intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các kĩ thuật điều chế số

Chia sẻ: Huỳnh Thị Thùy Dương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

197
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các kĩ thuật điều chế số là điều thiết yếu trong một số hệ thống thông tin số, cho dù đó là hệ thống thoại, hệ thống thông tin di động tế bào, hay hệ thống thông tin vệ tinh. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Các kĩ thuật điều chế số". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các kĩ thuật điều chế số

  1. Các kĩ thuật điều chế số Tác giả: Fukin Xion Dịch giả: dungn­thành viên vntelecom.org
  2. Lời nói đầu Các kĩ thuật  điều chế số là điều thiết yếu trong  một số hệ thống thông tin số,  cho dù đó là hệ thống thoại, hệ thống thông tin di động tế bào, hay hệ thống thông tin  vệ  tinh. Trong khoảng 20 năm qua, những nghiên cứu và phát triển trong các kĩ thuật   điều chế  số  có nhiều hoạt động và đã cho thấy một số  kết quả  hứa hẹn. Tuy nhiên,  các kết quả này lại phân tán trên rất nhiều tài liệu. Kết quả là, các kĩ sư  và sinh viên   trong lĩnh vực này thường gặp khó khăn trong việc xác định những kĩ thuật cụ thể cho  các  ứng dụng hay các đề tài nghiên cứu. Cuốn sách này cung cấp cho bạn đọc những   thông tin hoàn chỉnh, cập nhật của tất cẩ các kĩ thuật điều chế  số trong các hệ  thống   thông tin số. Tồn tại một số  lượng khổng lồ  các sách tài liệu về  thông tin số, mỗi  trong số chúng chứa một hay nhiều chương về các kĩ thuật điều chế  số  bao gồm cả  các dạng cơ bản của điều chế, hay chỉ một nguyên lí của các kĩ thuật. Cũng có một số  cuốn đặc tả  một vài dạng điều chế  nào đó. Cuốn sách này sẽ  trình bày thông tin về  các nguyên lí và các ứng dụng của tất cả các kĩ thuật điều chế số hiện nay, cũng như  các kĩ thuật hiện đang được nghiên cứu. với mỗi trình tự điều chế, các chủ đề sau sẽ  được bao trùm: nền tảng lịch sử, các nguyên lí hoạt động, tỉ  lệ  lỗi bit và lỗi mẫu tín  hiệu (hiệu quả  dùng phổ), đặc tính phổ  (hiệu quả  dùng phổ), các sơ  đồ  khối của bộ  điều chế, giải điều chế, khôi phục sóng mang (nếu có), khôi phục xung đồng hồ, so  sánh với các trình tự điều chế khác, và các ứng dụng. Sau khi ta có thể hiểu đầy đủ về  các kĩ thuật điều chế  cũng như  chất lượng của chúng trong kênh AWGN, ta sẽ  thảo  luận về chất lượng của chúng trong các kênh suy hao đa đường.
  3. Cách sắp xếp của sách Cuốn sách này được chia thành 10 chương. Chương 1 là lời giới thiệu các kiến  thức cơ bản cần thiết về các hệ thống thông tin số, và các công cụ điều chế. Chương 2 nói về  điều chế  tín hiệu băng gốc mà chưa kể  tới sóng mang. Đây   còn được gọi là định dạng tín hiệu băng gốc hay mã đường (line coding). Một cách   truyền thống, ta định nghĩa thuật ngữ “điều chế” là “nén thông tin lên một sóng mang”,  tuy nhiên, nếu ta mở  rộng định nghĩa này thành “nén thông tin lên một trung gian   truyền phát”, thì định dạng này cũng chính là một dạng điều chế. Điều chế  băng gốc   rất quan trọng không chỉ bởi nó được sử dụng trong truyền dữ liệu khoảng cách ngắn,  ghi   từ,   ghi   quang,(ND:   nguyên   bản   tiếng   anh   là   “magnetic   recording”,   “optical   recording”)…mà còn vì nó chính là đầu cuối phía trước trong điều chế thông dải.  Các chương 3 và 4 bao trùm các kĩ thuật khóa dịch tần số FSK và khóa dịch pha   PSK cơ  bản, bao gồm cả  coherent  và  noncoherent. Các kĩ thuật này được sử  dụng  hiện nay trong nhiều hệ  thống thông tin số, như  các hệ  thống điện thoại số  dạng tế  bào và các hệ thống thông tin vệ tinh.  Các chương 5­7 nói về  các kĩ thuật điều chế  pha nâng cao trong đó có   khóa  dịch tối thiểu (Minimum Shift Keying­MSK), điều chế  pha nối tiếp (Continues Phase  Modulation­CPM), và multi­h phase modulation (MHSK). Các kĩ thuật này là các kết   quả nghiên cứu trong những năm gần đây, và một số  trong chúng đang được sử dụng   trong các hệ  thống chuyên sâu, chẳng hạn như, MSK đã đang được NASA sử  dụng   trong Tên lửa công nghệ  truyền thông nâng cao (ACTS­Advanced Communications   Technology Satellite) phóng vào năm 1993, và các tên lửa khác đang được hoàn thiện   cho các ứng dụng tương lai. Chương 8 nói về  điều chế  biên độ  vuông (Quadrature amplitude modulation­ QAM). Các trình tự QAM được sử dụng rộng rãi trong các modem điện thoại di động.  Chẳng hạn, các modem v.29 và v.33 được đề nghị bởi CCITT (Consultative Committee   for International Telephone and Telegraph)  sử dụng 16­ và 128­QAM, cho tốc độ 9600   bps và 14400 bps, trên các đường điện thoại 4 dây. Chương 9 bao trùm các trình tự  điều chế  tiết kiệm băng thông đường bao  không cố  định. Chúng ta sẽ  nghiên cứu tám trình tự, gọi là QBL, QORC, SQORC,  QOSRC, IJF­OQPSK, TIS­OQPSK, SQAM và Q2PSK. Các trình tự này cải tiến mật độ  phổ với rất ít mất mát trong xác suất lỗi. Chúng được thiết kế trước tiên cho thông tin   vệ tinh. Chương 10 trước tiên giới thiệu sơ  lược về  các đặc tính của các kênh có suy   hao và phản hồi đa đường. Sau đó tất cả các dạng điều chế đã được đề cập trong các  chương 2­8 được kiểm chứng trong môi trường suy hao đa đường. Các phụ chương A và B là các kiến thức cơ bản về phổ tín hiệu và lý thuyết dò  và ước lượng tín hiệu kinh điển. Cuốn sách này có thể  được sử  dụng làm sách tham khảo cho các kĩ sư  và các   nhà nghiên cứu. Nó cũng có thể được sử dụng làm sách giáo khoa cho các sinh viên tốt  nghiệp. Phần kiến thức trong sách có thể được học trong khóa học nửa năm. Với các  khóa học ngắn, người hướng dẫn có thể lựa chọn một số chương thích hợp.
  4. Lời cám ơn Trước tiên tôi xin được cám  ơn nhà biên tập và kiểm lược của Artech House.  Ray Sperber, Mark Walsh, Barbara Lovenvirth và Judi Stone, những người đã có nhiều  phê bình và góp ý dựa trên những xem xét kĩ lưỡng đóng góp cho sự cải tiến của bản   thảo. Tôi cũng muốn gửi lời cảm  ơn tới trường  đại học Cleveland State và Fenn  College of Engineering đã cho phép tôi nghỉ phép trong suốt năm 1997 khi tôi viết phần  cốt yếu của cuốn sách. Tôi cũng rất biết ơn sự hỗ trợ và động viên của nhiều cộng sự  tại khoa Kĩ thuật điện và máy tính. ……. Cuối cùng, là sự   ủng hộ  và giúp đỡ  từ  phía gia đình cũng là một nguồn động  viên sâu sắc. Fuqin Xiong
  5. Chương 1: giới thiệu Trong chương này chúng ta thảo luận sơ  lược về  vai trò của điều chế  trong   một hệ thống thông tin số điển hình, các công cụ điều chế  cơ bản, và tiêu chuẩn lựa   chọn trình tự điều chế. Thêm vào đó là phần mô tả sơ lược về các kênh thông tin khác  nhau, phục vụ như nền tảng cho những thảo luận sau này về các trình tự điều chế. 1.1 các hệ thống truyền thông số Hình 1.1 là sơ đồ  khối của một hệ thống thông tin số  điển hình. Thông tin có  thể được gửi đi từ một nguồn tương tự (chẳng hạn như giọng nói) hay từ một nguồn  số (dữ liệu máy tính). Bộ chuyển đổi tương tự­số (A/D) lấy mẫu và lượng tử  hóa tín  hiệu tương tự  và biểu diễn các mẫu dưới dạng số  (bit 1 hoặc 0). Bộ  mã hóa nguồn  chấp nhận tín hiệu số và mã hóa nó thành dạng tín hiệu số  ngắn hơn. Đây gọi là mã  hóa nguồn, làm giảm sự dư thừa do đó cũng giảm tốc độ  truyền cần thiết  (ND: Chỗ  này tự  ý thêm một chút để  làm rõ nghĩa câu). Điều này để  làm giảm băng thông yêu  cầu của hệ thống. bộ mã hóa kênh nhận tín hiệu ra của bộ mã hóa nguồn và thực hiện  mã hóa nó thành tín hiệu số dài hơn. Sự dư thừa được thêm vào một cách có chủ đích   lên tín hiệu số  đã mã hóa nhờ  vậy một số  lỗi do tạp âm hoặc nhiễu tạo ra trên suốt  đường truyền qua kênh có thể  được hiệu chỉnh lại tại máy thu. Nói chung thì truyền   phát thường ở tần số thông dải cao, bộ điều chế  do đó nén các kí hiệu số  mã hóa lên   một sóng mang. Đôi khi truyền phát thực hiện ở băng cơ bản, bộ điều chế là điều chế  băng gốc, hay cũng gọi là bộ định dạng (formator), thực hiện định dạng các kí hiệu số  đã mã hóa lên một dạng sóng thích hợp để  truyền. Thông thường, có một bộ  khuếch  đại công suất theo sau bộ điều chế. Với truyền phát tần số cao, điều chế và giải điều  chế thường được thực hiện ở tần số trung gian (IF). Nếu vào trường hợp này, một bộ  nâng tần số  được chèn vào giữa bộ  điều chế  và khuếch đại công suất. Nếu tần số  trung gian là quá thấp so với tần số sóng mang, một số tầng của các phiên bản tần số  sóng mang được yêu cầu. Với các hệ thống không dây, có một anten ở tầng cuối của  máy phát. 
  6. Hình  1: Sơ đồ khối của một hệ thống thông tin số cơ bản Trung gian truyền phát thường được gọi là kênh, tại đó tạp âm cộng vào tín hiệu và   các  ảnh hưởng của fading với suy hao xuất hiện như hệ số nhân lên tín hiệu. Thuật  ngữ  tạp âm  ở  đây là thuật ngữ  nghĩa rộng, bao gồm tất cả  những nhiễu loạn điện  ngẫu nhiên từ ngoài và trong hệ thống. Kênh nói chung cũng có băng thông tần số hữu   hạn do đó nó có thể  được xem như  một bộ  lọc. Tại máy thu, hầu như  việc xử  lí tín   hiệu ngược lại xảy ra. Trước tiên, tín hiệu nhận rất yếu được khuếch đại (và hạ  tần  nếu cần thiết) sau đó được giải điều chế. Sau đó phần dư thừa được loại bỏ bằng bộ  giải mã kênh và bộ  giải mã nguồn thực hiện khôi phục tín hiệu về dạng nguyên gốc  trước khi được gửi tới người sử dụng. Một bộ biến đổi số­tương tự  (D/A) được sử  dụng cho các tín hiệu tương tự. Sơ  đồ  khối cho trong  trong hình 1.1 chỉ  là cấu hình một hệ  thống kinh điển.  Một cấu hình hệ thống thực có thể  phức tạp hơn. Với một hệ thống nhiều người sử  dụng, một khối dồn kênh được chèn vào trước khối điều chế. Với hệ  thống đa trạm,   một khối điều khiển đa truy nhập được chèn vào trước máy phát. Các thiết bị  khác  như  trải tần và mữa hóa cũng có thể  được thêm vào hệ  thống. Một hệ  thống thực   cũng có thể đơn giản hơn. Mã hóa nguồn và mã hóa kênh cũng có thể không cần thiết   trong một hệ thống đơn giản. Trên thực tế, chỉ có khối điều chế, kênh, giải điều chế,  và các bộ khuếch đại là nhất thiết trong mọi hệ thống truyền thông (với các anten cho   các hệ thống không dây). Với mục đích mô tả  các kĩ thuật điều chế  và giải điều chế  và phân tích chất   lượng của chúng, biểu đồ  hệ  thống đơn giản hóa trong hình 1.2 sẽ  được sử  dụng   thường xuyên.
  7. Hình  2: Mô hình hệ thống thông tin số cho việc điều chế và giải điều chế. Mô hình này loại trừ các khối không hợp lí với quan điểm điều chế sao cho các   khối hợp lí được thấy rõ ràng. Tuy nhiên, các kĩ thuật modem (điều chế  và giải điều   chế) được phát triển gần đây kết hợp điều chế và mã hóa kênh lại với nhau. Trong các  trường hợp này, các bộ mã hóa kênh là một phần của bộ  điều chế  và các bộ  giải mã   kênh là một phần của bộ giải điều chế. Từ  hình 1.2, tín hiệu nhận được tại đầu vào  của bộ giải điều chế có thể được viết như sau: r (t ) = A(t ) [ s (t ) * h(t ) ] + n(t )   (1.1) Trong đó * chỉ phép chập. Trong hình 1.2 kênh được mô tả  bởi 3 yếu tố. Thứ  nhất là bộ lọc kênh. Do thực tế là bộ lọc s(t) từ bộ điều chế phải qua máy phát, kênh  (trung gian truyền phát) và máy thu trước khi nó có thể  tới bộ  giải điều chế, bộ  lọc  kênh do đó là một bộ lọc hỗn hợp với hàm truyền là: H ( f ) = HT ( f )H C ( f ) H R ( f ) (1.2) Trong đó  H T ( f ) ,  H C ( f ) ,  H R ( f )  là các hàm truyền của máy phát, kênh và máy thu.   Cũng như vậy, đáp ứng xung của bộ lọc kênh là: h(t ) = hT (t )* hC (t ) * hR (t ) (1.3) Trong đó   hT (t ) ,  hC (t )   và   hR (t )  là các đáp  ứng xung của máy phát, kênh và máy thu.  Nhân tố thứ hai là hệ số A(t) mà nói chung là phức. Hệ số này biểu diễn fading trong   một số dạng kênh, như là kênh vô tuyến di động. Nhân tố thứ ba là nhiễu cộng và số  hạng nhiễu n(t). Chúng ta sẽ thảo luận về fading và nhiễu chi tiết hơn trong mục sau.   Mô hình kênh trong hình 1.2 là mô hình chung. Nó có thể được đơn giản hóa trong một  số tình huống như sẽ thấy trong mục tiếp theo. 1.2 các kênh truyền thông Đặc tính kênh đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu, lựa chọn và thiết   kế  các trình tự  điều chế. Các trình tự  điều chế  được nghiên cứu cho các kênh khác   nhau để biết chất lượng của chúng trong các kênh này. Các trình tự điều chế được lựa   chọn hoặc thiết kế  tương  ứng với đặc tính kênh để  tối  ưu chất lượng của chúng.   Trong mục này ta sẽ thảo luận một số mô hình kênh quan trọng trong truyền thông.
  8. 1.2.1 Kênh nhiễu trắng Gauss cộng (Additive White Gaussian Noise Channel­AWGN   channel) Kênh AWGN là một mô hình phổ  biến để  phân tích các trình tự  điều chế.  Trong mô hình này, kênh không làm việc gì ngoài cộng thêm một nhiễu Gauss trắng  vào tín hiệu đi qua nó. Điều này nhấn mạnh rằng đáp ứng tần số biên độ  của kênh là  phẳng (dù với băng thông giới hạn hay ko giới hạn) và đáp ứng tần số pha của kênh là  tuyến tính cho mọi tần số sao cho các tín hiệu đã điều chế khi đi qua nó mà không mất   biên độ  và méo pha hay các thành phần tần số. Fading không tồn tại. Méo duy nhất   được tạo ra bởi AWGN. Tín hiệu nhận được trong 1.1 được đơn giản hóa còn: r (t ) = s (t ) + n(t ) (1.4) Với n(t) là nhiễu AWGN. Tính “trắng” của n(t) nhấn mạnh rằng có một quá trình ngẫu nhiên tĩnh với  mật độ  phổ  công suất phẳng (PSD) cho tất cả các tần số. Có một quy  ước giả  thiết  rằng PSD của nó bằng N ( f ) = N0 / 2   − < f < (1.6) Điều này nhấn mạnh rằng một quá trình trắng có công suất hữu hạn. Điều này   dĩ nhiên mang tính lí tưởng về  mặt toán học.  Ứng với định lí Wiener­Khinchine, hàm   tự tương quan của nhiễu AWGN là  R (τ ) = E{n(t )n(t − τ )} = N ( f )e j 2π f τ df (1.7) − N 0 j 2π f τ N = e df = 0 δ (τ ) − 2 2 Trong đó  δ (τ )  là hàm delta Dirac. Điều này chỉ  ra các mẫu nhiễu là không tự  tương quan cho dù hiệu thời gian nhỏ tới đâu chăng nữa. Các mẫu cũng độc lập do quá  trình là quá trình Gauss. Tại mỗi điểm thời gian, biên độ của n(t) tuân theo hàm mật độ  xác suất Gauss  cho bởi: 1 η2 p (η ) = exp{− 2 } (1.7) 2πσ 2 2σ Trong đó η  được dùng để biểu diễn các giá trị của quá trình ngẫu nhiên n(t) và  σ 2  là độ lệch của quá trình ngẫu nhiên. Có một điểm thú vị cần lưu ý là  σ 2 =  với  quá trình AWGN do  σ 2  là công suất của nhiễu, là bất định do tính “trắng” của nó. Tuy nhiên, khi r(t) được lấy tương quan với hàm trực giao  φ (t) , thì nhiễu trong  đầu ra có độ lệch hữu hạn. Trên thực tế: r= r (t )φ (t )dt = s + n − Trong đó s= n(t )φ (t )dt − Và
  9. n= s(t )φ (t )dt − Độ lệch của n bằng: 2 � �� ��� E{n } = E �� n(t )φ (t ) dt �� 2 �� � − �� � � = E �� � n(t )φ (t )n(τ )φ (τ )dtdτ � �− − = E{n(t )φ (t )}n(τ )φ (τ )dtdτ �� − − N0 = ��2 δ (t − τ )φ (t )φ (τ )dtdτ − − N N0 = 0 φ 2 (t )dt = (1.18) 2 − 2 Khi đó hàm mật độ xác suất (PDF) của n có thể viết như sau: 1 n2 p ( n) = exp{− } (1.19) π N0 N0 Kết quả này sẽ được sử dụng thường xuyên trong cuốn sách. Nói một cách khác, kênh AWGN không hề tồn tại do không hề có kênh truyền   nào có thể có băng thông là vô định. Tuy nhiên, khi băng thông tín hiệu là nhỏ  hơn so  với băng thông kênh, một số kênh thực tế có thể xấp xỉ với kênh AWGN. Chẳng hạn,   các kênh vô tuyến thẳng tuyến LOS (line of sight), bao gồm các kết nối microwave  (ND: sóng cực ngắn) mặt đất cố  định và các kết nối vệ  tinh cố  định, xấp xỉ  với các  kênh AWGN khi thời tiết tốt. Các cáp đồng trục băng rộng cũng xấp xỉ  kênh AWGN   do đó không tồn tại  nhiễu nào khác ngoài nhiễu Gauss. Trong cuốn sách này, tất cả  các trình tự  điều chế  đều được nghiên cứu trong  kênh AWGN. Có hai lí do cho việc này. Thứ  nhất, một số  kênh vốn xấp xỉ  kênh   AWGN, các kết quả có thể được sử dụng trực tiếp. Thứ hai, nhiễu Gauss cộng được   biểu diễn cho dù có tồn tại hay không những nhân tố làm suy yếu khác của kênh như  băng thông hạn chế, fading, đa đường, và các nhiễu khác. Vậy kênh AWGN là kênh tốt  nhất mà một hệ thống có thể có. Chất lượng của trình tự điều chế xác định trong kênh   này là biên trên của chất lượng. Khi có các nhân tố  suy giảm khác của kênh, chất  lượng hệ  thống sẽ  giảm. Chất lượng trong AWGN có thể  sử  dụng như  chuẩn trong  định giá sự  suy giảm cũng như  tính hiệu quả  của các kĩ thuật chống suy giảm chất  lượng. 1.2.2 Kênh giới hạn băng thông Khi băng thông kênh nhỏ  hơn băng thông tín hiệu, kênh gọi là có băng thông   hạn chế. Sự giới hạn băng thông phục vụ  gây nên nhiễu liên kí hiệu ISI (chẳng hạn,  các xung số sẽ mở rộng thời gian truyền (chu kỳ kí hiệu  Ts )) và gây nhiễu lên kí hiệu 
  10. tiếp theo, hay thậm chí là cả  kí hiệu tiếp theo nữa. ISI gây tăng xác suất lỗi bit ( Pb )  hay tỉ  lệ  lỗi bit BER, như  nó vẫn được gọi. Khi việc tăng băng thông kênh truyền là  điều không thể  hoặc không hiệu quả  kinh tế, các kĩ thuật cân bằng kênh được sử  dụng để  chống lại ISI. Qua nhiều năm, một số  lượng lớn các kĩ thuật cân bằng đã   được phát minh và sử dụng. Các kĩ thuật cân bằng mới xuất hiện liên tục. Chúng ra sẽ  không bao trùm chúng trong cuốn sách này. Về hướng các kĩ thuật cân bằng kênh, bạn  đọc được khuyên xem [1.chương 6] hay bất kì những sách về các hệ thống thông tin. 1.2.3 Kênh fading Fading là một hiện tượng xảy ra khi biên độ  và pha của tín hiệu vô tuyến biến đổi  nhanh trong một khoảng thời gian ngắn hay khoảng lan truyền ngắn. Fading được tạo  nên bởi nhiễu giữa hai hay nhiều phiên bản của tín hiệu phát khi chúng tới máy thu ở  những thời điểm khác nhau một chút. Các sóng này, gọi là các sóng đa đường, kết hợp   với nhau tại anten cho một tín hiệu tổng mà có thể biến đổi rất rộng về cả biên độ và  tần   số.  Nếu  các   thời   gian   trễ   của   các   tín   hiệu   đa   đường   dài   hơn   chu  kì   kí   hiệu   (symbol)  (ND: hay cũng có thể  gọi là mẫu tín hiệu) , các tín hiệu đa đường đó phải  được xem như  tín hiệu khác. Trong trường hợp này, ta có các tín hiệu đa đường độc   lập. Trong các kênh thông tin di động, như kênh di động mặt đất và kênh di động vệ  tinh, nhiễu fading và đa đường được tạo nên bởi những phản hồi từ các công trình bao  quanh và các địa hình. Thêm vào đó, sự di chuyển tương đối giữa máy phát và máy thu   cho kết quả  là điều chế  tần số  ngẫu nhiên trong tín hiệu do mức dịch tần Doppler   khác nhau trên mỗi thành phần đa đường. Sự  di động của các đối lượng bao quanh,   như  xe tải, cũng tạo nên một mức dịch tần Doppler trên thành phần đa đường. Tuy  nhiên, nếu các đối tượng bao quanh di chuyển  ở tốc độ  nhỏ  hơn tốc độ  của di động,  thì hiệu ứng của chúng có thể được bỏ qua. Nhiễu fading và đa đường cũng tồn tại trong các kết nối microwave LOS (ND:  như  đã nói  ở  trên, LOS=tuyến thẳng)  [3]. Trong những buổi hè trời trong và êm, sự  hỗn loạn áp suất thông thường là nhỏ. Tầng đối lưu xếp thành tầng với những phân   phối của nhiệt độ và hơi ẩm không đồng đều. Sự phân lớp của tầng áp suất thấp hơn  tạo nên các gradien chỉ số khúc xạ đột ngột để tạo nên các đường đa tín hiệu với các  biên độ và các trễ khá khác nhau. Fading tạo nên các biến đổi nhanh về  biên độ  và những độ  lệch pha trong các   tín hiệu nhận. Đa đường tạo nên nhiễu liên kí hiệu. Dịch tần Doppler tạo nên sự  trôi   tần số sóng mang và trải băng thông tín hiệu. Tất cả điều đó dẫn tới sự suy hao chất  lượng của điều chế. Việc phân tích chất lượng điều chế  trong các kênh fading sẽ  được thảo luận chi tiết hơn. 1.3 Các công cụ điều chế vơ bản Điều chế số là một quá trình nén một kí hiệu số lên một tín hiệu thích hợp để truyền   phát. Với những truyền phát khoảng cách ngắn, điều chế  băng gốc thường được sử  dụng. Điều chế  băng gốc thường được gọi là mã đường. Một chuỗi các kí hiệu số  thường được sử dụng để tạo nên dạng sóng xung vuông với một số đặc điểm nào đó   để  biểu diễn mỗi dạng kí hiệu mà không có sự  nhập nhằng sao cho chúng có thể 
  11. được khôi phục trong lúc thu. Hình 1.3 cho một số  dạng sóng điều chế  băng gốc.  Dạng đầu tiên là điều chế  non­return zero­level (NRZ­L) thực hiện biểu diễn một kí  hiệu 1 bởi một xung vuông dương với độ  dài T và kí hiệu 0 bởi một xung vuông âm   với độ dài T. Hình  3: Các thí dụ về điều chế số băng gốc. Dạng thứ hai là dạng điều chế unipolar return to zero với một xung dương độ dài T/2  biểu diễn kí hiệu 1 và giá trị 0 biểu diễn cho kí hiệu 0. Dạng thứ 3 là dạng mức 3 pha  (biphase level) hay còn gọi là Manchester, sau khi phát minh ra dạng này, việc điều chế  sử dụng dạng sóng gồm một xung T/2 dương và xung T/2 âm cho 1 và dạng sóng đảo  ngược cho 0. Trình tự điều chế này và các trình tự khác sẽ được thảo luận chi tiết hơn   trong chương 2.  Với các truyền phát đường dài và không dây, điều chế thông dải thường được   sử  dụng. Điều chế  thông dải cũng được gọi điều chế  sóng mang. Một chuỗi các kí   hiệu số  được sử dụng để  làm thay đổi các thông số  của một tín hiệu hình sin tần số  cao gọi là sóng mang. Nói chung, một tín hiệu hình sin có 3 thông số: biên độ, tần số  và pha. Vậy điều chế biên độ, điều chế tần số, và diều chế pha và là ba công cụ điều   chế  cơ  bản trong điều chế  thông dải. Hình 1.4 cho ba dạng điều chế  sóng mang nhị  phân cơ bản. Đó là khóa dịch biên độ (ASK), khóa dịch tần số (FSK), và khóa dịch pha   (PSK). Trong ASK, bộ điều chế đẩy ra một bó sóng mang cho mỗi kí hiệu 1, và không   tín hiệu nào cho mỗi kí hiệu 0. Trình tự  này cũng được gọi là khóa bật­tắt (OOK).   Trong khóa ASK thông thường, biên độ  cho kí hiệu 0 không thực sự là 0. Trong FSK,   với kí hiệu 1, một bó sóng mang tần số cao hơn được phát ra và với kí hiệu 0 một bó   sóng mang tần số thấp hơn được phát ra, hay ngược lại. 
  12. Hình  4: ba trình tự điều chế thông dải cơ bản. Trong PSK, một kí hiệu 1 được phát ra như một bó sóng mang với 0 lần đảo pha trong  khi kí hiệu 0 được phát ra như một bó sóng mang với pha đảo 180°. Dựa trên ba trình tự điều chế cơ  bản đó, một loạt các trình tự  điều chế có thể  được tìm thấy từ các kết hợp của chúng. Chẳng hạn, bằng cách kết hợp hai tín hiệu   PSK (BPSK) với các sóng mang trực giao, một trình tự  mới gọi là khóa dịch pha cầu  phương (QPSK) có thể  được tạo ra. Bằng cách điều chế  cả  biên độ  và pha của sóng  mang, ta có thể thu được một trình tự gọi là điều chế biên độ cầu phương (QAM),v.v. 1.4 Tiêu chuẩn lựa chọn tiêu chuẩn điều chế Tinh thần của việc thiết kế một modem số là để truyền một cách hiệu quả các bit số  và phục hồi chúng từ  các  ảnh hưởng của nhiễu và các tác động của kênh. Có 3 tiêu   chuẩn ưu tiên khi lựa chọn các trình tự điều chế: hiệu quả về công suất, hiệu quả phổ  và độ phức tạp của hệ thống. 1.4.1 Hiệu quả công suất Tỉ  lệ  lỗi bit, hay xác suất lỗi bit của một trình tự  điều chế  là tỉ  lệ  nghịch với  Eb / N 0 , tỉ  lệ  năng lượng bit trên mật độ  phổ  nhiễu. Chẳng hạn,   Pb   của ASK trong  kênh AWGN được cho bởi:
  13. � 2 Eb � Pb = Q � (1.10) � N � � � 0 � Trong đó  Eb  là năng lượng bit trung bình, còn  N 0  là mật độ  phổ  nhiễu (PSD)  và Q(r) là tích phân Gauss, đôi khi được biết tới là hàm Q. Hàm được định nghĩa như  sau: 1 −u2 Q( x) = e du (1.11) x 2π Hàm là hàm giảm đơn điệu của x. Do đó hiệu quả công suất của một trình tự  điều chế được định nghĩa một cách thẳng thắn như tỉ lệ  Eb / N 0  cần thiết với một xác  suất lỗi bit nào đó ( Pb ) tren một kênh AWGN.  Pb = 10−5  thường được sử  dụng như tỉ  lệ lỗi bit tham chiếu. 1.4.2 Hiệu quả phổ Việc xác định hiệu quả dùng phổ phức tạp hơn một chút. Hiệu quả phổ được   định nghĩa như  số  bit trên một giây có thể  được truyền đi trong một Hert của băng  thông hệ  thống. Ví dụ, mật độ  phổ  công suất một dải của một tín hiệu ASK được   điều chế bởi một chuỗi bit ngẫu nhiên độc lập có xác suất ngang nhau được cho như  sau: A2T A2 ψs( f ) = sin c [T ( f − f c )] + 2 δ ( f − fc ) 4 4 và được cho trong hình 1.5, trong đó T là độ dài bit, A là biên độ sóng mang, và   f c  là tần số  sóng mang. Từ  hình ta có thể  thấy rằng phổ  tín hiệu trải từ   −  tới  .  Vậy để truyền đi một cách hoàn hảo tín hiệu, thì cần một băng thông hệ thống không   xác định, biến thiên dựa trên một tiêu chuẩn khác. Chẳng hạn, trong hình 1.5, hầu hết  năng lượng tín hiệu tập trung trong dải giữa hai điểm 0, vậy yêu cầu một băng thông   0­0 có vẻ như đã 
  14. Hình  5: mật độ phổ công suất của ASK đầy đủ. Có 3 cách tính hiệu quả phổ trong các tài liệu như liệt kê sau đây: Hiệu quả  phổ  Nyquist­giả  thiết hệ  thống sử  dụng bộ  lọc Nyquist (đáp  ứng   xung chữ nhật lí tưởng) tại băng gốc, có băng thông yêu cầu tối thiểu cho truyền phát   nhiễu ISI tự do của các tín hiệu số, thì băng thông tại băng gốc là  0.5 Rs ,  Rs  là tốc độ  kí hiệu, và băng thông tại tần số  sóng mang là  W = Rs . Do  Rs = Rb / log 2 M ,  Rb =tốc  độ bit, với điều chế M­ary (ND: M ở đây là số điểm có thể thấy khi xem biểu đồ chòm   điểm), hiệu quả phổ là  Rb / W = log 2 M (1.12) Hiệu quả phổ null­null (ND: hay ở trên vừa dịch là 0­0)­với các trình tự điều  chế có các điểm 0 phổ mật độ công suất như của ASK trong hình 1.5, định nghĩa băng  thông như độ rọng của búp sóng chính là cách thích hợp để định nghĩa băng thông. Hiệu quả  phổ  phần trăm­nếu phổ  của một tín hiệu điều chế  không có các  điểm không, như  điều chế  pha liên tiếp nói chung (CPM), băng thông null­null không  tồn tại. Trong trường hợp này, băng thông phần trăm có thể  được sử  dụng. Thông  thường 99% được sử  dụng, cho dù một số  số  phần trăm khác (như  90%, 95%) cũng   được dùng. 1.4.3 Độ phức tạp hệ thống Độ  phức tạp của hệ  thống ý nói tới tổng số  dây dẫn trong nó và độ  khó kĩ  thuật của hệ  thống. Liên hệ  với độ  phức tạp của hệ  thống là giá thành sản xuất, dĩ   nhiên   là   mối   băn   khoăn   chính   trong   việc   lựa   chọn   một   kĩ   thuật   điều   chế.   Thông  thường, bộ  giải điều chế  phức tạp hơn bộ  điều chế. Bộ  giải điều chế  thích ứng thì   phức tạp hơn nhiều so với bộ  giải điều chế  không thích  ứng do sự  khôi phục sóng 
  15. mang được yêu cầu trong nó. Với một số  phương pháp giải điều chế, các thuật toán   phức tạp như Viterbi cần sử dụng. Tất cả là nền tảng cho so sánh phức tạp hơn. Do hiệu quả  về  công suất, hiệu quả  phổ  vả  độ  phức tạp hệ  thống là tiêu   chuẩn chính khi lựa chọn một kĩ thuật điều chế, ta sẽ  luôn chú ý tới chúng khi phân  tích các kĩ thuật điều chế trong phần còn lại của cuốn sách. 1.5 Tổng quan các trình tự điều chế số Để cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn tổng quan, chúng tôi liệt kê một số viết tắt và   tên mô tả của các điều chế  số khác nhau sẽ có trong bảng 1.1 và sắp xếp chúng theo   sơ đồ  cây như trong hình 1.6. Một số trình tự có thể  thu được từ  nhiều hơn một trình  tự cha. Các trình tự trong đó mã hóa vi sai có thể được sử dụng sẽ được đánh nhãn D   và những trình tự  có thể  được giải điều chế  không thích  ứng sẽ  được đánh nhãn N.   Tất cả các trình tự đều có thể được giải điều chế thích ứng. Các trình tự  điều chế  liệt kê trong bảng và cây được phân loại thành hai phân   nhóm lớn: biên cố  định và biên không cố  định. Trong lớp biên cố  định, có 3 lớp con:   FSK, PSK và CPM. Trong lớp biên không cố  định, cũng có 3 lớp con: ASK, QAM và  các điều chế biên không cố định khác nữa, Trong các trình tự đã được liệt kê, ASK, PSK và FSK là các điều chế  cơ bản,   còn MSK, GMSK, CPM, MHPM và QAM, v.v. là các trình tự  nâng cao. Các trình tự  điều chế nâng cao là các biến thể và kết hợp của các trình tự cơ bản. Lớp có biên cố  định nói chung phù hợp với các hệ  thống thông tin có các bộ  khuếch đại công suất hoạt động trong vùng phi tuyến của đặc tuyến đầu vào­đầu ra   để  thu được hiệu quả  khuếch đại tối đa. Một ví dụ  là TWTA (traveling wave tube  amplifier)­bộ khuếch đại ống sóng chạy trong thông tin vệ tinh. Tuy nhiên, các trình tự  FSK nói chung trong lớp này là không thích hợp với  ứng dụng vệ  tinh do chúng có  hiệu quả phổ quá thấp so với các trình tự PSK. FSK nhị phân được sử dụng trong các   kênh điều khiển tốc độ thấp của các hệ thống tế bào thế hệ thứ nhất, AMPS (advance   mobile phone service of Ú) và ETACS (European total access communication system).  Tốc độ  truyền có thể là 10 Kbps với AMPS và 8 Kbps với ETATC. Các trình tự PSK,   bao gồm BPSK, QPSK, OQPSK, và MSK đã được sử  dụng trong các hệ  thống thông  tin vệ tinh. π/4­QPSK được quan tâm nhất bởi khả năng tránh di pha đột ngột 180° và cho   phép giải điều chế vi sai. Trình tự này đã được sử dụng trong các hệ thống thông tin di   động số tế bào, như hệ thống số tế bào Mĩ (USDC)(United State digital cellular). Tên viết tắt Tên viết tắt tương  Mô tả đương Frequency shift keying BFSK FSK Binary frequency shift keying MFSK M­ary frequency shift keying Phase shift keying BPSK PSK Binary phase shift keying QPSK 4PSK Quadrature phase shift keying OQPSK SQPSK Offset QPSK, Staggered QPSK
  16. π/4­QPSK  π/4 Quadrature phase shift keying MPSK M­ary Phase shift keying Continuous phase modulation (CPM) SHPM Single­h (chỉ số điều chế) phase modulation MHPM Multi­h (chỉ số điều chế) phase modulation LREC Rectangular pulse of length L CPFSK Continuous phase shift keying MSK FFSK Minimum shift keying, fast FSK SMSK Serial minimum shift keying LRC Raised cosine pulse of length L LSRC Spectrally raised cosine pulse pff length L GMSK Gaussian minimum shift keying TFM Tamed frequency modulation Amplitude and amplitude/phase modulations ASK Amplitude phase shift keying (tên thông  thường) OOK ASK Binary on­off keying MASK MAM M­ary ASK, M­ary amplitude modulation QAM Quadrature amplitude modulation Các điều chế biên không cố định QORC  Quadrature overlapped raised cosine  modulation SQORC Staggered QORC  QOSRC  Quadrature overlapped squared raised cosine  modulation Q2PSK Quadrature quadrature phase shift keying IJF­OQPSK Intersymbol­interference/jitter­free OQPSK TSI­OQPSK Two­symbol­interval OQPSK SQAM Superposed­QAM XPSK Crosscorrelated QPSK Bảng 1 Các trình tự điều chế số
  17. Hình  6: cây điều chế số Các trình tự PSK có biên cố định nhưng chuyển pha không liên tục từ kí hiệu này sang  kí hiệu khác. Các trình tự CPM không chỉ có biên cố định mà còn có sự chuyển pha liên  tục. Vậy chúng có ít năng lượng búp biên trong phổ hơn so với các trình tự PSK. Lớp  CPM bao gồm LREC, LRC, LSRC, GMSK và TFM. Sự khác nhau giữa chúng nằm ở  các xung tần số khác nhau được thể hiện ở tên của chúng. Chẳng hạn, LREC có nghĩa  là xung tần số là một xung hình chữ nhật với độ dài L các chu kì điều chế. MSK và  GMSK là hai trình tự quan trọng trong lớp PCM. MSK là một trường hợp của CPFSK, 
  18. nhưng nó cũng có thể nhận được từ OQPSK với dạng xung hình sin mở rộng, MSK có  hiệu quả về công suất và hiệu quả về phổ rất tuyệt. Bộ điều chế và giải điều chế  của chúng cũng không quá phức tạp. MSK đã được sử dụng trong tên lửa công nghệ  truyền thông chuyên sâu của NASA (NASA's Advanced Communication Technology  Satellite (ACTS)). GMSK có xung tần số Gauss. Vậy nó có thể có hiệu quả dùng phổ  tốt hơn cả MSK. GMSK đơ]cj sử dụng trong hệ thống dữ liệu gói số dạng tế bào  (CDPD) và hệ thống GSM châu Âu (global system for mobile communication). HMPM được chú ý đặc biệt từ khi có tỉ lệ lỗi tốt hơn so với single­h CPM bằng cách  biến đổi có chu kì hệ số điều chế h. Các trình tự biên không cố định nói chung, như ASK và QAM, thường là không phù  hợp với các hệ thống có các bộ khuếch đại công suất không tuyến tính. Tuy nhiên  QAM, với biểu đồ chòm sao tín hiệu rộng, có thể thu được hiệu quả sử dụng phổ đặc  biệt cao. QAM đã được sử dụng một cách rộng rãi trong các MODEM sử dụng trong  các mạng điện thoại, như các modem máy tính. QAM còn được xem xét cho các hệ  thống vệ tin. Trong trường hợp này, tuy nhiên, phản hồi trong công suất đầu vào và  đầu ra của TWTA phải được cung cấp để đảm bảo tính tuyến tính của khuếch đại  công suất.
  19. Chương 2: điều chế băng gốc  (hay còn được gọi là line coding) Điều chế băng gốc được xác định như một truyền phát trực tiếp mà không chuyển đổi  tần số. Đây là công nghệ biểu diễn các chuỗi số bằng các dạng sóng xung phù hợp  cho việc truyền phát băng gốc. Một loạt các dạng sóng đã được đề ra trong cố gắng  tìm ra những dạng có các đặc tính mong muốn, như hiệu quả dùng phổ và hiệu quả về  công suất tốt, và thông tin định thời đầy đủ. Các dạng sóng điều chế băng gốc đó còn  được gọi là mã đường truyền, định dạng băng gốc (hay định dạng dạng xung, dạng  sóng PSM (hay định dạng, mã,...) (ND: nên biết thuật ngữ tiếng anh: line codes,  baseband formats, baseband waveforms, PCM waveforms). PCM (pulse code  modulation) là quá trình mà mỗi chuỗi nhị phân biểu diễn một tín hiệu tương tự đã số  hóa được mã hóa vào một dạng sóng xung. Với tín hiệu dạng dữ liệu thì không cần  PCM. Do đó thuật ngữ mã đường truyền và định dạng băng gốc (hay dạng sóng) thích  hợp hơn và thường được sử dụng hơn. Các mã đường truyền được phát triển chủ yếu  bắt đầu trong những năm 1960 bởi các kĩ sư tại AT&T, IBM hay RCA để truyền phát  số trên các cáp điện thoại hay ghi số lên phương tiện từ [1­5]. Các phát triển gần đây  trong mã đường truyền chủ yếu tập trung vào các hệ thống truyền phát lõi sợi quang  [6­11]. Trong chương này trước tiên ta giới thiệu kĩ thuật mã hóa vi sai được sử dụng trong  phần sau của chương, trong các mã đường truyền cấu trúc. Sau đó ta giới thiệu một số  các mã đường truyền cơ bản trong mục 2.2. Các mật độ phổ công suất của chúng  được thảo luận trong mục 2.3. Phần giải điều chế của các dạng sóng là vấn đề dò tín  hiệu trong nhiễu. Trong mục 2.4 trước tiên ta mô tả bộ dò thích ứng của các tín hiệu  nhị phân trong nhiễu AWGN và sau đó ứng dụng các công thức kết quả nói chung để  thu các biểu thức về xác suất lỗi hay tỉ lệ lỗi bit (BER) của một số mã đường truyền.  Các kết quả nói chung có thể được sử dụng cho bất kì tín hiệu nhị phân nào, bao gồm  cả các tín hiệu thông dải sẽ được mô tả trong các chương sau. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2