúa trình giải ngân là: Không thực hiện đúng chu trình dự án; Quá trình đấu

thầu mua sắm kéo dài; Quá trình giải phóng mặt bằng chậm; Có nơi, có lúc

vốn đối ứng bố trí không đủ; Năng lực quản lý dự án của các ban quản lý dự

án còn hạn chế; Chính sách thuế đối với các dự án ODA còn chưa nhất quán;

Qúa trình làm thủ tục giải ngân chậm, cụ thể như sau:

-Việc thẩm định, phê duyệt dự án còn bị kéo dài: Nhiều hiệp định đã ký

nhưng mới chỉ có tên dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi,

chưa hoàn thành thủ tục để phê duyệt dự án đầu tư như các hiệp định vay của

Nhật Bản (tài khoá 1993), Pháp, Ấn Độ, Đan Mạch, Thụy Sỹ do chưa có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và bộ chủ quản. Qúa trình lập,

duyệt dự án không kịp thời thường mất từ 1 đến 3 năm, có dự án sau khi

ký hiệp định lại thay đổi qui trình công nghệ (dự án điện Phú Mỹ 1 vay

JBIC), hay thay đổi mục tiêu dự án (như dự án cầu Bình Lợi vay JBIC ). Có

một số dự án trong quá trình lập nghiên cứu khả thi thấy rằng không hiệu quả

50

lại chuyển sang dự án khác (như dự án điện thoại nông thôn, nước khoáng

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Kim Bôi, điện Yaly vay của Pháp, máy nghiền sàng đá vay của Thái Lan).

Một số dự án do thời gian chuẩn bị khá lâu nên đến khi thẩm định phê duyệt

thì nhiều hạng mục trong dự án đã lạc hậu so với tình hình mới.

-Qúa trình đấu thầu mua sắm kéo dài: Nhìn chung việc đấu thầu mua

sắm và xây lắp thường bị kéo dài do Việt Nam mới bắt đầu làm quen với các

nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế (như dự án điện Phả

Lại, điện Phú Mỹ vay của Nhật việc đấu thầu kéo dài hơn 2 năm), hoặc giá cả

cao do buộc phải mua sắm thiết bị từ nước tài trợ nên chủ dự án không chấp

nhận. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ chủ quản và các chủ dự án phải kéo dài thời

gian đàm phán, thẩm định, ký hợp đồng (như thủy điện sông Hinh vay của

Thụy Điển), trong một số trường hợp phải chuyển sang các dự án khác (như

vốn vay của Thái Lan, Trung Quốc...). Quan hệ giữa các nhà thầu chính và

thầu phụ chưa rõ ràng.

-Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng: Chính sách và công tác đền bù

giải phóng mặt bằng đối với các công trình giao thông (Đặc biệt là các dự án

sử dụng vốn vay của WB, ADB) khác với chính sách của Việt Nam nên quá

trình thương lượng, điều chỉnh chính sách để đi đến thống nhất kéo dài hơn

một năm. Có những dự án đã thống nhất về chính sách nhưng việc triển khai

đền bù của các chủ dự án tiến hành chậm: Quốc lộ 1A, quốc lộ 5... Giải phóng

mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, việc làm hoặc

đền bù. Hơn nữa, vấn đề năng lực, trình độ của cán bộ quản lý thực hiện công

tác này và vấn đề thông tin cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong

quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời dẫn đến làm

chậm tiến độ triển khai dự án (chậm bàn giao mặt bằng cho nhà thầu), ví dụ

dự án quốc lộ 18 vốn Hàn Quốc (15 điểm ở Quảng Ninh), dự án quốc lộ 1

(đoạn Pháp Vân - Thường Tín, đoạn thuộc Hà Tĩnh), dự án cầu trên quốc lộ 1

(chậm bàn giao mặt bằng tới 6 tháng đối với cầu Đuống), dự án thủy lợi đồng

bằng sông Hồng vốn ADB ( trạm bơm An Lá II, kênh trục nam Thái Bình,

51

bắc Hưng Hải...), dự án nhiệt điện Phả Lại II (mặt bằng kênh thải tuần hoàn

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

chưa giải phóng được vì 100 hộ dân chưa chấp nhận đơn giá đền bù).

-Vốn đối ứng: Vốn đối ứng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số vốn đầu tư

cho dự án nhưng lại ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án. Từ trước đến nay,

việc kế hoạch hoá vốn đối ứng chưa làm tốt (kể cả vốn cấp phát và vốn tín

dụng). Do khâu lập dự toán của chủ dự án chưa phản ánh đủ hoặc không kịp

thời hạn đưa vào kế hoạch ngân sách năm nên việc bố trí vốn đối ứng thuộc

ngân sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngay từ đầu năm chưa đủ, việc điều

chỉnh vốn đối ứng có khó khăn gây bị động cho ngân sách Nhà nước. Đối với

dự án thuộc diện vay lại của ngân sách Nhà nước, chủ dự án không chủ động

thu xếp nguồn vốn đối ứng.

- Năng lực của các ban quản lý dự án: Nhìn chung các ban quản lý dự

án còn hàn chế về năng lực, trình độ ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản

lý, khả năng phân tích, đàm phán hợp đồng cho nên quá trình xét thầu, ký kết

các hợp đồng mua sắm, xây lắp kéo dài. Có dự án chấp nhận thanh toán cho

nhà thầu ngoài phạm vi hợp đồng ký (như dự án cải tạo lưới điện vay vốn

WB) nên Bộ Tài chính (Tổng cục Đầu tư Phát triển) không thể duyệt hồ sơ

cho thanh toán.

-Chính sách thuế: Việc áp dụng thuế đối với các dự án ODA lâu nay

chưa được nhất quán và phải xử lý từng trường hợp. Bộ Tài chính đã có văn

bản trình Thủ tướng Chính phủ ban hành về qui định chính sách thuế đối với

các dự án vốn ODA nhằm khắc phục tình trạng này.

-Thủ tục giải ngân cho các dự án: Trước năm 1995 do mới tiếp cận công

tác quản lý ODA với các thủ tục phức tạp của các nhà tài trợ, thủ tục đầu tư

trong nước và trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý còn hạn chế nên khâu

xét duyệt hồ sơ để rút vốn và luân chuyển chứng từ có chậm. Đến nay Bộ Tài

chính đã ban hành quy chế, theo đó thời gian xác nhận hồ sơ hợp lệ và làm

thủ tục rút vốn tối đa từ 5 đến 8 ngày. Tuy nhiên, tiến độ rút vốn phần lớn

52

phụ thuộc vào tiến độ thực hiện các dự án và tập hợp đầy đủ hồ sơ rút vốn

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

hợp lệ của các chủ dự án phải phù hợp với thoả thuận cam kết được các nhà

tài trợ quốc tế chấp nhận (thường nhà thầu lập hồ sơ thanh toán gửi cho tư

vấn, sau 20 đến 26 ngày tư vấn mới xác nhận gửi cho chủ đầu tư, chủ đầu tư

xem xét và duyệt hồ sơ khoảng 10 ngày, có trường hợp hàng tháng, sau đó bộ

chứng từ mới được chuyển đến Bộ Tài chính để làm thủ tục rút vốn đối với

phía nước ngoài).

Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác gây chậm trễ cho việc triển

khai thực hiện dự án từ đó dẫn đến chậm giải ngân như thủ tục xin cấp giấy

phép nhập khẩu thiết bị, thủ tục hải quan, xin cấp đất xây dựng văn phòng...

CHƯƠNG III

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN ODA GIAI ĐOẠN 2001-2005

I-DỰ BÁO XU HƯỚNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN ODA Ở VIỆT

53

NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

1-Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-

2010 và của Kế hoạch 5 năm 2001-2005

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm

2001-2010 là không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

trong điều kiện hội nhập. Chiến lược trong 10 năm tới là chiến lược hướng tới

sự phát triển nhanh và bền vững để đảm bảo không ngừng nâng cao mức sống

vật chất và tinh thần của nhân dân theo hướng:

-Về lĩnh vực kinh tế: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trang bị

và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiến cho các ngành nông nghiệp, công

nghiệp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng

bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển. Từng

bước xây dựng nền tảng để trở thành nước công nghiệp.

-Về lĩnh vực ngoài kinh tế: Không ngừng nâng cao chất lượng đời sống

vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, xây dựng thể chế kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường nguồn lực con người,

năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế.

Kế hoạch 5 năm tới (2001-2005) là bước quan trọng thực hiện chiến lược

phát triển kinh tế -xã hội 10 năm, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

tăng cường hiệu quả và sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Thúc đẩy

hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Khai thác tối đa tiềm lực trong

nước, đồng thời tranh thủ nhiều hơn các nguồn lực bên nngoài, sử dụng có

hiệu quả mọi nguồn vốn cho phát triển. Kết hợp thực hiện đồng thời ba nhiệm

vụ chiến lược: Phát triển ổn định hiệu quả cao; Xây dựng về cơ bản cơ chế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Tạo thế và lực để chuẩn bị

hội nhập thắng lợi. Nhằm đáp ứng yêu cầu trên, mục tiêu tổng quát của kế

hoạch 5 năm tới (2001-2005) là:

Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ

54

cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng

một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục- đào tạo,

khoa học và công nghệ. Giải quyết vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá

đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ổn định và cải thiện vững chắc đời sống của

nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tạo các tiền đề

cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã

hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Những mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá trong kế hoạch 5 năm như sau:

-Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm tối thiểu 7%, tích

cực tạo điều kiện thực hiện mức tăng trưởng cao hơn và có bước chuẩn bị cho

5 năm tiếp theo.

-Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước

giữ vai trò chủ đạo, xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động

theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công

nghệ trong sản phẩm.

-Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội, xây dựng cơ cấu kinh

tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn thiện một bước cơ bản hệ

thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, hỗ

trợ nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn.

-Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã

có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng

nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập

kinh tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương.

-Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính- tiền tệ, tăng tiềm

lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hiện triệt để tiết kiệm. Tăng tỷ lệ chi

ngân sách dành cho đầu tư phát triển, duy trì ổn định các cân đối vĩ mô. Phát

55

triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

-Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo

dục- đào tạo, khoa học và công nghệ. Tập trung vào: nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý, triển khai thực hiện chương trình phổ cập

trung học cơ sở, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại, chuẩn bị

các bước đi cần thiết để tiếp cận dần nền kinh tế tri thức.

-Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc: tạo việc làm,

giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền

lương; xoá đói, giảm nghèo; chống tệ nạn xã hội. Ổn định vững chắc và nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

-Đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao nhiệu

lực của bộ máy quản lý Nhà nước. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng.

Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở phường, xã và các đơn vị cơ sở.

-Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự kỷ

cương trong các hoạt động kinh tế- xã hội.

2-Chủ trương của Nhà nước Việt Nam đối với việc thu hút và giải

ngân nguồn vốn ODA.

Trong khuôn khổ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn ODA vận động và đi vào thực

hiện có vai trò quan trọng. Chủ trương của Việt Nam tiếp tục tranh thủ thu

hút nguồn tài trợ phát triển chính thức song phương và đa phương. Đặc biệt

phải nâng cao tốc độ giải ngân nguồn vốn này. Nguồn vốn ODA tập trung chủ

yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ

khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho

các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện

trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn

vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ,

56

không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

vốn ODA có hiệu quả bằng cách tăng cường khả năng giải ngân và kiểm tra,

quản lý chặt chẽ, chống lãng phí tiêu cực.

Thực hiện chủ trương thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA nói trên,

những phương hướng ưu tiên sử dụng nguồn lực này là:

-Phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó lấy chương trình mục tiêu

quốc gia về xoá đói giảm nghèo bao gồm cả công tác định canh định cư và hỗ

trợ đồng bào dân tộc gặp khó khăn làm trọng tâm với các mục tiêu là giảm tỷ

lệ hộ đói nghèo xuống 7% năm 2005, bình quân mỗi năm giảm 3 vạn hộ

nghèo.

-Các dự án ODA hướng vào nội dung hỗ trợ phát triển toàn diện nông

thôn, giao thông, thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt, trồng và bảo vệ rừng,

điện khí hoá, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, xây dựng

các cảng cá với hệ thống thông tin liên lạc và phương tiện đánh bắt đủ đảm

bảo an toàn cho ngư dân, cải tạo và xây dựng mới trường học, bệnh viện.

Phát triển tín dụng nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ được

coi trọng nhằm tạo vốn cho người nông dân phát triển sản xuất, tăng thêm thu

nhập.

-OAD hỗ trợ các chương trình quốc gia dân sinh xã hội, trong đó:

+Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình làm giảm tỷ lệ sinh hàng

năm 0,6%, nhịp độ tăng dân số năm 2005 dưới 1,6%.

+Chương trình thanh toán bệnh xã hội với mục tiêu năm 2005 thanh toán

triệt để bệnh phong trong cả nước, thanh toán các bệnh bại liệt, uốn ván sơ

sinh, sởi, bạch hầu, ho gà, khống chế viêm gan B, viêm não Nhật Bản, tả,

thương hàn.

+Chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn với mục tiêu năm 2005

đảm bảo 95% dân số được dùng nước sạch, 85% dân số có hố xí hợp vệ sinh,

giúp nông dân tái tạo phân bón hữu cơ và xử lý chất thải.

57

+Chương trình giải quyết việc làm với mục tiêu hàng năm giải quyết

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

việc làm cho 1,3 đến 1,35 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố

xuống 3%, nâng quỹ sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.

-Cải tạo, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị cho các bệnh viện tỉnh,

thành phố. Tăng cường năng lực cho hệ thống y tế xã, huyện, xây dựng một

số xí nghiệp dược, tăng cường năng lực kiểm soát sử dụng thuốc.

-Phát triển giáo dục và đào tạo, vừa tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật

cho công tác dạy và học, vừa nâng cao trình độ giáo viên các cấp. Chú trọng

và hoàn thiện, phát triển mạng lưới các trường dạy nghề.

Trong khi cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học trong nước đang

trong quá trình chuẩn bị, phải dành một phần ODA để gửi sinh viên ra nước

ngoài học tập.

-Tiếp tục phát triển hệ thống cấp nước ở một số thành phố, thi xã hiện

chưa có dự án. Phát triển hệ thống thoát nước, xử lý rác thải ở một số thành

phố, thị xã đông dân, môi trường đang bị ô nhiễm nặng.

-sử dụng hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA, kết hợp với các

nguồn vốn khác như đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trong nước để

tiếp tục phát triển các nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và các trạm

biến thế phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt trong tương lai.

Hỗ trợ phát triển giao thông vận tải, giành nguồn ODA thích đáng phát

triển các đường nhánh, đường xương cá nối với các đường quốc lộ, đảm bảo

giao thông thông suốt đến các vùng dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa.

-Sử dụng ODA hợp lý kết hợp với các nguồn vốn khác (đầu tư trực tiếp

nước ngoài, vốn đầu tư trong nước) để cải tạo, nâng cấp và xây mới một số

cảng biển, sân bay phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.

-Đối với thông tin liên lạc, ưu tiên sử dụng ODA để phát triển viễn thông

nông thôn.

-Dành một phần ODA vào việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng (đường,

58

hệ thống cấp, thoát nước; thông tin liên lạc; nhà ở dân cư...) xung quanh các

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

khu công nghiệp, nhất là các tỉnh có nhiều khó khăn, thu nhập thấp.

Sử dụng ODA để thực hiện nghiên cứu cơ bản (tổng quan, quy hoạch,

nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi), chuyển giao công nghệ, phát

triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan nghiên cứu và quản lý.

-Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho các công trình

công nghiệp nhằm tạo nguồn vốn thực hiện các biện pháp cải cách doanh

nghiệp, đầu tư theo chiều sâu, tăng cường và đổi mới trang thiết bị, công nghệ

để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Việt Nam chủ trương trong quá trình phát triển, nguồn lực trong nước có

ý nghĩa quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng và nguồn vốn

ODA đến được tay người dân và cộng đồng mới thực sự trở thành chất xúc

tác cho quá trình phát triển nhanh và bền vững.

3-Yêu cầu đặt ra đối với việc thu hút và giải ngân ODA của Việt

Nam thời gian tới.

Trong những năm qua, về cơ bản chúng ta đã tạo được những điều kiện

thuận lợi cho công cuộc cải cách kinh tế. 5 năm tới sẽ bắt đầu thời kỳ cải

cách kinh tế chiến lược 10 năm (2000-2010) với những yêu cầu thực hiện

toàn diện hơn, sâu và mạnh hơn, Đi vào những vấn đề mới khó khăn và phức

tạp hơn so với giai đoạn trước. Thêm vào đó là những đòi hỏi về vốn và công

nghệ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần

khoảng 9 tỷ USD vốn ODA để cân đối cho đầu tư phát triển. Do đó, nhiệm vụ

đặt ra là trong 5 năm 2001-2005 phải thu hút được 13 tỷ USD và đưa vào giải

ngân 10 tỷ USD.

Trong 5 năm tới, nhu cầu về vốn ODA là rất lớn. Tuy nhiên, lượng vốn

ODA thu hút có thể sẽ tăng không đáng kể. Vì vậy, cần thực hiện triệt để các

biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA để tránh tình trạng lãng phí

59

vốn trong khi nền kinh tế trong nước đang thiếu vốn cho phát triển.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

Khi nền kinh tế tăng trưởng, một số vấn đề xã hội như đói nghèo, bệnh

tật, mù chữ... được đẩy lùi thì nguồn vốn ODA không hoàn lại chắc chắn sẽ

giảm đi, lượng ODA vốn vay sẽ tăng lên. ODA vốn vay là món nợ của chính

phủ. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng là yêu cầu cấp bách nhất, kết quả

mới là thước đo đánh giá việc sử dụng ODA có hiệu quả hay không. Vì lý do

đó, hơn bao giờ hết, việc sử dụng ODA cần có quy hoạch tổng thể, hợp lý,

khảo sát nhu cầu vốn của từng ngành thật chính xác, dự án phải mang tính

thiết thực, tránh để tình trạng công trình đã hoàn thành nhưng không được đưa

vào sử dụng hoặc sử dụng với công suất thấp. ODA không hoàn lại cần tập

trung cho việc giải quyết các vấn đề xã hội.

Cơ hội và thách thức của nước ta trong việc thu hút và giải ngân nguồn

vốn ODA thời gian tới là rõ ràng. Cơ hội rất thuận lợi nhưng thách thức cũng

rất lớn. Chúng ta phải tăng cường các biện pháp thúc đẩy giải ngân và sử

dụng ODA để mang lại hiệu quả kinh tế chứ không phải để thế hệ con cháu

còng lưng trả nợ.

4-Dự báo khả năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA giai đoạn

2001-2005

Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế xã hội trong những năm

qua, Việt Nam hiện vẫn là một trong những nước nghèo của khu vực và thế

giới. Đây là lợi thế của Việt Nam đối với việc thu hút nguồn vốn này, vì đối

tượng cung cấp ODA của các nhà tài trợ là các nước nghèo, có mức thu nhập

thấp.

Thời gian qua, Việt Nam đã có những thành công lớn trong chính sách

đối ngoại, vai trò của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Một trong những thành công đó là chúng ta đã thu hút được sự quan tâm của

các nhà tài trợ quốc tế, thể hiện ở sự gia tăng về quy mô tài trợ và số lượng

60

các nhà tài trợ đến với Việt Nam. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến khả

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn tới, chắc chắn

quan hệ của Việt Nam với các nhà tài trợ song phương và đa phương sẽ tiếp

tục được cải thiện.

Dự báo trong 5 năm tới, Việt Nam có thể vận động các nhà tài trợ cung

cấp khoảng 16 tỷ USD, khối lượng ODA cam kết sẽ tăng đều và ổn định hơn.

Với bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện ODA trong những năm qua,

chắc chắn chung ta sẽ cải thiện được tỷ lệ giải ngân. Nếu tỷ lệ giải ngân đạt

45% thì chúng ta sẽ có 7,5 tỷ USD vốn ODA cho giai đoạn 2001-2005, trung

bình mỗi năm có 1,5 tỷ USD.

Cơ cấu ODA trong thời gian tới sẽ thay đổi, viện trợ không hoàn lại sẽ

giảm, tập trung chủ yếu vào hình thức ODA vốn vay. Dự kiến những năm tới,

nguồn vốn này sẽ chiếm trên 85% tổng vốn ODA. Khối lượng vốn ODA này

cũng ưu tiên cho lĩnh vực năng lượng và giao thông vận tải. ODA không hoàn

lại sẽ tập trung vào các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa để phát

triển nông nghiệp nông thôn và xoá đói giảm nghèo.

Xét từ nhiều phương diện và trên cơ sở xem xét thực trạng giải ngân

ODA ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể nhận xét rằng triển vọng giải

ngân ODA trong thời gian tới sẽ có bước cải thiện vì nó xuất phát từ lợi ích

của bản thân quốc gia và chúng ta đang có những biện pháp từng bước tháo

gỡ những vướng mắc liên quan đến vấn đề này.

II-NHỮNG BIỆN PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN Ở VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2001-2005

Xung quanh vấn đề về tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn

ODA có nhiều ý kiến khá trái ngược nhau. Theo đánh giá của các chuyên gia

WB thì tốc độ giải ngân vốn ODA như vậy là chậm, do đó chương trình viện

trợ của WB dành cho Việt Nam từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431

triệu USD năm 1999. Có thể thấy chương trình viện trợ của WB đang có xu

61

hướng thu hẹp lại. Trong năm 2000, WB dự báo tình hình giải ngân sẽ không

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

có nhiều cải thiện so với những năm qua. Trái ngược với quan điểm của WB,

đại diện của Ngân hàng hợp tác và đầu tư Nhật Bản lại tỏ ra lạc quan về tốc

độ giải ngân ODA và dự tính rằng trong năm 2000, mức giải ngân các khoản

cam kết của Nhật Bản cho Việt Nam sẽ đạt 700 triệu USD, gấp ba lần năm

1999.

Tuy nhiên xét từ khía cạnh người sử dụng vốn ODA, cụ thể là trong các

chương trình, dự án ở Việt Nam thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân

nguồn vốn ODA trong những năm qua là rất chậm. Sự chậm trễ này không

chỉ do phía Việt Nam gây ra mà còn ở cả phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993

đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn vốn ODA của 45 nhà tài trợ khác

nhau, trong khi môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, năng lực cán

bộ còn hạn chế mà phải tiếp nhận 45 quy định khác nhau về quy trình thủ tục

giải ngân, tỷ lệ vốn đối ứng... của các nhà tài trợ thì việc chậm trễ tốc độ giải

ngân tại một số dự án là không thể tránh khỏi.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong những

năm tới cần phải tiến hành những giải pháp mang tính toàn diện sau:

1-Đồng bộ hoá khung pháp lý của Việt Nam cho việc thực hiện ODA

Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp

lý liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA là nguyên nhân chính

gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của

nguồn vốn này.

Những quy định trong việc đấu thầu, xét thầu đang gây ra những trở ngại

không nhỏ cho qúa trình thực hiện dự án. Về vấn đề đồng bộ khung pháp lý

liên quan đến nguồn vốn ODA còn phải kể đến Nghị định 22/CP về đền bù,

giải phóng mặt bằng. Đây là văn bản có 7 nội dung cần sửa đổi cho phù hợp

với thực tế. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng là một trong những khâu

phức tạp trong quá trình triển khai các dự án ODA ở các lĩnh vực khác nhau.

62

Trong khi đó, Nghị định 22 quy định đền bù chưa được cụ thể, chưa thống

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

nhất với các văn bản về thu tiền sử dụng đất dẫn đến các cách hiểu khác nhau

giữa các dự án. Thêm vào đó công tác quản lý đất đai giữa các địa phương

chưa đồng bộ khiến chính quyền địa phương lúng túng trong việc lập đền bù,

gây khó khăn cho việc triển khai giải phóng mặt bằng của các dự án.

Thực tế đòi hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng các ban

ngành chức năng cần có những cuộc tiếp xúc, trao đổi với các nhà tài trợ và

thông qua Hội nghị những nhà tài trợ cho Việt Nam hàng năm để xúc tiến qúa

trình làm hài hoà thủ tục liên quan đến ODA ở cả hai phía. Sự hài hoà trong

các thủ tục của cả hai phía có thể khắc phục sự chậm chễ trong tốc độ giải

ngân nguồn vốn ODA một cách tích cực. Các nhà tài trợ chỉ nên thống nhất

với Chính phủ về các quy định có tính chung nhất, các chi tiết cụ thể nên giao

quyền cho các địa phương thống nhất để phù hợp với các đặc thù của họ, hạn

chế được những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án sau này. Việc bổ

sung, sửa đổi khung pháp lý cần sự phối hợp giữa Ban quản lý dự án tại các

địa phương, các tỉnh có dự án khi đưa ra những vướng mắc trong quá trình

triển khai dự án để các cơ quan chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ

Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại phục vụ công tác

giải ngân... có thể tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy một cách

đồng bộ, toàn diện.

2-Về chính sách thuế

Theo đánh giá của các dự án sử dụng vốn ODA, vướng mắc lớn nhất

trong khâu giải ngân ODA là thủ tục của phía Việt Nam, trong đó thủ tục hải

quan, đặc biệt là chính sách thuế đang được xem là khâu cần phải chấn chỉnh

ngay để thúc đẩy được tốc độ giải ngân ODA trong thời gian tới. trên thực tế,

chỉ trừ những dự án ODA ở dạng viện trợ không hoàn lại mới được miễn thuế

hàng hóa ( bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng), còn các dự án

63

vay lại từ phía Chính phủ thì tiền thuế cho các hàng hoá thuộc dự án đều được

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

giải ngân từ nguồn vốn đối ứng, lấy từ ngân sách Nhà nước. Do đó, việc đánh

thuế hàng hoá các dự án sử dụng vốn ODA thực chất là "lấy từ túi này bỏ

sang túi kia" của Nhà nước. Trong khi đó, Bộ Tài chính cho rằng việc đánh

thuế là nguyên tắc của một nền kinh tế hoàn hảo, vì thế chưa thể xếp các dự

án ODA là một ngoại lệ. Do đó một giải pháp cần làm trước mắt là áp dụng

hình thức ghi thu- ghi chi trong việc đánh thuế hàng hoá nhập khẩu phục vụ

các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, tiến tới đề nghị Bộ Tài chính miễn thuế

nhập khẩu, VAT đối với các hàng hoá nhập khẩu của dự án.

3-Rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án

-Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt

Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét

duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong

những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA trong thời

gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn

chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt

là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển

khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới

công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà

vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải

ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để

nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về

thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá

trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì

cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án

để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời.

4-Cải tiến công tác đấu thầu, xét thầu

64

Qua thực tế triển khai, các quan chức Chính phủ, các nhà tài trợ cũng

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

như các ban quản lý dự án (QLDA) đều cho rằng cần phải chỉnh sửa các văn

bản đó vì giữa chúng có sự thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế và chưa hài hoà

với quy trình thủ tục của bên tài trợ. Riêng với Quy chế Đấu thầu 88/CP và

Quy chế quản lý Đầu tư 52/CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ban quản lý dự

án và các nhà tài trợ đều thừa nhận rằng có sự thiếu nhất quán trong hai quy

định này, chẳng hạn như quy định mang tính nguyên tắc về lựa chọn nhà thầu

chưa phù hợp với đặc thù của từng dự án, các nội dung về quản lý đấu thầu và

chỉ định thầu còn nhiều điểm chưa đồng nhất khiến việc thực hiện dự án gặp

phải những vướng mắc không đáng có, những quy định về năng lực cửa các

nhà thầu chưa sát thực tế gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước khi muốn

đấu thầu. Do đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nghị định 52/CP và

Nghị định 88/CP sẽ tạo điều kiện cho cả nhà đầu tư trong và ngoài. Theo dự

kiến, Chính phủ sẽ sửa đổi quy định đối với những dự án có giá trị dưới 1 tỷ

đồng và các gói thầu tư vấn dưới 500 triệu đồng được áp dụng hình thức chỉ

định thầu, sự thay đổi này cũng tạo ra sự thông thoáng hơn trong các văn bản

pháp quy về quy chế đấu thầu của Việt Nam.

5-Chính sách và công tác đền bù, giải phóng mặt bằng

Dưới đây là một số nội dung chủ yếu cần sớm được sửa đổi, bổ sung:

(1) Cần làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất

là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998. Cần có quy định

rõ thời điểm sử dụng đất để đảm bảo không vi phạm quy hoạch của cấp có

thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ

công trình. Không lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời có quy định rõ ràng

về thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất

có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này

sẽ theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất qua các giai đoạn khác nhau: cải

cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp...

65

(2) Có quy định cụ thể về mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là vấn đề

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

hệ trọng và có nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn

nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp.

(3) Đối với việc tính giá đất đền bù, nên bỏ hệ số k và thực hiện việc tính

giá đất đền bù phù hợp với khả năng sinh lời hoặc chuyển nhượng quyền sử

dụng đất tại địa phương. Giá tính đất đền bù do UBND tỉnh quyết định để

đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, cần cho

phép UBND tỉnh dựa trên quy định của Chính phủ về giá đất khi quy định đó

đã phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng thực tế của đất đai

để làm giá đất tính đền bù thiệt hại ở địa phương để giảm công việc cho địa

phương.

(4) Đối với việc đền bù thiệt hại về tài sản, cần có quy định thống nhất

với Nghị định 22/1998/NĐ-CP. Đó là đền bù 100% giá xây dựng đối với nhà

cấp bốn vì loại nhà này chủ yếu là của các đối tượng nghèo nên cần được ưu

tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương.

Đồng thời, phải có quy định rõ về việc đền bù theo mức thiệt hại thực tế cho

nhà từ cấp ba trở lên để đảm bảo cho mức đền bù phù hợp với những thiệt hại

mà người có đất bị thu hồi.

(5) Cần đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị

định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung

thêm những quy định về: Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di

chuyển đến nơi ở mới; Điều kiện bắt buộc về cơ sơ hạ tầng, nhất là trường

học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi

khác phục vụ đời sống nhân dân; Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại

nơi tái định cư nhằm phát huy tinh thần dân chủ tại cơ sở và tránh sự áp đặt từ

phía Nhà nước; Đề ra nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà

nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện.

(6)Cần bổ sung một số nội dung cụ thể về hội đồng đền bù và hội đồng

66

thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

thể như sau:

-Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện

phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập hội

đồng đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh thì lãnh đạo sở chủ quản

của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án

trong việc lập và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng.

-Bổ sung những quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của hội đồng

cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong hội đồng đền bù, giải

phóng mặt bằng như chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện của những người

bị thu hồi đất.

-Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội

đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy

nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách

nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng.

-Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội

đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy

nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách

nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng.

6-Chuẩn bị tốt vốn đối ứng

Vốn đối ứng là một phần tài chính quan trọng và nhiều khi là điều kiện

cung cấp vốn ODA của các nhà tài trợ. Vốn đối ứng có thể hiểu là phần đóng

góp tài chính của phía Việt Nam trong các dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

Nhìn chung, các nhà tài trợ không bao giờ cung cấp toàn bộ số vốn cho các

chương trình, dự án. Tuy nhiên, việc quy định lượng vốn đối ứng và tiến trình

giải ngân không cố định một cách cứng nhắc mà tuỳ thuộc vào công tác đàm

phán giữa hai bên.

Chuẩn bị tốt vốn đối ứng là một khâu quan trọng trong tiến trình thúc

67

đẩy tốc độ giải ngân. Các nhà tài trợ bao giờ cũng đòi hỏi một khoản vốn đối

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

ứng của phía Việt Nam nhằm bảo đảm tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn

vốn ODA mà họ cung cấp. Điều này gây khó khăn cho việc giải ngân, nhưng

lợi ích mà nó mang lại là rất lớn và về lâu dài, thể hiện thiên chí của các nhà

tài trợ dành cho Việt Nam.

Hiện nay, ngoài các dự án nhóm A được Chính phủ quan tâm giải quyết,

địa phương phải tự cân đối nguồn vốn đối ứng hàng năm. Điều này làm cho

một số tỉnh, thành phố lúng túng bởi phần vốn được giao phải cân đối nằm

ngoài khả năng của họ. Vì vậy, Chính phủ cần có sự chỉ đạo về hướng giải

quyết cho các tỉnh, thành phố gặp khó khăn.

Về phía địa phương, cần thành lập Quỹ phát triển và có kế hoạch chi tiết

hàng năm về cấp và quản lý tốt nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA đã

được phân cấp quản lý trực tiếp.

7-Thủ tục giải ngân cho các dự án

Tiếp tục cải thiện thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA đã

quy định trong Nghị định 87/CP sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong

vòng 56 ngày. Hiện nay trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, tốn nhiều

thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán trả chậm, điều

này sẽ gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với

một số dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khối

lượng đã hoàn thành không được giải ngân gây khó khăn cho nhà thầu.

Ban hành chế độ, chính sách đặc thù riêng về thủ tục và trình tự giải

ngân để đặc biệt đối xử với một số dự án gặp nhiều khó khăn song vẫn phải

đảm bảo tính công bằng và minh bạch. Hiện nay, các quy định về thủ tục và

trình tự giải ngân vẫn mang tính chung chung, chưa lường trước được những

khó khăn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án.

Rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn

nhằm cải tiến thủ tục rút vốn theo hướng giảm phiền hà trong quá trình này.

68

Quy định về việc mở một tài khoản riêng phục vụ công tác lập đề cương

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

và xây dựng báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi cho dự án, vì hiện nay

nguồn kinh phí này hầu như không được cấp, ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ

giải ngân nguồn vốn ODA.

8-Phát triển nguồn nhân lực cho các dự án ODA, xây dựng quy

chuẩn, tiến tới chuyên nghiệp hoá các Ban QLDA

Trong những năm tới đây, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự

án là một trong những việc cần làm ngay. Chúng ta có thể mời các chuyên gia

trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn công việc của dự án cho cán bộ dưới

hình thức đào tạo ngắn ngày theo kiểu tập trung hoặc đào tạo ngay tại cơ sở

làm việc đối với một số nghiệp vụ đặc thù của dự án. Về lâu dài, cần chuẩn

hoá trình độ cán bộ thực hiện dự án phải có trình độ đại học trở lên và thông

thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh chóng, chính xác các công việc

của dự án.

Song song với quá trình sửa đổi, bổ sung các quy định mang tính pháp

quy trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, việc xây dựng, chuẩn

hoá các Ban QLDA sử dụng vốn ODA cũng cần phải được coi trọng. Để hoạt

động hiệu quả, các Ban QLDA cần phải được trang bị những trang thiết bị

văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc cần thiết. Đối với những dự án có

quy mô lớn, số lượng các dự án đơn vị nhiều thì cần duy trì một Ban QLDA

trung ương có nhiệm vụ quản lý, giám sát hoạt động của các dự án thành viên.

Ngoài ra Ban QLDA trung ương phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan

quản lý vốn ODA của Chính phủ về tiến độ triển khai thực hiện dự án cũng

69

như những trách nhiệm liên đới khác.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

KẾT LUẬN

Qua hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ vô cùng to

lớn của bạn bè trên thế giới, một trong những thiện chí đó là nguồn vốn ODA

mà các nhà tài trợ đã dành cho Việt Nam.

Vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào phát triển cơ sở hạ tầng

kinh tế- xã hội, trong đó một số dự án đã hoàn thành và phát huy tác dụng tích

cực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các vấn đề xã

hội được quan tâm hơn. Các ngành, địa phương được đáp ứng một phần nhu

cầu vốn phục vụ đầu tư phát triển. Qua việc thực hiện dự án, nhiều cán bộ

Việt Nam được nâng cao trình độ và trưởng thành trông thấy.

Bên cạnh những thành công, mức giải ngân thấp trong những năm qua

luôn là một thách thức lớn và chưa được giải quyết tốt. Muốn sử dụng nguồn

vốn này hiệu quả hơn, chúng ta cần tập trung giải quyết tồn tại này.

Được sự tận tình giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Vũ Cương, cán bộ

70

hướng dẫn Nguyễn Thanh Hương và các cô, các chú ở Văn phòng Thẩm định

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi đã hoàn thành " luận văn tốt nghiệp " của

mình với mong muốn sẽ góp phần vào việc đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy

tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do sự

hiểu biết và năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu

sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của những ai quan tâm

đến vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tình hình tổng quan về viện trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, báo

cáo của Chương trình Phát triển LHQ tại Việt Nam (UNDP) xuất bản năm 1999.

2. Đánh giá viện trợ, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế

giới xuất bản năm 1999.

3. Nguồn vốn ODA và các vùng kinh tế, Vụ Kinh tế đối ngoại- Bộ Kế

hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2000.

4. Các văn bản pháp luật :

- Nghị định 87/CP ban hành ngày 5-8-1997.

- Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 24-4-1998.

- Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ban hành ngày 1-9-1999.

- Thông tư số 15-1997/ TT-BKH ban hành ngày 24-10-1997

- Thông tư liên tịch số 81/1998/TTLT-BTC-NHNN ban hành ngày 17-6-

71

1998.

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

5. Tạp chí Tin kinh tế - xã hội các số 47,48/1999; 17,18,30,39/2000.

6. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 2,10+11/2000.

7. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 1/2000.

8. Thời báo Tài chính Việt Nam số 33,134/2000.

9. Tạp chí Kinh tế phát triển số 37,42/2000.

10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 9/2000.

72

11. Tạp chí Con số và sự kiện số 1+2/2001.