Chọn cổ phiếu tốt theo phong cách

Warrent Buffet

Có nhiều cách thức lựa chọn CP khác nhau và đều có thể đem lại lợi

nhuận cao, nhưng với sự bền vững, chắc chắn của lợi nhuận thì CP

được lựa chọn phải được thực hiện trên một hệ thống mang tính

nguyên tắc.

Bài viết này mong muốn chia sẻ một trong những cách thức tiếp cận CP

tốt theo phong cách của nhà đầu tư vĩ đại Warrent Buffet.

Theo NĐT huyền thoại này, một CP được coi là TÔậT nếu thỏa mãn

được 5 tiêu chí chính như sau:

1/Lợi nhuận để tăng trưởng

Một Cty không tăng trưởng là một Cty chết, chính vì vậy, lợi nhuận Cty

làm ra cần được tái đầu tư để DN phát triển mạnh mẽ hơn trong tương

lai. Tùy từng ngành nghề cũng như giai đoạn phát triển khác nhau mà tỉ

lệ lợi nhuận giữ lại khác nhau. Mức tăng trưởng 10-15%/năm được coi

là hợp lý, từ 20% trở lên được coi là xuất sắc.

2/Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đo lường khả năng sinh

lời của 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra để kinh doanh càng cao càng tốt.

Tuy nhiên, đây không phải là tiêu chí duy nhất, mà là khả năng sử dụng

hợp lý lợi nhuận cao đó vào mục tiêu tăng trưởng dài hạn. Thông thường

ở Việt Nam ROE của các DN niêm yết khoảng 10-15%, ROE từ 20% trở

lên thường chỉ có ở các DN ở giai đoạn đầu mới phát triển hoặc trong

ngành đặc thù.

3/Nợ vay ở mức hợp lý tối thiểu

Nợ vay được phép tính lãi vay như một dạng chi phí (chi phí tài chính)

và được khấu trừ thuế, trong khi vốn chủ sở hữu sử dụng trong kinh

doanh vẫn không được miễn giảm thuế. Vì vậy, các DN thường có xu

hướng vay càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, tiêu chí là mức nợ vay phải

hợp lý tối thiểu, đủ để phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời tận dụng

ưu đãi về thuế đối với chi phí lãi vay, đồng thời đảm bảo lợi ích cổ đông.

4/Ban lãnh đạo mạnh

Ban lãnh đạo của DN chính là linh hồn của DN. Một DN chỉ có thể

mạnh, phát triển bền vững trong trường hợp, lãnh đạo DN có trình độ

chuyên môn, tâm huyết với ngành nghề, cam kết và nỗ lực phát triển DN

lâu dài, bền vững, mọi quyết định đều đảm bảo cam kết vì lợi ích của cổ

đông.

5/Mô hình kinh doanh đơn giản

Xuất phát từ quan điểm, không đầu tư vào doanh nghiệp mà chúng ta

không hiểu rõ bản chất kinh doanh, việc đi từ những DN có mô hình

kinh doanh phổ thông, đơn giản là điều cần thiết. Kinh doanh đa ngành

sẽ khiến cho việc quản lý khó khăn hơn, hiệu quả kinh doanh có thể

giảm và có thể khiến DN mất định hướng.

Dưới đây là phân tích minh họa (không hàm ý khuyến cáo đầu tư) với

Cty Everpia Việt Nam.

Tiền thân là một DN Hàn Quốc trong lĩnh vực sản xuất và phân phối

chăn, ga, gối đệm hoạt động tại Việt Nam từ năm 1994, DN trên đã

chuyển hình thức sang Cty cổ phần từ năm 2007 và được biết đến rộng

rãi trên toàn quốc với thương hiệu chăn, ga, gối đệm Everon.

Về tình hình kinh doanh

Từ mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế -10% trong năm 2006, Everpia

đã đạt mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ở mức rất cao là 62% (2007)

và 146% (2008). Mức tăng trưởng của Everpia cho thấy DN đã có 2 năm

tăng trưởng vượt bậc. ROE của Everpia duy trì ở mức cao và ổn định

25-30% năm. Trong năm 2008, ROE tăng trưởng 45%. EPS đạt xấp xỉ

6.194 đ/ CP (tính trên số lượng CP lưu hành ngày 31.12.2008). Chỉ số

ROIC (suất sinh lợi trên vốn đầu tư) cũng tăng 52,8% so với năm 2007

(26,6%), (-> đáp ứng tốt tiêu chí 2 về kinh doanh - tỉ suất lợi nhuận).

Về mô hình kinh doanh

Cty thực hiện chu trình sản xuất - thương mại khép kín với một nhãn

hiệu sản phẩm duy nhất Everon giúp xây dựng một mô hình kinh doanh

đơn giản, quản lý gọn nhẹ, thông suốt giữa các giai đoạn khác nhau

trong quá trình sản xuất, thương mại sản phẩm ( -> đáp ứng tốt tiêu chí 5

- mô hình kinh doanh đơn giản).

Về tài chính và cơ cấu tài chính

Cty công bố và duy trì việc trả cổ tức hằng năm với tỉ lệ 12%, lợi nhuận

giữ lại được dùng để tái sản xuất phát triển theo định hướng chiến lược

đề ra nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng từ 30%/năm trở lên, (-> đáp

ứng tốt tiêu chí 1 - đảm bảo mối quan hệ giữa lợi nhuận và tăng trưởng).

Về nợ vay

Các khoản nợ của Everpia chủ yếu là nợ ngắn hạn với số liệu cuối năm

2008 chỉ khoảng 3 tỉ đồng, trong khi các DN cùng ngành có xu hướng

duy trì nợ tài chính cao ~30% tổng nguồn vốn. Cơ cấu nợ/tổng nguồn

vốn giảm mạnh từ 72% (năm 2005) xuống còn 30% (năm 2008). Việc

bán cổ phần cho Tập đoàn Mirae Asset (1,2 triệu USD, giá 40.000 đ/cổ

phần), Tập đoàn Dream Fund 1 (0.5 triệu USD, 40.000đồng/cổ phần) và

phát hành trái phiếu chuyển đổi cho Cty TNHH đầu tư KB-Hàn Quốc (1

triệu USD) đã giúp Cty giảm bớt gánh nợ ngân hàng, qua đó giảm sức

ép trả lãi suất trong thời kỳ lạm phát tăng dần trong những năm qua (->

thỏa mãn tiêu chí 3 - nợ vay ở mức tối thiểu hợp lý).