Báo cáo tốt nghiệp

“Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang”

Mục lục

Lời nói đầu

Chương I

hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp

đối với sự phát triển của hộ sản xuất

1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất ................................................... 10

1.1.1. Vị trí: .......................................................................................... 10

1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. .............................................. 11

1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất. . 13

1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. ................................... 13

1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông

thôn. .................................................................................... 14

1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: ........................ 17

1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ. ........ 18

1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng. .................................................. 18

1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản

xuất ............................................................................................. 18

1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản

xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:........... 19

1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần

tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn: ..... 19

1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành

kinh tế: ................................................................................ 20

1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở

nông thôn: ........................................................................... 21

1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản

xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế: .............................. 21

1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng sản

xuất hàng hoá: ..................................................................... 22

1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội: ....... 22

1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn:............................................................... 23

1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với

hộ sản xuất : ........................................................................ 23

1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản

xuất : ................................................................................... 26

1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay ........................................ 27

Chương II

thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn tỉnh Hà Giang

2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động

kinh doanh của Ngân hàng ................................................................. 31

2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân

hàng: ........................................................................................... 31

2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội. ................................................... 31

2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng . ............................... 33

2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa

bàn thị xã Hà Giang: ................................................................... 33

2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang: ......... 35

2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở: ............... 35

2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT

Hà Giang ..................................................................................... 37

2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn:..................................................... 38

2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn: .................................................. 41

2.2.2.3. Hoạt động khác: ................................................................... 47

2.3. Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà

Giang ................................................................................................... 50

2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà

Giang: ......................................................................................... 50

2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp Hà Giang: ............................................................... 51

2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở

Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang: ............................................. 58

2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân: ................................................... 59

Chương III

một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại

Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

3.1- Những Giải pháp đối với Hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Hà Giang. ........................................................................... 64

3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp Hà Giang. ............................................................... 64

3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn Hà Giang ............................................................................. 66

3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả. ...... 66

3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong

hoạt động tín dụng ............................................................... 66

3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích

tín dụng. .............................................................................. 68

3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro. .................................... 69

3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. .................................... 71

3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương

tiện thông tin đại chúng. ...................................................... 73

3.2. Các giải pháp điều kiện ........................................................................ 74

3.2.1. Từ Nhà nước ............................................................................... 74

3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho

hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát

triển nông nghiệp nông thôn. ............................................... 74

3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông

nghiệp nông thôn. ................................................................ 75

3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống NHTM

góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. .............................. 75

3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm

nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. ...... 76

3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN ............................................................. 77

3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay. ..................................... 77

3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng. .................................. 78

3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các tổ

chức tín dụng....................................................................... 80

3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả. ............................... 81

3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM. ................................ 82

kết luận

Lời nói đầu

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi

mới về cơ chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện

được chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt

động của mình. Về mô hình tổ chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển

thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống các ngân hàng thương mại làm

nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy động, khai thác mọi

nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác

thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan

trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm

phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định.

Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo

của Đảng cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể,

đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản

xuất được mở rộng thu nhập của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích

luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành

ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các

ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế.

Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo

& PTNT nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền

kinh tế nói chung và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp

phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi

khu vực nông thôn.

Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân

ngày càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết

quả đó có sự đóng góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay

để cho vay", Ngân hàng Nông nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn

lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần khu vực nông

nghiệp - nông thôn.

Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách

hàng, đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển

kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực

dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công

nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực lao động trong nông

thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực nông thôn

hiện nay.

Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy

rõ sự cần thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh

tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản

xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt

khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm

vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thị trường tín dụng

nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh

doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm

nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát

triển nông thôn đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc

và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và

cách tháo gỡ là rất cần thiết.

Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực

tập nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát

cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -”

triển nông thôn Hà Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng

làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.

Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương.

Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự

phát triển của hộ sản xuất.

Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang.

Chương I

hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp

đối với sự phát triển của hộ sản xuất

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo lần thứ V đã đề ra là " Xoá bỏ triệt để quan liêu, bao cấp trong giá, lương,

tiền là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để

đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, ổn định và cải thiện một bước đời

sống nhân dân"

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải

triệt để thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế

quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế

thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xây dựng và phát triển

một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vốn ngân sách Nhà nước tập

trung đầu tư cho các mục tiêu lớn của Chính phủ như xây dựng cơ sở vật chất,

chi cho quốc phòng an ninh, văn hoá xã hội... Bản thân các thành phần kinh tế

trong điều kiện cơ chế mới có sự cạnh tranh cần vốn để phát triển mở rộng

sản xuất, đổi mới công nghệ, do đó nhu cầu về vốn là rất lớn, nhất là khi Nhà

nước cho phép các thành phần kinh tế được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn

khổ pháp luật dưới nhiều hình thức. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng

vốn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế như thế nào?. điều đó

có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác nhau thông qua nhiều nguồn như:

vốn tự có của các thành phần kinh tế, vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn liên

doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài... Nhưng trong đó có thể

nói nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng

nhất, vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh

nghiệp.

Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực

tín dụng - tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của

khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu,

thanh toán vốn giưã các thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng và

có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi họ rút vốn.

Khi nền kinh tế mở cửa các thành phần kinh tế được khuyến khích tự

do phát triển, kinh tế ngoài quốc doanh đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộn

nhịp, đa dạng và phong phú. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp thì kinh tế

ngoài quốc doanh bao gồm : Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ

sản xuất...

Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã mở rộng quan hệ

Quốc tế nhiều tổ chức Quốc tế tài trợ vốn, đầu tư vốn cho nông nghiệp, lâm

nghiệp nhiều nguồn vốn được hình thành. Song hiện nay nguồn vốn tín dụng

của Ngân hàng Nông nghiệp vẫn là người bạn đồng hành chủ yếu cuả các hộ

sản xuất.

1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất

1.1.1. Vị trí:

Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở

khu vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai

trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường

và phát triển kinh tế của đất nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp

hoá - hiện đại hoá, khi học vấn, kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong

tay nông dân, được bà con sử dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con

trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi xưởng máy mọc lên ở các làng mạc, thị

trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở

thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện mới ở các vùng nông thôn

thì lúc đó mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ

bản trên phạm vi cả nuớc”(1). Chính vì lẽ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn

mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị trí vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi

mới đất nước.

Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện

chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị

100 khoán 10 ra đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng.

Thực chất hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả

sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản

xuất là chủ thể trong mọi mối quan hệ sản xuất kinh doanh.

1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất.

Hộ sản xuất là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc

dân, có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có

những đặc điểm riêng sau:

*Đặc trưng thứ nhất:

Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân, các hộ sản xuất ở

nông thôn nước ta đang chuyển dần từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp sang

nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngày nay các hộ nông dân không đủ làm duy

nhất một nghề nông mà đã biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp kinh doanh

ngành nghề phụ theo hướng ai có khả năng gì thì làm nghề đó. Sự chuyển đổi

nói trên đã giúp cho các hộ sản xuất ở nông thôn bớt lệ thuộc vào yếu tố thời

tiết, mùa vụ góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, đẩy nhanh quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.

* Đặc trưng thứ hai:

Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất ở các

vùng, các khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch đáng kể.

Thậm chí đối với các hộ sản xuất trong cùng một vùng cũng có sự khác biệt

về qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ lực lượng lao động, khả năng vốn

tự có, sở dĩ có sự khác biệt nói trên một phần là do mỗi vùng mỗi khu vực có

những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng phần lớn là do sự

khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó cũng có một yếu tố

khác ảnh hưởng tới quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất đó là

khả năng của chính bản thân các hộ đó.

Do có sự chênh lệch lớn về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các

hộ, cùng với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tất yếu sẽ

dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật,

quá trình tích tụ và tập trung này sẽ góp phần giảm bớt chất phân tán lạc hậu

của nền kinh tế tiểu nông tạo điêù kiện thuận lợi để phát triển, mở rộng sản

xuất kinh tế hộ.

* Đặc trưng thứ ba:

Cùng với sự chuyển hoá nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao

cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ suất hiện thêm nhiều

hình thức tổ chức kinh tế hộ sản xuất khác nhau như hộ nhận khoán, hộ nhận

thầu, hộ gia đình là hộ thành viên của hợp tác xã, nông trường, tập đoàn sản

xuất, doanh nghiệp Nhà nước. Sự xuất hiện các hình thức tổ chức mới đã góp

phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên

các hình thức tổ chức như thế này cũng chịu mức độ rủi ro rất lớn vì vậy Nhà

nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản xuất

củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.

Với những đặc trưng kể trên kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố

quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển

nông thôn.

Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và trong tương lai, quan tâm

phát triển kinh tế hộ sản xuất, làm cho hộ nghèo giảm bớt, hộ giàu thêm nhiều

là vấn đề quan trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới

hiện đại rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề lớn

quan trọng.

Hộ sản xuất thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ, tiểu thủ

công nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, song phần lớn hiện nay trong tổng số lao

động nằm trong các ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp

chiếm hơn 70%. Hộ sản xuất vừa sản xuất vừa làm nghề phụ kinh doanh để

tăng thu nhập cho gia đình nâng cao đời sống .

1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản

xuất.

1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất.

* Trước Chỉ thị 100.

Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như

hợp tác xã, nông trường quốc doanh... người lao động làm việc theo kiểu ghi

công tính điểm, họ không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản

xuất, ăn chia, phân phối hay sở hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản

xuất chưa có, hiệu quả sản xuất kém.

* Sau Chỉ thị 100 và khoán 10.

Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán

sản phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận

khoán ra đời. Họ là người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản

xuất, tiến hành đầu tư thâm canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản

phẩm theo quy định cho tập thể. Nhất là khi có quyết 652 của Nhà nước thực

hiện giao ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình thì kinh tế sản xuất đã được thực

sự phát triển theo hướng đa năng trong tất cả các ngành nông - lâm - ngư -

diêm nghiệp... Cùng trong bối cảnh đó, do biết sắp xếp bố trí lao động phù

hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp dịch vụ đã hình thành,

củng cố ngày càng phát triển.

1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp,

nông thôn.

Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch,

hiệu quả thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất

và phân phối sản phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ

sản xuất ra đời, kinh tế hộ sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao

động về mặt số lượng, cường độ đã được sử dụng hợp lý.

Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ

việc mua sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi

cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ

nhằm thu được hiệu quả cao và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho

xuất khẩu Việt Nam từ một nước nghèo, đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên

thế giới về xuất khẩu gạo. Đó là do có sự đóng góp to lớn của kinh tế hộ sản

xuất nông nghiệp nông thôn.

Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai

thác mặt nước trồng thuỷ - hải sản... đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong

phú về sản phẩm, đa dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với

truyền thống, kinh nghiệm lâu đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt

kinh tế nông nghiệp nông thôn được đổi mới toàn diện.

* Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao

động, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ

là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình và hoà

nhập với nền kinh tế thế giới.

Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp đặc

biệt là trong ngành nông nghiệp, nông thôn do cấu tạo hữu cơ thấp qui mô sản

xuất nhỏ. Kết quả nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua cho thấy vốn

đầu tư ban đầu cho một hộ gia đình là 1,3 triệu đồng cho một lao động, xí

nghiệp tư nhân là 3 triệu đồng cho một lao động, xí nghiệp quốc doanh là 12

triệu đồng trên một lao động ( chỉ là vốn cố định, chưa kể vốn lưu động). Như

vậy chi phí cho một lao động trong hộ sản xuất thấp.

Trong điều kiện hiện nay, nước ta còn nghèo, vốn tích luỹ trong nước

còn ít thì với đặc điểm kể trên kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức

kinh tế phù hợp, nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói

chung và nông thôn nói riêng.

* Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài

nguyên, công cụ lao động.

Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản

xuất đã tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu

quả sử dụng tài nguyên của các hộ sản xuất được gắn liền với hiệu quả sử

dụng tài nguyên nên các hộ đã có những biện pháp thích hợp làm tăng độ màu

mỡ của đất, kết hợp việc khai thác với duy trì, bảo vệ tài nguyên. Hộ sản xuất

với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ sẽ phải tự chịu trách nhiệm và đã toàn

quyền sử dụng đối với các công cụ sản xuất của mình, do đó họ sẽ tìm mọi

cách thức, biện pháp để sử dụng chúng có hiệu quả nhất, kết hợp với việc bảo

quản tốt để có thể sử dụng lâu dài.

* Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá

của nền kinh tế hộ.

Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói

chung, các hộ sản xuất nói riêng có quyền quyết định mục tiêu, quy trình công

nghệ sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trường, tự hạch toán lỗ lãi

để muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì các doanh

nghiệp phải không ngừng mở rộng sản xuất. Thường xuyên nâng cao chất

lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với như cầu của thị trường, phải kết

hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để khích thích nhu cầu người

tiêu dùng. Một trong những ưu điểm lớn nhất của kinh tế hộ sản xuất là có

được bộ máy gọn nhẹ, năng động do đó sẽ dễ dàng nắm bắt được thay đổi của

thị trường để kịp thời nghiên cứu, điều chỉnh, triển khai phương thức sản xuất

mới. Bên cạnh đó bộ máy tổ chức, quản lý gọn nhẹ còn góp phần làm giảm

chi phí quản lý, từ đó giá thành sản phẩm hạ làm tăng thêm khả năng cạnh

trạnh của sản phẩm trên thị trường.

Tóm lại hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu

quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường.

* Thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá và do đó

tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.

Một trong những đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ sản xuất đó là sự

chênh lệch về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ sản xuất, sự

chênh lệch này dẫn đến tình trạng các hộ thuộc loại có thu nhập thấp thường

không có khả năng tổ chức kinh doanh nhiều loaị hàng hoá hay trồng trọt,

chăn nuôi nhiều loại cùng một lúc do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự

phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tự nhiên, kỹ thuật

vốn để sản xuất mặt hàng nào thì làm nghề đó. Các ngành nông lâm, ngư,

diêm nghiệp thông thường các hộ sản xuất này thường chỉ chuyên môn hoá

vào việc trồng trọt một loại cây, hay chăn nuôi một loại gia súc nào đó, vì như

vậy họ sẽ có điều kiện tập trung vốn, kỹ thuật để nâng cao năng suất cây

trồng, vật nuôi, trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất

thường tập trung vào một loại hàng hoá. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ

đặc biệt là ở nông thôn thì sự chuyên môn hoá cũng được thể hiện rõ một số ở

nông thôn đã tập trung đầu tư để kinh doanh các dịch vụ như tuốt lúa, xay xát

thuê, bơm nước thuê...

Để quá trình chuyên môn hoá đạt kết quả cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ

xuất hiện đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau chuyên môn

hoá sẽ làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn,

trong khi đó hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn

thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân các hộ sản xuất và thị trường.

Tóm lại : Hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế có vai trò quan

trọng trong việc thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá từ

đó tạo ra khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.

1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất:

+ Xu hướng phát triển không đều giữa các hộ sản xuất:

Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại được thì các doanh nghiệp

phải không ngừng mở rộng sản xuất, tuy nhiên không phải bất cứ doanh

nghiệp nào cũng có khả năng vốn, kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất.

Kinh tế hộ sản xuất cũng chịu ảnh hưởng lớn của quy luật nói trên trong nền

kinh tế thi trường, hộ nào có trình độ quản lý, có vốn, có sức lao động, có điều

kiện kỹ thuật thì sẽ có khả năng phát triển ngành nghề của mình theo ý muốn

ngược lại những hộ nào không có đủ điều kiện ở trên thì họ sẽ bị phụ thuộc

vào nhiều yếu tố, không chủ động tiến hành sản xuất được, do vậy họ đã

nghèo lại càng nghèo thêm . Như vậy, việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế

tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường một mặt làm tăng số hộ

giàu ở nước ta lên, mặt khác cũng làm tăng hố sâu phân cách giàu nghèo dẫn

đến có sự phát triển không đều giữa các hộ sản xuất.

+ Xu hướng phát triển đa dạng các loại hình, các quy mô sản xuất:

Tuỳ thuộc vào khả năng về vốn, lao động, điều kiện tự nhiên các hộ sản

xuất sẽ lựa chọn đối tượng, phương án sản xuất kinh doanh, qui mô sản xuất

sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ vậy mà kinh tế hộ sản xuất phát triển đa dạng,

các hộ có kinh nghiệm, có ruộng đất, không đủ điều kiện về vốn, kỹ thuật sẽ

tập trung vào việc trồng lúa hoặc một số loại cây trồng, vật nuôi như chè, cà

phê, mía, cây ăn quả, trâu bò, lợn gà... còn đối với hộ có điều kiện về vốn, kỹ

thuật thì tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp chặt chẽ giữa trồng và chăn

nuôi với kinh doanh ngành nghề phụ.

+ Xu hướng liên doanh liên kết hợp tác trong quá trình sản xuất:

Để tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường các hộ sản xuất

phải bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, liên kết với nhau để nâng cao cạnh tranh. Chính

sự liên kết đó sẽ tạo ra các hình thức hợp tác mới, sự liên doanh, liên kết hợp

tác giữa các hộ sản xuất không đồng nghĩa với việc tập trung sản xuất những

đơn vị nhỏ thành những xí nghiệp, hợp tác xã mà là hợp tác để tăng sức mạnh

của từng đơn vị sản xuất. Khi trình độ sản xuất phát triển, có nhiều vấn đề hộ

sản xuất không tự giải quyết được như những thông tin thị trường, khoa học

công nghệ do đó sự phát triển kinh tế hộ đòi hỏi tất yếu phải hình thành các

hình thức hợp tác kinh tế mới.

1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ.

1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng.

Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình

thái kinh tế - xã hội . Theo giáo trình “Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng

nâng cao"thì tín dụng được định nghĩa như sau: “Tín dụng là sự chuyển

nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để

sau một thời gian sẽ thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban

đầu".

Trong các giai đoạn và thời kỳ phát triển khác nhau của nền sản xuất

hàng hoá, do có nhiều điều kiện tác động khác nhau nên có nhiều hình thức

tín dụng khác nhau. Đối với đề tài này, ta chỉ nghiên cứu về tín dụng ngân

hàng “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân

hàng, còn một bên là các thể nhân và các pháp nhân khác nhau trong nền

kinh tế quốc dân " (Giáo trình “ lý thuyết tiền tệ “ - Đại học tài chính kế

toán Hà nội - 1998 ).

1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ

sản xuất

Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát

triển của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì tín dụng ngân hàng còn

là một công cụ đắc lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh

nghiệp, cá nhân, thì tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm

thời về vốn sản xuất. Đặc biệt là cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã

giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất, mỗi hộ sản xuất gìơ đây

trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, phải tính toán mức chi phí bỏ ra, khả

năng thu nhập, xác định mức vốn cần thiết đầu tư cho sản xuất, khả năng cấp

vốn tự có, số vốn cần phải đi vay do đó trong nền kinh tế thị truờng, tín dụng

ngân hàng có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển của hộ sản xuất.

1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình

sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:

Khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị

trường thì nhu cầu trao đôỉ hàng hoá giữa các hộ sản xuất trong cùng một

vùng hay giữa các vùng với nhau, ngày một gia tăng. Các hộ sản xuất ngày

nay chỉ chỉ chuyên môn hoá sản xuất các loại nông sản hàng hoá có lợi nhất

và họ loại dần các loại nông sản phẩm sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Các

hộ sản xuất bán cho xã hội sản phẩm hàng hoá mà họ sản xuất ra, đồng thời

mua từ thị trường những hàng hoá mà họ cần để đạt được điều đó các hộ sản

xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật, mua sắm máy móc

thiết bị, trong khi vốn tự có của các hộ còn rất hạn chế, nên các hộ sản xuất

cần tới sự trợ giúp của ngân hàng để mở rộng sản xuất được liên tục.

Vì thế tín dụng ngân hàng nó cực kỳ quan trọng trong việc đáp ứng nhu

cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước

ta hiện nay.

1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần

tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn:

Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện một lượng tiền

tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời cũng xuất hiện những

tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ của ngân

hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm

thời thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng

cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát

triuển của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh

của hộ sản xuất, khuyễn khích các hộ kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để

được ngân hàng trợ giúp cho vay.

Đầu tư là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho ngân

hàng, vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kink tế.

Ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian tài chính, là cầu nối

tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên

cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.

1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành

kinh tế:

Thông qua hệ thống ngân hàng cụ thể là hoạt động tín dụng ngân hàng

Nhà nước đã góp phần tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc

cho vay ưu đãi với lãi suất thấp thời gian dài, mức vốn lớn. Trong điều kiện

nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng đáp ứng phần lớn

với nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, nhưng sản xuất ở nông thôn chưa phát triển, kết cấu hạ tầng còn kém lại

chịu ảnh hưởng khắt khe của điều kiện tự nhiên, đơn vị sản xuất chủ yếu là

kinh tế hộ gia đình, năng suất lao động còn thấp, ruộng đất và người lao động

còn thiếu, phương pháp canh tác kỹ thuật còn lạc hậu, khối lượng hàng hoá

sản xuất ra chưa nhiều. Vì vậy trong gia đoạn tới Chính phủ cần tập trung đầu

tư hỗ trợ cho nông nghiệp như việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn và các

điều kiện yếu tố khác cho sản xuất nông nghiệp như trạm bơn điện, hệ thống

thuỷ lợi, cải tiến công cụ lao động.

1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở

nông thôn:

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính tời vụ cao nên tại thời

điểm chưa thu hoạch được, chưa có hàng hoá để bán thì người nông dân

thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu về chi tiêu tối

thiểu, từ đó tạo điều kiện để nạn cho vay nặng lãi hoành hoành, đặc biệt cơ

bản của tín dụng cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, làm cho hộ sản

xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ thoát khỏi vòng

quẩn đó được. Nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất

phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng

hơn, gây ra tiêu cực ở nông thôn.

Đứng trước tình hình trên ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến

hành cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp

xúc với vốn vay ngân hàng, các ngân hàng đã đơn giản hoá các thủ tục cho

vay, tổ chức mạng lưới ngân hàng tới tận các thôn xóm để đáp ứng được nhu

cầu vốn cho sản xuất, khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư, đổi

mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm giàu cho bản thân

và cho xã hội.

Tín dụng ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản

xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vần đề cho vay nặng

lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng bót lột

người lao động để thu siêu lợi nhuận.

1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy

sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế:

Các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính hoạt

động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng

đồng tiền đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng

thanh toán.

Để thực hiện được món vay, cán bộ tín dụng phải nắm được tình hình

sản xuất kinh doanh trước, trong và sau khi cho vay có đạt được hiệu quả hay

không để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Qua đó tín dụng ngân hàng có thể

kiểm soát được các hoạt động của hộ sản xuất.

Nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vay vốn phải được hoàn

trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn khi sử dụng vốn vay các hộ sản xuất

phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng, phải trả nợ

đúng hạn và các điều kiện kèm theo khác, như vậy để sản xuất kinh doanh có

hiệu qủa, có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay ngân hàng thì các hộ sản xuất phải

hạch toán kinh tế.

1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng

sản xuất hàng hoá:

Ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển hướng quan trọng trong phương

thức sản xuất của hộ sản xuất khi được ngân hàng đầu tư vốn, hộ sản xuất

phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu nhất, để tăng thu

giảm chi nhằm thu lợi nhuận, để hoàn trả cả vốn và lãi vay cho ngân hàng.

Muốn vậy hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới

thu được lợi nhuận cao, giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất

để tiếp cận và thích nghi với thị trường như nâng cao chất lượng sản phẩm,

thay đổi các loại cây trồng vật nuôi cho phù hợp với nhu cầu thị trường, cải

tiến cách thức sản xuất để tiết kiệm vật tư, giảm chi phí, thu hiệu quả cao nhờ

sự tài trợ vốn của ngân hàng để mở rộng qui mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản

xuất hàng hoá cũng được tăng lên.

1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội:

Tín dụng ngân hàng không những thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có

vai trò to lớn về mặt chính trị xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết

công ăn việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn

nói riêng đặc biệt là với một nước có trên 80% dân số sống ở nông thôn. Tín

dụng ngân hàng thông qua cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết

công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế được tệ nạn

xã hội.

Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm bớt những tệ nạn xã hội trong

quá trình thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần, tạo thêm công

ăn việc làm cho hộ sản xuất, tăng thu nhập, hạn chế bớt những phân hoá bất

hợp lý trong xã hội, giữ vững được nền tảng an ninh chính trị, góp phần củng

cố lòng tin của dân chúng nói chung và của các hộ sản xuất nói riêng vào sự

lãnh đạo cuả Đảng và Nhà nước.

Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vi trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về

mặt kinh tế lẫn xã hội, chính trị để tín dụng ngan hàng đến với hộ sản xuất,

các ngân hàng phải ngày càng tự hoàn thiện mạng lưới tổ chức, biện pháp

nghiệp vụ của mình để góp phần đáp ứng một cách thuận tiện, kịp thời nhu

cầu vốn cho hộ sản xuất tạo điều kiện cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh

doanh ngoài những nỗ lực của bản thân ngân hàng thì Nhà nước, các ngành,

các cấp có liên quan cũng cần phải xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp,

tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các ngân hàng ngày càng được mở

rộng và đạt hiệu qủa cao hơn.

1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn:

1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với

hộ sản xuất :

Tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng đối với mỗi ngân hàng nói

riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế tín dụng ngân

hàng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của

Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Đối với ngân hàng tín dụng ngân hàng là một hoạt động mang lại phần

lớn thu nhập cho ngân hàng do đó đánh giá đúng hiệu quả tín dụng sẽ giúp

các ngân hàng, các ngành có liên quan đưa ra được các biện pháp thích hợp để

thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra và là mục tiêu lợi nhuận của

bản thân ngân hàng, hiệu quả tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các mặt

sau:

- Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, hiệu quả tín dụng ngân

hàng trước tiên được thể hiện trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung của

một số quốc gia. Tín dụng ngân hàng chỉ thực sự mạng lại hiệu quả cho nền

kinh tế khi nó làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo công ăn việc làm cho

người lao động, giảm lạm phát, góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế, làm tăng

khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế tín dụng ngân

hàng thực sự có hiệu quả khi nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù

hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước.

- Mức độ lợi nhuận mà ngân hàng thu được với phương châm đi vay để

cho vay, do đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc lớn vào khả

năng mở rộng đầu tư, cụ thể là hoạt động ngân hàng có tập trung được nguồn

vốn nhàn rỗi, có thực hiện cho vay nhiều, sử dụng vốn có hiệu qủa thì mới tồn

tại và đứng vững được. Đối với các ngân hàng, hiệu quả tín dụng được thể

hiện cụ thể nhất, dễ nhận ra nhất đó chính là lợi nhuận mà ngân hàng có được.

Một ngân hàng được coi là có hiệu quả cao nếu có mức lợi nhuận thu được

năm sau cao hơn năm trước.

Mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu trong cơ chế thị trường hiện nay,

ngân hàng thương mại là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập cho nên việc đảm

bảo an toàn tín dụng là rất quan trọng hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng

không chỉ phụ thuộc vào mức lãi suất mà ngân hàng thu được, mà còn phụ

thuộc vào khả năng thu hồi an toàn của mỗi đồng vốn bỏ ra theo đúng kỳ hạn

đã ghi trong hợp đồng tín dụng để tạo ra rủi ro các ngân hàng thương mại phải

chấp hành đầy đủ các qui định, qui chế về an toàn tín dụng do ngân hàng Nhà

nước ban hành, thẩm định cẩn thận trước khi cho vay, thường xuyên kiểm tra

việc sử dụng vốn của người vay.

+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với việc phát

triển kinh tế hộ sản xuất.

Chỉ tiêu 1: Doanh số cho vay hộ sản xuất

Tổng số hộ sản xuất

Chỉ tiêu này phản ánh số vốn mà hộ sản xuất vay được từ ngân hàng,

tín dụng ngân hàng được coi là có hiệu quả khi doanh số cho vay cao, số hộ

được vay nhiều và số tiền vay trên mỗi lượt hộ lớn.

Chỉ tiêu 2: Dư nợ cho vay hộ sản xuất trung, dài hạn

Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất

Dư nợ cho vay trung và dài hạn phải đạt một tỷ trọng nhất định trong

tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất thì các hộ mới đủ vốn để cải tạo cơ sở vật chất

sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngăn chặn. Mục tiêu của ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là dư nợ cho vay trung,

dài hạn chiếm 30% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất.

Ngoài ra còn một số chỉ tiêu định tính phản ánh hiệu quả tín dụng ngân

hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất như tốc độ chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp, nông thôn thu nhập hộ sản xuất.

+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất đối

với ngân hàng:

Dư nợ cho vay bình quân Chỉ tiêu 1: Hiệu quả sử dụng vốn x 100% = Nguồn vốn huy động bình quân

Các ngân hàng thương mại huy động vốn để cho vay, do đó cần phải

xem xét hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng thông qua mối quan hệ giữa nguồn

vốn huy động và nguồn vốn cho vay, với mỗi đồng tiền gửi vào các ngân

hàng sau khi giữ lại một tỷ lệ nhất định dưới dạng tiền dự trữ thì phải cố gắng

cho vay càng nhiều càng tốt. Như vậy ngân hàng được coi là kinh doanh có

hiệu quả khi có hiệu suất sử dụng vốn cao, hợp lý, an toàn.

Chỉ tiêu 2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay hộ sản xuất hàng năm.

Chỉ tiêu 3: Doanh số thu nợ hộ sản xuất

Doanh số cho vay hộ sản xuất

Tín dụng hộ sản xuất được coi là có hiệu quả đối với ngân hàng khi

doanh số cho vay cao kết hợp với tỷ lệ doanh số thu nợ hộ sản xuất trên doanh

số cho vay hộ sản xuất hợp lý để hạn chế bớt ruỉ ro.

Dư nợ quá hạn hộ sản xuất Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất

Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất.

Tín dụng hộ sản xuất chứa đựng nhiều rủi ro mà mỗi rủi ro là một cách thức

đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đặc biệt là trong nền kinh tế thị

trường hiện nay do đó việc đảm bảo thu hồi vốn vay đúng thời hạn là hết sức

quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả tới đúng hộ sản xuất đối với ngân

hàng để tránh những rủi ro từ phiá khách hàng, ngân hàng không nên dựa dẫm

vào tài sản thế chấp mà phải chủ động đầu tư vào hộ sản xuất kinh doanh có

hiệu quả và ít rủi ro nhất.

1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản

xuất :

+ Về phiá khách hàng:

- Do sử dụng vốn vay sai mục đích.

- Do tình hình tài chính của hộ sản xuất có biến đổi.

- Do năng lực quản lý yếu kém và trình độ áp dụng công nghệ có phù

hợp không.

- Những vấn đề liên quan đến sự thay đổi thị trường cung cấp đầu vào.

- Khách hàng thiếu sự sẵn sàng hoàn trả vốn vay..

+ Về phía ngân hàng:

Chấp hành không nghiêm các qui trình cho vay.

- Cán bộ tín dụng trình độ chuyên môn còn yếu, đạo đức nghề nghiệp

còn hạn chế.

- Yếu kém về mặt quản lý và điều hành.

- Không chấp hành những qui định của pháp luật...

+ Nhân tố khách quan:

- Tình hình kinh tế xã hội của quốc gia

- Cơ chế chính sách thay đổi

- Những nguyên nhân khác từ bên ngoài quốc gia.

- Các yếu tố tự nhiên và những vấn đề liên quan khác ...

1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay

Căn cứ vào nghị định số 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính

Phủ và thông tư số 01/TT-NH ngaỳ 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định " Về chính sách cho hộ sản

xuất vay vốn và phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông

thôn" Với mục đích là tạo điều kiện và khuyến khích những hộ vay vốn sản

xuất kinh doanh vay vốn để phát triển sản xuất hàng hoá nông, lâm, ngư, diêm

nghiệp, công nghiệp, mở ngành nghề mới và kinh doanh dịch vụ có hiệu quả

thiết thực, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng xã hội văn minh dân giàu

nước mạnh.

Nông nghiệp nông thôn là ngành khu vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi

ro, cho nên để đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất Ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín

dụng qui định: Hộ sản xuất phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết

trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái

trong quá trình sử dụng vốn vay, vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và

lãi đúng thời hạn ngoài ra vốn vay còn phải được đảm bảo bằng giá trị tài sản

thế chấp.

Khi các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ xét duyệt cho

vay nếu các hộ có đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng quy định như:

- Các hộ phải tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng trong việc sử dụng

vốn vay và trả nợ đầy đủ đúng hạn cả gốc và lãi.

- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khả

năng hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với

quy định của pháp luật.

- Có khả năng tài chính và có các nguồn thu nhập hợp pháp để thực

hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng.

- Cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín

dụng nếu vay từ 10 triệu đồng trở lên và các hộ sản xuất phải có vốn tự có

bằng tiền, giá trị vật tư, hay ngày công lao động đóng góp vào tổng số vốn

của dự án sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải có hộ khẩu thường trú tại địa

phương, những hộ ở địa phương khác đến phải có xác nhận của UBND nơi có

hộ khẩu thường trú và được UBND nơi đến cho phép sản xuất kinh doanh. Hộ

sản xuất phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của ngân hàng trước, trong và

sau khi cho vay. Đồng thời hộ sản xuất phải cung cấp cho ngân hàng những

tài liệu có liên quan đến việc sử dụng vốn vay đó.

Đối tượng cho vay cuả ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Việt nam gồm có:

- Cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) đối tượng là vật tư, chi phí trồng trọt,

chăn nuôi, chi phí các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vật tư, hàng hoá đối

với các hộ làm dịch vụ và kinh doanh thương nghiệp.

- Cho vay trung hạn (từ 1 năm -5 năm) đối tượng cho vay là chi phí mở

rộng diện tích canh tác xây dựng cơ bản đồng ruộng để gieo trồng cây hàng

năm, chi phí đào đắp ao hồ, xây dựng chuồng trại chi phí cải tiến, đổi mới

công nghệ, chi phí sữa sữa lớn tàu thuyền, phương tiện vận tải loại nhỏ.

- Cho vay dài hạn (trên 5 năm) đối tượng là chi phí xây dựng mới đồng

ruộng, đồi cây, ao hồ, nhà xưởng, máy móc thiết bị tầu thuyền, phương tiện

vận tải vừa và lớn, chí phí trồng và chăn sóc cây công nghiệp, cây ăn quả lâu

năm, cây công nghiệp, khi xét duyệt cho vay ngân hàng yêu cầu các hộ vay

vốn phải nộp đầy đủ các thủ tục theo từng loại hộ vay và thời hạn cho vay.

- Cho vay ngắn hạn:

+ Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm:

Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của chính quyền địa phương và giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, bản chính hoặc giấy nhận quyền sử dụng đất

không có tranh chấp do UBND xã, phường, thị trấn cấp. Sổ vay theo mẫu in

sẵn của Ngân hàng Nông nghiệp.

+ Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm:

Giấy đề nghị vay vốn dự án đầu tư, hồ sơ tài sản có công chứng, hợp

đồng tín dụng.

- Cho vay trung và dài hạn: Ngoài những thủ tục cho vay ngắn hạn còn

phải có thêm luận chứng kinh tế kỹ thuật, sơ đồ mặt bằng, dự toán chi phí

công trình, thiết kế, hợp đồng thi công ( nếu có)

- Quy trình cho vay trực tiếp hộ sản xuất:

Sau khi ngân hàng đã nhận đủ thủ tục, hồ sơ vay vốn của các hộ sản

xuất nếu không có thiếu sót nào thì cán bộ chuyên quản viết phiếu hẹn khách

hàng chậm nhất là 15 ngày phải giải quyết. Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ

đi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ghi rõ ý kiến của mình đồng ý hay không

đồng ý, nếu không phải đi thẩm định thì giải quyết ngay trong ngày, khi cán

bộ tín dụng đã thẩm định xong trình trưởng phòng tín dụng nếu không phải tái

thẩm định thì trình giám đốc phê duyệt và thông báo cho khách hàng biết. Khi

đã có quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng để hướng

dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn sau đó bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ vay

vốn cho bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân và sau mỗi định kỳ cán bộ tín

dụng phải đi kiểm tra việc sử dụng vốn vay.

- Quy trình cho vay qua tổ tín chấp:

Tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn, lập danh sách thành viên được

chọn đề nghị ngân hàng cho vay, cán bộ tín dụng cùng tổ trưởng trực tiếp

thẩm định hộ vay vốn hoặc thẩm định điển hình, hướng dẫn làm hồ sơ, kiểm

tra việc sử dụng vốn vay ngân hàng trực tiếp giải ngân đến từng hộ sản xuất

và thu nợ trực tiếp khi đến hạn và xử lý các vi phạm.

Mức lãi suất cho vay thoả thuận phù hợp với thị trường vốn trên địa

bàn và từng loại cho vay theo các nguyên tắc trên. Đồng thời phải phù hợp

với khung lãi suất đầu vào tối thiểu, lãi suất đầu ra tối đa do Tổng giám đốc

công bố hoặc uỷ quyền cho giám đốc ngân hàng tỉnh, thành phố, khu cực

công bố.

Chương II

thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển

nông thôn tỉnh Hà Giang

2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh

của Ngân hàng

2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của

Ngân hàng:

2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội.

Thị xã Hà Giang là trung tâm hành chính, trung tâm kinh tế, văn hoá

của tỉnh. Là thị xã của tỉnh miền núi nên địa hình, địa lý tự nhiên rất khó khăn,

hiểm trở, có tới 75% diện tích là đồi núi cao, sông, suối sâu, giao thông khó

khăn, lâm thổ sản bị khai phá bừa bãi, lại bị chiến tranh biên giới (1979-1986)

tàn phá chưa khôi phục được.

Thị xã Hà Giang có diện tích tự nhiên 97km2 với 5 xã thuần nông và 4

phường bán nông nghiệp, diện tích canh tác đất nông nghiệp là 1.200ha.

Dân số của thị xã có gần 30 vạn người, hơn 10 dân tộc cùng chung

sống. Tổng số hộ sản xuất 4.100 hộ với 13.900 khẩu, trong đó có 3.500 lao

động.

Kinh tế nông nghiệp đã chuyển dần từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản

xuất chuyên canh và giao lưu hàng hoá đã phát triển. Trình độ dân trí dần

được nâng cao, nhiều hộ đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản

xuất nông nghiệp, phá bỏ tập tục du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy,

chăn nuôi gia súc thả rông.

Bên cạnh đó, các điều kiện về môi sinh của thị xã chưa được tốt như

nạn chặt cây, phá rừng, đào đãi vàng, quặng đã làm cho nguồn nước cạn kiệt,

xói mòn, lũ quét và hạn hán xảy ra... gây nên sự mất mùa, gây thiệt hại tiền

của cho các hộ sản xuất nông nghiệp.

Trong những năm gần đây do chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước,

quan hệ Việt - Trung được nối lại, cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ (cách thị xã

Hà Giang 20km) đã thông thương, giao lưu buôn bán được mở rộng, hàng

ngàn hộ nông dân trước kia do chiến tranh biên giới phải bỏ nhà, ruộng nương

đi sơ tán, nay trở lại làm ăn sinh sống. Phần lớn những hộ này đều thiếu vật

tư, tiền vốn để tổ chức lại sản xuất, nhất là vốn một nhu cầu cấp bách đối với

hộ nông dân ở Hà Giang.

Trước yêu cầu đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các

ngành các cấp và nhân dân trong tỉnh, đã nỗ lực phát huy truyền thống đoàn

kết, vượt qua khó khăn tích cực khai thác tiềm năng nội lực, đồng thời tranh

thủ sự giúp đỡ của trung ương và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nên trong những năm qua kinh

tế vẫn đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng

phát triển sản xuất hàng hoá và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh

nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP

ước đạt 11%, sản xuất nông lâm nghiệp 42.071ha, tăng 3,54%, sản lượng

lương thực quy thóc đạt 129.040 tấn, tăng 6,28% ; giá trị công nghiệp, xây

dựng cơ bản 321.055 triệu 36,26%, các ngành dịch vụ khác tăng 35,45% so

với năm trước, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên.

Để hoà nhập với nền kinh tế thị trường Tỉnh Hà Giang đã đề ra phương

hướng mục tiêu năm 2000 - 2005 là : Cơ cấu phát triển kinh tế là nông, lâm,

công, nghiệp chế biến và dịch vụ trên cơ sở đó tập trung đẩy mạnh phát triển

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà trước hết là nông

nghiệp nông thôn, khai thác có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương tích cực

chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng, hình thành các tiểu vùng sản xuất hàng

hoá, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất chế biến nông

lâm sản. Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp phát triển tiểu thủ công nghiệp,

mở rộng thương mại, chợ nông thôn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

nhằm tăng thu nhập cải thiện một bước cơ bản đời sống vật chất, văn hoá cho

người lao động, đổi mới bộ mặt nông thôn, đặc biệt là nông thôn vùng sâu

vùng xa .

2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng .

Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các Tổ chức tín dụng và các quyết định,

chính sách của Đảng và Nhà nước là môi trường pháp lý ổn định đảm bảo

điều kiện cơ bản để hoạt động cho các tổ chức tín dung nói chung và Hội sở

NHNo & PTNT Hà Giang nói riêng. Giúp cho Hội sở NHNo&PTNT Hà

Giang tạo cơ sở vững chắc cho quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường

với nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay .

Với chức năng của Ngân hàng là kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ

Ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước

và ngoài nước, làm uỷ thác các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của

chính phủ, các tổ chức kinh tế xã hội, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yếu cho

lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn .

2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên

địa bàn thị xã Hà Giang:

Hà Giang là một tỉnh miền núi cao mới được chia tách từ tháng

10/1991, nơi chưa hề có cho vay nông hộ, lại có những đặc thù như đã nêu

trên, có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để khai thác tiềm năng tự nhiên, ứng dụng

khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho lao động...

Trong khi các nguồn vốn khác không đáng kể, mọi nhu cầu vốn cho sản xuất

nông nghiệp chủ yếu trông vào vốn tín dụng Ngân hàng.

Với hơn 2.100 hộ sản xuất trên địa bàn thị xã rộng 97km2, gồm 5 xã, 4

phường, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, việc cho

vay hộ sản xuất tại địa bàn thị xã Hà Giang không chỉ đơn thuần là vốn kinh

doanh mà còn phục vụ chính sách chiến lược của Đảng, coi nông nghiệp là

mặt trận hàng đầu, nông thôn, nông dân là bước đi lên công nghiệp hoá.

Để cho vay được tới hộ sản xuất ở thị xã Hà Giang, thực chất là phải

giải quyết được các vấn đề sau:

Một là về cán bộ tín dụng: Yêu cầu về cán bộ tín dụng phải thực sự

toàn diện trên mọi mặt, phải có trình độ, có năng lực, có đạo đức nghề nghiệp,

có sức khoẻ, có quan điểm phục vụ nhân dân hết mình.

Khi xuống cơ sở làm việc, cán bộ tín dụng phải độc lập xử lý các tình

huống nghiệp vụ. Vì vậy không có đủ năng lực, không có đạo đức nghề

nghiệp thì sẽ không giải quyết được công việc, dễ phát sinh tiêu cực. Mặt

khác, muốn là bạn với nhà nông cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am hiểu kỹ

thuật về cây trồng, vật nuôi để cùng tham gia với hộ nông dân, lựa chọn

phương án tốt để đầu tư phát triển kinh tế.

Với địa hình, địa lý tự nhiên của địa bàn phải trèo đèo, lội suối... nếu

người cán bộ tín dụng không có sức khoẻ thì không thể tới các thôn bản, tới

hộ sản xuất, không thể bám trụ để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Nếu không có quan điểm vững vàng sẽ không thấy hết vai trò, trách

nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn của Đảng

và Nhà nước, sẽ bị co lại trước khó khăn và nảy sinh tiêu cực, gây thiệt hại

đến sức lao động, tiền bạc, thời gian của người dân, thay vì làm lợi cho họ.

Hai là vấn đề màng lưới và hình thức đầu tư: Nếu để riêng cho cán bộ

tín dụng trực tiếp nắm bắt nhu cầu của từng hộ, thẩm định từng món vay ở

thôn bản thì không thể đáp ứng được nhu cầu đông đảo của hộ sản xuất mang

tính thời vụ được. Thời vụ là cùng lúc có phân bón, cây giống làm sao hộ sản

xuất thiếu vốn chờ được cán bộ tín dụng đi thẩm định từng hộ. Vì vậy vấn đề

đòi hỏi là phải tổ chức cho vay qua các tổ trung gian: liên gia, tín chấp, tổ hỗ

trợ vay vốn... Thành lập những tổ này sẽ chắp thêm những cánh tay vươn dài

cho Ngân hàng nông nghiệp đến tận ngõ ngách, thôn, bản, tạo cơ sở nắm chắc

địa bàn, nắm vững đối tượng để đầu tư đúng hướng, có hiệu quả.

Ba là vấn đề pháp lý: Trong điều kiện môi trường pháp lý chưa hoàn

chỉnh mà việc cho vay phải tuân thủ những quy định chặt chẽ để bảo toàn

vốn, để vừa phục vụ đắc lực cho nông thôn, nông dân, vừa đạt được yêu cầu

trên, thì không có cách nào khác là phải vận dụng linh hoạt luật với lệ để cho

vay. Pháp luật đôi khi còn mơ hồ, khó hiểu đối với nông dân miền núi, nhưng

luật lệ làng bản, dòng tộc lại có sức mạnh thiêng đối với họ. Nếu làm cho hoạt

động tín dụng hộ sản xuất gắn với đời sống của bà con, gắn được với quyền

lợi của làng bản thì khả năng đầu tư sẽ không ngừng được mở rộng với sự

đảm bảo ngày càng cao.

Bốn là hoạt động tín dụng phải đi đôi với ứng dụng khoa học kỹ thuật:

Ngân hàng sẽ không thể đầu tư đại trà vào nông nghiệp, một ngành có tỷ suất

lợi nhuận thấp, nếu không tính đến sự đầu tư khoa học kỹ thuật tương ứng để

nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, tạo tỷ suất hàng hoá cao,

tỷ suất lợi nhuận lớn hơn, đảm bảo có lãi trả đủ vốn cho Ngân hàng (gốc và

lãi) và tái sản xuất mở rộng. Ngân hàng không chỉ đơn thuần cho vay hộ sản

xuất mà không tính đến điều kiện cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu

bệnh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... là những yếu tố có vai trò quan trọng đến

việc tổ chức sản xuất của người nông dân.

Năm là về lãi suất: Cần có một chính sách lãi suất hợp lý cho nông

nghiệp, cho hộ sản xuất. Đặc biệt trước cơ chế khoán tài chính của Ngân hàng

Nông nghiệp, nếu cứ bình đẳng lãi suất với các thành phần kinh tế thì nông

dân chỉ có thể vay đủ vốn cho sản xuất giản đơn mà không dám vay nhiều để

mở rộng sản xuất vì đơn giản là làm không đủ trả lãi cho ngân hàng.

2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang:

2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở:

Hà Giang là tỉnh mới được chia tách ra từ tỉnh Hà Tuyên cũ vào tháng

10/1991. Cùng đó, hệ thống Ngân hàng Hà Giang đã được hình thành, trong

đó có Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt

động của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh lúc đó chủ yếu là tiếp quản và kiện

toàn lại bộ máy hoạt động sẵn có của Ngân hàng thị xã Hà Giang và các Ngân

hàng huyện.

Đầu năm 1992, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang được thành

lập trên cơ sở tiếp quản mọi hoạt động của Ngân hàng thị xã Hà Giang trước

đây. Mô hình tổ chức của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang thực chất

là thực hiện mô hình kéo dài từ Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trực

tiếp tổ chức hoạt động kinh doanh theo quy chế tổ chức hoạt động của Ngân

hàng Nông nghiệp Việt Nam trên địa bàn thị xã Hà Giang.

Cơ cấu tổ chức và biên chế của Hội sở như sau:

sơ đồ mô hình tổ chức của NHNO

giám đốc

P. Giám đốc kiêm GĐ NH phục P. Giám đốc phụ trách kế toán P. Giám đốc phụ trách kinh

TC HC KT TC

Phòn g kế toán

Phòn g Kế hoạc h

Phòn g kinh doan h

Phòn g K.to án giao

Phòn g ngân quỹ 

KH NV KS nộ i bộ

(Bộ máy của Hội sở gồm ---)

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang là đơn vị nhận khoán tài

chính trực tiếp với Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh (như các Ngân

hàng huyện), có bảng cân đối, quyết toán riêng. Thực hiện điện báo, báo cáo

thống kê và các hoạt động theo quy định của hệ thống Ngân hàng Nông

nghiệp.

Địa bàn hoạt động gồm 3 xã, 4 phường thuộc thị xã Hà Giang.

2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo &

PTNT Hà Giang

Quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà Giang

trong những năm qua có những thuân lợi và khó khăn sau :

- Thuận lợi :

Được sự quan tân của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Ngân hàng Nhà nước,

các ban ngành đã có nhiều biện pháp tháo gỡ giúp dân thoát khỏi khó khăn, đề

ra một số chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn như cho vay 7

chương trình kinh tế cho vay chăn nuôi bò, cho vay thâm canh lúa, ngô ...,

Ngân hàng cho vay, ngân sách hỗ trợ lãi . Bên cạnh đó nhiều cơ chế chính

sách mới của Chính phủ, của các ngành đã được ban hành kịp thời, tháo gỡ

khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời

mở ra một bước mới trong đầu tư và phát triển nông nghiệp nông thôn .

-Khó khăn :

+ Trong những năm qua các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh

Hà giang nói riêng cũng gặp không ít những khó khăn do yếu tố tự nhiên tác

động, hạn hán diễn ra trên diện rộng, thiếu nước trầm trọng trong sinh hoạt,

trồng trọt chăn nuôi, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của bà con nông dân

từ đó ảnh hưởng đến việc thu nợ, thu lãi của Ngân hàng .

+ Dân trí thấp, địa bàn hoạt động hẹp giao thông đi lại khó khăn .

+ Lãi suất trần cho vay liên tục thay đổi (quy định của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước), dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu vào ,đầu ra thấp .

+ Vấn đề cạnh tranh tín dụng trên địa bàn tuy không lớn như ở các tỉnh

miền xuôi, song đã có những tín hiệu không lành mạnh như điều chỉnh lãi

suất tiền gửi, cho vay, lôi kéo khách hàng ....

Cùng với thuân lợi và khó khăn chung của toàn tỉnh, đã phần nào ảnh

hưởng trực tiếp dến hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà

Giang. Nhưng quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng nông

nghiệp trong những năm qua đã có những bước thay đổi đáng kể .

Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã giải quyết được những vấn đề cơ bản

trong tư tưởng nhận thức cho toàn bộ cán bộ nhân viên và khẳng định muốn

tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, trong xu thế ngày càng có nhiều

quan hệ mở rộng thì không có con đường nào khác là phải đổi mới hoạt động

kinh doanh và kinh doanh thật sự . Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã xác

định được trách nhiệm của mình đối với việc phát triển nông, lâm, nghiệp và

phương châm đi vay để cho vay cụ thể trong 9 tháng đầu năm 2001 đã đạt

được những kết quả sau :

2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn:

Nhờ có đổi mới phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng, thực

hiện đúng khẩu hiệu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đã thu hút được

nhiều khách hàng đến gửi tiền, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.

NHNo & PTNT nhận thức được vai trò của nguồn vốn kinh doanh,

nguồn vốn chính là tiền đề cho hoạt động kinh doanh, là động lực chính, là cơ

sở để mở rộng hoạt động kinh doanh. Chính vì thế mà NHNo & PTNT đã tập

trung khai thác mọi nguồn, coi công tác huy động vốn là của mọi người, mọi

thành viên. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vay vốn của các hộ sản

xuất, hộ nghèo, hộ kinh doanh, các công ty thuộc các doanh nghiệp Nhà nước

và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hội sở NHNo & PTNT đã huy động vốn

bằng các hình thức sau:

Tiền gửi của các tổ chức kinh tế.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng.

Kỳ phiếu 13 tháng.

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp là đơn vị đóng tại Trung tâm kinh tế

của tỉnh nên công tác huy động vốn có nhiều thuận lợi so với các chi nhánh

khác ở huyện. Vì vậy kết quả huy động hàng năm luôn đáp ứng kịp thời cho

các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế của địa phương và bổ sung cho

các chi nhánh huyện. Khuyến khích khách hàng truyền thống, duy trì và nâng

cao số dư tiền gửi, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp đã từng bước tìm kiếm

thêm khách hàng mới, để khơi tăng nguồn vốn tại địa phương.

Bảng 1 : tình hình Huy động vốn

Đơn vị : Triệu đồng

So sánh 1999 2000 2001 2001/2000 Chỉ tiêu Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền  trọng trọng trọng

I/Tổng nguồn vốn huy

38.006

100

45.274

100

65.851

100

20.577

45,44

động

1. Tiền gửi các tổ chức KTế

6.109

16,7

8.270 18,28 12.500 18,98

4.230

51,14

2. Tiền gửi tiết kiệm

28.483 74,79 34.792 76,84 51.551 78,28 16.759

48,16

- Tiền gửi không kỳ hạn

2.366

6,22

3.500

7,7

5.100

7,74

1.600

74,28

-Tiền gửi có kỳ hạn

26.117 68,71 31.292 69,11 46.451 64,46 15.159

48,44

3.T/gửi kỳ phiếu, trái phiếu

3.414

8,98

2.212

4,48

1.800

2,73

-412

81,37

(Nguồn: theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999 - 2000 và

09 tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)

* Nhận xét:

Qua biểu số liệu trên, cho thấy kết qủa huy động vốn tăng lên rõ rệt.

Kết quả huy động vốn năm 2001 đạt 65.851 triệu đồng, tăng 19,12% so với

năm 2000, tăng 73,26% so với năm 1999.

Xét về cơ cấu nguồn vốn qua các kỳ ta thấy:

- Vốn huy động từ dân cư năm 2001 đạt 53.351 triệu đồng, tăng

44,17% so với năm 2000, tăng 67,35% so với năm 1999.

- Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2001 là 12.500 triệu đồng,

tăng 51,14% so với năm 2000, tăng 104,6% so với năm 1999.

Vốn huy động từ dân cư chiếm tuỷ trọng cao trong tổng nguồn, chủ yếu

là tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn dài hạn tạo điều kiện thuận lợi để Hội sở

cho vay trung và dài hạn.

Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư là một trong những yếu tố quyết

định mở rộng hay thu hẹp đầu tư của Hội sở. Do vậy Hội sở đã huy động bằng

nhiều hình thức phù hợp với từng thời kỳ.

2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn:

Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn

đầu tư tín dụng là yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư, là công việc

nghiệp vụ có tính chất sống còn của ngân hàng, vì phần lợi nhuận mà ngân

hàng thu được đều dựa trên việc đầu tư cho vay. Nếu sử dụng vốn có hiệu quả

sẽ bù đắp được chi phí cho huy động vốn và thu được lợi nhuận. Nếu không

sẽ gây ra nguy hại tới vốn tự có của ngân hàng. Vì thế Hội sở Ngân hàng

Nông nghiệp đã và đang thực hiện tốt công tác tín dụng đồng thời chú trọng

đến công tác huy động vốn theo hướng " Đi vay để cho vay " đến mọi thành

phần kinh tế. Để đảm bảo công tác tăng trưởng tín dụng về chất lượng tín

dụng thì Hội sở ngân hàng cũng được đặc biệt quan tâm. Tăng trưởng tín

dụng phải đảm bảo an toàn hiệu quả .

- Làm tốt việc phân loại khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác

nhau, để có hướng đầu tư phù hợp.

- Bên cạnh đó Hội sở ngân hàng còn mở rộng cho vay thông qua việc

ký kết văn bản thoả thuận với các ban ngành, một mặt vừa tuyên truyền

nghiệp vụ ngân hàng, mặt khác thông qua việc ký kết văn bản thoả thuận đôi

bên nhằm gắn trách nhiệm của các ban ngành như Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh,

Hội nông dân tỉnh thành lập các tổ vay vốn ở các phường xã, giúp cho các hộ

ở xa trung tâm có cơ hội tiếp cận được với ngân hàng nông nghiệp. Trong

việc bảo toàn vốn cho vay.

- Căn cứ vào các chương trình kinh tế của tỉnh, các dự án về chuyển

dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để có cơ sở đầu tư đúng hướng.

- Hội sở ngân hàng đã sử lý kịp thời các món vay quá hạn bị rủi ro bất

khả kháng, giúp cho hộ vay ổn định sản xuất, khắc phục dần trong việc trả nợ

tiến vay cũng đã có được những kết quả nhất định.

Biểu 2:

Trong công tác tín dụng, đầu tư vốn là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm, xuyên suốt hoạt động ngân hàng. Có đẩy mạnh được công tác đầu tư

vốn, ngân hàng mới phát huy được vai trò của mình trong cơ chế thị trường,

đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn tín dụng cho phát triển sản xuất và trao đổi hàng

hoá đến tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời với việc mở rộng tín dụng,

Hội sở ngân hàng đã rất quan tâm đến việc thu nợ. Đây là một chỉ tiêu quan

trọng phản ánh hiệu quả của quá trình đầu tư. Hội sở ngân hàng thường xuyên

giám sát quá trình sử dụng vốn vay, đôn đốc thu nợ kịp thời khi đến hạn đựợc

thể hiện qua biểu 2.

* Về doanh số cho vay:

- Doanh số cho vay năm 1999 là 38.699 triệu đồng.

- Doanh số cho vay năm 2000 đạt 64.913 triệu đồng, tăng so với năm

99 là 26 tỷ, tỷ lệ tăng là 67,68%.

- Doanh số cho vay năm 2001 đạt 82.550 triệu đồng, tăng so với năm

2000 là 17.637 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 27,17%.

Trong đó:

- Cho vay ngắn hạn năm 2001 là 66.350 triệu đồng, chiếm 80,37% trên

tổng doanh số.

- Cho vay trung, dài hạn là 16.200 triệu đồng, chiếm 19,63% trên tổng

doanh số.

Từ kết quả trên đạt được đã chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào

cho vay đối với hộ sản xuất và tiêu dùng cá nhân.

* Về doanh số thu nợ qua các năm:

- Năm 1999 là 36.021 triệu đồng.

- Năm 2000 là 45.050 triệu đồng, tăng so với năm 99 là 9.029 triệu

đồng, tỷ lệ tăng bằng 25,06%.

- Năm 2001 đạt 63.100, tăng so với năm 2000 là 18.050 triệu đồng, tỷ

lệ tăng là 40,06%.

* Về doanh số dư nợ qua các năm:

Biểu số liệu trên nói lên công tác mở rộng đầu tư tín dụng của Hội sở

rất tích cực, liên tục qua các thời điểm đều tăng mạnh, dư nợ 2001 đạt 60.730

triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 80,8%.

Trong đó:

- Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2001 là 35.172 triệu đồng, chiếm

57,92%, trên tổng dư nợ.

- Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 25.558 triệu đồng, chiếm

42,08%, trên tổng dư nợ.

Xét về cơ cấu theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ của doanh nghiệp

Nhà nước đã bắt đầu đi vào làm ăn có lãi so với những năm trước đây. Nhu

cầu vốn so với năm 1999 tăng 582 triệu đồng, tỷ lệ tăng 8,02%, năm 2001

tăng 1.700 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 21,71%. Dư nơ của kinh tế ngoài quốc

doanh, chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng qua các thời điểm, chứng tỏ Hội sở

đã đầu tư đúng hướng, phù hợp với mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế

- xã hội của tỉnh nhà. Đặc biệt dư nợ của khu vực tư nhân và cá thể (kinh tế

hộ) tốc độ tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng, dư nợ đến năm

2001 so năm 2000 tăng 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng 80,8%;

* Đánh giá kết quả chất lượng tín dụng qua biểu dư nợ quá hạn của

Hội sở:

Biểu số 3: tình hình nợ quá hạn của hội sở

Đơn vị : Triệu đồng

So sánh So sánh 1999 2000 2001

chỉ tiêu

2000/1999 2001/2000

Số Số   tiền tiền

I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83

1. Phân loại NQH

theo loại

- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15

-Nợ quá hạn trung, dài 383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99

hạn

2. Phân loại NQH

theo thời gian

- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2

- NQH từ 181-360 138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8

ngày

-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3

II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59

dư nợ

(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999, 2000 và 09

tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)

Hội sở NHNo & PTNT coi nhiệm vụ thu nợ là nhiệm vụ trọng tâm, Hội

sở đã phối hợp với các ban ngành, uỷ ban nhân dân các cấp tăng cường thu

hồi nợ quá hạn cụ thể, qua biểu số liệu trên đã nói lên chất lượng tín dụng của

Hội sở chuyển biến rất tích cực, nợ quá hạn ở các thời điểm đều giảm. So

sánh 2000 với 1999 số nợ quá hạn giảm một cách đột biến, với số tuyệt đối

giảm 395 triệu đồng, tỷ lệ giảm 54,7%. Năm 2001 so với năm 2000 đã giảm

91 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 27,83%. Nguyên nhân do năm 2000, 2001, Hội sở

đã tăng trưởng dư nợ rất mạnh và xử lý rủi ro được 184 món = 383 triệu đồng.

Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn đã chấn chỉnh kịp

thời các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ của Hội sở. Vì

vậy công tác thẩm định, xét duyệt cho vay trong những năm gần đây chặt chẽ

và hiệu quả hơn, ít phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ Ngân

hàng.

Tóm lại: Với tốc độ tăng trưởng dư nợ, kết quả công tác cho vay - thu

nợ, số dư nợ quá hạn giảm thấp dưới 1%, theo các biểu phân tích như trên, có

thể kết luận chất lượng tín dụng của Hội sở rất tốt. Đồng thời cũng có thể kết

luận việc thực hiện phát triển kinh tế của các hộ có kết quả và chất lượng cao.

Đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Ngân hàng nông nghiệp đầu

tư và khai thác.

2.2.2.3. Hoạt động khác:

bảng 4: Tình hình tài chính của Hội sở

Đơn vị: triệu đồng

so sánh năm

Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2001/2000

Số tiền Tỷ trọng

Tổng thu nhập 2.210 3.385 2.504 -881 -26

Tổng chi phí 2.010 2.817 1.851 -966 -34,43

Chênh lệch thu - chi +200 +468 +653 +193 +41,23

Hệ số lương 1,4 1,65 1,65

(Nguồn : Theo bảng tính toán quỹ thu nhập 09 tháng đầu năm của Hội sở

NHNo & PTNT)

Trong quá trình kinh doanh, Hội sở đã luôn cố gắng tiết kệm các khoản

chi phí không cần thiết và tích cực đôn đốc thu. Vì vậy kết quả kinh doanh

hàng năm luôn có lãi và đạt được hệ số lương tối đa do Ngân hàng Nông

nghiệp Việt Nam quy định (hệ số lương tối đa năm 1999 là 1,4, năm 2000 và

2001 là 1,65), thu nhập bình quân cán bộ công nhân viên là 1.800.000đ/người

không kể ăn ca.

* Công tác thanh toán :

Công tác thanh toán trong mấy năm gần đây đã có nhiều chuyển biến,

đáp ứng yêu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng đầy đủ nhanh gọn, công

tác thanh toán không ngừng được cải tiến. Gần đây Hội sở NHNo & PTNT)

đã được trang bị lại hệ thống máy vi tính nối mạng, đẩy mạnh ứng dụng tin

học vào hệ thống thanh toán, ngày càng có nhiều khách hàng đến với Hội sở

NHNo & PTNT). Thực hiện chế độ nghiệp vụ kế toán cho vay, kế toán thanh

toán, kế toán tài sản... số liệu đảm bảo chính xác, cập nhật đầy đủ, đúng chế

độ quy định, các nghiệp vụ kế toán khác như thanh toán liên hàng, chuyển

tiền được thực hiện thường xuyên, đảm bảo nhanh chóng, chính xác theo yêu

cầu của khách hàng và đúng chế độ quy định, thái độ và tác phong giao dịch

của cán bộ tận tình, chu đáo.

* Công tác ngân quỹ

Tổng thu tiền mặt và ngân phiếu trong năm 2001 : 139.395 triệu

Tổng chi tiền mặt, ngân phiếu năm 2001 : 139.353 triệu

Trong năm đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 144 món, số tiền

27.605.000đ, phát hiện và thu hồi tiền giả 640 tờ tiền giả với số tiền

23.355.000đ

Nhìn chung công tác ngân quỹ của Hội sở đã chấp hành tốt các quy

định về an toàn kho quỹ, các sổ quỹ, sổ ra vào kho, sổ bàn giao chìa khoá

kho... đều được lập và ghi chép đúng chế độ quy định, không để xảy ra mất

mát, thiếu hụt quỹ.

Ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hội sở còn

làm tốt các mặt công tác khác như thiết lập tốt mối quan hệ với các cơ quan

pháp luật trên địa bàn cùng kết hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đặc

biệt trong công tác thu nợ. Bên cạnh đó, Hội sở còn luôn tổ chức và tham gia

các phong trào văn hoá - thể thao, hội thi tìm hiểu luật, thi công đoàn, thi

nghiệp vụ kiểm ngân, tin học, cán bộ tín dụng giỏi... tạo ra phong trào thi đua

sôi nổi trong cơ quan, động viên cán bộ thêm hăng say trong công việc.

2.3. thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà Giang

2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp

Hà Giang:

Thực hiện chủ trương, chính sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự chỉ đạo

của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trong các năm qua kết quả

hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã đi

đúng hướng, thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, phục vụ kịp thời cho các

chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, đã góp phần thúc

đẩy nền kinh tế nông nghiệp địa phương phát triển với các chương trình về

lương thực, thực phẩm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông

nghiệp, xây dựng một nông thôn mới giúp cho hộ sản xuất từ kinh tế thuần

nông chuyển dần sang đa canh, từ kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân

sản xuất nhỏ, manh mún sang kinh tế hàng hoá.

Cũng từ nền kinh tế thuần nông mà dân còn nghèo, việc tạo lập nguồn

vốn trong nông nghiệp rất khó khăn, các món vay nhỏ lẻ, tản mạn, chi phí

cao, kết quả kinh doanh thấp, mức thu nhập của cán bộ Ngân hàng Nông

nghiệp không cao, môi trường và địa bàn hoạt động còn nhiều khó khăn phức

tạp, đó là những khó khăn nhất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.

Nhưng trong những năm gần đây, Hội sở đã bám sát chủ trương, chính

sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế nông nghiệp -

nông thôn, bám sát thị trường nông thôn, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho

sản xuất, chăn nuôi phục vụ chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương.

Hiện nay trên địa bàn có nhiều tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho

nông nghiệp - nông thôn, nhưng NHNo&PTNT vẫn là tổ chức tài chính lớn

nhất cung cấp tín dụng cho lĩnh vực này. Chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới

tới tận thôn bản, tận hộ để cung cấp vốn cho từng dự án, cho từng con trâu,

bò, cung cấp vốn cho từng cân phân bón, từng cân giống lúa mới... cho bà con

có cơ hội để phát triển kinh tế, chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới là người

bạn tận tuỵ với nhà nông.

Cơ cấu đầu tư tín dụng của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang

đã thực sự chuyển biến một cách tích cực, tỷ lệ đầu tư trung hạn cho hộ sản

xuất mỗi năm một tăng, thực chất đó là tạo lập thị trường, tạo khách hàng ổn

định trong quá trình kinh doanh.

2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp Hà Giang:

* Về cho vay:

Nhìn chung, từ khi Hội sở triển khai cho vay hộ sản xuất, bước đầu đã

đúc kết được kinh nghiệm về quá trình cho vay hộ sản xuất.

Thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn, góp phần từng bước hình

thành các vùng kinh tế, tạo khả năng phát triển kinh tế hàng hoá trên địa bàn

thị xã Hà Giang.

Góp phần củng cố các đoàn thể xã hội, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông

thôn, tạo điều kiện ban đầu để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào

sản xuất và chế biến nông sản, giải phóng phần nào sức lao động cho nông

dân, mở rộng các ngành nghề, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn.

Năm 2001, Hội sở đã đầu tư tín dụng vào các lĩnh vực kinh tế nông

nghiệp như sau:

Lĩnh vực trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, vận tải,

thương nghiệp dịch vụ, ngành nghề khác. Số lượt hộ đến Hội sở vay vốn

trong năm 2001 là 1.850 lượt.

bảng 5 :

(quay ngang)

Số liệu biểu trên cho thấy Hội sở NHNo&PTNT đã rất chú trọng tới

việc mở rộng mạng lưới kinh doanh, do đó doanh số cho vay thu nợ hộ sản

xuất liên tục tăng trong những năm qua.

- Tổng doanh số cho vay năm 2000 đạt 15.397 triệu đồng tăng 164 %

so với năm 1999. (ứng với số tuyệt đối là 9.567 triệu đồng).

- Tổng doanh số cho vay năm 2001 đạt 36.080 triệu đồng, tăng

144,33% so với năm 2000. (ứng với số tuyệt đối là 20.683 triệu đồng).

+ Doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 17.660 triệu đồng

chiếm 48,94% trong tổng doanh số cho vay, tăng 80,81% so với năm 2000,

điều đó chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào các dự án chiều sâu có hiệu

quả, nhằm tạo lập một thị trường lâu dài và bền vững tới các hộ. Đồng thời

cũng phù hợp với chương trình kinh tế của địa phương về phát triển cây chè là

mũi nhọn của địa phương, phát triển đàn trâu, bò, cho vay chất lợp đối với

đồng bào nông thôn gặp khó khăn (tỉnh hỗ trợ lãi suất).

+ Doanh số cho vay ngắn hạn năm 2000 là 18.420 triệu đồng, chiếm

51,05% trên tổng doanh số cho vay, tăng 122,18% so với năm 2000. Là do

phần lớn hộ sản xuất vay ngân hàng là nông dân, các hộ nông dân vay vốn

chủ yếu để trang trải chi phí ngắn hạn như mua thức ăn chăn nuôi, phân bón,

cây giống..

Để đạt được mục tiêu chất lượng tín dụng, Hội sở đã thực hiện nhiều

biện pháp mạnh mẽ nhằm chấn chỉnh công tác tín dụng như:

- Tổ chức phân loại khách hàng để có chính sách ưu đãi về lãi suất và

vốn đầu tư tạo điều kiện cho khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả,

giữu được khách hàng vay vốn thường xuyên.

- Mở hội nghị khách hàng, tuyên truyền các quy chế, chính sách của

ngành, qua đó củng cố mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, rút kinh

nghiệm để phục vụ tốt hơn.

- Thẩm định và giải ngân kịp thời các dự án cho vay theo các trương

trình kinh tế của tỉnh, Chỉnh phủ.

* Về thu nợ :

Song song với công tác cho vay là công tác thu nợ, mục tiêu của tín

dụng là an toàn vốn và có lợi nhuận, cho vay phải thu được cả gốc và lãi. Do

cán bộ tín dụng của Hội sở đã làm tốt công tác thẩm định khi cho vay và

thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với quá trình sử dụng vốn vay của khách

hàng nên bảo đảm thu nợ được đúng hạn.Từng cán bộ tín dụng đã bám sát địa

bàn của mình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay

đúng mục đích, có hiệu quả, làm tiền đề thuận lợi cho công tác thu nợ, hạn

chế tối đa nợ quá hạn phát sinh.

Qua số liệu trên ta thấy tình hình thu nợ của hộ sản xuất đạt kết quả

đáng khích lệ ở các năm gần đây:

- Tổng doanh số thu nợ năm 1999 là 5.830 triệu đồng.

- Tổng doanh số thu nợ năm 2000 là 15.397 triệu đồng, tăng 164% so

với năm 1999, ứng với số tiền là 9.567 triệu đồng.

- Tổng doanh số thu nợ năm 2001 là 21.559 triệu đồng, tăng 216,07%

so với năm 2000, ứng với số tuyệt đối là 14.738 triệu đồng.

Có được doanh số thu nợ như trên là do Hội sở đã phối hợp tốt với các

cấp uỷ chính quyền các phường xã trên địa bàn, tổ chức vận động tuyên

truyền cho người vay nắm được tích chất của tín dụng là hoàn trả. Đối với các

trường hợp chây ỳ không chịu trả nợ thì ngân hàng phối hợp với các cơ quan

luật pháp để xử lý những món nợ đã đến hạn và quá hạn, đối với những

trường hợp do nguyên nhân khách quan bất khả kháng. Ngân hàng làm rõ

nguyên nhân để khoanh nợ và có phương pháp xử lý. Đồng thời xem xét

người vay bị rủi ro mà có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, thì ngân

hàng tiếp tục cho vay để người vay có vốn sản xuất và sẽ có thu nhập để trả

nợ ngân hàng.

* Về tình hình dư nợ :

Sau khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang

nền kinh tế thị trường, để tồn tại trong hoạt động kinh doanh tín dụng của

ngân hàng thì chỉ tiêu dư nợ tín dụng là một trong những chỉ tiêu hàng đầu. Vì

thế bằng mọi biện pháp ngân hàng mở rộng khối lượng tín dụng của mình tức

là tăng dư nợ. Một trong những đặc trưng cơ bản của hình thức tổ chức kinh

tế hộ là quy mô sản xuất còn nhỏ bé, lạc hậu, vốn tự có ít, Do đó để mở rộng

sản xuất kinh doanh, hầu hết các hộ kể cả có thu nhập ở mức khá đều có nhu

cầu vay vốn ngân hàng. Nhận thức được thực trạng trên, Hội sở

NHNo&PTNT Hà Giang đã có nhiều biện pháp khuyến khích các hộ sản xuất

vay vốn ngân hàng, như đơn giản thủ tục vay vốn, mở rộng mạng lưới kinh

doanh, giảm lãi suất cho vay. Với phương châm coi trọng cho vay hộ sản xuất

trong thoì gian qua Hội sở đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất vay vốn để

phát triển kinh tế. Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hội sở luôn chú

trọng đến việc tăng tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn. Bên cạnh đó nâng cao

khả năng tiếp cận khách hàng, giảm chi phí hoạt động và tăng khả năng thu

hồi nợ. Ngân hàng đã cải tiến phương thức cho vay theo hướng tăng dần dư

nợ, cho vay hộ sản xuất theo hướng tăng dần dư nợ, cho vay hộ sản xuất theo

phương thức gián tiếp thông qua tổ chức kinh tế, tài chính trung gian.

Để đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp qua bảng phân tích trên:

- Tổng dư nợ năm 1999 là 6.006 triệu đồng.

- Tổng dư nợ năm 2000 là 12.582 triệu đồng, tăng 109,49% so với năm

1999, ứng với số tuyệt đối 6.576 triệu đồng.

- Tổng dư nợ năm 2001 là 37.103 triệu đồng, tăng 194,82% so với năm

2000, ứng với số tuyệt đối là 25.518 triệu đồng.

- Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo ngành nghề.

+ Dư nợ cho vay ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư

cho vay hộ sản xuất, dư nợ năm 1999 chiếm 43,29%, năm 2000 chiếm

54,66%, năm 2001 chiếm 112,3% trên tổng dư nợ. Do tỉnh đã quan tâm phát

triển ngành nông nghiệp như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các

cây trồng, con giống có giá trị hàng hoá cao vào sản xuất, đầu tư các cơ sở hạ

tầng cho nông nghiệp nông thôn được thoả đáng, có chính sách bảo hộ sản

phẩm nông nghiệp một cách hợp lý. Từ đó sản xuất phát triển khả năng hấp

thụ vốn lớn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng đầu tư tăng trưởng tín dụng.

* Dư nợ quá hạn hộ sản xuất

Khi xen xét chất lượng tín dụng phải xem xét trên nhiều mặt, một chỉ

tiêu quan trọng để đánh giá dư nợ đó có lành mạnh không là chỉ tiêu nợ quá

hạn.

biểu số 6 : dư nợ quá hạn hộ sản xuất

Đơn vị: triệu đồng

So sánh So sánh

2000/1999 2001/2000 1999 2000 2001

chỉ tiêu

Số Số   tiền tiền

I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83

1. Phân loại NQH

theo loại

- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15

-Nợ quá hạn trung, dài 383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99

hạn

2. Phân loại NQH

theo thời gian

- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2

- NQH từ 181-360 138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8

ngày

-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3

II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59

dư nợ

(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999,2000 và 09 tháng

đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang)

Số liệu biểu trên cho biết tỷ lệ nợ quá hạn trong thời gian qua của Hội

đã giảm mạnh. Nợ quá hạn hộ sản xuất năm 2001 giảm 91 triệu đồng so với

năm 2000, tỷ lệ giảm là 27,83%. Là do công tác theo dõi nợ chặt chẽ diễn

biến của dư nợ, thường xuyên đánh giá chất lượng tín dụng kiểm tra việc sử

dụng vốn vay của khách hàng, do đó thu nợ kip thời những khoản nợ đến hạn.

Các trường hợp có nợ quá hạn khó đòi, kéo dài, Hội sở đã phối hợp tốt với

các cơ quan chức năng của địa phương để thu nợ như phát mại tài sản thế

chấp, cầm cố, bảo lãnh...

Nợ quá hạn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ quá hạn.

Nguyên nhân là do những năm trước đây Hội sở thực hiện cho vay theo

chương trình của tỉnh trồng cây cà phê của tỉnh đã bị thất bại, do thời tiết và

khí hậu của Hà Giang không phù hợp, hạn hán kéo dài đã làm chết hàng loạt

đồi rừng cà phê. Số ít còn sống thì năng suất và chất lượng không cao, đã tác

động mạnh vào thu nhập của các hộ và Ngân hàng Nông nghiệp nói chung,

Hội sở nói riêng.

Tuy nhiên, trong những năm qua, Hội sở đã có rất nhiêu biện pháp tích

cực giúp các hộ có điều kiện để khôi phục lại sản xuất, thu hồi được vốn của

Ngân hàng. Mặt khác sử dụng vốn vay có hiệu quả của các thành phần kinh tế

ngày một nâng cao .

2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội

sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang:

Với tốc độ tăng trưởng của dư nợ, kết quả công tác cho vay, thu nợ, tỷ

lệ nợ quá hạn qua các năm giảm thấp dưới 3%, và giảm dần trong những năm

tiếp theo năm 2001 tỷ lệ dư nợ quá hạn chỉ còn dưới 1% trên tổng dư nợ.

Theo các biểu số liệu và phân tích như trên, chứng tỏ chất lượng tín dụng hộ

sản xuất của Hội sở rất tốt, các chiến lược đầu tư, kinh doanh của Hội sở đúng

hướng, đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Hội sở đầu tư và

khai thác.

Với kết quả hoạt động kinh doanh như vậy, Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp Hà Giang đã có đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế

nông nghiệp và nông thôn, đồng vốn của Ngân hàng đã được sử dụng đúng

mục đích, khai thác triệt để khả năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tăng

nhanh vòng quay đồng vốn.

Nhiều hộ gia đình đã giàu lên nhờ được vay vốn Ngân hàng, hàng

nghìn lao động đã có công ăn việc làm, bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới.

Nhờ đồng vốn Ngân hàng, từ các nhu cầu thiết yếu của hộ nông dân

như cây, con giống, phân bón... đến các phương tiện khoa học kỹ thuật như

ứng dụng khoa học, máy móc, thiết bị... đều được đáp ứng đầy đủ và kịp thời.

Vốn Ngân hàng đã thực sự góp phần giúp nông dân khắc phục khó khăn trong

sản xuất kinh doanh.

Với số vốn đầu tư trong năm 2001 của Hội sở đã giúp cho các hộ mua

sắm và đầu tư được như sau:

Lợn giống và lợn thịt: 2793 con 2.150 triệu đồng. =

Trâu, bò giống và sức kéo: 1820 con 5.460 triệu đồng =

Mua sắm máy móc, thiết bị trị giá: = 1.000 tỷ đồng

Cho vay trồng và chăm sóc cây chè 102ha = 2.117 triệu đồng

Cho vay trồng và tu bổ rừng 372ha 2.292 triệu đồng =

Cho vay thâm canh lúa, ngô lai 857ha 1.710 triệu đồng =

Cho vay ngành nghề khác 772 triệu đồng =

Số lượt hộ đến vay vốn là 2.500 lượt

2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân:

Qua nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất ở Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà

Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn một số tồn tại cần

được khắc phục biểu hiện tập trung ở một số điểm sau:

Về tài sản đảm bảo tiền vay:

Đối với các hộ nông thôn ở miền núi, tài sản lớn có giá trị để đảm bảo

tiền vay là ngôi nhà. Xét về mặt giá trị có thể tới 3-4 chục triệu đồng, nhưng

vẫn không đủ tiêu chuẩn làm đảm bảo vì khi khách hàng vay vốn không trả

được nợ phải phát mại tài sản thì thật khó tìm đươc người mua ngôi nhà ở

lưng chừng đồi, bên bờ suối, với nhà nọ cách nhà kia khá xa (200-300m). Khi

có người mua thì giá trị đã bị mất tới 50-60% cho nên việc định giá tài sản khi

cho vay và số tiền thu được khi thanh lý tài sản là quá trình khó khăn và phức

tạp, thường kéo dài thời gian tới vài năm, gây nên nhiều phí tổn ảnh hưởng

đến kết quả kinh doanh cũng như việc tập trung nguồn vốn của Ngân hàng.

Đối với việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay thì

có thể các hộ có nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có thể vay được và Ngân

hàng cũng yên tâm hơn vì đối với đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng không thể

thiếu đối với các hộ sản xuất, nhưng quyền này do cơ quan có thẩm quyền xét

cấp. Cho đến nay ở thị xã Hà Giang mới chỉ có khoảng 60-65% số hộ được

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy một số hộ có nhu cầu về vốn

sản xuất lại không có quyền sử dụng đất lâu dài, rất khó trong việc đảm bảo

tiền vay, hoặc khi không trả được nợ nếu không có quyền sử dụng đất khi bán

thanh lý vì ít người mua, hoặc có mua cũng bị giảm giá từ 20-30%, làm thiệt

hại cho khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của Ngân hàng.

- Trong quá trình cho vay phục vụ các chương trình kinh tế của tỉnh

(ngân sách tỉnh trợ cấp lãi suất trong thời hạn vay) như cho vay trồng cây cà

phê, mua máy sao sấy chè mi ni, máy bóc vỏ cà phê, máy tuốt lúa, máy cày,

máy gặt... Bằng chính sách cởi mở để đưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào

nông nghiệp. Nhưng trên thực tế, do cây cà phê không phù hợp với chất đất

và khí hậu đã bị chết đến 70% diện tích trồng, mặt khác do trình độ nhiều hộ

có hạn đã không biết sử dụng máy móc nên chẳng được bao lâu máy hỏng,

làm ăn thua lỗ, hết thời hạn không trả được nợ Ngân hàng, ngân sách cũng

không trả lãi, dẫn đến Ngân hàng là người gánh hậu quả.

Đây là vấn đề nan giải do lực lượng sản xuất còn bất cập so nhu cầu sản

xuất hàng hoá trên quy mô lớn, sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất

nhỏ, phân tán, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, đã làm

ảnh hưởng đến việc đầu tư vốn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Việc đầu tư vốn phần nào còn mang tính chắp vá, dàn trải theo diện

rộng, đầu tư theo chiều sâu chưa nhiều, tính khả thi của một số dự án vay vốn

chưa cao.

Trình độ dân trí có hạn, nên khi vay vốn Ngân hàng với số lượng lớn để

đầu tư trung hạn như trồng rừng, trồng cây ăn quả... chỉ quen làm theo kinh

nghiệm nhà nông thì khi phải lập một dự án sản xuất kinh doanh lại không có

khả năng làm được. Do vậy nhiều khi nhu cầu vốn rất cần, song lại ngại phiền

hà, không làm được dự án, đây cũng là trở lại cho việc đẩy mạnh đầu tư tín

dụng.

Khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp

trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chủ yếu là về cơ chế lãi suất. ở mọi thời điểm,

bao giờ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng có lãi suất huy động cao hơn lãi

suất cho vay thấp hơn so với Ngân hàng Nông nghiệp, chính vì vậy đã ảnh

hưởng không nhỏ tới kết quả huy động vốn cũng như việc mở rộng đầu tư cho

vay, nhất là đối với các dự án có tính chiều sâu, cần khối lượng vốn lớn, thời

hạn dài.

Đối với các ngành pháp luật chưa đồng bộ, chưa cương quyết cùng với

Ngân hàng để phát mại tài sản khi khách hàng làm ăn thua lỗ do chủ quan gây

ra không trả được nợ, các hồ sơ khi chuyển sang toà thụ lý và giải quyết phải

mất thời gian khá dài, tốn kém chi phí.

* Nguyên nhân tồn tại:

- Do điều kiện của một Ngân hàng miền núi chưa thực sự theo kịp với

yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và yêu cầu đổi mới

trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng.

- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, chưa

ngang tâm với việc quản lý một khối lượng vốn lớn trên địa bàn rộng, đường

sá đi lại khó khăn, với số lượng hộ sản xuất quá lớn. Do vậy việc kiểm tra

thẩm định dự án cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ, thu lãi không được kịp

thời, do vậy không phát hiện được sớm những món vay có tỷ lệ rủi ro cao làm

ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng và với việc tập trung nguồn

vốn. Điều này cũng dễ nảy sinh tư tưởng hạn chế cho vay cho các hộ sản xuất.

- Cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, đường sá đi

lại chưa thuận tiện, các hộ nông dân còn thiếu nhiều thông tin cần thiết về giá

cả và thị trường tiêu thụ, dẫn đến thị trường tiêu thụ của người sản xuất còn

hạn hẹp và không ổn định.

- Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn từ ngân sách quốc gia và nguồn

nguồn ưu đãi khác tập trung đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông

thôn, qua các định chế tài chính khác như Ngân hàng Phục vụ người nghèo,

Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi

trọc... cũng làm hạn chế đến việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông

nghiệp. Cũng do có nhiều ưu đãi này làm cho một số hộ nông dân có tư tưởng

ỷ nại vào Nhà nước, không chủ động xây dựng các phương án sản xuất kinh

doanh có lãi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi.

- Đối với các cấp, các ngành ở địa phương, chỉ chú trọng đến việc đầu

tư vốn phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, nhưng lại

không quan tâm đến chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng.Vì vậy khi hộ

sản xuất sử dụng vốn vay không có khả năng trả được nợ thì buộc Ngân hàng

phải xử lý nợ vay để đảm bảo thu hồi vốn. Nhưng việc làm này của Ngân

hàng lại không được các cấp, các ngành hữu quan đồng tình ủng hộ, làm ảnh

hưởng tới công tác thu nợ của Ngân hàng để đầu tư quay vòng đồng vốn, từ

đó làm hạn chế rất nhiều đến những hộ vay vốn nhưng tài sản quá ít.

- Ngoài ra còn một số nguyên nhân tồn tại khác phải bàn đến, đó là cơ

chế lãi suất còn bất cập, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra còn thấp so chi

phí một món vay quá cao. Cụ thể đối với hộ sản xuất ở cách xa nhau thường

hay vay lẻ tẻ, mỗi lần đến kiểm tra, giải quyết cho hộ vay vốn phải mất nhiều

thời gian của cán bộ tín dụng và chi phí công tác, nhiều khi hạch toán số lãi

thu được và chi phí bỏ ra Ngân hàng phải chịu lỗ. Nhưng so với Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển trên địa bàn thì cao hơn, do vậy lợi thế trong kinh doanh

của Ngân hàng Nông nghiệp phải chịu nhiều thiệt thòi.

- Công tác dịch vụ khuyến nông chưa mang lại hiệu quả cao, dẫn đến

tính khả thi của một số dự án đầu tư thấp. Cụ thể đối với một số cây trồng, vật

nuôi điển hình như: dự án trồng cây cà phê, cây cải dầu, dự án nuôi dê bách

thảo...

Trên đây là những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới công tác đầu

tư tín dụng hộ sản xuất chưa được khai thác triệt để khả năng tiềm tàng sẵn có

trong nông nghiệp. Vì vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh, Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang đã vượt khó đi lên, ngày càng thâm nhập

vào môi trường nông thôn. Từ những kinh nghiệm đến việc đầu tư đã hạn chế

được rủi ro và chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. Trong những

năm qua Hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang đã đạt được những thành tựu

nhất định góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nền sản xuất phát triển, tạo

việc làm cho các hộ sản xuất, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nhưng trong quá

trình cho vay đối với các hộ ở vùng sâu, vùng xa, Hội sở Ngân hàng Nông

nghiệp Hà Giang cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục

tồn tại, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả vốn vay, đảm bảo an toàn tài

sản của Nhà nước, tăng thu nhập cho Ngân hàng, đồng thời phục vụ tốt nhất,

đắc lực nhất cho sự nghiệp xây dựng nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn,

góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình kinh tế của tỉnh Đảng

bộ về phát triển nông nghiệp - nông thôn.

Chương III

một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại

Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

3.1- Những Giải pháp đối với hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Hà Giang.

3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân

hàng Nông nghiệp Hà Giang.

Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và

Nghị quyết của đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIII, phải tiếp tục xoá

đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm giảm bớt lao động dư thừa trong xã hội,

các doanh nghiệp phải là những đơn vị tiên phong trong công cuộc đó. Phải

vươn lên cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, khai thác mọi tiềm năng sẵn có của

tỉnh, mang lại nguồn vốn ổn định lâu dài. Phục vụ thúc đẩy sản xuất tạo đã

cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện chủ trương đó

NHNo & PTNT nói chung và Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp nói riển đã đề

ra một số định hướng về nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở NHNo &

PTNT trong thời gian tới.

- Tập trung đẩy mạnh chiến lược huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn

huy động tại địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các ngân hàng cấp trên phấn

đấu mức huy động tại địa phương tăng 25%, so với năm 2001.

- Đẩy mạnh cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế trong tỉnh

theo các chương trình dự án có hiệu quả và có khả năng thu hồi vốn. Chú

trọng đầu tư vào cho vay kinh tế nông nghiệp để chuyển dịch cơ cấu cây trồng

vật nuôi, đẩy mạnh cho vay chế biến nông lâm sản, tiêu thụ sản phẩm của

nông dân. Đảm bảo tốc độ tăng trưởng dư nợ tăng 26%. Tập trung xử lý nợ

quá hạn, lãi tồn đọng, phấn đấu nợ quá hạn giảm xuống mức thấp nhất hoặc

không có nợ quá hạn.

-Thông qua quan hệ vay - trả của khách hàng, thực hiện nghiêm túc

việc phân loại, sàng lọc khách hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu đối

với khách hàng đủ điều kiện, làm ăn có hiệu quả, sòng phẳng trong thanh

toán. Kiên quyết hạn chế hoặc ngừng cấp tín dụng đối với những khách hàng

làm ăn thua lỗ triền miên, không hiệu quả, không đủ điều kiện vay vốn,do đó

phải tuân thủ nghiêm túc quy trình cho vay, chấp hành tốt các quy định, thể

thể, chế độ của ngành.

- Có hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện thực tế tại địa bàn,

phải làm sao vẫn tăng trưởng được nguồn vốn vừa đảm bảo tình hình tài chính

của đơn vị, tích cực tuyên truyền, vận động khách hàng trên địa bàn mở tài

khoản tiền gửi cá nhân, áp dụng rộng rãi hình thức mở và sử dụng tài khoản

cá nhân.

Đồng thời đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm

soát đối với các chi nhánh cơ sở và sử lý nghiêm các vi phạm theo chế độ qui

định để đưa hoạt động ngân hàng an toàn và hiệu quả.

- Tiếp tục mở rộng thêm mạng lưới hoạt động ngân hàng đến từng thôn

bản để mọi người dân tiếp cận được với ngân hàng coi ngân hàng là người

bạn đồng hành trong sản xuất, mở rộng đầu tư vốn cho những hộ có nhu cầu

phát triển trang trại vừa và nhỏ.

Mở rộng cho vay qua lương ( hình thức cho vay đảm bảo tiền vay bằng

lương ) không cần tài sản thế chấp, hình thức này là một trong những biện

pháp tăng trưởng dư nợ tín dụng, ít rủi do, chất lượng tín dụng cao. Mặt khác

giúp cho cán bộ công nhân viên có thêm nguồn vốn để phát triển thêm kinh tế

phụ gia đình, nâng cao thu nhập cho những hộ làm công ăn lương. Đồng thời

tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội.

- Đẩy mạnh công tác xây dựng đôị ngũ cán bộ cả về năng lực, phẩm

chất. Thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chống

mọi biểu hiện cơ hội, lợi dụng, tiêu cực gây mất uy tín ngành, làm thất thoát

tài sản Nhà nước.

3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Hà Giang

3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả.

Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng có vai trò quyết định đến sự

sống còn của các doanh nghiệp đặc biệt là hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ.

Do dó để ngày càng có nhiều khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình, đặc

biệt là các khách hàng lớn, có uy tín và triển vọng, đòi hỏi Hội sở Ngân hàng

Hà Giang phải xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng đúng đắn và có

hiệu quả, được thể hiện:

- Hội sở có chính sách rõ ràng đối với các đối tượng khách hàng khác

như quan tâm và ưu đãi đối với những khách hàng tốt: có uy tín đối với Hội

sở, có khả năng tài chính lành mạnh, có triển vọng trong các hoạt động sản

xuất kinh doanh, có đầy đủ giá trị đảm bảo cho khoản vay; hạn chế đối với

những khách hàng xấu như có uy tín thấp, có khả năng tài chính yếu.

- Hội sở cần thu thập và phân tích các thông tin về khách hàng tiềm

năng, qua đó giúp cho Hội sở có thể giảm bớt thời gian, chi phí trong việc

xem xét cho vay đối với khách hàng, mặt khác còn giúp Hội sở xây dựng kế

hoạch để lội khéo thu hút khách hàng có triển vọng tốt.

- Hội sở cần đa dạng hoá các hoạt động mở rộng số lượng và nâng cao

chất lượng các dịch vụ cung ứng để tạo ra mối quan hệ nhiều mặt chặt chẽ đối

với các khách hàng, qua đó giúp cho Hội sở có điều kiện để thu thập thông tin

về khách hàng, thực hiện việc giám sát các hoạt động cuả khách hàng và ngăn

ngừa bớt các rỉu ro tín dụng.

3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong

hoạt động tín dụng

Việc chuyển mạnh ngân hàng sang kinh doanh theo cơ chế mới đặt ra

một vấn đề lớn cho các Ngân hàng thương mại đó là: các ngân hàng không

thể ngồi yên một chỗ để chờ khách hàng đến đặt quan hệ mà phải chuyển từ

vị trí bị động sang chủ động ở đây được xét ở hai quá trình; lựa chọn khách

hàng và giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.

Lâu nay trong thực tế thường xuất hiện tình trạng là khách hàng lựa

chọn ngân hàng, ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng với hầu hết khách

hàng đến với mình. Thực ra ở đây phải là quan hệ hai chiều : khách hàng lựa

chọn ngân hàng và ngân hàng cũng lựa phải chọn khách hàng. Điều này rất

quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra được

thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng cuả

ngân hàng.

Khi lựa chọn khách hàng, Hội sở cần chú ý chọn những khách hàng

hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả

nợ đúng hạn. Việc lựa chọn khách hàng cần phải được thực hiện một cách chủ

động ( Nghĩa là nếu khách hàng nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Hội

sở có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với khách hàng đó ) chứ không

phải bị động, cứ ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, khi đó mới xem xét

cho vay hay không. Có một vấn đễ cần lưu ý là việc lựa chọn khách hàng

không chỉ áp dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà áp

dụng cho mọi thành phần kinh tế, nghĩa là đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả,

trả nợ sòng phẳng.

Trong quá trình cho vay, Hội sở phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí

chủ động, nghĩa là phải giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh của

khách hàng, từ đó mới có thể phát hiện kịp thời những tình huống có vấn đề

và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó có thế giúp cho Hội sở đề ra biện pháp

khắc phục hoặc có biện pháp bảo toàn vốn cho vay của mình. Ví dụ như khi

theo dõi một khách hàng có một dự án sản xuất nhỏ nếu thấy trong quá trình

hoạt động có sự giảm sút nhưng mới ở bước đầu chưa thu đựơc hiệu quả (do

máy móc thiết bị còn lạc hậu) hoặc bước đầu đi vào sản xuất không bình

thường có vấn đề, nó đòi hỏi Hội sở phải có biện pháp tác động kịp thời .

Tránh tình trạng biết khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích dẫn đến kinh

doanh không có hiệu quả và không có khả năng trả được nợ đúng hạn, mà Hội

sở lại cho vay thêm nợ mới để trả nợ cũ và cứ thế thì sẽ dẫn đến nguy cơ mất

vốn của Hội sở. ở đây vai trò của Hội sở ngân hàng phải chủ động hơn, vì vốn

mà Hội sở cho vay sẽ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của khách

hàng, do đó Hội sở cần phải sâu sát hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh

của khách hàng vay vốn.

3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích

tín dụng.

Khi xem xét một đơn xin vay, điều chủ yếu cần cân nhắc đối với cán bộ

tín dụng là liệu người vay có đủ khả năng và sẵn lòng trả nợ không ? Dù cho

vay hộ sản xuất hay cho vay thương mại, tiêu dùng thì vẫn phải đánh giá bốn

yếu tố chính: tư cách, mục đích khoản vay, khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo

cho khoản vay.

- Để tiện theo dõi, người ta chia làm hai nhóm dữ liệu cần phân tích

trước khi cho vay đưa ra quyết định cho vay:

- Những dữ liệu hữu hình (những mặt định lượng trong phân tích tín

dụng): như phan tích các tỷ lệ tài chính, dự toán chi tiêu tiền mặt, phân tích

điểm hoà vốn, phân tích độ nhạy cảm. Ta có thể coi việc phân tích mặt định

lượng này là khoa học cho vay.

- Những dữ kiện vô hình ( những mặt định tính trong phân tích tín

dụng) Như đánh giá tư cách người vay, khả năng quản lý, phân tích ngành,

nền kinh tế. Ta có thể coi mặt định tính này là " nghệ thuật cho vay ".

Qua thực tế hiện nay, việc phân tích một dự án xin vay từ nững dữ kiện

hữu hình có một vị trí quan trọng trong khi ra quyết định cho vay. Nhưng nếu

như cán bộ tín dụng cũng dành thời gian và sức lực để kiểm tra những khía

cạnh vô hình mang tính khách quan hơn của người xin vay nhằm xác định

một cách chủ quan khả năng thành công của doanh nghiệp. Đó chính là "

nghệ thuật " cho vay, đây là điều đang bị coi nhẹ và ít được thực hiện nhất

trong thực tế cho vay hiện nay.

Sau khi thực hiện song một loạt các công việc khoa học cho vay, cán bộ

tín dụng phải sẵn sàng và đủ khả năng tách khỏi môi trường quen thuộc của

mình để đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay. Mục đích của việc

điều tra này là nhằm khả năng sinh lời nói chung ngân hàng và năng lực lãnh

đạo của Ban giám đốc, về cơ bản thì đây chính là nghệ thuật cho vay.

3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro.

Trong cơ chế thị trường, rủi ro tín dụng đối với NHTM mang tính tất

yếu và phổ biến. Các chuyên gia ngân hàng đã đề cập rất nhiều đến vần đề rủi

ro trong kinh doanh ngân hàng dưới nhiều khía cạnh khác nhau, có những rủi

ro khách quan, có những rủi ro chủ quan, có những rủi ro do cơ chế, đạo đức

của cán bộ ngân hàng... ở đây, em xin đề cập đến vần đề rủi ro thuộc phía cho

vay đối với hộ sản xuất và làm thế nào để đảm bảo an toàn trong kinh doanh

ngân hàng khi rủi ro sảy ra.

Thực trạng hiện nay, khi hộ sản xuất gặp rủi ro, do thiên tai bất khả

kháng dẫn đến tình trạng không có khả năng trả nợ ngân hàng, tuỳ theo tính

chất của từng loại rủi ro, NHTM có thể sử dụng các biện pháp khác nhau như

cho gia hạn, bán tài sản thế chấp, khoanh nợ..., và cuối cùng là bù đắp bằng

quỹ " bù đắp rủi ro " theo luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phải

dự phòng rủi ro và khoản dự phòng rủi ro phải được hạch toán vào chi phí

(Điều 82- dự phòng rủi ro tín dụng). Đồng thời tại điều 87- các quỹ qui định :

hàng năm tổ chức tín dụng phải trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì

quỹ dự phòng bổ sung vốn đièu lệ và các quỹ khác theo qui định của pháp

luật. Nhưng quỹ bù đắp rủi ro không phải luôn luôn và bao giờ cũng là "phao

cứu sinh" của các NHTM, mà quỹ này cũng có những hạn chế nhất định:

+ Quy mô của quỹ nhỏ cho nên không có khả năng bù đắp khi có rủi ro

lớn.

+ Quỹ này được hình thành từ lợi nhuận của các NHTM nên không

phát huy được tính tương trợ giữa các NHTM không cùng một hệ thống.

Để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng thì việc hình thành quỹ bù

đắp rủi ro là cần thiết và cấp bách. Bên cạnh đó để khắc phục hạn chế của quỹ

này, các NHTM có thể tham gia bảo hiểm đối với các khoản cho vay ( gọi là

bảo hiểm cho vay). Bảo hiểm cho vay có ưu điểm rất lớn:

+ Bảo hiểm cho vay có nhiệm vụ bồi thường cho NHTM khi có rủi ro

xảy ra theo quy định, ngoài ra bảo hiểm cho vay còn có nhiệm vụ phối hợp

với các ngành hữu quan tổ chức các biện pháp để đề phòng, ngăn chặn, hạn

chế các tổn thất xảy ra đảm bảo an toàn cho công ty bảo hiểm cũng như cho

các NHTM.

+ Bảo hiểm cho vay thu hút được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm

nên có khả năng thnh toán nhanh, kịp thời, bù đắp khi có tổn thất lớn, đồng

phát huy được tính công đồng, tính tương trợ giưã các NHTM trong toàn

ngành ngân hàng.

Qua thực tế ta thấy rằng, giải pháp tham gia bảo hiẻm rủi ro tín dụng là

một giải pháp mang tính nguyên tắc cần phải có trong kinh doanh tín dụng.

Nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay, hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa

được hình thành nên không thể chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm,

kể cả trong trường hợp pháp sinh thêm chi phí. Để hạn chế rủi ro khi áp dụng

giải pháp này, NHNo & PTNT Hà Giang có thể cùng với các tổ chức tín dụng

khác lập ra công ty bảo hiểm trực thuộc ngành ngân hàng, hoạt động trong

môi trường đầu tư của các tổ chức tín dụng, phục vụ trực tiếp cho kinh doanh

tín dụng. Khi có rủi ro, công ty có thể đủ sức gánh chịu một phần trách nhiệm

của mình, mà không gây ảnh hưởng đến mặt bằng kinh doanh của tổ chức tín

dụng.

3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ.

Con người là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển hay suy

thoá của nền kinh tế- xã hội và kể cả về chất lượng dịch vụ, hiệu quả hoạt

động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Nghị quyết TW IV đặt trọng

tâm vào sự nghiệp đào tạo, giáo dục để có được đội ngũ con người " vừa

hồng, vừa chuyên", đáp ứng sự nghiệp HĐH, CNH đất nước. Để có đội ngũ

con người như vậy, trong công cuộc đổi mới của ngành ngân hàng, cán bộ

ngân hàng phải là những người có tư cách phảm chất chính trị vững vàng,

trung thành với lý tưởng cách mạng, có trình độ chuyên môn vững vàng,

trung thành với lý tưởng cách mạng, có trình dộ chuyên môn và năng lực thực

tiễn, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, gương mẫu trong đaọ đức, lối sống hay nói

cách khác đi " tài" và " đức " cùng tồn tại trong người cán bộ ngân hàng. Họ

phải là người am hiểu về kinh tế thị trường và hoạt động ngân hàng hướng về

thị trường, giàu kinh nghiệm thực tiễn, chịu khó học hỏi, nghiên cứu để tăng

cường khả năng dự báo phòng ngừa rủi ro. Tích cực học hỏi và nghiên cứu

pháp luật, qui định của Nhà nước và các lĩnh vực liên quan, rèn luyện bản lĩnh

thử thách, có đầy đủ kiến thức về tin học, ngoại ngữ để thực hiện nhanh chóng

công việc và chuẩn xác. Quan trọng hơn, đó là khả năng giao tiếp, ứng sử các

tình huống giao tiếp để từ đó nhận biết được sự trung thực, khách quan, đôi

lúc cũng phải là những nhà " thám tử" tinh nhuệ khi tiếp xúc với đối tượng

gian xảo, lừa đảo để bảo vệ tài sản của Nhà nước và của ngân hàng.

Để có được những con người như vậy, Hội sở cần phải có chiến lược

con người rõ ràng và năng động:

Thứ nhất, tiêu chuẩn hoá cán bộ, nhân viên ngân hàng, cụ thể về đạo

đức, tác phong, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cả về lý luận và thực tiẽn,

trình độ về chính trị, pháp luật, khả năng giao tiếp, quản lý điều hành... Ví dụ

như:

+ Cán bộ hoạch định chính sách: phải am hiểu về luật pháp, lý luận,

thực tế nghiệp vụ chuyên môn ngân hàng, phải có kiến thức tổng hợp tốt...

+ Giám đốc điều hành: phải am hiểu luật pháp, chế độ, có năng lực quy

tụ lực lượng để xử lý công việc mau chóng, chính xác, phải am hiểu về quy

trình nghiệp vụ, năng động, sáng tạo trong sử lý tình huống.

+ Nhân viên ngân hàng: tuỳ theo cụ thể công việc mà phân ra loại 1;

loại 2, loại 3,... có tiêu chuẩn cụ thể, gắn quyền lợi, trách nhiệm cho từng loại

nhân viên, hàng năm có thi nâng bậc lương nhân viên..

Thứ hai, phải thường xuyên đào tạo, đào tạo lại cán bộ nhân viên để họ

đảm đương tôt công việc, kết quả các kỳ thi kiểm tra trình độ cán bộ nhân

viên là cơ sở để tuyển dụng, đề bạt, phân công nhân viên cho phù hợp. Cần

phải coi trọng đào tạo về pháp luật, lối sống tiết kiệm, tính năng động trong

công việc.

Thứ ba, luôn luôn độngviên khuyến khích nhân viên, thông qua thưởng

phạt vật chất, bổ nhiệm, đề bạt, cố gắng tạo điều kiện làm việc thuận lợi nhất

giúp họ hoàn thành tốt công việc.

Để sử dụng cán bộ tín dụng có hiệu quả, Hội sở cần chuyên môn hoá

đối với từng cán bộ tín dụng.

Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thẻ hiểu biết khách hàng một

cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng

trong quá trình sắp xếp, phân công lại nhân viên cũng cần đặc biệt hạn chế.

Chỉ nên thay đổi cán bộ tín dụng khi có những vấn đề ảnh hưởng không tốt

đến quyền lợi của Hội sở. Vì trong các thông tin về khách hàng có những

thông tin không được lưu giữ bằng văn bản hay mọi phương tiện lưu tin nào

khác trong đó những thông tin " mắt thấy, tai nghe " từ thực tế cơ sở kinh

doanh của khách hàng đóng vai trò quan trọng, những thông tin được hình

thành bằng " linh cảm" và cả trực giác của cán bộ tín dụng trong quá trình tiếp

xúc, quan hệ với khách hàng. Khi bàn giao giữa cán bộ tín dụng, những thông

tin trên có thể bị lãng phí.

Việc chuyên môn hoá đối với từng cán bộ tín dụng vẫn đảm bảo được

khả năng đa dạng hoá đầu tư của Hội sở để tránh rủi ro, khắc phục mâu thuẫn

giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng và độ tin cậy của

các thông tin tín dụng tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ khách

hàng lâu dài. Đồng thời giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách

hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sủ

dụng tiền vay.

3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương

tiện thông tin đại chúng.

Có thể nói rằng, cho đến nay trong suy nghĩ của một bộ phận dân cư

trong xã hội còn hiểu chưa đầy đủ về ngành ngân hàng. Đối với họ dù đã hội

đủ điều kiện vay vốn ngân hàng nhưng họ còn rất nhiều e ngại khi tiếp cận

vay vốn ngân hàng, do thông tin họ nhận thức rất hạn chế. Một phần của

nguyên nhân này là do ấn tượng về người cán bộ tín dụng thời bao cấp còn để

lại trong tâm trí họ: thái độ hách dịch, cửa quyền... và điều không thể phủ

nhận đó là tình trạng xuất hiện " cò tín dụng" do lợi dụng sự thiếu hiểu biết

của khách hàng vay vốn hoặc cũng có thể là do cán bộ tín dụng trực tiếp tham

gia.

Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được quyền lựa chọn ngân

hàng để giao dịch, do đó các NHTM cố gắng bằng nhiều biện pháp để thu hút

các khách hàng đến gửi, vay tiền và thực hiện cac dịch vụ ngân hàng khác. để

cạnh tranh với các NHTM khác, trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Hội sở NHNo &

PTNT Hà Giang sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trên báo, đài để

cho khách hàng hiểu rõ về mình là rất cần thiết.

Trên đây là những gỉai pháp thuộc về yếu tố chủ quan tức là bản thân

Hộ sở Ngân hàng Nông nghiệp phải cố gắng thực hiện, nếu yếu tố khách quan

không thuận lợi thì Hội sở sẽ không thực hiện tốt các biện pháp này. Vậy từ

phiá Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần có những định hướng và giải pháp

nào để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng nói chung, Hội sở NHNo & PTNT

Hà Giang nói riêng nâng cao được hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất.

3.2. Các giải pháp điều kiện

3.2.1. Từ Nhà nước

3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho

hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát triển nông

nghiệp nông thôn.

Môi trường pháp lý không đầy đủ là một cản trở lớn đến sự phát triển

các hoạt động kinh doanh của ngânn hàng nói chung và hoạt động đầu tư tín

dụng của ngân hàng thương mại đối với phát triển nông nghiệp nông thôn nói

riêng. Hoạt động ngân hàng liên quan đến hầu hết các ngành trong nền kinh tế

quốc dân, chính vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế tạo ra

hành lang pháp lý yểm trợ cho hoạt động ngân hàng vừa là nhiệm vụ cấp bách

vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Nhà nước cần ban hành và dưa vào

thực tế các luật như: Luật thế chấp tài sản, Luật kiểm toán, Luật sở hữu... bên

cạnh Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng vừa mới đi vào

hoạt động, các luật này sẽ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các ngân

hàng, các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo được tính hiệu quả, an toàn cho

nguồn vốn đầu tư tín dụng của ngân hàng.

Ngoai ra để thực hiện quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo ra sự ổn định

tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cần phải hoạch định các chính sách quan trong

như: chính sách thuế, chính sách kinh tế vùng... chính sách xuất nhập khẩu...

những chính sách này khi đưa ra phải phù hợp với những diễn biến kinh tế

theo tín hiệu thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát

triển và kinh doanh có hiệu qủa, từ đó tăng thu nhập cho xã hội, tăng tích luỹ.

3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông

nghiệp nông thôn.

Để thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn,

Nhà nước cần phải có chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, có

như vậy mới tạo điều kiện cho nhu cầu sản xuất phát triển, áp dụng công nghệ

tiên tiến, sử dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất để tạo ra môi trường

sản xuất hàng hoá thực sự trong nông thôn.

Cần có chính sách trợ giá đối với sản xuất nông nghiệp, chính sách bảo

hiểm và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ sản xuất. Có thể tìm cách xác định thị

trường tiêu thụ ở tầm vĩ mô, tránh sự thua lỗ và ứ đọng sản phẩm không đáng

có của nông dân, có chính sách tài trợ cho ngành nông nghiệp khi thiên tai

mất mùa.

Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho

các hộ sản xuất để tạo điều kiện cho họ làm thủ tục vay vốn Ngân hàng, phát

triển sản xuất như về thủ tục hồ sơ vay: trường hợp hộ nông dân chưa được

cấp quyền sử dụng đất thì giấy chứng nhận do uỷ ban nhân dân xã các cấp xác

nhận đất không tranh chấp có giá trị bảo đảm, hộ nông dân được vay ngân

hàng.

3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống

NHTM góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

Để đảm bảo cho các NHTM phát huy tính chủ động sáng tạo trong quá

trình kinh doanh, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chính sách tiền tệ, hỗ trợ

đắc lực cho thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước mà Đại hội VIII đề ra,

Nhà nước cần chú trọng đến vấn đề:

- Trước hết các NHTM là công cụ để thực hiện chính tiền tệ của Nhà

nước nhằm ổn địng kinh tế vĩ mô, đồng thời cũng là một tổ chức kinh doanh

tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Do vậy để tạo điều kiện cho các NHTM

kinh doanh hiệu quả cần phải tạo lập một cơ ché riêng áp dụng cho chúng,

ngoài những cơ chế áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Các

NHTM cần được bình đẳng như các doanh nghiệp khác trong hoạt động kinh

doanh: được quyền lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện cho vay, bảo lãnh,

tránh sức ép từ nhiều phái dưới nhiều hình thức, được thành lập quỹ dự phòng

tổn thất để bù đắp rủi ro, tạo điều kiện an toàn trong kinh doanh. Ngoài ra,

hoạt động tín dụng với chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng đồng

tiền do đó cần ngăn ngừa các hiện tượng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn

nhau giưã các doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hoá

và xây dựng cơ bản nhằm thiết lập một trật tự và lành mạnh hoá trong lưu

thông tiền tệ.

- Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện để hoạt động tín dụng của

các NHTM được thực hiện theo cơ ché thị trường, đảm bảo cạnh tranh lành

mạnh giữa các tổ chức tín dụng.

3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm

nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Hoạt động tiền tệ và ngân hàng là một lĩnh vực đặc thù, luôn tiềm ẩn

nguy cơ rủi ro cao từ phiá khách hàng dẫn đến rủi ro của tổ chức tín dụng,

nhất là hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

đang ở giai đoạn đầu, có nhiều vần đề mới phát sinh. Tổ chức tín dụng là

người gánh chịu rủi ro cho xã hội, song một mình tổ chức tín dụng không thể

tự sử lý được tất cả các vụ việc, rất cần có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan

bảo vệ pháp luật. Vấn đề này vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu quan trọng

trong việc bảo đảm hoạt động ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Có sự hỗ

trợ tốt của các cơ quan hữu quan thì mọi việc đều có thể sử lý một cách nhanh

chóng và phù hợp với thựctiễn. Sự phối hợp và hỗ trợ này, với mục tiêu trước

hết là phòng ngừa và ngăn chặn vi phạm, có thể giảm được các vụ việc phải

xử lý hình sự và thứ hai là giải toả " nợ đóng băng" thu hồi được vốn vay thì

ngân hàng sẽ lại có được nguồn vốn để tiếp tục cho vay đối với nền kinh tế.

3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN

3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay.

Để hoàn thiện cơ chế tín dụng hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên

ban hành một số ít văn bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất

cả các qui định về loại hình hoạt động tín dụng, thay thế toàn bộ văn bản đã

ban hành trước đây, không nên bổ sung sửa chữa văn bản cũ cho dù nó có còn

nhiều phù hợp thì sẽ được chuyển nguyên xi sang văn bản mới, có vậy mới dễ

và tiện cho người thực hiện. Các văn bản qui định nên ở khung pháp lý chung,

không nên quá chi tiết để dẫn đến việc can thiệp sâu vào hoạt động của các tổ

chức tín dụng và vừa khó thực hiện. Về vấn đề này, thời gian qua chúng tá đã

có những chuyển biến tích cực trong việc trong việc nới lỏng chính sách lãi

suất, từ chỗ quy định cụ thể mức lãi suất cho từng loại ( theo thời gian và đối

tượng xin vay...) tiến tới quy định khung lãi suất và hiện nay đang áp dụng

quy định về "trần" lãi suất của Thống đốc. Tuy nhiên việc thực hiện theo

"trần" lãi suất đã và đang gây trở ngại, bỏ sót việc đưa vốn tới các dự án có

mức rủi ro cao nhưng lại nhiều khả năng sinh lời lớn, lâu dài ( như một số dự

án đầu tư vào nông nghiệp, nuôi trồng, chế biến nông sản phẩm...). Ngược lại

không ít dự án, phương án có mức rủi ro thấp, sinh lời không cao, nhưng lại

tạo được nhiều việc làm... lại khó tiếp cận được với ngân hàng (dự án trồng

rừng, thuỷ nông, đường xá, gia công hàng xuất khẩu...). Trần lãi suất không

phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế, chưa bao quát đủ mức

rủi ro tiền tệ thông thường. Trần lãi suất gò bó tính chủ động linh hoạt trong

kinh doanh của từng NHTM, khó có thể giải quyết hài hoà cả ba lợi ích

thường xuyên mâu thuẫn nhau: giữa người vay, trung gian ngân hàng và

người đầu tư. Ngoài ra, trần lãi suất cố định tạo ra nguy cơ rủi ro tín dụng khi

có tỷ giá biến động do nó không cho ngân hàng khả năng linh hoạt hoá lãi

suất để giảm thiểu thua thiệt do tỷ giá biến động gây ra. Do đó hướng giải

quyết ở đây là, không chỉ dừng lại ở việc áp dụng trần lãi suất mà tiến tới

chúng ta cần tiến hành thả nổi lãi suất. Tất nhiên đây là một vấn đề không đơn

giản, nó chỉ có thể thực hiện khi nền kinh tế đủ mạnh và ổn định và các chính

sách, chế độ của ngành ngân hàng và các ngành liên quan được điều chỉnh

cho phù hợp, đồng bộ.

Về cơ chế cho vay vốn chỉ nên có hai thể lệ tín dụng ngăn hạn và thể lệ

tín dụng trung và dài hạn. Hai văn bản này phải đạt được yêu cầu là khung

quy định chung cho tất cả các loại hình cấp tín dụng cả bằng đồng Việt Nam

và ngoại tệ như cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê

tài chính, hợp vốn và các hình thức khác, văn bản này bao gồm cả những quy

định riêng cho loại hình tín dụng ưu đãi; trong hai thể lệ tín dụng này phải có

quy định mở cho các tổ chức tín dụng có điều kiện nghiên cứu phát triển thêm

nghiều sản phẩm mới trong hoạt động tín dụng ngân hàng và trách nhiệm của

các tổ chức tín dụng phải báo cáo xin ý kiến Ngân hàng Nhà nước về phát

triển sản phẩm mới, cũng như quy trình nghiệp vụ của tổ chức tín dụng mình

cho loại sản phẩm này, thể lệ tín dụng mới phải thể hiện rõ được quy trình

kiểm tra, kiểm soat, trách nhiệm dân sự và sử lý vi phạm hợp dồng theo pháp

luật.

3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng.

Như đã phân tích trong phần các giải pháp từ phiá NHNo & PTNT Hà

Giang, việc lập hàng rào bảo hộ cho hoạt động tín dụng nói riêng, kinh doanh

nói chung của các NHTM bên cạnh việc thiết lập quỹ dự phòng rủi ro thì các

NHTM cũng nên tham gia bảo hiểm tín dụng. Hiện nay, quy chế về trích lập

và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ

chuức tín dụng đã có văn bản hướng dẫn là Quyết định 48/1999/QĐ-NHNN5

ngày 08/02/1999, nhưng tham gia bảo hiểm là một vấn đề hết sức mới mẻ đối

với chúng ta. Vậy tham gia bảo hiểm tín dụng như thế nao?

ở một số nước đã phát triển như Pháp, Thuỵ Điển, Mỹ... tổ chức bảo

hiểm tín dụng theo hai phương thức:

Một là: Thành lập công ty bảo hiểm trực thuộc ngành ngân hàng.

Việc thành lập công ty bảo hiểm tương tự như việc thành lập doanh

nghiệp. Vốn pháp định của công ty này có thể do NSNN cấp hoặc có thể do

các cổ đông đóng góp. Thông thường ở các nước, vốn pháp định của công ty

này do các cổ đông đóng góp, mà các cổ đông phần lớn là là NHTM. Hoạt

động của công ty này chỉ kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm đối với hoạt động

ngân hàng ( baỏ hiểm đối với tiền gửi và tiền vay)

Hai là: Tham gia bảo hiểm tín dụng tại các công ty bảo hiểm độc lập,

có thể là công ty bảo hiểm quốc doanh hoặc là công ty bảo hiểm ngoài quốc

doanh.

Các công ty bảo hiểm này hoạt động bảo hiểm trên rất nhiều lĩnh vực,

cả bảo hiểm tài sản, bảo hiểm thân thể, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, với các

bảo hiểm rất phong phú.

Thực tế ở Việt nam hiện nay hoạt động bảo hiểm đang phát triển mạnh,

nhưng các loại hình bảo hiểm còn quá ít và các nghiệp vụ bảo hiểm vẫn còn

trong phạm vị hạn hẹp cho nên phương thức bảo hiểm thứ hai chưa phù hợp

với điều kiện ở Việt Nam hiện nay.

Phương thức bảo hiểm thứ nhất sẽ phù hợp hơn trong điều kiện ở Việt

Nam hiện nay, với lý do: công ty bảo hiểm này hoạt động dưới sự điều tiết,

can thiệp của NHNN ( chẳng hạn bắt buộc các NHTM phải tham gia bảo

hiểm; trợ giúp khi cần thiết...) nên phí bảo hiểm rẻ hơn so với phương thức

thứ hai. Đồng thời phương thức bảo hiểm thứ nhất sẽ phát huy được tính cộng

đồng, tính tương trợ giữa các NHTM, các tổ chức tín dụng, góp phần đảm bảo

an toàn trong toàn hệ thống ngân hàng, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất

nước.

3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các

tổ chức tín dụng.

Trong mọi thời kỳ, Ngân hàng Nhà nuớc có nhiệm vụ quản lý, giám sát

hoạt động tín dụng của các NHTM, lành mạnh hoá môi trường hoạt động tín

dụng và có những hỗ trợ cần thiết. Trong thực tế thì thanh tra ngân hàng thời

gian qua chỉ xuất hiện khi " sự đã rồi", chỉ có tác dụng kiểm tra tại chỗ nhằm

giảm bớt các tổn thất chứ không " giám sát từ xã" nhằm ngăn ngừa các tổn

thất.

Để tăng cường hiệu quả hoạt động thanh tra thời gian tới cần:

-Phân công, sắp xếp lại hoạt động của ác cơ quan và cán bộ thanh tra,

tránh phân tán, chồng chéo và kém hiẹu quả. Cụ thể: Vụ các định chế tài

chính và Vụ quản lý ngoại hối của NHNNTW cần thống nhất với nhau trong

việc kiểm soát qui chế quản lý các hoạt động ngoại hối, cũng như cấp giấy

phép giao dịch thanh toán quốc tế. Đồng thời thanh tra và phòng quản lý các

tổ chức tín dụng của các chi nhánh NHNN địa phương cũng cần phối hợp chặt

chẽ, tổng hợp ttin của NHTM cơ sở trên địa bàn lên mạng máy tính nhằm có

thẻ thực hiện được chức năng của hai tổ chức mà không bị chồng chéo.

- Chỉ đạo các NHTM hoàn thiện một số tiêu chuẩn nhất định tạo điều

kiện giám sát từ xa có hiệu quả, cụ thể: yêu cầu các NHTM thực hiện nghiêm

chỉnh chế độ thông tin báo cáo, yêu cầu các NHTM báo cáo các chỉ tiêu thống

kê ngoài cân đối và các cam kết ngoại bảng, bắt buộc các NHTM phải hoạt

động trên cơ sở số vốn góp đầy đủ theo quy định, phải có hệ thống kiểm soát

nội bộ...

- Thường xuyên phân tích, nhận định tình hình, đặc biệt khi trong nước

và khu vực có những biến động kinh tế tài chính lớn, nhằm thực hiện thanh

tra đối với các NHTM thuộc diện đáng nghi ngờ do chịu những ảnh hưởng bất

lơị.

- Đối với việc giám sát hoạt độngcủa các NHTM cần ban hành quy chế

giám sát về các mặt: tình hình chấp hành pháp luật ngân hàng, tình hình chất

lượng tài sản có sự phù hợp về cơ cấu tài sản Có và tài sản Nợ, tình hình khả

năng thanh toán và khả năng sinh lời, khả năng sinh lời.

- Cần chú trọng giám sát mức tăng trưởng của dư nợ ( dư nợ phân theo

kỳ hạn, tiền tệ, theo ngành, theo thành phần kinh tế ...), tỷ lệ cho vay thị

trường I ( cho vay khách hàng ) và thị trường II ( cho vay các tổ chức tín

dụng), tỷ lệ các loại nợ có vấn đề, bảng phân loại nợ hàng kỳ, mức độ tổn thát

và khả năng bù đắp tổn thát ( bằng các quỹ hiện hành, đặc biệt là quỹ dự

phòng rủi ro tín dụng).

3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả.

Có thể nói, thông tin do Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (

CIC) cung cấp thời gian qua là quá nghèo nàn so với nhu cầu thông tin nhằm

quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM Hà Giang, chưa kể

các thông tin này còn thiếu tính kịp thời và đa dạng. Đó là do: một mặt, quan

hệ kinh doanh ngân hàng- khách hàng không khuyến khích ngân hàng tiết lộ

với các cơ quan Nhà nước cùng như rộng rãi giới kinh doanh về tình hình dư

nợ, cũng như các khoản nợ có vấn đề của khách hàng của mình, do vậy mà

các ngân hàng khá dè dặt trong việc đăng ký trở thành thành viên của CIC

cũng như cung câp thôngtin đầy đủ cho CIC; mặt khác, điều kiện hiện nay

chưa cho phép CIC có thể tạo thành một mạng thông tin hoàn hảo, cập nhật

được hệ thống chỉ tiêu về doanh nghiệp đầy đủ theo yêu cầu của các NHTM

trên địa bàn ( thiếu các điều kiện kỹ thuật, thiết bị, kinh phí, trình độ cán bộ...)

do vậy NHTM vẫn phải tìm kiếm thông tin bên ngoài nhằm đánh giá đúng

khách hàng của mình.

Thời gian tới, để CIC có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích cho các

NHTM trong các quan hệ tín dụng với khách hàng cần phải thực hiện một số

giải pháp sau:

- Trước hết, CIC cần phối hợp với các cơ quan chủ quản nhằm tư vấn,

thông báo các nhu cầu về vốn chưa được được đáp ứng, đồng thời đề xuất

hướng đáp ứng các nhu cầu này với các NHTM. Điều này sẽ khích thích đối

với các NHTM trong việc tham gia CIC.

- CIC nên cung cấp thông tin khi các tổ chức tín dụng thực sự cần thông

tin của CIC, nhằm phát huy được hiệu quả của nguồn thông tin mà CIC thu

thập được. Muốn vậy, yêu cầu CIC phải tăng cường đối tượng cũng như

pham vị thu thập thông tin.

- Cần hoàn hảo các điều kiện để CIC có thể hoạt động có hiệu quả như :

điều kiện về đội ngũ dân sự ( đào tạo lại, đặc biệt là kiến thức về công nghệ,

thông tin cũng như kiến thức ngân hàng hiện đaị...) điều kiện vật chất, thiết

bị, về mạng lưới hoạt động, phân phối và lưu trữ thông tin.

3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM.

Riêng đối với NHNo & PTNT hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông

nghiệp là ĩnh vực chứa dựng nhiều rủi ro nhất do thiên tại, dịch hoạ, sự biến

động của thị trường trong và ngoài nước, một bộ phận lớn khách hàng là các

hộ nông dân dàn trải trên địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, hầu hết

các món vay có giá trị nhỏ nên chi phí hoạt động ngân hàng lớn, những khó

khăn đem lại sự bất lợi cho các Ngân hàng Nông nghiệp trong cạnh tranh với

các NHTM khác. Nếu không tạo điều kiện cho Ngân hàng Nông nghiệp đủ

sức tồn tại và phát triển thì cái thiệt không chỉ cho bản than hệ thống Ngân

hàng Nông nghiệp mà vấn đề ở chỗ suy yếu của hệ thông Ngân hàng Nông

nghiệp sẽ khéo theo sự kém phát triển của kinh tế nông thôn, nơi có tiềm

năng lao động lớn, nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cung cấp

lương thực, nông sản phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu của cả nước. Vì vậy,

Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, về lãi suất đối với các tỉnh miền núi cần có chính sách lãi suất

hợp lý cho nông nghiệp, nông thôn, sao cho phù hợp với đặc thù của sản xuất

kinh doanh ở từng khu cực, môi trường kinh doanh của từng ngân hàng, quan

tâm hỗ trợ vốn khi cần thiết ; đề nghị ngân sách sớm bù đắp đối với những

loại vốn cho vay phục vụ các mục tiêu kinh tế theo chính sách... ưu tiên dành

các khoản vốn từ nước ngoài tài trợ cho nông nghiệp nông thôn qua Ngân

hàng Nông nghiệp để cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng phát triển nông

nhiệp và nông thôn.

Hai là; Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi

cho Ngân hàng nông nghiệp ở miền núi hoạt động có hiệu quả hơn vì môi

trờng nông nghiệp ở miền núi điều kiện kinh doanh còn khó khăn.

kết luận

Kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất trong giai đoạn

hiện nay đã và đang chứng minh được vai trò của nó không thể thiếu trong

nền kinh tế thị trường hiện đại, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh

những kết quả mà kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được còn đang phải đương

đầu với rất nhiều thử thách lớn .

Với những chủ trương, chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước

cùng với su hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá của nến kinh tế thế giới thì

kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là những đối tượng có nhiều dự án sản xuất kinh

doanh có hiệu quả cao và kinh tế ngoài quốc doanh sẽ mau chóng trở thành

khách hàng chính của ngân hàng.

Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp và nông

thôn. Để thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông - lâm -

ngư - diêm nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh. Có cơ cấu hợp

lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất

lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của

công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước.

Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp - nông thôn nước ta có

những chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng

trưởng liên tục cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương

thực đã được giải quyết, từ chỗ thiếu ăn, nay đã có dư thừa xuất khẩu. Cơ cấu

ngành nghề đã hình thành tương đối rõ nét, các vùng chuyên canh lớn trồng

cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển

dịch theo xu thế chung của cả nước, cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi đựoc

quan tâm, đầu tư, cải tạo nâng cấp và xây dựng mới.

Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn

nước ta được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất,

tinh thần của nhiều vùng nông thôn được cải thiện, làm cho dân giàu, nước

mạnh.

Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp - nông thôn là do

có sự nỗ lực, phấn đấu, đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp. Trong đó có vai

trò to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang nói

riêng, trong việc đầu tư tín dụng, một sự cần thiết tất yếu khách quan và

không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp -

nông thôn.

Cho vay hộ sản xuất, một nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng Nông

nghiệp, và nhiệm vụ hàng đầu là cho vay hộ sản xuất - khách hàng tiềm năng

của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang.

Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với công tác thực

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang” Trong đề tài nghiên cứu đã

tiễn, tôi đã chọn đề tài: Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở

thực hiện được một số nội dung cơ bản sau:

Đã khái quát hoá được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được

một số biên pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ

sản xuất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà

Giang.

Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay

hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tại cơ bản trong quá trình

cho vay hộ sản xuất tại Hội sở.

Trên cơ sở phân tích thực trạng luận văn đã đưa ra được hệ thống các

giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, với Bộ tài chính, Ngân

hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tỉnh Hà Giang, Ngân hàng

cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất, nhằm góp phần

nâng cao, hoàn thiện để mở rộng khối lượng tín dụng cũng như các vấn đề

cho vay hộ sản xuất và làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức tối thiểu.

danh mục tài liệu tham khảo

---------

1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, IX.

2. Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng.

3. Giáo trình lý thuyết tiền tệ- tín dụng- Trường đại học tài chính kế toán

4. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng nâng cao -Học viện ngân

hàng.

5. Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999.

6. Quyết định 324 - 284 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban

hành: Quy chế cho vay đối với khách hàng của tổ chức tín dụng.

7. Quyết định 180-06 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt

8. Nam ban hành: Quy định cho vay đối với khách hàng.

9. Các báo cáo, chứng từ, tài liệu của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà

Giang.

10. Các tài liệu, tập san, tạp chí Ngân hàng năm 2000, 2001.

11. Các tài liệu khác có liên quan.