VĂN MẪU LỚP 11 BÌNH GIẢNG KHỔ THƠ ĐẦU TRONG BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ

CỦA HÀN MẶC TỬ

BÀI MẪU SỐ 1:

Hàn Mặc Tử (1912-1940) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" (1932-1941). Ông là nhà thơ đa phong cách. Bên cạnh những kịch thơ huyền ảo thơ mộng là những bài thơ "thuận nghịch độc" cực kì điêu luyện, bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ và hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. "Mùa xuân chín", "Đây thôn Vĩ Dạ",… là những bài thơ tuyệt bút đầy hương sắc trong vườn thơ Việt Nam hiện dại.

"Đây thôn Vĩ Dạ" viết về cảnh sắc thiên nhiên và con người xứ Huế đáng yêu, nói lên nỗi niềm khao khát được hòa hợp, gắn bó với người, với cảnh của nhà thơ đối với một miền quê thơ mộng. Đây là khổ đầu của áng thơ trữ tình này:

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền ?"

Vĩ Dạ, một làng cổ nổi tiếng, nơi cố đô Huế, nằm bên bờ Hương Giang. Cảnh vườn tược xanh tươi, cây trái bốn mùa, với sông nước con đò và những nếp nhà duyên dáng, êm đềm… Vĩ Dạ từng gắn liền với những câu hò Mái nhì, Mái đẩy, hò Giã gạo…, từng làm say đắm lòng người đã mấy trăm năm qua:

"Núi Truồi ai đắp mà cao,

Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu ?

Nong tằm ao cá nương dâu

Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò "

Những tiếng "ai" thân thương trong câu hò xứ Huế ấy đã vọng vào thơ Hàn Mặc Tử, gợi nên bao ám ảnh thương nhớ bồi hồi: "Vườn ai… Thuyền ai… Ai biết tình ai có đậm đà”.

Câu thơ đầu mang tính lưỡng ngôn vừa như một lời chào mời thân mật, vừa như một lời trách nhẹ nhàng sơ sơ mà nghe rất đáng yêu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Câu hỏi tu từ chứa đựng bao hoài niệm bâng khuâng. Sáu thanh bằng liên tiếp, rồi đọng lai một thanh trắc "Vĩ", âm điệu vần thơ lâng lâng, tình tứ: đã lâu anh không về thăm thôn

Vĩ và thăm… em. Vĩ Dạ phải là nơi để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều kỉ niệm đẹp mới thoáng hiện chút tâm tình ấy.

Câu thứ 2, thứ 3 tả cảnh sắc Vĩ Dạ:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc".

"Nắng mới lên" là nắng sớm bình minh, cảnh được nhìn từ xa với bao trìu mến, vẫy gọi. Hàng cau cao vút, thẳng tắp là hình ảnh thân thuộc của Vĩ Dạ, ở đây, hầu như vườn nhà nào cũng có một, hai hàng cau thẳng tắp, vút cao lên như đón chào du khách từ xa, như trầm mặc trong sương sớm, lắng nghe chuông chùa Diệu Đế, Thiên Mụ, và tắm ánh hình minh rạng ngời tàu cau. Nhịp thơ 1- 3-3: "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" như nhịp bước khoan thai của khách xa, rồi đứng dừng lại, trầm ngâm ngắm nhìn nắng mới trên những tàu cau xanh biếc rạng ngời.

Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" như một lời trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp lộng lẫy của cỏ cây, hoa trái. "Vườn ai" không xác định, một chút ngỡ ngàng bâng khuâng. Đích thị là vườn xuân của cô gái, của nhà em; của lòng em, vẫn là cảnh cũ người xưa, nhưng đã lâu chưa về chơi nên ngỡ ngàng mới thốt lên như vậy. Vườn tược Vĩ Dạ xanh tươi và sum sê bốn mùa. Lá xanh mỡ màng ướt đẫm sương đêm, láng mướt lên, ánh ngời lên dưới nắng hồng bình minh màu xanh ngọc bích. Hai tiếng "mướt quá" và hình ảnh so sánh "xanh như ngọc” là những nét vẽ thần tình đã tô đậm cái hồn của cây lá trong "vườn ai. Tưởng như nghe thấy tiếng nhựa đang chuyển lên cành lá xôn xao. Tất cả đều tưng hừng, rạo rực, đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới có màu xanh mướt mỡ màng như ngọc vậy. Chỉ có "vườn em" mới đáng yêu và hữu tình như thế!

Sau cảnh đẹp là hóng hình thôn nữ:

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền ?"

Gương mặt cô gái Huế thường gắn liền với chiếc nón bài thơ. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ tài hoa, gợi tả thấp thoáng gương mặt thiếu nữ. Một nét vẽ rất đẹp gợi tả vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Lá trúc thanh mảnh biếc xanh đã làm tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu của gương mặi chữ điền. Đã có giai nhân vin cành mẩu đơn. Đã có mĩ nhân ngắm hoa tử kim nở, hức thêu dở dang trên đôi tay thon nhỏ, nõn nà. Và ở đây, trong thư Hàn Mặc Tử lại có "gương mặt chữ điền" ẩn hiện thấp thoáng sau cành trúc, lá trúc. Cây đẹp, cảnh đẹp và người đẹp là thế! Hàn Mặc Tử cũng tả ít mà gợi nhiều như các tao nhân nghìn xưa. Có màu phơn phới hồng bình minh. Có màu ngọc xanh mướt của cây lá. Có đường nét thanh mảnh xinh xắn của lá trúc. Và còn có gương mặt dịu dàng, e ấp, phúc hậu của thiếu nữ. Nếu tách riêng khổ thơ này ra khỏi bài thơ, nó là một bài tứ tuyệt đặc sắc. Cảnh và người đều thình lình thương mến, bâng khuâng. Bức tranh quê hương xinh đẹp, tràn đầy sức sống mơn mởn và có sức quyến rũ lạ lùng.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ ". Cảnh đẹp thế, người đáng yêu thế sao đã lâu anh không về chơi ? Đâu chỉ là sự mời chào, hay lời nhẹ trách mà còn hàm chứa cả niềm tiếc nuối, bâng khuâng của thi sĩ. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy, vương vấn một hoài niệm, một tiếng thầm thì của tình yêu.

Người đọc tưởng như nhà thơ đang đi tìm bóng hình giai nhân, bóng hình cô gái

Huế sau lá trúc của "vườn ai" mờ sương khói nơi Vĩ Dạ.

BÀI MẪU SỐ 2:

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

– Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Cuộc đời ngắn ngủi chỉ hai tám năm nhưng Hàn Mặc Tử để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ tiêu biểu nhất của ông.

– Lúc đầu bài thơ có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, khi tác giả đã mắc bệnh hiểm nghèo. Bài thơ in trong tập Thơ Điên. Sau này đổi tên thành Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với người con gái tên là Hoàng Thị Kim Cúc vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.

– Khổ đầu của bài thơ đã miêu tả rất thành công vẻ đẹp của khu vườn Vĩ Dạ và

tâm trạng của nhà thơ trước bức tranh thiên nhiên buổi mai tinh khôi đó.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ Dạ

Khổ thơ thứ nhất mở đầu bằng câu hỏi tu từ; “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu thơ như một lời trách móc nhẹ nhàng vừa như một lời chào mời tha thiết. Riêng từ “về chơi” mang sắc thái thân mật, tự nhiên, gợi lên sự gắn bó. Đồng thời ẩn trong câu hỏi ấy còn là giới thiệu kín đáo, tế nhị về thôn Vĩ Dạ. Sao không về chơi thôn Vĩ để được thưởng thức cảnh đẹp của nơi đây.

– Bức tranh cảnh vườn Vĩ Dạ được tả vào một buổi mai: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. “Nắng mới lên” là nắng ban mai, ấm áp, tươi sáng, thanh dịu. Ở Vĩ Dạ có rất nhiều khu vườn xinh xắn. Vườn tược xanh mướt những thanh trà, những đào tiên (miền Bắc gọi là roi, miền Nam gọi là mận), những cam, chanh, quýt và cau vút cao. Từ xa nhìn lại, ta sẽ thấy những hàng cau cao, thẳng tắp chan hoà ánh nắng mai. Tất cả gợi lên vẻ đẹp tinh khôi, trong trẻo.

– Trong ánh nắng buổi mai ấy, vườn thôn Vĩ càng phô diễn vẻ đẹp mượt mà, phô diễn sức sống mơn mởn, xanh non của nó: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lối so sánh “xanh như ngọc” đã diễn tả màu xanh rất tươi, rất sáng, long lanh trong ánh nắng mai. Đặc biệt từ “mướt” gợi cảm giác của sự xanh non mơn mởn, mượt mà và lấp lánh ánh sương mai.

-» Vẻ đẹp của Khu vườn thôn Vĩ Dạ được quan sát theo từng tầng lớp. Ở trên cao có ánh nắng mai, có những ngọn cau đan cài ánh nắng. Ở dưới thấp có cây cối xanh mướt. Tất cả tạo nên bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên Vĩ Dạ. Phải là người gắn bó máu thịt với quê hương xứ sở, phải là người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế biết rung động trước cái đẹp mới có thế viết nên những vần thơ hay đến như vậy.

2. Hình ảnh con người thôn Vĩ

Vĩ Dạ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người. Hình ảnh con người xứ Huế được hiện lên: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Hình ảnh lá trúc gợi lên dáng vẻ mảnh mai, thanh tú. Mặt “chữ điền” là khuôn mặt phúc hậu. Chỉ bằng một đôi nét phác thảo, hình ảnh giản dị, phúc hậu của con người xứ Huế hiện lên thật dễ mến.

3. Tâm trạng của nhà thơ

– Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? ở đầu bài thơ như một lời chào mời, nhắc gợi ý nhị của nhân vật em với anh. Câu hỏi đó như tác giả đang hỏi chính mình. Lời mời chào ấy chân thành gợi lên trong lòng thi nhân những kĩ niệm đẹp về thôn Vĩ, về xứ Huế. Về những ngày tác giả còn là một học sinh trung học ở Huế.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

– Hàn Mặc Tử đã khắc hoạ một bức tranh về thôn Vĩ Dạ tràn đầy sức sống, có sự

hài hoà giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với con người xứ Huế.

– Khổ thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp của vườn thôn Vĩ, con người thôn Vĩ mà

còn nói lên tâm trạng của nhà thơ, một tâm trạng bâng khuâng, hoài nghi…

– Khổ thơ gợi lên trong lòng người đọc những tình cảm ngưỡng mộ về vẻ đẹp của

xứ Huế, của thiên nhiên làng cảnh Việt Nam, ngưỡng mộ về thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử.

BÀI MẪU SỐ 3:

Các nhà Thơ mới. Cái lạấy chính là sản phẩm của một sự sáng tạo độc đáo của một hổn thơ dào dạt cảm xúc. “Thơ điên” sau này đổi thành “Đau thương” là kết quả tuyệt vời của một quá trình sáng tạo, công phu với một phong cách mới mẻ: phong cách thơ điên. Trong đó, Đây thôn Vĩ Dạđược đánh giá theo giới phê bình là một trong sốnhững bài thơ “ít điên” nhất. Bài thơ là lời tỏ tình của một tình yêu tuyệt vọng với cuộc đời. Điểu đó thể hiện ngay trong bốn câu thơ đầu và cũng là những câu hay nhát của bài thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che

ngang mặt chữ điền?

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ có một vị trí quan trọng đối với việc hình thành tứ thơ và nội dung cảm xúc. Hàn Mạc Tử giống Thanh Hải viết Mùa xuân nho nhỏlà cả hai đều đang lâm trọng bệnh, sựsống chỉ còn lại rất mong manh. Song cái khác của Hàn Mặc Tứ và cũng là nguyên cớ cho những cảm xúc mãnh hệt là nhà thơ bị cách ly khỏi cuộc đời, xa rời những gì mà mình yêu mến, xa con người, xa tất cả, bị hắt hủi, bỏ quên. Vì vậy, bài thơ không chi là nỗi lòng của một con người bị cách ly với cuộc đời mà còn là tâm sự của một nhà thơ, một người nghệsĩ buộc phải xa rời những vẻ đẹp cuộc sống mà mình hằng yêu quý. Nhà thơ đã đứng trên tâm thế tuyệt vọng mà nhìn vềcuộc đời và trong cái nhìn ấy, cuộc đời đẹp hơn bao giờ hết càng thôi thúc khát khao sống mãnh hệt. Bốn câu thơ đầu là hình ảnh thôn Vĩ nói riêng và là tượng trưng cho vẻ đẹp của cuộc đời trong con mắt nhà thơ bất hạnh.

Có thể xem việc Hoàng Cúc gửi cho nhà thơ tấm bưu tiếp về cảnh thôn Vĩ khi tác giả đang lâm vào bi kịch như một cái cố để hiểu bài thơ này. Và như thế, câu thơ mở đầu sẽ trở nên hấp dẫn hơn bỏ'i những sắc thái nó gợi ra:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Ngay từ câu đầu bài thơ đã mang một dấu hỏi, một câu hỏi tu từ. Điều đó được khẳng định bởi những ẩn ý đằng sau câu chữ. Sự xuất hiện của đại từ anh làm cho câu thơ tăng thêm tầng nghĩa. Anh là ai, anh là ngôi thứ nhất dà tác giả) hay là ngôi thứ hai (lời của ai đó nói với nhà thơ). Vì thế, câu hỏi vừa mang sắc thái hỏi lại, vừa mang sắc thái trách móc nhẹ nhàng, vừa là một lời nhắc nhở lại vừa như mời mọc. Thôn Vĩ là một địa danh cụ thể và trong trường hợp này, nó gợi hình dung về một vùng đất đáng yêu đáng nhớ nơi xứ Huế mộng mơ. Sựcó mặt của thanh trắc ở cuối câu trong một cáu thơ sáu thanh bằng, nâng âm lượng câu thơ lên một chút, đầy tha thiết, đi vào lòng người. Cái hay của câu thơ còn nằm ở chữ “không” tưởng chừng rất mộc mạc và khô khan ấy. “Không” là phủ định nhưng ở đây lại là khẳng định, khẳng định sự không tồn tại của hành động về

thôn Vĩ. Tại sao lại là “không” mà không phải là một từ đồng nghĩa khác. Cái hay chính là ở đây. Nếu thay bằng chữ “chẳng” câu thơ sẽ bị lạc âm điệu và tính khẩu ngữ của “chẳng” sẽ làm giảm ý vị của câu thơ. Chữ “chưa” sẽ đảm bảo được thanh điệu nhưng đặt trong trường hợp này nó sẽ làm hỏng câu thơ. Bởi lẽ, “chưa” nghĩa là sẽcó lời hứa hẹn, tạo ra một hy vọng, nhưng nhà thơ thì không thểhy vọng được nữa, cuộc đời đã sắp tuột mất khỏi tầm tay, đâu còn có thể trở về. Phải chăng chữ “không” câu thơ không chỉ đảm bảo về mặt thanh điệu mà còn cho thấy sự đau đón xót xa khi không thể nào trở về được nữa. Và chữ “sao” đầy sắc thái hỏi này càng khiến cho âm điệu cùa câu thơ da diết hơn, khắc vào lòng người nỗi day dứt, xót xa. Ngay từ câu thơ đẩu đã dồn lên nỗi niềm bi kịch khi sựsống không còn nhiều, khi vẻ đẹp cuộc đời sắp tuột mất khỏi tầm tay. Cái sâu sắc trong Hàn Mặc Tử là tuyệt vọng mà không chấm dứt hy vọng, tuyệt vọng mà vẫn gợi cho con người hướng vềcuộc đời ấm áp. Bằng chứng là hình ảnh thôn Vĩ - hiện thân cho vẻ đẹp cuộc đời đã hiện ra dưới ngòi bút của nhà thơ:

Nhìn nắng hảng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Bức tranh thôn Vĩ nhìn tổng thể, được khắc họa bằng rất ít nét nhưng nó hay ở cái thần thái, sắc thái của cảnh được gợi ra. Câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” gợi một cảm giác về không gian đang dán lấp đầy bởi ánh sáng. Sựxuất hiện của hai chữ “nắng” làm giàu thêm cho tứ thơ, cảnh như sáng dần lên theo câu chữ. Nhà thơ đã chọn lấy một điểm nhìn “hàng cau” một loại cây khá quen thuộc ở vùng quê Việt Nam. Cau là loại cây thẳng có nhiều đốt và vươn lên rất cao, đó cũng là thứ cây rất có thể sẽ đón ánh nắng ban mai sớm nhất của một ngày, Hàn Mặc Tử đã nhìn nắng vào thòi điểm “nắng mới lên” đầy tinh khỏi, trong trẻo. Người đọc có cảm giác như được nhìn thôn Vĩ sau một đêm mưa rào cảnh rất sạch và những ánh nắng ban mai đang lớn dần từng đốt thân cau thật tinh khôi, thanh khiết.

Thôn Vĩ còn được gợi ra bằng một ấn tượng khác:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Không gian đã mở rộng ra đến khu vườn. Bao trùm là ấn tượng vềvẻ đẹp trù phú, tốt tươi của cảnh hiện lên trực tiếp qua chữ “mướt” và “xanh”. “Mướt” gợi được vẻ tốt tươi mơn mởn, và gợi độ bóng của bề mặt những tàu lá, cành lá còn đẫm sương đêm khi nắng mai soi vào. Kết hợp với chữ “quá” nó càng tăng thêm ý vị ngỡ ngàng trầm trổ trước sự tươi tốt của cảnh thôn VI. Nhà thơ đã có một so sánh thật độc đáo “xanh như ngọc”. Xanh là một tính từ, trung tính, nhưng khi đặt trong sựso sánh độc đáo này nó trở nên đẹp lạ kỳ. Ngọc cũng là xanh nhưng ngọc còn gợi ra màu xanh có ánh, xanh thanh quý nghĩa là cả khu vườn thôn VI hiện ra như một viên ngọc khổng lồ, đẹp một vẻ đẹp

thanh quý đang hắt lên những ánh xanh huyền ảo. Cảnh thực mà như mộng. Câu thơ hay không chỉở những gì lộ ra bên ngoài mà còn ở những hình dung mà nó gợi ra cho bạn đọc đồng sáng tạo. Một chữ “ai” nhỏ bé khiêm nhường mà không thể thiếu được trong câu thơ. Nếu cả bài thơ chỉcó một chữ “ai” thì đường như nó chỉcó nghĩa phiếm định, ỡm ờ, nhưng bài thơ có tới bốn chữ “ai” và chữ “ai” đàu tiên này nó đem đến cảm giác vềsự không cụ thể, càng nhấn mạnh nỗi day dứt xót xa.

Nét họa tiếp của bức tranh là hình ảnh:

Lả trúc che ngang mặt chữ điền?.

Sự hấp dẫn của câu thơ nằm trong sự phối hợp hài hoà đường nét, giữa sự thanh mảnh tao nhã của trúc và nét phúc hậu đầy đặn trên khuôn mặt con người. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp riêng cho Thôn Vĩ, cho xứ Huế mộng mơ.

Cảnh hiện lên trong tưởng tượng của nhà thơ đầy sống động có sự đan xen giữa thực và mộng. Phải là một tâm hồn thiết tha với cuộc đời mãnh hệt đến nhường nào, nhà thơ mới có được những câu thơ hoàn mĩ như thế. Đúng từ cõi chết để nhìn vềcuộc đời, khổ thơ và cả bài thơ nữa đều thấm đẫm khát khao sống, niềm yêu đời đến mạnh mẽ, tận đấy lòng. Đằng sau hàng chữ gấm là đôi mắt mờ lệ của một hồn thơ dào dạt niềm ham sống, khao khát vẻ đẹp cuộc sống. Nhà thơ đã qua nỗi đau về thân xác để thê hiện nỗi đau tinh thần: sắp phải ha đời, ha bỏ cái đẹp. Khổ thơ đầu này, bức tranh thôn Vĩ hiện ra trực tiếp và ẩn sau ấy là tâm trạng nhà thơ. Càng về khổ sau cái thực càng mở đi để cái ảo như bao trùm khiến cho những nỗi niềm nhà thơ càng mãnh hệt hơn bao giờ hết.

Đoạn thơ ngắn nhưng đã đánh động tâm can con người những nỗi niềm, trăn trở.

Cảm nhận được vẻ đẹp thôn Vĩ cũng là thấu hiểu nỗi đau tinh thần của thi sĩ.

BÀI MẪU SỐ 4:

Làm thơ từ tuổi mười sáu và chín năm “kết duyên” với Thơ mới, Hàn Mạc Tử đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Hồn thơ Hàn Mạc Tử đa dạng phong phú vừa mang nỗi quặn đau với những hình ảnh thường “vẩn đục” vừa mang đến những hình ảnh trong trẻo hiền hòa đến lạ thường.

Ta gặp ở “Đây thôn Vĩ Dạ” một tình cảm yêu thương đằm thắm, bâng khuâng và nỗi khao khát hướng đến nơi ấm tình người hướng đến "ngôi vườn" cuộc đời qua bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời bài thơ và địa danh Vĩ Dạ.

Câu thơ mở đầu là một lời mời mọc, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng, duyên dáng, thân tình (cũng có người cho đây là lời của nhà thơ tự vấn lòng mình). Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. “Sao anh không về” là nên một duyên cớ để gợi nhớ hình ảnh thân quen xứ Huế mà một thời Hàn đã học nơi đâu. Có lẽ nhà thơ tự trách mình tự nhủ lòng mình sao dễ lãng quên một nơi mà mình từng gắn bó, một phong cảnh thiên nhiên nên thơ của Huế được điển hình qua thôn Vĩ.

Thôn Vĩ tràn ngập nắng ban mai “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên; Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Thôn Vĩ có những hàng cau thẳng tắp và nắng ban mai tràn ngập không gian. Vườn tược nơi đây xanh màu ngọc, càng lung linh hơn dưới nắng mai khi lá cành còn đọng sương đêm trước.

Lời thơ thật hồn nhiên với câu hỏi tu từ “vườn ai mướt quá” như tiếng reo vui trẻ thơ. Từ “mướt” thật ấn tượng được so sánh với sắc xanh “như ngọc" mang ý nghĩa tượng trưng cho một làng quê yên bình, trù phú.

Câu thơ cuối của khổ thơ hiện lên hình ảnh lá trúc thanh tú, mảnh mai và khuôn mặt chữ điền hồn hậu (theo quan niệm thẩm mĩ truyền thống.) của ai đó trong nắng mai càng thêm gần gũi. Hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng, có phần hư ảo.

Hình ảnh con người bất ngờ xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng khiến bức tranh cuộc sống thêm nồng ấm qua giọng thơ êm dịu, gợi trong lòng người đọc một cảm giác bình yên khi đứng trước bức tranh thơ độc đáo ấy.

Ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng, hình ảnh hiền hòa,

đã tạo nên một bức tranh thơ thật đáng yêu về quê hương xứ sở.

Bên cạnh những nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận... Hàn Mạc Tử đã góp cho “Thơ mới” một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp giàu tính nhân văn.

BÀI MẪU SỐ 5:

Làm thơ từ năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới. Một trong những bài thơ đặc sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là Đây thôn Vĩ Dạ. Khổ thơ mở đầu sau đây miêu tả thiên nhiên xứ Huế vô cùng gợi cảm, hòa vào một tình cảm nhớ thương đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Hàn Mạc Tử:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có kết cấu ba đoạn. Khổ thơ thứ nhất, tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai thanh tân, tinh khiết. Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh trời, trăng, mây nước mang nét buồn xa vắng. Khổ thơ cuối là nỗi lòng nao nao, mơ mộng bởi bóng hình thiếu nữ xứ Huế.

Thôn Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái cây

tươi bốn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng… đi vào văn học qua câu thơ tuyệt bút:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Nhưng đâu phải chỉ có thiên nhiên gợi niềm ấp yêu tuyệt diệu mà quanh quẩn đâu

đó còn cả bóng dáng con người quen thuộc, có tấm lòng chờ đợi thiết tha.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu thơ là một lời mời mọc, cũng có thể là một lời trách móc thân tình. Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. “Sao anh không về” vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn ngập ánh nắng ban mai:

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp. Nắng sớm ban mai tràn ngập không gian. Những tàu lá cau xanh mướt vươn lên đón tia nắng sớm, vô vàn hạt sương đêm đọng lại, lấp lánh màu ngọc bích. Lời thơ thật hồn nhiên. “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo vui nhưng cũng thật điêu luyện: từ mướt thật đắt và xanh như ngọc mang nghĩa tượng trưng gợi tả độc đáo.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Lá trúc thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng ban mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn Vĩ. Hay khuôn mặt người thôn Vĩ hồn hậu vuông vắn chữ điền? Có thể là cả

hai: hình ảnh vừa thực, vừa có phần hư ảo lung linh trong niềm nhớ của lòng người. Câu thơ được cách điệu hóa, mang ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà đó phải là quê hương những con người hiền hòa. đôn hậu. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng.

Mạch thơ êm nhẹ, ý thơ chuyển dịch: sau lời mời mọc dễ thương (câu 1 cảnh vật hiện lên trước mắt với màu sắc tươi tắn (câu 2,3) và con người hiền hòa xuất hiện, với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng), khổ thơ biểu hiện nét đẹp nên thơ của con người và cảnh vật xứ Huế. Qua đó,ý thơ cũng gợi lên một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, một nỗi bâng khuâng, xa xôi mờ ảo, như trong câu cuối của bài thơ:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Có ý kiến cho rằng cảnh vật hiện ra trong một số bài thơ của Hàn Mặc Tử đậm đà màu sắc dân tộc. Thật vậy, nếu không gắn bó máu thịt với quê hương Hàn Mạc Tử khó viết được những câu thơ trác tuyệt như trên.

Bên cạnh những bài thơ hay về quê hương đất nước của Thế Lữ, Xuân Diệu. Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ…. mấy câu thơ mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử. đã góp phần khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học nước ta trong nửa đầu thế kỉ này.

BÀI MẪU SỐ 5:

MB

– HMT là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới. Bên cạnh những vần thơ đau đớn, điên loạn, ông còn có những vần thơ trong trẻo, thơ mộng, thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.

– “ĐTVD” được gợi cảm hứng từ bức tranh của Hoàng Cúc gửi tặng nhà thơ.Bài

thơ in trong tập “Thơ điên” thuộc mạch cảm xúc thứ hai.

– Đoạn trích thuộc phần đầu bài thơ, là nét trong trẻo, đầy cảm xúc của thi sĩ về vẻ

đẹp của Vĩ Dạ buổi ban mai.

TB

1. Câu 1:

– Lời mời mọc ân cần, tha thiết, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng, thân mật

hoặc là sự trăn trở chứa chất tình cảm sâu lắng đậm đà.

– Có thể đó là lời của cô gái xứ Huế hay lời tự hỏi của chính nhà thơ. Dù hiểu cách

nào, cũng gợi tâm trạng nhân vật trữ tình về quá khứ.

2. Câu 2,3,4: vẻ đẹp Vĩ Dạ hiện lên qua tâm tưởng nhà thơ. Một không gian

vườn tược trong ánh nắng sớm mai tươi tắn rạng rỡ.

– Câu 2: Hai từ “nắng” trong một câu thơ “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” diễn tả sự chuyện động của nắng trên hàng cây, khiến cảnh vật trở nên sinh động, gợi cảm giác tươi mới, tinh khôi, thanh khiết.

– Câu 3: Tả màu nước xanh của vườn cây Vĩ Dạ. câu thơ như một lời trầm trồ, xuýt xoa vì không kìm nổi lòng mình khi chợt nhìn thấy màu sắc “xanh như ngọc”. Lối so sánh gần gũi với cách cảm dân gian tạo cho màu xanh vừa dân dã, vừa quý phái. Cách nói “vườn ai” phiếm chỉ vừa tế nhị, vừa chứa chan hồi ức kỷ niệm.

– Câu 4: Con người xuất hiện thấp thoáng trong màu xanh non, mỡ màng của cây lá vơi “khuôn mặt chữ điền” đầy vẻ kín đáo, đôn hậu. Nét vẽ “lá trúc che ngang” có tính tạo hình làm cho bức tranh thêm sinh động, mang vẻ đẹp hài hòa giữa cảnh và người.

III. KL

– Cái đẹp của khổ thơ cũng như cả bài thơ là cái đẹp của cảnh và người xứ Huế.

Đó là cái đẹp của hồi ức, kỷ niệm chất chứa trong lòng nhà thơ.

– Khổ thơ là bức tranh về quê hương, đất nước, thể hiện một tình yêu thầm kín,

đắm say của một hồn thơ thiết tha yêu cuộc sống

BÀI MẪU SỐ 6:

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.

Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình. Mở đầu chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi thôi, nhưng cảm xúc lay động tới độc giả là không hề nhỏ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Lại nói về câu hỏi tu từ ở câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn giỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.

Câu thơ thứ nhất như một lời hờn trách nhẹ nhàng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Trách mà ngụ ý mời mọc ân cần, lại bằng cái giọng ngọt lịm của người con gái Huế nên chỉ mới nghe qua, khách đã thấy lòng xao xuyến, bởi tấm chân tình cùng với nỗi khắc khoải đợi mong của người con gái thôn Vĩ ẩn chứa trong lời mời ấy.

Chúng ta có thể hiểu câu thơ thứ nhất là một lời mời tinh tế: Anh hãy về thăm thôn Vĩ và thăm em. Anh về đây để cùng em: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Cô gái gửi gắm lòng mình vào màu nắng mới lên tinh khôi trên hàng cau cao vút.

Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả

khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. HÌnh ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua. Chỉ với hai câu thơ ngắn ấy thôi mà mọi thứ của thôn Vĩ dần hiện ra thật đẹp thật thơ mộng. Hai câu mở đầu chính là cái hồn cho toàn bài thơ, và còn cả là cái cớ để tác giả bộc bạch tâm sự.

Hai câu thơ mở đầu đặc sắc nhưng Hàn Mặc Tử như vừa dẫn chúng ta đi tới thôn Vĩ vậy,một vẻ e ấp. Tươi đẹp hiện ra , rất hài hòa nhưng đúng chất của một Huế thơ mộng. Tất cả chỉ được khơi gợi qua hoài niệm của tác giả nhưng mọi thứ lại trở nên có hồn thanh khiết , đầy sức sống. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui thấm vào cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm mơ hồ, hư ảo của tình yêu.