z

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp chống lãng phí

thất thoát vốn trong đầu tư XDCB

Chương I: Những vấn đề chung về đầu tư XDCB.

I. Những vấn đề chung về XDCB.

1.Khái niệm:

XDCB đó là những hoạt động có chức năng tạo ra TSCĐ cho các ngành của nền kinh

tế thông qua các hình thức xây dựng mới, mở rộng hoặc khôi phục các TSCĐ.

TSCĐ có hai loại đó là TSCĐ có tính chất sản xuất và TSCĐ không có tính chất sản

xuất.

TSCĐ có tính chất sản xuất là những tài sản trực tiếp tạo ra lợi nhuận: Nhà xưởng, vật

kiến trúc, phương tiện thiết bị dùng cho sản xuất xây lắp.

- TSCĐ không có tính chất sản xuất: Văn phòng, quản lý hành chính, sinh hoạt y tế,

những tài sản này không trực tiếp tạo ra lợi nhuận tăng thêm.

Nguồn gốc của mọi TSCĐ của các ngành kinh tế do lĩnh vực XDCB tạo ra.

2. ý nghĩa của hoạt động XDCB đối với nền kinh tế.

Hoạt động XDCB mang một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra những tiền đề

cơ bản phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.

Cụ thể là:

- XDCB là ngành duy nhất tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu và cần thiết

trong nền kinh tế, hình thành công trình xây dựng, dự án xây dựng góp phần tạo ra tài

sản mới...

- Hoạt động XDCB tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất

nước, là tiền đề cơ bản để thực hiện CNH- HĐH đất nước.

- Hoạt động XDCB góp phần tạo ra cơ cấu kinh hợp lý giữa các ngành, các vùng và

địa phương trong cả nước, đồng thời tao ra tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân khi các

dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng.

3. Nội dung và đặc điểm của xây dựng cơ bản.

Hoạt động xây dựng cơ bản nói chung là một phạm trù rộng bao gồm cả hoạt động

XDCB và hoạt động khác. Ví dụ như xây dựng nhà cửa phục cho sinh hoạt của người

dân, xây dựng công trình dân dụng mà các hoạt động này không tạo ra những tiền đề

cơ sở vật chất cho nền kinh tế.

3.1. Nội dung của hoạt động xây dựng cơ bản.

Lĩnh vực XDCB gồm có ba hoạt đông: hoạt động khảo sát thiết kế, xây dựng và lắp

đặt, mua sắm máy móc, vật liệu thiết bị.

3.1.1Khảo sát thiết kế

Khảo sát thiết kế là một hoạt động của lĩnh vực XDCB có chức năng mô tả hình dáng

kiến trúc, nội dung kỹ thuật và tính kinh tế của công trình.

- Khảo sát kih tế nhằm trả lời câu hỏi sự cần thiết phải xây dựng công trình và tính

kinh tế của công trình.

- Khảo sát kỹ thuật trả lời câu hỏi khả năng, điều kiện, phương tiện để tiến hành xây

dựng công trình.

Thông thường khảo sát về mặt kinh tế được tiến hành trước khảo sát kỹ thuật.

Những tài liệu sử dụng trong khảo sát thiết kế: đại hình địa chất, thuỷ văn khí tượng

các tài liệu này phải được tổ chức có chuyên môn thiết lập và lập nên đảm bảo tính

chất kỹ thuật đề ra.

3.1.2. Xây dựng và lắp đặt: (hoạt động xây lắp)

Xây dựng và lắp đặt tiến hành thi công trên hiện trường để tạo ra những sản phẩm xây

dựng theo như trong thiết kế bảo đảm kế hoạch đề ra.

Kết quả xây lắp bao gồm: những công trình xây dựng, công tác sữa chữa nhà xưởng,

kiến trúc, thành quả của công tác lắp đặt máy móc thiết bị, kết quả của công tác thiết

kế, thăm dò, khảo sát phát sinh trong quá trình xây lắp.

- Trình tự đầu tư và xây dựng bao gồm 3 giai đoạn:

Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư.

Thực hiện đầu tư: chuẩn bị xây dựng, tiến hành xây dựng và lắp đặt.

·Chuẩn bị xây dựng: Kể từ khi luận chứng hoặc dự án được phê duyệt và được ghi vào

kế hoạch đầu tư cho đến khi thực hiện được những công việc chủ yếu đảm bảo tạo

điều kiện thuận lợi cho việc khởi công xây dựng công trình:chuẩn bị mặt bằng xây

dựng, lựa chọn tổ chức tư vấn.

·Tiến hành xây dựng và lắp đặt: Tạo kiến trúc, kết cấu công trình theo như trong thiết

kế . Thực hiện việc lắp đặt máy móc thiết bị vào công trình, rút ngắn thời gian xây

dựng những vẫn đẩm bảo tiến độ kỹ thuật, chất lượng công trình.

3.1.3. Mua sắm vật liệu, máy móc thiết bị nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư

xây dựng.

3.2. Đặc điểm của XDCB .

- Đặc điểm của XDCB mang đặc điểm của đầu tư phát triển.

· Tiền vốn, vật tư, lao động cần thiêt cho một công cuộc đầu tư thường rất lớn .

· Thời gian xây dựng dài, thời gian vận hành kết quả XDCB thường kéo dài có khi là

vĩnh viễn.

· Các thành quả của hoạt động XDCB có thể được tạo dựng vật chất kỹ thuật, có thể

nguồn lực ( công trình xây dựng, vật kiến trúc như nhà máy hầm mỏ, các công trình

thuỷ lợi, đường xá...) thì sẽ vận hành ở ngay nơi mà nó được tạo dựng lên.

Do tính cố định của nó nên xây lắp có tính lưu động: mỗi công trình, hạng mục công

trình có một đặc thù riêng phụ thuộc vào chức năng, đặc điểm xây dựng công trình.

 XDCB có tính chất liên ngành, nó liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực

nên nó là sự kết hợp, phối hợp nhiều lực lượng tham gia.

 XDCB là một quá trình sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên đất nước vì vậy có

sự kết hợp các lực lượng để đảm điều kiện đầu tư: môi trường, KT-XH.

Từ những đặc điểm đó nên sản phẩm của XDCB:

Hoạt động của XDCB tạo ra sản phẩm có tính đơn chiếc, cá biệt: mỗi công trình xây

dựng đều có nét đặc thù riêng khác với quá trình sản xuất liên tục hoặc gián đoạn thì

kết quả của XDCB không phải là sản phẩm sản xuất hàng loạt mà có tính khác biệt

cao, sản phẩm mà do XDCB đem lại là duy nhất. Các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản

xuất sản phẩm sản xuất sản phẩm không cố định và thường xuyên phải di chuyển vì

vậy tính ổn định trong sản xuất rất khó bảo đảm điều này phụ thuộc nhiều vào khâu

quản lý sản xuất của nhà thầu trong quá trình thi công công trình.

Quá trình sản xuất thi công XDCB thường tiến hành ngoài trời nên phụ thuộc nhiều

vào điều kiện khí hâụ, tự nhiên nơi thi công. Sản phẩm xây dựng thường có quy mô

lớn vì vậy thời gian thi công kéo dài, trong thời gian thi công có hiện tượng ứ đọng

vốn.

4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu sự thất thoát lãng phí vốn trong đầu tư XDCB

.

Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển cần đến một điều kiện không thể

thiếu là vốn. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó. Nhưng hiện nay chúng ta đang

đứng trước hai mâu thuẫn: Nhu cầu vốn đầu tư lớn, nhưng khả năng đáp ứng chưa

tương xứng do tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Trong khi đó, việc quản lý và sử

dụng vốn còn kém hiệu quả, nên làm cho nhu cầu vốn trở nên lớn hơn.

Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng

và trong dư luận xã hội nói chung vấn đề thất thoát vốn trong XDCB được đề cập

nhiều lần. Có nhiều ý kiến khác nhau về mức độ thất thoát: Những người thận trọng thì

cho rằng tỷ lệ thất thoát 5%-7%, một số người mạnh dạn hơn thì cho rằng tỷ lệ đó lên

tới 15%-20%.

Đầu năm 1994 QĐ92/Ttg của thủ tướng chính phủ về việc tăng cường quản lý, chống

thất thoát, lảng phí và tiêu cực trong đầu tư XDCB được ban hành ,nhưng xem ra tình

hình thất thoát vốn trong lĩnh vực này vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Nhiều nơi,

nhiều công trình tỷ lệ thất thoát lên đến 20%-30% thậm chí 50%-60%.

Thất thoát trong XDCB không chỉ có vốn đầu tư, mà nó cồn biểu hiện ở nhiều khâu

dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng khái quát có thể quy ở ba dạng chủ yếu sau:

Thất thoát của cải vật chất như việc sử dụng máy móc, thiết bị, để mất mát và hư hỏng

NVL; thất thoát dưới dạng lãng phí sức lao động của con người mà biểu hiện trực tiếp

rõ nhất là lãng phí ngày công lao động của công nhân trong các đơn vị thi công xây

lắp; thất thoát dưới dạng tiền vốn, tức là khoản vốn bằng tiền không được đầu tư cho

công trình mà được chui vào “túi”một số cá nhân nào đấy.

Suy cho cùng các khoản thất thoát trên đều tập trung vào vốn đầu tư. Bởi vì, vốn phải

bỏ ra để mua sắm máy móc, thiết bị để mua NVL, để trả lương cho công nhân....

Nguyên nhân của hiện tượng thất thoát vốn trong XDCB có nhiều, có nguyên nhân

chủ quan và nguyên nhân khách quan , về tự nhiên, kinh tế và xã hội...nhưng có thể tập

hợp thành các nhóm nguyên nhân sau đây:

· Các nguyên nhân thuộc về cơ chính sách nhà nước, cơ chế quản lý XDCB, mà vấn đề

hàng đầu là quản lý cấp phát vốn đầu tư.

·Hệ thống tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật, định mức tiêu hao vật chất, dơn giá xây dựng,

đấu thầu chưa phù hợp với cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.

· Chủ trương đầu tư, thanh kiểm tra, tham nhũng, năng lực, trình độ tay nghề công

nhân trong toàn bộ hệ thống từ cơ quan cấp phát vốn, quản lý vốn đến sử dụng vốn.

Từ những vấn đề bức xúc gây lãng phí, thất thoát lớn trong XDCB như vậy nên em đã

chọn đề tài để nghiên cứu. Tuy nhiên trong bài viết này thì em chỉ đi vào nghiên cứu

một số giải pháp chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB .

II. Vốn và cơ cấu vốn ĐTXDCB.

1. Phân loại vốn đầu tư XDCB.

Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ các chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm chi

phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng,

chi phí mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng

quyết toán.

1.1 . Theo yếu tố cấu thành.

Theo yếu tố cấu thành ta chia vốn đầu tư XDCB thành: Vốn xây lắp, vốn mua sắm

máy móc thiết bị, vốn kiến thiết cơ bản khác.

- Vốn xây lắp: chi phí cho việc chuẩn bị mựt bằng xây dựng, chi phí cho xây dựng

công trình, hạng mục công trình.Chi phí cho việc lắp đặt hoàn thiện công trình.

- Vốn mua sắm máy móc thiết bị, dụng cụ được lắp vào công trìnhtheo dự toán. Cụ

thể: Giá trị của bản thân máy móc thiết bị, chi phí của bảo quản, chi phí gia công tu

sửa, kiểm tra máy móc thiết bị trước khi lắp đặt. Giá trị của những dụng cụ: công cụ

dụng cụ có thể dùng cho sản xuất, quản lý. Vốn cho mua sắm máy móc thiết bị, dụng

cụ chiếm tỷ lệ tương đối lớn 35%-40% trong tổng vốn đầu tư.

Vốn kiến thiết cơ bản khác:

Bao gồm: · Những chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị công trình: Như chi

phí cho tư vấn đầu tư, chi phí khảo sát thiết kế, chi phí cho ban quản lý, chi phí cho

việc đền bù, giải phóng mặt bằng, di dời, di chuyển.

.Chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị tài sản lưu động bàn giao bàn

giao: Bao gồm chi phí cho mua sắm súc vật, cây giống, đào tạo cán bộ công nhân viên.

· Những chi phí kiến thiết cơ bản khác được Nhà nước cho phép không tính vào

giá trị công trình gồm: Chi phí công trình hư hỏng do thiên tai, thiệt hại do công trình

bị dừng lại hoặc huỷ bỏ...

1.1 . Cơ cấu theo nguồn vốn hình thành.

1.1.1 Nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng đề ra, Nhà nước đã có nhiều chính sách

đổi mới và dẫn đến những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế đất nước trong đó có sự

thay đổi về cơ cấu nguồn vốn đầu tư XDCB. Nếu như trước kia trong nền kinh tế tập

trung thì nguồn vốn dầu tư XDCB chủ yếu từ ngân sácg nhà nước, vốn tự có của các

doanh nghiệp nhà nước và vốn tín dụng nhà nước. Giá trị lượng vốn đầu tư XDCB này

nhỏ trong khi đó việc đầu tư lại dàn đều cho tất cả các ngành, tất cả các lĩnh vực trong

nền kinh tế khiến cho hiệu quả đồng vốn không cao. Tuy nhiên, trong những năm trở

lại đây cơ cấu nguồn vốn đầu tư XDCB đã có sự thay đổi. Hiện nay vốn đầu tư XDCB

thuộc khu vực nhà nước chỉ chiếm khoảng 40% tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ

bản của toàn xã hội.

Xét về tỷ trọng thì vốn đầu tư XDCB từ ngân sách giảm khá lớn nhưng giá trị tuyệt đối

của nó hàng năm đều tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

Vốn ngân sách nhà nước: ngân sách TW, ngân sách địa phương dùng để đầu tư

XDCB, Dự án đầu tư phát triển xã hội. Những dự án đó không có khả năng trực tiếp

thu hồi vốn. Vốn ngân sách được cấp theo kế hoạch nhà nước đặt ra hàng năm chi

24%- 26%.

Trong số các nguồn vốn đầu tư XDCB của khu vực nhà nước thì vốn thuộc ngân sách

chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, trong những năm qua tỷ trọng của nó giảm liên tục

mặc dù nếu xét về quy mô thì vốn đầu tư vẫn tăng liên tục. Lượng vốn đầu tư XDCB

từ ngân sách nhà nước năm 1995 là 8925 tỷ đồng và đến năm 1999 lượng này lên

dến13546 tỷ đồng. Về tỷ trọng thì năm 1995 chiếm tỷ trọng là 55,8%, đến năm 1999 là

33.5%. Điều này cho thấy quyết tâm chuyển đổi cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản

trong những năm gần đây của nhà nước là rất được chú trọng, tổng vốn ngân sách

giảm nhường chổ cho vốn tín dụng Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước.

Trong ngồn vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước thì có sự đóng góp rất đáng kể

của vốn ODA. Trong những năm qua vốn ODA cho đầu tư XDCB tăng lên rất nhanh

từ 1720 tỷ đồng năm 1995 đến năm 1999 đã tăng lên 4620 tỷ đồng, năm 2001 là 6420

tỷ đồng và dự kiến năm 2002 tăng 10%. Tiến độ giải ngân vốn ODA diển ra nhanh

hơn. Năm 2001, Việt Nam đã giải ngân được 1.711 tỷ USD vốn ODA, đưa tổng vốn

ODA đã giải ngân cho đế nay đạt 9,72 tỷ USD. Mục tiêu 2002 nước ta phải tăng giải

ngân vốn ODA lên khoảng 1,9 tỷ USD. Sự tăng vốn ODA trong XDCB chứng tỏ Nhà

nước đã quan tâm hơn đén nguồn này và cũng chứng tỏ được rằng các dự án đầu tư

XDCB sử dụng vốn ODA được thực hiện ngày càng có hiệu quả.

Theo Bộ KH-ĐT, trong tháng 1/2002 vốn đầu tư XDCB tập trung thuộc ngồn vốn

ngân sách Nhà nước được thực hiện tương đối khá, với khỏng 2250 tỷ đồng, bằng

10,4% kế hoạch năm 2002 và tăng 82,2% so với cùng kỳ năm 2001. Tính đến nay, chỉ

tiêu kế hoạch và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2002 đã giao xong tới các Bộ,

ngành, tổng công ty 91 và các địa phương. Theo như dự báo của các nhà hoạch định

chính sách vĩ mô thì để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm từ 7%-

8% trong giai đoạn 2001-2010 thì nhu cầu vốn đầu tư XDCB cần thực hiện trong giai

đoạn này là 2555 nghìn tỷ đồng. Trong đó dự kiến vốn ngân sách nhà nước chiếm

20%-25%, là một tỷ lệ thấp so với những năm trước đây.

1.1.2 Vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước.

Vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước tuy có quy mô nhỏ nhất trong số các nguồn vốn đầu tư

XDCB của khu vực Nhà nước, nhưng trong những năm gần đây do chủ trương Đảng

và Nhà nước là giảm bao cấp trong đầu tư XDCB, nên nguồn này đã được Nhà nước

chú trọng hơn, từ 2351 tỷ đồng năm 1995, năm 1998 là 7840 tỷ đồng. Sở dĩ có sự tăng

đột biến năm 1998 là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm giảm

FDI nên để đảm bảo giữ vững được tốc độ phát triển kinh tế thì nhà nước phải tăng

lượng vốn này. Vì vậy, nguồn vốn tín dụng nhà nước từ năm 1995-1999 có sự tăng

trưởng liên tục về tỷ trọng trong nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước. Nhưng đến 1999

thì tỷ trọng của nó là 25,9%. Năm 2000, 2001 tốc độ giải ngân vốn tín dụng đầu tư

XDCB chậm, một phần do lãi suất không còn tính ưu đãi. Và dự kiến năm 2002- 2010

tỷ trọng vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước là 30%- 35%.

1.1.3. Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước.

Vốn này đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng sản, thay đổi máy móc thiết bị, tăng

tính cạnh tranh trên thị trường.

Phần vốn DNNN có được có thể do tích luỹ, khấu hao cơ bản, vốn vay.

Trong những năm qua vốn đầu tư XDCB từ nguồn tự có của các DNNN tăng nhanh

nhất trong số các nguồn vốn đầu tư. Từ năm 1995 nguồn vốn này ở mức 4720 tỷ đồng

thì đến năm 1999 là 16418 tỷ đồng, với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 50%.

Nguồn vốn đầu tư XDCB từ vốn tự có của DNNN từ chỗ, năm 1995 chỉ chiếm 29.5%

trong tổng số các nguồn vốn thuộc khu vực Nhà nước thì đến năm 1999 tỷ lệ này là

40,8%, cao nhất trong số các nguồn vốn khu vực Nhà nước, điều này phản ánh chính

xác chủ trương của Đảng và Nhà nước, đó là giảm bao cấp trong đầu tư XDCB từ

ngân sách Nhà nước, khuyến khích các DNNN tự bỏ vốn đầu tư.

1.3.4. Nguồn vốn từ dân cư.

Trong những năm trước đây khi mà đất nước còn duy trì nền kinh tế kế hoạch tập

trung thì nguồn vốn đầu tư của tư nhân và dân cư bị lãng quên nhưng kể từ khi chuyển

sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đã quan tâm khai thác nguồn vốn có tiềm

năng rất lớn từ trong dân, trong các nguồn vốn của toàn xã hội đầu tư XDCB thì vốn

của dân cư, tư nhân chiếm khoảng 30%. Năm 1995 nguồn vốn của khu vực dân cư là

11700 tỷ đồng đến năm 1999 là 19483. Tuy vậy, tỷ trọng vốn đầu tư của dân cư trên

toàn bộ các nguồn vốn đầu tư XDCB năm 1999 là 25,2%, giảm so với năm 1995. Điều

này cho thấy lĩnh vực đầu tư XDCB chưa thực sự hấp dẫn để có thể thu hút được

lượng vốn nhàn rỗi tiềm năng trong dân cư. Đây là một trong những vấn đề mà Nhà

nước cần có biện pháp sớm giải quyết để tận dụng nguồn vốn về vốn đầu tư ở trong

nước để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

1.3.5.Vốn FDI .

Vốn FDI đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta.

Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm huy

động tối đa nguồn vốn FDI vào lĩnh vực XDCB. Vốn FDI liên tục tăng từ 1995-1997.

Năm 1995 lượng vốn FDI là 15820 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 36,3% vốn đầu tư XDCB.

Đến năm 1997 lượng vốn FDI là 20185 tỷ đòng chiếm tỷ trọng 30,7% vốn đầu tư

XDCB. Tuy nhiên mức độ tăng không lớn, bình quân hàng năm khoảng 13%. Đến

năm 1998 do khủng hỏng kinh tế tài chính trong khu vực đã khiến các nhà đầu tư nước

ngoài giảm lượng đầu tư vào việt nam và trong 1998 thì lượng vốn FDI chỉ còn 16486

tỷ đồng giảm khoảng 19% so với năm 1997. Tuy nhiên đến năm 1999 thì do cuộc

khủng hoảng trong khu vực đã qua, nhiều nền kinh tế trong đó có Việt Nam đã có đấu

hiệu phục hồi, ngoài ra còn do hàng loạt chính sách mở rộng nhằm thu hút đầu tư nước

ngoài thì lượng FDI đã tăng lên và đạt mức 17396 tỷ đồng. Tuy vậy, tỷ trọng vốn FDI

trong toàn bộ các nguồn vốn đầu tư XDCB liên tục giảm dần từ 1995(36,3%) dến năm

1999( 22,5%) điều này chứng tỏ chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của ta

vẫn còn những hạn chế nên vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.

Đến những năm 2000, 2001 do chủ trương, môi trường đầu tư thông thoáng hơn, cải

tiến các thủ tục hành chính, có biện pháp kêu gọi vốn FDI nên trong 2000, 2001 FDI

tăng đáng kể. Vốn FDI thực hiện năm 2001 ước 2,3 tỷ USD, tăng 200 triệu so với năm

2000, đưa tổng vốn FDI. Thực hiện đến nay đạt gần 21,5 tỷ USD.

Tóm lại, với một quy mô vốn lớn cho đầu tư XDCB hàng năm, nhà nước cần có những

chính sách cụ thể đối với mỗi nguồn vốn để tạo một cơ cấu nguồn vốn hợp lý.

Một cơ cấu nguồn vốn hợp lý phải là một cơ cấu phản ánh khả năng huy động vốn tối

đa mọi nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển. Là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm

dần tỷ trọng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách và tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi

và nguồn vốn của dân cư.

2. Cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo các ngành kinh tế thời kỳ 1995-1999.

Để thấy được tình hình đầu tư XDCB trong những năm qua thì bên cạnh việc xem xét

về cơ cấu nguồn vốn ta tiếp tục xem xét việc phân bổ nguồn vốn này như thế nào trong

nền kinh tế.

Ta thấy ở các ngành kinh tế đều có nhu cầu vốn đầu tư XDCB, tuy nhiên việc phân bố

nguồn vốn như thế nào thì phụ thuộc vào chủ trương đường lối của đảng và Nhà nước

ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ của nền kinh tế. Đảng và Nhà nước căn cứ vào

đặc điểm, tình hình của nền kinh tế để phân bố vốn đầu tư cho các ngành.

Việc xem xét cơ cấu vốn đầu tư XDCB là việc nghiên cứu, xem xét các quan hệ tỷ lệ

của khối lượng vốn đầu tư XDCB vào các ngành kinh tế ta sẽ thấy được mục tiêu phát

triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Mặt khác nghiên cứu

vốn đầu tư cho ta thấy được những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Bởi vì, khi nhà nước

tập trung phát triển ngành nào thì vốn đầu tư XDCB sẽ tập trung nhiều cho ngành đó

phát triển nhanh hơn.

Trước hết ta xem xét sự phân bổ chi đầu tư XDCB của ngân sách Nhà nước.

Phân bổ chi đầu tư XDCB của ngân nhà nước( %).

1986 1991-1995 1996-2000

Khu vực SXvật chất.

Trong đó:

.Nông lâm và thuỷ

sản. 13,4 8,7 8,5

Công nghiệp và xây

dựng. 25,7 38,7 40,2

2. Khu vực dịch vụ cơ

bản:

. Giáo dục- đào tạo.

. Khoa học công 1,7 1,8 2

nghệ.

. Y tế cứu trợ xã 0,2 1,2 0,5

hội.

. Văn hoá thể thao. 0,8 0,9 1,3

. Phục vụ cá nhân

cộng đồng. 1,1 1,1 1

25 41,4 24,5

Qua biếu trên ta thấy, sự phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho khu vực sản xuất chiếm tỷ

trọng lớn. Đặc biệt là công nghiệp và xây dựng ngày càng được nhà nước quan tâm phát

triển. Năm 1986 tỷ trọng này là 25,7% đến giai đoạn 1991-1995 tỷ trọng công nghiệp và

xây dựng chiếm tỷ trọng 38,7% và giai đoạn 1996-2000 là 40,2%.

Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp và thuỷ sản giảm dần từ 13,4% năm 1986 xuống

8,5% giai đoạn 1996-2000.

Trong khu vực dịch vụ cơ bản thì dịch vụ phục vụ cá nhân, cộng đồng giảm mạnh: từ

41,4% năm 1986 xuống 25% giai đoạn 1996-2000.

Y tế cứu trợ xã hội giảm từ 1,3% năm 1986 xuống 0,9% giai đoạn 1996-2000. Vốn cho

khoa học công nghệ lại tăng từ 0,5% năm 1986 đến 1,2% giai đoạn 1996-2000.

- Còn xét trên toàn tổng vốn đầu tư XDCB trong những năm qua ta thấy:

Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng cơ sở nền tảng cho sự nghiệp CNH-HĐH, vì vậy

nhà nước cần giành lượng vốn lớn cho đầu tư XDCB cho ngành công nghiệp. Trong những

năm 1996 đến nay vốn đầu tư XDCB của Nhà nước dành cho ngành công nghiệp liên tục

tăng không những con số tuyệt đối mà còn cả về tỷ trọng ( số tương đối ) thể hiện, năm năm

1999 giá trị vốn đầu tư XDCB cho ngành công nghiệp đạt mức 42686 tỷ đồng chiếm tỷ

trọng 55,21%.

Điều này vẫn phản ánh sự ưu tiên của Nhà nước cho ngành này. Cùng với ngành công

nghiệp thì giao thông vận tải cũng được Nhà nước quan tâm đầu tư nhằm hoàn thiện cơ sở

hạ tầng về giao thông, tạo điều kiện giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước được

thuận tiện, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Năm 1995 vốn đầu tư XDCB dành cho GTVT là 5930 tỷ đồng và đến năm 1999 là 10816 tỷ

đồng, tuy nhiên về tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành GTVT trong tổng vốn đầu tư cho XDCB

có lúc tăng lúc giảm (từ 1995-1999) nhưng xét về tổng thể thì năm 1999 cao hơn năm 1995.

Bên cạnh việc tập trung cao độ cho các ngành có tính chất mũi nhọn Nhà nước cũng có sự

quan tâm đến các ngành khác một cách thích đáng để đảm bảo sự cân đối của cơ cấu đầu tư

tránh sai lầm mà ta có thời kỳ mắc phải trong việc tập trung vào công nghiệp nặng. Vì vậy,

mà các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, GD-YT, VH-TT cũng được nhà nước

quan tâm đầu tư. Trong những năm trở lại đây nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng

vào nông nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến. Nhà nước đã đầu tư các công trình

thuỷ lợi, đê diều phục vụ sản xuất phòng chống thiên tai. Đối với ngành thuỷ sản từ 1997

nhà nước ta đã có chương cho vay tín dụng ưu đãi để đánh bắt thuỷ sản xa bờ với lượng vốn

tín dụng mỗi năm là hàng nghìn tỉ đồng đầu tư cho đóng mới tàu có trọng tải lớn đủ sức

vươn ra khơi xa. Mặt khác, những năm qua nhà nước cũng đã đầu tư cho nhiêu lĩnh vực chế

biến thuộc ngành nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm của các ngành này.

Và với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trên thế giới, Nhà nước đã chú trọng

đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin tránh sự tụt hậu quá xa so với các nước phát triển,

từng bước đưa nước ta tiến kịp thời đại nền kinh tế trí thức. Từ năm 1995 lượng vốn đầu tư

cho lĩnh vực này là 2100 tỷ đồng. Đến năm 1999 là 4569 tỷ đồng tăng bình quân hàng năm

khoảng 23%. Cùng với sự phát triển kinh tế trong những năm gần đây thì nhà nước cũng

bắt đầu có sự quan tâm đúng mức hơn đến đời sống tinh thần của nhân dân. Điều này thể

hiện sự gia tăng về quy mô cũng như tốc độ của vốn đầu tư cho ngành GD-YT –TT. Cụ thể

vốn dầu tư XDCB cho ngành này từ 1898 tỷ đồng năm 1995 lên 3540 tỷ đồng năm 1999.

Tóm lại, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư XDCB của nhà nước ta trong những năm qua cho

thấy nhà nước đã không ngừng tăng quy mô vốn đầu tư để đảm bảo nhu cầu phát triển kinh

tế đất nước đồng thời qua đó ta thấy được sự chuyển đổi về cơ cấu đầu tư XDCB của nhà

nước trong thời kỳ này nhằm đảm bảo mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy

nhiên, lượng vốn ngày một tăng nhưng liệu tất cả vốn có đến chân công trình hay không?

Đây là một câu hỏi được bàn luận rất nhiều, số tài sản cố định mới tăng và năng lực sản

xuất mới tăng trong những năm qua không phản ánh hết số vốn mà nhà nước đã chi cho đầu

tư XDCB.

ChươngII. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư XDCB và một số tồn tại.

Trong những năm qua việc thực hiện đầu tư XDCB nhiều công trình lớn nhỏ đã hoàn

thành và được đưa vào sử dụng. Trong đó có nhiều công trình có vai trò quan trọng đối

với sự phát triển kinh tế củ nền kinh tế quốc dân như thuỷ đIện Thác Mơ, đường dây

đIện 500 KV bắc nam, đường quốc lộ 5 Hà Nội –HảI Phòng, đường cao tốcLáng Hoà

Lạc... Những kết quả đó làm tăng thêm cho đất nước nhiều năng lực sản xuất mới trên

nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại trong lĩnh vực này, vì vậy ta đi vào tìm hiểu thực

trạng của nó.

I.Chủ trương đầu tư và công tác kế hoạch hoá.

Tình trạng thất thoát trong XDCB đã được công luận nhiều lần lên tiếng. Mức độ thất

thoát đã có người trong ngành đánh giá tứi 30% tổng dự toán và con số tuyệt đối có

thể lên tới 4000 ngàn tỷ đồng, bằng tổng chi cho cải tiến tiền lương năm 1993. Câu hỏi

đặt ra là thất thoát ở đâu? Trước hết ta nghiên cứu về chủ trương dầu tư.

1. Chủ trương đầu tư.

Trong mỗi giai đoạn khác nhau, tuỳ vào chiến lược phát triển KT-XH của đất nước thì

Nhà nước có chủ trương ưu tiên phát triển ngành , vùng khác nhau. Tuy nhiên, chủ

trương đầu tư là một khâu được đấnh giá là dễ gây ra thất thoát lớn trong đầu tư và xây

dựng. Điều này được minh chứng bằng một loạt các ví dụ:

- Chủ trương xây dựng thủ đô ở Xuân Hoà thời kỳ trước 1975, nhà máy điện Cầu Đô,

nhà máy phân đạm Núi Đính-Ninh Bình; Nhà máy lọc hoá dầu Tuy Hạ (đã đầu tư trên

20 tỷ đồng theo giá hiện hành thời kỳ 1989-1992) đều bị huỷ bỏ vì việc lựa chọn địa

điểm xây dựng và công nghệ chưa thích hợp. Đó cũng gây một thất thoát lớn, khi bỏ lỡ

một cơ hội đầu tư đó cũng là lãng phí nhưng đầu tư vào dự án không khả thi càng gây

lãng phí gấp bội lần.

- Bên cạnh đó khi nhu cầu về xi măng lớn, Chính phủ có chủ trương đầu tư phát triển

xi măng lò đứng. Vì thế, mọt loại xi măng lò đứng với công suất từ 3-10 vạn tấn /Năm,

thiết bị Trung Quốc ở các địa phương ra đời ( xi măng Thanh Ba – vĩnh phú, xi măng

Hà Bắc, xi măng Bắc Thái, xi măng Sơn La, Xi măng Hoành Mai...).

Năm 1998 ,cả nước sản xuất 10,121 triệu tấn xi măng. Tăng 12.6% so với 1997, nhập

khẩu 70000 tấn trong khi tổng lượng tiêu thụ là 9.79 triệu tấn. Như vậy, cuối năm

1998, tổng số xi măng tồn kho( kể cả nhập lậu) là trên 500000 nghìn tấn. Và tình trạng

này còn kéo dài sang năm 1999. Tồn kho của tổng công ty xi măng Việt Nam là

1325000 tấn. Trong tình trạng như vậy, giá xi măng của ta cao hơn các nước Đông

Nam á 8-10 usd/ tấn. Điều này là do trình độ kỹ thuật của ta lạc hậu, trình độ quản lý

kém( giá độc quyền do tổng công ty xi măng quyết định). Nhưng theo dự toán thì ta sẽ

thiếu xi măng: Năm thiếu ít nhất 0.52 triệu tấn, nhiều nhất 1.47 triệu tấn. Do khả năng

sản xuất hiện nay đạt 14,6 triệu tấn và dự kiến 2005: 23,33 triệu tấn trong khi nhu cầu

là 23,85 triệu tấn (2005).

Một lĩnh vực gây lãng phí lớn nữa thể hiện ở ngành công nghiệp mía đường. Để đảm

bảo mục têu 1triệu tấn đường, một loạt các nhà máy đường thiêt bị Trung Quốc được

đầu tư xây dựng. Theo ươc tính đã có tới hơn 4300 tỉ đồng đầu tư vào chương trình

mía đường.Tuy nhiên hoạt đọng của các nhà máy này không hiệu quả.Theo đánh giá

thì các nhà máy đường phải chay trên 70% công suất thì mới có lãi nhưng vụ ép 1997-

1998 cả nước có 35 nhà máy thì chỉ có 16 nhà máy hoạt động trên 70% công suất, 19

nhà máy hoạt động dưới 50% công suất. Vụ ép 1998-1999 có 42 nhà máy cũng không

khá gì hơn. Các nhà máy đường phía Bắc hoạt động dưới 50% công suất.

Thậm chí nhà máy đường Linh Cảm có công suất 1000 tấn/ ngày thì cả vụ ép được

5100 tấn ,hoạt động một tuần thì hết nguyên liệu.

Theo một quan chức ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thì cuối năm

1997, đầu năm 1998 một số nhà máy đến hạn trả nợ nứơc ngoài. Để đảm bảo uy tín,

ngân hàng phải thay mặt nhà máy để trả nợ. Tình trạng hoạt động tồi tệ của các nhà

máy đường là vậy. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn hơn nữa là khô cạn nguồn nguyên liệu.

Giá đường hạ nhưng so với thế giới vẫn cao hơn từ 170-180 USD/tấn.Kết quả là không

tiêu thụ được, nguồn nguyên liệu không cung cấp đủ vì các hộ nông dân gặp khó khăn

do giá thu mua quá thấp. Đồng bằng sông Cửu Long:145000 đòng/tấn, Đông nam

bộ:160000 đòng /tấn; nhiều nơi phía nam chỉ có 100000 đến 120000 đồng /tấn tạo

thành một vòng luẩn quẩn cho ngành mía đường.

Nguyên nhân tình trạng trên là do:

Trước hết là cán bộ phụ trách, chuyên gia kinh tế thiếu kiến thức về công nghiệp hoá

một ngành mới là mía đường, không lường hết những khó khăn mặc dù trước đó ta đã

có bài học về các “ Phong trào xây dựng nhà máy xi măng”, trong một thời gian ngắn

xây dựng nhiều nhà máy ở các địa phương.

Vấn đề nguyên liệu là vấn đề lớn nhất trong một chương trình 1 triệu tấn đường.

Trước khi duyệt dự án thì Bộ trưởng, UBND tỉnh thẩm định phê duyệt dự án đầu tư

quy hoạch vùng, xây dựng vùng nguyên liệu nhưng trên thực tế triển khai không thực

hiện.

2.Công tác kế hoạch hoá.

Khâu kế hoạch đã góp phần không nhỏ làm lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Nhìn chung

việc bố trí và điều hành kế hoạch đầu tư hàng năm còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm:

-Thiếu kế hoạch đầu tư XDCB tổng quát theo ngành và lãnh thổ 5 năm và hàng năm.

Do việc báo cáo tài chính thường không tập trung, trong khi ngoài vốn XDCB còn có

rất nhiều nguồn vốn khác nên dẫn đến việc nhiều khi cơ quan kho bạc Nhà nước

không chủ động được kế hoạch vốn, tài chính thông báo hạn mức nhiều khi lại không

sát với kế hoạch vốn dẫn đến những vướng mắc, bất cập không đáng có. Chẳng hạn

như năm 2000, khi kho bạc nhà nước nhận được kế hoạch về chương trình văn hoá là

18tỷ đồng, chương trình nuôi trồng thuỷ sản là 500 triệu, trong khi đó hạn mức vố quy

định 11/2001 lại không ghi cho các công trình này, việc náy đã làm ảnh hưởng không

nhỏ đến công tác tạm ứng, thanh toán vốn cho dự án.

- Hàng năm việc phân phối vốn thường mang tính chất “chia phần” dẫn đến bố trí kế

hoạch phân tán, không theo tiến độ thực hiện dự án được phê duyệt. Như Nhà nước

thực hiện tín dụng ưu đãi Nhà nước đã đầu tư hơn 100 ngàn tỷ đồng vốn cho các lĩnh

vực khác nhau, các ngành nghề khác nhau nhằm thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất

nước. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước trong thời

gian qua cũng bộc lộ những hạn chế, và những vấn đề đáng quan tâm nhất là chính

sách hổ trự của Nhà nước qua tín dụng ưu đãi và các công trình mục tiêu khác còn

trong tình trạng dàn trải. Việc điều hoà vốn không tổ chức nào lo chung, chất lượng tín

dụng hạn chế.

II Tình trạng đấu thầu trong XDCB .

Đấu thầu là một khâu trong hoạt động XDCB. Mục đích của đấu thầu là tạo một sân

chơi có tính cạnh tranh cao, công bằng, minh bạch giúp chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu

có đủ khả năng để thực hện gói thầu với những yêu cầu chất lượng, giá cả và tiến độ .

Xong hiện nay, tình trạng vi phạm quy chế đấu thầu đang là vấn đề bức xúc. Điều này

tạo ra sự lãng phí vốn trong hoạt động đầu tư.

Nhiều gói thầu “liên minh bóng tối” của công tác này tìm mọi cách thao túng và gây

nên những thiệt hại đáng kể cho nguồn ngân sách còn eo hẹp của nước ta. Bằng cách

khi có thông báo mời thầu các nhà thầu tham dự thầu và có “máu mặt “ đã bắt đầu liên

lạc liên kết với nhau để cam kết một mức giá tối thiểu và tối đa khi tham dự thâù của

gói thầu đó rồi sau đó các nhà thầu mới nộp hồ sơ dự thầu theo “ba rem” đã ngầm cam

kết kia. Điều này làm làm vô hiệu hoá tính cạnh tranh của đấu thầu và tạo ra mớc giá

trúng thầu nằm ngoài mong muốn của bên mời thầu. Thậm chí có những gói thầu giá

trúng thầu còn lớn hơn cả giá ước tính buộc bên nhà thầu phải chuyển sang hình thức

chỉ định thàu. Hoặc có trường hợp chủ đầu tư thông đồng với một nhà thầu nào đó để

tiết lộ giá chuẩn, đưa ra một vài tiêu chuẩn riêng biệt có lợi cho nhà thầu đó để tính

vào điểm chọn thầu. Và đấu thầu mặc dù bề ngoài vẫn được tổ chức theo đúng quy

định nhưng cuối cùng thì thì đơn vị trúng thầu do chủ đầu tư lựa chọn. Việc đấu thầu

như vậy vừa không khách quan vừa gây lãng phí thất thoát lớn cho ngân sách Nhà

nước; chất lượng công trình sẽ không được đảm bảo. Như vậy tiền Nhà nước bị các

bên rút ra chia nhau để rồi cuối cùng dồn gáng nặng lên những dãy số thực ảo trong

quả trình thanh quyết toán công trình.

-Tình trạng phổ biến trong thời gian qua là các nhà thầu thi nhau hạ giá, bỏ thầu thấp

cốt để trúng thầu dành được công trình.

Một vài ví dụ điển hình:

+ Gói thầu 1A, dự án hầm đường bộ đèo Hải vân, giá gói thầu 72.5 triệu USD, giá

trúng thầu là 46.1 triệu USD (63.5%).

+ Gói thầu 2A vẫn thuộc dự án hầm đương bộ đèo Hải Vân, giá gói thàu 42.1USD, giá

trúng thầu 28.1 triệu USD (66.7%).

Gói thầu 9 cầu đường sắt: giá gói thầu 2.4 tỷ Yên, giá trúng thầu là 1.15tỷ Yên(45%).

Một điều hiển nhiên là trong XDCB không thể có công trình nào thi công dưới giá gói

thầu20-30% thậm chí 50%-605 như thế, rỏ ràng nếu có dự án trúng thầu với giá thấp

như trên thì chỉ có thể là dự tính sai hoặc nếu không nhà thau sẽ phá sản. Nguyên nhân

của tình trạng trên có thể tập trung vào mấy nhóm sau:

.Do cạnh tranh gay gắt, bức xúc về việc làm, trả lương cán bộ, chi phí khác.

.Nợ đến hạn trả gây áp lực kể cả lỗ cũng phải làm để có thể vay tiền ngân hàng để trả

nợ, tránh phá sản, phong toả tài sản ở ngân hàng tìm lối thoát hiểm tạm thời.

. Do đầu tư mua quá nhiều thiết bị, không có việc, không có nguồn khấu hao để trả nợ

vay ngân hàng.

. Móc ngoặc, thông đồng với chủ đầu tư để thắng thầu sau đó bớt xén, sửa thiết kế.

Tình hình trên làm cho chất lượng công trình không đảm bảo, thời hạn kéo dài gây nên

tình trạng vốn vừa bị ứ đọng vừa gây lãng phí rất lớn.

Xung quanh việc bỏ giá thầu thấp để trúng thầu cồn có một nguyên nhân nữa đó là

công tác tư vấn. Chức năng của tư vấn là thay mặt chủ đầu tư thực hiện các bước: Tư

vấn đầu tư (lập dự án nghiên cứu tài chính, kinh tế..) tư vấn xây dựng (thiết kế, dự toán

công trình, xét thầu, nghiệm thu, bàn giao, lập hồ sơ mời thầu...) theo đúng quy định.

Gia tư vấn thiết kế tính bằng % giá trị công trình. Công trình có giá trị càng cao thì thu

nhập càng cao. Trên thực tế hàng loạt công trình giá rất cao:

+Dự án đường Quy Nhơn – Sông cầu tư vấn vẽ ra 400 tỷ, làm hết 605.

+ Đê chắn sóng ở Dung Quất: Giá tư vấn 80 triệu USD, giá thắng thầu 45 triệu USD.

Cảng Cái Lân: Giá trúng thầu bằng 55% giá dự kiến của chủ đầu tư.

III Thực trạng việc cấp phát vốn đầu tư XDCB và những tồn tại.

1. Tình hình triển khai kế hoạch cấp phát vốn đầu tư XDCB .

1.1. Phân cấp quản lý vốn XDCB những năm gần đây

Mặc dù khẳng định rỏ quyết tâm thực hiện phân cấp chi đầu tư XDCB nhằm nâng cao

trách nhiệm và sự chủ động của chính quyền cấp quận huyện ,mhưng trong việc này

cần theo một lộ trình cụ thể, bởi “còn hàng loạt việc phải làm” , trong đó quan trọng

nhất là nâng cao năng lực quản lý vốn đàu tư của chính quyền cơ sở.

Theo sở KH-ĐT Hà Nội, nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách hiện bao gồm

vốn XDCB và vốn sự nghiệp có tính chất XDCB .hiện nay ,thành phố đã cân đối

nguồn vón sự nghiệp có tính chất XDCB trong dự toán chi ngân sách của các quận

huyện.UBND các quận, huyện được toàn quyền phê duyệt các dự án , thiết kế kỹ thuật,

tổng dự toán, bố trí kế hoạch, quyết toán vốn đầu tư đối với nguồn vốn này. Tuy nhiên

,việc phân cấp quản lý vốn đầu tư XDCB mới là vấn đề khó .

Năm 1998 nhà nước bố trí XDCB tập trung với tổng mức vốn đầu tư là 14028,3 tỷ

đồng. Các công trình dự án địa phương qỷan lý là 4736,9 tỷ đồng, các công trình dư án

do các Bộ, ngành TW quản lý là 9291,4 tỷ đồng .

Và cũng trong năm 1998 việc phân cấp, cấp phát vốn còn nhiều vấn đề bất cập cần

được nghiên cứu:

- Tình trạng bố trí phân tán, dàn trải quá nhiều công trình đã tồn tại trong nhiều năm

nay ,vẫn chưa được khắc phục .Năm 1998 với số vốn 768 tỷ đòng, các bộ, các

ngành,địa phương đã bố trí đến 9566 công trình , dự án nhóm C. Để khắc phục tình

trạng phân tán ,năm 1998 chính phủ đã chỉ đạo phải dành tối thiểu 70% vốn nhóm C

để bố trí cho các dự án, công trình hoàn thành đưa vào sử dụng trong, nhưng bình quân

các tỉnh, bộ, ngành mới bố trí được khoảng 50% đặc biệt một số bộ tỷ lệ này rất thấp (

LĐTBXH: 29%,bộ NN và PTNT 18%; bộ tư pháp 4,7%...).

- Công tác chuẩn bị đầu tư làm chưa tốt; các thủ tục đầu tư và xây dựng thường châm

trễ; nhiều dự án công trình chưa đủ điều kiện ghi kế hoạch nhưng vẫn bố trí triển khai

gây nên sự chậm trể, ứ đọng vốn.

Do vậy khá nhiều dự án có trong chỉ tiêu kế hoạch thì giá trị thưc hiện thấp ,giá trị

thực hiện ngoài kế hoạch lại cao như trên đã nêu.

- công tác giải pgóng mặt bằng gập nhiêu khó khăn cả về cơ chế chính sách đến toỏ

chức thực hiện, đã làm ảnh hưởng đến khối lưowngj thực hiện dự án, điển hình là như

dự án quốc lộ 1A(vinh-Đông Hà: kế hoạch năm 1998 là 172,2 tỷ đồng, giá trị khối

lượng thực hiện là 85,27 tỷ đồng ) ,dự án uỷ ban chứng khoán quốc gia,dự án hộ trợ y

tế quốc gia.

- Trong lúc nhiều công trình ,dự án không đạt kế hoạch nhà nước giao thì lại có nhiều

công trình, dự án có khối lượng thực hiện kế hoạch lớn, gây sức ép ngân sách nhà

nước, làm ảnh hưởng đến tiến độ cấp phát ,giải ngân vốn thanh toán. Thực tế này dẫn

đến một loạt mâu thuẫn: khối lượng trong kế hoạch được bố trí vốn để thanh toán lại

không đạt kế hoạch. Nhiều khối lượng sản phẩm đã làm ra lại không có vốn thanh

toán,vì khối lượng đó không có trong kế hoạch, mawcj dù có trongg thiết kế, trong

tổng dự toán, dự toán chi tết của dự an , công trình đã đượcc phê duyệt.

- Những mâu thuẩn này dẫn đến việc thừa thiếu vốn giả tạo, nợ nần dây dưa giữa các

DN với nhau, giữa doanh nghiệp với ngân hàng ngân sách... theo báo cáo của các bộ,

ngành, địa phương, khối lượng vượt kế hoạch 2 năm 1996 và 1997 khoảng trên 3100

tỷ đồng.

Tình trạng đó gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến tốc độ

tăng trưởng chung của nền kinh tế, nên năm 1999, chính phủ đã đưa chủ trương tìm

mọi biện pháp để giải quyết số nợ vượt kế hoạch đó. Tuy nhiên, do cơ chế và cách

điều hành kế hoạch dầu tư hiện nay khối lượng vượt kế hoạch không có vốn thanh toán

vẫn chưa được cải thiện, năm 1998 vãn trên 3000 tỷ đồng.

1.2Tình hình triển khai kế hoạch vốn đầu tư XDCB 6 tháng đầu năm 2002.

Kế hoạch đầu tư vốn đầu tư XDCB 2002 là 44,392 tỷ đồng, trong đó dự án do bộ

ngành cơ quan TW quản lý là 20927 tỷ đồng( vốn đầu tư XDCB tập trung: 20,927, vốn

cho chương trình mục tiêu 205 tỷ đồng)

, dự án do địa phương quản lí là 23465 tỷ đồng. Đến hết tháng 6 năm 2002 già trị khối

lượng thực hiện hoàn thành chỉ 8438 tỷ đồng, bằng 19% kế hoạch . Trong đó, giá trị

khối lượng hoàn thành các dự án TW là 3247 tỷ đồng đạt 15,5 % kế hoạch Nhà nước

giao, các dự án thuộc địa phương là 5191 tỷ đồng đạt 22,6 % kế hoạch năm Nhà nước

giao.Nguyên nhân căn bản do các Bộ, nghành , TW và địa phương phân kAhai kế

hoạch chi tiết để giao cho chủ đầu tư triển khai thự hiện.

- Nhiều tỉnh, TP đến hết quý I năm 2002 mới phân khai kế hoạch năm 2002 để giao

cho chủ đầu tư như Hà Nam, Nam Định, Sơn La,Lai Châu... có tỉnh đến tháng 6 năm

2002 mới giao kế hoạch cho các chủ đầu tư.

- Nhiều bộ ngành TW chưa tuân đúng thủ tục đối với kế hoạch thuộc chương trình 135

triển khai thông báo kế hoạch cũng rất chậm.

-Kế hoạch đầu tư bổ sung năm 2002 mãi đến 25 tháng 3 năm 2002 Chính phủ mới có

QĐ 216/ QĐTTG giao bổ sung kế hoạch.

2. Tình hình giải ngân vố dầu tư XDCB

2.1 Tình hình giải ngân vố dầu tư XDCB trong những năm gần đây.

Tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB thời gian qua đang nổi lên những vấn đề

đáng lưu tâm. Trng 6 tháng đầu năm 2001, giá trị khối lượng thực hiện đạt 5065 tỷ

đồng băng 17,8 % so với kế hoạch, vốn đầu tư cấp phát thanh toán chỉ bằng 21,3 % so

với kế hoạch bằng 114% so với khối lượng giá trị thực hiện. Có thể thấy rằng các số

liệu phản ánh giá trị khối lượng thực hiện 6 tháng đầu năm là rất thấp, từ 254 tỷ của

các dự án thuộc nguồn vốn khác đạt tỷ lệ 40,2% so với kế hoạch, hầu hết các đối tượng

chỉ đạt từ 5% đến 20 % so với kế hoạch. Thấp nhất là các dự án thuộc các chương

trình mục tiêu chỉ đạt 5% so với kế hoạch...đồng thời trong quả trình kiểm soát thanh

toán, đến hết tháng 9 năm 2001, kho bạc nhà nước đã loại trừ khỏi số vốn đề nghị

thanh toán của kế hoạch năm 2001 là 266,7 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy rằng qua 10

tháng thực hiện kế hoạch đầu tư năm 2001, hệ thống kho bạc Nhà nước đã tích cực

giải ngân vốn, có nhiều biện pháp đôn đốc các chủ đầu tư khẩn trương nhiệm thu làm

thủ tục thanh toán. Số vốn thanh toán 10 tháng đầu năm 2001 là 20700 tỷ đồng, trong

đó vốn thanh toán cho kế hoach năm 2000 kéo dài khoảng 6000 tỷ và thanh toán cho

kế hoạch năm 2001 đạt khoảng 14700 tỷ đồng cao hơn so với cùng kỳ năm trước(tính

đến hết tháng 10 năm 2000 thanh toán được khoảng 16000 tỷ đồng, trong đó thanh

toán cho kế hoạch năm 1999 kéo dài là 5000 tỷ đồng và thanh toán cho kế hoạch năm

2000 đạt 11000 tỷ đồng). Theo đánh giá tỷ lệ vốn thanh toán so với kế hoạch vẫn đạt

thấp, điều này đã ảnh hưởng đến chủ trương kích cầu đầu tư mà Đảng và Nhà nước

đang thực hiện. Đâu là nguyên nhân của sự chậm trễ này?

Lý do cần nhắc đến đầu tiên đó là công tác chuẩn bị đầu tư của một số Bộ, ngành và

địa phương do không được chú trọng dẫn đến một số dự án tuy được bố trí kế hoạch

nhưng chưa đảm bảo thủ tục đầu tư XDCB , việc hoàn tất các thủ tục đầu tư XDCB

như phê duyệt, thiết kế, dự toán, công tác đấu thầu, kế hoạch đấu thầu, kết quả đấu

thầu...cũng như công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của nhiều dự án rất chậm. Nhiều

dự án dến tháng 8, tháng 9 chưa triển khai công tác đấu thầu hoặc chưa giải phóng mặt

bằng. Công tác khảo sát, lập dự án, thiết kế, dự toán được duyệt chất lượng thấp dẫn

đến nhiều chương trình phát sinh khối lượng ngoài dự toán được duyệt nên phải trình

duyệt bổ sung, đạc biệt các dự án thuộc ngành giao thông có khối lượng phát sinh khá

lớn ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thanh toán.

Bên cạnh đó “ căn nguyên” không kém phần quan trọng khác đang bắt nguồn từ những

vướng mắc trong cơ chế thanh toán, quyết toán vốn đầu tư XDCB hiện nay.

Cụ thể là những quy định, cách làm chưa phù hợp, đồng bộ và hiệu quả từ phía Bộ tài

chính. Theo quy định hiện nay, việc phân khai kế hoạch do các Bộ, ngành làm việc với

vụ đầu tư, sau đó vụ đầu tư thông báo sang cho kho bạc Nhà nước. Việc vụ đầu tư

thông báo kế hoạch vốn đầu tư theo cơ cấu xây lắp, thiết bị, chi phí khác sang kho bạc

Nhà nước để lám căn cứ theo dõi thanh toán vốn đầu rư phần nào gây khó khăn, chậm

trễ trong thanh toán vốn đầu tư cho các đơn vị vì khi thực hiện kế hoạch vốn đầu tư ,

chủ đầu tư căn cứ vào tổng vốn đầu tư của dự án được duyệt để triển khai thực

hiện.Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư cứ phải căn cứ vào cơ cấu vốn đầu tư theo thông báo

kế hoạch để triển khai thực hiện, có nghĩa là đã tự ràng buộc mình, trong khi các công

việc thuộc về xây lắp hoặc về thiết bị , hoặc về chi phí khác có điều kiện triể khai thì

lại bị kế hoạch khống chế hoặc không có điều kiện triển khai lại bố trí kế hoạch. Có

những công việc mặc dù đã triển khai trong phạm vi tổng mức vốn đầu tư của dự án

được duyệt nhưng lại vượt quá cơ cấu vốn xây lắp hoặc thiết bị hoặc chi phí khác của

kế hoạch đã thông báo. Muốn được thanh toán, chủ đầu tư phải làm thủ tục báo cáco

cơ quan chủ quản đầu tư xin diều chỉnh, điều hoà để vụ đầu tư (Bộ tài chính) thông

báo sang kho bạc Nhà nước thì mới được thực hiện...đây là những công đoạn bắt buộc

và khá nhiêu khê, những thủ tục như trên khi thực hiện xong thì phải kéo dài hàng

tháng, thậm chí hàng quí mới xong từ đó gây phiền hà, chậm trễ trong việc giả ngân

vốn đầu tư. Trong năm 2001 vẫn tiếp diễn tình trạng thực hiện khối lượng thuộc kế

hoạch vốn đầu tư XDCB năm trước với giá trị khá lớn, vì vậy việc triển khai thực hiện

và thanh toán vốn đầu tư XDCB trong năm 2001 bị ảnh hưởng. Điều này là do nhiều

nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng đồng thời cũng là để giải quyết nhưng

vấn đề bức xúc do thực tế phức tạp của công tác dấu tư XDCB . Và đây cũng chính là

lí do công tác đầu tư XDCB và thanh toán vốn đầu tư XDCB triển khai chậm. Với cơ

quan tài chính và kho bạc Nhà nước, vấn đề này đã gây nhiều khó khăn cho công tác

quản lý,theo dỏi quyết toán vốn, đồng thời cũng là nguyên cớ cho những vướngmắc

trong hoạch toán, trong đánh giá hiệu quả vốn đầu tư XDCB . Tình trạng này có thể

dứt điểm đượcc. Nên mạnh dạn dứt điểm một năm, đau một chút nhưng sẽ cải thiện

được cơ bản tình hình quản lý thanh toán vốn đầu tư và buộc các chủ đầu tư, chủ dự án

chủ động hơn, khẩn trương hơn trong việc triển khai đúng tiến độ, có hiệu quả công

tác đầu tư XDCB .

2.2. Tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB 6 tháng đầu năm 2002.

Theo báo cáo của kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố đến hết tháng 6-2002 số vốn

đầu tư được thanh toán là 10046 tỷ đạt 22.6% kế hoạch năm được Nhà nước giao,

trong đó TW đạt 3880 tỷđạt 18.5% kế hoạch năm Nhà nước giao; địa phương 6166 tỷ

đồng đạt 20.3% kế hoạch năm Nhà nước giao.

Nhìn chung, vốn đầu tư XDCB được thanh toán 6 tháng đầu năm 2002 so với kế hoạch

Nhà nước giao là rất tháp, chỉ từ 17.4% đến 26.8% so với kế hoạch Nhà nước giao

tương ứng với giá trị khối lượng thực hiện hoàn thành so với kế hoạch được giao.

Nguyên nhân của hiện tượng này do công tác quản lý, triển khai kế hoạch chi tiết của

bộ, ngành, địa phương chậm như đã phân tích ở trên.

2.3.Vốn tín dụng đầu tư XDCB giải ngân chậm.

Tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tuy được bố trí tăng về quy mô hàng năm

song tỷ trọng trong vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần. Trong khi đó,

vốn tín dụng đầu tư của ngân hàng lại có xu hướng tăng nhanh từ 6.14% gai đạon

1991-1995 đến 17.5% giai đoạn 1996-2000. đây là xu hướng tích cực nhằm xoá bỏ

bao cấp, vốn ngân sách Nhà nước được tập trung ưu tiên cho những công trình thuộc

kết cấu hạ tầng trọng yếu không thu hồi vốn trực tiếp và có tác dụng điều chỉnh cơ cấu

kinh tế theo ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước, tạo điều kiện cho SXKD phát

triển.

Một thực tế đang diển ra trong công tác XDCB hiện nay là tiến độ triển khai nghiệp vụ

tín dụng đầu tư khá chậm, mà nguyên nhân nổi bật lên hơn cả, theo đánh giá của các

chuyên gia là lãi suất vay hiện nay còn quá cao, thêm vào đó là thủ tục vay vốn còn

khá phức tạp làm nản không ít doanh nghiệp dầu tư.

Thống kê năm 1999 của Bộ tài chính cho thấy, tổng nguồn vốn tín dụng cho vay năm

1999 ước vào khoảng 6800 tỷ đồng trong đó có trên 2500 tỷ đồng cho vay chuyển tiếp,

gần 3600 tỷ đồng cho vay mới các dự án thuộc nhóm B,C và khoảng 680 tỷ đồng cho

vay mới các dự án nhóm A. Tuy nhiên đến hết tháng 11-1999 chỉ có 560 dự án đã ký

hợp đồng vay vốn với tổng tiền là 4500 tỷ đồng, trong đó khoảng trên 30% đã được

giải ngân.

Các chuyên gia cho rằng, trong khi đầu tư năm 1999 tới nay ngân hàng nhà nước đã

bốn lần hạ tràn lãi suất cho vay tiền mătj, thì việc giử nguyên lãi suất nguồn vốn tín

dụng đầu tư XDCB ở mức 0.81% / tháng đối với các dự án mới khởi công và 1.1% đối

với các dự án vay trước năm 1997 là bất hợp lý. Trong bối cảnh nền kinh tế liên tục

giảm phát, việc cố định lãi suất vay như trên khiến nguồn vốn đầu tư tín dụng bị mất đi

tính ưu đãi, tác động không nhỏ đến việc giải ngân nguồn vốn này. Trước thực trạng

nói trên Bộ tài chính vừa có tờ trình thủ tướng chính phủ giảm lãi suất cho vay đối với

các dự án tín dụng trước năm 1997 từ 1.1% xuống còn 0.81%/tháng kể từ đầu năm

2000. Mặc dù vậy các chuyên gia kinh tế cho rằng, kiến nghị này quá “chậm trể” ,bởi

đúng ra hơn ai hết Bộ tài chính phải nhận ra “bất hợp lý” này ngay từ hồi đầu năm.

Chủ một số dự án đầu tư mới cho hay, trong nhiều trường hợp họ có thể vay vốn đầu

tư từ các ngân hàng thương mại với mức lãi suất chỉ từ 0.7-0.75%/ tháng mà không tốn

nhiều thời gian và công sức.

Thứ hai việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước trong thời gian qua

cũng bộc lộ những hạn chế, mà nhữngvấn đề đáng quan tâm nhất là chính sách hỗ trợ

của Nhà nước qua tín dụng ưu đãi và các chương trình mục tiêu còn trong tình trạng

dàn trải, đối tượng ưu đãi cồn tràn lan đang còn có quá nhiều đầu mối thực hiện chính

sách tín dụng ưu đãi nên việc tổng hợp theo dỏi và có đánh giá tổmg quát cũng như đề

ra phương hướng, giải pháp về chương trình tín dụng ưu đãi gặp nhiều khó khăn, việc

điều chĩnh, điều hoà vốn không tổ chức nào lo chung, chất lượng tín dụng còn hạn chế,

nợ quá hạn cao và sẽ gia tăng phát sinh trong những năm tới.

Có thể nói rằng đi tìm những nguyên nhân gây nên tình trạng thanh toán vốn đầu tư

chậm chạp không phải là điều khó khăn. Tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất là phải kiên

quyết khắc phục, sửa chữa những bất hợp lý, những tồn tại do các cơ quan đơn vị có

trách nhiệm triển khai thực hiện gây ra.

IV. Tình hình thanh tra kiểm tra việc sử dụng vốn đầu tư XDCB .

Hiện nay tình trạng lãng phí đang diễn ra hầu hết các lĩnh vực, từ đầu tư xây dựng đến

sản xuất, tiêu dùng, từ sử dụng tài nguyên thiên nhiên đến nhà xưởng, thiết bị máy

móc, lao động,... lãng phí còn nghiêm trọng hơn khi so sánh với quy mô, hiệu quả

SXKD cồn thấp, mức sống còn nghèo và càng nghiêm trọng khi còn nhập siêu, vay nợ

lớn. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng việc huy động

vốn cho đầu tư luôn ở tầm quan trọng nhưng việc sử dụng vốn có hiệu quả như thế nào

lại càng đáng quan tâm hơn vì trong đầu tư XDCB, khi quy mô tổng nguồn vốn đã

cchiếm 30% tổng số trong nước thì sự thất thoát chỉ với 10% đã lên tới hàng chục tỷ

đồng. Đáng lưu ý trong hàng trăm ngàn tỷ đồng đầu tư toàn xã hội thì nguồn vốn trong

nước mới đạt 60%, còn 40% nguồn vốn vay nước ngoài hoặc dưới dạng ODA,FDI. Vì

thế đã gây nên sự thiệt hại kép từ lãng phí vốn. Sự thanh tra, kiểm tra việc sử dụng vốn

là rất quan trọng tuy nhiên trên lĩnh vực này vẩn còn nhiều vấn đề tồn tại, kẽ hở gây

nên thất thoát đáng kể về vốn đầu tư XDCB .

1. Quy chế về đầu tư XDCB bị vi phạm.

Theo báo cáo kết quả thanh tra tài chính năm 2001 do thanh tra Bộ tài chính thực

hiện, công tác quản lý vốn dầu tư XDCB như bố trí vốn, lập, thẩm định phê duyệt dự

án đầu tư, dự án và hồ sơ dự thầu... ở hầu hết các Bộ, uỷ ban nhân dân, cấp tỉnh hiện

đang vi phạm quy chế, quy định về XDCB .

Một quan chức Bộ tài chính chỉ rỏ, nhiều chủ đầu tư đã bố trí vốn đầu tư ngay cả khi

các dự án chưa đủ điều kiện. Thậm chí có chủ đầu tư còn thực hiện ghi kế hoạch vốn

trước khi có quyết định đầu tư được phê duyệt. Cụ thể tỉnh Hoà Bình và Hải Dương có

199 dự án cho dù chưa hội đủ điều kiện, nhưng vẫn được UBND hai tỉnh này ghi kế

hoạch vốn đầu tư gần 110 tỷ đồng.

Tỉnh Kiên Giang có 45 dự án trị giá 55,319 tỷ đồng, hồ sơ thiết kế kỹ thuật chưa được

phê duyệt, song vẫn được UBND tỉnh bố trí kế hoạch vốn.

Không những thế, UBND tỉnh Yên Bái và Hưng Yên còn thực “ phi vụ” báo cáo

khống việc nợ khối lượng XDCB từ những năm 1996-1997 để xin vốn trung ương

22,834 tỷ đồng.

Một thành viên của tổ thanh tra tài chính Bộ y tế cho biết, chỉ tính riêng trong hai năm

2000 và 2001, Bộ y tế đã lập kế hoạch vốn cho 37 dự án trong khi chưa “chạy” đủ thủ

tục. “Ngay cả một số dự án có đủ hồ sơ cần thiết của Bộ y tế thì cũng được các nhà

thầu “vẽ” ra vượt kế hoạch vốn Nhà nước cấp.

Ngoài ra, Bộ này còn bố trí kế hoạch vốn cho 18 dự án với giá trị 270 tỷ đồng khi chưa

có quyết định đầu tư, quyết định phê duyệt dự toán”, ông còn tiết lộ thêm.

Cũng theo kết quả thanh tra tài chính năm 2001, nhiều chủ đầu tư như UBND tỉnh Hà

Giang, Yên Bái, Long An, Bộ y tế, Bộ văn hoá thông tin... đã bố trí kế hoạch vốn cho

các dự án đầu tư XDCB cao hơn dự toán chi ngân sách dẫn đến không có nguồn để

thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành cho đơn vị thi công.

Nhiều chủ đầu tư bố trí kế hoạch vốn cho một số dự án quá lớn trong khi năng lực của

nhà thầu chưa đáp ứng được yêu cầu thi công dẫn đến vốn tồn đọng không giải ngân

được.

“ Việc lập, thẩm định phê duyệt dự án đầu tư, dự toán vốn và hồ sơ đấu thầu không

chặt chẽ, sai quy định còn phổ biến tại một số bộ, ngành, địa phương” đó là một phần

kết luận quan trọng trong báo cáo kết quả thanh tra năm 2001 của Bộ tài chính. Cụ thể,

dự án mở rộng thư viện Quốc Gia (Bộ văn hoá thông tin làm chủ đầu tư ) đã thực hiện

chỉ định thầu một số hạng mục trị giá 15,188 tỷ đồng, chiếm 32,6% tổng giá trị khối

lượng thực hiện. Dự án hổ trợ y tế Quốc Gia được Bộ y tế lập hồ sơ mời thầu nhưng 5

gói thầu trị giá 7.656 tỷ đồng lại được thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt.

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến dự án tu bổ, tôn tạo nhà hát lớn Hà Nội

đã đưa vào sử dụng gần 4 năm chưa có tổng dự toán được phê duyệt, 7 dự án của bộ y

tế với tổng mức đầu tư 1,248 tỷ đồng sắp hoàn thành nhưng vẫn chưa được phê duyệt.

Một quan chức thanh tra Bộ tài chính nhận định, trong năm 2001, các cơ quan chức

năng đã buộc phải huỷ bỏ kết quả đầu tư của 14 gói thầu trị giá gần 19,2 tỷ đồng. Bởi

vậy, không chỉ có đổi mới cơ chế, chính sách quản lý XDCB, mà còn cần tăng cường

thanh tra, kiểm tra xữ lý thật nghiêm minh tình trạng vi phạm trình tự XDCB. Có như

vậy mới lập lại trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực nóng bỏng này .

2.Những tồn tại trong thanh tra, kiểm tra việc sử dụng vốn đầu tư XDCB.

2.1. Vấn đề chất lượng công trình và thực trạng ban quản lý dự án.

“Người ta coi vốn đầu tư XDCB như một bữa cổ để... chén” đó là lời của TS Phạm Sỹ

Liêm, tổng thư ký hội xây dựng Việt nam.

Hồi thời bao cấp, ở miền Bắc những công trình bị sụp dổ như cầu Rào không nhiều

nhưng sự cố sập tường, gãy ô văng, lún mặt đường... lại phổ biến. Sự tệ hại này chủ

yếu do công nhân không có động lực, lương quá thấp nên mới có chuyện ăn bớt vật

liệu..., nhưng có một điều: nhiều công trình ta muốn tốt là nó tốt.

Bước sang thời kỳ kinh tế thị trường, chất lượng xây dựng nhìn chung khá hơn, mức

độ hoàn thiện công trình, nhất là vẻ đẹp bên ngoài được coi trọng hơn. Bây giờ lợi ích

của người chủ công trình đã rỏ ràng: “ công trình là của anh” chứ không phải như

trước đây “ công trình chưa chắc đã phải là của anh”. Còn công nhân thu nhập tăng và

phân bậc theo tay nghề. Tuy nhiên, động cơ ở ta hiện nay đạng bị méo mó đi thông

qua tham nhũng. Hiện nay “ăn cắp vặt” dù đã thuyên giảm nhưng ở đâu đó vẫn còn

phổ biến. So với thời bao cấp, vấn đề bảo đảm chất lượng công trình xây dựng không

phải không còn nghiêm trọng mà trái lại nó càng trở nên cấp bách.

Việc không phân định rỏ trách nhiệm của các cơ quan chức năng, chủ đầu tư và các

chủ thể khác nhau dẫn đến tình trạng người có trách nhiệm bảo đảm chất lượng cho

công trình xây dựng sẵn sàng nhớ tới quyền lợi nhưng lại “chịu khó” quên đi phần

trách nhiệm của mình. Đây cũng là nguyên nhân chính của những sự cố xãy ra trong

thời gian gần đây.

Ông Pạm Sỹ Liêm, phó chủ tịch hội xây dựng Việt Nam cho rằng, công tác quản lý

Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng còn thiếu một “ nhạc trưởng” ở cả hai

cấp TW và địa phương, dẫn đến hiệu quả quản lý chất lượng công trình xây dựng

không cao. Cụ thể, ở cấp TW về danh nghĩa thì Bộ xây dựng được phân công quản lý

Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng. Tuy nhiên, chức năng này còn do cả

nhiều Bộ, ngành khác cùng đảm nhiệm. Ơ cấp địa phương thì ngược lại, không có cơ

quan nào được giao trách nhiệm làm đầu mối quản lý chất lượng công trình xây dựng.

Vì vậy, mổi khi có sự cố xảy ra thì không có cơ quan nào đứng ra nhận trách nhiệm về

mình.

Một số ý kiến khác cho rằng, không thể giải quyết bài toán chất lượng bắng cách xem

xét các yếu tố tác động một cách riêng lẽ mà phải xem xét một cách có hệ thống, từ

đầu vào dến đầu ra.

Việc đoạn đường quốc lộ 1A ở cầu Trìa ( Vĩnh Linh) bị lú sụt, công trình đê bao Hà

Nội bị đổi nhãn mác xi măng... là một ví dụ thực tế cho các công công tác quản lý ở

khâu khảo sát và cung cấp nguyên liệu đầu vào chưa tốt. Chất lượng công trình được

hoàn thành qua quá trình sản xuất khá dài với sự tham gia của nhiều người, nhiều đơn

vị. Vì vậy, cần phân rỏ trách nhiệm cho mỗi bên tham gia và sự phân định này phải

được thể hiện rành mạch trong hợp đồng kinh tế.

Nhưng nghịch lý ở chổ: năng lực bên B bao giờ cũng được bên A xem xét, đánh giá

một cách kỹ càng, thế nhưng năng lực bên A thì chẳng ai xem xét.

Nước ta tính mổi năm có khoảng 150000-200000 dự án xây dựng lớn nhỏ, từ đó cũng

ngót nghét 100000 ban quản lý dự án. Có những ban quản lý đã chuyên nghiệp hoá,

trình độ khá cao, nhưng phần đông được thành lập theo dự án, hết dự án là giải tán.

Những ban quản lý không chuyên nghiệp này thường không phải là chủ thực sự của

công trình, nhất là công trình nhà nước. Có nơi người ta chẳng cần am hiểu gì cả, có

nơi có công trình lớn hơn một chút , người ta điều thêm anh kỹ sư xây dựng hay là anh

kiến trúc sư nào đó vào để tăng cường năng lực chuyên môn cho ban quản lý. Nhưng

chết ở chổ là những người có năng lực thì đều không thiếu việc, thu nhập ổn định. Chỉ

có người nào đã hoặc sắp về hưu hoặc dính chuyện gì đó bị dơi ra... mới được kéo vào

ban quản lý dự án. Không phải tất cả, nhưng phần lớn ban quản lý lại là cái nơi đi

hứng của thừa thãi, thì làm sao tốt được.

Chuyện nữa là ban quản lý không bao giờ muốn kết thúc công việc sớm, cho nên

không ít công trình hoàn thành rồi, bàn giao rồi nhưng chờ quyết toán thì cứ kéo năm

này sang tháng nọ. Cả một bộ máy cứ ngồi tính toán mãi mà chẳng xong, thực chất

cũng chỉ để ... lĩnh lương.

Nước ngoài họ làm hoàn toàn khác. Trong dự thảo luật vừa rồi đã có quy định: ban

qunả lý dự án lập ra phải có người thay mặt, ban quản lý không nên trực tiếp điều hành

dự án mà nên thuê lực lượng tư vấn. VD: ngân hàng thế giới cho vay biết bao là dự án,

công trình lớn cí , nhỏ có nhưng họ đâu có mấy người. Người ta toàn thuê lực lượng tư

vấn đến ban quản lý mà hiệu quả vẫn cao. Ban quản lý lúc này là người giám sát bên

B. Nếu bên B làm bậy với bên A là phát hiện ngay. Tất nhiên, ban quản lý phải hoạt

động rất trách nhiệm không thể đồng loả, nể nang được. Nếu không về sau không còn

ai thuê nữa.Điều này trái ngược với ban quản lý dự án một mùa.

1.2. Tham nhũng trong đầu tư XDCB .

Tình trạng thất thoát trong XDCB đã được nói nhiều ở trên, con số tất thoát đã lên mức

báo động: 30%, câu hỏi đặt ra là thất thoát ở đâu?

Trước hết là ở khâu “ chạy, xin, cho, cấp, phát”. Quả thật của xin được thì xin càng

nhiều càng tốt, muốn xin được nhiều thì phải biết điều với người cho, người duyệt và

người phát tiền.

Kế đến là khâu đấu thầu. Đấu thầu thực chất là tạo một sân chơi bình đẳng, cạnh tranh

lành mạnh nhưng chính trong lĩnh vực này lại thiếu sự khách quan nhất. Hối lộ đậm

mới trúng thầu. Trúng thầu lại cho thầu lại dễ ăn hơn là trực tiếp làm. Nhiều công trình

đáu thầu một cách hình thức mà thực tế bên trong đã có những thoã thuận ngầm naò

đó để “ dành” cho một đơn vị, công ty “thân quen”. Điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến

những lãng phí lớn mà vẫn được thanh toán một cách dễ dàng, thuận lợi.

Nghiêm trọng nhất là ở khâu kiểm tra, giám sát, nghiệm thu thanh toán.

Khâu nghiệm thu thanh toán lại có nhiều phù phép để kê mọi giá vật tư, tạo ra những

khối lượng xây dựng ma như diện tích trồng rừng chỉ có 100 ha thì lại khai khống lên

150 ha, chia nhau ăn từ người khai, người nghiệm thu, người duyệt chi.Cách nghiệm

thu , kiểm tra của cơ quan nghiệm thu, thanh tra lại căn cứ vào dấu mọc của cơ quan

chứng nhận giá, chứng nhận khối lượng nên diện thất thoát lan rộng tới các cá nhân có

liên quan. Và dường như sự tham nhũng này không chỉ xuất hiện ở những công trình

kinh phí Nhà nước mà cả những công trình của tư nhân lớn. Chẳng hạn , một công ty

tư nhân lớn xây dựng nhà máy. Họ đâu trực tiếp quản lý dự án mà phải cắt cử cá nhân

nào đó quản lý. Anh quản lý này lại có thể thông đồng, tham nhũng bởi anh ta cũng

không phải là chủ thực sự của công trình. Tham nhũng cũng như vi trùng, phòng

chống được thì không ốm, chứ nó luôn sẵn sàng tấn công lúc nào. Các nước cũng có

tham nhũng nhưng không đến mức tràn lan như mình thế này. Hễ tỉnh nào, huyện nào,

bộ ngành nào... được cấp vốn XDCB, đã lại có những anh chàng ngồi chổm chổm tính

xem liệu mình “ chích” được bao nhiêu khoản này. Nói thế để thấy được được tính

nghiêm trọng trong chất lượng xây dựng ở nước ta hiện nay.

Thứ nhất đánh tráo vật liệu. Nhìn bề ngoài như nhau nhưng chất lượng giá cả khác xa

nhau. Thứ hai, người ta hay ăn bớt, ăn xén vật liệu công trình ngầm, công trình khuất:

móng, đường ống, cốt thép nằm trong bê tông... làm xong không có cách nào , không

phương tiện máy móc nào kiểm tra được. Cho nên chúng ta cần có một quy trình kiểm

tra, nghiệm thu rất nghiêm ngặt những hạng mục này trước khi nó được làm khuất.

Bây giờ nhiều khi hay xuê xoa với nhau, anh giám cứ gật đầu ào ào, đến lúc lấp lại thì

nào ai biết. Chỉ đến khi công trình bị lún, gặp sự cố, “ cháy nhà mới lòi mặt chuột”.

Trong xây dựng đường sá cũng dễ phát sinh nhiều tiêu cực. Yêu cầu đá dày 20cm,

nhưng nó dày có 18cm thì làm sao mà biết được. Nhưng tính tiền lại khác. Mà đường

có kém đến đâu cũng không hỏng nga, phải vài ba tháng sau mới hỏng. Tương tự như

làm cầu chẳng hạn, anh không cần sơn chống gĩ hoặc sơn qua loa, nhưng rồi nó cũng

không xuống cấp ngay, dăm ba nắmau mới xuống cấp. Vấn đề đáng lo ngại hiệnn nay

chính là tình trrạng giảm tuổi thọ của các công trình. Về “quan hệ” bên A và bên B khi

thanh toán những khối lượng phát sinh thêm cần lưu ý bên B bao giờ cũng khai tăng

lên, vì vậy nếu ban quản lý công trình (bên A) thiếu kinh nghiệm hoặc giám sát thi

công không chặt chẻ sẽ dễ dàng chấp nhận khối lượng bên B khai một cách thiếu căn

cứ, thiếu cơ sở khoa học. Do đó, cũng làm tăng giá thành xây dựng, tăng vốn đầu tư.

Nhiều công trình có sự thông đồng A, B, đã có hình ảnh một công trình : nghiệm thu

trước ti công sau.

Chúng ta đang thiếu vốn đầu tư để phát triển KT-XH phấn đấu hạ giá thành, tiết kiệm

vốn đầu tư xây dựng là yêu cầu cấp bách khách quan của nền kinh tế. Để thực hiện

nhiệm vụ này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều thành phần kinh tế từ khi bát

đầu chuẩn bị đầu tư đến việc thi công xây lắp công trình. Có như vậy mới sử dụng

đồng vốn XDCB có hiệu quả kinh tế cao nhất, góp phần làm cho “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng văn minh”.

Chương III. Một số giải pháp chống lãng phí thất thoát vốn đầu tư XDCB.

I. Chủ trương và công tác kế hoạch hoá.

1. Chủ trương đầu tư.

Vì sự lãng phí đáng báo động của lĩnh vực XDCB đã trình bày ở trên, trong phần này

xin đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế và giảm thiểu mức độ lãng phí trong đầu tư

XDCB.

Một dự án đầu tư XDCB dều trải qua 3 giai đoạn: Quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư,

vận hành kết quả đầu tư. Nừu xãy ra sai sót trong bất kỳ giai đoạn nào cũng có thể dẫn

đến sự lãng phí, nghiêm trọng nhất là sai sót trong ra quyết định đầu tư. Thực tế đã

chứng minh điều này khi ta đầu tư vào hai ngành mía đường và xi măng, cũng như các

công trình cơ sở hạ tầng. Việc đưa ra quyết định đầu tư nhiều khi còn mang tính chủ

quan, nặng về hình thức, thiên về lợi ích trước mắt mà không quan tâm tính toán đầy

đủ khả năng sinh lời, hoàn vốn của dự án, không tính đến lâu dài. Về vấn đề này một

số giải pháp đưa ra là:

- Khi ra các quyết định về chủ trương đầu tư (quyết định đầu tư, duyệt thiết kế, tổng dự

toán, dự toán chi tiết...) cần quy định cụ thẻ yêu cầu đối với từng loại quyết định và

khẳng định trách nhiệm về thiết kế và luật pháp của người được quyền ký các quyết

định quản lý đó trong trường hợp để vốn đầu tư bị thất thoát, lãng phí.

- Trước hết, khi nghiên cứu các dự án khả thi, cần cân nhắc tính toán so sánh nhiều

phương án để tìm được dự án có hiệu quả kinh tế nhất. Ngay trong quá trình lập dự án,

đã phải khống chế, ước tính được giá thành xây dựng một cách tương đối hợp lý. Do

đó, khi lập dự án khả thi phải căn cứ quy hoạch chiến lược, quy hoạch tổng thể của

từng địa phương, từng vùng, điều kiện KT-XH ở nơi sẽ xây dựng công trình. Nội dung

dự án khả thi phải nêu được sự cần thiết, những căn cứ để xác định phải đầu tư xây

dựng, hình thức đầu tư, các phương án lựa chọn địa điểm cụ thể, phương án lựa chôn

công nghệ, giải pháp xây dựng, những khó khăn thuận lợi khi xây dựng công trình,

nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, nhân lực trong quá trình khai thác,

vận hành sau này, giá thành sản phẩm công trình khi đi vào khai thác ổn định, khả

năng tiêu thụ sản phẩm, dự báo phát triển tương lai gần.

Hai là, về thiết kế công trình, các tài liệu thăm dò, khảo sát địa chất thuỷ văn và những

tài liệu khác có liên quan để thiết kế xây dựng công trình phải do tổ chức có chuyên

môn có đủ tư cách pháp nhân lập theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng của nhà nước

ban hành. Nếu áp dụng các quy chuẩn tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng của nước ngoài,

phải có thoả thuận của Bộ xây dựng.

Ba là, về thi công xây lắp, sau khi có thiết kế, dự toán được duyệt, thì tổ chức đấu thầu

thi công xây lắp công trình.

Công trình hạng mục công trình, dự án đầu tư khi hoàn thành phải được quyết toán

vốn vốn đàu tư theo đúng quy định. Trong thời hạn công trình đưpợc thựchiện trong

nhiều năm thì hàng năm phải quyết toán vốn xây dựng phần khối lượng dã thực hiện.

2. Công tác kế hoạch hoá.

Để khắc phục tình trạng trong công tác kế hoạch hoá, cấn sớm được hoàn thiện theo

hướng:

- Xây dựng kế họch đầu tư dài hạn (5năm) theo ngánh, vùng, lãnh thổ. Trên cơ sở đó

bố trí thích đáng vốn đầu tư cho công tác chuẩn bị đầu tư, đảm bảo công tác này đi

trước một bước để làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư hàng năm.

Đối với kế hoạch đầu tư hàng năm, chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc

chắn khả năng nguồn vốn và theo nguyên tắc sau:

·Thủ tướng chính phủ giao tổng mức vốn đầu tư và danh mục các dự án đầu tư nhóm

A, các mục tiêu, giá trị, hiện vật, thời gian.

·Những dự án còn lại giao Bộ trưởng, chủ tịch UBND thành phố triển khai trong

khuôn khổ tổng mức vốn đầu tư đã được nhà nước giao song phải đảm bảo: Thực hiện

đúng tiến độ, mục tiêu hiện vật, giá trị, thời gian. Những dự án có mức vốn 3 tỷ đồng

trở xuống chỉ được bbố trí trong một năm kế hoạch, từ 2-3 tỷ đồng tối đa không quá 2

năm kế hoạch ; Quy định số lượng dự án tối đa không được phép vượt quá tuỳ theo

mức vốn giao cho các ngành các ddịa phương.

- Nhằm khắc phục tình trạng dàn trải ngân sách gây nên lãng phí, không hiệu quả,

trong năm 2002, Bộ tài chính đã yêu cầu các chủ đầu tư rà soát lại danh mục dự án.

Trước hết ưu tiên tạm ứng và thanh toán vốn ngay từ đầu năm cho các dự án xây dựng,

tu bổ các công trình đê điều thuỷ lợi, phòng chống thiên tai,... Những dự án không

thực hiện đúng tiến độ phải điều chỉnh chuyển vốn cho những dự án có tiến độ triển

khai nhanh, chấm dứt tình trạng kéo dài thời gian thanh toán vốn. Không xữ lý bổ sung

vốn cho những dự án vượt dự toán và bổ sung các nghiệp vụ chi XDCB ngoài kế

hoạch”.

II. Khắc phục tồn tại trong đấu thầu.

- Khi tổ chức đấu thầu và xét trúng thầu phải căn cứ “ quy chế đấu thầu xây dựng”,

thật sự khách quan, công khai mở thầu thì mới bảo đảm ý nghĩa của nó, đồng thời cải

tiến khâu thủ tục gọn nhẹ, phải quy định trách nhiệm và quyền hạn rỏ ràng, cụ thể ( kể

cả trách nhiệm kinh tế trước pháp luật) của chủ đầu tư và cơ quan chủ quản đầu tư phải

thực hiện đúng trình tự quy định, làm tốt công tác chuẩn bị đấu thầu, thiết kế dự toán,

xây dựng giá chuẩn, phải xác định đúng giá trần để làm cơ sở cho việc xét chọn giá

trúng thầu. Mặt khác, chấn chỉnh lại lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung

ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm bảo đảm khả năng tham gia đấu thầu của

các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình.

1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu.

1.1. Xây dựng và hoàn thiện quy chế đấu thầu.

- Rà soát lại toàn bộ các quy định đấu thầu của các Bộ ngành , địa phương, cơ sở và

nếu mâu thuẩn với quy chế đấu thầu thì phải huỷ bỏ ngay.

- Bộ KH-ĐT chủ trì lấy ý kiến của các bộ ngành địa phươngđể nhanh chóng ban hành

thông tư hướng dẫn cho quy chế mới này.

- Các Bộ, ngành, địa phương nhanh chóng tổ chức hướng dẫn thực hiện trên cơ sở các

đặc điểm, tình hình của mình cùng với các quy định hiện hành sao cho phù hợp với các

đặc thù của đơn vị mình.

- Bộ KH-ĐT theo dõi sát sao tình thực hiện quy chế mới này nhằm sớm phát hiẹn các

vấn đề tồn tại để kịp thời khắc phục thông qua việc đề nghị thủ tướng chính phủ xem

xét sữa đổi cấp bách các nội dung còn tồn tại do quy chế đấu thầu gây ra.

- Nhằm khẳng định tầm quan trọng của công tác đấu thầu ở nước ta theo hướng “ luật

hoá” các hoạt động đấu thầu. Bộ kế hoạch đầu tư cần nghien cứu hoàn thiện quy chế

đấu thầu trở thành pháp lệnh đấu thầu có giá trị pháp lý cao hơn.

- Chính phủ cần cho ra đời một loại một loại công báo về đấu thầu để yêu cầu các chủ

đầu tư phải công khai các dự án, các gói thầu, tạo điều kiện thuận lợicho các nhà

thầucó thể dễ dàng nắm bắt được thông tin cần thiết về các cuộc đấu thầu .

1.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ đấu thầu:

Về lâu dài phải thành lập một trung tâm đào tạo cán bộ về lĩnh vực đấu thầu một cách

thống nhất trong phạm vi cả nước. Sớm đưa đấu thầu trở thành một bộ môn chuyên

ngành trong các trường đại học và cao đẳng có thể tạo ra một đội ngũ cán bộ đấu thầu

trẻ hùng hậu, có khả năng phát triển hơn nữa.

III. Thẩm định tài chính- giải pháp trong việc cấp phát vốn.

Quản lý tài chính nhà nước đối với hoạt động đầu tư XDCB có nhiều nội dung, song

đáng quan tâm nhất là công tác kiểm tra thanh tra, thẩm định tài chính ở các khâu:

Trước, trong, sau khi kết thúc quá trình cấp phát, đưa dự án vào khai thác, sử dụng.

- Thẩm định trước khi cấp phát:

· Thẩm định ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư: là tham gia đánh giá, nhận xét các nội dung

kinh tế, tài chính củadự án: vốn và nguồn vốn đầu tư, khả năng hoàn vốn, hiệu quả

kinh tế tài chính của dự án, các đóng góp của dự án cho ngân sách, tác động của dự án

dến KT-XH trong khu vực, vùng ngành kinh tế... điều đó nhằm đánh giá tính khả thi

hoặc không khả thi về phương án tài chính của dự án, khâu thẩm định này tuy chỉ là ý

kieens tham gia song lại có ý nghĩa chiến lược, quýet đimnhj về mặtk chủ trương. Do

vậy, các cơ quan tài chính làm tốt công tác này là góp phần quan trọng vào công tác

quản lý vĩ mô đối với hoạy động đầu tư của ngành tài chính.

· Thẩm định dự toán: Là kiểm tra đánh gia tính đúng đắn của gía dự toán theo tiên

lượng kinh tế kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo định mức gía cả.

- Thẩm định tài chính trong quá trình cấp phát vốn thanh toán.

Trong quá trình thực hiện dự án, việc cấp phát thanh toán vốn dầu tư được thực hiện

theo tiến độ khối lượng thực hiện. Khối lượng thực hiện được cấp phát thanh toán là

giá trị khối lượng thực hiện đủ các điều kiện như: Khối lượng đó phải có trong thiết

kế, trong tổng dự toán, dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, có trong kế hoạch

đâù tư năm đã được thông báo; Có hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận

thầu đủ tư cách pháp nhân: Khối lượng thực hiện phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, quy

định kỹ thuật quy định trong thiết kế, được hai bên A-B nghiệm thu có xác nhận của

cơ quan thiết kế; đúng định mức Nhà nước quy định và giá cả do sở tài chính vật giá

thông báo trong từng thời kỳ. Thẩm định tài chinhd\s trong quá trình cấp phát là thẩm

định phiếu giá thanh toán trong quá trình thực hiện dự án, thực chất là kiểm tra để xác

định tính đúng đắn của giá trị khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán và giá cả

được công bố trong thời kỳ thanh toán cùng các phụ phí khác theo đúng quy định của

chế độ Nhà nước.

- Thẩm định tài chính sau khi dự án hoàn thành, được nghiệm thu đưa vào sử dụng.

Là thẩm định trước quyết toán vốn đầu tư hoàn thành để giao vốn cho đơn vị sử dụng.

Giá trị vốn đâù tư hoàn thành của dự án không phải giá trị cộng dồn luỹ tiến vốn đầu

tư được cấp phát thanh toán từ khi triển khai xây dựng dự án đến hoàn thành xong

công việc xây dựng dự án. Cơ sở để thẩm định báo cáo quyết toán dự án hoàn thành là

khối lượng thực hiện các loại công việc theo bản vẽ thi công, theo định mức đơn giá và

các chế độ khác của Nhà nước quy định, theo các cơ sở pháp lý chứng minh tính hợp

lý, hợp lệ của nội dung báo cáo quyết toán dự án hoàn thành.

Nhìn chung, hầu hết các cụ, chi cục đầu tư phát triển đã làm tốt chức năng quản lý nhà

nước về mặt tìa chính đối với đầu tư XDCB, không những đã góp phần tích cực trong

việc thực hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực

trong lĩnh vực XDCB mà còn có tác dụng thúc đẩy các cơ quan chứ năng, các cấp có

thẩm quyền thẩm tra phê duyệt các nội dung về kinh tế, tài chính đối với dự án đầu tư

theo đúng định mức, đơn giá và chế độ của nhà nước.

- Trong lĩnh vực ưu đẫi tín dụng thì một vấn đề đang được nhiều chuyên gia, nhiều cơ

quan quản lý quan tâm đó là chính phủ cần cho tách nhiệm vụ tín dụng ưu đãi của Nhà

nước ra khỏi hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhằm giảm sự can

thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, tạo điều

kiện cho các ngân hàng tăng tính tự chủ, tập trung vào nhiệm vụ kinh doanh của mình.

Trên cơ sở đó, cấn sớm thành lập “ngân hàng chính sách” với chức năng mục tiêu hoạt

động không vì lợi nhuận, phục vụ các đối tượng chính sách; các lĩnh vực và chương

trình kinh tế trọng điểm của Quốc Gia nhằm thực hiện chính sácg phát triển kinh tế xã

hội.

Cần hoàn thiện và đổi mới cơ chế tín dụng ưu đãi của nhà nước trên các nội dung:

Công tác kế hoạch hoá tín dụng ưu đãi cần phải được xác định rỏ nguồn vốn để cân

đối cho nhu câù tín dụng ưu đãi của Nhà nước; Phạm vi ưu đãi của tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước nên được địng hướng lại và tập trung theo hướng: Đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng- kỹ thuật; các ngành công nghiệp cao; các ngành sử dụng nhiều

lao động và áp dụng công nghệ tiến bộ... như đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ

ra. Với định hướng này, thì đối tượng hưởng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,

không nên dàn trải mà cần tập trung vào những nhóm có vai trò và vị trí quan trọng

đối với nền kinh tế như những ngành phát triển kết cấu hạ tầng- kỹ thuật của đất nước;

những ngành sản xuất, chế biến sử dụng nhiều lao động phát triển kinh tế nông thôn;

những ngành công nghệ cao...

V. Các giải pháp cho tình hình thanh tra kiểm tra.

1. Kiện toàn tổ chức ban quản lý dự án.

Qua thực trạng hoạt động kém hiệu quả của ban quản lý dự án xin đưa ra một số giải

pháp:

- Tổ chức lại ban quản lý dự án đảm bảo chủ đầu tư thực sự gắn trách nhiệm trong quá

trình sử dụng vốn đầu tư, quản lý tài sản khi dự án kết thúc đưa vào sử dụng.

- Quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ của chức danh chủ đầu tư.

- Xác định rõ trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư đối với các hoạt động đầu tư và xây

dựng từ khâu đầu dến khâu cuối.

2. Chống tiêu cực, tham nhũng là nhiệm vụ tiên quyết để nâng cao chất lượng

công trình.

Có thể nói, lãng phí và tham nhũng là hai căn bệnh liên quan chặt chẽ với nhau, ở đâu

có lãng phí thì gần như ở đó có tham nhũng, tham ô. Bác đã từng nói “ Lãng phí và

tham nhũng tuy khác nhau ở chổ lãng phí thì không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công

trình nhưng kết quả tai hại đén tài sản Nhà nước, của tập thể thì lãng phí cũng có tội” .

Tham nhũng tham ô là bạn đồng hành của lãng phí do đó nếu chúng ta không có biện

pháp chống tham nhũng thì công cuộc chống lãng phí của chúng ta cũng khó có thể đạt

được một kết quả tốt. Nhận thức rõ điều này nên thời gian qua đảng và Nhà nước đã có

rất nhiều chủ trương và biện pháp để chống tham nhũng trong đó có pháp lệnh về

chống tham nhũng. Tuy nhiên, kết quả đạt được của công cuộc chống tham nhũng thời

gian qua cũng chỉ là bước đầu. Sở dĩ kết quả đạt được không cao vì một số lý do chủ

yếu sau:

-Xác định hành vi quá rộng nên khi áp dụng vào thực tế sẽ gây ra tình trạng chồng lấn,

tạo những kẽ hở pháp luật, hoặc là luận tội không thoả đáng.

- Không kiểm soát được “đầu vào” là nguồn gốc của các tài sản hoặc việc kiểm kê mới

chỉ thực hiện được “phần nổi của tảng băng chìm”nên không có căn cứ để diều tra,

luận tội hay đưa ra chứng cớ xác đáng.

Điều đó càng đòi hỏi chúng ta cần phải nhanh chóng có giải pháp cho vấn đề “ Quốc

nạn” này. Sau đay xin đưa ra một số giải pháp:

Thành lập tổ chức chống tham nhũng độc lập có quyền điều tra, phát hiện và truy tố

các hành vi tham nhũng. Đồng thời phải tạo ra một cơ chế giám sát chế ước lẫn nhau

giữa các cơ quan quyền lực nhà nước và tổ chức này để tránh tình trạng lạm quyền.

- Thực hiện quychế dân chủ đầy đủ và lắng nghe ý kiến phản hồi của nhân dân để từ

đó tiến hành điều tra và đưa ra những kết luận chính xác.

- Trên đây chỉ là biện pháp tình thế nhằm có các hoạt động bài trừ tệ nạn này chứ

không phải phòng ngừa.

- Hội xây dựng thường nhấn mạnh “ quan điểm mang tính cách mạng” trong quản lý

chất lượng công trình là lấy phòng ngừa là chính, phát hiện sớm khiếm khuyết, sữa

chữa nhanh, kiểm tra, giám sát để phát hiện sai sót, tham nhũng cũng rất cần thiết,

nhưng quan trọng hơn là ngăn ngừa để sai sót không xãy ra. Có như vậy mới giảm

dược chi phí , hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo tiến độ vì không phải sữa đi làm lại tốn

kém, lãng phí thời gian. Nếu cứ để làm đến đâu giám sát đến đó người ta chỉ cần qua

mắt anh giám sát là xong. Phòng cháy hơn chữa cháy, biện pháp phòng ngừa hiệu quả

hiện nay là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, người sản xuất phải tự kiểm tra

công việc của mình, khâu nọ kiểm tra khâu kia. Nhưng chỉ kiểm tra công nghệ thiết bị

mà không kiẻm tra chất lượng nguyyen liệu người ta đem đến là không được.

- Cần chú trọng tới tính chuyên nghiệp của kỹ sư bởi nhiều người mang danh kỹ sư

nhưng chưa lành nghề kỹ sư. Muốn nâng cao tính nhà nghề của kỹ sư cần 3 điều kiện:

· Có kiến thức cơ bản của nhà trường.

· Thường xuyên cập nhật thông tin, chính sách, trau dồi kỹ năng nghiệp vụ.

Có đạo đức nghề nghiệp.

Một tin mừng cho chúng ta là, được sự giúp đỡ của Hội kỹ sư úc ngay từ năm sau hội

xây dựng hoàn thành một đội kỹ sư chuyên nghiệp. Hy vọng rằng trong thời gian tới ,

khi người kỹ sư Việt nam chuyên nghiệp rồi, chúng ta sẽ không để xảy ra tiêu cực bởi

chung quy tất cả công việc xây dựng đều xuất phát từ người kỹ sư.

Kết luận chung .

Vốn đầu tư XDCB luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực

hiện nhiệm vụ ổn định và phát triển KT-XH, tạo những tiền đề cần thiết để đất nước

bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. việc huy động vốn cho đầu tư

đòi hỏi phải có nỗ lưc cao, nhưng việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả lại là vấn đề rất

bức xúc. Yêu cầu việc phê duyệt dự án đầu tư , giám sát thi công, quyết toán công

trình, thanh tra xử lí những sai phạm phải đúng và nghiêm minh, nhằm đảm bảo chống

thất thoát vốn đầu tư, đảm bảo chất lượng công trình và việc hoàn vốn thuận lợi. Thực

tiễn những năm qua, nhiều địa phương đã sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả tốt góp

phần không nhỏ cho phát trển đất nước. Song bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng và

quản lí vốn đầu tư XDCB còn nhiều thiếu sót làm giảm hiệu quả đầu tư, gây lãng phí

thất thoát vốn đầu tư từ khâu chẩn bị đầu tư đến khâu thanh tra kiểm tra. Khâu chuẩn

bị đầu tư kém,các quyết định đầu tư lại dựa trên những căn cứ thiếu vững chắc để vội

chuyển sang khâu thực hiện đầu tư. Đây là nguyên nhân căn bản gây nhiều tác hại nhất

về KT-XH đối với các dự án đầu tư XDCB. Điều này trái ngược với cách nghĩ cách

làm của thị trường và thông lệ quốc tế cũng như khu vực. Cụ thể là, họ thường chuẩn

bị kỹ khâu chuẩn bị đầu tư và thực hiện nhanh khâu thực hiện đầu tư.

Có thể nói rằng đi tìm những nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng

thất thoát lãng phí vốn đầu tư XDCB không phải là điều khó khăn. Tuy nhiên, vấn đề

quan trọng nhất là phải kiên quyết khắc phục, sửa chữa những bất hợp lý, những tồn

tại do các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm triển khai thực hiện gây ra.

Mục lục

Chương I-Những vấn đề chung về đầu tư XDCB.

I. Những vấn đề chung về XDCB. .................................................. 1

1.

Khái niệm ...................................................................................... 1

2. ý nghĩa của hoạt động XDCB đối với nền kinh tế. ......................... 1

3. Nội dung và đặc điểm của XDCB .................................................. 2

3.1 Nội dung của hoạt động XDCB ..................................................... 2

3.1.1. Khảo sát thiết kế ............................................................................ 2

3.1.2. Xây dựng và lắp đặt ....................................................................... 2

3.1.3. Mua sắm vật liệu, máy móc thiết bị .............................................................. 3

3.2. Đặc điểm của XDCB ..................................................................... 3

4. Sự cần thiết phải nghiên cứu sự thất thoát lãng phí vốn ................ 4

II. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư ............................................................ 5

1. Phân loại vốn đầu tư XDCB .......................................................... 6

1.1. Theo yếu tố cấu thành.................................................................... 6

1.2. Theo nguồn hình thành .................................................................. 6

1.2.1. Vốn ngân sách nhà nước ................................................................ 7

1.2.2. Vốn tín dụng ưu đãi nhà nước ....................................................... 8

1.2.3. Vốn của các DNNN ....................................................................... 9

1.2.4. Vốn từ dân cư. ............................................................................... 9

1.2.5. Vốn từ FDI .................................................................................... 9

2. Cơ cấu vốn đầu tư theo các ngành kinh tế ...................................... 10

Chương II- Thực trạng việc sử dụng vốn đầu tư xdcb ................................

I. ...................................................................................................... Chủ

trương đầu tư và công tác kế hoạch hoá ...................................................... 15

1. Chủ trương đầu tư ......................................................................... 15

2. Công tác kế hoạch hoá ................................................................... 17

II. Tình trạng đấu thầu trong xây dựng cơ bản .............................. 18

III. Thực trạng việc cấp phát vốn đầu tư XDCB .............................. 20

1. Tình hình triển khai kế hoạch ........................................................

1.1. Phân cấp quản lý vốn đầu tư ..........................................................

1.2. Tình hình triển khai .......................................................................

2. Tình hình giải ngân vốn đầu tư XDCB ..........................................

2.1. Trong những năm gần đây .............................................................

2.2.

Tình hình thanh toán vốn đầu tư ....................................................

Vốn tín dụng ưu đãi giải ngân chậm .............................................. 3.

Tình hình thanh tra kiểm tra vốn đầu tư ................................... 27 IV.

Quy chế về đầu tư XDCB bị vi phạm ........................................... 1.

Những vấn đề tồn tại ..................................................................... 2.

2.1. Vấn đề chất lượng công trình và ban quản lý dự án .......................

2.2. Tham nhũng trong XDCB ............................................................................

Chương III- Một số giảI pháp chống thất thoát, lãng phí vốn XDCB.

I. Chủ trương đầu tư và công tác kế hoạch hoá ............................ 24

Chủ trương đầu tư ......................................................................... 1.

Công tác kế hoạch hoá ................................................................... 2.

Khắc phục tồn tại trong đấu thầu ............................................... 36 II.

Thẩm định tài chính ................................................................... 38 III.

Các giải cho công tác thanh tra kiểm tra.................................... 40 IV.

Kiện toàn tổ chức các ban quản lý dự án ........................................ 1.

2. Chống tiêu cực ..............................................................................

Lời kết

TàI liệu tham khảo

1. Giáo trình kinh tế đầu tư- NXB GD- 1998

2. Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng- NXB khoa học và kỹ thuật.

3. Tạp chí xây dựng

4. Báo đầu tư

5. Tạp chí tài chính.

6. Báo ngân hàng.

7. Quản lý nhà nước.

8. Báo công nghiệp.

9. Kiểm toán.

10. Con số và sự kiện.

11. Kinh tế phát triển.

12. Giao thông vận tải.

13. Kinh tế và dự báo.