
SỞ GD & ĐT NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT NAM ĐÀN 1
----------------
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 – NĂM HỌC 2023 - 2024
MÔN: NGỮ VĂN 11
(Đề thi có 02 trang)
Thời gian làm bài: 90 phút
(không kể thời gian phát đề)
Họ và tên: ................................................................. Số báo danh: ......................................
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
CÁI BÁT
Vào thời hồng hoang, con người chụm hai bàn tay lại vục nước suối uống, lâu dần
người ta nghĩ ra cái bát nặn bằng đất có thể tích như hai lòng bàn tay. […]
Trước Công nguyên, xuất hiện nhiều chiếc bát tước, miệng loe, lòng nông, có chân
cao như một cái chuôi để cầm, phát triển đến thế kỉ 6-7 sau Công nguyên. Loại bát tước
này có nhiều cỡ từ nhỏ đến to, loại nhỏ thì đôi cái phần trên có dạng bán cầu, loại to thì
có đường kính tới 35cm, dáng vẻ trịnh trọng nên thường dùng trong nghi lễ tôn giáo.
Khoảng thời gian từ thế kỉ 2 trước Công nguyên đến thế kỉ 9 sau Công nguyên, một loại
bát thuyền được dùng nhiều trong dân gian. Bát có dạng như chiếc thuyền thúng, có hai
cạnh hai bên để cầm, như một lòng bàn tay, lòng bát nông, dùng để uống rượu, uống
nước hơn là để ăn. Có lúc bát được làm bằng gỗ nhẹ, nom rất xinh xắn. Đến thời Lý, thế
kỉ 11-12, bát ẩm thực quả là một khoa tạo dáng cầu kì. Phổ cập là các loại bát men ngọc
miệng loe, đường kính tới 20cm, thót đáy, vành bấm những điểm lõm làm cho miệng bát
uốn lượn như cái lá sen, thành bát khía những vệt dài từ miệng xuống thành những cánh
hoa sen, hoa súng. Bên cạnh đó là những bát men đen có in dấu chân chim làm hoa văn
ngẫu nhiên, như con chim đi qua lòng chiếc bát. Có lẽ con người sử dụng những chiếc
bát đó phải nho nhã thanh lịch lắm, cử chỉ khoan thai tinh thần sáng láng, ăn cơm mà
như ngắm một bức tranh. Thế kỉ 13-14, thẩm mĩ thay đổi hẳn. Chiếc bát Trần chân cao
xuất hiện, phần trên nở giống như quả hồng, phần dưới chân cao từ 5 đến 10cm, có lẽ
khi ăn phải bưng bằng hai tay, biểu hiện của vẻ đẹp sức mạnh. […] Chiếc bát đàn lòng
nông, men vàng khè ở miệng cho thấy bước thụt lùi của đời sống và thẩm mĩ thế kỉ 18.
Người ta có lẽ cốt ăn qua loa cho xong bữa rau dưa, và sống cho qua ngày. Thời bao
cấp, bát ăn cơm vốn không đẹp, nhưng lại quý hiếm vì hoàn toàn không mua được, trừ
khi công đoàn phân phối; có hai loại: bát sứ Hải Dương men hơi bóng in hoa văn đỏ, bát
gốm Bát Tràng khi thì có viền hoa văn xanh, khi thì không, thành mỏng, dễ vỡ, do tiết
kiệm đất mà kĩ nghệ cao. Kẻ lóng ngóng đánh vỡ bát, người già thì bị lườm nguýt, trẻ
con thì bị xơi vài cái tát. Những bát xưa cũng có nhưng bị bán dần thành đồ quý hiếm.
(Phan Cẩm Thượng, in trong Văn minh vật chất của người Việt,
NXB Thế giới, TP.HCM, 1998)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Văn bản trên viết về vấn đề gì? (0,5 điểm)
Câu 2. Các thông tin trong bài viết được triển khai theo trình tự nào? (0,5 điểm)
Câu 3. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản? (0,5 điểm)