VĂN MẪU LỚP 11
CẢM NHẬN KHỔ THƠ THỨ 2 TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ
DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
BÀI MẪU SỐ 1:
Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ
sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng của thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm
được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là
một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo
làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là
bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm
xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông
thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc
loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:
Gió theo lối gió mấy đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay.
Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần
tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới
đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lí nhưng ngẫm kĩ đó lại là
sản phẩm của ngòi bút xuất thần. Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm
dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà nhu mây đứng yên. Hai
chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng
Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông
Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho
sứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng
vặc dải ánh vàng trên sông. Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con
thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào
của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễn thấy đây là những vần thơ
dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ.
Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiêm là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm
sự, dãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường nhủ chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải
niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái:
“Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau,
vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải
chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia li cách biệt.
Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng
sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi. Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay
sự chia lìa, li tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm
trong lòng của thi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lí giải một cách rõ ràng được. Chỉ
thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng ma da diết, khắc
khoải mà khôn nguôi. Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay
trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không
hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi
buồn trong câu ca dao:
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như
đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông
hoa bắp cô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Động thái “lay” như một sự
níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân
phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ.
Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì
đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng,
và cũng chỉ có chăng mà thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải
chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc”
nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử.
Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của
thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, trànn ngập hạnh phúc mà thi
sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri
kỉ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát
khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng. Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu,
khẩn nguyện tha thiế. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ., ngay trong lời khẩn cầu
da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn.
Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong
trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào. Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là
một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên.
Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa
vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có
lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con
thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn,
tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự
cảm xót xa:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến thương anh và rửa vết thương tâm.
Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương
đất nước, Vĩ Dạ- xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái
tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng
là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm
BÀI MẪU SỐ 2:
Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của
mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn
hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì
Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc
Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ trở đầy những
cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta
ấn tượng nhất với khổ thơ thứ hai vì nó mang đầy bi kịch mang bao nỗi buồn
Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái
mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một
khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của
mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát. Trước Hoàng Cúc
cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần
nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa
ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng
nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn. Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho
ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây
nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ
một cách tự nhiên.
Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình
về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng
nhất, buồn nhất bi kịch nhất
Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đên sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà
thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn
cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và
gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu
thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly
này. Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp
ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ
không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người
cảnh vật nơi đây được nữa. Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà
số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để
cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc
Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã
từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của
hàn Mạc Tử được
Nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để
tìm sự hi vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm
trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước
kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng,
càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn. Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát
không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông.
Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế
Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ
Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng
quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau
mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc
nhưng lại không vui vì hiện thực này. Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của
một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần
nữa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ. Thế nhưng con thuyền kia
chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc
Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy.
Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này!
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ
thơ này:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ “kịp” chính là từ mang
đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được
ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà
thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông
đi khỏi thế gian này bất cứ lúc nào và điều ông mong muốn chỉ là gặp lại người xưa một
lần thôi.
Đoạn thơ kết thúc đem lại cho ta cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, Ai
mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc
đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà
thơ đã đau khổ như thế nào.