Đề tài: Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của trẻ em lang thang
lượt xem 103
download
Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế nhằm hướng tới mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia trên rất đề cao khẩu hiệu này. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường khá phát triển, từ sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội , đã đưa Việt Nam dần hội nhập với thế giới. Quá trình CNH-HĐH dần phát triển giúp người dân có cuộc sống về tinh thần và vật chất tốt hơn so với trước kia, bộ mặt đời...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của trẻ em lang thang
- Đề tài Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của trẻ em lang thang 1
- Contents LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ 3 I. Mở đầu ....................................................................................................................... 4 1.1 Lý do chọn đề tài...................................................................................................... 4 1.2 Mục đích .................................................................................................................. 5 1.3 Phương pháp tìm hiểu ............................................................................................. 5 II. Cở sở lý luận ............................................................................................................. 5 2.1 Hệ thống khái niệm .............................................................................................. 5 2.1.1 Khái niệm “Trẻ em” ............................................................................................ 5 2.1.2 Khái niệm “Trẻ em lang thang” ........................................................................... 6 2.1.3 Khái niệm “Bảo vệ trẻ em”................................................................................... 7 2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em và trẻ em lang thang ............................................... 7 2.2.1 Đặc điểm tâm lý của trẻ em nói chung ................................................................. 7 2.2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang................................................................ 8 2.3 Nhu cầu của trẻ em và trẻ em lang thang ............................................................ 9 2.3.1 Nhu cầu của trẻ em nói chung .............................................................................. 9 2.3.2 Nhu cầu của trẻ em lang thang........................................................................... 10 III. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 11 3.1 Thực trạng về trẻ em lang thang hiện nay ............................................................ 11 2.1.1 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hà Nội: ....................................... 13 2.1.2 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hồ Chí Minh .............................. 15 3.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lang thang ............................................ 20 3.2.1 Nhóm nguyên nhân về kinh tế ............................................................................ 20 3.2.2 Nhóm nguyên nhân về gia đình .......................................................................... 20 3.2.3 Nhóm nguyên nhân về xã hội ............................................................................. 21 3.2.4 Các yếu tố về nhân khẩu học .............................................................................. 21 3.3 Hậu quả của tình trạng trẻ em lang thang............................................................ 21 3.3.1 Đối với bản thân các em ..................................................................................... 22 3.3.2 Đối với gia đình có trẻ em lang thang ................................................................ 23 3.3.3 Đối với xã hội ...................................................................................................... 23 4. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề trẻ em lang thang......... 23 4.1 Một số quan điểm .................................................................................................. 23 4.2 Các giải pháp chủ yếu............................................................................................ 24 4.2.1 Giáo dục gia đình ................................................................................................ 24 4.2.2 Giáo dục nhà trường........................................................................................... 25 4.2.3 Kinh tế-xã hội..................................................................................................... 25 4.2.4 Giải pháp hành chính ......................................................................................... 26 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền 1-5 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: ... 27 2. Phạt tiền 5-10 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: ................................ 27 4.2.5 Đối với nhân viên CTXH .................................................................................... 28 4.2.6 Một số giải pháp khác ......................................................................................... 29 IV. Kết luận ................................................................................................................. 30 Danh mục viết tắt ........................................................................................................ 32 2
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài này không phải chỉ cần có sự nỗ lực, những cố gắng, hiểu biết còn khiêm tốn của bản thân sinh viên mà còn cần có sự giúp đỡ của các thầy cô. Hiểu được điều đó nên trong lòng luôn thường trực sự biết ơn và sinh viên muốn nói rằng: Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ CTXH Trường ĐH Vinh, đã có những định hướng trong việc chọn đề tài, trong việc hướng dẫn đề cương chung nhất, cơ bản nhất cho một bài tiểu luận. Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy giáo Phùng Văn Nam đã hướng dẫn sinh viên làm đề tài này Em cũng xin xảm ơn các bộ, các sở, các tổ chức đã có những báo cáo, nghị quyết, nghị định cung cấp những số liệu, những nhận định cụ thể về đề tài TELT. Vì đây là lần đầu tiên sinh viên viết tiểu luận nên sẽ không tránh khỏi những nhầm lẫn, thiếu sót sinh viên mong nhận được sự nhận xét của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên thực hiện Hoàng Thị Hương 3
- I. Mở đầu 1.1 Lý do chọn đề tài “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế nhằm hướng tới mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia trên rất đề cao khẩu hiệu này. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường khá phát triển, từ sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội , đã đưa Việt Nam dần hội nhập với thế giới. Quá trình CNH-HĐH dần phát triển giúp người dân có cuộc sống về tinh thần và vật chất tốt hơn so với trước kia, bộ mặt đời sống người dân đã có những thay đổi tích cực : tỉ lệ đói nghèo ngày càng được giảm bớt, người dân đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực…Vì vậy trẻ em ngày càng được sự chăm sóc tốt hơn. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng luôn có những mặt trái của nó. Cũng chính từ quá trình Đô thị hóa và phát triển kinh tế thị trường không phải ai cũng được hưởng lợi. Đi đôi cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì các loại hình tệ nạn xã hội ngày càng hình thành nhiều hơn và phát triển theo những chiều hướng phức tạp như chủ nghĩa thực dụng, chạy theo đồng tiền, bỏ rơi con cái, các tệ nạ trộm cắp, ma túy, mại dâm…Hơn nữa, tình hình thiên tai , dịch bệnh ngày càng một phát triển.Và đặc biệt là khoảng cách giàu nhiều ngày càng chênh lệch, Khi nông thôn được đô thị hóa thì người dân có nguy cơ thất nghiệp cao, gia đình rơi vào những khủng hoảng dẫn đến nhiều biến động chính vì vậy mà xung đột gia đình xuất hiện cùng với kinh tế gia đình khủng hoảng và khó khăn, tỉ lệ ly hôn ngày càng gia tăng và hậu quả cuae những cuộc ly hôn đó là nguyên nhân dẫn tới những đứa trẻ từ có cha mẹ trở thành những đứa trẻ lang thang đường phố. Và do hoàn cảnh gia đình nghèo đói, đã làm cho các em phải đi lao động sớm khi còn rất nhỏ. Hiện nay quá trình đô thị hóa ngày càng phát triển, báo động tình trạng TELT, trẻ em đi làm sớm tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu đô thị lớn ngày càng tăng. Đó là những nơi phải gánh chịu nạn di dân từ mọi miền đất nước, TELT cơ nhỡ rất dễ trở thành nạn nhân của tình trạng bóc lột sức lao động. Do bị bóc lột sức lao động đã làm ảnh hưởng đến tinh thần và thể xác của các em. Chính vì vậy, TELT đã và đang là vấn đề cấp bách của toàn nhân loại. Để giúp các em có một mái ấm tình thương và trở về với gia đình, chăm sóc 4
- và bảo vệ trẻ em nói chung, TELT nói riêng lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó không còn là trách nhiệm của bậc làm cha làm mẹ, người thân cuae các em mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và toàn xã hội. Với những tư liệu sẵn có, đồng thời bằng phương pháp thu thập và tìm kiếm thông tin, được quan sát những trẻ em đường phố trong một vài chuyến đi ở Hà Nội để nói lên thực trạng TELT hiện nay. Thông qua bài viết này sinh viên muốn tất cả mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về tình trạng đáng báo động này. Và muốn nhấn mạnh đến vai trò của người nhân viên CTXH. Đồng thời qua bài viết sinh viên cũng kêu gọi mọi người hãy cùng nhau thắp lửa những mảnh đời bất hạnh không nơi nương tựa, hãy tạo ra những nụ cười trên những gương mặt còn non nớt, để một ngày không xa khắp nơi trên đất nước mình không còn tình trạng TELT. “ Hãy lau khô giọt nước mắt bằng trái tim con người Việt Nam”. Đó chính là thông điệp mà sinh viên muốn gửi tới thông qua bài viết này. 1.2 Mục đích Thông qua bài viết này sinh viên mong rằng mọi người sẽ nhìn nhận được tính cấp thiết của vấn đề TELT Giúp mọi người hiểu sâu sắc về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của TELT từ đó đưa các phương pháp, kiến nghị để giảm thiểu tình trạng trên, mọi người cần phải làm gì để các em được hưởng các quyền mà chính các em phải được hưởng 1.3 Phương pháp tìm hiểu Đề tài sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp quan sát_tìm hiểu, thu thập thông tin: quan sát và tìm hiểu thông tin về thực trạng ở 2 TP đó là chính nơi sinh viên sinh sống TP.Thanh Hóa và TP.Hà Nội (nhân dịp những chuyến đi chơi ngoài đó) Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Qua phương pháp này, chúng tôi sẽ phân tích những loại tài liệu thứ cấp thông qua các báo cáo, các nghị định, nghị quyết, các chuyên đề liên quan đến đề tài và các số liệu đã công khai Phương pháp tổng hợp tài liệu: Tiến hành tổng hợp tài liệu sau khi đã thu thập được thông tin II. Cở sở lý luận 2.1 Hệ thống khái niệm 2.1.1 Khái niệm “Trẻ em” Khái niệm “Trẻ em“ là một khái niệm bao quát dành cho một bộ phận công dân còn có sự hạn chế nhất định trong năng lực ứng xử và năng lực pháp lý của bản thân. Khái niệm “Trẻ em” hiện nay và tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong đó có sự khác biệt nhất định đối với việc quy định ngưỡng 5
- tuổi chính xác của trẻ em ở từng quốc gia, tuy nhiên mọi quan điểm đều thống nhất quan điểm cho rằng trẻ em là đối tượng yếu thế, cần được chăm sóc, bảo vệ và hưởng các quyền lợi tốt nhất để phát triển. Theo Công ước quốc tế về quyền Trẻ em (mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên tại Châu Á và là quốc gia thứ 2 trên thế giới ký kết tham gia), ngay tại điều 1 đã nêu rõ rằng “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ những trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi vị thành niên thấp hơn”. Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan…có nền kinh tế phát triển ổn định, chú ý nhiều hơn vấn đề an sinh cho con người thì có quy định lớn hơn về mức tuổi trẻ em, cụ thể luật pháp các quốc gia này quy định trẻ em là người dưới 20 tuổi. Tại Việt Nam, theo luật BVCS&GDTE sửa đổi năm 2001, điều 1 cũng quy định rằng: “Trẻ em quy định trong luật này là những người công dân dưới 16 tuổi”. Theo định nghĩa sinh học: “Trẻ em là người trong giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành”. Tâm lý học cho rằng: “Trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý- nghiên cứu con người”. Nhìn dưới góc độ XHH: “Trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân cách của mỗi con người”. Như vậy tuy mỗi văn bản luật của mỗi quốc gia trong văn kiệt quốc tế dều có sự khác biệt nhất định trong việc quy định tuổi của trẻ em. Nhưng tất cả đều thống nhất cho rằng trẻ em là những người công dân còn nhỏ tuổi, càn được bảo vệ. Cách hiểu này căn cứ từ sự phân tích thực tế, về cả mặt thể chất, tâm sinh lý và sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ của con người từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành…Trong bài viết này, để phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội và luật pháp nước ta nên sinh viên xin được quy ước phạm vi tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. 2.1.2 Khái niệm “Trẻ em lang thang” Theo luật BVCS&GDTE năm 2004 “Trẻ em lang thang là những trẻ em rời bỏ tổ ấm gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư trú không ổn định” Như vậy, có thể nói trẻ em lang là những trẻ em mà sự nuôi dưỡng của chúng trong gia đình là suy yếu khiến chúng phải chia sẻ trách nhiệm để gia đình được sống bằng cách làm lụng vất vả, trên các đường phố bằng các nghề khác nhau như bán vé số, bán báo, đánh giày…và nơi chúng thường tập trung tới là đô thị, thành phố lớn. 6
- “Trẻ em lang thang” có nghĩa đồng với khái niệm “Trẻ em đường phố” là những trẻ em hàng ngày kiếm sống đơn độc, không được sự nâng đỡ của gia đình. Trên thế giới, người ta thường gọi trẻ em lang thang là trẻ em đường phố, vì dấu hiệu rõ nét để nhận biết số trẻ em này là các em có mặt thường xuyên trên đường phố. Trẻ em đường phố chia thành 3 nhóm: - Trẻ em lang thang bỏ hẳn gia đình, không có quan hệ với gia đình. Số trẻ em này bị bỏ rơi hoàn toàn, không gia đình, không người thân phải tự kiếm sống, thời gian chủ yếu lang thang trên đường phố hoặc trên các bãi rác, bến tầu, bến xe… - Trẻ em lang thang kiếm sống có liên hệ với gia đình, nhưng ít khi về thăm. Đây thường là nhóm có cha mẹ, nhưng do cha mẹ quá nghèo để con đi kiếm sống trên đường phố. - Trẻ em lang thang nhưng đi cùng gia đình (gia đình từ nông thôn vrrg thành thị), ban ngày chia mỗi người mỗi ngả để kiếm ăn, tối về “đoàn tụ” trên vỉa hè, nhà ga hoặc nhà trọ rẻ tiền. Dưới góc độ di dân, đây là một hình thức di dân tự do từ nông thôn về thành thị. Việc làm của trẻ em đường phố tạm thời có thể chia thành 3 nhóm chính: - Nhóm trẻ đường phố: gồm các em kiếm sống bằng các nghề trên đường phố như bán sách báo, đánh giầy, bán xổ số, tạp hoá, bán bánh mỳ, bơm xe, bốc vác, rửa bát, thu nhặt phế liệu, ăn xin, v.v… - Nhóm trẻ lao động là nhóm trẻ làm thuê cho các cửa hàng ăn uống, quán cơm bình dân, làm thuê trong các xưởng sản xuất thủ công. - Nhóm trẻ giúp việc gia đình gồm những em (chủ yếu là em gái) làm thuê hay làm người giúp việc trong các gia đình. 2.1.3 Khái niệm “Bảo vệ trẻ em” Thuật ngữ “BVTE”được nhiều tổ chức sử dụng khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm sau đã được nhiều nhà phân tích chấp nhận và sử dụng như sau: “BVTE là khái niệm chung về công tác phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ và hành động lạm dụng, bóc lột trẻ em” (từ điển Bách Khoa Việt Nam_tập I, trang 641). Nói cách khác thì BVTE chính là thực hiện những hành động để nhằm phòng ngừa và ngăn chặn không để trẻ em bị sao lãng bị lạm dụng hoặc xâm hại, bóc lột cũng như hỗ trợ môi trường an toàn và lành mạnh. Ở hình thức đơn giản nhất của BVTE là đảm bảo cho trẻ em không bị xâm hại. BVTE chính là một công tác chung của không chỉ những người có trách nhiệm trực tiếp với các em như cha mẹ, người thân trong gia đình mà nó còn là trách nhiệm xã hội của cộng đồng và nhà nước. 2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em và trẻ em lang thang 2.2.1 Đặc điểm tâm lý của trẻ em nói chung 7
- Trẻ em từ 0->16 tuổi là giai đoạn đã có đầy đủ những đặc điểm tâm lý phát triển lứa tuổi, đây là giai đoạn quan trọng để các em hình thành và phát triển nhân cách sống, cụ thể là những nhận thức về sau này. Đồng thời, những đặc điểm tâm lý trong lứa tuổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tình cảm của mỗi người trong các giai đoạn tiếp theo, chúng ta có thể thấy rõ quá trình phát triển tâm lý của trẻ em giai đoạn này, trong những nghiên cứu về tâm lý học lứa tuổi (tâm lý của trẻ em từ 0- >16 tuổi). Dưới đây là những đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em nói chung: Trẻ em nói chung trong giai đoạn này đang hình thành và phát triển nhân cách một cách mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu (nhỏ tuổi) tức là trong giai đoạn tuổi mẫu giáo, trẻ có nhu cầu được quan tâm, chăm sóc về mặt tinh thần rất lớn. Những nhu cầu về mặt tình cảm gia đình đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này, nó có ý nghĩa đặt nền móng cho những tình cảm xã hội sau này của trẻ. Từ giai đoạn lớn hơn, trẻ em có nhu cầu thể hiện cái “tôi” của mình rất lớn. Trẻ có yêu cầu được mọi người xung quanh chấp nhận những suy nghĩ của mình và coi mình là một người lớn, bắt đầu có khả năng suy xét mọi vấn đề. Đặc biệt, đối với trẻ đang trong giai đoạn dậy thì, tuổi vị thành niên xuất hiện một sự thay đổi lớn không chỉ trong đặc ddierm sinh lý mà còn cả trong tâm lý của trẻ. Lúc này, nhu cầu tự khẳng định mình của trẻ lớn, tư tưởng độc lập và không muốn chịu sự chi phối của người khác. Trẻ có thể tự làm những gì mà mình muốn, kể cả khi chưa có sự cho phép của người lớn. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, những khả năng nhận thức của trẻ cũng đã phát triển nhanh, trẻ nhận định những sự việc mà mình gặp phải như những người lớn có trách nhiệm thực sự. Đó là những đặc điểm tâm lý cơ bản nói chung của trẻ em trong độ tuổi từ 0->16 tuổi. Từ những đặc điểm tâm lý nói chung này mà đặt ra cho những người có trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ, có cách dạy dỗ phù hợp để các em có được sự phát triển nhân cách toàn diện. 2.2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang TELT là những đứa trẻ thường xuyên kiếm sống hàng ngày trên đường phố bằng những công việc khác nhau, chỗ ăn ở không cố định và hầu như là những việc không được tốt lắm so với những gì mà chúng ta mong muốn ở trẻ. Cho dù là trẻ còn sống với gia đình hay không thì trẻ vẫn thiếu đi sự quan tâm và chăm sóc của gia đình đối với trẻ. Sự tổn thương về mặt tinh thần và tình cảm của trẻ là nguyên nhân gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Quan trọng hơn hết là chúng đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại. 8
- Trẻ lang thang là những đứa trẻ thích tự do và sự tự do đó không giống nhau mà tùy vào từng hoàn cảnh, nguyên nhân của từng trẻ. Thông thường thì TELT không chịu sống trong khuôn khổ và nơi ở cũng sẽ thay đổi theo nhu cầu cuộc sống và công việc, các em thường có tính phòng vệ cao, đôi khi hơi hung hãn với những người lạ mặt. Tuy vậy, ở trong tâm trí và bản chất của các em thì thông thường bộc lộ nhiều cách trong các cử chỉ hào hiệp, tương trợ và thông cảm với những người bạn cùng lứa tuổi, cùng cảnh ngộ, cùng hoàn cảnh với nhau. Đặc biệt là các em có tính tự lập cao và biết cách tổ chức cho cuộc sống riêng của mình. 2.3 Nhu cầu của trẻ em và trẻ em lang thang 2.3.1 Nhu cầu của trẻ em nói chung Mọi con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có những nhu cầu nhất định cần được đáp ứng để đảm bảo cho cuộc sống của mình được phát triển đầy đủ và bình thường. Giai đoạn trẻ em từ 0->16 tuổi là giai đoạn đầu trong cuộc đời của mỗi con người. Trong giai đoạn này trẻ em đã có những nhu cầu cơ bản tất yếu cần được đáp ứng để đảm bảo cho sự phát triển và đặt tiền đề cho những giai đoạn sau: Theo lý thuyết về nhu cầu mà nhà tâm lý học Masllow đã đưa ra trong thế kỷ XVII và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, thì mọi người và đặc biệt là trẻ em dều có những nhu cầu cơ bản sau, cần được đáp ứng ở mức độ nhất định. Đó là những nhu cầu theo các mức thang: Nhu cầu sinh lý và thể chất ( là những nhu cầu về ăn uống, chỗ ở, trang phục…cần phải đảm bảo một cách đầy đủ, để mỗi con người có thể tồn tại và phát triển). Nhu cầu an toàn ( nhu cầu được bảo vệ và cần được bảo về: trẻ em phải được bảo vệ tránh mọi sự phân biệt đối xử; được baoe vệ trước các tệ nạn xã hội; được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế, lạm dụng sức lao động; trẻ em cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư. Quyền được bảo về an toàn bao gồm cả không bị tra tấn, đánh đập trong trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ, nhu cầu về những môi trường xung quanh được an toàn, như: gia đình, nhà trường, xã hội…). Nhu cầu giao tiếp hay còn gọi là nhu cầu được thuộc về một nhóm xã hội nhất định (trong đó có gia đình, bạn bè…). Nhu cầu được tôn trọng ( tức là nhu cầu cần được công nhận vị trí, vai trò trong xã hội, được tôn trọng nhân phẩm và những quan điểm, ý kiến của mỗi cá nhân). Nhu cầu được hoàn thiện và phát triển: trẻ em cần phải được đảm bảo đầy đủ các nhu cầu trên để có mức sống tốt về thể chất, tâm lý, trí tuệ, đạo đức; được tiếp xúc với các nguồn thông tin cần thiết; được học hành 9
- theo khả năng, năng khiếu của mình;…và mục đích cuối cung cần hướng tới đó là phát triển một cách toàn diện nhất trên mọi mặt đời sống. 2.3.2 Nhu cầu của trẻ em lang thang Như vây, xét trên góc độ chung mọi TELT đều có và cần được đáp ứng những nhu cầu cơ bản như trên để đảm bảo cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Ở mức độ thấp nhất, TELT cần được thỏa mãn các điều kiện như ăn, uống, chỗ ở,…Đó là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự sống của các em. Khi những nhu cầu cơ bản đó đã được đáp ứng thì các em cũng có nhu cầu ở một mức cao hơn đó là cần được bảo vệ. Ta thấy nhu cầu này đối với trẻ em đặc biệt quan trọng và cần được đáp ứng bởi vì các em vẫn chưa đạt được sự phát triển đầy đủ, chưa độc lập, chưa có khả năng bảo vệ chính bản thân mình thậm chi còn phụ thuộc vào nhiều người khác. Các nhu cầu còn lại đều ở bậc cao hơn để đảm bảo cho các em hòa nhập được với cộng đồng, phát triển hoàn thiện nhân cách của mình. Lý thuyết nhu cầu của Masllow cũng hoàn toàn phù hợp với những quyền cơ bản mà không phải chỉ trẻ em mà mọi đối tượng trong xã hội đều cần được hửng như trong tuyên ngôn về quyền con người và công ước quốc tế về quyền trẻ em đã khẳng định: “ quyền sống còn, quyền được bảo vệ, quyền được tham gia và quyền được phát triển”( điều 09->điều 15, công ước quốc tế về quyền trẻ em). Ta có thể thấy được rằng, những nhu càu cơ bản mà mỗi con người, đặc biệt là với TELT cần được đáp ứng, nếu thiếu hụt hoặc không đáp ứng một hay nhiều những nhu cầu đó thì chúng khó mà đạt được sự hình thành và phát triển nhân cách bình thường được và những phát triển trong giai đoạn này khó có thể làm tiền đề cho những giai đoạn tiếp sau. V ì vậy, chúng ta cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến việc tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu cơ bản của TELT. TELT có nguy cơ bị mất đi một trong những quyền cơ bản nêu trên vì: 1. Không có cơ hội đi học. 2. Suy giảm sức khỏe. 3. Dễ khủng hoảng tinh thần, mất niềm tin vào cuộc sống. 4. Dễ gặp rủi ro tai nạn. 5. Dễ bị bóc lột sức lao động và có nguy cơ bị xâm hại tình dục, bị bạo hành, bị buôn bán. 6. Dễ nhiễm thói hư tật xấu. 7. Dễ bị lôi kéo vào hoạt động trái pháp luật như ăn trộm, ăn cắp hoặc sử dụng ma túy. 10
- III. Cơ sở thực tiễn 3.1 Thực trạng về trẻ em lang thang hiện nay Một thực tế cho thấy, số TELT,cơ nhỡ kiếm sống trên các đường phố ngày càng tăng lên một cách đáng kể. Dù chất lượng cuộc sống của toàn xã hội chúng ta càng được nâng cao, nhưng với nhiều lý do khác nhau, nhưng vẫn còn nhiều trẻ em phải sống ở góc phố, vỉa hè. Hiện trạng này đòi hỏi xã hội phải có những kế hoạch, những giải pháp mang tính kịp thời và cụ thể hướng tới mục đích không còn TELT. Theo thống kê của Bộ LĐ-TBXH, về trẻ em lang thang thì: năm 1996 cả nước có 14.596 em; năm 1997 có 16.263 em; năm 1998 có 19.024 em; năm 1999 có 23.000 em; năm 2000 lên đến khoảng 25.000 em. Vào thời điểm thống kê tháng 2 năm 2003 cả nước còn khoảng 21.000 TELT. Tháng 8 năm 2003 ủy ban DSGD&TE điều tra tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh số trẻ em lang thang có mặt tại hai thành phố này có trên 10.000 em. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có trên 8 ngàn em và Hà Nội có gần 2000 em (số trẻ em lang thang được thống kê gồm cả trẻ em là người của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Số trẻ em này có tới trên 50% không đi cùng gia đình và khoảng 40% đi cùng gia đình, cùng người thân tạm thời đến thành phố rồi lại về quê hương hoặc di chuyển đi nơi khác. Một số khác đi cùng gia đình (di dân tự do) đến các vùng đô thị. Các tỉnh, thành phố tập trung nhiều trẻ em đến lang thang kiếm sống là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Bình Dương, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng. Các địa phương có nhiều trẻ em đi lang thang gồm: Quảng Ngãi, Phú Yên, Thanh Hóa, Hưng Yên... Thực hiện kế hoạch đưa trẻ em lang thang về với gia đình và hòa nhập cộng đồng và triển khai Đề án Ngăn chặn và trợ giúp trẻ em lang thang kiếm sống, năm 2005 tại 38 tỉnh, thành phố còn từ 100 trẻ em lang thang trở lên đã đem lại những kết quả khả quan. Hiện nay, theo báo cáo của 38 tỉnh, thành phố, số lượng trẻ em lang thang kiếm sống còn khoảng 8000 em; trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh còn khoảng 1.500 em. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến việc trẻ em bỏ gia đình đi lang thang, nhưng tập trung ở hai nhóm nguyên nhân chính có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại với nhau đó là: Nhóm nguyên nhân liên quan đến kinh tế và nhóm nguyên nhân về xã hội. Sự phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và thành thị, chênh lệch mức sống và thu nhập, 11
- nhu cầu việc làm ở các đô thị là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vấn đề trẻ em lang thang. Theo Bộ LĐ-TBXH, trong tổng số trẻ em lang thang có tới 82% ra đi từ các vùng nông thôn hoặc tập trung ở các vùng điều kiện tự nhiên không thuận lợi, kinh tế khó khăn. Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn là lý do chủ yếu dẫn đến việc trẻ em lang thang kiếm sống. (71,7% TELT ra đi vì kinh tế gia đình khó khăn). Nhận thức của gia đình về vai trò trách nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn hạn chế, việc quan tâm thường xuyên đến con cái chưa được nhiều; bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ về hậu quả lâu dài đối với việc bỏ nhà đi lang thang; chưa có ý thức phòng ngừa hoặc còn tò mò, muốn thử nghiệm, muốn thể hiện mình; chưa có các kỹ năng sống cần thiết để tự bảo vệ mình nên dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội bên cạnh đó các xung đột giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ với con cái, đặc biệt giữa cha và con cái đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý của trẻ em; thường các em có thể chán học, bỏ học, quan hệ với những trẻ chưa ngoan, dẫn đến các em rời xa gia đình, bỏ nhà đi lang thang (theo khảo sát có 5% trẻ em lang thang bỏ nhà ra đi chủ yếu vì sự bất hòa trong gia đình và không có mối liên hệ với gia đình). Từ giác độ kinh tế, các kinh tế học và xã hội học kinh tế cho rằng công việc mà trẻ em lang thang kiếm sống đang làm là một yếu tố cần thiết để góp phần tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn, thiếu thốn thì việc huy động trẻ em vào quá trình lao động vật chất trở thành một nhu cầu, đòi hỏi khách quan. Dựa vào Lý thuyết xã hội học kinh tế thì nghèo đói và thiếu thốn vật chất là nguyên nhân chính của việc trẻ em phải lang thang tham gia lao động kiếm sống. Quan niệm này giải thích được hiện tượng trẻ em lang thang phổ biến ở các nước đang phát triển, ở những khu vực nghèo nàn và lạc hậu nhưng khó lý giải vì sao ngay ở những nước phát triển vẫn có nhiều trẻ em lang thang? Tại sao một số gia đình không nghèo, thậm chí có cuộc sống ổn định mà trẻ em vẫn phải lang thang kiếm sống từ lúc còn nhỏ tuổi. Dưới giác độ xã hội, các nhà xã hội học giải thích hiện tượng trẻ em lang thang bằng thuyết cấu trúc - chức năng và cho rằng nguồn góc phát sinh trẻ em lang thang là có từ cơ chế phân công lao động xã hội. Trong xã hội có những loại công việc đòi hỏi sức lực và sự tham gia của trẻ em. Xã hội cần trẻ em thực hiện những công việc mà người lớn không làm được hoặc có làm cũng không thể tốt bằng trẻ em. Ví dụ công việc bán báo 12
- hàng ngày, đánh giày, thu gom và nhặt rác, bưng bê và dọn rửa cửa hàng …. Những công việc đó thường tập trung ở các đô thị lớn. Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, sự phát triển kinh tế không đồng đều giũa các vùng, sự cách biệt lớn trong thu nhập giũa khu vực thành thị và nông thôn làm cho số lượng người di dân tự do (trong đó có trẻ em) từ nông thôn đến các đô thị sẽ ngày càng tăng. Môi trường sinh thái bị huỷ hoại dẫn đến thiên tai thất thường (hạn hán kéo dài, bão lụt liên tiếp…) làm cuộc sống của nông dân trở nên nghèo khó và bấp bênh hơn. Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp dẫn đến một bộ phận trẻ em phải bỏ học, thất học đi lang thang kiếm sống. Hầu hết trẻ em lang thang gắn liền với lao động sớm; trẻ lang thang kèm luôn cả bỏ học và rất khó trở lại trường học và nếu đi học trở lại thì gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức. Ở nước ta, hiện nay các điều kiện, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em còn hạn chế (trường học, dịch vụ khám chữa bệnh, khu vui chơi…), chi phí cho trẻ em đi học còn quá cao so với thu nhập của các hộ gia đình nghèo. Do đó, một số trẻ em tranh thủ thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là dịp nghỉ hè để đến các thành phố kiếm tiền phụ giúp gia đình, đóng góp cho việc học tập… Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng lao động ở các đô thị, đối với một số công việc cụ thể như: Giúp việc trong gia đình, làm thuê trong các nhà hàng, quán ăn, đánh giày… ngày một gia tăng. Ngoài ra, bộ phận trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa cũng là nguy cơ dẫn đến việc trẻ em đi lang thang (trẻ em lang thang bị bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa chiếm 3,4% trong tổng số trẻ em lang thang được khảo sát). Việt Nam vẫn là nước nghèo, theo chuẩn nghèo mới, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc; tỷ lệ đói nghèo chênh lệch lớn giữa các vùng (cao nhất là vùng Tây Bắc: 42% và Tây Nguyên: 38%, thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ: 9%,…) cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội ngày càng phức tạp và tạo nguy cơ gia tăng trẻ em lang thang. 2.1.1 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hà Nội: Hà Nội, Thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của cả nước đang phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Chính vì vậy Hà Nội đang trở thành trung tâm thu hút những dòng người từ nông thôn ra tìm kế sinh nhai. Trong số dòng người di cư ra thành thị có TELT. Số lượng trẻ em lang thang tăng lên hàng năm. Tháng 7/1999, Uỷ ban chăm sóc trẻ em thành phố Hà Nội phối hợp với ngành công an khảo sát trong 1 tuần tại Hà Nội có khoảng 4.558 trẻ lang 13
- thang chủ yếu là ở độ tuổi từ 8-17 tuổi, trong đó nam chiếm 53%, nữ chiếm 47% tăng gấp 2 lần so với năm 1997 (2772 em và hơn 4 lần so với năm 1996 (1054 trẻ). Đa số trẻ đến Hà Nội lang thang kiếm sống là từ các vùng quê ra. Tỉnh Thanh Hoá 21%, Hà Nam 6,5%, Hưng Yên 8%, Hà Tây 14%, Nam Định 9,4%. Số tỉnh trẻ em lang thang đến Hà Nội đã tăng từ 11 tỉnh năm 1992 lên 36 tỉnh năm 1999. Riêng Hà Nội 13,7% thì chủ yếu thuộc 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh. Cuộc điều tra này còn cho thấy 68% trẻ lang thang còn cha mẹ, 9,5% là trẻ mồ côi, trong đó mồ côi cả cha mẹ chỉ có 1,4%, số trẻ có bố mẹ bỏ nhau hoặc sống ly thân chỉ chiếm 6,5%, những trường hợp khác chiếm 15,7%. Số trẻ lang thang được phỏng vấn có tới 30,58% là con của các gia đình có từ 5 con trở lên, 40,68% là con các gia đình có từ 3-4 con, 3,16% trẻ lang thang là con của các gia đình con một. Hầu hết số trẻ em này đều có trình độ văn hoá thấp, số em chưa bao giờ đi học chiếm 11%, trẻ lang thang không biết chữ chiếm 4,7% có trình độ cấp 1 chiếm 34% cấp 2 chiếm 58,7% có trình độ cấp 3 chiếm 2,6% Loại công việc kiếm sống hàng ngày của trẻ Trẻ em nông thôn ra Hà Nội kiếm sống phải làm rất nhiều loại công việc khác nhau. Đó là những công việc bị coi rẻ, người nghèo ở Hà Nội (kể cả người lớn và trẻ em) không mấy ai làm. Công việc cực nhọc, vất vả nhưng mức thu nhập lại rất thấp. Theo kết quả khảo sát năm 2001 của 201 trẻ đường phố và trẻ lao động tại Thanh Xuân hiện đang làm các loại công việc như sau: Đánh giầy: là công việc trẻ làm nhiều nhất (43,7%). Công việc này dễ làm, thời gian học việc ít, chỉ với mấy chục ngàn đồng là có được một bộ đồ nghề. Chính vì vậy đây là công việc của phần lớn trẻ đường phố. Làm thuê trong các cửa hàng ăn uống cũng thu hút được 13,7% số em tham gia. Đây là công việc của trẻ lao động, tuy cực nhọc nhưng có mức thu nhập tương đối ổn định và không phải lo về nơi ăn chốn ở. Được làm thuê cho các cửa hàng này có lẽ là “mơ ước” của không ít trẻ muốn có việc làm tại Hà Nội. Bán sách báo, giúp việc gia đình và ăn xin cũng là cách kiếm tiền của 6- 7% trong số trẻ được khảo sát. Công việc bán vé xổ số, tạp hoá và làm thuê trong các xưởng thủ công chỉ có khoảng 2% số trẻ tham gia. 14
- Loại công việc Tỷ lệ (%) STT 1 Bán sách báo 7,6 Đánh giầy 2 43,7 Bán xổ số, tạp hoá 3 2,0 Bán rong rau, hoa quả, thực phẩm 4 4,1 Thu nhặt phế liệu 5 4,6 Làm thuê trong các cửa hàng ăn uống 6 13,7 Làm thuê trong các xưởng sản xuất thủ công 7 2,0 Làm thuê giúp việc trong các gia đình 8 6,6 Ăn xin 9 6,1 Các loại công việc khác 10 9,6 Bảng: Tỷ lệ phần trăm công việc của trẻ em nông thôn ra Hà Nội kiếm sống 2.1.2 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hồ Chí Minh Theo thống kê, TP HCM hiện có khoảng 1.500 trẻ em lang thang kiếm sống, chủ yếu là lao động tại các cơ sở sản xuất tư nhân và hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ, tập trung nhiều nhất ở quận Tân Phú, Bình Tân. Trong số này, chiếm 30% là trẻ nhập cư đến từ 35 tỉnh, thành, chủ yếu đến từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Giang… Các em thường lang thang đánh giày, bán báo, bán vé số, gom, lục rác, bán hoa quả trên các thuyền ghe dọc tuyến kênh quận 4, quận 8 kiếm sống hoặc được “tuyển dụng” vào làm việc trong các quán ăn, nhà hàng, khách sạn… với những công việc đơn giản, không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn như: Bưng bê, rửa chén bát, quét dọn, trông xe cho khách…. Một số em khác phải làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hơn như: Đi biển, khai thác đá, làm gạch, cạo mủ cao-su, tách vỏ hạt điều…Thời gian làm việc của các em bình quân khoảng 5-6 giờ/ngày. Đối với một số ngành như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm… nhất là khi vào vụ sản xuất thì thời gian làm việc có thể kéo dài lên đến 8-9 giờ/ngày, thậm chí lên đến 12 giờ/ngày nếu trùng vào vụ sản xuất, lễ tết. Tuy nhiên thu nhập bình quân các em chỉ hơn 500.000 đồng/tháng. Nhưng không hiếm trường hợp, các em thậm chí còn không được nhận đủ số tiền công ít ỏi do phạm phải những lỗi vô lý mà chủ lao động nghĩ ra hoặc thường xuyên bị chủ chửi bới, nhục mạ, đánh đập… Điều đáng nói là qua kết quả khảo sát, nhóm trẻ em ở độ tuổi 12-15 có tỷ lệ tham gia lao động nhiều nhất. Xu hướng ngày càng tăng trẻ làm thuê tự kiếm sống, nhất là lứa tuổi từ 14-16. Trong số này, không ít trẻ em bỏ quê lên TP kiếm sống do đời sống gia đình nhiều rạn nứt, bố mẹ ly dị, thường xuyên cãi vã, đánh đập, bạo hành, không quan tâm chăm sóc, giáo dục và buông lỏng 15
- quản lý con cái. Thống kê, có khoảng 28% trẻ em gái trong số 5.000 em nhập cư vào TP Hồ Chí Minh. Những trẻ em này rất dễ bị tổn thương và là nạn nhân bị bóc lột sức lao động, nguy cơ nhiễm HIV/AIDS, lạm dụng tình dục và bị đối xử tàn tệ. Tính từ năm 2004 đến nay, trên địa bàn thành phố có trên 10.000 trẻ em lang thang kiếm sống trên các đường phố không nhà, không có nơi che chở, chăm sóc. Tuy nhiên TP chỉ mới hồi gia chưa được 2.000 em. Năm 2005, toàn địa bàn TP Hồ Chí Minh có hơn 8.000 trẻ lang thang. Hiện nay, theo Sở LĐ-TBXH TP Hồ Chí Minh, thành phố hiện có khoảng 1.700 trẻ em lang thang đường phố kiếm sống bằng các nghề: đánh giày, bán dạo, bán vé số, ăn xin… Khảo sát cho thấy trẻ lang thang kiếm sống thường đi một mình hoặc đi cùng người lớn. Tuy nhiên, trẻ thường sống tập trung trong một khu trọ. Điển hình như khu trọ tại quận 7, một nhà trọ có 88 phòng thì có tới hơn 200 trẻ em lang thang đường phố. Còn ở quận Tân Bình, một nhà trọ có hơn 100 phòng có gần 200 trẻ lang thang... Đa số ý kiến đồng ý rằng, chính sự phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch quá lớn giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chủ yếu đẩy không ít trẻ em vùng quê vốn nghèo khó phải bỏ học sớm để lên thành phố kiếm sống. Do vậy, để giải quyết bài toán trẻ em lang thang cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, đoàn thể xã hội với chính gia đình của, qua đó xác định được nơi sinh sống và nơi kiếm sống của trẻ nhằm can thiệp và hỗ trợ kịp thời. Theo đó, các địa phương vốn là “điểm đi” của trẻ cần “siết” lại công tác quản lý nhân khẩu, theo dõi chặt chẽ sự di biến động của trẻ em rời địa phương kiếm sống, tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho trẻ em. Có như vậy, việc giải quyết tình trạng trẻ em lang thang – vốn là vấn nạn của TP Hồ Chí Minh từ nhiều năm qua mới không rơi vào tình trạng “bắt cóc bỏ đĩa”. Một số hình ảnh về tình trạng TELT trên các thành phố lớn: 16
- 17
- 18
- Học vấn của TELT nhìn chung là thấp vì đa số là những trẻ bỏ học sớm, thất học và thậm chí còn có một số em mù chữ hoặc tái mù chữ. Theo điều tra của Bộ LĐ-TBXH, trẻ em lang thang từ 6 - 16 tuổi chưa từng đi học chiếm 4,7%; 34% bỏ học ở bậc Tiểu học; 58,7% bỏ học ở cấp Trung học cơ sở và 2,6% bỏ học ở cấp Trung học phổ thông. Qua khảo sát trẻ em lang thang tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ biết chữ là 73,9%; không biết chữ là 26,1%; có 12,9% học lớp 1; 39,6% học lớp 5 trở lên và rất ít trẻ em lang thang có được trình độ Trung học phổ thông. Như vậy, Luật phổ cập giáo dục Tiểu học đã có từ lâu, nhưng vẫn còn khoảng gần 40% trẻ em lang thang chưa được học xong chương trình tiểu học. Và theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Thanh niên kết hợp cùng ủy ban DS-GĐ&TE Việt Nam thì tỷ lệ trẻ em lang thang muốn có cơ hội được tiếp tục học tập không phải là ít (dưới 15 tuổi là 50%; trên 15 tuổi là 25%); tuy nhiên nhu cầu học tập của các em đa dạng hơn, không chỉ đơn thuần là học văn hóa mà còn mong muốn học nghề. Khảo sát về trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội cũng cho thấy 46.6% trẻ em lang thang chỉ có trình độ học vấn từ mù chữ đến bậc tiểu học. Các em có trình độ trung học cơ sở là 51,7%. Kết quả đánh giá việc TELT ở Hà Nội tự nguyện học văn hóa đã cho thấy: 94,1% số em được điều tra thích thú với việc học; 71,1% trẻ này rất thích thú với việc học nghề, có 47,3% trẻ cho rằng nếu được học nghề chắc chắn các em sẽ kiếm sống tốt hơn và nếu có việc làm ổn định các em sẽ không đi lang thang nữa. Đối với TELT, cơ hội tiếp cận với các loại hình giáo dục gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ điều kiện sống của các em. Khó khăn tác động đến cơ hội học tập của TELT bao gồm các yếu tố khách quan và chủ quan; trực tiếp và gián tiếp… Trên thực tế, TELT đã bị mất đi các cơ hội, cơ may phát triển cá nhân, cơ hội học hành. Phải rời bỏ mái trường, cộng đồng, gia đình, bạn bè… để đi lang thang kiếm sống, các em cũng không có được một cuộc sống ổn định cho nên không thể có điều kiện được học hành. Khi không có kiến thức văn hóa cần thiết và các kỹ năng trong lao động, nghề nghiệp các em cũng không thể có c ơ hội tìm được việc làm. Điều đó buộc các em chỉ có thể làm được những công việc đơn giản, dịch vụ đường phố. Cuộc sống của trẻ lang thang có rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ em; ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Hoạt động cơ bản để phát triển trí tuệ của trẻ em là quá trình học tập nhưng trong độ tuổi tiếp thu kiến thức tốt nhất thì các em lại 19
- không hoặc ít có cơ hội đi học, tiếp cận với giáo dục. Vì không được trang bị kiến thức cơ bản nên việc tiếp thu kiến thức về nghề nghiệp đối với trẻ lang thang cũng rất khó khăn, ít có khả năng kiếm đ ược việc làm ổn định. 3.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lang thang 3.2.1 Nhóm nguyên nhân về kinh tế Phân tích kết quả của hầu hết các cuộc điều tra cho thấy trên 60% trẻ em lang thang xuất thân từ gia đình đói nghèo, thiếu việc làm. Trên 80% trẻ em lang thang có nguồn gốc từ các làng quê kinh tế chậm phát triển, đất chật, người đông, thiếu việc làm. Đó chính là những nguyên nhân thúc đẩy trẻ em đi lang thang kiếm sống. Sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các vùng, sự phân hoá giàu nghèo trong cac tầng lớp nhân dân, sự cách biệt lớn giữa điều kiện sống, thu nhập và cơ hội tìm kiếm việc làm của khu vực thành thị và nông thôn cũng là những nguyên nhân khác dẫn đến hiện tượng dòng người di dân tự do về các thành phố, thị xã kiếm sống có xu hướng tăng lên và do đó kéo theo số trẻ em lang thang ngày càng đông. Theo báo cáo c ủa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, mức thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các khu vực nông thôn chỉ bằ ng 55% mức thu nhập bình quân tính theo đầu người ở khu vực thành phố 3.2.2 Nhóm nguyên nhân về gia đình Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ ấm của con trẻ, hầu hết những trẻ em bỏ nhà đi lang thang kiếm sống đều từ nguyên nhân gia đình. Đây là nguyên nhân hẹp, nhưng lại có tác động trực tiếp đến đứa trẻ và quyết định việc ra đi của trẻ. Những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn trẻ em đến con đường lang thang thường là do nguyên nhân kinh tế gia đình khó khăn chiếm 66,5%; bố mẹ ly dị 8,57%; bố mẹ ghét bỏ 4,6%. Nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình dẫn đến việc trẻ em bỏ nhà đi lang thang kiếm sống là do gia đình nghèo khó, chính cuộc sống nghèo khó đã khiến không ít ông bố bà mẹ phải chấp nhận việc để con cái mình ra đi kiếm sống, dẫu biết rằng cuộc sống lang thang nơi thành phố là cùng cực, khổ sở và đầy rẫy cạm bẫy, nhưng vì nghèo đói nên “đầu gối phải bò”. Một bộ phận không ít các gia đình có suy nghĩ cho con đi kiếm sống vừa đỡ một khẩu phần ăn, vừa khiến cho trẻ khôn lớn, trưởng thành và có tiền phụ cấp gia đình, thậm chí có gia đình lợi dụng con nhỏ, con tàn tật để đi ăn xin. Cũng còn có nhiều nguyên nhân thuộc về bản thân trẻ em như một số trẻ em thích sống tự do, buông thả, muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của gia đình, 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo môn Thuế: Phân tích thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục thất thu thuế ở Việt Nam
52 p | 1102 | 219
-
Báo cáo: Thực trạng và giải pháp giảm nghèo bền vững ở xã Trà Tân huyện Đức Linh tỉnh Bình Thuận
40 p | 1081 | 184
-
Đề tài về 'Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Thăng Bình, thực trạng, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh '
137 p | 506 | 128
-
ĐỀ TÀI: TÌNH TRẠNG NGHÈO Ở HUYỆN TRI TÔN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
89 p | 275 | 83
-
Đề tài: Thực trạng của đình công Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp để giảm thiểu tình trạng đình công bất hợp pháp ở Việt Nam
13 p | 1139 | 64
-
Đề tài: Thực trạng và bài học kinh nghiệm trong công tác quản lí hành chính nhà nước về giáo dục tại Trường THPT Vũng Tàu - Nguyễn Hữu Trung
18 p | 374 | 54
-
Đề tài: Phân tích thực trạng nguồn nhân lực ngành công nghiệp xây dựng Việt Nam giai đoạn 2012 đến quý I năm 2014
33 p | 263 | 51
-
Đề tài: Lạm phát tại Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009-2013
15 p | 184 | 51
-
Đề tài: Thực trạng bạo lực gia đình, nguyên nhân, giải pháp tại phường Tân Tiến thành phố Buôn Ma Thuột
24 p | 341 | 48
-
Đề tài: Thực trạng tài nguyên du lịch tỉnh Bình Thuận
79 p | 297 | 44
-
LUẬN VĂN: Thực trạng, nguyên nhân lạm phát & những giải pháp ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế
11 p | 199 | 43
-
Tiểu luận: Thực trạng giao thông ở các đô thị của chúng ta như thế nào? Nguyên nhân của thực trạng đó do đâu? Nhà nước sẽ có các giải pháp ra sao để giao thông đô thị không còn là nỗi ám ảnh nữa?
13 p | 188 | 31
-
Luận văn: Đặc doanh karaoke trá hình - Một vấn đề nóng bỏng - Thực trạng – Nguyên nhân - Giải pháp tại Thị Trấn Tứ Hạ - Hương Trà - Huế
35 p | 146 | 20
-
Luận văn tốt nghiệp: Thực trạng cán cân thương mại tại Việt Nam và giải pháp hạn chế thâm hụt
89 p | 33 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng, nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo trên địa bàn huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
80 p | 102 | 11
-
Gỗ lậu tại Việt Nam qua góc nhìn báo chí: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
40 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 34 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn