VĂN MẪU LỚP 11 CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA

HÀN MẶC TỬ

BÀI MẪU SỐ 1:

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.

Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình

Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc

Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở

đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.

Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến

về tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buông bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.

Khổ thơ cuối thể hiện một khung cảnh khi có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với

thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

“ Khách đường xa ở đây chính là ai?” cùng với điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại như vô vọng của mối tình đơn phương xa vời. Thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng thiết tha mãnh liệt. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi như trong ảo mộng, sương khói làm nhòa hình ảnh ảo mộng: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn không ra”,hình ảnh tà áo trắng gợi ra hình ảnh dịu dàng mà cũng thanh khiết ,có lẽ là dáng dấp của một người con gái xứ Huế . Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng. Cái mà Hàn Mặc Tử tha thiết mong đợi như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng. Vừa là nỗi mong ước đến khát khao,câu hỏi bâng quơ nhưng gợi ra nhiều tâm trạng. Đó chính là sự bâng khuâng khó tả và sự nhẹ nhàng như tự nhủ với bản thân.

Mặc Dù đã ra đời tư lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với đời,với tình yêu ,cuộc sống.

BÀI MẪU SỐ 2:

Trong cuộc sống của chúng ta có những người yêu nhưng nhút nhát mà không dám nói chính vì thế mà để lại sự hối tiếc về sau đồng thời cũng làm cho người kia phải chờ đợi. Trong làng thơ Việt Nam ngoài Nguyễn Bính là một nhà thơ hay viết thơ tình nhưng thực chất thì lại nhút nhát trong chuyện tình cảm thì còn có cả Hàn Mạc Tử. Ông là một nhà thơ góp phần làm nên phong trào thơ Mới phong phú và đa dạng. Như nhà thơ phê bình Hoài Thanh có viết rằng chúng ta điên cuồng Hàn Mặc Tử. Thế nhưng ngoài những vần thơ điên cuồng thì Hàn Mạc Tử còn có cả những vần thơ chứa chan tình thương yêu. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là một bài thơ trữ tình trong số những bài thơ yêu thương của ông.

Bài thơ được viết khi ông đã mắc bệnh phong và cuộc sống của ông chỉ bó gọn trong trại phong Tuy Hòa. Với một người yêu cuộc sống yêu thiên nhiên, yêu con người như thế mà lại mắc phải căn bệnh kia cùng với cái chết cận kề Hàn Mạc Tử không khỏi điên cuồng giãy giụa trong bệnh tật thế nhưng may sao trong những năm tháng ấy Hàn mạc Tử được một người mà mình yêu mến năm xưa là Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho một tấm thiệp với câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ?. Thế là bấy nhiêu tình cảm, bấy nhiêu cảm xúc thực tại đã khiến cho nhà thơ sáng tác bài thơ này. Lời nhắn nhủ hỏi thăm của người tình ấy đã khiến cho nhà thơ không khỏi nuối tiếc vì một mối tình mà chính ông lại quá nhút nhát để tiến đến.

Bài thơ mở đầu bằng chính câu hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc trong tấm thiệp

gửi Hàn Mạc Tử:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu hỏi nghi vấn được đặt làm câu thơ mở đầu bài thơ cho thấy được một sự trách móc đầy yêu thương của người con gái năm xưa dành cho người trong trại phong Tuy Hòa. Không những thế qua câu hỏi ấy ta còn thấy được tình cảm mà Hoàng Cúc danh cho nhà thơ hay đó cũng là một sự quan tâm hỏi thăm đến người xưa cũ. Như vậy câu hỏi kia không chỉ để hỏi mà nó còn mang cả sự thương cảm, nhớ nhung, yêu thương, quan tâm và cả trách móc nữa. Vĩ Dạ kia chính là Huế – là nơi mà hai người đã gặp nhau và tình cảm bắt đầu bằng sự im lặng kết thúc cũng như thế. Thế rồi những câu thơ sau nhà thơ vẽ lên cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh nắng được nhắc đến hai lần trong câu thơ thứ hai cho ta thấy được một cảnh tượng của buổi sơm tinh khôi nơi thôn Vĩ. Câu thơ như vẽ ra hình ảnh nắng mới chiếu sáng từng đọt cau, lá cau để làm nên hình tượng nắng hàng cau. Buổi sáng ấy không phải là nắng trên biển không phải nắng trên những chiếc lá thu vàng

mà là trên những cây cau. Đến với Thôn Vĩ người ta không thể nào không nhìn thấy hình ảnh những cây cau cao vút đứng hiên ngang thành hàng thành lối. Và phải chăng nhà thơ đã nói lên cái đặc trưng nhất của xứ Huế mà không phải nơi nào cũng có. Không những thế buổi sáng nơi đây còn hiện lên thật xanh mướt tinh khôi trong hình ảnh của khu vườn nhà ai xanh như ngọc. Vườn ai là vườn của Hoàng Cúc hay của bất kì người Huế nào?. Cái màu xanh ngọc trong trẻo được nhà thơ sử dụng để nói lên cảnh thiên nhiên của con người nơi đây. Không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà con người Huế cũng được hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng qua hình ảnh “lá trúc tre ngang mặt chữ điền”. Đó là một vẻ đẹp kín đáo dịu dàng và phúc hậu.

Đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ như thể hiện nỗi buồn của bản thân mình, nhà thơ

không nói trực tiếp mà mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Theo quy luật đời thường thì là gió thổi mây bay thế nhưng ở đây nhà thơ lại nói là gió theo lối gió mây bay đường mây. Liệu rằng câu thơ đó mang một sự vô lý rất trầm trọng. Thế nhưng xét trong hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ thì câu nói kia không hề vô lý,nó trở thành có lý hợp với tâm trạng của nhà thơ. Nói như thế nhà thơ muốn thể hiện sự chia rẽ cách xa trong lòng mình. Phải chăng nhà thơ đang tiếc thương cho mối tình của mình?. Trước hết chia rẽ do nhà thơ nhút nhát và thứ hai bây giờ có muốn nói thì cũng đã quá muộn vì người con gái ấy đã đi lấy chồng còn nhà thơ thì đang mang trong mình trọng bệnh vì thế mà ta nhận ra một bi kịch tình cảm ở đây. Dòng nước buồn thiu, hoa bắp ở bãi nào đó khẽ lay, cái lay ấy chỉ là một chút rất nhẹ nhàng mà thôi. Hình ảnh con thuyền ở đây đậu bến sông trăng thật yên ả làm sao. Bông nhà thơ cất lên câu hỏi vô chứa đầy bi kịch “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Cái bi kịch nằm ở chữ “Kịp” ấy, rõ ràng là một cảnh tượng nên thơ nên họa, đẹp hiền hòa yên bình thế nhưng qua con mắt của người cuộc sống chỉ được tính lại từng ngày ít ỏi mà hạnh phúc lứa đôi dang dở thì lại trở thành buồn hiu hắt đầy bi kịch.

Và đến cuối cùng nhà thơ vẫn không thôi mơ về người con gái ấy, nhà thơ đang

nhớ hay là đang luyến tiếc:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khách đường xa là ai có phải chăng là người con gái mang tên Kim Cúc ấy. Điệp từ “khách đường xa”như thể hiện được nỗi nhớ của nhà thơ với người con gái ấy. Nhà thơ cảm thấy mình như đang mơ màng chìm đắm trong nỗi nhớ ấy. Hình ảnh áo người con gái ấy trắng nhìn không xa , chẳng biết được là do trắng qua hay do sương khói mờ nhân ảnh hay chính là những giọt nước mắt của nhà thơ làm nhạt nhòa hình ảnh ấy. Cũng có thể đó là màu của kí ức nó trở nên mờ nhạt trong tâm trí con người. không phải là sự mờ nhạt của tình cảm mà nó là mờ nhạt do kí ức quá ư là xa xôi. Kết thúc bài thơ nhà thơ lại vang lên một câu hỏi đầy tâm trạng. Câu hỏi ấy là hỏi người con gái hay hỏi chính mình?. Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi ấy cũng không có câu trả lời nó chỉ hỏi ra để mang tâm trạng đau khổ của nhà thơ trước số phận của mình mà thôi.

Một bài thơ mà có đến ba câu hỏi chứng tỏ trong lòng nhà thơ đang một tâm trạng vô cùng lớn. Chỉ có thế thì nhà thơ mới hỏi ra rồi không ai trả lời cả, mọi thứ đều rơi vào không gian kia chẳng ai hay biết chỉ có nhà thơ biết. Bài thơ là lời nói, dòng tâm sự của nhà thơ dành cho người con gái mà mình đã lỡ để dành cơ hội yêu thương cho người khác.

BÀI MẪU SỐ 3:

A. Hướng dẫn tìm hiểu đề

– Xác định vấn đề nghị luận: nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

– Xác định luận cứ, luận chứng.

– Phạm vi tư liệu: bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

– Thao tác lập luận : phân tích, bình luận, nêu cảm nhận.

B. Hướng dẫn lập dàn ý

I. Mở bài

– Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ ca lãng mạn 1930-

1945.

– “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử nằm

trong tập “Thơ điên” (hay “Đau thương”) được chính nhà thơ tập hợp lại vào 1938.

– Bài thơ thể hiện nổi cô đơn, tuyệt vọng của một con người trong thế giới đau

thương đối với cuộc đời đầy niềm vui, ánh sáng bên ngoài.

II. Thân bài

a. Thiên nhiên con người xứ Huế trong buổi bình minh

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

– “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” : câu hỏi tu từ – là lời của Hàn Mặc Tử tự phân thân ra để hỏi mình đồng thời vừa mời mọc, trách móc với cả một niềm tiếc nuối. Từ sự phân thân đó, tiếp theo Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc hành trình trở về thăm thôn Vĩ trong tâm tưởng. Từ đó, thôn Vĩ đã hiện ra với vẻ đẹp thanh khiết.

– “Nắng hàng cau” đó là thứ nắng mai in trên hàng cau. Trong vườn, cau là loại cây cao nhất vượt lên trên hết các loại cây khác vì thế cau thường bắt được những tia nắng đầu tiên trong buổi bình minh. Trong đêm lá cau thường được sương đêm tắm gội cho nên nó luôn giữ được vẻ tươi mới. Khi hàng cau bắt được nắng thì sẽ tạo ra nắng hàng cau – thứ nắng vàng hanh, mượt mà, long lanh, tinh khiết.

– Mặt trời càng lên cao thì nắng ngập dần khu vườn, đến lúc tràn đầy thì nắng sẽ biến cả khu vườn trở nên xanh thẩm như một viên ngọc lớn. Đặc biệt cách dùng từ ngữ độc đáo : “mướt quá”, “xanh như ngọc” – làm nỗi bật ánh xanh và sắc xanh. Cách diễn đạt đó làm tôn lên vẻ đẹp đơn sơ mà hết sức lộng lẫy của vườn Vĩ Dạ.

– “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” : con người thôn Vĩ xuất hiện với vẻ đẹp phúc

hậu, hiền từ. Con người hòa quyện với thiên nhiên mang vẻ đẹp kín đáo mờ ảo.

b. Đêm trăng Vĩ Dạ

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

– Vẫn là cảnh sắc thiên nhiên nhưng trong khổ thơ này cảnh đã được “lạ hóa” in đậm cái Tôi đau thương của nhà thơ. Cảnh có gió, mây, hoa, dòng nước, hoa bắp, con thuyền, bến sông…Nhưng tất cả không một chút ràng buộc, không một mối dây liên hệ với nhau. Trong tự nhiên gió và mây không tách rời nhau. Gió có thổi thì mây mới bay và mây bao giờ cũng bay theo gió. Nhưng ở đây, mây và gió đã chia lìa, đoạn tuyệt với nhau.

– Trong cái xu thế tất cả dường như đều chia lìa, li tán. Trăng đã xuất hiện cùng

với con thuyền, bờ bến và dòng sông.

– Sự liên tưởng đầy biến hóa táo bạo của nhà thơ qua hình ảnh “sông trăng” con thuyền “chở trăng”. Có thể hiểu hình ảnh “sông trăng” theo hai cách: trăng tỏa sáng xuống dòng sông, nước sông phản chiếu ánh trăng hay ánh trăng tan biến thành nước nên dòng sông hóa thành “sông trăng”.

– Trên dòng sông là con thuyền chở trăng về cập bến thời gian “tối nay”. Sự liên tưởng đầy biến hóa đã làm cho hai câu thơ tràn ngập ánh trăng. Điều đó ít nhiều làm mờ nhạt đi tâm trạng khắc khoải, thản thốt của nhà thơ ẩn đằng sau hình ảnh trăng, nước.

c. Tâm trạng băn khoăn, hoài nghi

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

– Câu thơ thứ nhất trong khổ thơ được ngắt nhịp 4/3. Trong đó có ba âm tiết được lập lại tạo thành điệp ngữ “khách đường xa”. Cách ngắt nhịp đó cùng với phép điệp ngữ tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả như một lời khẩn khoản, níu kéo trong tuyệt vọng.

– Hình ảnh người con gái xuất hiện trong mơ tưởng với sắc áo trắng, trắng đến nổi

nhà thơ thản thốt “nhìn không ra”.

– “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” : Hàn Mặc Tử dùng hình ảnh “mờ nhân ảnh” để chỉ cái tôi đau thương của mình. Cái tôi nhạt nhòa không ra đường nét, tồn tại mà như

không tồn tại nữa. ( “Cái quay búng sẵn trên trời – Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” – “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều). Một sự nhìn nhận đầy mặc cảm. Cái tôi ấy đối lập với con người mặt chữ điền, mặt áo trắng ở cõi đời ngoài kia.

– Trong câu thơ kết – nhà thơ dùng đại từ phiếm chỉ “ai” – “Ai” ở đây có thể là người thôn Vĩ hay bất kì ai hiểu được, cảm thông được cho nỗi đau riêng tư của Hàn Mặc Tử. Cách diễn đạt phiếm định này hé mở cho ta thấy sợi dây tình cảm, sợi dây níu kéo, nối kết hai thế giới – thế giới thôn Vĩ và thế giới đau thương của nhà thơ để hi vọng.

Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh đẹp, thơ mộng về một miền quê đất nước là tiếng lòng của con người tha thiết yêu đời, yêu người.

III. Kết bài

Bài thơ có cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, có mối tình đẹp nhưng ẩn khuất đằng

sau là tình cảm hết sức đáng trân trọng và cảm thông của Hàn Mặc Tử.

BÀI MẪU SỐ 4:

1. Giới thiệu nhà thơ Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ dạ

- Hàn Mặc Tử là một gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết và một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn.

- Đây thôn Vĩ Dạ in trong tập Thơ điên (Đau thương), sáng tác năm 1938. Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ một bức ảnh phong cảnh Huế với lời thăm hỏi của cô gái Vĩ Dạ, lúc thi sĩ đã mắc căn bệnh hiểm nghèo. Có thể xem bài thơ là lời tỏ tình với cuộc đời của một hồn thơ thiết tha nhưng tuyệt vọng.

2. Phân tích bài thơ

a. Khổ 1.

- Câu thơ mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”? là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa mời mọc. Nhà thơ đang phân thân để hỏi chính mình. Niềm khao khát được về thăm lại thôn Vĩ đã được cất lên thành lời tự vấn.

- Ba câu sau vẽ cảnh vườn thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

+ Mỗi câu một chi tiết vườn. Tất cả hợp lại, ánh lên một vẻ đẹp tinh khôi thanh khiết. Nắng trên hàng cau là những tia nắng mới của bình minh trên tàu lá cau con ướt sương đêm và xanh rời rợi. Nắng mai cứ theo chân cau và rót dần vào khu vườn. Đến khi tràn đầy thì nó biến cả khu vườn xanh thành một viên ngọc lớn. Hai chữ “mướt quá” tác động trực tiếp đến xúc cảm của người đọc, bởi nó như một tiếng reo ngỡ ngàng đầy hạnh phúc của thi sĩ. Chỉ là trong tưởng tượng, nhưng cứ tưởng như nhà thơ đang đứng trước khu vườn thôn Vĩ, khu vườn rời rợi sắc xanh và tỏa vào không gian những ánh sáng xanh, đơn sơ mà lộng lẫy, thanh tú.

+ Câu thơ thứ tư gây nhiều tranh luận: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Có thể đó là khuôn mặt người thôn Vĩ duyên dáng sau cành lá trúc – một nét vẽ tạo hình đậm chất cổ điển, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ. Nhưng cũng có thể hiểu đó là gương mặt người trở về thăm thôn Vĩ, đứng bên ngoài vịn cành lá trúc mà say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Và cảnh vườn thôn Vĩ – cũng là hình ảnh cuộc đời – như một thiên đường trần gian, một ao ước ngoài tầm với, một hạnh phúc ngoài tầm tay.

b. Khổ 2.

Khổ thứ hai chuyển sang cảnh dòng sông:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

- Mặc cảm chia lìa đã hiện ra trong câu chữ, hình ảnh và giọng điệu. Hai câu trên diễn tả một thực tại chia lìa. Tất cả dường như đang bỏ đi. Nỗi buồn chia lìa của gió mây đôi ngả đã thấm vào dòng nước buồn thiu và hoa bắt lay buồn hiu hắt.

- Trên cái xu thế tất cả đang bỏ đi ấy, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng trên với mình: “trăng”! Trong thế giới tâm hồn của Hàn Mặc Tử, trăng như một tri âm, một niềm tin cậy, mội nỗi khao khát, một vị cứu tinh. Sông trăng, thuyền trăng là những hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền như cõi mộng. Từ cõi thực, cảm xúc thơ dần chuyển sang mộng ảo, hư thuyền. Câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Tại sao phải “kịp” và phải là “tối nay”? Có phải nếu không kịp thì tất cả sẽ trở thành muộn màng? Phải chăng thi sĩ đã dự cảm về một cái kết thúc đau thương của mình? Chữ “kịp” thật bình thường mà chất chứa bi kịch tâm hồn, nó hé mở một mặc cảm về thực tại xa vời, hiện tại ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh. Câu thơ là câu hỏi của một niềm ước mong khắc khoải muốn được đón nhận vẻ đẹp của trăng, vẻ đẹp của cuộc đời.

c. Khổ 3.

Đến khổ thơ cuối, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

- Nhà thơ đang ở trong cõi đau thương của riêng minh mà mơ.

+ Giấc mơ ấy là niềm mong ước đên tận cùng một hình bóng đẹp của “em”, của “khách đường xa”. “Em” là người của cõi đời, giờ đã thành xa xôi quá! Ba chữ “khách đường xa” được lặp lại lần càng nhấn mạnh sự xa xôi ấy.

+ Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” có vẻ thật bâng khuâng, khó hiểu. “Trắng quá”, đó là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em. Ba chữ “nhìn không ra” là một cách nói đầy ấn tượng để cực tả sắc trắng ấy. Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta vẫn thường gặp lối nói giàu ấn tượng như vậy:

- Chết rồi xiêm áo trắng như tinh

- Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.

Màu trắng đã trở thành một ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Ở bài thơ này, vẻ đẹp của sắc áo trắng thanh khiết, tinh khôi và rực rỡ như một vẻ đẹp đáng tôn thờ và ước mơ. Hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết lại càng xa vời.

- Khổ thơ trên ý nghĩa bề mặt của nó đã vẻ đẹp bức tranh đẹp về người con gái

Huế và cảnh sông hương khói thơ mộng của xứ Huế.

+ Nhưng đâu chỉ là sương khói thực, dường như còn có sương khói của thời gian và cả sương khói mịt mờ trong vùng đau thương của riêng Hàn Mặc Tử. “Ở đây” đâu phải là thôn Vĩ Dạ, mà là thế giới riêng của một linh hồn bất hạnh, ở đây, con người nhà thơ đang mờ dần, đang sắp tan biến vào cõi hư vô. Hàn Mặc Tử đã rời khỏi thôn Vĩ trong tưởng tượng để trở về với thế giới bất hạnh của riêng mình, mịt mờ sương khói và đầy băn khoăn nghi ngại. Ở đây, sự tồn tại của nhà thơ sao quá đỗi mong manh, không biết mình có được đón nhận tình người đậm đà của cuộc đời không?

+ Câu hỏi cuối bài thơ với hai chữ “ai” thật xa rời đã khép bài thơ lại trong một nỗi ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh xa vời giữa sương khói của vùng đau thương tuyệt vọng.

3. Kết bài

Bằng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, Hàn Mặt Tử để lại cho thơ ca một bức tranh đẹp và tuyệt vời thơ mộng về xứ Huế qua những câu thơ tài hoa của “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ còn như một thông điệp của tâm hồn thi sĩ gửi đến người đời: hãy cảm thông và chia sẽ nỗi đau thương với những linh hồn bất hạnh.

BÀI MẪU SỐ 5:

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn mặc Tử hiện nên một bức tranh thiên nhiên, một bức tranh đồng quê vô cùng đẹp đẽ và gần gũi, nó cũng nói lên nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương da diết đến bâng khuâng.

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín…

Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận.

Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như

ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Rồi con người xuất hiện:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.

Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo

mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người

buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.

Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận.

Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng quá nhìn không ra.

Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh

đầy màu hư ảo lẫn khói mây:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên

bấy nhiêu.

Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.

Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.

BÀI MẪU SỐ 6:

Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới. Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kì. Thơ của ông vừa thổ hiện tình yêu khôn cùng đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng tới Chúa Trời, với những niềm thanh khí thần tiên.

Đã có không ít giai thoại về Hàn Mặc Tử, cũng có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Dây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm chính, thì có lẽ đông đảo bạn đọc đều thừa nhận trước hết, đây là một bài thơ nói về tình yêu một tình yêu đơn phương, thơ mộng, trong sáng, lung linh đến huyền ảo. Đồng thời, bài thơ không chỉ thành công ở phương diện ấy, mà điều không kém phần quan trọng là Hàn Mặc Tử còn nói được rất đúng, rất hay về xứ Huê mộng và thơ.

“Đây thôn Vĩ Dạ” chí vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.

Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng người

yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhỞ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những kỷ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hây về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai. Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương ôm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng dưới màu xanh cùa cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương núi Ngự, Chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tôn tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân... đều có những sáng tác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.

Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu con còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc...

Câu thơ:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhỞ tới hình ảnh người đàn ông có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chỉnh thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ, đáng yêu của thôn Vĩ: cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đến hậu giàu sức sống.

Tiếp nôi mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ có phần dành

để đặc tả cảnh sông nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ niềm hoài vọng bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, không những chỉ nhìn bằng mắt, mà điều quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình; do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai dậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? ” Thuyền trăng đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng “sông trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hi vọng, lần nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây rõ ràng, không chỉ có sự đặc sắc của một bút nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng.

An tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ

kết:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khô thơ trên có nét tả thực, cũng giông như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bấp”... ờ những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu.

Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một môi tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng, Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sông cô độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Quy Hòa chờ cái chết. Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cỞ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.

Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huê gắn bó với xứ Huê sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đúng và hay như thế!