intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐẠI CƯƠNG VỀ GIÁO DỤC TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ Phần 8

Chia sẻ: Dqwdqwdqwd Qwdqwdqwdqwd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

105
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Môi trường giao tiếp giữa trẻ và cô giáo: Do điều kiện bệnh lý của trẻ sẽ nảy sinh ra nhiều tình huống mà thày cô giáo phải biết cách sử lý sao cho phù hợp để khuyến khích trẻ cộng tác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐẠI CƯƠNG VỀ GIÁO DỤC TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ Phần 8

  1. a/ Môi trường giao tiếp giữa trẻ và cô giáo: Do điều kiện bệnh lý của trẻ sẽ nảy sinh ra nhiều tình huống mà thày cô giáo phải biết cách sử lý sao cho phù hợp để khuyến khích trẻ cộng tác. Cần chiếm lĩnh được lòng tin của trẻ, xóa đi mọi ranh giới về mặc cảm, trẻ chỉ nhận thấy khi thầy cô yêu thương mình thực sự sẽ xóa đi những rào cản trong quan hệ giao tiếp, sẽ phát hiện được điểm mạnh điểm yếu của trẻ để phát huy và khắc phục. Nếu thầy cô để trẻ mặc cảm, không thích tiếp xúc, không cộng tác, xa lánh sẽ rất khó khăn giáo dục. b/ Môi trường giao tiếp xã hội: Sự cần thiết cho trẻ tiếp xúc với môi trường ngôn ngữ cộng đồng như giao lưu, hội hè, mua bán. Lúc đầu trẻ cần được nghe, tạo ra thói quen nhập tâm, những nguồn ngôn ngữ này là rất đa dạng phong phú, rất có ích cho trẻ. Vì thế nên tổ chức các hoạt động ngoại khóa như việc tham gia lễ hội, tham gia vãng cảnh, đi chợ mua sắm , cần để trẻ tự chủ trong giao tiếp, thầy cô chỉ đóng vai trò hỗ trợ giúp trẻ thực hiện được ý muốn của bản thân. c/ Môi trường giao tiếp ngôn ngữ ở gia đình: Đây cũng là một môi trường ngôn ngữ hết sức quan trọng vì 2/3 tthời gian trẻ sống ở nhà được tiếp xúc với bố mẹ, anh chị và những người ruột thịt khác. Trong môi trường này, nếu cha mẹ, anh chị của trẻ được các thầy cô tư vấn về cách dạy trẻ giao tiếp, phát triển ngôn ngữ thì khả năng phát triển giao tiếp và ngôn ngữ sẽ giúp trẻ tiếp cận rất nhanh. Trước hết phải xây dựng được tình yêu thương ruột thịt để chiếm lĩnh được trẻ, có vậy khi nói hoặc giảng giải thì trẻ mới chịu nghe. Để làm được điều này thì cha mẹ của trẻ cần phải được thầy cô giáo tư vấn kiến thức chăm sóc trẻ trong gia đình. Cần dạy trẻ chào hỏi, tiếp khách cùng bố mẹ, dạy trẻ nói, đọc, viết. Đây chính là hoạt động phát triển ngôn ngữ. 2.3.2.Những biện pháp cơ bản để phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ CPTTT. Khi đã tạo ra được môi trường ngôn ngữ thuận lợi để trẻ ham muốn được giao tiếp bằng cử chỉ, lời nói là điều rất tốt. Vì vậy thâỳ cô phải nắm vững các phương pháp phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Chỉ khi trẻ nói được nhiều, chứng tỏ ngôn ngữ của chúng đã phát triển, vốn từ cũng phong phú hơn, ngữ pháp từ đó được hình thành. Cần vận dụng các biện pháp sau: Biện pháp kích thích bằng đồ chơi ( hoạt động trẻ với trẻ ): Trong các giờ chơi với đồ chơi giáo viên chuẩn bị hàng loạt đồ chơi để các em chọn theo ý thích nhưng muốn chơi đồ chơi nào thì trẻ phải nói: Thưa cô, em thích đồ chơi này ( gọi tên đồ chơi) hoặc đồ chơi kia ( gọi tên ). Không được dùng tay chỉ. Khi chọn xong đồ chơi cho các nhóm trẻ cùng chơi trong hoàn cảnh này trẻ tự giao tiếp với nhau dưới sự hướng dẫn của cô cũng có thể nói tên đồ chơi. Trong đống đồ chơi cô đưa từng thứ và hỏi: “ Đây là đồ chơi gì?” để cho mọi trẻ trả lời, trả lời đúng được, khen ngay, trẻ trả lời sai, nhắc lại. Biện pháp kích thích bằng trò chơi ( hoạt động của trẻ với trẻ): Giáo viên chuẩn bị tốt các trò chơi có chủ định có thể là các trò chơi mang tính hoạt động cũng có thể là trò chơi tĩnh. Giáo viên giải thích cách chơi cho cả nhóm. Sau đó, từng em nói lại quy tắc chơi rồi mới cho trẻ thực hành. Trong sự giao lưu này trẻ sẽ phải giao tiếp với nhau bằng lời – ví dụ trò chơi truyền tin chẳng hạn – Cô truyền tin cho em xếp đầu, các em sẽ tự tiếp nối đến người cuối ( cô nhận thông tin ở người cuối cùng). Hoặc trò chơi bắt và tung bóng, muốn tung cho ai phải nói tên bạn ấy. Tương tự như vậy, cô phải buộc trẻ giao tiếp bằng lời. Đối với các trò chơi tĩnh như nhận mặt chữ, nhận mặt số hoặc nhận biết gọi tên các vật vẽ trong tranh cũng đòi hỏi trẻ phải dùng lời để biểu đạt. Biện pháp kich thích bằng nghe kể - kể nghe: Cô kể những cốt chuyện hấp dẫn để toàn nhóm nghe và sau đó cho từng em kể lại. Khuyến khích trẻ kể đúng cốt chuyện và kể có diễn cảm. Hoặc cũng có thể cho trẻ tự kể về mình, cô gợi ý và các bạn trong nhóm cùng bổ xung. Trong sinh hoạt giao lưu này có thể cho các em đọc khá đọc một cốt chuyện hấp dẫn để cả nhóm cùng nghe. Sau đó từng thành viên kể lại cổt chuyện vừa nghe. Biện pháp kích thích thảo luận chủ đề ( hoạt động trẻ với trẻ ): Hãy để trẻ chọn các chủ đề sinh hoạt mà các em ưa thích.Nhóm trưởng có vai trò rất quan trọng trong quá trình điều khiển nhóm dưới sự chỉ dẫn của cô giáo. Trong hoạt động này cần phải khuyến khích các - 31 -
  2. cháu chậm phát triển tham gia tích cực, với các chủ đề khó thì các cháu ngồi nghe các bạn, các chủ đề này rất bổ ích như: + Chủ đề nhà trường: Hãy kể chuyện về thầy cô mà em yêu thích? Hoặc muốn học tốt em phải làm gì? + Chủ đề về gia đình: Hãy kể về gia đình em? Hoặc muốn trở thành con ngoan thì em phải làm gì? + Chủ đề về xã hội: Hãy kể chuyện về một chú bộ đội hay chú thương binh mà em biết. Còn có thể khai thác nhiều chủ đề khác để các em sinh hoạt và giao lưu trong nhóm. Biện pháp kích thích bằng các họat động văn nghệ ( hoạt động trẻ với trẻ ): Đây cũng là một hoạt động bổ ích đối với trẻ và chính trong quá trình giao lưu này mà trẻ có thể học được rất nhiều từ như: Tập hát, tập đóng kịch, hoặc vừa hát, vừa múa vui. + Tập hát phải dạy cho trẻ từng câu: Khi các câu đã thuộc mới ghép thành bài và cũng phải thường xuyên luyện tập. + Tập đóng kịch: Cho các em tự sắm vai cùng với nhóm diễn. Cũng có thể là vai chính hoặc vai phụ, sao cho các vai phụ em ưa thích thì mới tích cực học lời của vai diễn. Tất cả điều nêu trên đó là các hoạt động trong môi trường giữa trẻ với trẻ. Giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn uón nắn sai sót mà thôi. Không nên bao biện làm thay. Biện pháp phát triển ngôn ngữ nói thông qua hội thoại ( hoạt động giữa cô và trò): Đây cũng chính là phương pháp cá biệt hóa vì cô phải làm việc với từng em. Có các hình thức sau: + Hội thoại dùng tranh ảnh: Cô hỏi học sinh trả lời. + Hội thoại bằng hình thức kể nghe – nghe kể: Cô giáo kể chuyện cho các trẻ nghe, trẻ kể lại câu chuyện hoặc kể chuyện theo tranh để phát triển ngôn ngữ. + Luyện tập phát âm: Đối với trẻ khả năng phát âm còn kém cô cần phải luyện phát âm cho trẻ - Luyện cả về cường độ theo phương pháp phát âm “ Nhại lại” tức là cô đọc trước trò đọc sau. + Sửa tật ngôn ngữ: Nếu phát hiện thấy trẻ mắc tật ngôn ngữ cần phải sửa tật theo phương pháp phát âm tiết, phương pháp dùng âm tiết trung gian… Biện pháp phát triển ngôn ngữ tại gia đình + Dạy cho trẻ cách giao tiếp: Mời chào khi khách đến thăm nhà, giúp ba mẹ chuẩn bị tiếp khách. + Kể chuyện cổ tích hoặc chuyện vui ( tiết mục kể chuyện đêm khuya ) + Đọc hoặc kể rồi bắt trẻ kể lại + Dạy trẻ phát âm và tập đọc Muốn làm được điều này cha mẹ học sinh cần phải được tập huấn bồi dưỡng các phương pháp về dạy trẻ, cần phải làm cho họ nâng cao được vai trò trách nhiệm với con em mình, tích cực cộng tác dạy trẻ. - 32 -
  3. Chương 3. QUẢN LÝ HÀNH VI CỦA TRẺ CPTTT 3.1. Quan niệm về hành vi bất thường của trẻ CPTTT Thế nào là hành vi bất bình thường? đó là một vấn đề cần phải xác định thật rõ ràng và chính xác về mặt khoa học. Thực tế, đã có rất nhiều thay đổi về định nghĩa “hành vi bất bình thường”. Tuy nhiên các nhà tâm lý đã đưa ra một số giải thích về vấn đề này như sau: a. Hành vi được xem là bất thường khi lệch khỏi mức trung bình Đây là sự giải thích mang đậm màu sắc thống kê. Nhằm mục đích xác định tính bất bình thường, người ta chỉ cần quan sát những hành vi nào hiếm khi xảy ra trong một xã hội hay một nền văn hoá nhất định, rồi gán cho các trường hợp lệch khỏi chuẩn mực là bất bình thường. Định nghĩa này có thể đúng trong một số trường hợp nhưng nhìn chung nếu coi đó là một tiêu chí để xác định hành vi bất thường thì chưa hợp lý. Ví dụ, nếu tất cả mọi trẻ đều uống nước cam sau bữa ăn và có một trẻ nào đó lại thích uống chè thì không thể coi đó là bất thường được. Tương tự, một khái niệm như vậy về tình trạng bất thường sẽ gán ghép bất hợp lý một người có điểm số IQ cao lạ thường là người bất thường, đơn giản chỉ vì người này hiếm thấy về mặt thống kê. b. Lệch khỏi mức lý tưởng Theo định nghĩa này, hành vi được xem là bất thường nếu như nó lệch khỏi một mức lý tưởng hay tiêu chuẩn nào đó. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay có quá ít tiêu chuẩn mà tất cả mọi người đều đồng lòng tán thành. Hơn nữa các tiêu chuẩn nổi bật lại thường biến đổi theo thời gian, khiến cho việc xác định khi nào thì lệch khỏi mức lý tưởng trở nên thiếu chính xác. Ngày nay con người thường đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn về mức độ lý tưởng, đặc biệt là các bậc cha mẹ, họ luôn đặt ra cho con mình những mức độ cần đạt được và tất cả những hành vi của trẻ khác với tiêu chuẩn mà họ đặt ra đều được coi là bất bình thường. c. Bất thường là thiếu khả năng hành xử hữu hiệu. Hầu hết con người được sinh ra và lớn lên đều trở thành những thành viên hữu dụng trong xã hội, có đủ sức thích nghi với các nhu cầu của xã hội hoặc có khả năng hành xử hữu hiệu. Như vậy, với một một đứa trẻ được xem là có những hành vi bất thường khi nó không thể đáp ứng được những yêu cầu trên. Theo các nhà nghiên cứu về sự phát triển của trẻ CPTTT thì việc xác định những hành vi bất thường ở trẻ dựa trên những tiêu chí: - Biểu hiện qua vận động của cơ thể - Biểu hiện bằng sự im lặng - Biểu hiện bằng âm thanh lời nói Hành vi bất thường ở trẻ CPTTT gồm 2 loại: Hành vi hướng nội, có nghĩa là trẻ sống thu mình, ít giao tiếp và đôi khi còn tự xâm hại cơ thể. Hành vi hướng ngoại, hung hãn, có hành vi trái ngược, giảm chú ý và dễ kích động. Trong quá trình phát triển ở trẻ CPTTT thường xuất hiện một số hành vi không bình thường. Những hành vi bất thường của trẻ không những đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của chính bản thân đứa trẻ mà còn là mối lo ngại thực sự đối với cha mẹ và các nhà sư phạm. Các nhà tâm lý-giáo dục đang hết sức quan tâm, họ đang cố gắng tìm ra những biện pháp điều chỉnh những hành vi của trẻ. Ở nước ngoài, vấn đề hành vi của trẻ được quan tâm rất sớm. Ở Trung Quốc, năm 1981 theo điều tra của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em Nam Kinh đối với các trẻ em sống tại Thành phố Nam Kinh, người ta đã phát hiện, trong trở ngại về hành vi của trẻ em, vấn đề ăn uống chiếm 36,1%, vấn đề về tinh thần chiếm 19,8%, dễ kích động chiếm 16,8%, khó khăn trong học tập và tập trung sự chú ý chiếm 11,4%. Ngoài ra còn một số trở ngại khác như tính hung hãn, sự co mình, rối loạn ngôn ngữ.v.v. cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Các vấn đề về hành vi của trẻ em ngày nay đang được xã hội đặc biệt chú ý, nhất là đối tượng trẻ em chậm phát triển. Thời kỳ sơ sinh trẻ thường hay mút đầu ngón tay, lớn hơn một chút trẻ thường gặm móng tay, đó là những biểu hiện bình thường thuộc phản xạ bản năng nguyên thuỷ và trẻ - 33 -
  4. sẽ mút bất cứ vật thể gì mà môi có thể chạm được, nhất là khi đói trẻ có thể cho tay của mình vào miệng, ước tính có khoảng 90% trẻ ấu thơ có biểu hiện trên và người ta cho rằng những hành vi này là bình thường. Khi trẻ được 2,3 tuổi, lứa tuổi có nhiều sự biến đổi về mặt tâm sinh lý như: ngôn ngữ phát triển mạnh, năng lực sống độc lập tăng dần và những hiện tượng trên cũng dần dần biến mất. Nhưng một số trẻ vẫn duy trì loại hành vi này, khi đói khát hay trong tình trạng tinh thần rối loạn…trẻ không những mút ngón tay mà còn gặm bất cứ vật gì xung quanh như quần áo, những đồ dùng hằng ngày khác, từ đó dần dần hình thành thói quen và rất khó thay đổi, đôi khi trở thành một “dạng tật”. Một số nhà ngiên cứu cho rằng, ở một số trẻ khi có những hành vi như vậy đôi khi cũng là một cách làm cho trẻ cảm thấy thích thú, bớt căng thẳng hơn và thậm chí rất dễ chịu. Hành vi bất thường ở trẻ còn biểu hiện ở chỗ trẻ luôn sống co mình, tránh giao tiếp với mọi người xung quanh. Đây là hiện tượng thường gặp ở lứa tuổi mẫu giáo và thường tăng lên theo độ tuổi. Phần lớn trẻ em đều có thể sống với nhau hoà đồng, nhưng có một số trẻ nhút nhát khi tiếp xúc với người khác, có biểu hiện co lại, sợ sệt ở những mức độ khác nhau. Trẻ có hành vi co lại thường rất khó thích nghi với hoàn cảnh mới, không muốn đến nơi lạ, sợ đi dạo trong công viên, đến rạp chiếu phim, theo cha mẹ đi chơi…Trẻ không chủ động trong giao tiếp với người khác nên có rất ít bạn bè cùng tuổi. Trẻ trở nên trầm mặc ít nói, sợ phải giao tiếp với người khác, trẻ không có đủ tự tin khi giải quyết công việc của mình, ngoài ra trẻ còn có những biểu hiện như không biết nhận sự giúp đỡ của người khác, không biết đón nhận lời khen cũng như vô cảm trước sự chê trách. Chính vì khó khăn trong giao tiếp nên trẻ rất khó có thể hiểu được người khác và ngược lại những hành vi bất thường của trẻ luôn làm cho mọi người xung quanh có cảm giác khó chịu, hoặc chê cười, và gần như không tin tưởng vào khả năng của trẻ. Hành vi kích động cũng là một trong những hành vi thường gặp ở trẻ có vấn đề sự rối loạn trong quá trình phát triển. Biểu hiện rõ nét nhất là trẻ lập tức gào thét và đập phá hoặc tự làm tổn hại đến thân thể của chính mình như: đập đầu vào tường, bứt tóc, cào mặt… trẻ rất dễ nổi giận, đôi khi lại tỏ ra bướng bỉnh. Đối với những hành vi quá kích này thường đem lại những hậu quả đáng lo ngại, bởi vì trẻ không làm chủ được bản thân, không có ý thức về những hành vi của mình trẻ sẽ rất dễ bị tổn thương. Tất cả những biểu hiện về hành vi bất thường ở trẻ cần phải được điều chỉnh kịp thời và đòi hỏi phải có thời gian rèn luyện. Loại hành vi này nếu không được uốn nắn sẽ gây khó khăn nghiêm trọng cho việc thích ứng xã hội, nếu kéo dài có thể hình thành ở trẻ những hành vi bạo lực, hành vi có tính tiêu cực sẽ làm cho trẻ mất đi cơ hội phát triển, trở thành một người không trưởng thành. Những biểu hiện hành vi có vấn đề thường thấy ở trẻ CPTTT Hành vi bất thường của trẻ CPTTT được xác định dựa trên những tiêu chí sau: Biểu hiện qua vận động các bộ phận cơ thể - Trẻ đi lại, ra vào tự do trong lớp - Khi không vừa ý, trẻ có thể đấm đá, xô đẩy hoặc ăn vạ. - Ngồi không yên, gật gù, lắc người, vận động tay chân liên tục - Trẻ có thể đạp phá đồ đạc khi chơi - Trẻ có thể vệ sinh không đúng nơi - Trẻ từ chối sự chăm sóc, vỗ về của người khác bằng cách lẩn tránh. Biểu hiện bằng sự im lặng - Trẻ ngồi uể oải, buồn chán, im lặng - Không nói chuyện với bạn bè, người xung quanh. - Không thực hiện nhiệm vụ - Không phản ứng lại thậm chí khi bị trêu trọc Biểu hiện bằng âm thanh, lời nói - Trẻ nói tự do trong giờ học. - Trẻ có thể la hét, gào thét không rõ nguyên nhân - Trẻ có thể lẩm bẩm một mình - 34 -
  5. - Trẻ có thể khóc hoặc hờn dỗi 3.2. Các biện pháp quản lý hành vi của trẻ CPTTT 3.2.1. Giúp trẻ hành thành và phát triển các hành vi trong mong muốn Khi đến lớp, trẻ học thêm được những hành vi tốt ngoài những gì chúng đã có từ trước. Đó có thể là những hành vi học tập, hành vi cá nhân và giao tiếp xã hội. Để củng cố các hành vi tốt, giáo viên có thể sử dụng bất kì sự kiện nào có khả năng tăng cường hành vi vừa xảy ra. Có thể sử dụng cố tích cực, nghĩa là giáo viên hay bạn bè thể hiện sự hài lòng và vui vẻ khi trẻ thực hiện được một hành vi thích hợp. Củng cố tích cực có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau như khen ngợi, phần thưởng cụ thể, hay dành cho trẻ một hoạt động mà trẻ thích hoặc có những ưu tiên đặc biệt. Củng cố tiêu cực là loại bỏ hoặc không bắt trẻ làm điều gì chúng cảm thấy khó chịu hoặc không yêu thích khi chúng thực hiện được một hành vi phù hợp, ví dụ trẻ đồng ý vào nhà tắm để tắm sau đó trẻ không phải uống thuốc. Củng cố là hình thức được chấp nhận rộng rãi và là một chiến thuật có hiệu quả trong việc tăng cường các hành vi phù hợp mà ta mong đợi ở trẻ. Khi sử dụng củng cố tích cực để tăng cường các hành vi phù hợp của trẻ giáo viên phải chú ý làm sao để trẻ cảm thấy thích nhân tố củng cố và hiểu rằng cái mình nhận được là kết quả của hành vi mà mình vừa thực hiện, và mình sẽ sớm nhận được nó sau khi thực hiện đúng điều giáo viên yêu cầu. Một trong những cách sử dụng nguyên tắc củng cố tích cực là dùng một văn bản gọi là “Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh”, cách này đặc biệt phù hợp đối với những trẻ lớn. Giáo viên và học sinh cùng thảo một bản thoả thuận, trong đó giáo viên nói rõ: các hành vi hay nhiệm vụ và học sinh mà trẻ phải hoàn thành hoặc thực hiện được và những phản hồi (sự củng cố) giáo viên sẽ đưa ra. Việc thực hiện bản thoả thuận này là bắt buộc đối với giáo viên và học sinh. Bảng : Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh Biên bản thoả thuận Em: ............................................. (tên của học sinh) sẽ thực hiện những điều sau đây; 1. Đi học đúng giờ. 2. Hoàn thành tất cả các bài tập được giao ở lớp. 3. Khi muốn được giúp đỡ phải giơ tay để thu hút sự chú ý của thầy/cô giáo. Cô/Thầy giáo: ............................. (tên của giáo viên) sẽ có những hình thức củng cố dưới đây; 1. Nếu em hoàn thành1 trong 03 điều trên, em sẽ nhận được 10 sao. Sao thưởng cho việc hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất sẽ được giao lúc đầu giờ học. Sao thưởng cho viện hoàn thành nhiệm vụ thứ 2 và thứ 3 sẽ được giao lúc cuối buổi học. 2. Các sao có thể được dùng để đổi lấy một hoạt động ưa thích vào chiều thứ sau. Chữ ký của học sinh Chữ ký của giáo viên .................................... .................................... Ngày .......... tháng ........... năm ............ Một số gợi ý cho kỹ thuật củng cố: • Xác định xem cái gì có giá trị củng cố thực sự đối với trẻ • Chọn những hình thức củng cố dễ thực hiện và thực tế trong điều kiện của lớp học • Nắm bắt ngay thời điểm trẻ có hành vi thích hợp rồi khen hoặc củng cố ngay • Sử dụng một số kỹ thuật củng cố để dần dần hướng cho hành vi của trẻ giống với hành vi mẫu • Khuyến khích trẻ khác cùng lớp để cho trẻ thấy rằng một số hành vi tích cực sẽ dẫn đến kết quả đáng khích lệ (được thưởng). - 35 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2