SỞ GD & ĐT QUẢNG NAM KIỂM TRA GIỮA KỲ II NĂM HỌC 2024 – 2025
TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN CỪ MÔN: Ngữ Văn 10
Thời gian: 90 phút (Không kể thời gian giao đề)
(Đề gồm 02 trang)
I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Một cày, một cuốc thú nhà quê,
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.
Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng,
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
Bá Di người rặng thanh là thú,
Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề.
Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp,
Cầu ai khen, miễn lệ ai chê.
(Nguyễn Trãi, Thuật hứng bài 3 - Quốc âm thi tập, NXB Giáo dục, 2003, tr. 63)
Chú thích:
(1) Xẩy động: chợt xuất hiện
(2) Chè tiên: đun nước pha chè
(3) Kín: ghín, gánh, đây nói tự lấy nước
(4) Nguyệt đeo về: hình tượng thơ, vì ánh trăng chiếu vào nồi nước, thúng nước.
(5) Bá Di: con vua Cô Tc đời nhà Thương (Trung Quốc) cùng em là Thúc Tề, không theo nhà Chu,
đi ẩn ở núi Thú Dương, Mạnh Tử khen, Bá Di là bậc thánh của thanh khiết (Thánh chí thanh)
(6) Nhan Tử: học trò Khổng T, nhà nghèo nhưng thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng Lễ; mất
sớm - khi mới 31 tuổi.
(7) Lề: thói lề
(8) Miễn lệ: khỏi sợ
* Quốc âm thi tập là tập thơ viết bằng chữ Nôm, được Nguyễn Trãi sáng tác khi nhà thơ về Côn Sơn
(Chí Linh – Hải Dương) ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật.
Câu 1 (0,5 điểm). Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2 (0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 3 (0,5 điểm). Hai điển tích nào được nhắc đến trong bài thơ?
Câu 4 (1,0 điểm). Những sự vật, đối tượng nào được nhà thơ nhắc đến trong hai dòng thơ đầu?
Câu 5 (1,0 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ:
Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng,
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
Câu 6 (1,0 điểm). Nêu nội dung của 4 câu thơ đầu.
Câu 7 (1,0 điểm). Bài thơ đã thể hiện những vẻ đẹp tâm hồn nào của tác giả?
Câu 8 (0,5 điểm). Qua văn bản trên, anh/chị hãy rút ra một bài học có ý nghĩa cho bản thân.
II. VIẾT (4.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
[Lược trích: Lúc nhân vật "tôi" còn nhỏ, "cô tôi" thường rủ "tôi" lên bờ đê chỉ cho "tôi" cách
ngửi hương cỏ mật 1- mùi hương như dâng lên từ trong lò lắng xuống từ trên trời, một vị ngọt như
có thể uống được.]
Chiến tranh ác liệt nổ ra. tôi xung phong đi bộ đội. Ngay lập tức phải vượt Trường Sơn
sang Lào rồi lộn về đánh nhau ở Khe Sanh2. Những bức thư cô tôi viết về ướp đầy hương cỏ mật.
1 Cỏ mật: là tên của một loại cỏ, mọc nhiều ở đồng quê, có mùi rất thơm.
2 Khe Sanh: địa danh ở miền Tây Quảng Trị - là một trong những nơi từng diễn ra cuộc chiến tranh ác liệt chống đế quốc Mỹ.
1
nội tôi cầm bức thư - đã đi qua hàng trăm nơi, qua tay bao nhiêu người mới về đến đúng địa
chỉ nhà tôi - khóc ngất:
- Không biết nó sống chết ra răng, chiến trường bom đạn, đã nói ở nhà lấy chồng cho tôi nhờ,
cứ khăng khăng đòi ra trận.
- Thôi đi nội - tôi đón bức thư từ nội - nội đưa con đọc cho.
- Ừ, đọc đi con, đọc đi coi hắn đang chỗ con, không biết khỏe không để lo chiến
đấu!
- Dạ.
Tôi đón bức thư tôi gửi, một mùi hương cỏ mật thơm thoảng qua trong tôi. tôi viết thư,
chữ con gái nắn nót và có phần điệu đà:
"Gửi mẹ và Khảm!
Con đang Khe Sanh mẹ ạ, sau khi vượt Trường Sơn sang Lào, chúng con lại ngược về Khe
Sanh. Ở rừng vất vả lắm nhưng rất vui mẹ ạ. Các anh chị đây luôn yêu thương và đùm bọc lẫn
nhau. Ngày đêm ngày, chiến tranh cứ thế dai dẳng không dứt. Con làm cứu thương, chăm sóc
thương binh đoạn rừng này. Các anh bị thương nhiều lắm. Nhiều đêm nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ
Khảm, con lại viết thư nhưng không biết những bức thư con gửi đến được tay mẹ hay không.
Nếu đến được tay mẹ thì hãy tin rằng, con bình yên mẹ nhé. Mùi hương cỏ mật của quê nhà
luôn bên con, nghe ngọt như mùi trầu của mẹ và mùi mồ hôi của Khảm.
Khảm cố gắng học tốt cháu nhé. Lớn lên cháu sẽ nhà văn. Cháu sẽ được đi học không
phải ra trận như cô bây giờ nữa".
Tôi gấp bức thư lại rồi bỏ vào trong chiếc hộp sắt gọn gàng. Hộp thư chứa đầy những bức thư
của tôi. Trong mỗi bức thư gửi về nhà, toàn kể chuyện chiến trường, chuyện bom đạn gầm
... nhưng từ thư của lại toả ra thứ hương thơm của sự bình yên, của cuộc sống vĩnh cửu,
của đất đai mùa màng và cả của sự hứa hẹn trở về... Điều đó khiến tôi tin tôi không bao giờ
hi sinh cả.
***
Một buổi chiều bình yên. Hôm đó, nắng quái ráng đỏ cả bờ đê đám cỏ may cháy vàng. Tôi
thả trâu ven đê nằm dài riu riu mắt, gối đầu lên đám cỏ mật vừa tìm được. Chợt tôi nghe tiếng
gọi đò thất thanh từ bên kia sông:
- Đò ơi! Đò ơi! Đò ơi!
Tôi vùng dậy bàng hoàng. Như không tin vào mắt mình nữa, bên kia sông hai người bộ đội
đang vẫy gọi đò. Một nam một nữ. Người đàn ông đi nạng tập tễnh bước ra ngoài mépớc.
Con thuyền chòng chành sang sông.
Tôi đứng trân trân mất một lúc. Búi cỏ mật trên tay trở nên vụng về. Rồi như có ai xúi, tôi chạy
ngay xuống bến:
- Cô Thao.
- Khảm, Khảm ơi!
Tiếng kêu vọng lại của cô làm tôi chùng lòng. Nội tôi ốm lâu rồi, nằm mê man cứ ngóng tin
hằng ngày. Những bức thư của tôi gói đầy cỏ mật bặt tin không trở lại. Sợ nội buồn, ngày nào tôi
cũng lấy lá thư cũ, đọc đi rồi đọc lại cho nội. Giờ thì thôi không cần nữa, cô tôi đã thật sự trở về.
Không phải ởng tượng đâu xa xôi, ràng hương cỏ mật đang tan nhanh trong không khí rất
ngọt. Hình như nó lửng lơ từ trên tóc cô tôi tỏa ra vậy.
(Đỗ Chu, Trích Hương cỏ mật, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1962)
Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề nhân vật người
trong đoạn trích truyện “Hương cỏ mật” trên.
---------Hết--------
2
3