Báo cáo tốt nghiệp
“Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang”
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp
đối với sự phát triển của hộ sản xuất
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất ................................................... 10
1.1.1. Vị trí: .......................................................................................... 10
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. .............................................. 11
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất. . 13
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. ................................... 13
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. .................................................................................... 14
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: ........................ 17
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ. ........ 18
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng. .................................................. 18
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản
xuất ............................................................................................. 18
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản
xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:........... 19
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn: ..... 19
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành
kinh tế: ................................................................................ 20
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở
nông thôn: ........................................................................... 21
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản
xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế: .............................. 21
1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng sản
xuất hàng hoá: ..................................................................... 22
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội: ....... 22
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn:............................................................... 23
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với
hộ sản xuất : ........................................................................ 23
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản
xuất : ................................................................................... 26
1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay ........................................ 27
Chương II
thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn tỉnh Hà Giang
2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng ................................................................. 31
2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân
hàng: ........................................................................................... 31
2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội. ................................................... 31
2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng . ............................... 33
2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa
bàn thị xã Hà Giang: ................................................................... 33
2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang: ......... 35
2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở: ............... 35
2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT
Hà Giang ..................................................................................... 37
2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn:..................................................... 38
2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn: .................................................. 41
2.2.2.3. Hoạt động khác: ................................................................... 47
2.3. Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà
Giang ................................................................................................... 50
2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà
Giang: ......................................................................................... 50
2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp Hà Giang: ............................................................... 51
2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở
Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang: ............................................. 58
2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân: ................................................... 59
Chương III
một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang
3.1- Những Giải pháp đối với Hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Hà Giang. ........................................................................... 64
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp Hà Giang. ............................................................... 64
3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Hà Giang ............................................................................. 66
3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả. ...... 66
3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong
hoạt động tín dụng ............................................................... 66
3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích
tín dụng. .............................................................................. 68
3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro. .................................... 69
3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. .................................... 71
3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. ...................................................... 73
3.2. Các giải pháp điều kiện ........................................................................ 74
3.2.1. Từ Nhà nước ............................................................................... 74
3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho
hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát
triển nông nghiệp nông thôn. ............................................... 74
3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn. ................................................................ 75
3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống NHTM
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. .............................. 75
3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm
nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. ...... 76
3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN ............................................................. 77
3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay. ..................................... 77
3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng. .................................. 78
3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các tổ
chức tín dụng....................................................................... 80
3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả. ............................... 81
3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM. ................................ 82
kết luận
Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi
mới về cơ chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện
được chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt
động của mình. Về mô hình tổ chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển
thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống các ngân hàng thương mại làm
nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy động, khai thác mọi
nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác
thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm
phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định.
Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản
xuất được mở rộng thu nhập của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích
luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành
ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các
ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo
& PTNT nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền
kinh tế nói chung và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp
phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi
khu vực nông thôn.
Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân
ngày càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết
quả đó có sự đóng góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay
để cho vay", Ngân hàng Nông nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn
lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần khu vực nông
nghiệp - nông thôn.
Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách
hàng, đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển
kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực
dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công
nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực lao động trong nông
thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực nông thôn
hiện nay.
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy
rõ sự cần thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh
tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản
xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt
khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm
vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thị trường tín dụng
nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm
nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc
và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và
cách tháo gỡ là rất cần thiết.
Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực
tập nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát
cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -”
triển nông thôn Hà Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng
làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương.
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự
phát triển của hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang.
Chương I
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp
đối với sự phát triển của hộ sản xuất
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo lần thứ V đã đề ra là " Xoá bỏ triệt để quan liêu, bao cấp trong giá, lương,
tiền là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để
đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, ổn định và cải thiện một bước đời
sống nhân dân"
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải
triệt để thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xây dựng và phát triển
một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vốn ngân sách Nhà nước tập
trung đầu tư cho các mục tiêu lớn của Chính phủ như xây dựng cơ sở vật chất,
chi cho quốc phòng an ninh, văn hoá xã hội... Bản thân các thành phần kinh tế
trong điều kiện cơ chế mới có sự cạnh tranh cần vốn để phát triển mở rộng
sản xuất, đổi mới công nghệ, do đó nhu cầu về vốn là rất lớn, nhất là khi Nhà
nước cho phép các thành phần kinh tế được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn
khổ pháp luật dưới nhiều hình thức. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng
vốn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế như thế nào?. điều đó
có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác nhau thông qua nhiều nguồn như:
vốn tự có của các thành phần kinh tế, vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn liên
doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài... Nhưng trong đó có thể
nói nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng
nhất, vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh
nghiệp.
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực
tín dụng - tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu,
thanh toán vốn giưã các thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng và
có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi họ rút vốn.
Khi nền kinh tế mở cửa các thành phần kinh tế được khuyến khích tự
do phát triển, kinh tế ngoài quốc doanh đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộn
nhịp, đa dạng và phong phú. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp thì kinh tế
ngoài quốc doanh bao gồm : Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ
sản xuất...
Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã mở rộng quan hệ
Quốc tế nhiều tổ chức Quốc tế tài trợ vốn, đầu tư vốn cho nông nghiệp, lâm
nghiệp nhiều nguồn vốn được hình thành. Song hiện nay nguồn vốn tín dụng
của Ngân hàng Nông nghiệp vẫn là người bạn đồng hành chủ yếu cuả các hộ
sản xuất.
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất
1.1.1. Vị trí:
Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở
khu vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai
trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
và phát triển kinh tế của đất nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, khi học vấn, kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong
tay nông dân, được bà con sử dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con
trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi xưởng máy mọc lên ở các làng mạc, thị
trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở
thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện mới ở các vùng nông thôn
thì lúc đó mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ
bản trên phạm vi cả nuớc”(1). Chính vì lẽ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn
mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị trí vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi
mới đất nước.
Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện
chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị
100 khoán 10 ra đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng.
Thực chất hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả
sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản
xuất là chủ thể trong mọi mối quan hệ sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất.
Hộ sản xuất là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc
dân, có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có
những đặc điểm riêng sau:
*Đặc trưng thứ nhất:
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân, các hộ sản xuất ở
nông thôn nước ta đang chuyển dần từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp sang
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngày nay các hộ nông dân không đủ làm duy
nhất một nghề nông mà đã biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp kinh doanh
ngành nghề phụ theo hướng ai có khả năng gì thì làm nghề đó. Sự chuyển đổi
nói trên đã giúp cho các hộ sản xuất ở nông thôn bớt lệ thuộc vào yếu tố thời
tiết, mùa vụ góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
* Đặc trưng thứ hai:
Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất ở các
vùng, các khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch đáng kể.
Thậm chí đối với các hộ sản xuất trong cùng một vùng cũng có sự khác biệt
về qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ lực lượng lao động, khả năng vốn
tự có, sở dĩ có sự khác biệt nói trên một phần là do mỗi vùng mỗi khu vực có
những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng phần lớn là do sự
khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó cũng có một yếu tố
khác ảnh hưởng tới quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất đó là
khả năng của chính bản thân các hộ đó.
Do có sự chênh lệch lớn về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các
hộ, cùng với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tất yếu sẽ
dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật,
quá trình tích tụ và tập trung này sẽ góp phần giảm bớt chất phân tán lạc hậu
của nền kinh tế tiểu nông tạo điêù kiện thuận lợi để phát triển, mở rộng sản
xuất kinh tế hộ.
* Đặc trưng thứ ba:
Cùng với sự chuyển hoá nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ suất hiện thêm nhiều
hình thức tổ chức kinh tế hộ sản xuất khác nhau như hộ nhận khoán, hộ nhận
thầu, hộ gia đình là hộ thành viên của hợp tác xã, nông trường, tập đoàn sản
xuất, doanh nghiệp Nhà nước. Sự xuất hiện các hình thức tổ chức mới đã góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên
các hình thức tổ chức như thế này cũng chịu mức độ rủi ro rất lớn vì vậy Nhà
nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản xuất
củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc trưng kể trên kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố
quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển
nông thôn.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và trong tương lai, quan tâm
phát triển kinh tế hộ sản xuất, làm cho hộ nghèo giảm bớt, hộ giàu thêm nhiều
là vấn đề quan trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới
hiện đại rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề lớn
quan trọng.
Hộ sản xuất thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ, tiểu thủ
công nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, song phần lớn hiện nay trong tổng số lao
động nằm trong các ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp
chiếm hơn 70%. Hộ sản xuất vừa sản xuất vừa làm nghề phụ kinh doanh để
tăng thu nhập cho gia đình nâng cao đời sống .
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản
xuất.
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất.
* Trước Chỉ thị 100.
Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như
hợp tác xã, nông trường quốc doanh... người lao động làm việc theo kiểu ghi
công tính điểm, họ không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản
xuất, ăn chia, phân phối hay sở hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản
xuất chưa có, hiệu quả sản xuất kém.
* Sau Chỉ thị 100 và khoán 10.
Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán
sản phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận
khoán ra đời. Họ là người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản
xuất, tiến hành đầu tư thâm canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản
phẩm theo quy định cho tập thể. Nhất là khi có quyết 652 của Nhà nước thực
hiện giao ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình thì kinh tế sản xuất đã được thực
sự phát triển theo hướng đa năng trong tất cả các ngành nông - lâm - ngư -
diêm nghiệp... Cùng trong bối cảnh đó, do biết sắp xếp bố trí lao động phù
hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp dịch vụ đã hình thành,
củng cố ngày càng phát triển.
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp,
nông thôn.
Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch,
hiệu quả thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất
và phân phối sản phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ
sản xuất ra đời, kinh tế hộ sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao
động về mặt số lượng, cường độ đã được sử dụng hợp lý.
Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ
việc mua sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi
cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ
nhằm thu được hiệu quả cao và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho
xuất khẩu Việt Nam từ một nước nghèo, đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên
thế giới về xuất khẩu gạo. Đó là do có sự đóng góp to lớn của kinh tế hộ sản
xuất nông nghiệp nông thôn.
Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai
thác mặt nước trồng thuỷ - hải sản... đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong
phú về sản phẩm, đa dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với
truyền thống, kinh nghiệm lâu đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt
kinh tế nông nghiệp nông thôn được đổi mới toàn diện.
* Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao
động, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ
là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình và hoà
nhập với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp, nông thôn do cấu tạo hữu cơ thấp qui mô sản
xuất nhỏ. Kết quả nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua cho thấy vốn
đầu tư ban đầu cho một hộ gia đình là 1,3 triệu đồng cho một lao động, xí
nghiệp tư nhân là 3 triệu đồng cho một lao động, xí nghiệp quốc doanh là 12
triệu đồng trên một lao động ( chỉ là vốn cố định, chưa kể vốn lưu động). Như
vậy chi phí cho một lao động trong hộ sản xuất thấp.
Trong điều kiện hiện nay, nước ta còn nghèo, vốn tích luỹ trong nước
còn ít thì với đặc điểm kể trên kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức
kinh tế phù hợp, nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói
chung và nông thôn nói riêng.
* Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài
nguyên, công cụ lao động.
Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản
xuất đã tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên của các hộ sản xuất được gắn liền với hiệu quả sử
dụng tài nguyên nên các hộ đã có những biện pháp thích hợp làm tăng độ màu
mỡ của đất, kết hợp việc khai thác với duy trì, bảo vệ tài nguyên. Hộ sản xuất
với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ sẽ phải tự chịu trách nhiệm và đã toàn
quyền sử dụng đối với các công cụ sản xuất của mình, do đó họ sẽ tìm mọi
cách thức, biện pháp để sử dụng chúng có hiệu quả nhất, kết hợp với việc bảo
quản tốt để có thể sử dụng lâu dài.
* Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá
của nền kinh tế hộ.
Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói
chung, các hộ sản xuất nói riêng có quyền quyết định mục tiêu, quy trình công
nghệ sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trường, tự hạch toán lỗ lãi
để muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì các doanh
nghiệp phải không ngừng mở rộng sản xuất. Thường xuyên nâng cao chất
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với như cầu của thị trường, phải kết
hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để khích thích nhu cầu người
tiêu dùng. Một trong những ưu điểm lớn nhất của kinh tế hộ sản xuất là có
được bộ máy gọn nhẹ, năng động do đó sẽ dễ dàng nắm bắt được thay đổi của
thị trường để kịp thời nghiên cứu, điều chỉnh, triển khai phương thức sản xuất
mới. Bên cạnh đó bộ máy tổ chức, quản lý gọn nhẹ còn góp phần làm giảm
chi phí quản lý, từ đó giá thành sản phẩm hạ làm tăng thêm khả năng cạnh
trạnh của sản phẩm trên thị trường.
Tóm lại hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu
quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường.
* Thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá và do đó
tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Một trong những đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ sản xuất đó là sự
chênh lệch về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ sản xuất, sự
chênh lệch này dẫn đến tình trạng các hộ thuộc loại có thu nhập thấp thường
không có khả năng tổ chức kinh doanh nhiều loaị hàng hoá hay trồng trọt,
chăn nuôi nhiều loại cùng một lúc do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự
phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tự nhiên, kỹ thuật
vốn để sản xuất mặt hàng nào thì làm nghề đó. Các ngành nông lâm, ngư,
diêm nghiệp thông thường các hộ sản xuất này thường chỉ chuyên môn hoá
vào việc trồng trọt một loại cây, hay chăn nuôi một loại gia súc nào đó, vì như
vậy họ sẽ có điều kiện tập trung vốn, kỹ thuật để nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi, trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất
thường tập trung vào một loại hàng hoá. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ
đặc biệt là ở nông thôn thì sự chuyên môn hoá cũng được thể hiện rõ một số ở
nông thôn đã tập trung đầu tư để kinh doanh các dịch vụ như tuốt lúa, xay xát
thuê, bơm nước thuê...
Để quá trình chuyên môn hoá đạt kết quả cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ
xuất hiện đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau chuyên môn
hoá sẽ làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn,
trong khi đó hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn
thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân các hộ sản xuất và thị trường.
Tóm lại : Hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá từ
đó tạo ra khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất:
+ Xu hướng phát triển không đều giữa các hộ sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại được thì các doanh nghiệp
phải không ngừng mở rộng sản xuất, tuy nhiên không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng có khả năng vốn, kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất.
Kinh tế hộ sản xuất cũng chịu ảnh hưởng lớn của quy luật nói trên trong nền
kinh tế thi trường, hộ nào có trình độ quản lý, có vốn, có sức lao động, có điều
kiện kỹ thuật thì sẽ có khả năng phát triển ngành nghề của mình theo ý muốn
ngược lại những hộ nào không có đủ điều kiện ở trên thì họ sẽ bị phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, không chủ động tiến hành sản xuất được, do vậy họ đã
nghèo lại càng nghèo thêm . Như vậy, việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường một mặt làm tăng số hộ
giàu ở nước ta lên, mặt khác cũng làm tăng hố sâu phân cách giàu nghèo dẫn
đến có sự phát triển không đều giữa các hộ sản xuất.
+ Xu hướng phát triển đa dạng các loại hình, các quy mô sản xuất:
Tuỳ thuộc vào khả năng về vốn, lao động, điều kiện tự nhiên các hộ sản
xuất sẽ lựa chọn đối tượng, phương án sản xuất kinh doanh, qui mô sản xuất
sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ vậy mà kinh tế hộ sản xuất phát triển đa dạng,
các hộ có kinh nghiệm, có ruộng đất, không đủ điều kiện về vốn, kỹ thuật sẽ
tập trung vào việc trồng lúa hoặc một số loại cây trồng, vật nuôi như chè, cà
phê, mía, cây ăn quả, trâu bò, lợn gà... còn đối với hộ có điều kiện về vốn, kỹ
thuật thì tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp chặt chẽ giữa trồng và chăn
nuôi với kinh doanh ngành nghề phụ.
+ Xu hướng liên doanh liên kết hợp tác trong quá trình sản xuất:
Để tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường các hộ sản xuất
phải bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, liên kết với nhau để nâng cao cạnh tranh. Chính
sự liên kết đó sẽ tạo ra các hình thức hợp tác mới, sự liên doanh, liên kết hợp
tác giữa các hộ sản xuất không đồng nghĩa với việc tập trung sản xuất những
đơn vị nhỏ thành những xí nghiệp, hợp tác xã mà là hợp tác để tăng sức mạnh
của từng đơn vị sản xuất. Khi trình độ sản xuất phát triển, có nhiều vấn đề hộ
sản xuất không tự giải quyết được như những thông tin thị trường, khoa học
công nghệ do đó sự phát triển kinh tế hộ đòi hỏi tất yếu phải hình thành các
hình thức hợp tác kinh tế mới.
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ.
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình
thái kinh tế - xã hội . Theo giáo trình “Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng
nâng cao"thì tín dụng được định nghĩa như sau: “Tín dụng là sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để
sau một thời gian sẽ thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban
đầu".
Trong các giai đoạn và thời kỳ phát triển khác nhau của nền sản xuất
hàng hoá, do có nhiều điều kiện tác động khác nhau nên có nhiều hình thức
tín dụng khác nhau. Đối với đề tài này, ta chỉ nghiên cứu về tín dụng ngân
hàng “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân
hàng, còn một bên là các thể nhân và các pháp nhân khác nhau trong nền
kinh tế quốc dân " (Giáo trình “ lý thuyết tiền tệ “ - Đại học tài chính kế
toán Hà nội - 1998 ).
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ
sản xuất
Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì tín dụng ngân hàng còn
là một công cụ đắc lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, thì tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm
thời về vốn sản xuất. Đặc biệt là cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã
giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất, mỗi hộ sản xuất gìơ đây
trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, phải tính toán mức chi phí bỏ ra, khả
năng thu nhập, xác định mức vốn cần thiết đầu tư cho sản xuất, khả năng cấp
vốn tự có, số vốn cần phải đi vay do đó trong nền kinh tế thị truờng, tín dụng
ngân hàng có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển của hộ sản xuất.
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình
sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:
Khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường thì nhu cầu trao đôỉ hàng hoá giữa các hộ sản xuất trong cùng một
vùng hay giữa các vùng với nhau, ngày một gia tăng. Các hộ sản xuất ngày
nay chỉ chỉ chuyên môn hoá sản xuất các loại nông sản hàng hoá có lợi nhất
và họ loại dần các loại nông sản phẩm sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Các
hộ sản xuất bán cho xã hội sản phẩm hàng hoá mà họ sản xuất ra, đồng thời
mua từ thị trường những hàng hoá mà họ cần để đạt được điều đó các hộ sản
xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật, mua sắm máy móc
thiết bị, trong khi vốn tự có của các hộ còn rất hạn chế, nên các hộ sản xuất
cần tới sự trợ giúp của ngân hàng để mở rộng sản xuất được liên tục.
Vì thế tín dụng ngân hàng nó cực kỳ quan trọng trong việc đáp ứng nhu
cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước
ta hiện nay.
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn:
Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện một lượng tiền
tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời cũng xuất hiện những
tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ của ngân
hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm
thời thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng
cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát
triuển của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh
của hộ sản xuất, khuyễn khích các hộ kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để
được ngân hàng trợ giúp cho vay.
Đầu tư là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho ngân
hàng, vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kink tế.
Ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian tài chính, là cầu nối
tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên
cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành
kinh tế:
Thông qua hệ thống ngân hàng cụ thể là hoạt động tín dụng ngân hàng
Nhà nước đã góp phần tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc
cho vay ưu đãi với lãi suất thấp thời gian dài, mức vốn lớn. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng đáp ứng phần lớn
với nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, nhưng sản xuất ở nông thôn chưa phát triển, kết cấu hạ tầng còn kém lại
chịu ảnh hưởng khắt khe của điều kiện tự nhiên, đơn vị sản xuất chủ yếu là
kinh tế hộ gia đình, năng suất lao động còn thấp, ruộng đất và người lao động
còn thiếu, phương pháp canh tác kỹ thuật còn lạc hậu, khối lượng hàng hoá
sản xuất ra chưa nhiều. Vì vậy trong gia đoạn tới Chính phủ cần tập trung đầu
tư hỗ trợ cho nông nghiệp như việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn và các
điều kiện yếu tố khác cho sản xuất nông nghiệp như trạm bơn điện, hệ thống
thuỷ lợi, cải tiến công cụ lao động.
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở
nông thôn:
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính tời vụ cao nên tại thời
điểm chưa thu hoạch được, chưa có hàng hoá để bán thì người nông dân
thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu về chi tiêu tối
thiểu, từ đó tạo điều kiện để nạn cho vay nặng lãi hoành hoành, đặc biệt cơ
bản của tín dụng cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, làm cho hộ sản
xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ thoát khỏi vòng
quẩn đó được. Nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất
phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng
hơn, gây ra tiêu cực ở nông thôn.
Đứng trước tình hình trên ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến
hành cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp
xúc với vốn vay ngân hàng, các ngân hàng đã đơn giản hoá các thủ tục cho
vay, tổ chức mạng lưới ngân hàng tới tận các thôn xóm để đáp ứng được nhu
cầu vốn cho sản xuất, khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư, đổi
mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm giàu cho bản thân
và cho xã hội.
Tín dụng ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản
xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vần đề cho vay nặng
lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng bót lột
người lao động để thu siêu lợi nhuận.
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy
sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế:
Các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng
đồng tiền đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng
thanh toán.
Để thực hiện được món vay, cán bộ tín dụng phải nắm được tình hình
sản xuất kinh doanh trước, trong và sau khi cho vay có đạt được hiệu quả hay
không để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Qua đó tín dụng ngân hàng có thể
kiểm soát được các hoạt động của hộ sản xuất.
Nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vay vốn phải được hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn khi sử dụng vốn vay các hộ sản xuất
phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng, phải trả nợ
đúng hạn và các điều kiện kèm theo khác, như vậy để sản xuất kinh doanh có
hiệu qủa, có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay ngân hàng thì các hộ sản xuất phải
hạch toán kinh tế.
1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng
sản xuất hàng hoá:
Ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển hướng quan trọng trong phương
thức sản xuất của hộ sản xuất khi được ngân hàng đầu tư vốn, hộ sản xuất
phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu nhất, để tăng thu
giảm chi nhằm thu lợi nhuận, để hoàn trả cả vốn và lãi vay cho ngân hàng.
Muốn vậy hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới
thu được lợi nhuận cao, giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất
để tiếp cận và thích nghi với thị trường như nâng cao chất lượng sản phẩm,
thay đổi các loại cây trồng vật nuôi cho phù hợp với nhu cầu thị trường, cải
tiến cách thức sản xuất để tiết kiệm vật tư, giảm chi phí, thu hiệu quả cao nhờ
sự tài trợ vốn của ngân hàng để mở rộng qui mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản
xuất hàng hoá cũng được tăng lên.
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội:
Tín dụng ngân hàng không những thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có
vai trò to lớn về mặt chính trị xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn
nói riêng đặc biệt là với một nước có trên 80% dân số sống ở nông thôn. Tín
dụng ngân hàng thông qua cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế được tệ nạn
xã hội.
Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm bớt những tệ nạn xã hội trong
quá trình thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần, tạo thêm công
ăn việc làm cho hộ sản xuất, tăng thu nhập, hạn chế bớt những phân hoá bất
hợp lý trong xã hội, giữ vững được nền tảng an ninh chính trị, góp phần củng
cố lòng tin của dân chúng nói chung và của các hộ sản xuất nói riêng vào sự
lãnh đạo cuả Đảng và Nhà nước.
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vi trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về
mặt kinh tế lẫn xã hội, chính trị để tín dụng ngan hàng đến với hộ sản xuất,
các ngân hàng phải ngày càng tự hoàn thiện mạng lưới tổ chức, biện pháp
nghiệp vụ của mình để góp phần đáp ứng một cách thuận tiện, kịp thời nhu
cầu vốn cho hộ sản xuất tạo điều kiện cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh
doanh ngoài những nỗ lực của bản thân ngân hàng thì Nhà nước, các ngành,
các cấp có liên quan cũng cần phải xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các ngân hàng ngày càng được mở
rộng và đạt hiệu qủa cao hơn.
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn:
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với
hộ sản xuất :
Tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng đối với mỗi ngân hàng nói
riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế tín dụng ngân
hàng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của
Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Đối với ngân hàng tín dụng ngân hàng là một hoạt động mang lại phần
lớn thu nhập cho ngân hàng do đó đánh giá đúng hiệu quả tín dụng sẽ giúp
các ngân hàng, các ngành có liên quan đưa ra được các biện pháp thích hợp để
thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra và là mục tiêu lợi nhuận của
bản thân ngân hàng, hiệu quả tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các mặt
sau:
- Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, hiệu quả tín dụng ngân
hàng trước tiên được thể hiện trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung của
một số quốc gia. Tín dụng ngân hàng chỉ thực sự mạng lại hiệu quả cho nền
kinh tế khi nó làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo công ăn việc làm cho
người lao động, giảm lạm phát, góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế, làm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế tín dụng ngân
hàng thực sự có hiệu quả khi nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù
hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước.
- Mức độ lợi nhuận mà ngân hàng thu được với phương châm đi vay để
cho vay, do đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc lớn vào khả
năng mở rộng đầu tư, cụ thể là hoạt động ngân hàng có tập trung được nguồn
vốn nhàn rỗi, có thực hiện cho vay nhiều, sử dụng vốn có hiệu qủa thì mới tồn
tại và đứng vững được. Đối với các ngân hàng, hiệu quả tín dụng được thể
hiện cụ thể nhất, dễ nhận ra nhất đó chính là lợi nhuận mà ngân hàng có được.
Một ngân hàng được coi là có hiệu quả cao nếu có mức lợi nhuận thu được
năm sau cao hơn năm trước.
Mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu trong cơ chế thị trường hiện nay,
ngân hàng thương mại là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập cho nên việc đảm
bảo an toàn tín dụng là rất quan trọng hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng
không chỉ phụ thuộc vào mức lãi suất mà ngân hàng thu được, mà còn phụ
thuộc vào khả năng thu hồi an toàn của mỗi đồng vốn bỏ ra theo đúng kỳ hạn
đã ghi trong hợp đồng tín dụng để tạo ra rủi ro các ngân hàng thương mại phải
chấp hành đầy đủ các qui định, qui chế về an toàn tín dụng do ngân hàng Nhà
nước ban hành, thẩm định cẩn thận trước khi cho vay, thường xuyên kiểm tra
việc sử dụng vốn của người vay.
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với việc phát
triển kinh tế hộ sản xuất.
Chỉ tiêu 1: Doanh số cho vay hộ sản xuất
Tổng số hộ sản xuất
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn mà hộ sản xuất vay được từ ngân hàng,
tín dụng ngân hàng được coi là có hiệu quả khi doanh số cho vay cao, số hộ
được vay nhiều và số tiền vay trên mỗi lượt hộ lớn.
Chỉ tiêu 2: Dư nợ cho vay hộ sản xuất trung, dài hạn
Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất
Dư nợ cho vay trung và dài hạn phải đạt một tỷ trọng nhất định trong
tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất thì các hộ mới đủ vốn để cải tạo cơ sở vật chất
sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngăn chặn. Mục tiêu của ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là dư nợ cho vay trung,
dài hạn chiếm 30% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất.
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu định tính phản ánh hiệu quả tín dụng ngân
hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất như tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn thu nhập hộ sản xuất.
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất đối
với ngân hàng:
Dư nợ cho vay bình quân Chỉ tiêu 1: Hiệu quả sử dụng vốn x 100% = Nguồn vốn huy động bình quân
Các ngân hàng thương mại huy động vốn để cho vay, do đó cần phải
xem xét hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng thông qua mối quan hệ giữa nguồn
vốn huy động và nguồn vốn cho vay, với mỗi đồng tiền gửi vào các ngân
hàng sau khi giữ lại một tỷ lệ nhất định dưới dạng tiền dự trữ thì phải cố gắng
cho vay càng nhiều càng tốt. Như vậy ngân hàng được coi là kinh doanh có
hiệu quả khi có hiệu suất sử dụng vốn cao, hợp lý, an toàn.
Chỉ tiêu 2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay hộ sản xuất hàng năm.
Chỉ tiêu 3: Doanh số thu nợ hộ sản xuất
Doanh số cho vay hộ sản xuất
Tín dụng hộ sản xuất được coi là có hiệu quả đối với ngân hàng khi
doanh số cho vay cao kết hợp với tỷ lệ doanh số thu nợ hộ sản xuất trên doanh
số cho vay hộ sản xuất hợp lý để hạn chế bớt ruỉ ro.
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất.
Tín dụng hộ sản xuất chứa đựng nhiều rủi ro mà mỗi rủi ro là một cách thức
đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đặc biệt là trong nền kinh tế thị
trường hiện nay do đó việc đảm bảo thu hồi vốn vay đúng thời hạn là hết sức
quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả tới đúng hộ sản xuất đối với ngân
hàng để tránh những rủi ro từ phiá khách hàng, ngân hàng không nên dựa dẫm
vào tài sản thế chấp mà phải chủ động đầu tư vào hộ sản xuất kinh doanh có
hiệu quả và ít rủi ro nhất.
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản
xuất :
+ Về phiá khách hàng:
- Do sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Do tình hình tài chính của hộ sản xuất có biến đổi.
- Do năng lực quản lý yếu kém và trình độ áp dụng công nghệ có phù
hợp không.
- Những vấn đề liên quan đến sự thay đổi thị trường cung cấp đầu vào.
- Khách hàng thiếu sự sẵn sàng hoàn trả vốn vay..
+ Về phía ngân hàng:
Chấp hành không nghiêm các qui trình cho vay.
- Cán bộ tín dụng trình độ chuyên môn còn yếu, đạo đức nghề nghiệp
còn hạn chế.
- Yếu kém về mặt quản lý và điều hành.
- Không chấp hành những qui định của pháp luật...
+ Nhân tố khách quan:
- Tình hình kinh tế xã hội của quốc gia
- Cơ chế chính sách thay đổi
- Những nguyên nhân khác từ bên ngoài quốc gia.
- Các yếu tố tự nhiên và những vấn đề liên quan khác ...
1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay
Căn cứ vào nghị định số 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính
Phủ và thông tư số 01/TT-NH ngaỳ 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định " Về chính sách cho hộ sản
xuất vay vốn và phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông
thôn" Với mục đích là tạo điều kiện và khuyến khích những hộ vay vốn sản
xuất kinh doanh vay vốn để phát triển sản xuất hàng hoá nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp, công nghiệp, mở ngành nghề mới và kinh doanh dịch vụ có hiệu quả
thiết thực, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng xã hội văn minh dân giàu
nước mạnh.
Nông nghiệp nông thôn là ngành khu vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi
ro, cho nên để đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín
dụng qui định: Hộ sản xuất phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết
trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái
trong quá trình sử dụng vốn vay, vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và
lãi đúng thời hạn ngoài ra vốn vay còn phải được đảm bảo bằng giá trị tài sản
thế chấp.
Khi các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ xét duyệt cho
vay nếu các hộ có đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng quy định như:
- Các hộ phải tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng trong việc sử dụng
vốn vay và trả nợ đầy đủ đúng hạn cả gốc và lãi.
- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khả
năng hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với
quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính và có các nguồn thu nhập hợp pháp để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng.
- Cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín
dụng nếu vay từ 10 triệu đồng trở lên và các hộ sản xuất phải có vốn tự có
bằng tiền, giá trị vật tư, hay ngày công lao động đóng góp vào tổng số vốn
của dự án sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải có hộ khẩu thường trú tại địa
phương, những hộ ở địa phương khác đến phải có xác nhận của UBND nơi có
hộ khẩu thường trú và được UBND nơi đến cho phép sản xuất kinh doanh. Hộ
sản xuất phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của ngân hàng trước, trong và
sau khi cho vay. Đồng thời hộ sản xuất phải cung cấp cho ngân hàng những
tài liệu có liên quan đến việc sử dụng vốn vay đó.
Đối tượng cho vay cuả ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt nam gồm có:
- Cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) đối tượng là vật tư, chi phí trồng trọt,
chăn nuôi, chi phí các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vật tư, hàng hoá đối
với các hộ làm dịch vụ và kinh doanh thương nghiệp.
- Cho vay trung hạn (từ 1 năm -5 năm) đối tượng cho vay là chi phí mở
rộng diện tích canh tác xây dựng cơ bản đồng ruộng để gieo trồng cây hàng
năm, chi phí đào đắp ao hồ, xây dựng chuồng trại chi phí cải tiến, đổi mới
công nghệ, chi phí sữa sữa lớn tàu thuyền, phương tiện vận tải loại nhỏ.
- Cho vay dài hạn (trên 5 năm) đối tượng là chi phí xây dựng mới đồng
ruộng, đồi cây, ao hồ, nhà xưởng, máy móc thiết bị tầu thuyền, phương tiện
vận tải vừa và lớn, chí phí trồng và chăn sóc cây công nghiệp, cây ăn quả lâu
năm, cây công nghiệp, khi xét duyệt cho vay ngân hàng yêu cầu các hộ vay
vốn phải nộp đầy đủ các thủ tục theo từng loại hộ vay và thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn:
+ Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm:
Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của chính quyền địa phương và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, bản chính hoặc giấy nhận quyền sử dụng đất
không có tranh chấp do UBND xã, phường, thị trấn cấp. Sổ vay theo mẫu in
sẵn của Ngân hàng Nông nghiệp.
+ Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm:
Giấy đề nghị vay vốn dự án đầu tư, hồ sơ tài sản có công chứng, hợp
đồng tín dụng.
- Cho vay trung và dài hạn: Ngoài những thủ tục cho vay ngắn hạn còn
phải có thêm luận chứng kinh tế kỹ thuật, sơ đồ mặt bằng, dự toán chi phí
công trình, thiết kế, hợp đồng thi công ( nếu có)
- Quy trình cho vay trực tiếp hộ sản xuất:
Sau khi ngân hàng đã nhận đủ thủ tục, hồ sơ vay vốn của các hộ sản
xuất nếu không có thiếu sót nào thì cán bộ chuyên quản viết phiếu hẹn khách
hàng chậm nhất là 15 ngày phải giải quyết. Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ
đi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ghi rõ ý kiến của mình đồng ý hay không
đồng ý, nếu không phải đi thẩm định thì giải quyết ngay trong ngày, khi cán
bộ tín dụng đã thẩm định xong trình trưởng phòng tín dụng nếu không phải tái
thẩm định thì trình giám đốc phê duyệt và thông báo cho khách hàng biết. Khi
đã có quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng để hướng
dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn sau đó bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ vay
vốn cho bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân và sau mỗi định kỳ cán bộ tín
dụng phải đi kiểm tra việc sử dụng vốn vay.
- Quy trình cho vay qua tổ tín chấp:
Tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn, lập danh sách thành viên được
chọn đề nghị ngân hàng cho vay, cán bộ tín dụng cùng tổ trưởng trực tiếp
thẩm định hộ vay vốn hoặc thẩm định điển hình, hướng dẫn làm hồ sơ, kiểm
tra việc sử dụng vốn vay ngân hàng trực tiếp giải ngân đến từng hộ sản xuất
và thu nợ trực tiếp khi đến hạn và xử lý các vi phạm.
Mức lãi suất cho vay thoả thuận phù hợp với thị trường vốn trên địa
bàn và từng loại cho vay theo các nguyên tắc trên. Đồng thời phải phù hợp
với khung lãi suất đầu vào tối thiểu, lãi suất đầu ra tối đa do Tổng giám đốc
công bố hoặc uỷ quyền cho giám đốc ngân hàng tỉnh, thành phố, khu cực
công bố.
Chương II
thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Hà Giang
2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng
2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của
Ngân hàng:
2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội.
Thị xã Hà Giang là trung tâm hành chính, trung tâm kinh tế, văn hoá
của tỉnh. Là thị xã của tỉnh miền núi nên địa hình, địa lý tự nhiên rất khó khăn,
hiểm trở, có tới 75% diện tích là đồi núi cao, sông, suối sâu, giao thông khó
khăn, lâm thổ sản bị khai phá bừa bãi, lại bị chiến tranh biên giới (1979-1986)
tàn phá chưa khôi phục được.
Thị xã Hà Giang có diện tích tự nhiên 97km2 với 5 xã thuần nông và 4
phường bán nông nghiệp, diện tích canh tác đất nông nghiệp là 1.200ha.
Dân số của thị xã có gần 30 vạn người, hơn 10 dân tộc cùng chung
sống. Tổng số hộ sản xuất 4.100 hộ với 13.900 khẩu, trong đó có 3.500 lao
động.
Kinh tế nông nghiệp đã chuyển dần từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản
xuất chuyên canh và giao lưu hàng hoá đã phát triển. Trình độ dân trí dần
được nâng cao, nhiều hộ đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nông nghiệp, phá bỏ tập tục du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy,
chăn nuôi gia súc thả rông.
Bên cạnh đó, các điều kiện về môi sinh của thị xã chưa được tốt như
nạn chặt cây, phá rừng, đào đãi vàng, quặng đã làm cho nguồn nước cạn kiệt,
xói mòn, lũ quét và hạn hán xảy ra... gây nên sự mất mùa, gây thiệt hại tiền
của cho các hộ sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm gần đây do chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước,
quan hệ Việt - Trung được nối lại, cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ (cách thị xã
Hà Giang 20km) đã thông thương, giao lưu buôn bán được mở rộng, hàng
ngàn hộ nông dân trước kia do chiến tranh biên giới phải bỏ nhà, ruộng nương
đi sơ tán, nay trở lại làm ăn sinh sống. Phần lớn những hộ này đều thiếu vật
tư, tiền vốn để tổ chức lại sản xuất, nhất là vốn một nhu cầu cấp bách đối với
hộ nông dân ở Hà Giang.
Trước yêu cầu đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các
ngành các cấp và nhân dân trong tỉnh, đã nỗ lực phát huy truyền thống đoàn
kết, vượt qua khó khăn tích cực khai thác tiềm năng nội lực, đồng thời tranh
thủ sự giúp đỡ của trung ương và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nên trong những năm qua kinh
tế vẫn đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng
phát triển sản xuất hàng hoá và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP
ước đạt 11%, sản xuất nông lâm nghiệp 42.071ha, tăng 3,54%, sản lượng
lương thực quy thóc đạt 129.040 tấn, tăng 6,28% ; giá trị công nghiệp, xây
dựng cơ bản 321.055 triệu 36,26%, các ngành dịch vụ khác tăng 35,45% so
với năm trước, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên.
Để hoà nhập với nền kinh tế thị trường Tỉnh Hà Giang đã đề ra phương
hướng mục tiêu năm 2000 - 2005 là : Cơ cấu phát triển kinh tế là nông, lâm,
công, nghiệp chế biến và dịch vụ trên cơ sở đó tập trung đẩy mạnh phát triển
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà trước hết là nông
nghiệp nông thôn, khai thác có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương tích cực
chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng, hình thành các tiểu vùng sản xuất hàng
hoá, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất chế biến nông
lâm sản. Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp phát triển tiểu thủ công nghiệp,
mở rộng thương mại, chợ nông thôn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
nhằm tăng thu nhập cải thiện một bước cơ bản đời sống vật chất, văn hoá cho
người lao động, đổi mới bộ mặt nông thôn, đặc biệt là nông thôn vùng sâu
vùng xa .
2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng .
Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các Tổ chức tín dụng và các quyết định,
chính sách của Đảng và Nhà nước là môi trường pháp lý ổn định đảm bảo
điều kiện cơ bản để hoạt động cho các tổ chức tín dung nói chung và Hội sở
NHNo & PTNT Hà Giang nói riêng. Giúp cho Hội sở NHNo&PTNT Hà
Giang tạo cơ sở vững chắc cho quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường
với nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay .
Với chức năng của Ngân hàng là kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ
Ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước
và ngoài nước, làm uỷ thác các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của
chính phủ, các tổ chức kinh tế xã hội, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yếu cho
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn .
2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên
địa bàn thị xã Hà Giang:
Hà Giang là một tỉnh miền núi cao mới được chia tách từ tháng
10/1991, nơi chưa hề có cho vay nông hộ, lại có những đặc thù như đã nêu
trên, có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để khai thác tiềm năng tự nhiên, ứng dụng
khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho lao động...
Trong khi các nguồn vốn khác không đáng kể, mọi nhu cầu vốn cho sản xuất
nông nghiệp chủ yếu trông vào vốn tín dụng Ngân hàng.
Với hơn 2.100 hộ sản xuất trên địa bàn thị xã rộng 97km2, gồm 5 xã, 4
phường, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, việc cho
vay hộ sản xuất tại địa bàn thị xã Hà Giang không chỉ đơn thuần là vốn kinh
doanh mà còn phục vụ chính sách chiến lược của Đảng, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, nông thôn, nông dân là bước đi lên công nghiệp hoá.
Để cho vay được tới hộ sản xuất ở thị xã Hà Giang, thực chất là phải
giải quyết được các vấn đề sau:
Một là về cán bộ tín dụng: Yêu cầu về cán bộ tín dụng phải thực sự
toàn diện trên mọi mặt, phải có trình độ, có năng lực, có đạo đức nghề nghiệp,
có sức khoẻ, có quan điểm phục vụ nhân dân hết mình.
Khi xuống cơ sở làm việc, cán bộ tín dụng phải độc lập xử lý các tình
huống nghiệp vụ. Vì vậy không có đủ năng lực, không có đạo đức nghề
nghiệp thì sẽ không giải quyết được công việc, dễ phát sinh tiêu cực. Mặt
khác, muốn là bạn với nhà nông cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am hiểu kỹ
thuật về cây trồng, vật nuôi để cùng tham gia với hộ nông dân, lựa chọn
phương án tốt để đầu tư phát triển kinh tế.
Với địa hình, địa lý tự nhiên của địa bàn phải trèo đèo, lội suối... nếu
người cán bộ tín dụng không có sức khoẻ thì không thể tới các thôn bản, tới
hộ sản xuất, không thể bám trụ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nếu không có quan điểm vững vàng sẽ không thấy hết vai trò, trách
nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn của Đảng
và Nhà nước, sẽ bị co lại trước khó khăn và nảy sinh tiêu cực, gây thiệt hại
đến sức lao động, tiền bạc, thời gian của người dân, thay vì làm lợi cho họ.
Hai là vấn đề màng lưới và hình thức đầu tư: Nếu để riêng cho cán bộ
tín dụng trực tiếp nắm bắt nhu cầu của từng hộ, thẩm định từng món vay ở
thôn bản thì không thể đáp ứng được nhu cầu đông đảo của hộ sản xuất mang
tính thời vụ được. Thời vụ là cùng lúc có phân bón, cây giống làm sao hộ sản
xuất thiếu vốn chờ được cán bộ tín dụng đi thẩm định từng hộ. Vì vậy vấn đề
đòi hỏi là phải tổ chức cho vay qua các tổ trung gian: liên gia, tín chấp, tổ hỗ
trợ vay vốn... Thành lập những tổ này sẽ chắp thêm những cánh tay vươn dài
cho Ngân hàng nông nghiệp đến tận ngõ ngách, thôn, bản, tạo cơ sở nắm chắc
địa bàn, nắm vững đối tượng để đầu tư đúng hướng, có hiệu quả.
Ba là vấn đề pháp lý: Trong điều kiện môi trường pháp lý chưa hoàn
chỉnh mà việc cho vay phải tuân thủ những quy định chặt chẽ để bảo toàn
vốn, để vừa phục vụ đắc lực cho nông thôn, nông dân, vừa đạt được yêu cầu
trên, thì không có cách nào khác là phải vận dụng linh hoạt luật với lệ để cho
vay. Pháp luật đôi khi còn mơ hồ, khó hiểu đối với nông dân miền núi, nhưng
luật lệ làng bản, dòng tộc lại có sức mạnh thiêng đối với họ. Nếu làm cho hoạt
động tín dụng hộ sản xuất gắn với đời sống của bà con, gắn được với quyền
lợi của làng bản thì khả năng đầu tư sẽ không ngừng được mở rộng với sự
đảm bảo ngày càng cao.
Bốn là hoạt động tín dụng phải đi đôi với ứng dụng khoa học kỹ thuật:
Ngân hàng sẽ không thể đầu tư đại trà vào nông nghiệp, một ngành có tỷ suất
lợi nhuận thấp, nếu không tính đến sự đầu tư khoa học kỹ thuật tương ứng để
nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, tạo tỷ suất hàng hoá cao,
tỷ suất lợi nhuận lớn hơn, đảm bảo có lãi trả đủ vốn cho Ngân hàng (gốc và
lãi) và tái sản xuất mở rộng. Ngân hàng không chỉ đơn thuần cho vay hộ sản
xuất mà không tính đến điều kiện cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu
bệnh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... là những yếu tố có vai trò quan trọng đến
việc tổ chức sản xuất của người nông dân.
Năm là về lãi suất: Cần có một chính sách lãi suất hợp lý cho nông
nghiệp, cho hộ sản xuất. Đặc biệt trước cơ chế khoán tài chính của Ngân hàng
Nông nghiệp, nếu cứ bình đẳng lãi suất với các thành phần kinh tế thì nông
dân chỉ có thể vay đủ vốn cho sản xuất giản đơn mà không dám vay nhiều để
mở rộng sản xuất vì đơn giản là làm không đủ trả lãi cho ngân hàng.
2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang:
2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở:
Hà Giang là tỉnh mới được chia tách ra từ tỉnh Hà Tuyên cũ vào tháng
10/1991. Cùng đó, hệ thống Ngân hàng Hà Giang đã được hình thành, trong
đó có Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt
động của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh lúc đó chủ yếu là tiếp quản và kiện
toàn lại bộ máy hoạt động sẵn có của Ngân hàng thị xã Hà Giang và các Ngân
hàng huyện.
Đầu năm 1992, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang được thành
lập trên cơ sở tiếp quản mọi hoạt động của Ngân hàng thị xã Hà Giang trước
đây. Mô hình tổ chức của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang thực chất
là thực hiện mô hình kéo dài từ Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trực
tiếp tổ chức hoạt động kinh doanh theo quy chế tổ chức hoạt động của Ngân
hàng Nông nghiệp Việt Nam trên địa bàn thị xã Hà Giang.
Cơ cấu tổ chức và biên chế của Hội sở như sau:
sơ đồ mô hình tổ chức của NHNO
giám đốc
P. Giám đốc kiêm GĐ NH phục P. Giám đốc phụ trách kế toán P. Giám đốc phụ trách kinh
TC HC KT TC
Phòn g kế toán
Phòn g Kế hoạc h
Phòn g kinh doan h
Phòn g K.to án giao
Phòn g ngân quỹ
KH NV KS nộ i bộ
(Bộ máy của Hội sở gồm ---)
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang là đơn vị nhận khoán tài
chính trực tiếp với Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh (như các Ngân
hàng huyện), có bảng cân đối, quyết toán riêng. Thực hiện điện báo, báo cáo
thống kê và các hoạt động theo quy định của hệ thống Ngân hàng Nông
nghiệp.
Địa bàn hoạt động gồm 3 xã, 4 phường thuộc thị xã Hà Giang.
2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo &
PTNT Hà Giang
Quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà Giang
trong những năm qua có những thuân lợi và khó khăn sau :
- Thuận lợi :
Được sự quan tân của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Ngân hàng Nhà nước,
các ban ngành đã có nhiều biện pháp tháo gỡ giúp dân thoát khỏi khó khăn, đề
ra một số chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn như cho vay 7
chương trình kinh tế cho vay chăn nuôi bò, cho vay thâm canh lúa, ngô ...,
Ngân hàng cho vay, ngân sách hỗ trợ lãi . Bên cạnh đó nhiều cơ chế chính
sách mới của Chính phủ, của các ngành đã được ban hành kịp thời, tháo gỡ
khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời
mở ra một bước mới trong đầu tư và phát triển nông nghiệp nông thôn .
-Khó khăn :
+ Trong những năm qua các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh
Hà giang nói riêng cũng gặp không ít những khó khăn do yếu tố tự nhiên tác
động, hạn hán diễn ra trên diện rộng, thiếu nước trầm trọng trong sinh hoạt,
trồng trọt chăn nuôi, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của bà con nông dân
từ đó ảnh hưởng đến việc thu nợ, thu lãi của Ngân hàng .
+ Dân trí thấp, địa bàn hoạt động hẹp giao thông đi lại khó khăn .
+ Lãi suất trần cho vay liên tục thay đổi (quy định của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước), dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu vào ,đầu ra thấp .
+ Vấn đề cạnh tranh tín dụng trên địa bàn tuy không lớn như ở các tỉnh
miền xuôi, song đã có những tín hiệu không lành mạnh như điều chỉnh lãi
suất tiền gửi, cho vay, lôi kéo khách hàng ....
Cùng với thuân lợi và khó khăn chung của toàn tỉnh, đã phần nào ảnh
hưởng trực tiếp dến hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà
Giang. Nhưng quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng nông
nghiệp trong những năm qua đã có những bước thay đổi đáng kể .
Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã giải quyết được những vấn đề cơ bản
trong tư tưởng nhận thức cho toàn bộ cán bộ nhân viên và khẳng định muốn
tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, trong xu thế ngày càng có nhiều
quan hệ mở rộng thì không có con đường nào khác là phải đổi mới hoạt động
kinh doanh và kinh doanh thật sự . Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã xác
định được trách nhiệm của mình đối với việc phát triển nông, lâm, nghiệp và
phương châm đi vay để cho vay cụ thể trong 9 tháng đầu năm 2001 đã đạt
được những kết quả sau :
2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn:
Nhờ có đổi mới phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng, thực
hiện đúng khẩu hiệu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đã thu hút được
nhiều khách hàng đến gửi tiền, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
NHNo & PTNT nhận thức được vai trò của nguồn vốn kinh doanh,
nguồn vốn chính là tiền đề cho hoạt động kinh doanh, là động lực chính, là cơ
sở để mở rộng hoạt động kinh doanh. Chính vì thế mà NHNo & PTNT đã tập
trung khai thác mọi nguồn, coi công tác huy động vốn là của mọi người, mọi
thành viên. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vay vốn của các hộ sản
xuất, hộ nghèo, hộ kinh doanh, các công ty thuộc các doanh nghiệp Nhà nước
và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hội sở NHNo & PTNT đã huy động vốn
bằng các hình thức sau:
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng.
Kỳ phiếu 13 tháng.
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp là đơn vị đóng tại Trung tâm kinh tế
của tỉnh nên công tác huy động vốn có nhiều thuận lợi so với các chi nhánh
khác ở huyện. Vì vậy kết quả huy động hàng năm luôn đáp ứng kịp thời cho
các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế của địa phương và bổ sung cho
các chi nhánh huyện. Khuyến khích khách hàng truyền thống, duy trì và nâng
cao số dư tiền gửi, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp đã từng bước tìm kiếm
thêm khách hàng mới, để khơi tăng nguồn vốn tại địa phương.
Bảng 1 : tình hình Huy động vốn
Đơn vị : Triệu đồng
So sánh 1999 2000 2001 2001/2000 Chỉ tiêu Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền trọng trọng trọng
I/Tổng nguồn vốn huy
38.006
100
45.274
100
65.851
100
20.577
45,44
động
1. Tiền gửi các tổ chức KTế
6.109
16,7
8.270 18,28 12.500 18,98
4.230
51,14
2. Tiền gửi tiết kiệm
28.483 74,79 34.792 76,84 51.551 78,28 16.759
48,16
- Tiền gửi không kỳ hạn
2.366
6,22
3.500
7,7
5.100
7,74
1.600
74,28
-Tiền gửi có kỳ hạn
26.117 68,71 31.292 69,11 46.451 64,46 15.159
48,44
3.T/gửi kỳ phiếu, trái phiếu
3.414
8,98
2.212
4,48
1.800
2,73
-412
81,37
(Nguồn: theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999 - 2000 và
09 tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)
* Nhận xét:
Qua biểu số liệu trên, cho thấy kết qủa huy động vốn tăng lên rõ rệt.
Kết quả huy động vốn năm 2001 đạt 65.851 triệu đồng, tăng 19,12% so với
năm 2000, tăng 73,26% so với năm 1999.
Xét về cơ cấu nguồn vốn qua các kỳ ta thấy:
- Vốn huy động từ dân cư năm 2001 đạt 53.351 triệu đồng, tăng
44,17% so với năm 2000, tăng 67,35% so với năm 1999.
- Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2001 là 12.500 triệu đồng,
tăng 51,14% so với năm 2000, tăng 104,6% so với năm 1999.
Vốn huy động từ dân cư chiếm tuỷ trọng cao trong tổng nguồn, chủ yếu
là tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn dài hạn tạo điều kiện thuận lợi để Hội sở
cho vay trung và dài hạn.
Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư là một trong những yếu tố quyết
định mở rộng hay thu hẹp đầu tư của Hội sở. Do vậy Hội sở đã huy động bằng
nhiều hình thức phù hợp với từng thời kỳ.
2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn:
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn
đầu tư tín dụng là yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư, là công việc
nghiệp vụ có tính chất sống còn của ngân hàng, vì phần lợi nhuận mà ngân
hàng thu được đều dựa trên việc đầu tư cho vay. Nếu sử dụng vốn có hiệu quả
sẽ bù đắp được chi phí cho huy động vốn và thu được lợi nhuận. Nếu không
sẽ gây ra nguy hại tới vốn tự có của ngân hàng. Vì thế Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp đã và đang thực hiện tốt công tác tín dụng đồng thời chú trọng
đến công tác huy động vốn theo hướng " Đi vay để cho vay " đến mọi thành
phần kinh tế. Để đảm bảo công tác tăng trưởng tín dụng về chất lượng tín
dụng thì Hội sở ngân hàng cũng được đặc biệt quan tâm. Tăng trưởng tín
dụng phải đảm bảo an toàn hiệu quả .
- Làm tốt việc phân loại khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau, để có hướng đầu tư phù hợp.
- Bên cạnh đó Hội sở ngân hàng còn mở rộng cho vay thông qua việc
ký kết văn bản thoả thuận với các ban ngành, một mặt vừa tuyên truyền
nghiệp vụ ngân hàng, mặt khác thông qua việc ký kết văn bản thoả thuận đôi
bên nhằm gắn trách nhiệm của các ban ngành như Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh,
Hội nông dân tỉnh thành lập các tổ vay vốn ở các phường xã, giúp cho các hộ
ở xa trung tâm có cơ hội tiếp cận được với ngân hàng nông nghiệp. Trong
việc bảo toàn vốn cho vay.
- Căn cứ vào các chương trình kinh tế của tỉnh, các dự án về chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để có cơ sở đầu tư đúng hướng.
- Hội sở ngân hàng đã sử lý kịp thời các món vay quá hạn bị rủi ro bất
khả kháng, giúp cho hộ vay ổn định sản xuất, khắc phục dần trong việc trả nợ
tiến vay cũng đã có được những kết quả nhất định.
Biểu 2:
Trong công tác tín dụng, đầu tư vốn là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt hoạt động ngân hàng. Có đẩy mạnh được công tác đầu tư
vốn, ngân hàng mới phát huy được vai trò của mình trong cơ chế thị trường,
đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn tín dụng cho phát triển sản xuất và trao đổi hàng
hoá đến tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời với việc mở rộng tín dụng,
Hội sở ngân hàng đã rất quan tâm đến việc thu nợ. Đây là một chỉ tiêu quan
trọng phản ánh hiệu quả của quá trình đầu tư. Hội sở ngân hàng thường xuyên
giám sát quá trình sử dụng vốn vay, đôn đốc thu nợ kịp thời khi đến hạn đựợc
thể hiện qua biểu 2.
* Về doanh số cho vay:
- Doanh số cho vay năm 1999 là 38.699 triệu đồng.
- Doanh số cho vay năm 2000 đạt 64.913 triệu đồng, tăng so với năm
99 là 26 tỷ, tỷ lệ tăng là 67,68%.
- Doanh số cho vay năm 2001 đạt 82.550 triệu đồng, tăng so với năm
2000 là 17.637 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 27,17%.
Trong đó:
- Cho vay ngắn hạn năm 2001 là 66.350 triệu đồng, chiếm 80,37% trên
tổng doanh số.
- Cho vay trung, dài hạn là 16.200 triệu đồng, chiếm 19,63% trên tổng
doanh số.
Từ kết quả trên đạt được đã chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào
cho vay đối với hộ sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
* Về doanh số thu nợ qua các năm:
- Năm 1999 là 36.021 triệu đồng.
- Năm 2000 là 45.050 triệu đồng, tăng so với năm 99 là 9.029 triệu
đồng, tỷ lệ tăng bằng 25,06%.
- Năm 2001 đạt 63.100, tăng so với năm 2000 là 18.050 triệu đồng, tỷ
lệ tăng là 40,06%.
* Về doanh số dư nợ qua các năm:
Biểu số liệu trên nói lên công tác mở rộng đầu tư tín dụng của Hội sở
rất tích cực, liên tục qua các thời điểm đều tăng mạnh, dư nợ 2001 đạt 60.730
triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 80,8%.
Trong đó:
- Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2001 là 35.172 triệu đồng, chiếm
57,92%, trên tổng dư nợ.
- Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 25.558 triệu đồng, chiếm
42,08%, trên tổng dư nợ.
Xét về cơ cấu theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ của doanh nghiệp
Nhà nước đã bắt đầu đi vào làm ăn có lãi so với những năm trước đây. Nhu
cầu vốn so với năm 1999 tăng 582 triệu đồng, tỷ lệ tăng 8,02%, năm 2001
tăng 1.700 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 21,71%. Dư nơ của kinh tế ngoài quốc
doanh, chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng qua các thời điểm, chứng tỏ Hội sở
đã đầu tư đúng hướng, phù hợp với mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh nhà. Đặc biệt dư nợ của khu vực tư nhân và cá thể (kinh tế
hộ) tốc độ tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng, dư nợ đến năm
2001 so năm 2000 tăng 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng 80,8%;
* Đánh giá kết quả chất lượng tín dụng qua biểu dư nợ quá hạn của
Hội sở:
Biểu số 3: tình hình nợ quá hạn của hội sở
Đơn vị : Triệu đồng
So sánh So sánh 1999 2000 2001
chỉ tiêu
2000/1999 2001/2000
Số Số tiền tiền
I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83
1. Phân loại NQH
theo loại
- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15
-Nợ quá hạn trung, dài 383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99
hạn
2. Phân loại NQH
theo thời gian
- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2
- NQH từ 181-360 138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8
ngày
-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3
II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59
dư nợ
(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999, 2000 và 09
tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)
Hội sở NHNo & PTNT coi nhiệm vụ thu nợ là nhiệm vụ trọng tâm, Hội
sở đã phối hợp với các ban ngành, uỷ ban nhân dân các cấp tăng cường thu
hồi nợ quá hạn cụ thể, qua biểu số liệu trên đã nói lên chất lượng tín dụng của
Hội sở chuyển biến rất tích cực, nợ quá hạn ở các thời điểm đều giảm. So
sánh 2000 với 1999 số nợ quá hạn giảm một cách đột biến, với số tuyệt đối
giảm 395 triệu đồng, tỷ lệ giảm 54,7%. Năm 2001 so với năm 2000 đã giảm
91 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 27,83%. Nguyên nhân do năm 2000, 2001, Hội sở
đã tăng trưởng dư nợ rất mạnh và xử lý rủi ro được 184 món = 383 triệu đồng.
Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn đã chấn chỉnh kịp
thời các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ của Hội sở. Vì
vậy công tác thẩm định, xét duyệt cho vay trong những năm gần đây chặt chẽ
và hiệu quả hơn, ít phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ Ngân
hàng.
Tóm lại: Với tốc độ tăng trưởng dư nợ, kết quả công tác cho vay - thu
nợ, số dư nợ quá hạn giảm thấp dưới 1%, theo các biểu phân tích như trên, có
thể kết luận chất lượng tín dụng của Hội sở rất tốt. Đồng thời cũng có thể kết
luận việc thực hiện phát triển kinh tế của các hộ có kết quả và chất lượng cao.
Đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Ngân hàng nông nghiệp đầu
tư và khai thác.
2.2.2.3. Hoạt động khác:
bảng 4: Tình hình tài chính của Hội sở
Đơn vị: triệu đồng
so sánh năm
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2001/2000
Số tiền Tỷ trọng
Tổng thu nhập 2.210 3.385 2.504 -881 -26
Tổng chi phí 2.010 2.817 1.851 -966 -34,43
Chênh lệch thu - chi +200 +468 +653 +193 +41,23
Hệ số lương 1,4 1,65 1,65
(Nguồn : Theo bảng tính toán quỹ thu nhập 09 tháng đầu năm của Hội sở
NHNo & PTNT)
Trong quá trình kinh doanh, Hội sở đã luôn cố gắng tiết kệm các khoản
chi phí không cần thiết và tích cực đôn đốc thu. Vì vậy kết quả kinh doanh
hàng năm luôn có lãi và đạt được hệ số lương tối đa do Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam quy định (hệ số lương tối đa năm 1999 là 1,4, năm 2000 và
2001 là 1,65), thu nhập bình quân cán bộ công nhân viên là 1.800.000đ/người
không kể ăn ca.
* Công tác thanh toán :
Công tác thanh toán trong mấy năm gần đây đã có nhiều chuyển biến,
đáp ứng yêu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng đầy đủ nhanh gọn, công
tác thanh toán không ngừng được cải tiến. Gần đây Hội sở NHNo & PTNT)
đã được trang bị lại hệ thống máy vi tính nối mạng, đẩy mạnh ứng dụng tin
học vào hệ thống thanh toán, ngày càng có nhiều khách hàng đến với Hội sở
NHNo & PTNT). Thực hiện chế độ nghiệp vụ kế toán cho vay, kế toán thanh
toán, kế toán tài sản... số liệu đảm bảo chính xác, cập nhật đầy đủ, đúng chế
độ quy định, các nghiệp vụ kế toán khác như thanh toán liên hàng, chuyển
tiền được thực hiện thường xuyên, đảm bảo nhanh chóng, chính xác theo yêu
cầu của khách hàng và đúng chế độ quy định, thái độ và tác phong giao dịch
của cán bộ tận tình, chu đáo.
* Công tác ngân quỹ
Tổng thu tiền mặt và ngân phiếu trong năm 2001 : 139.395 triệu
Tổng chi tiền mặt, ngân phiếu năm 2001 : 139.353 triệu
Trong năm đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 144 món, số tiền
27.605.000đ, phát hiện và thu hồi tiền giả 640 tờ tiền giả với số tiền
23.355.000đ
Nhìn chung công tác ngân quỹ của Hội sở đã chấp hành tốt các quy
định về an toàn kho quỹ, các sổ quỹ, sổ ra vào kho, sổ bàn giao chìa khoá
kho... đều được lập và ghi chép đúng chế độ quy định, không để xảy ra mất
mát, thiếu hụt quỹ.
Ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hội sở còn
làm tốt các mặt công tác khác như thiết lập tốt mối quan hệ với các cơ quan
pháp luật trên địa bàn cùng kết hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đặc
biệt trong công tác thu nợ. Bên cạnh đó, Hội sở còn luôn tổ chức và tham gia
các phong trào văn hoá - thể thao, hội thi tìm hiểu luật, thi công đoàn, thi
nghiệp vụ kiểm ngân, tin học, cán bộ tín dụng giỏi... tạo ra phong trào thi đua
sôi nổi trong cơ quan, động viên cán bộ thêm hăng say trong công việc.
2.3. thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà Giang
2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp
Hà Giang:
Thực hiện chủ trương, chính sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự chỉ đạo
của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trong các năm qua kết quả
hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã đi
đúng hướng, thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, phục vụ kịp thời cho các
chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, đã góp phần thúc
đẩy nền kinh tế nông nghiệp địa phương phát triển với các chương trình về
lương thực, thực phẩm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông
nghiệp, xây dựng một nông thôn mới giúp cho hộ sản xuất từ kinh tế thuần
nông chuyển dần sang đa canh, từ kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân
sản xuất nhỏ, manh mún sang kinh tế hàng hoá.
Cũng từ nền kinh tế thuần nông mà dân còn nghèo, việc tạo lập nguồn
vốn trong nông nghiệp rất khó khăn, các món vay nhỏ lẻ, tản mạn, chi phí
cao, kết quả kinh doanh thấp, mức thu nhập của cán bộ Ngân hàng Nông
nghiệp không cao, môi trường và địa bàn hoạt động còn nhiều khó khăn phức
tạp, đó là những khó khăn nhất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.
Nhưng trong những năm gần đây, Hội sở đã bám sát chủ trương, chính
sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế nông nghiệp -
nông thôn, bám sát thị trường nông thôn, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho
sản xuất, chăn nuôi phục vụ chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Hiện nay trên địa bàn có nhiều tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho
nông nghiệp - nông thôn, nhưng NHNo&PTNT vẫn là tổ chức tài chính lớn
nhất cung cấp tín dụng cho lĩnh vực này. Chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới
tới tận thôn bản, tận hộ để cung cấp vốn cho từng dự án, cho từng con trâu,
bò, cung cấp vốn cho từng cân phân bón, từng cân giống lúa mới... cho bà con
có cơ hội để phát triển kinh tế, chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới là người
bạn tận tuỵ với nhà nông.
Cơ cấu đầu tư tín dụng của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang
đã thực sự chuyển biến một cách tích cực, tỷ lệ đầu tư trung hạn cho hộ sản
xuất mỗi năm một tăng, thực chất đó là tạo lập thị trường, tạo khách hàng ổn
định trong quá trình kinh doanh.
2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân
hàng Nông nghiệp Hà Giang:
* Về cho vay:
Nhìn chung, từ khi Hội sở triển khai cho vay hộ sản xuất, bước đầu đã
đúc kết được kinh nghiệm về quá trình cho vay hộ sản xuất.
Thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn, góp phần từng bước hình
thành các vùng kinh tế, tạo khả năng phát triển kinh tế hàng hoá trên địa bàn
thị xã Hà Giang.
Góp phần củng cố các đoàn thể xã hội, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông
thôn, tạo điều kiện ban đầu để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào
sản xuất và chế biến nông sản, giải phóng phần nào sức lao động cho nông
dân, mở rộng các ngành nghề, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn.
Năm 2001, Hội sở đã đầu tư tín dụng vào các lĩnh vực kinh tế nông
nghiệp như sau:
Lĩnh vực trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, vận tải,
thương nghiệp dịch vụ, ngành nghề khác. Số lượt hộ đến Hội sở vay vốn
trong năm 2001 là 1.850 lượt.
bảng 5 :
(quay ngang)
Số liệu biểu trên cho thấy Hội sở NHNo&PTNT đã rất chú trọng tới
việc mở rộng mạng lưới kinh doanh, do đó doanh số cho vay thu nợ hộ sản
xuất liên tục tăng trong những năm qua.
- Tổng doanh số cho vay năm 2000 đạt 15.397 triệu đồng tăng 164 %
so với năm 1999. (ứng với số tuyệt đối là 9.567 triệu đồng).
- Tổng doanh số cho vay năm 2001 đạt 36.080 triệu đồng, tăng
144,33% so với năm 2000. (ứng với số tuyệt đối là 20.683 triệu đồng).
+ Doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 17.660 triệu đồng
chiếm 48,94% trong tổng doanh số cho vay, tăng 80,81% so với năm 2000,
điều đó chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào các dự án chiều sâu có hiệu
quả, nhằm tạo lập một thị trường lâu dài và bền vững tới các hộ. Đồng thời
cũng phù hợp với chương trình kinh tế của địa phương về phát triển cây chè là
mũi nhọn của địa phương, phát triển đàn trâu, bò, cho vay chất lợp đối với
đồng bào nông thôn gặp khó khăn (tỉnh hỗ trợ lãi suất).
+ Doanh số cho vay ngắn hạn năm 2000 là 18.420 triệu đồng, chiếm
51,05% trên tổng doanh số cho vay, tăng 122,18% so với năm 2000. Là do
phần lớn hộ sản xuất vay ngân hàng là nông dân, các hộ nông dân vay vốn
chủ yếu để trang trải chi phí ngắn hạn như mua thức ăn chăn nuôi, phân bón,
cây giống..
Để đạt được mục tiêu chất lượng tín dụng, Hội sở đã thực hiện nhiều
biện pháp mạnh mẽ nhằm chấn chỉnh công tác tín dụng như:
- Tổ chức phân loại khách hàng để có chính sách ưu đãi về lãi suất và
vốn đầu tư tạo điều kiện cho khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
giữu được khách hàng vay vốn thường xuyên.
- Mở hội nghị khách hàng, tuyên truyền các quy chế, chính sách của
ngành, qua đó củng cố mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, rút kinh
nghiệm để phục vụ tốt hơn.
- Thẩm định và giải ngân kịp thời các dự án cho vay theo các trương
trình kinh tế của tỉnh, Chỉnh phủ.
* Về thu nợ :
Song song với công tác cho vay là công tác thu nợ, mục tiêu của tín
dụng là an toàn vốn và có lợi nhuận, cho vay phải thu được cả gốc và lãi. Do
cán bộ tín dụng của Hội sở đã làm tốt công tác thẩm định khi cho vay và
thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với quá trình sử dụng vốn vay của khách
hàng nên bảo đảm thu nợ được đúng hạn.Từng cán bộ tín dụng đã bám sát địa
bàn của mình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay
đúng mục đích, có hiệu quả, làm tiền đề thuận lợi cho công tác thu nợ, hạn
chế tối đa nợ quá hạn phát sinh.
Qua số liệu trên ta thấy tình hình thu nợ của hộ sản xuất đạt kết quả
đáng khích lệ ở các năm gần đây:
- Tổng doanh số thu nợ năm 1999 là 5.830 triệu đồng.
- Tổng doanh số thu nợ năm 2000 là 15.397 triệu đồng, tăng 164% so
với năm 1999, ứng với số tiền là 9.567 triệu đồng.
- Tổng doanh số thu nợ năm 2001 là 21.559 triệu đồng, tăng 216,07%
so với năm 2000, ứng với số tuyệt đối là 14.738 triệu đồng.
Có được doanh số thu nợ như trên là do Hội sở đã phối hợp tốt với các
cấp uỷ chính quyền các phường xã trên địa bàn, tổ chức vận động tuyên
truyền cho người vay nắm được tích chất của tín dụng là hoàn trả. Đối với các
trường hợp chây ỳ không chịu trả nợ thì ngân hàng phối hợp với các cơ quan
luật pháp để xử lý những món nợ đã đến hạn và quá hạn, đối với những
trường hợp do nguyên nhân khách quan bất khả kháng. Ngân hàng làm rõ
nguyên nhân để khoanh nợ và có phương pháp xử lý. Đồng thời xem xét
người vay bị rủi ro mà có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, thì ngân
hàng tiếp tục cho vay để người vay có vốn sản xuất và sẽ có thu nhập để trả
nợ ngân hàng.
* Về tình hình dư nợ :
Sau khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, để tồn tại trong hoạt động kinh doanh tín dụng của
ngân hàng thì chỉ tiêu dư nợ tín dụng là một trong những chỉ tiêu hàng đầu. Vì
thế bằng mọi biện pháp ngân hàng mở rộng khối lượng tín dụng của mình tức
là tăng dư nợ. Một trong những đặc trưng cơ bản của hình thức tổ chức kinh
tế hộ là quy mô sản xuất còn nhỏ bé, lạc hậu, vốn tự có ít, Do đó để mở rộng
sản xuất kinh doanh, hầu hết các hộ kể cả có thu nhập ở mức khá đều có nhu
cầu vay vốn ngân hàng. Nhận thức được thực trạng trên, Hội sở
NHNo&PTNT Hà Giang đã có nhiều biện pháp khuyến khích các hộ sản xuất
vay vốn ngân hàng, như đơn giản thủ tục vay vốn, mở rộng mạng lưới kinh
doanh, giảm lãi suất cho vay. Với phương châm coi trọng cho vay hộ sản xuất
trong thoì gian qua Hội sở đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất vay vốn để
phát triển kinh tế. Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hội sở luôn chú
trọng đến việc tăng tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn. Bên cạnh đó nâng cao
khả năng tiếp cận khách hàng, giảm chi phí hoạt động và tăng khả năng thu
hồi nợ. Ngân hàng đã cải tiến phương thức cho vay theo hướng tăng dần dư
nợ, cho vay hộ sản xuất theo hướng tăng dần dư nợ, cho vay hộ sản xuất theo
phương thức gián tiếp thông qua tổ chức kinh tế, tài chính trung gian.
Để đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp qua bảng phân tích trên:
- Tổng dư nợ năm 1999 là 6.006 triệu đồng.
- Tổng dư nợ năm 2000 là 12.582 triệu đồng, tăng 109,49% so với năm
1999, ứng với số tuyệt đối 6.576 triệu đồng.
- Tổng dư nợ năm 2001 là 37.103 triệu đồng, tăng 194,82% so với năm
2000, ứng với số tuyệt đối là 25.518 triệu đồng.
- Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo ngành nghề.
+ Dư nợ cho vay ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư
cho vay hộ sản xuất, dư nợ năm 1999 chiếm 43,29%, năm 2000 chiếm
54,66%, năm 2001 chiếm 112,3% trên tổng dư nợ. Do tỉnh đã quan tâm phát
triển ngành nông nghiệp như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các
cây trồng, con giống có giá trị hàng hoá cao vào sản xuất, đầu tư các cơ sở hạ
tầng cho nông nghiệp nông thôn được thoả đáng, có chính sách bảo hộ sản
phẩm nông nghiệp một cách hợp lý. Từ đó sản xuất phát triển khả năng hấp
thụ vốn lớn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng đầu tư tăng trưởng tín dụng.
* Dư nợ quá hạn hộ sản xuất
Khi xen xét chất lượng tín dụng phải xem xét trên nhiều mặt, một chỉ
tiêu quan trọng để đánh giá dư nợ đó có lành mạnh không là chỉ tiêu nợ quá
hạn.
biểu số 6 : dư nợ quá hạn hộ sản xuất
Đơn vị: triệu đồng
So sánh So sánh
2000/1999 2001/2000 1999 2000 2001
chỉ tiêu
Số Số tiền tiền
I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83
1. Phân loại NQH
theo loại
- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15
-Nợ quá hạn trung, dài 383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99
hạn
2. Phân loại NQH
theo thời gian
- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2
- NQH từ 181-360 138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8
ngày
-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3
II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59
dư nợ
(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999,2000 và 09 tháng
đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)
Số liệu biểu trên cho biết tỷ lệ nợ quá hạn trong thời gian qua của Hội
đã giảm mạnh. Nợ quá hạn hộ sản xuất năm 2001 giảm 91 triệu đồng so với
năm 2000, tỷ lệ giảm là 27,83%. Là do công tác theo dõi nợ chặt chẽ diễn
biến của dư nợ, thường xuyên đánh giá chất lượng tín dụng kiểm tra việc sử
dụng vốn vay của khách hàng, do đó thu nợ kip thời những khoản nợ đến hạn.
Các trường hợp có nợ quá hạn khó đòi, kéo dài, Hội sở đã phối hợp tốt với
các cơ quan chức năng của địa phương để thu nợ như phát mại tài sản thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh...
Nợ quá hạn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ quá hạn.
Nguyên nhân là do những năm trước đây Hội sở thực hiện cho vay theo
chương trình của tỉnh trồng cây cà phê của tỉnh đã bị thất bại, do thời tiết và
khí hậu của Hà Giang không phù hợp, hạn hán kéo dài đã làm chết hàng loạt
đồi rừng cà phê. Số ít còn sống thì năng suất và chất lượng không cao, đã tác
động mạnh vào thu nhập của các hộ và Ngân hàng Nông nghiệp nói chung,
Hội sở nói riêng.
Tuy nhiên, trong những năm qua, Hội sở đã có rất nhiêu biện pháp tích
cực giúp các hộ có điều kiện để khôi phục lại sản xuất, thu hồi được vốn của
Ngân hàng. Mặt khác sử dụng vốn vay có hiệu quả của các thành phần kinh tế
ngày một nâng cao .
2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội
sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang:
Với tốc độ tăng trưởng của dư nợ, kết quả công tác cho vay, thu nợ, tỷ
lệ nợ quá hạn qua các năm giảm thấp dưới 3%, và giảm dần trong những năm
tiếp theo năm 2001 tỷ lệ dư nợ quá hạn chỉ còn dưới 1% trên tổng dư nợ.
Theo các biểu số liệu và phân tích như trên, chứng tỏ chất lượng tín dụng hộ
sản xuất của Hội sở rất tốt, các chiến lược đầu tư, kinh doanh của Hội sở đúng
hướng, đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Hội sở đầu tư và
khai thác.
Với kết quả hoạt động kinh doanh như vậy, Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp Hà Giang đã có đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn, đồng vốn của Ngân hàng đã được sử dụng đúng
mục đích, khai thác triệt để khả năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tăng
nhanh vòng quay đồng vốn.
Nhiều hộ gia đình đã giàu lên nhờ được vay vốn Ngân hàng, hàng
nghìn lao động đã có công ăn việc làm, bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới.
Nhờ đồng vốn Ngân hàng, từ các nhu cầu thiết yếu của hộ nông dân
như cây, con giống, phân bón... đến các phương tiện khoa học kỹ thuật như
ứng dụng khoa học, máy móc, thiết bị... đều được đáp ứng đầy đủ và kịp thời.
Vốn Ngân hàng đã thực sự góp phần giúp nông dân khắc phục khó khăn trong
sản xuất kinh doanh.
Với số vốn đầu tư trong năm 2001 của Hội sở đã giúp cho các hộ mua
sắm và đầu tư được như sau:
Lợn giống và lợn thịt: 2793 con 2.150 triệu đồng. =
Trâu, bò giống và sức kéo: 1820 con 5.460 triệu đồng =
Mua sắm máy móc, thiết bị trị giá: = 1.000 tỷ đồng
Cho vay trồng và chăm sóc cây chè 102ha = 2.117 triệu đồng
Cho vay trồng và tu bổ rừng 372ha 2.292 triệu đồng =
Cho vay thâm canh lúa, ngô lai 857ha 1.710 triệu đồng =
Cho vay ngành nghề khác 772 triệu đồng =
Số lượt hộ đến vay vốn là 2.500 lượt
2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân:
Qua nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất ở Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà
Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn một số tồn tại cần
được khắc phục biểu hiện tập trung ở một số điểm sau:
Về tài sản đảm bảo tiền vay:
Đối với các hộ nông thôn ở miền núi, tài sản lớn có giá trị để đảm bảo
tiền vay là ngôi nhà. Xét về mặt giá trị có thể tới 3-4 chục triệu đồng, nhưng
vẫn không đủ tiêu chuẩn làm đảm bảo vì khi khách hàng vay vốn không trả
được nợ phải phát mại tài sản thì thật khó tìm đươc người mua ngôi nhà ở
lưng chừng đồi, bên bờ suối, với nhà nọ cách nhà kia khá xa (200-300m). Khi
có người mua thì giá trị đã bị mất tới 50-60% cho nên việc định giá tài sản khi
cho vay và số tiền thu được khi thanh lý tài sản là quá trình khó khăn và phức
tạp, thường kéo dài thời gian tới vài năm, gây nên nhiều phí tổn ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh cũng như việc tập trung nguồn vốn của Ngân hàng.
Đối với việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay thì
có thể các hộ có nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có thể vay được và Ngân
hàng cũng yên tâm hơn vì đối với đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng không thể
thiếu đối với các hộ sản xuất, nhưng quyền này do cơ quan có thẩm quyền xét
cấp. Cho đến nay ở thị xã Hà Giang mới chỉ có khoảng 60-65% số hộ được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy một số hộ có nhu cầu về vốn
sản xuất lại không có quyền sử dụng đất lâu dài, rất khó trong việc đảm bảo
tiền vay, hoặc khi không trả được nợ nếu không có quyền sử dụng đất khi bán
thanh lý vì ít người mua, hoặc có mua cũng bị giảm giá từ 20-30%, làm thiệt
hại cho khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của Ngân hàng.
- Trong quá trình cho vay phục vụ các chương trình kinh tế của tỉnh
(ngân sách tỉnh trợ cấp lãi suất trong thời hạn vay) như cho vay trồng cây cà
phê, mua máy sao sấy chè mi ni, máy bóc vỏ cà phê, máy tuốt lúa, máy cày,
máy gặt... Bằng chính sách cởi mở để đưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
nông nghiệp. Nhưng trên thực tế, do cây cà phê không phù hợp với chất đất
và khí hậu đã bị chết đến 70% diện tích trồng, mặt khác do trình độ nhiều hộ
có hạn đã không biết sử dụng máy móc nên chẳng được bao lâu máy hỏng,
làm ăn thua lỗ, hết thời hạn không trả được nợ Ngân hàng, ngân sách cũng
không trả lãi, dẫn đến Ngân hàng là người gánh hậu quả.
Đây là vấn đề nan giải do lực lượng sản xuất còn bất cập so nhu cầu sản
xuất hàng hoá trên quy mô lớn, sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất
nhỏ, phân tán, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, đã làm
ảnh hưởng đến việc đầu tư vốn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Việc đầu tư vốn phần nào còn mang tính chắp vá, dàn trải theo diện
rộng, đầu tư theo chiều sâu chưa nhiều, tính khả thi của một số dự án vay vốn
chưa cao.
Trình độ dân trí có hạn, nên khi vay vốn Ngân hàng với số lượng lớn để
đầu tư trung hạn như trồng rừng, trồng cây ăn quả... chỉ quen làm theo kinh
nghiệm nhà nông thì khi phải lập một dự án sản xuất kinh doanh lại không có
khả năng làm được. Do vậy nhiều khi nhu cầu vốn rất cần, song lại ngại phiền
hà, không làm được dự án, đây cũng là trở lại cho việc đẩy mạnh đầu tư tín
dụng.
Khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp
trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chủ yếu là về cơ chế lãi suất. ở mọi thời điểm,
bao giờ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng có lãi suất huy động cao hơn lãi
suất cho vay thấp hơn so với Ngân hàng Nông nghiệp, chính vì vậy đã ảnh
hưởng không nhỏ tới kết quả huy động vốn cũng như việc mở rộng đầu tư cho
vay, nhất là đối với các dự án có tính chiều sâu, cần khối lượng vốn lớn, thời
hạn dài.
Đối với các ngành pháp luật chưa đồng bộ, chưa cương quyết cùng với
Ngân hàng để phát mại tài sản khi khách hàng làm ăn thua lỗ do chủ quan gây
ra không trả được nợ, các hồ sơ khi chuyển sang toà thụ lý và giải quyết phải
mất thời gian khá dài, tốn kém chi phí.
* Nguyên nhân tồn tại:
- Do điều kiện của một Ngân hàng miền núi chưa thực sự theo kịp với
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và yêu cầu đổi mới
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng.
- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, chưa
ngang tâm với việc quản lý một khối lượng vốn lớn trên địa bàn rộng, đường
sá đi lại khó khăn, với số lượng hộ sản xuất quá lớn. Do vậy việc kiểm tra
thẩm định dự án cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ, thu lãi không được kịp
thời, do vậy không phát hiện được sớm những món vay có tỷ lệ rủi ro cao làm
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng và với việc tập trung nguồn
vốn. Điều này cũng dễ nảy sinh tư tưởng hạn chế cho vay cho các hộ sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, đường sá đi
lại chưa thuận tiện, các hộ nông dân còn thiếu nhiều thông tin cần thiết về giá
cả và thị trường tiêu thụ, dẫn đến thị trường tiêu thụ của người sản xuất còn
hạn hẹp và không ổn định.
- Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn từ ngân sách quốc gia và nguồn
nguồn ưu đãi khác tập trung đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông
thôn, qua các định chế tài chính khác như Ngân hàng Phục vụ người nghèo,
Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi
trọc... cũng làm hạn chế đến việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp. Cũng do có nhiều ưu đãi này làm cho một số hộ nông dân có tư tưởng
ỷ nại vào Nhà nước, không chủ động xây dựng các phương án sản xuất kinh
doanh có lãi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi.
- Đối với các cấp, các ngành ở địa phương, chỉ chú trọng đến việc đầu
tư vốn phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, nhưng lại
không quan tâm đến chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng.Vì vậy khi hộ
sản xuất sử dụng vốn vay không có khả năng trả được nợ thì buộc Ngân hàng
phải xử lý nợ vay để đảm bảo thu hồi vốn. Nhưng việc làm này của Ngân
hàng lại không được các cấp, các ngành hữu quan đồng tình ủng hộ, làm ảnh
hưởng tới công tác thu nợ của Ngân hàng để đầu tư quay vòng đồng vốn, từ
đó làm hạn chế rất nhiều đến những hộ vay vốn nhưng tài sản quá ít.
- Ngoài ra còn một số nguyên nhân tồn tại khác phải bàn đến, đó là cơ
chế lãi suất còn bất cập, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra còn thấp so chi
phí một món vay quá cao. Cụ thể đối với hộ sản xuất ở cách xa nhau thường
hay vay lẻ tẻ, mỗi lần đến kiểm tra, giải quyết cho hộ vay vốn phải mất nhiều
thời gian của cán bộ tín dụng và chi phí công tác, nhiều khi hạch toán số lãi
thu được và chi phí bỏ ra Ngân hàng phải chịu lỗ. Nhưng so với Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển trên địa bàn thì cao hơn, do vậy lợi thế trong kinh doanh
của Ngân hàng Nông nghiệp phải chịu nhiều thiệt thòi.
- Công tác dịch vụ khuyến nông chưa mang lại hiệu quả cao, dẫn đến
tính khả thi của một số dự án đầu tư thấp. Cụ thể đối với một số cây trồng, vật
nuôi điển hình như: dự án trồng cây cà phê, cây cải dầu, dự án nuôi dê bách
thảo...
Trên đây là những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới công tác đầu
tư tín dụng hộ sản xuất chưa được khai thác triệt để khả năng tiềm tàng sẵn có
trong nông nghiệp. Vì vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh, Hội sở Ngân
hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang đã vượt khó đi lên, ngày càng thâm nhập
vào môi trường nông thôn. Từ những kinh nghiệm đến việc đầu tư đã hạn chế
được rủi ro và chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. Trong những
năm qua Hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang đã đạt được những thành tựu
nhất định góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nền sản xuất phát triển, tạo
việc làm cho các hộ sản xuất, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nhưng trong quá
trình cho vay đối với các hộ ở vùng sâu, vùng xa, Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp Hà Giang cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục
tồn tại, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả vốn vay, đảm bảo an toàn tài
sản của Nhà nước, tăng thu nhập cho Ngân hàng, đồng thời phục vụ tốt nhất,
đắc lực nhất cho sự nghiệp xây dựng nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn,
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình kinh tế của tỉnh Đảng
bộ về phát triển nông nghiệp - nông thôn.
Chương III
một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang
3.1- Những Giải pháp đối với hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Giang.
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân
hàng Nông nghiệp Hà Giang.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và
Nghị quyết của đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIII, phải tiếp tục xoá
đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm giảm bớt lao động dư thừa trong xã hội,
các doanh nghiệp phải là những đơn vị tiên phong trong công cuộc đó. Phải
vươn lên cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, khai thác mọi tiềm năng sẵn có của
tỉnh, mang lại nguồn vốn ổn định lâu dài. Phục vụ thúc đẩy sản xuất tạo đã
cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện chủ trương đó
NHNo & PTNT nói chung và Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp nói riển đã đề
ra một số định hướng về nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở NHNo &
PTNT trong thời gian tới.
- Tập trung đẩy mạnh chiến lược huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn
huy động tại địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các ngân hàng cấp trên phấn
đấu mức huy động tại địa phương tăng 25%, so với năm 2001.
- Đẩy mạnh cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế trong tỉnh
theo các chương trình dự án có hiệu quả và có khả năng thu hồi vốn. Chú
trọng đầu tư vào cho vay kinh tế nông nghiệp để chuyển dịch cơ cấu cây trồng
vật nuôi, đẩy mạnh cho vay chế biến nông lâm sản, tiêu thụ sản phẩm của
nông dân. Đảm bảo tốc độ tăng trưởng dư nợ tăng 26%. Tập trung xử lý nợ
quá hạn, lãi tồn đọng, phấn đấu nợ quá hạn giảm xuống mức thấp nhất hoặc
không có nợ quá hạn.
-Thông qua quan hệ vay - trả của khách hàng, thực hiện nghiêm túc
việc phân loại, sàng lọc khách hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu đối
với khách hàng đủ điều kiện, làm ăn có hiệu quả, sòng phẳng trong thanh
toán. Kiên quyết hạn chế hoặc ngừng cấp tín dụng đối với những khách hàng
làm ăn thua lỗ triền miên, không hiệu quả, không đủ điều kiện vay vốn,do đó
phải tuân thủ nghiêm túc quy trình cho vay, chấp hành tốt các quy định, thể
thể, chế độ của ngành.
- Có hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện thực tế tại địa bàn,
phải làm sao vẫn tăng trưởng được nguồn vốn vừa đảm bảo tình hình tài chính
của đơn vị, tích cực tuyên truyền, vận động khách hàng trên địa bàn mở tài
khoản tiền gửi cá nhân, áp dụng rộng rãi hình thức mở và sử dụng tài khoản
cá nhân.
Đồng thời đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm
soát đối với các chi nhánh cơ sở và sử lý nghiêm các vi phạm theo chế độ qui
định để đưa hoạt động ngân hàng an toàn và hiệu quả.
- Tiếp tục mở rộng thêm mạng lưới hoạt động ngân hàng đến từng thôn
bản để mọi người dân tiếp cận được với ngân hàng coi ngân hàng là người
bạn đồng hành trong sản xuất, mở rộng đầu tư vốn cho những hộ có nhu cầu
phát triển trang trại vừa và nhỏ.
Mở rộng cho vay qua lương ( hình thức cho vay đảm bảo tiền vay bằng
lương ) không cần tài sản thế chấp, hình thức này là một trong những biện
pháp tăng trưởng dư nợ tín dụng, ít rủi do, chất lượng tín dụng cao. Mặt khác
giúp cho cán bộ công nhân viên có thêm nguồn vốn để phát triển thêm kinh tế
phụ gia đình, nâng cao thu nhập cho những hộ làm công ăn lương. Đồng thời
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng đôị ngũ cán bộ cả về năng lực, phẩm
chất. Thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chống
mọi biểu hiện cơ hội, lợi dụng, tiêu cực gây mất uy tín ngành, làm thất thoát
tài sản Nhà nước.
3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Hà Giang
3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng có vai trò quyết định đến sự
sống còn của các doanh nghiệp đặc biệt là hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ.
Do dó để ngày càng có nhiều khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình, đặc
biệt là các khách hàng lớn, có uy tín và triển vọng, đòi hỏi Hội sở Ngân hàng
Hà Giang phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng đúng đắn và có
hiệu quả, được thể hiện:
- Hội sở có chính sách rõ ràng đối với các đối tượng khách hàng khác
như quan tâm và ưu đãi đối với những khách hàng tốt: có uy tín đối với Hội
sở, có khả năng tài chính lành mạnh, có triển vọng trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh, có đầy đủ giá trị đảm bảo cho khoản vay; hạn chế đối với
những khách hàng xấu như có uy tín thấp, có khả năng tài chính yếu.
- Hội sở cần thu thập và phân tích các thông tin về khách hàng tiềm
năng, qua đó giúp cho Hội sở có thể giảm bớt thời gian, chi phí trong việc
xem xét cho vay đối với khách hàng, mặt khác còn giúp Hội sở xây dựng kế
hoạch để lội khéo thu hút khách hàng có triển vọng tốt.
- Hội sở cần đa dạng hoá các hoạt động mở rộng số lượng và nâng cao
chất lượng các dịch vụ cung ứng để tạo ra mối quan hệ nhiều mặt chặt chẽ đối
với các khách hàng, qua đó giúp cho Hội sở có điều kiện để thu thập thông tin
về khách hàng, thực hiện việc giám sát các hoạt động cuả khách hàng và ngăn
ngừa bớt các rỉu ro tín dụng.
3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong
hoạt động tín dụng
Việc chuyển mạnh ngân hàng sang kinh doanh theo cơ chế mới đặt ra
một vấn đề lớn cho các Ngân hàng thương mại đó là: các ngân hàng không
thể ngồi yên một chỗ để chờ khách hàng đến đặt quan hệ mà phải chuyển từ
vị trí bị động sang chủ động ở đây được xét ở hai quá trình; lựa chọn khách
hàng và giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Lâu nay trong thực tế thường xuất hiện tình trạng là khách hàng lựa
chọn ngân hàng, ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng với hầu hết khách
hàng đến với mình. Thực ra ở đây phải là quan hệ hai chiều : khách hàng lựa
chọn ngân hàng và ngân hàng cũng lựa phải chọn khách hàng. Điều này rất
quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra được
thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng cuả
ngân hàng.
Khi lựa chọn khách hàng, Hội sở cần chú ý chọn những khách hàng
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả
nợ đúng hạn. Việc lựa chọn khách hàng cần phải được thực hiện một cách chủ
động ( Nghĩa là nếu khách hàng nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Hội
sở có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với khách hàng đó ) chứ không
phải bị động, cứ ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, khi đó mới xem xét
cho vay hay không. Có một vấn đễ cần lưu ý là việc lựa chọn khách hàng
không chỉ áp dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà áp
dụng cho mọi thành phần kinh tế, nghĩa là đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả,
trả nợ sòng phẳng.
Trong quá trình cho vay, Hội sở phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí
chủ động, nghĩa là phải giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh của
khách hàng, từ đó mới có thể phát hiện kịp thời những tình huống có vấn đề
và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó có thế giúp cho Hội sở đề ra biện pháp
khắc phục hoặc có biện pháp bảo toàn vốn cho vay của mình. Ví dụ như khi
theo dõi một khách hàng có một dự án sản xuất nhỏ nếu thấy trong quá trình
hoạt động có sự giảm sút nhưng mới ở bước đầu chưa thu đựơc hiệu quả (do
máy móc thiết bị còn lạc hậu) hoặc bước đầu đi vào sản xuất không bình
thường có vấn đề, nó đòi hỏi Hội sở phải có biện pháp tác động kịp thời .
Tránh tình trạng biết khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích dẫn đến kinh
doanh không có hiệu quả và không có khả năng trả được nợ đúng hạn, mà Hội
sở lại cho vay thêm nợ mới để trả nợ cũ và cứ thế thì sẽ dẫn đến nguy cơ mất
vốn của Hội sở. ở đây vai trò của Hội sở ngân hàng phải chủ động hơn, vì vốn
mà Hội sở cho vay sẽ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của khách
hàng, do đó Hội sở cần phải sâu sát hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng vay vốn.
3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích
tín dụng.
Khi xem xét một đơn xin vay, điều chủ yếu cần cân nhắc đối với cán bộ
tín dụng là liệu người vay có đủ khả năng và sẵn lòng trả nợ không ? Dù cho
vay hộ sản xuất hay cho vay thương mại, tiêu dùng thì vẫn phải đánh giá bốn
yếu tố chính: tư cách, mục đích khoản vay, khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo
cho khoản vay.
- Để tiện theo dõi, người ta chia làm hai nhóm dữ liệu cần phân tích
trước khi cho vay đưa ra quyết định cho vay:
- Những dữ liệu hữu hình (những mặt định lượng trong phân tích tín
dụng): như phan tích các tỷ lệ tài chính, dự toán chi tiêu tiền mặt, phân tích
điểm hoà vốn, phân tích độ nhạy cảm. Ta có thể coi việc phân tích mặt định
lượng này là khoa học cho vay.
- Những dữ kiện vô hình ( những mặt định tính trong phân tích tín
dụng) Như đánh giá tư cách người vay, khả năng quản lý, phân tích ngành,
nền kinh tế. Ta có thể coi mặt định tính này là " nghệ thuật cho vay ".
Qua thực tế hiện nay, việc phân tích một dự án xin vay từ nững dữ kiện
hữu hình có một vị trí quan trọng trong khi ra quyết định cho vay. Nhưng nếu
như cán bộ tín dụng cũng dành thời gian và sức lực để kiểm tra những khía
cạnh vô hình mang tính khách quan hơn của người xin vay nhằm xác định
một cách chủ quan khả năng thành công của doanh nghiệp. Đó chính là "
nghệ thuật " cho vay, đây là điều đang bị coi nhẹ và ít được thực hiện nhất
trong thực tế cho vay hiện nay.
Sau khi thực hiện song một loạt các công việc khoa học cho vay, cán bộ
tín dụng phải sẵn sàng và đủ khả năng tách khỏi môi trường quen thuộc của
mình để đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay. Mục đích của việc
điều tra này là nhằm khả năng sinh lời nói chung ngân hàng và năng lực lãnh
đạo của Ban giám đốc, về cơ bản thì đây chính là nghệ thuật cho vay.
3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro.
Trong cơ chế thị trường, rủi ro tín dụng đối với NHTM mang tính tất
yếu và phổ biến. Các chuyên gia ngân hàng đã đề cập rất nhiều đến vần đề rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng dưới nhiều khía cạnh khác nhau, có những rủi
ro khách quan, có những rủi ro chủ quan, có những rủi ro do cơ chế, đạo đức
của cán bộ ngân hàng... ở đây, em xin đề cập đến vần đề rủi ro thuộc phía cho
vay đối với hộ sản xuất và làm thế nào để đảm bảo an toàn trong kinh doanh
ngân hàng khi rủi ro sảy ra.
Thực trạng hiện nay, khi hộ sản xuất gặp rủi ro, do thiên tai bất khả
kháng dẫn đến tình trạng không có khả năng trả nợ ngân hàng, tuỳ theo tính
chất của từng loại rủi ro, NHTM có thể sử dụng các biện pháp khác nhau như
cho gia hạn, bán tài sản thế chấp, khoanh nợ..., và cuối cùng là bù đắp bằng
quỹ " bù đắp rủi ro " theo luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phải
dự phòng rủi ro và khoản dự phòng rủi ro phải được hạch toán vào chi phí
(Điều 82- dự phòng rủi ro tín dụng). Đồng thời tại điều 87- các quỹ qui định :
hàng năm tổ chức tín dụng phải trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì
quỹ dự phòng bổ sung vốn đièu lệ và các quỹ khác theo qui định của pháp
luật. Nhưng quỹ bù đắp rủi ro không phải luôn luôn và bao giờ cũng là "phao
cứu sinh" của các NHTM, mà quỹ này cũng có những hạn chế nhất định:
+ Quy mô của quỹ nhỏ cho nên không có khả năng bù đắp khi có rủi ro
lớn.
+ Quỹ này được hình thành từ lợi nhuận của các NHTM nên không
phát huy được tính tương trợ giữa các NHTM không cùng một hệ thống.
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng thì việc hình thành quỹ bù
đắp rủi ro là cần thiết và cấp bách. Bên cạnh đó để khắc phục hạn chế của quỹ
này, các NHTM có thể tham gia bảo hiểm đối với các khoản cho vay ( gọi là
bảo hiểm cho vay). Bảo hiểm cho vay có ưu điểm rất lớn:
+ Bảo hiểm cho vay có nhiệm vụ bồi thường cho NHTM khi có rủi ro
xảy ra theo quy định, ngoài ra bảo hiểm cho vay còn có nhiệm vụ phối hợp
với các ngành hữu quan tổ chức các biện pháp để đề phòng, ngăn chặn, hạn
chế các tổn thất xảy ra đảm bảo an toàn cho công ty bảo hiểm cũng như cho
các NHTM.
+ Bảo hiểm cho vay thu hút được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm
nên có khả năng thnh toán nhanh, kịp thời, bù đắp khi có tổn thất lớn, đồng
phát huy được tính công đồng, tính tương trợ giưã các NHTM trong toàn
ngành ngân hàng.
Qua thực tế ta thấy rằng, giải pháp tham gia bảo hiẻm rủi ro tín dụng là
một giải pháp mang tính nguyên tắc cần phải có trong kinh doanh tín dụng.
Nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay, hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa
được hình thành nên không thể chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm,
kể cả trong trường hợp pháp sinh thêm chi phí. Để hạn chế rủi ro khi áp dụng
giải pháp này, NHNo & PTNT Hà Giang có thể cùng với các tổ chức tín dụng
khác lập ra công ty bảo hiểm trực thuộc ngành ngân hàng, hoạt động trong
môi trường đầu tư của các tổ chức tín dụng, phục vụ trực tiếp cho kinh doanh
tín dụng. Khi có rủi ro, công ty có thể đủ sức gánh chịu một phần trách nhiệm
của mình, mà không gây ảnh hưởng đến mặt bằng kinh doanh của tổ chức tín
dụng.
3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ.
Con người là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển hay suy
thoá của nền kinh tế- xã hội và kể cả về chất lượng dịch vụ, hiệu quả hoạt
động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Nghị quyết TW IV đặt trọng
tâm vào sự nghiệp đào tạo, giáo dục để có được đội ngũ con người " vừa
hồng, vừa chuyên", đáp ứng sự nghiệp HĐH, CNH đất nước. Để có đội ngũ
con người như vậy, trong công cuộc đổi mới của ngành ngân hàng, cán bộ
ngân hàng phải là những người có tư cách phảm chất chính trị vững vàng,
trung thành với lý tưởng cách mạng, có trình độ chuyên môn vững vàng,
trung thành với lý tưởng cách mạng, có trình dộ chuyên môn và năng lực thực
tiễn, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, gương mẫu trong đaọ đức, lối sống hay nói
cách khác đi " tài" và " đức " cùng tồn tại trong người cán bộ ngân hàng. Họ
phải là người am hiểu về kinh tế thị trường và hoạt động ngân hàng hướng về
thị trường, giàu kinh nghiệm thực tiễn, chịu khó học hỏi, nghiên cứu để tăng
cường khả năng dự báo phòng ngừa rủi ro. Tích cực học hỏi và nghiên cứu
pháp luật, qui định của Nhà nước và các lĩnh vực liên quan, rèn luyện bản lĩnh
thử thách, có đầy đủ kiến thức về tin học, ngoại ngữ để thực hiện nhanh chóng
công việc và chuẩn xác. Quan trọng hơn, đó là khả năng giao tiếp, ứng sử các
tình huống giao tiếp để từ đó nhận biết được sự trung thực, khách quan, đôi
lúc cũng phải là những nhà " thám tử" tinh nhuệ khi tiếp xúc với đối tượng
gian xảo, lừa đảo để bảo vệ tài sản của Nhà nước và của ngân hàng.
Để có được những con người như vậy, Hội sở cần phải có chiến lược
con người rõ ràng và năng động:
Thứ nhất, tiêu chuẩn hoá cán bộ, nhân viên ngân hàng, cụ thể về đạo
đức, tác phong, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cả về lý luận và thực tiẽn,
trình độ về chính trị, pháp luật, khả năng giao tiếp, quản lý điều hành... Ví dụ
như:
+ Cán bộ hoạch định chính sách: phải am hiểu về luật pháp, lý luận,
thực tế nghiệp vụ chuyên môn ngân hàng, phải có kiến thức tổng hợp tốt...
+ Giám đốc điều hành: phải am hiểu luật pháp, chế độ, có năng lực quy
tụ lực lượng để xử lý công việc mau chóng, chính xác, phải am hiểu về quy
trình nghiệp vụ, năng động, sáng tạo trong sử lý tình huống.
+ Nhân viên ngân hàng: tuỳ theo cụ thể công việc mà phân ra loại 1;
loại 2, loại 3,... có tiêu chuẩn cụ thể, gắn quyền lợi, trách nhiệm cho từng loại
nhân viên, hàng năm có thi nâng bậc lương nhân viên..
Thứ hai, phải thường xuyên đào tạo, đào tạo lại cán bộ nhân viên để họ
đảm đương tôt công việc, kết quả các kỳ thi kiểm tra trình độ cán bộ nhân
viên là cơ sở để tuyển dụng, đề bạt, phân công nhân viên cho phù hợp. Cần
phải coi trọng đào tạo về pháp luật, lối sống tiết kiệm, tính năng động trong
công việc.
Thứ ba, luôn luôn độngviên khuyến khích nhân viên, thông qua thưởng
phạt vật chất, bổ nhiệm, đề bạt, cố gắng tạo điều kiện làm việc thuận lợi nhất
giúp họ hoàn thành tốt công việc.
Để sử dụng cán bộ tín dụng có hiệu quả, Hội sở cần chuyên môn hoá
đối với từng cán bộ tín dụng.
Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thẻ hiểu biết khách hàng một
cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng
trong quá trình sắp xếp, phân công lại nhân viên cũng cần đặc biệt hạn chế.
Chỉ nên thay đổi cán bộ tín dụng khi có những vấn đề ảnh hưởng không tốt
đến quyền lợi của Hội sở. Vì trong các thông tin về khách hàng có những
thông tin không được lưu giữ bằng văn bản hay mọi phương tiện lưu tin nào
khác trong đó những thông tin " mắt thấy, tai nghe " từ thực tế cơ sở kinh
doanh của khách hàng đóng vai trò quan trọng, những thông tin được hình
thành bằng " linh cảm" và cả trực giác của cán bộ tín dụng trong quá trình tiếp
xúc, quan hệ với khách hàng. Khi bàn giao giữa cán bộ tín dụng, những thông
tin trên có thể bị lãng phí.
Việc chuyên môn hoá đối với từng cán bộ tín dụng vẫn đảm bảo được
khả năng đa dạng hoá đầu tư của Hội sở để tránh rủi ro, khắc phục mâu thuẫn
giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng và độ tin cậy của
các thông tin tín dụng tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ khách
hàng lâu dài. Đồng thời giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách
hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sủ
dụng tiền vay.
3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng.
Có thể nói rằng, cho đến nay trong suy nghĩ của một bộ phận dân cư
trong xã hội còn hiểu chưa đầy đủ về ngành ngân hàng. Đối với họ dù đã hội
đủ điều kiện vay vốn ngân hàng nhưng họ còn rất nhiều e ngại khi tiếp cận
vay vốn ngân hàng, do thông tin họ nhận thức rất hạn chế. Một phần của
nguyên nhân này là do ấn tượng về người cán bộ tín dụng thời bao cấp còn để
lại trong tâm trí họ: thái độ hách dịch, cửa quyền... và điều không thể phủ
nhận đó là tình trạng xuất hiện " cò tín dụng" do lợi dụng sự thiếu hiểu biết
của khách hàng vay vốn hoặc cũng có thể là do cán bộ tín dụng trực tiếp tham
gia.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được quyền lựa chọn ngân
hàng để giao dịch, do đó các NHTM cố gắng bằng nhiều biện pháp để thu hút
các khách hàng đến gửi, vay tiền và thực hiện cac dịch vụ ngân hàng khác. để
cạnh tranh với các NHTM khác, trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Hội sở NHNo &
PTNT Hà Giang sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trên báo, đài để
cho khách hàng hiểu rõ về mình là rất cần thiết.
Trên đây là những gỉai pháp thuộc về yếu tố chủ quan tức là bản thân
Hộ sở Ngân hàng Nông nghiệp phải cố gắng thực hiện, nếu yếu tố khách quan
không thuận lợi thì Hội sở sẽ không thực hiện tốt các biện pháp này. Vậy từ
phiá Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần có những định hướng và giải pháp
nào để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng nói chung, Hội sở NHNo & PTNT
Hà Giang nói riêng nâng cao được hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất.
3.2. Các giải pháp điều kiện
3.2.1. Từ Nhà nước
3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho
hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát triển nông
nghiệp nông thôn.
Môi trường pháp lý không đầy đủ là một cản trở lớn đến sự phát triển
các hoạt động kinh doanh của ngânn hàng nói chung và hoạt động đầu tư tín
dụng của ngân hàng thương mại đối với phát triển nông nghiệp nông thôn nói
riêng. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hầu hết các ngành trong nền kinh tế
quốc dân, chính vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế tạo ra
hành lang pháp lý yểm trợ cho hoạt động ngân hàng vừa là nhiệm vụ cấp bách
vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Nhà nước cần ban hành và dưa vào
thực tế các luật như: Luật thế chấp tài sản, Luật kiểm toán, Luật sở hữu... bên
cạnh Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng vừa mới đi vào
hoạt động, các luật này sẽ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các ngân
hàng, các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo được tính hiệu quả, an toàn cho
nguồn vốn đầu tư tín dụng của ngân hàng.
Ngoai ra để thực hiện quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo ra sự ổn định
tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cần phải hoạch định các chính sách quan trong
như: chính sách thuế, chính sách kinh tế vùng... chính sách xuất nhập khẩu...
những chính sách này khi đưa ra phải phù hợp với những diễn biến kinh tế
theo tín hiệu thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát
triển và kinh doanh có hiệu qủa, từ đó tăng thu nhập cho xã hội, tăng tích luỹ.
3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn.
Để thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn,
Nhà nước cần phải có chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, có
như vậy mới tạo điều kiện cho nhu cầu sản xuất phát triển, áp dụng công nghệ
tiên tiến, sử dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất để tạo ra môi trường
sản xuất hàng hoá thực sự trong nông thôn.
Cần có chính sách trợ giá đối với sản xuất nông nghiệp, chính sách bảo
hiểm và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ sản xuất. Có thể tìm cách xác định thị
trường tiêu thụ ở tầm vĩ mô, tránh sự thua lỗ và ứ đọng sản phẩm không đáng
có của nông dân, có chính sách tài trợ cho ngành nông nghiệp khi thiên tai
mất mùa.
Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho
các hộ sản xuất để tạo điều kiện cho họ làm thủ tục vay vốn Ngân hàng, phát
triển sản xuất như về thủ tục hồ sơ vay: trường hợp hộ nông dân chưa được
cấp quyền sử dụng đất thì giấy chứng nhận do uỷ ban nhân dân xã các cấp xác
nhận đất không tranh chấp có giá trị bảo đảm, hộ nông dân được vay ngân
hàng.
3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống
NHTM góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Để đảm bảo cho các NHTM phát huy tính chủ động sáng tạo trong quá
trình kinh doanh, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chính sách tiền tệ, hỗ trợ
đắc lực cho thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước mà Đại hội VIII đề ra,
Nhà nước cần chú trọng đến vấn đề:
- Trước hết các NHTM là công cụ để thực hiện chính tiền tệ của Nhà
nước nhằm ổn địng kinh tế vĩ mô, đồng thời cũng là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Do vậy để tạo điều kiện cho các NHTM
kinh doanh hiệu quả cần phải tạo lập một cơ ché riêng áp dụng cho chúng,
ngoài những cơ chế áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Các
NHTM cần được bình đẳng như các doanh nghiệp khác trong hoạt động kinh
doanh: được quyền lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện cho vay, bảo lãnh,
tránh sức ép từ nhiều phái dưới nhiều hình thức, được thành lập quỹ dự phòng
tổn thất để bù đắp rủi ro, tạo điều kiện an toàn trong kinh doanh. Ngoài ra,
hoạt động tín dụng với chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng đồng
tiền do đó cần ngăn ngừa các hiện tượng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn
nhau giưã các doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hoá
và xây dựng cơ bản nhằm thiết lập một trật tự và lành mạnh hoá trong lưu
thông tiền tệ.
- Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện để hoạt động tín dụng của
các NHTM được thực hiện theo cơ ché thị trường, đảm bảo cạnh tranh lành
mạnh giữa các tổ chức tín dụng.
3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm
nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hoạt động tiền tệ và ngân hàng là một lĩnh vực đặc thù, luôn tiềm ẩn
nguy cơ rủi ro cao từ phiá khách hàng dẫn đến rủi ro của tổ chức tín dụng,
nhất là hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
đang ở giai đoạn đầu, có nhiều vần đề mới phát sinh. Tổ chức tín dụng là
người gánh chịu rủi ro cho xã hội, song một mình tổ chức tín dụng không thể
tự sử lý được tất cả các vụ việc, rất cần có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan
bảo vệ pháp luật. Vấn đề này vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu quan trọng
trong việc bảo đảm hoạt động ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Có sự hỗ
trợ tốt của các cơ quan hữu quan thì mọi việc đều có thể sử lý một cách nhanh
chóng và phù hợp với thựctiễn. Sự phối hợp và hỗ trợ này, với mục tiêu trước
hết là phòng ngừa và ngăn chặn vi phạm, có thể giảm được các vụ việc phải
xử lý hình sự và thứ hai là giải toả " nợ đóng băng" thu hồi được vốn vay thì
ngân hàng sẽ lại có được nguồn vốn để tiếp tục cho vay đối với nền kinh tế.
3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN
3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay.
Để hoàn thiện cơ chế tín dụng hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên
ban hành một số ít văn bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất
cả các qui định về loại hình hoạt động tín dụng, thay thế toàn bộ văn bản đã
ban hành trước đây, không nên bổ sung sửa chữa văn bản cũ cho dù nó có còn
nhiều phù hợp thì sẽ được chuyển nguyên xi sang văn bản mới, có vậy mới dễ
và tiện cho người thực hiện. Các văn bản qui định nên ở khung pháp lý chung,
không nên quá chi tiết để dẫn đến việc can thiệp sâu vào hoạt động của các tổ
chức tín dụng và vừa khó thực hiện. Về vấn đề này, thời gian qua chúng tá đã
có những chuyển biến tích cực trong việc trong việc nới lỏng chính sách lãi
suất, từ chỗ quy định cụ thể mức lãi suất cho từng loại ( theo thời gian và đối
tượng xin vay...) tiến tới quy định khung lãi suất và hiện nay đang áp dụng
quy định về "trần" lãi suất của Thống đốc. Tuy nhiên việc thực hiện theo
"trần" lãi suất đã và đang gây trở ngại, bỏ sót việc đưa vốn tới các dự án có
mức rủi ro cao nhưng lại nhiều khả năng sinh lời lớn, lâu dài ( như một số dự
án đầu tư vào nông nghiệp, nuôi trồng, chế biến nông sản phẩm...). Ngược lại
không ít dự án, phương án có mức rủi ro thấp, sinh lời không cao, nhưng lại
tạo được nhiều việc làm... lại khó tiếp cận được với ngân hàng (dự án trồng
rừng, thuỷ nông, đường xá, gia công hàng xuất khẩu...). Trần lãi suất không
phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế, chưa bao quát đủ mức
rủi ro tiền tệ thông thường. Trần lãi suất gò bó tính chủ động linh hoạt trong
kinh doanh của từng NHTM, khó có thể giải quyết hài hoà cả ba lợi ích
thường xuyên mâu thuẫn nhau: giữa người vay, trung gian ngân hàng và
người đầu tư. Ngoài ra, trần lãi suất cố định tạo ra nguy cơ rủi ro tín dụng khi
có tỷ giá biến động do nó không cho ngân hàng khả năng linh hoạt hoá lãi
suất để giảm thiểu thua thiệt do tỷ giá biến động gây ra. Do đó hướng giải
quyết ở đây là, không chỉ dừng lại ở việc áp dụng trần lãi suất mà tiến tới
chúng ta cần tiến hành thả nổi lãi suất. Tất nhiên đây là một vấn đề không đơn
giản, nó chỉ có thể thực hiện khi nền kinh tế đủ mạnh và ổn định và các chính
sách, chế độ của ngành ngân hàng và các ngành liên quan được điều chỉnh
cho phù hợp, đồng bộ.
Về cơ chế cho vay vốn chỉ nên có hai thể lệ tín dụng ngăn hạn và thể lệ
tín dụng trung và dài hạn. Hai văn bản này phải đạt được yêu cầu là khung
quy định chung cho tất cả các loại hình cấp tín dụng cả bằng đồng Việt Nam
và ngoại tệ như cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê
tài chính, hợp vốn và các hình thức khác, văn bản này bao gồm cả những quy
định riêng cho loại hình tín dụng ưu đãi; trong hai thể lệ tín dụng này phải có
quy định mở cho các tổ chức tín dụng có điều kiện nghiên cứu phát triển thêm
nghiều sản phẩm mới trong hoạt động tín dụng ngân hàng và trách nhiệm của
các tổ chức tín dụng phải báo cáo xin ý kiến Ngân hàng Nhà nước về phát
triển sản phẩm mới, cũng như quy trình nghiệp vụ của tổ chức tín dụng mình
cho loại sản phẩm này, thể lệ tín dụng mới phải thể hiện rõ được quy trình
kiểm tra, kiểm soat, trách nhiệm dân sự và sử lý vi phạm hợp dồng theo pháp
luật.
3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng.
Như đã phân tích trong phần các giải pháp từ phiá NHNo & PTNT Hà
Giang, việc lập hàng rào bảo hộ cho hoạt động tín dụng nói riêng, kinh doanh
nói chung của các NHTM bên cạnh việc thiết lập quỹ dự phòng rủi ro thì các
NHTM cũng nên tham gia bảo hiểm tín dụng. Hiện nay, quy chế về trích lập
và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ
chuức tín dụng đã có văn bản hướng dẫn là Quyết định 48/1999/QĐ-NHNN5
ngày 08/02/1999, nhưng tham gia bảo hiểm là một vấn đề hết sức mới mẻ đối
với chúng ta. Vậy tham gia bảo hiểm tín dụng như thế nao?
ở một số nước đã phát triển như Pháp, Thuỵ Điển, Mỹ... tổ chức bảo
hiểm tín dụng theo hai phương thức:
Một là: Thành lập công ty bảo hiểm trực thuộc ngành ngân hàng.
Việc thành lập công ty bảo hiểm tương tự như việc thành lập doanh
nghiệp. Vốn pháp định của công ty này có thể do NSNN cấp hoặc có thể do
các cổ đông đóng góp. Thông thường ở các nước, vốn pháp định của công ty
này do các cổ đông đóng góp, mà các cổ đông phần lớn là là NHTM. Hoạt
động của công ty này chỉ kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm đối với hoạt động
ngân hàng ( baỏ hiểm đối với tiền gửi và tiền vay)
Hai là: Tham gia bảo hiểm tín dụng tại các công ty bảo hiểm độc lập,
có thể là công ty bảo hiểm quốc doanh hoặc là công ty bảo hiểm ngoài quốc
doanh.
Các công ty bảo hiểm này hoạt động bảo hiểm trên rất nhiều lĩnh vực,
cả bảo hiểm tài sản, bảo hiểm thân thể, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, với các
bảo hiểm rất phong phú.
Thực tế ở Việt nam hiện nay hoạt động bảo hiểm đang phát triển mạnh,
nhưng các loại hình bảo hiểm còn quá ít và các nghiệp vụ bảo hiểm vẫn còn
trong phạm vị hạn hẹp cho nên phương thức bảo hiểm thứ hai chưa phù hợp
với điều kiện ở Việt Nam hiện nay.
Phương thức bảo hiểm thứ nhất sẽ phù hợp hơn trong điều kiện ở Việt
Nam hiện nay, với lý do: công ty bảo hiểm này hoạt động dưới sự điều tiết,
can thiệp của NHNN ( chẳng hạn bắt buộc các NHTM phải tham gia bảo
hiểm; trợ giúp khi cần thiết...) nên phí bảo hiểm rẻ hơn so với phương thức
thứ hai. Đồng thời phương thức bảo hiểm thứ nhất sẽ phát huy được tính cộng
đồng, tính tương trợ giữa các NHTM, các tổ chức tín dụng, góp phần đảm bảo
an toàn trong toàn hệ thống ngân hàng, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất
nước.
3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các
tổ chức tín dụng.
Trong mọi thời kỳ, Ngân hàng Nhà nuớc có nhiệm vụ quản lý, giám sát
hoạt động tín dụng của các NHTM, lành mạnh hoá môi trường hoạt động tín
dụng và có những hỗ trợ cần thiết. Trong thực tế thì thanh tra ngân hàng thời
gian qua chỉ xuất hiện khi " sự đã rồi", chỉ có tác dụng kiểm tra tại chỗ nhằm
giảm bớt các tổn thất chứ không " giám sát từ xã" nhằm ngăn ngừa các tổn
thất.
Để tăng cường hiệu quả hoạt động thanh tra thời gian tới cần:
-Phân công, sắp xếp lại hoạt động của ác cơ quan và cán bộ thanh tra,
tránh phân tán, chồng chéo và kém hiẹu quả. Cụ thể: Vụ các định chế tài
chính và Vụ quản lý ngoại hối của NHNNTW cần thống nhất với nhau trong
việc kiểm soát qui chế quản lý các hoạt động ngoại hối, cũng như cấp giấy
phép giao dịch thanh toán quốc tế. Đồng thời thanh tra và phòng quản lý các
tổ chức tín dụng của các chi nhánh NHNN địa phương cũng cần phối hợp chặt
chẽ, tổng hợp ttin của NHTM cơ sở trên địa bàn lên mạng máy tính nhằm có
thẻ thực hiện được chức năng của hai tổ chức mà không bị chồng chéo.
- Chỉ đạo các NHTM hoàn thiện một số tiêu chuẩn nhất định tạo điều
kiện giám sát từ xa có hiệu quả, cụ thể: yêu cầu các NHTM thực hiện nghiêm
chỉnh chế độ thông tin báo cáo, yêu cầu các NHTM báo cáo các chỉ tiêu thống
kê ngoài cân đối và các cam kết ngoại bảng, bắt buộc các NHTM phải hoạt
động trên cơ sở số vốn góp đầy đủ theo quy định, phải có hệ thống kiểm soát
nội bộ...
- Thường xuyên phân tích, nhận định tình hình, đặc biệt khi trong nước
và khu vực có những biến động kinh tế tài chính lớn, nhằm thực hiện thanh
tra đối với các NHTM thuộc diện đáng nghi ngờ do chịu những ảnh hưởng bất
lơị.
- Đối với việc giám sát hoạt độngcủa các NHTM cần ban hành quy chế
giám sát về các mặt: tình hình chấp hành pháp luật ngân hàng, tình hình chất
lượng tài sản có sự phù hợp về cơ cấu tài sản Có và tài sản Nợ, tình hình khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời, khả năng sinh lời.
- Cần chú trọng giám sát mức tăng trưởng của dư nợ ( dư nợ phân theo
kỳ hạn, tiền tệ, theo ngành, theo thành phần kinh tế ...), tỷ lệ cho vay thị
trường I ( cho vay khách hàng ) và thị trường II ( cho vay các tổ chức tín
dụng), tỷ lệ các loại nợ có vấn đề, bảng phân loại nợ hàng kỳ, mức độ tổn thát
và khả năng bù đắp tổn thát ( bằng các quỹ hiện hành, đặc biệt là quỹ dự
phòng rủi ro tín dụng).
3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả.
Có thể nói, thông tin do Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (
CIC) cung cấp thời gian qua là quá nghèo nàn so với nhu cầu thông tin nhằm
quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM Hà Giang, chưa kể
các thông tin này còn thiếu tính kịp thời và đa dạng. Đó là do: một mặt, quan
hệ kinh doanh ngân hàng- khách hàng không khuyến khích ngân hàng tiết lộ
với các cơ quan Nhà nước cùng như rộng rãi giới kinh doanh về tình hình dư
nợ, cũng như các khoản nợ có vấn đề của khách hàng của mình, do vậy mà
các ngân hàng khá dè dặt trong việc đăng ký trở thành thành viên của CIC
cũng như cung câp thôngtin đầy đủ cho CIC; mặt khác, điều kiện hiện nay
chưa cho phép CIC có thể tạo thành một mạng thông tin hoàn hảo, cập nhật
được hệ thống chỉ tiêu về doanh nghiệp đầy đủ theo yêu cầu của các NHTM
trên địa bàn ( thiếu các điều kiện kỹ thuật, thiết bị, kinh phí, trình độ cán bộ...)
do vậy NHTM vẫn phải tìm kiếm thông tin bên ngoài nhằm đánh giá đúng
khách hàng của mình.
Thời gian tới, để CIC có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích cho các
NHTM trong các quan hệ tín dụng với khách hàng cần phải thực hiện một số
giải pháp sau:
- Trước hết, CIC cần phối hợp với các cơ quan chủ quản nhằm tư vấn,
thông báo các nhu cầu về vốn chưa được được đáp ứng, đồng thời đề xuất
hướng đáp ứng các nhu cầu này với các NHTM. Điều này sẽ khích thích đối
với các NHTM trong việc tham gia CIC.
- CIC nên cung cấp thông tin khi các tổ chức tín dụng thực sự cần thông
tin của CIC, nhằm phát huy được hiệu quả của nguồn thông tin mà CIC thu
thập được. Muốn vậy, yêu cầu CIC phải tăng cường đối tượng cũng như
pham vị thu thập thông tin.
- Cần hoàn hảo các điều kiện để CIC có thể hoạt động có hiệu quả như :
điều kiện về đội ngũ dân sự ( đào tạo lại, đặc biệt là kiến thức về công nghệ,
thông tin cũng như kiến thức ngân hàng hiện đaị...) điều kiện vật chất, thiết
bị, về mạng lưới hoạt động, phân phối và lưu trữ thông tin.
3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM.
Riêng đối với NHNo & PTNT hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp là ĩnh vực chứa dựng nhiều rủi ro nhất do thiên tại, dịch hoạ, sự biến
động của thị trường trong và ngoài nước, một bộ phận lớn khách hàng là các
hộ nông dân dàn trải trên địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, hầu hết
các món vay có giá trị nhỏ nên chi phí hoạt động ngân hàng lớn, những khó
khăn đem lại sự bất lợi cho các Ngân hàng Nông nghiệp trong cạnh tranh với
các NHTM khác. Nếu không tạo điều kiện cho Ngân hàng Nông nghiệp đủ
sức tồn tại và phát triển thì cái thiệt không chỉ cho bản than hệ thống Ngân
hàng Nông nghiệp mà vấn đề ở chỗ suy yếu của hệ thông Ngân hàng Nông
nghiệp sẽ khéo theo sự kém phát triển của kinh tế nông thôn, nơi có tiềm
năng lao động lớn, nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cung cấp
lương thực, nông sản phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu của cả nước. Vì vậy,
Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, về lãi suất đối với các tỉnh miền núi cần có chính sách lãi suất
hợp lý cho nông nghiệp, nông thôn, sao cho phù hợp với đặc thù của sản xuất
kinh doanh ở từng khu cực, môi trường kinh doanh của từng ngân hàng, quan
tâm hỗ trợ vốn khi cần thiết ; đề nghị ngân sách sớm bù đắp đối với những
loại vốn cho vay phục vụ các mục tiêu kinh tế theo chính sách... ưu tiên dành
các khoản vốn từ nước ngoài tài trợ cho nông nghiệp nông thôn qua Ngân
hàng Nông nghiệp để cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng phát triển nông
nhiệp và nông thôn.
Hai là; Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi
cho Ngân hàng nông nghiệp ở miền núi hoạt động có hiệu quả hơn vì môi
trờng nông nghiệp ở miền núi điều kiện kinh doanh còn khó khăn.
kết luận
Kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất trong giai đoạn
hiện nay đã và đang chứng minh được vai trò của nó không thể thiếu trong
nền kinh tế thị trường hiện đại, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh
những kết quả mà kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được còn đang phải đương
đầu với rất nhiều thử thách lớn .
Với những chủ trương, chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước
cùng với su hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá của nến kinh tế thế giới thì
kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là những đối tượng có nhiều dự án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả cao và kinh tế ngoài quốc doanh sẽ mau chóng trở thành
khách hàng chính của ngân hàng.
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp và nông
thôn. Để thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông - lâm -
ngư - diêm nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh. Có cơ cấu hợp
lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất
lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của
công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp - nông thôn nước ta có
những chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng
trưởng liên tục cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương
thực đã được giải quyết, từ chỗ thiếu ăn, nay đã có dư thừa xuất khẩu. Cơ cấu
ngành nghề đã hình thành tương đối rõ nét, các vùng chuyên canh lớn trồng
cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển
dịch theo xu thế chung của cả nước, cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi đựoc
quan tâm, đầu tư, cải tạo nâng cấp và xây dựng mới.
Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn
nước ta được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất,
tinh thần của nhiều vùng nông thôn được cải thiện, làm cho dân giàu, nước
mạnh.
Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp - nông thôn là do
có sự nỗ lực, phấn đấu, đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp. Trong đó có vai
trò to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang nói
riêng, trong việc đầu tư tín dụng, một sự cần thiết tất yếu khách quan và
không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp -
nông thôn.
Cho vay hộ sản xuất, một nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng Nông
nghiệp, và nhiệm vụ hàng đầu là cho vay hộ sản xuất - khách hàng tiềm năng
của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với công tác thực
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang” Trong đề tài nghiên cứu đã
tiễn, tôi đã chọn đề tài: Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở
thực hiện được một số nội dung cơ bản sau:
Đã khái quát hoá được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được
một số biên pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ
sản xuất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà
Giang.
Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay
hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tại cơ bản trong quá trình
cho vay hộ sản xuất tại Hội sở.
Trên cơ sở phân tích thực trạng luận văn đã đưa ra được hệ thống các
giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, với Bộ tài chính, Ngân
hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tỉnh Hà Giang, Ngân hàng
cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất, nhằm góp phần
nâng cao, hoàn thiện để mở rộng khối lượng tín dụng cũng như các vấn đề
cho vay hộ sản xuất và làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức tối thiểu.
danh mục tài liệu tham khảo
---------
1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, IX.
2. Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng.
3. Giáo trình lý thuyết tiền tệ- tín dụng- Trường đại học tài chính kế toán
4. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng nâng cao -Học viện ngân
hàng.
5. Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999.
6. Quyết định 324 - 284 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban
hành: Quy chế cho vay đối với khách hàng của tổ chức tín dụng.
7. Quyết định 180-06 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt
8. Nam ban hành: Quy định cho vay đối với khách hàng.
9. Các báo cáo, chứng từ, tài liệu của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà
Giang.
10. Các tài liệu, tập san, tạp chí Ngân hàng năm 2000, 2001.
11. Các tài liệu khác có liên quan.