LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay đối với tín

dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba

Ðình

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, cùng với thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống

ngân hàng Việt nam đã có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc

kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, liên tiếp trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ đổ bể tín

dụng. Mà một trong những nguyên nhân chính của các vụ án này là do một số

ngân hàng thương mại đã không thực hiện đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn

tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị tài sản làm bảo đảm. Bên cạnh đó, một số

ngân hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng tài

sản bảo đảm tiền vay dưới hình thức cầm cố chỉ tồn tại trên giấy tờ, còn tài sản

đó vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép, thậm

chí có tổ chức tín dụng còn cho vay có bảo đảm bằng cả những tài sản không đủ

điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các ngân hàng lại ra sức thắt chặt các

điều kiện cho vay của mình, trong đó, chi nhánh ngân hàng công thương khu vực

Ba Ðình cũng khép bớt cánh cửa cho vay của mình, đặc biệt là đối với khách

hàng ngoài quốc doanh.

Ðối với hoạt động cho vay, cả việc nới lỏng lẫn thắt chặt quy định về bảo

đảm tiền vay đều không có hiệu quả đối với ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi

ro, bảo đảm an toàn vốn, lẫn việc nâng cao thu nhập từ hoạt động này. Vậy làm

thế nào để có thể điều hành công tác bảo đảm tiền vay một cách có hiệu quả cả

trên bình diện vĩ mô lẫn bình diện của ngân hàng? Trong quá trình thực tập tại

chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình, em nhận thấy có nhiều

vướng mắc cần quan tâm, xem xét và sớm tìm ra giải pháp để bảo đảm tiền vay

thực sự là một dấu hiệu đánh giá độ an toàn cũng như khả năng sinh lợi của

khoản cho vay ngay từ giai đoạn lựa chọn khách hàng vay. Do đó, em lựa chọn

đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay đối với

tín dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba

Ðình”.

Trên quan điểm xem xét vai trò của bảo đảm tiền vay đối với hoạt động cho

vay ngoài quốc doanh của ngân hàng từ đó có được cách nhìn đúng đắn về việc

thực hiện bảo đảm tiền vay tại chi nhánh, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay.

Chương 2: Thực trạng về công tác bảo đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài

quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình.

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác bảo

đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công

thương khu vực Ba Ðình.

CHƯƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ÐẢM TIỀN VAY

*******

1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:

1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại:

Thuật ngữ "Ngân hàng thương mại " rất quen thuộc với mọi tầng lớp dân

cư. Họ nhắc đến từ "Ngân hàng" hàng ngày, hàng giờ và không biết từ bao giờ

"Ngân hàng " đã trở nên rất gần gũi với công chúng. Khi có một khoản tiền muốn

dự trữ, họ tìm đến ngân hàng; khi một món tiền cần chuyển gấp cho một ai khác

không cùng địa bàn, họ nhờ tới ngân hàng và khi muốn cải thiện đời sống, muốn

đầu tư sản xuất kinh doanh họ coi ngân hàng như một chỗ dựa tin cậy nhất để

tìm kiếm các khoản vay.

Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu "Ngân hàng " theo đúng nghĩa của nó.

Thậm chí cho đến nay, các nhà kinh tế học vẫn đang tranh luận và đưa ra hàng

loạt các quan niệm về Ngân hàng thương mại. Có người định nghĩa Ngân hàng

thương mại dựa trên tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài

chính, có nguời quan tâm đến đối tượng hoạt động của nó. Nhưng quan niệm phổ

biến hơn cả về ngân hàng là dựa trên các dịch vụ tài chính mà nó cung cấp. Hãy

thử nhìn lại khái niệm về ngân hàng mà các nước đã đưa ra cũng như định nghĩa

mới nhất về ngân hàng.

Luật ngân hàng Pháp năm 1941 coi ngân hàng là “những xí nghiệp hay cơ

sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình

thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín

dụng hay tài chính”. Luật ngân hàng Ấn Ðộ 1950 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở

nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ đầu tư” . Những định nghĩa

giống như vậy được thiết lập dựa trên tính chất và mục đích hoạt động của ngân

hàng.

Một số khái niệm khác về ngân hàng lại được xây dựng trên cơ sở kết hợp

tính chất, mục đích với đối tượng hoạt động của ngân hàng. Ví như luật ngân

hàng Ðan Mạch năm 1930 định nghĩa ngân hàng là "những nhà băng thiết yếu

gồm các nghiệp vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại

và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp

vụ chuyển ngân và đứng ra bảo hiểm".

Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam ngân hàng là “ loại hình tổ

chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh

doanh khác có liên quan..”. Trong đó hoạt động ngân hàng được định nghĩa là

“hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên

là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ

thanh toán”.

Ngày nay, khi chức năng của các tổ chức tín dụng khác thay đổi và thâm

nhập ngày càng sâu vào các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, khái niệm ngân

hàng cũng có xu hướng thay đổi cho phù hợp. Các nhà kinh tế đã đưa ra cách tiếp

cận khái niệm ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng

cung cấp: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các

dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh

toán - thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh

doanh nào trong nền kinh tế”.

1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế:

1.2.1 Chức năng cung cấp điểm nhận tiền gửi cho các doanh nghiệp, hộ gia

đình và chính phủ.

Không ai có thể biết chắc việc kinh doanh của ngân hàng bắt đầu từ khi

nào. Nhưng lịch sử ghi nhận rằng nguồn gốc của nền công nghiệp này bắt đầu từ

một loại tài khoản của các tiệm vàng thời trung cổ. Thời kì đó, xuất phát từ mong

muốn vàng và các tài sản có giá khác của mình được an toàn, các khách hàng nhờ

các tiệm vàng giữ hộ với một chi phí nhất định. Nhưng những người thợ vàng đã

sớm khám phá ra rằng những gì mà khách hàng kí gửi tương đối ổn định. Từ đó

một người thợ vàng có đầu óc kinh doanh có thể nghĩ ra rằng, họ có thể sử dụng

khoản tiền gửi này vào mục đích có lợi cho bản thân. Vì thế, để thu hút người gửi

tiền các thương nhân này chấp nhận "giữ hộ " vàng và tài sản có giá khác mà

không tính phí, dần dà trả thêm phí cho những người kí gửi. Lúc này ngân hàng

đã thực sự thực hiện chức năng cung cấp điểm nhận tiền gửi. Ngày nay, bằng

cách cung cấp các tài sản tài chính như tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kì hạn ngân

hàng được coi là một điểm thu hút hầu như không rủi ro đối với các loại tiết kiệm

của công chúng và có thể được rút bằng ngân quỹ ngay khi có nhu cầu về tiền.

Cùng với sự ra đời của công ty bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng ngày càng phát huy

mạnh mẽ chức năng thu hút tiền gửi từ các tổ chức cũng như cá nhân.

1.2.2 Chức năng thanh toán:

Khi mở một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, tuỳ theo mục đích sử dụng,

các khách hàng có thể lựa chọn trong rất nhiều loại hình tài khoản mà ngân hàng

cung cấp. Nếu mong muốn khoản tiền nhàn rỗi có thể sinh lời, khách hàng lựa

chọn tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kì hạn. Ngược lại, nếu khách hàng

thích thú sự thuận lợi trong thanh toán, họ có thể yêu cầu được mở một tài khoản

tiền gửi thanh toán. Với các tài khoản có thể phát séc ngân hàng trở thành trung

gian trao đổi chủ yếu và mua bán hàng hoá, dịch vụ. Ðồng thời ngân hàng khẳng

định chức năng của mình trong lĩnh vực trung gian thanh toán bằng việc cung cấp

một công cụ với khả năng không hạn chế đối với việc thanh toán cho các bên thứ

ba theo yêu cầu. Ngày nay, khi hệ thống thanh toán đang nằm trong một giai

đoạn chuyển tiếp và hướng tới sử dụng rộng rãi thanh toán điện tử cũng như lưu

trữ điện tử về dữ liệu giao dịch, ngân hàng vẫn không mất đi vị trí trung tâm

trong việc tạo ra quỹ khả dụng phục vụ mua bán hàng hoá, dịch vụ. Các quỹ tự

do dịch chuyển xuyên qua mọi biên giới quốc gia, bất chấp với mọi khác biệt về

địa lý và thể chế chính trị. Bởi lẽ các ngân hàng luôn sẵn lòng thanh toán tức thì

mọi nhu cầu thanh toán phát sinh. Sở dĩ ngân hàng có thể thực hiện được chức

năng này là vì hoạt động trung gian thanh toán của ngân hàng dựa trên niềm tin

của công chúng và sự tự nguyện chấp nhận tiền gửi ngân hàng của khách hàng.

1.2.3 Chức năng tạo tiền:

Một trong những hoạt động cơ bản mà ngân hàng thực hiện ngay từ khi ra

đời là hoạt động tạo tiền dưới chiêu bài sử dụng tiền gửi của khách hàng để cấp

phát tín dụng đối với những khách hàng có nhu cầu.

Các ngân hàng nhận tiền gửi từ nhiều nguồn khác nhau. Khoản thu nhập dư

thừa sau chi tiêu được các cá nhân và hộ gia đình kí gửi ở ngân hàng hình thành

nên các tài khoản tiết kiệm, kì hạn hoặc tiền gửi thanh toán. Các doanh nghiệp

cũng vậy, họ gửi các khoản tiền thu được từ bán hàng, thu nhập từ đầu tư và các

quỹ khác vào các loại tài khoản mà ngân hàng cung cấp. Ngay cả chính phủ, các

nguồn thu từ thuế, từ phí, phạt, bán chứng khoán và các khoản thu khác nhận

được từ các thành phần kinh tế cũng nhờ ngân hàng "giữ hộ". Tất cả các khoản

tiền gửi này tượng trưng cho loại tiền gửi "sơ cấp"- là những khoản tiền gửi phát

sinh từ sự tin tưởng của khách hàng.

Khác với việc chỉ thuần tuý nhận tiền gửi sơ cấp từ khách hàng, Ngân hàng

thương mại còn có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư. Các

khoản cho vay của ngân hàng là một trong những nguồn tín dụng quan trọng nhất

của nền kinh tế, cung cấp các nguồn tài chính giúp người tiêu dùng, doanh

nghiệp và cơ quan có thể mua hàng hoá và dịch vụ ngay cả khi thu nhập và tiền

tiết kiệm của họ không đủ. Khi ngân hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp

vay thì nó tạo ra trên sổ sách một khoản tiền gửi của người đi vay. Cũng như vậy,

khi một ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các loại chứng khoán khác cho

danh mục của mình thì tiền gửi được tạo ra cho những người bán chứng khoán

này.

1.3 Cho vay –Lí do tồn tại cơ bản của một ngân hàng.

Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng, là nguồn tài trợ tiêu

dùng và đầu tư trọng yếu của các doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức Chính phủ.

Ðối với các doanh nghiệp, từ những cửa hàng bán hoa quả cho đến những nhà

kinh doanh ô tô, ngân hàng luôn là nguồn tín dụng chính giúp họ mua sắm hàng

hoá và ô tô trưng bầy trong cửa hàng. Ðồng thời, ngân hàng cũng là nguồn vốn

lưu động ngắn hạn quan trọng, hỗ trợ cho tổ chức kinh tế mua hàng tồn kho, trả

thuế hoặc trang trải một phần hay toàn bộ chi phí sửa chữa, lắp đặt…Ðể mở rộng

hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên phải tìm đến

nguồn cho vay dài hạn của ngân hàng, phục vụ mua trang thiết bị, nhà xưởng và

các tài sản cố định khác. Các tổ chức chính quyền tìm đến ngân hàng như là một

địa chỉ cấp tín dụng tin cậy khi nguồn thu về thuế không đủ thực hiện các khoản

chi tiêu. Ngay cả khi chính phủ muốn đầu tư vào một dự án đầu tư xây dựng hạ

tầng cơ sở hay thực hiện các công trình công cộng..Ngân hàng là người đầu tiên

cùng chính phủ chia sẻ ý tưởng đó. Còn với người tiêu dùng- một bộ phận quan

trọng chiếm phần đa trong nền kinh tế thì sao? Ngân hàng tài trợ trực tiếp cho

nhu cầu tiêu dùng khẩn cấp dưới hình thức các khoản vay có thể thương lượng.

Việc đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền kịp thời tạo điều kiện cho người tiêu dùng

nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt.

Nhưng nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng lại là

nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Nó là cơ sở quan trọng để thực hiện

các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển

ngân hàng. Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, ngân hàng được phép huy

động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới hình thức nhận tiền gửi

của công chúng. Như vậy trong quá trình tái sản xuất xã hội thường xuyên xuất

hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở tổ chức cá nhân này, trong khi những tổ

chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung. Hiện tượng thừa vốn

được giải quyết bằng việc hình thành nên các tài khoản tiền gửi. Còn nhu cầu về

vốn của các tổ chức và cá nhân sẽ được ngân hàng tài trợ từ những khoản tiền gửi

đó.

Việc cho vay trên cơ sở nguồn vốn huy động được giúp ngân hàng thực

hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội,

góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp và việc làm của đân cư.

Chức năng phân phối lại tiền tệ, đến lượt nó, lại góp phần bình quân hoá tỷ

suất lợi nhuận trong toàn bộ nền kinh tế. Muốn làm cho lợi nhuận của các ngành

tiến tới trạng thái bình quân, phải có sự dịch chuyển vốn từ các ngành có lợi

nhuận thấp sang các ngành có lợi nhuận cao. Và đồng thời ngành có lợi nhuận

cao sẽ lôi cuốn nguồn vốn đầu tư để sản sinh ra khối lượng hàng hoá dồi dào

hơn, do đó giá cả hàng hoá và theo đó lợi nhuận giảm. Ngành có lợi nhuận thấp

có khả năng tăng lên. Nhưng nếu chỉ có các tổ chức và các cá nhân tham gia sản

xuất kinh doanh tự vận động thì họ khó có cơ hội để tham gia đầu tư vốn vào các

ngành có lợi nhuận cao. Các khoản cho vay của ngân hàng đã góp phần đẩy

nhanh quá trình dịch chuyển vốn, là cơ sở thúc đẩy quá trình bình quân hoá tỉ

suất lợi nhuận.

Ðối với lưu thông tiền tệ, cho vay là hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ và

có vai trò quyết định- là con đường tốt nhất đưa tiền vào lưu thông. Thông qua

việc cung cấp các khoản vay ngắn hạn, ngân hàng có thể kiểm soát lượng tiền lưu

thông và đảm bảo sự phù hợp giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Ðồng

thời tín dụng cũng là khâu trung gian để ngân hàng thương mại kiểm soát lượng

tiền cung ứng thông qua việc thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ. Những

công cụ này tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng, kéo theo sự

biến động trong lượng tiền cung ứng cho lưu thông.

Thêm vào đó, những biến động trong các khoản cho vay của ngân hàng có

tác động mạnh mẽ lên lạm phát vì tiền gửi ngân hàng là một trong những thành

phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bởi công chúng. Mà những biến

động về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với sự biến động giá cả hàng hoá và

dịch vụ trong nền kinh tế.

Khi các khoản cho vay đối với các ngành kinh tế khan hiếm và chi phí cao

thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Nếu

đối với nền kinh tế, cho vay giữ một vai trò quan trọng thì đối với ngân hàng cho

vay là hoạt động có tính sống còn.

Nhìn vào bảng cân đối kế toán của ngân hàng, hẳn ai cũng phát hiện ra một

điểm khá thú vị: hầu hết tài sản có của ngân hàng là các khoản nợ về tài chính,

chứ không phải là đất đai nhà cửa hay thiết bị, máy móc như các loại hình doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ khác. Chính sự khác biệt này là lí

do tồn tại cơ bản của ngân hàng. Các doanh nghiệp phi tài chính, khi tiến hành

hoạt động sản xuất kinh doanh, phần lớn lợi nhuận của họ thu được từ việc bán

hàng hoá hay dịch vụ. Buôn bán- yêu cầu phải duy trì tồn kho thành phẩm, sản

xuất- đòi hỏi duy trì tồn kho nguyên vật liệu cũng như việc sử dụng thiết bị hiện

đại. Nhưng không phải nhà buôn hay nhà sản xuất kinh doanh nào cũng luôn sẵn

có các khoản vốn để đáp ứng tức thì mọi nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, yếu tố

đầu vào của ngân hàng lại chủ yếu là tiền, lợi nhuận của ngân hàng chi có thể có

được nếu đầu vào đó được sử dụng một cách hiệu quả. Một trong những con

đường truyền thống và phổ biến nhất dẫn ngân hàng đến với mục tiêu lợi nhuận

là tài trợ cho các nhà sản xuất, kinh doanh.

Ngân hàng tiến hành kinh doanh trên nguồn vốn huy động được từ mọi

thành phần kinh tế, nên luôn phải đáp ứng tất cả các nhu cầu rút tiền của người

gửi. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất mà các nhà quản lý phải

thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân hàng. Hoạt động đầu

tư của ngân hàng phần nào đảm nhiệm nghĩa vụ đó. Cùng với vai trò tăng cường

mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro, hoạt động đầu tư đã cùng với hoạt động cho

vay tạo ra một danh mục tài sản có khả năng sinh lời. Nhưng lịch sử ra đời của

hoạt động đầu tư đã chỉ ra rằng, đầu tư chỉ là hoạt động có tính hỗ trợ chứ không

thể thay thế được vai trò của hoạt động cho vay đối với ngân hàng.

1.4 Kinh tế ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vốn của ngân hàng:

1.4.1 Vị trí của tín dụng ngoài quốc doanh đối với hoạt động kinh doanh của

ngân hàng :

Ở những nước có nền kinh tế phát triển, khu vực ngoài quốc doanh từ lâu

đã là thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của quốc

gia. Còn ở Việt nam, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ chính thức được

hình thành sau công cuộc đổi mới nền kinh tế. Tuy ra đời muộn, nhưng khu vực

này đã sớm hoà mình vào xu thế phát triển của đất nước, đóng góp ngày càng lớn

vào GDP. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh, bên cạnh vai trò huy động

vốn cho bản thân, chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh,

mà thông qua đó, thúc đẩy hệ thống ngân hàng đổi mới và hoàn thiện các chính

sách tín dụng, thanh toán và ngoại hối. Sở dĩ kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng

giữ một vị trí quan trọng đối với hoạt động ngân hàng là vì:

Qua 10 năm tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước: 1991-1994,

1995-1997 và 1998-2000, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm hơn 50% do

giải thể, phá sản, sáp nhập, cổ phần hoá và bán lại cho tư nhân. Nhiều doanh

nghiệp Nhà nước còn tồn tại nhưng hoạt động kém hiệu quả, vốn của ngân hàng

vẫn tồn đọng trong các doanh nghiệp này. Trong khi đó, không ít các cá nhân, tổ

chức trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thâm nhập vào các thị trường mới

như công nghệ thông tin, điện tử, điện lạnh.. và đang hoạt động có hiệu quả, thu

hút một lượng lao động lớn. Như vậy, cơ cấu khách hàng giữa doanh nghiệp Nhà

nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã thay đổi và có xu hướng tiếp tục

thay đổi. Do vậy, việc dịch chuyển cơ cấu cho vay từ khu vực kinh tế quốc doanh

sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tất yếu.

Mặt khác, ngay từ khi ra đời, các khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các

doanh nghiệp Nhà nước. Cho đến nay, hầu hết các ngân hàng đã có được một

danh sách các khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước vay vốn thường xuyên tại

ngân hàng. Do đó, thị phần cho vay của các ngân hàng trong khu vực này rất khó

mở rộng. Trong khi đó, cho vay ngoài quốc doanh đang là một thị trường còn để

ngỏ, nên việc thâm nhập vào khu vực này là cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của

ngân hàng.

Tuy nhiên nỗi lo của ngân hàng khi thâm nhập vào thị trường này vẫn là lí

do chủ yếu khiến việc tiếp cận vốn của khu vực ngoài quốc doanh trở nên khó

khăn.

1.4.2 Khó khăn của ngân hàng khi thực hiện hoạt động tín dụng ngoài quốc

doanh:

Về vấn đề thông tin: Hầu hết các thành phần kinh tế ở khu vực này nhỏ và

non trẻ hơn so với các đối tác thuộc khu vực quốc doanh, và dưới con mắt của

ngân hàng có nhiều rủi ro hơn. Phát triển trong môi trường thiếu thiện cảm như

vậy, khu vực này trong một số trường hợp đã chủ ý làm các thông tin về bản thân

không rõ ràng và đặc biệt cảnh giác với việc tiết lộ thông tin cho người ngoài.

Hơn thế nữa, các ngân hàng khó hoặc không thể thu thập và xử lý các thông tin

liên quan đến đối tượng khách hàng này. Nên nhiều khi ngân hàng phải miễn

cưỡng chấp nhận các báo cáo tài chính không đáng tin cậy

Hiện nay, mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức tài chính và khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh đã không khuyến khích được khu vực này sử dụng các hệ

thống kế toán và tài chính minh bạch. Họ có thể làm cho quá trình kiểm toán khó

khăn hoặc không thể thực hiện được bằng cách không thực hiện theo hệ thống kế

toán chính thống hoặc sử dụng nhiều hệ thống sổ sách.

Về chi phí giao dịch và các yếu tố rủi ro: Việc không có hoặc thiếu thông

tin khiến khu vực này gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, không chỉ

vì họ có rủi ro và chi phí giao dịch cao mà còn vì chính sách của Nhà nước chưa

thực sự tạo điều kiện cho khu vực này vay vốn. Khi một tổ chức Nhà nước nào

đó đi vay không trả được một khoản vay, gần như Nhà nước sẽ can thiệp để ngân

hàng không phải chịu toàn bộ mất mát trong bảng cân đối tài sản của mình.

Ngược lại, khi một hãng tư nhân vay không trả được nợ, ngân hàng dược như

không trông cậy vào đâu được mà buộc phải bù lỗ từ các khoản cho vay và lợi

nhuận của mình.

Để khắc phục những vấn đề về thông tin, một tiêu chuẩn được sử dụng là

bảo đảm bằng tài sản. Điều này đặc biệt đúng đối với các công ty không có thông

tin rõ ràng, nơi mà thông thường người ta đánh giá giá trị của các tài sản cụ thể

dễ hơn việc đánh giá giá trị của dòng tiền trong tương lai.

2 BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG CỦA NGÂN

HÀNG:

2.1 Khái niệm về bảo đảm tiền vay :

Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng mọi biện pháp đối với khách

hàng để khoản vay có thể trở về với ngân hàng một cách an toàn và có lợi. Như

vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay của mình, ngân hàng phải sử dụng rất

nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện pháp được thực hiện khi lựa chọn khách

hàng vay, các biện pháp ngân hàng áp dụng trong quá trình khách hàng sử dụng

vốn vay và các biện pháp được tiến hành trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn.

Khách hàng có thể đến với ngân hàng do ý định vay vốn nảy sinh từ bản

thân nhu cầu của họ hoặc do trong quá trình tiếp xúc, các cán bộ tín dụng đã

thuyết phục được khách hàng nộp hồ sơ xin vay. Nhưng cho dù là khách hàng mà

ngân hàng lần đầu biết đến hay là do cán bộ tín dụng tìm hiểu, thì việc lựa chọn

khách hàng vẫn là khâu không thể thiếu. Ngân hàng có thể đưa ra các tiêu chí để

lựa chọn khách hàng như: năng lực của khách hàng (kể cả năng lực tài chính và

phi tài chính), phương án sử dụng vốn vay, nguồn trả nợ và mức độ sẵn sàng bảo

đảm cho các khoản vay (cả bằng tài sản và bằng dòng tiền trong tương lai).

Những biện pháp bảo đảm tiền vay trong giai đoạn này có thể bao gồm việc thẩm

định khách hàng, thẩm định dự án vay vốn và xác định những yếu tố liên quan

đến tài sản được sử dụng là tài sản bảo đảm (nếu có).

Thông thường, khi khoản vay được giải ngân, ngân hàng không hoàn toàn

để khách hàng tự do sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát của nhân viên

ngân hàng. Trong giai đoạn này, các biện pháp mà ngân hàng tiến hành để đảm

bảo rằng khoản cho vay của mình vẫn đang được sử dụng an toàn và sinh lợi là

thường xuyên kiểm tra tiến độ sử dụng vốn vay. Phòng khi khách hàng sử dụng

vốn vay sai mục đích hay vốn vay được sử dụng không có khả năng sinh lời (tức

là thấy được những dấu hiệu của rủi ro), ngân hàng có thể đưa ra những giải pháp

đưa khoản vay về đúng hướng mà ngân hàng mong muốn.

Nợ quá hạn là yếu tố mà không một ngân hàng nào muốn gánh chịu, thế

nhưng như đã nói, rủi ro là yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người,

thậm chí nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Vì vậy, khi phát sinh nợ quá hạn, ngân

hàng cũng phải tiến hành những biện pháp để thu hồi nợ, hạn chế những tổn thất

do khoản vay đem lại, hay phần nào bảo đảm an toàn cho các khoản cho vay đó.

Như vậy, nói đến bảo đảm tiền vay là nói đến rất nhiều biện pháp, bảo đảm

tiền vay tồn tại trong bất kì khâu nào trong quá trình cho vay, vì thế cho nên khi

cung ứng một khoản vay, ngân hàng không nên coi nhẹ bất kì một biện pháp nào

để bảo đảm tiền vay. Nhưng, trong phạm vi của đề tài này, em chỉ đi sâu vào việc

tìm hiểu những hoạt động của ngân hàng nhằm đưa ra những biện pháp để lựa

chọn khách hàng vay. Phương châm kinh doanh của người Nhật có câu “làm

đúng ngay từ đầu” nghĩa là nếu ngay từ lúc bắt đầu kinh doanh (với ngân hàng là

bắt đầu một khoản vay), việc xác định đúng hướng, làm tốt những việc cần làm

(với ngân hàng là lựa chọn đối tượng cho vay) có thể giúp nhà kinh doanh hạn

chế đến mức tối đa rủi ro có thể phát sinh. Và theo đó, khi có bất trắc xảy ra

ngoài dự kiến thì họ vẫn có thể chủ động đối phó với tình huống mới, chứ không

phải quan tâm đến việc sửa chữa sai lầm nữa. Chính vì lẽ đó, những phần tiếp

theo của đề tài này sẽ chỉ tập trung vào các biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi

cho vay.

Thực chất đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp

lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay. Có quan điểm cho

rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách hàng vay có tài sản hữu hình để

đối ứng với món vay của mình. Song thực tế chứng minh một khoản vay nếu chỉ

được đảm bảo bằng tài sản hữu hình thì đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn.

Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có

tính khả mại, hoặc về một lý do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào

tài sản.

Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó

không chỉ là tài sản có giá trị thị trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn tất cả, uy

tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng nhất

trong thực hiện bảo đảm tiền vay .

2.2 Sự cần thiết có sự bảo đảm đối với khoản cho vay của ngân hàng.

Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các định chế

tài chính. Ðây không chỉ là nguồn sử dụng vốn lớn nhất, mà còn là nguồn thu

nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lời. Hơn nữa, Ngân hàng là một loại

hình tài chính trung gian - vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò của

người cho vay. Với tư cách là người cho vay, lợi ích của ngân hàng chịu tác động

rất lớn từ hoạt động sản suất kinh doanh của người vay. Ðến lượt nó, những mất

mát do hoạt động cho vay gây ra lại có thể làm phương hại đến an toàn của

nguồn vốn.Vậy trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải đối mặt với những rủi

ro gì và những rủi ro nào là lý do cơ bản buộc ngân hàng phải quản lý khoản vay

hiệu quả? Người ta cho rằng rủi ro đối với một nhà ngân hàng nghĩa là những bất

trắc có thể xảy ra liên quan đến một vài sự kiện. Thông thường ngân hàng phải

đối mặt với năm loại rủi ro chủ yếu sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro

thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Trong đó, rủi ro tín dụng được quan tâm

đến nhiều hơn cả, vì nó là loại rủi ro gắn liền với khách hàng vay - yếu tố khó

kiểm soát đối với ngân hàng.

 Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của khách hàng.

Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro luôn luôn xảy ra. Dù muốn hay không

rủi ro vẫn là sự thách đố đối với hoạt động của con người. Theo Aristotes thì con

đường tiến tới thành công trong sản xuất kinh doanh chứa đựng rất nhiều yếu tố

mới lạ, không những ngoài dự kiến của con người mà cả ngoài nhận thức của họ

nữa. Do vậy, kết quả kinh doanh không bao giờ có độ chắc chắn như mong đợi

và rủi ro là một yếu tố khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mà

nguồn sống của ngân hàng lại dựa vào kết quả của hoạt động sản xuất kinh

doanh, nên giữa rủi ro tín dụng và rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của

khách hàng có mối quan hệ nhân quả. Mối quan hệ đó được thể hiện trên những

khía cạnh sau:

 Sản phẩm của hoạt động tín dụng ngân hàng là sản phẩm gián tiếp thoả

mãn nhu cầu của xã hội về hàng hoá, dịch vụ. Khi sử dụng các sản phẩm trực tiếp

các chủ vay vốn ngân hàng đã được hưởng sản phẩm gián tiếp phụ thuộc vào

chất lượng sử dụng các sản phẩm trực tiếp. Và do dó, khi việc sử dụng các sản

phẩm trực tiếp có bất trắc hay rủi ro phát sinh thì ngân hàng cũng phải gánh chiụ

rủi ro trong cho vay, theo đó chất lượng tín dụng cũng suy giảm.

 Quan hệ tín dụng hình thành trên cơ sở có hoàn trả. Trong quan hệ tín

dụng, ngân hàng là người cho vay - người chủ sở hữu khoản vốn vay, còn bên kia

là khách hàng vay, người được nhận uỷ quyền sử dụng vốn của ngân hàng trong

một thời gian nhất định. Vậy khi thời hạn vay kết thúc, khách hàng có trách

nhiệm hoàn trả đủ cả gốc lẫn lãi. Việc hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn là điều

kiện tiên quyết đối với khách hàng vay. Nhưng như đã nói, rủi ro không loại trừ

ai, nhất là trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nên bất kì lúc nào khách hàng

vay cũng có thể gặp phải sự chậm chễ trong tiến độ hoạt động sản xuất kinh

doanh hay trong việc thu hồi các khoản phải thu của các đối tác. Nếu những

trường hợp đó xảy ra, ngân hàng khó có thể thu hồi được khoản nợ đủ và đúng

hạn.

 Cho vay là một loại hình sản phẩm cơ bản mà ngân hàng cung

cấp.Trong nền kinh tế hàng hoá, một sản phẩm được coi là hàng hoá nếu nó được

tạo ra để phục vụ mục đích trao đổi, và dĩ nhiên để có thể trao đổi được, hàng hoá

phải có "giá cả". Các khoản vay của ngân hàng cũng vậy, khi kí kết một hợp

đồng vay, ngân hàng và khách hàng luôn thoả thuận "giá cả" của khoản vay-hay

còn gọi là lãi suất cho vay. Mức tiền lãi mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào số

lượng tiền vay, thời hạn vay cũng như tình hình cung ứng vốn trên thị trường.

Nguồn trả các loại lãi vay cho ngân hàng được doanh nghiệp trích từ kết quả hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình. Người tiêu dùng trích từ thu nhập và cũng

như vậy chính phủ trích từ các khoản, phí, lệ phí. Khi hoạt động kinh doanh

không thuận lợi, khi tình hình thu nhập của cá nhân suy giảm do sự xuống dốc

của nền kinh tế, hay khi chính phủ không vận hành chính sách thuế một cách

hiệu quả…thì khả năng trả lãi vay của khách hàng giảm sút. Kết quả là thu nhập

của ngân hàng không đạt được như dự tính.

 Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức của khách hàng

vay.

Tín dụng theo nghĩa Hán-Việt có nghĩa là việc sử dụng dựa trên cơ sở có sự

tin tưởng. Do vậy, quan hệ tín dụng là quan hệ dựa trên cơ sở lòng tin. Niềm tin

mà ngân hàng đặt vào mỗi khách hàng vay chính là uy tín, là khả năng trả nợ và

là đạo đức của khách hàng vay. Khi khoản vay được chuyển cho người vay sử

dụng, ngân hàng khó có thể kiểm soát tuyệt đối đối với khoản vay đó. Những

cam kết giữa ngân hàng và khách hàng về sử dụng tiền vay đúng mục đích và

theo đúng kế hoạch mà hai bên đã lập ra có được thực hiện hay không phần lớn

phụ thuộc vào phẩm chất của người vay. Cho dù có kiểm soát chặt chẽ đến đâu,

ngân hàng cũng không đủ thời gian để theo dõi tỉ mỉ việc sử dụng vốn vay của

khách hàng. Và như vậy, ngân hàng phải trông chờ vào tư cách đạo đức của

nguời vay. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay vào dự án có khả năng sinh lời cao,

nhưng lại kém an toàn dưới con mắt của nhà ngân hàng thì chính sự phản trắc

của người vay là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro tín dụng .

Như vậy, rủi ro tín dụng luôn gắn liền với rủi ro từ phía khách hàng vay.

Ngân hàng không thể nắm bắt được những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt

động sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro xuất phát từ việc cố ý sử dụng tiền vay

trái mục đích của người vay. Trong lý thuyết ta thường nói, với tư cách là người

cho vay, ngân hàng giữ thế chủ động trong lựa chọn khách hàng vay. Nhưng khi

vốn vay nằm trong tay các nhà sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, thì họ không còn

hoàn toàn nắm quyền chủ động. Ngược lại, với tư cách là người "đi vay" trong

hoạt động huy động vốn ngân hàng luôn ở thế bị động. Vì vậy, khi có rủi ro từ

phía khách hàng , ngân hàng ở không thể hoàn toàn chủ động được tình thế. Ðó

là lí do đầu tiên ngân hàng buộc khách hàng phải có sự bảo đảm đối với khoản

tiền vay của mình.

2.3 Ý nghĩa của bảo đảm tiền vay đối với các đối tượng tham gia quan hệ vay

vốn

Người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Có người

quan niệm, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên

lĩnh vực tiền tệ. Đúng vậy, trên quan điểm kinh tế vi mô, ngân hàng đích thực là

một doanh nghiệp vì mục tiêu của nó là tối đa hoá giá trị tài sản của mình. Tuy

nhiên, ngân hàng lại được biết đến nhiều hơn cả dưới tên gọi “ tổ chức tài chính

trung gian”. Các cá nhân, tổ chức hay chính phủ gửi tiền vào ngân hàng vì tin

tưởng rằng khoản tiền gửi của mình không những được bảo toàn mà còn có khả

năng sinh sôi nảy nở. Đồng thời, họ cũng muốn nhận được các khoản vay để thỏa

mãn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng. Vậy, với tư cách là một

trung gian, ngân hàng là người gánh chịu nhiều rủi ro nhất từ phía khách hàng

vay cũng như chịu nhiều trách nhiệm nhất trước người kí gửi. Với lí do đó, ngân

hàng luôn yêu cầu các khách hàng vay phải tôn trọng nguyên tắc cho vay có bảo

đảm. Việc bảo đảm tiền vay có những ý nghĩa nhất định đối với ngân hàng,

khách hàng và với cả nền kinh tế.

2.3.1 Đối với ngân hàng:

Bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế giúp ngân hàng

có thể thu hồi khoản tiền vay. Xét về mặt kinh tế, ngân hàng quan tâm đến khả

năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của người vay. Các cán bộ tín dụng thường phải

trả lời câu hỏi liệu khách hàng có khả năng trả nợ không thông qua việc xem xét

6 khía cạnh của một đơn xin vay như: tính cách, năng lực, tài sản thế chấp, dòng

tiền mặt, điều kiện và sự kiểm soát. Đối tượng vay vốn của ngân hàng rất đa

dạng, nên các điều kiện về bảo đảm tiền vay đối với mỗi loại khách hàng cũng

khác nhau. Dựa vào tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay, lợi tức

dự tính có thể thu hồi được trong tương lai, ngân hàng quyết định cho vay có bảo

đảm bằng tài sản hay không có bảo đảm bằng tài sản.

Những công ty có chính sách quản lý hiệu quả, có sản phẩm và các dịch vụ

được thị trường sẵn sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và với một

tình hình tài chính vững mạnh hay những cá nhân có nhà riêng, có công ăn việc

làm ổn định, có uy tín trong thanh toán các khoản nợ cũ là những khách hàng mà

bất kì ngân hàng nào cũng mong muốn và cạnh tranh để thu hút . Đối với tổ chức

kinh tế và các cá nhân này, ngân hàng sẵn sàng chấp nhận cho vay không cần có

sự bảo đảm bằng tài sản. Vì chính uy tín, tiềm lực tài chính cũng như dự án khả

thi của những khách hàng là sự bảo đảm chắc chắn nhất đối với khoản tiền vay.

Ngân hàng không những có khả năng thu hồi vốn và lãi vay mà còn có thể thiết

lập được mối quan hệ làm ăn lâu dài với những khách hàng đó. Tuy nhiên, không

phải doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể thoả mãn được những điều kiện kể

trên. Mà ngân hàng lại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ,

nó luôn phải đáp ứng tối đa nhu cầu vốn có thể của nền kinh tế. Trong môi

trường cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng không được phép từ chối bất kì một

khoản vay nào trừ phi độ rủi ro của khoản vay đó vượt quá khả năng cho phép.

Vì vậy, bên cạnh những khách hàng vay không kèm theo đòi hỏi về bảo đảm

bằng tài sản, ngân hàng luôn luôn phải tìm kiếm những khách hàng không có đủ

những yếu tố kể trên, nhưng bù lại, họ chấp nhận bảo đảm khoản vay của mình

bằng tài sản mà ngân hàng lựa chọn.

Sự bảo đảm bằng tài sản là tuyến phòng thủ thứ hai giúp ngân hàng có thể

thu hồi nợ vay. Một khi các cá nhân hay tổ chức vay vốn không muốn hoặc

không thể trả nợ vay khi đáo hạn, các tài sản sẽ trở thành nguồn thu bù đắp cho

những mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu. Về mặt pháp lý, bằng việc nắm giữ

các tài sản này, ngân hàng là người có quyền hợp pháp trong việc phát mại tài

sản, và được xếp thứ tự ưu tiên về tài sản so với các chủ nợ khác cũng như chủ

nhân của tài sản đó.

Như vậy, với yêu cầu bảo đảm tiền vay, ngân hàng sẽ có đầy đủ quyền hạn

để thu hồi nợ vay đối với bất kì khách hàng nào, dù là khách hàng có uy tín hay

không có uy tín, kế hoạch sử dụng vốn vay hoàn hảo hay không hoàn hảo.

Như đã đề cập ở trên, ngân hàng không nên từ chối bất kì khoản vay nào

ngoại trừ những khoản vay đó có mức rủi ro mà ngân hàng không thể chấp nhận

được. Nhưng câu hỏi đặt ra là những khoản vay nào có độ rủi ro dao động trong

giới hạn cho phép. Để giải đáp câu hỏi đó, các cán bộ tín dụng phải nhờ đến khả

năng phân tích tín dụng của chính mình. Xét từ góc độ này, bảo đảm tiền vay

vừa có tác dụng nâng cao chất lượng thẩm định dự án (đối với những khoản vay

không có bảo đảm bằng tài sản), đồng thời bảo vệ ngân hàng khỏi các sai lầm

trong quá trình thẩm định (đối với khoản vay có bảo đảm bằng tài sản).

Thẩm định dự án là công cụ cạnh tranh hữu hiệu giúp ngân hàng thu hút

những khách hàng vay “chất lượng cao”. Khách hàng đến với ngân hàng từ các

thành phần kinh tế khác nhau, tính cách, năng lực, uy tín của họ cũng không

giống nhau. Nhưng qua quá trình tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp thông qua dự án

vay vốn, các thông tin liên quan đến tình hình tài chính với khách hàng vay, các

nhà ngân hàng có thể phân loại khách hàng theo các tiêu chí về bảo đảm tiền vay.

Họ luôn phải đối mặt với tình huống khách hàng yêu cầu vay vốn ở nhiều ngân

hàng khác nhau. Những khách hàng có tiềm lực tài chính, có uy tín trên thị

trường cũng như uy tín trong thanh toán, khi xin vay họ thường ở thế chủ động,

nên việc yêu cầu vay vốn ở nhiều ngân hàng một lúc nhằm mục đích lựa chọn

ngân hàng có lãi suất ưu đãi hay dịch vụ thuận lợi. Vì vậy, việc đánh giá chất

lượng khoản vay trên cơ sở thẩm định ngân hàng vay là phương thức hiệu quả

nhất để ngân hàng có thể lôi kéo khách hàng về phía mình. Không những thế,

thẩm định dự án vay vốn chính xác khiến ngân hàng dễ dàng phân loại khách

hàng vay, từ đó hạn chế những mất mát trong cho vay.

Còn đối với những khách hàng vay có bảo đảm bằng tài sản, việc bảo đảm

tiền vay là một hàng rào bảo vệ cho ngân hàng khi có những sai sót trong quá

trình thẩm định dự án. Kết quả của quá trình thẩm định là cơ sở cho vay đối với

mỗi khách hàng Một lỗi nhỏ trong khâu thẩm định cũng có thể là nguyên nhân

làm thất thoát vốn của ngân hàng. Vì thế, phần lớn các khách hàng vay vốn đều

phải tuân thủ nguyên lý cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Trong trường hợp,

khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn, tài sản bảo

đảm là nguồn thu hợp pháp nhằm hạn chế tổn thất do sai lầm trong quá trình

thẩm định dự án gây ra.

2.3.2 Đối với khách hàng vay:

Nhu cầu về sử dụng vốn xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Các tổ chức kinh tế

cần vốn để bổ sung cho kho hàng dự trữ, nguyên vật liệu nhằm đẩy nhanh tiến độ

sản xuất, kinh doanh; mua sắm trang thiết bị, nhà xưởng và tài sản cố định để mở

rộng sản xuất. Người tiêu dùng muốn có tiền để nâng cao chất lượng sống thông

qua việc vay vốn để chi tiêu. Tất cả đều đến với ngân hàng để tìm kiếm cơ hội

nhận được khoản vốn vay kịp thời. Nhưng không phải mọi nhu cầu vay vốn đều

được đáp ứng tức thì, mà muốn các nhu cầu về vốn được ngân hàng tài trợ thì

khách hàng phải chứng minh được khả năng bảo đảm tiền vay của mình. Như

vậy, với việc bảo đảm tiền vay, khách hàng sẽ sớm nhận được vốn để đưa vào

sản xuất, kinh doanh hay thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.

Mặt khác, qua thẩm định dự án, ngân hàng đã phần nào giúp khách hàng

hoạch định kế hoạch sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Mọi nhu cầu vay vốn của

khách hàng đều hình thành từ ý tưởng ban đầu về việc sử dụng vốn vay. Khi tiếp

xúc với ngân hàng, những ý tưởng này phải được xây dựng thành dự án vay vốn

hoàn chỉnh. Tuy nhiên, không phải tất cả các khách hàng vay đều là những nhà

lập dự án chuyên nghiệp. Nhưng nhờ trình độ chuyên môn của các cán bộ tín

dụng, các dự án được hướng dẫn theo hướng từng bước hoàn thiện.

2.3.3 Đối với nền kinh tế:

Ngân hàng và các khách hàng của nó là một tập hợp các chủ thể của nền

kinh tế. Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng giữ vai trò là người luân

chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi có nhu cầu về vốn. Như vậy, hoạt động của

ngân hàng giúp nền kinh tế sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn. Còn với chức

năng là các nhà sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, khách hàng của ngân hàng

làm gia tăng của cải xã hội, biến tiết kiệm của những người gửi tiền thành lợi

nhuận của quá trình đầu tư. Nền kinh tế sẽ vận hành tốt nếu thiết lập được quan

hệ tín dụng lành mạnh giữa ngân hàng và khách hàng . Khi 3 nguyên tắc tín dụng

được tuân thủ ( trong đó có nguyên tắc bảo đảm tiền vay), vốn sẽ được chuyển

đến đúng địa chỉ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng cường sức mạnh

của nền kinh tế.

Hạn chế tổn thất trong các khoản cho vay là một trong những lí do ngân

hàng đòi hỏi có sự bảo đảm đối với khoản tiền vay. Nguyên lý bảo đảm tiền vay

được tuân thủ là cơ sở giúp ngân hàng giảm thiểu những mất mát xuất phát từ các

khoản cho vay xấu. Theo đó, nền kinh tế cũng có thể tránh được những tổn thất

do các vụ đổ bể tín dụng gây ra.

Hoạt động lành mạnh của ngân hàng sẽ củng cố niềm tin của công chúng

vào hệ thống tài chính, nhờ đó thu hút được nhiều vốn hơn để đầu tư phát triển

sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của nền

kinh tế.

2.4 Các hình thức bảo đảm tiền vay:

Hiện nay có rất nhiều hình thức bảo đảm tiền vay được sử dụng, nhưng nhìn

chung người ta chia bảo đảm tiền vay thành 2 hình thức: bảo đảm đối nhân và

bảo đảm đối vật.

2.4.1 Bảo đảm đối nhân:

Bảo đảm đối nhân là hình thức bảo đảm tiền vay mà khi cho vay đối với một

khách hàng, ngân hàng chủ yếu dựa trên uy tín của khách hàng hoặc sự bảo đảm

của người thứ 3. Bảo đảm đối nhân gồm bảo lãnh và bảo đảm bằng uy tín của

khách hàng vay.

2.4.1.1 Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:

Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được áp dụng đối với

những khách hàng có uy tín, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả

(dòng tiền trong tương lai của dự án có khả năng trả nợ), hoặc theo chính sách

của Chính phủ. Uy tín của một khách hàng thường được đánh giá trên 2 khía

cạnh: uy tín về tài chính và uy tín trong thanh toán. Những khách hàng có uy tín

về tài chính thường là những khách hàng có tiếng tăm trên thị trường, thương

hiệu của họ được biết đến một cách rộng rãi, hàng hoá hay dịch vụ của khách

hàng đó được người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, yếu tố mà ngân

hàng quan tâm nhiều hơn cả là uy tín thanh toán của khách hàng. Ngân hàng dựa

vào uy tín trong thanh toán của khách hàng đối với những chủ nợ trước đó hay

tính khả thi của dự án mà khách hàng đang có ý định tài trợ bằng khoản tiền vay.

Nhìn chung, các ngân hàng rất e dè với hình thức bảo đảm này. Vì khi cho

vay có bảo đảm bằng uy tín của khách hàng vay, ngân hàng phải chịu hoàn toàn

trách nhiệm về quyết định cho vay của mình mà không nhận được bất cứ sự đỡ

đầu nào của Chính phủ.

2.4.1.2 Bảo lãnh của bên thứ ba:

Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc người thứ 3( là pháp nhân hoặc cá

nhân- bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay( bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện

nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn( bên được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà

bên được bảo lãnh không trả được một phần hay toàn bộ nợ vay ( bao gồm nợ

gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) cho bên nhận bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể sử dụng

tài sản hay uy tín của mình để bảo lãnh cho người vay vốn.

Bảo lãnh là một hình thức bảo đảm gián tiếp nhưng được sử dụng khá phổ

biến. Nó mang ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng và khuyến khích đầu tư.

Khi bảo lãnh cho một khoản vốn vay, bên bảo lãnh phải ý thức được trách nhiệm

của mình đối với khoản vay. Vì mặc dù, để chấp nhận cung cấp một khoản vay,

ngân hàng phải xem xét khách hàng trên nhiều khía cạnh khác nhau như tính khả

của dự án, khả năng hoàn trả nợ vay…,nhưng người chịu trách nhiệm trực tiếp

trước ngân hàng khi khoản vay có vấn đề lại là bên bảo lãnh. Với ngân hàng, bên

bảo lãnh là người cùng chia sẻ rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của

khách hàng. Còn trên phương diện là bên bảo lãnh, họ là người gánh chịu mọi rủi

ro phát sinh trong quá trình hoạt động của người vay. Vì vậy, khi đứng ra bảo

lãnh cho một khách hàng vay, bên bảo lãnh phải hiểu rõ năng lực và uy tín của

người vay hoặc có quan hệ đặc biệt với khách hàng đó.

2.4.2 Bảo đảm đối vật:

Bảo đảm đối vật là hình thức bảo đảm tiền vay mà trong đó ngân hàng đóng

vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của

khách hàng (con nợ) là căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không

muốn trả hoặc không có khả năng trả nợ.

Việc bảo đảm bằng tài sản không chỉ mang lại cho ngân hàng sự chứng

thực rằng ngân hàng không hoàn toàn mất trắng khoản cho vay mà còn đem lại

cho ngân hàng quyền ưu tiên trong việc phát mại tài sản nếu khách hàng không

có khả năng hoàn trả khoản vay. Ngân hàng được xếp thứ tự ưu tiên về quyền đối

với tài sản so với các chủ nợ khác và so với chủ nhân của tài sản (khách hàng vay

vốn). Theo hình thức bảo đảm tiền vay này, khi vay vốn, khách hàng có thể lựa

chọn trong số 2 hình thức bảo đảm tiền vay là bảo đảm bằng tài sản thế chấp hay

bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay.

2.4.2.1 Bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay:

Ðây là hình thức bảo đảm mà khi vay vốn ngân hàng, bên vay vốn phải

dùng tài sản của mình là bất động sản và một số động sản thuộc sở hữu của mình

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá

hạn) đối với bên cho vay.

Trong việc đánh giá tài sản thế chấp dành cho khoản vay, cán bộ tín dụng

phải đặt câu hỏi: Người vay có sở hữu một tài sản nào với giá trị ròng tương

xứng với khoản vay không? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những

đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá

thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ có một vị trí quan trọng. Nếu

tài sản của khách hàng quá lỗi thời về công nghệ, giá trị thế chấp của chúng sẽ bị

suy giảm bởi lý do: ngân hàng có thể gặp nhiều khó khăn trong việc tìm người

mua lại những tài sản này nếu khoản cho vay không được hoàn trả.

2.4.2.2 Bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay:

Là hình thức bảo đảm tiền vay mà theo đó bên vay vốn có nghĩa vụ một

hoặc nhiều động sản của mình cho bên có quyền nắm giữ (bên cho vay) để đến

khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố tài sản không thực hiện hoặc thực

hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương

thức do các bên đã thoả thuận hoăc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ.

Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ tiền bán tài sản cầm cố sau khi

trừ chi phí bảo quản và bán đấu giá. So với hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài

sản thế chấp của khách hàng vay, hình thức này an toàn hơn. Vì bên nhận cầm cố

nắm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ và giá trị cùng khả năng chuyển đổi thành

tiền. Hơn nữa, khả năng bù trừ thiệt hại của tài sản cầm cố cũng dễ dàng thẩm

định hơn so với việc đánh giá khả năng này ở tài sản thế chấp.

2.4.2.3 Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:

Thực chất, đây cũng chỉ là hình thức bảo đảm bằng hình thức cầm cố hay thế

chấp. Nhưng khác với hai hình thức nói trên, tài sản được hình thành từ vốn vay

là tài sản chưa có thật, mà phải qua quá trình sử dụng vốn, tài sản đó được dần

được hình thành. Trong thời gian từ lúc kí hợp đồng tín dụng cho đến khi hình

thành tài sản được tài trợ bằng vốn vay, hình thức bảo đảm đối với khoản tiền

vay này là uy tín của khách hàng vay. Chỉ khi, tài sản được hình thành, những tài

sản này mới bắt đầu trở thành các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản.

2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm tiền vay:

2.5.1 Môi trường pháp lý:

Các khoản cho vay của ngân hàng có vai trò quan trọng trong sự phát triển

của nền kinh tế, vì vậy hoạt động cho vay của nó thường chịu sự chi phối chặt

chẽ của môi trường pháp lý. Khi bảo đảm tiền vay được đặt ra như là một trong

ba yếu tố bắt buộc của quy trình cho vay thì các văn bản pháp luật có ý nghĩa to

lớn đối với ngân hàng trong việc thực hiện công tác này.

Trước hết, sự ra đời của các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho

ngân hàng trong việc lựa chọn các hình thức bảo đảm tiền vay cũng như việc lựa

chọn các tài sản làm bảo đảm. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của mỗi

quốc gia, mà các văn bản quy định nới lỏng hay thắt chặt các điều kiện áp dụng

các hình thức bảo đảm tiền vay đối với mỗi đối tượng vay vốn. Đồng thời, các

yếu tố liên quan đến bảo đảm tiền vay như danh mục tài sản được sử dụng làm tài

sản bảo đảm, việc xác định mức cho vay dựa trên giá trị của tài sản đó.. cũng

được đề cập đến trong các văn bản. Mặc dù, những quy định này không qua chi

tiết, nhưng đó là định hướng mà ngân hàng phải tuân thủ khi thực hiện các biện

pháp bảo đảm tiền vay.

Hơn nữa, trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm tiền vay, ngân hàng

phải đối mặt với nhiều vướng mắc phát sinh do các quy định trong các văn bản

không phù hợp với thực tế. Nhưng qua thời gian, các văn bản này được chỉnh sửa

theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt áp lực cho ngân hàng khi thực hiện

bảo đảm tiền vay.

2.5.2 Quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng:

Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa

chọn hình thức bảo đảm tiền vay. Trước khi cung ứng một khoản vay, ngân hàng

quan tâm đến việc liệu khách hàng có khả năng hoàn trả nợ thông qua việc sử

dụng vốn vay không? Để trả lời cho câu hỏi đó, ngân hàng phải tiến hành các

bước trong quy trình nghiệp vụ. Quá trình này đòi hỏi ở ngân hàng một chi phí

giao dịch nhất định, và ngân hàng luôn muốn giảm thiểu những chi phí này. Vì lẽ

đó, một quan hệ lâu năm hoặc uy tín của khách hàng sẽ là cơ sở để ngân hàng

quyết định hình thức bảo đảm tiền vay đối với khách hàng.

2.5.3 Những yếu tố liên quan đến bản thân ngân hàng:

Khả năng đánh giá khách hàng: Việc đánh giá khách hàng được thực hiện

dựa trên khả năng thu thập và xử lý những thông tin liên quan đến khách hàng

vay. Những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, về tư cách vay vốn của

khách hàng, dự báo xu hướng sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ là nền tảng cho

việc thẩm định khách hàng vay. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể đưa ra quyết

định cho vay có bảo đảm bằng hình thức đối nhân, hay đối vật.

Khả năng đánh giá và theo dõi tài sản bảo đảm: Thông thường, các văn bản

pháp luật thường quy định các tài sản mà khách hàng được phép sử dụng làm tài

sản bảo đảm. Nhưng trong điều kiện cụ thể của từng ngân hàng, họ có thể quyết

định việc chấp nhận hay không chấp nhận những tài sản bảo đảm theo quy định.

Việc chấp nhận một tài sản làm bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào khả năng định

giá chính xác giá trị của tài sản cũng như khả năng quản lý và kiểm soát các tài

sản đó.

Chiến lược cho vay của ngân hàng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa

chọn tài sản bảo đảm của ngân hàng. Trong mỗi thời kì, ngân hàng đều có những

chiến lược kinh doanh khác nhau như tập trung hơn vào đối tượng khách hàng

này, hay mở rộng tín dụng hơn đối với những khách hàng khác. Những chiến

lược này cũng góp phần quy định loại hình tài sản nào được ưu tiên sử dụng.

2.5.4 Mức độ an toàn của các tài sản bảo đảm:

Đây là lí do giải thích cho hiện tượng ngân hàng ưa chuộng một số tài sản làm

bảo đảm hơn những tài sản khác. Ngân hàng thường có những tiêu chí nhất định

để đánh giá độ an toàn của tài sản bảo đảm như : dựa trên mức độ thuận lợi trong

việc xác định quyền sở hữu của tài sản bảo đảm; sự tồn tại và hoạt động của thị

trường tài sản bảo đảm; sự khác biệt trong khả năng thực thi quyền của người

cho vay. Trong đó, sự phát triển của thị trường tài sản bảo đảm là yếu tố mà ngân

hàng quan tâm nhất, vì một trong những chức năng của tài sản bảo đảm là đảm

bảo khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát sinh. Vì vậy, nếu

có tài sản bảo đảm có một thị trường phát triển, có nghĩa là tính khả mại của tài

sản cao, thì việc chấp nhận tài sản đó dễ dàng hơn.

2.5.5 Các yếu tố từ phía khách hàng vay:

Mặc dù chịu sự tác động lớn của các yếu tố như môi trường pháp lý, khả năng

của ngân hàng trong việc đánh giá khách hàng, đánh giá và theo dõi tài sản và

chiến lược của khách hàng, nhưng yếu tố quan trọng nhất quyết định các hình

thức bảo đảm tiền vay phải kể đến tình hình sản xuất kinh doanh hàng hoá và

dịch vụ của khách hàng, các loại tài sản mà khách hàng có, cùng với nhu cầu vay

vốn của khách hàng. Khách hàng hoạt động hiệu quả, sản phẩm của khách hàng

dễ được chấp nhận trên thị trường.. mới có thể gây dựng niềm tin đối với ngân

hàng, từ đó mới có cơ hội để vay không có bảo đảm bằng tài sản. Dựa trên nhu

cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp, vì khi

cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giá trị của khoản vay phụ thuộc vào giá trị tài

sản làm bảo đảm.

CHƯƠNG II:

THỰC TRẠNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐỐI VỚI

TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG

KHU VỰC BA ĐÌNH

***********

1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG

CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH.

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng công thương khu vực

Ba Ðình.

Ngân hàng công thương Việt nam chính thức đi vào hoạt động từ ngày

1/7/1988. Ngân hàng được hình thành từ vụ tín dụng công nghiệp và vụ tín dụng

thương nghiệp của Ngân hàng Trung Ương, kết hợp hoạt động với phòng tín

dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp của các chi nhánh Ngân hàng Trung

Ương ở địa phương.

Nghị định 53 HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 tạo tiền đề đổi mới ngân

hàng, chuyển hoạt động của ngân hàng từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước. Từ đó ngân hàng chuyển sang chuyên sâu

vào hoạt động kinh doanh tiền tệ. Do đó, từ tháng 7/1988 đến hết năm 1990:

Ngân hàng công thương thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí nghiệp

đặc biệt. Các chi nhánh của Ngân hàng công thương hoạt động và thực hiện hạch

toán độc lập.

Từ tháng 1/1991 đến tháng 9/1996: Theo quyết định số 402/CT-14/1/1990

của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ngân hàng công thương có chức năng kinh

doanh tiền tệ. Chi nhánh của Ngân hàng là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Ngay sau

quyết định số 402, chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình trở thành

một bộ phận của chi nhánh Ngân hàng công thương thành phố Hà Nội. Từ tháng

4/1993, chi nhánh Ngân hàng công thương thành phố Hà Nội tách ra thành 6 chi

nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam.

Từ tháng 9/1996 đến nay: Ngân hàng hoạt động theo mô hình tổng công ty

Nhà Nước, gồm Hội đồng quản trị, dưới sự điều hành của tổng giám đốc.

Qua hơn 10 năm hoạt động và phát triển, ngày nay Ngân hàng công thương

Việt nam đã có một mạng lưới giao dịch rộng khắp gồm 2 Sở giao dịch, 71 Chi

nhánh cấp I(đơn vị phụ thuộc), 28 Chi nhánh cấp II (đơn vị trực thuộc ), 157

Phòng giao dịch, 340 Quỹ tiết kiệm, 2 Ðơn vị sự nghiệp: Trung tâm đào tạo và

trung tâm công nghệ thông tin, 3 đơn vị hạch toán độc lập: Công ty cho thuê tài

chính, công ty quản lý và khai thác tài sản và công ty chứng khoán.

1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình:

Chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình là một doanh nghiệp

Nhà nước - thành viên phụ thuộc Ngân hàng công thương Việt nam, được thành

lập theo quyết định số 93/NHCT-TCCB ngày 24/03/1993 của Tổng giám đốc

Ngân hàng Công Thương Việt nam. Hiện nay số lượng công nhân viên phục vụ

trong ngân hàng là 257 nhân viên, giảm 75 công nhân viên so với năm 2000.

Đây là kết quả của sự sáp nhập của các tổ cho vay( từ 6 tổ xuống còn 3 tổ) và

việc hình thành thêm chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy.

Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương khu vực Ba Đình được thể hiện

qua sơ đồ sau:

Ngân hàng công thương Ba Ðình được tổ chức theo mô hình một ban giám đốc

gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc cùng 6 phòng. Đó là:

 Phòng nguồn vốn:

Phòng nguồn vốn có chức năng huy động vốn từ nền kinh tế, trên cơ sở

nguồn vốn huy động được, ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính

đối với nền kinh tế. Phòng gồm 69 nhân viên, do 1 trưởng phòng cùng 1 phó

phòng chịu trách nhiệm điều hành hoạt động. Bên cạnh phòng nguồn vốn đặt tại

chi nhánh NHCT khu vực Ba Ðình, còn có 9 Quỹ tiết kiệm đóng trên toàn thành

phố Hà Nội bao gồm Quỹ tiết kiệm số 15, 17, 18, 20, 21, 23, 26, 27, 28.

 Phòng kinh doanh đối nội :

Phòng kinh doanh đối nội là phòng thực hiện mọi giao dịch với khách hàng

về hoạt động tín dụng trong nước. Phòng có 55 nhân viên, trong đó có 1 trưởng

phòng và 3 phó phòng. Phòng kinh doanh đối nội đến nay vẫn được chia thành 3

mảng hoạt động. Ðó là : phòng tín dụng công nghiệp, phòng tín dụng thương

nghiệp và phòng tín dụng ngoài quốc doanh. Trưởng phòng là người điều hành

hoạt động chung của phòng và thực hiện công tác marketing, 3 phó phòng được

phân theo chức năng hoạt động của từng phòng: Một phó phòng phụ trách hoạt

động tín dụng công nghiệp, 1 phó phòng điều hành hoạt động tín dụng ngoài

quốc doanh, phó phòng còn lại phụ trách mảng tín dụng thương nghiệp.

 Phòng kinh doanh đối ngoại:

Phòng kinh doanh đối ngoại cung cấp cho khách hàng những dịch vụ có

liên quan đến yếu tố nước ngoài như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ.

Phòng có 13 nhân viên, hoạt động dưới sự điều hành của trưởng phòng và 2 phó

phòng. Phòng kinh doanh là bộ phận quan trọng nhất của NHCT Ba Ðình, vì đây

là nơi khởi nguồn của mọi giao dịch trong ngân hàng. Ngoài những khách hàng

đến với ngân hàng do biết đến uy tín của ngân hàng từ trước, thì các khách hàng

mới của ngân hàng chủ yếu là do các cán bộ thuộc phòng kinh doanh tìm kiếm và

khai thác. Phòng kinh doanh không chỉ là bộ phận chủ yếu thu hút khách hàng

mà còn là nơi thẩm định các dự án vay, từ đó đưa ra quyết định cho vay có lợi

nhất cho ngân hàng.

 Phòng kế toán:

Là trung gian thanh toán của các đơn vị qua Ngân hàng , hàng ngày có

nhiệm vụ hạch toán các nghiệp vụ phát sinh, theo dõi tình hình giao dịch của

khách hàng. Phòng gồm 43 nhân viên, do 1 trưởng phòng và 2 phó phòng trực

tiếp quản lý. Trực thuộc phòng còn có phòng thông tin điện toán làm chức năng

thanh toán qua mạng.

 Phòng tổ chức hành chính :

Phòng gồm 26 nhân viên trong đó có 1 trưởng phòng và 2 phó phòng.

Phòng chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động của Ngân hàng từ khâu bố trí

nguồn nhân lực cho đến việc phân phối những điều kiện vật chất cần thiết cho

các phòng để hoàn thành chức năng của mình.

 Phòng tiền tệ, kho quỹ :

Phòng gồm 31 nhân viên dưới sự quản lý trực tiếp của 1 trưởng phòng và 2

phó phòng. Phòng đảm nhiệm chức năng quản lý tiền mặt. Mọi giao dịch của

khách hàng liên quan đến tiền mặt đều qua các bộ phận của phòng.

 Phòng kiểm soát:

Có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ . Kiểm tra mọi chứng từ của Ngân

hàng giao dịch trong ngày về tính pháp lý và tính nghiệp vụ. Phòng gồm 20 nhân

viên, dưới sự điều hành của 1 trưởng phòng và 1 phó phòng.

1.3 Những hoạt động chủ yếu của Chi nhánh ngân hàng công thương Ba

Ðình:

Hoạt động huy động vốn:

- Ngân hàng cung cấp các điểm nhận tiết kiệm thông qua 9 quỹ tiết kiệm, thực

hiện huy động tiền gửi từ các thành phần kinh tế dưới các hình thức như tiền gửi

không kì hạn, tiền gửi có kì hạn (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng) và tiền

gửi thanh toán của các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước bằng VND và

ngoại tệ.

- Phát hành trái phiếu và kì phiếu ngân hàng với các kì hạn khác nhau.

- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân

trong nước và nước ngoài.

- Huy động vốn thông qua hình thức vay của các tổ chức tài chính, tín dụng

khác.

Hoạt động cho vay:

- Cùng với mạng lưới gồm 3 tổ cho vay Nguyễn Thái Học, Đội Cấn và Long

Biên, chi nhánh đã thực hiện các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng

VND và ngoại tệ đối với các cá nhân và tổ chức trong nước.

- Phối hợp với các ngân hàng khác thực hiện cho vay đồng tài trợ và thực hiện

cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.

- Thực hiện các chương trình tín dụng tài trợ uỷ thác. Cho đến nay, chi nhánh đã

thực hiện thành công 3 chương trình tín dụng tài trợ uỷ thác là EC ( tài trợ vốn

cho người Việt nam hồi hương từ Hồng Kông), Việt Đức, Đài Loan (Quỹ phát

triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ).

- Thực hiện chương trình tín dụng Chính phủ như cho vay sinh viên, cho vay đối

với các đối tượng nghèo..

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ:

- Mua bán, kinh doanh ngoài tệ, chi trả kiều hối.

- Bảo lãnh L/C trả chậm.

Hoạt động thanh toán:

- Thanh toán liên ngân hàng, thanh toán điện tử, thanh toán ngoại tệ qua mạng

SWIFT, thanh toán song biên với các tổ chức tài chính, các tổ chức tín dụng

khác.

- Thanh toán séc du lịch, thanh toán thẻ tín dụng

Các hoạt động khác:

- Chi nhánh đã trang bị một máy rút tiền tự động ( ATM) hiện đại tại tiền sảnh

của chi nhánh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng rút tiền mặt. Ngoài ra, bộ

phận kho quỹ còn thực hiện các dịch vụ nhận cất giữ, bảo quản các tài sản có giá.

- Đầu tư dưới các hình thức như hùn vốn, kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu

và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác khi

được tổng giám đốc giao.

1.4 Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng

công thương Ba Ðình:

Từ sau năm 1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã bước vào giai

đoạn cuối, các nước chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái đang tìm mọi biện pháp

nhằm khắc phục hậu quả. Việt Nam đã bắt đầu sự đổi thay bắt nguồn từ việc

nâng cao chất lượng của hoạt động ngân hàng. Nhận thức được xu thế hội nhập

của hệ thống ngân hàng, Ban lãnh đạo của Ngân hàng công thương khu vực Ba

Đình cũng đã đưa ra những giải pháp cụ thể đẩy mạnh hoạt động của ngân hàng.

Sự phát triển của ngân hàng công thương Ba Ðình trong những năm qua được thể

hiện trên những mặt hoạt động chủ yếu sau:

1.4.1 Về tình hình huy động vốn:

Trong thời gian vừa qua, chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước có

nhiều biến động, trong đó lãi suất huy động và lãi suất cho vay thường xuyên

được điều chỉnh giảm. Trên địa bàn nhiều tổ chức tín dụng hoạt động, tạo ra môi

trường cạnh tranh hết sức gay gắt. Ðể duy trì hoạt động có hiệu quả, NHCT Ba

Ðình cũng rất nhạy cảm trong việc điều chỉnh lãi suất huy động nhằm thu hút

nguồn vốn từ các doanh nghiệp cũng như từ dân cư.

Hoạt động huy động vốn

Ðơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu 1999 2000 2001

Tổng cộng 1615963 2160008 2785860

Tiền gửi tiết kiệm doanh nghiệp 588237 1030436 1387362

Tiền gửi tiết kiệm và kì phiếu 1027726 1129572 1398498

Theo số liệu của phòng tổng hợp

Song với những nỗ lực tìm kiếm khai thác có chọn lọc với lãi suất hấp dẫn

từ nhiều nguồn khác nhau, nên kết thúc năm 2001, vốn huy động của chi nhánh

không những vượt chỉ tiêu đề ra mà còn có lãi suất huy động bình quân thấp, đủ

sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.

Tổng nguồn vốn huy động đến năm 2001 đạt 2785 tỷ tăng 625 tỉ so với

năm 2000, đạt tốc độ tăng trưởng 28,9% trong đó: Huy động tiền gửi doanh

nghiệp đạt 1387 tỷ chiếm tỉ trọng 49,8% tổng nguồn vốn, huy động từ tiền gửi

dân cư đạt 1398 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 50,2 % .

Có thể nói, sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn không chỉ là kết quả của phong

cách phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo, mà còn khẳng định uy tín và vị

thế của chi nhánh trên thị trường. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, chi nhánh

có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn đối với khách hàng, đồng thời chuyển

vốn về Ngân hàng công thương Việt nam, góp phần điều hoà vốn toàn hệ thống

và tham gia thị trường vốn.

1.4.2 Về công tác tín dụng:

Về hoạt động cho vay:

Vào thời điểm cuối năm 2001, sau khi thực hiện chuyển giao trên 30 doanh

nghiệp Ngân hàng và một số khách hàng vay vốn khác có tổng dư nợ 208 tỉ VND

(kể cả ngoại tệ quy VND) cho chi nhánh Ngân hàng Công Thương Cầu Giấy, chi

nhánh ổn định tổ chức, tập trung đẩy mạnh công tác tiếp thị, sắp xếp và phân

công cán bộ có năng lực phù hợp với từng doanh nghiệp, đồng thời tìm kiếm

khách hàng mới có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh ổn định để

thiết lập quan hệ tín dụng. Kết quả là dư nợ trong nhiều doanh nghiệp đã tăng lên

nhanh chóng, một số doanh nghiệp đã vay vốn duy nhất ở chi nhánh Ngân hàng

công thương Ba Ðình và có thêm nhiều doanh nghiệp mới đến mở L/C và vay

vốn với khối lượng lớn.

Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2001 đạt 1172 tỷ. So với cùng kỳ năm trước

tăng 158 tỷ, tốc độ tăng 15,58% so với cùng kỳ.

Trong đó, cho vay Doanh nghiệp nhà nước chiếm 96% tổng dư nợ. Hầu hết

các khoản cho vay đối với Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đều áp dụng hình

thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Một vài đơn vị trực thuộc cho vay

có bảo lãnh của Tổng công ty, và một số doanh nghiệp khác cho vay trung dài

hạn có tài sản bảo đảm bằng chính đối tượng cho vay. Các doanh nghiệp đã sử

dụng vốn đúng đối tượng và đúng mục đích vay vốn, góp phần không nhỏ vào

việc hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 4% tổng dư nợ.

Trong đó có 5,4 tỷ VND cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên, 4,3 tỷ

VND cho vay Công ty cổ phần thành lập từ các Doanh nghiệp Nhà nước với hình

thức tín chấp của cơ quan, đơn vị quản lý, số nợ còn lại đều có tài sản bảo đảm

nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tới mức thấp nhất.

Về tình hình thu nợ và nợ quá hạn:

Nợ quá hạn tồn đọng đến cuối năm là 18304 triệu, chiếm 1,5% tổng dư nợ

và tăng hơn năm 2001 là 0,66% . Sở dĩ nợ quá hạn tăng là do Giám đốc công ty

tiếp thị và Đầu tư nông nghiệp vay 15 tỷ, vi phạm nguyên tắc vay vốn, hiện nay

đã bị truy tố về tội danh lừa đảo.

Thu hồi nợ đọng là công tác gây nhiều khó khăn cho chi nhánh trong nhiều

năm qua. Chi nhánh đặc biệt quan tâm đến việc xử lý thu hồi nợ khó đòi do lịch

sử để lại. Mặc dù, trong quá trình thực hiện còn nhiều vấn đề hết sức phức tạp,

khó khăn, nhưng với sự quyết tâm của ban lãnh đạo chi nhánh, trong năm qua,

thu nợ quá hạn là 5444 triệu VND. Ðối với những món nợ tồn đọng có tài sản thế

chấp từ nhiều năm không xử lý được, năm 2001 đã có những chuyển biến tốt.

Trong năm không có trường hợp nào xét rủi ro tín dụng. Tuy nhiên về xác định

nợ tồn đọng theo quyết định 149 của Chính phủ thì nợ tồn đọng đến cuối năm

2001 còn được xác định là 20012 triệu VND và đã được phân loại theo từng tiêu

thức hướng dẫn của QÐ 149.

Tổng giá trị bảo lãnh trong và ngoài nước trong năm qua là 341 tỷ, tăng 78

tỷ so với cùng kì năm trước, tốc độ tăng 30%. Trong đó bảo lãnh trong nước 327

tỷ tăng 87 tỷ. Bảo lãnh trả chậm nước ngoài 13 tỷ, giảm 9 tỷ do đến hạn thanh

toán đã trả nợ nước ngoài. Toàn bộ giá trị bảo lãnh trong năm 2001 được an toàn,

không phát sinh nghĩa vụ bão lãnh thay doanh nghiệp.

1.4.3 Về hoạt động kinh doanh đối ngoại:

Năm 2001, do tác động của sự suy thoái kinh tế toàn cầu, lãi suất huy động

liên tục giảm, từ mức 5,5%/năm đến cuối năm chỉ còn 1,9%/năm. Mặt khác tỷ

giá USD/VND vẫn có xu hướng tăng lên, vì vậy phòng kinh doanh đối ngoại gặp

nhiều khó khăn trong việc cân đối kim ngạch ngay tại chỗ cho doanh nghiệp kinh

doanh hàng xuất nhập khẩu. Lượng cung ngoại tệ luôn trong tình trạng thiếu do

yêu cầu chuyển đổi nhận nợ từ ngoại tệ sang VND để tránh rủi ro tỷ giá.

Song được sự hỗ trợ của Ngân hàng công thương Việt nam và sự chủ động

của chi nhánh trong việc tích cực tìm kiếm, khai thác, triển khai hoạt động 9 bàn

thu đổi ngoại tệ và 3 đại lý, nên lượng ngoại tệ của chi nhánh đủ để đáp ứng kịp

thời nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập vật tư, máy móc, thiết bị.

Tổng khối lượng ngoại tệ mua bán trong năm đạt 184,524 triệu USD tăng

hơn năm trước 46,6% trong đó riêng USD đã đạt doanh số 169,35 triệu, tăng

58%. Trong hoạt động mua bán ngoại tệ, chi nhánh xác định mục tiêu phục vụ

khách hàng trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu

bằng tiền vay ngân hàng, do vậy doanh thu ngoại tệ của Chi nhánh không cao.

Bên cạnh đó, chi nhánh cũng hết sức coi trọng công tác tiếp thị, phát triển

thêm khách hàng kinh doanh xuất khẩu đồng thời nâng cao phong cách giao dịch,

phục vụ khách hàng tại chỗ trong việc giao nhận bộ chứng từ hàng xuất. Ngoài

ra, chi nhánh thường xuyên tham khảo các chính sách ưu đãi của các tổ chức tín

dụng khác trên cùng địa bàn để có chính sách ưu đãi phù hợp, khuyến khích các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu đến giao dịch tại chi nhánh.

Khối lượng thanh toán quốc tế năm 2001 đạt 1756 món với tổng giá trị

122857 triệu USD tăng 402 món và 36,627 triệu USD, trong đó L/C nhập thanh

toán được 782 món có tổng giá trị 80,759 triệu USD, tăng hơn năm 2000 là 144

món. Giá trị thông báo L/C hàng xuất đạt 9,969 triệu USD tăng hơn năm 2000

là triệu USD. Tuy nhiên, do trang thiết bị còn nghèo nàn nên dịch vụ chi trả kiều

hối và séc du lịch còn hạn chế. Doanh số chi trả kiều hối mới dừng ở mức

500000 USD và thanh toán séc du lịch đạt 6000 USD, thanh toán thẻ VISA ,

MASTERCARD là 3000 USD

1.4.4 Về công tác kế toán:

Mặc dù khối lượng thanh toán ngày một tăng và hiện đang quản lý trên 6170 tài

khoản, công tác kế toán vẫn đảm bảo kịp thời, chính xác bí mật an toàn thông qua

hệ thống thông tin công nghệ tin học ngân hàng hiện đại, với đội ngũ cán bộ lành

nghề.

Tình hình thanh toán:

Ðơn vị: triệu đồng

1998 1999 2000 2001

Thanh toán tiền mặt 1847844 2322953 3043362 3175635

Thanh toán không dùng tiền 15257603 16831374 20518587 23381930

mặt

Séc 491689 538601 615028 730038

Uỷ nhiệm chi 7113774 9481613 11409451 14261813

Uỷ nhiệm thu 17550 25241 25126 25864

Thanh toán khác 7634590 6785919 8468982 11407215

Theo số liệu của phòng tổng hợp

Doanh số thanh toán 26556,12 tỷ VND tăng hơn năm 2000 là 2995 tỷ VND

với 331283 lượt chứng từ giao dịch và 2420 món chuyển tiền nhanh với tổng số

tiền 141140 triệu. Trong năm 2001 được sự giúp đỡ của Ngân hàng công thương

Việt nam, chi nhánh đã bổ sung thêm một số máy vi tính lắp đặt tại một số phòng

nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Công nghệ thanh toán trong chi

nhánh luôn luôn vận hành kịp thời, an toàn, chính xác và đảm bảo thông suốt

không bị tắc nghẽn.

1.4.5 Công tác tiền tệ kho quỹ :

Với khối lượng thu chi tiền mặt ngày càng tăng, khối lượng vận chuyển tiền

mặt trong ngày lớn, những trong năm qua công tác tiền tệ kho quỹ vẫn luôn đảm

bảo an toàn tuyệt đối và giữ được chữ tín với khách hàng trong việc nộp và lĩnh

tiền mặt. Khối lượng thu tiền mặt và ngân phiếu 2963 tỷ tăng 288 tỷ, trong đó

riêng thu tiền mặt 2534 tỷ tăng hơn năm trước 449 tỷ. Thu ngoại tệ là 33200

triệu USD tăng thêm 13400 triệu USD so với năm trước. Khối lượng chi tiền

mặt, ngân phiếu 2923 tỷ tăng 9%. Chi ngoại tệ 32,4 triệu USD tăng 35%

An toàn kho quỹ là mục tiêu chủ yếu trong hoạt động thu chi tiền mặt. Chi

nhánh đã thực hiện rất nghiêm túc các quy trình nên hoạt động tiền tệ kho quỹ an

toàn tuyệt đối , phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp và đời sống kinh tế xã hội của dân cư.

Với nỗ lực phấn đấu của tập thể 257 cán bộ công nhân viên trong toàn chi

nhánh mặc dù tình hình kinh doanh không nhiều thuận lợi lại có sự thay đổi về

công tác hạch toán chi phí theo quy định của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước

và Ngân hàng công thương Việt Nam đã làm tăng chi phí thêm 23827 triệu

nhưng lợi nhuận hạch toán kết thúc năm của chi nhánh cũng đã đạt 24 triệu.

1.4.6 Về công tác kiểm tra - kiểm soát

Trong những năm qua, chi nhánh đã tiến hành việc kiểm tra lại hoạt động

của chi nhánh về mọi mặt như : nghiệp vụ tín dụng thông qua việc kiểm tra các

hồ sơ tín dụng, bảo lãnh, các món cho vay sinh viên, đối chiếu nợ của khách

hàng ngoài quốc doanh; nghiệp vụ kế toán thông qua hình thức kiểm tra, rà soát

lại các chứng từ và các bộ hồ sơ mở tài khoản. Đồng thời chi nhánh cũng tiến

hành kiểm tra các quỹ tiết kiệm, đối chiếu với các khách hàng đến giao dịch và

kiểm tra đột xuất kho quỹ để đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác nguồn

vốn và kho quỹ. Qua kiểm tra, chi nhánh đã phát hiện được một số sai sót và đã

kịp thời tiến hành sửa chữa.

2 TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP

LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN BẢO ĐẢM TIỀN VAY:

2.1 Thời kì trước tháng 7/1989

Hoạt động tín dụng của ngân hàng thời kỳ này là hoạt động diễn ra trong

bối cảnh kinh tế tập trung mang nặng tính bao cấp. Vốn của nhà nước cung ứng

cho các xí nghiệp quốc doanh hợp tác xã, các ngành nghề kinh tế luôn phải tuân

theo nguyên tắc có vật tư tương đương làm bảo đảm. Giai đoạn này, việc bảo

đảm tiền vay bằng biện pháp cầm cố thế chấp tài sản của khách hàng vay, bảo

lãnh bằng tài sản của bên thứ ba cho khách hàng vay chưa được qui định. Do đó

khi cho vay, ngân hàng không có cơ sở pháp lý cũng như cơ sở hạch toán để thu

hồi nợ. Nhà nước là đơn vị duy nhất có trách nhiệm xử lý nợ khi rủi ro phát sinh.

2.2 Thời kỳ từ tháng 8/1989 đến 16/8/1996

Sự ra đời của hai pháp lệnh về ngân hàng là cơ sở pháp lý chính thức

chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí

của nhà nước. Pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân hàng,

hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được công bố tại Lệnh số

37/LTC/HÐNN và Lệnh số 38/LCT/HÐNN8 ngày 24/5 /1990, có hiệu lực thi

hành từ 1/10/1990 đã tạo ra sự thay đổi cơ bản trong hệ thống cơ chế chính sách,

từng bước phù hợp với sự chuyển đổi hoạt động ngân hàng thích ứng với cơ chế

thị trường. Các qui định về bảo đảm tiền vay được ban hành đã từng bước phù

hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, tiến trình ra đời của các qui định này trải

qua hai giai đoạn:

 Giai đoạn từ năm 1989 đến 15/ 9/1994

Thời kì này áp dụng cơ chế bảo đảm tiền vay theo qui định về thế chấp tài

sản vay vốn ngân hàng, ban hành kèm quyết định 156-NH/QÐ ngày 18/11/1989

của ngân hàng nhà nước theo nguyên tắc vay vốn nêu tại các thể lệ tín dụng

ngắn, trung và dài hạn ban hành kèm các quyết định: số 04/NH-QÐ ngày

18/1/1991, số 23/NH-QÐ ngày 6/3/1991. Theo các thể lệ tín dụng được ban

hành, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp mới chỉ áp dụng với đối

tượng khách hàng là tư doanh, cá thể, kinh tế tập thể. Như vậy, đã có sự phân biệt

đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nhà nước với các khách hàng là tư doanh,

cá thể, kinh tế tập thể, từ đó tạo ra sự thiếu bình đẳng giữa các khách hàng thuộc

mọi thành phần kinh tế, cho vay và bảo đảm tiền vay.

Hơn nữa, các quy định còn tạo ra sự phân biệt ngay cả đối với các tổ chức

tín dụng và tín dụng quốc doanh, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng ngoài

quốc doanh trong quyết định lựa chọn khách hàng vay có dự án khả thi, có hiệu

quả và có khả năng trả nợ nhưng không có tài sản bảo đảm.

 Giai đoạn từ 16/ 9 /1994 đến16/ 8/1996

Nhận thấy việc tạo ra sự khác biệt giữa các thành phần kinh tế trong cho

vay và bảo đảm tiền vay là thiếu cơ sở kinh tế, ngày 16/9/1994 và ngày

21/2/1995 ngân hàng nhà nước đã ban hành hai thể lệ tín dụng ngắn hạn và thể lệ

tín dụng trung dài hạn theo quyết định số 198-QÐ/NH1 và số 367-QÐ/NH1 thay

thế hai thể lệ tín dụng. Theo quy định về thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng ban

hanh kèm quyết định số 156-NH/QÐ ngày 18/11/1989, các tổ chức tín dụng khi

cho vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp nên khi cho vay, cũng không thể căn cứ

vào hiệu quả của doanh nghiệp cũng như tiềm lực của doanh nghiệp trong nền

kinh tế .

2.3 Thời kì từ 17/8/1996 đến 14/01/2000

Cơ chế bảo đảm tiền vay được thực hiện theo các văn bản :

 Qui chế thế chấp, cầm cố,bảo lãnh vay vốn ngân hàng ban hành kèm

Quyết định 217/QÐ-NH1 ngày 17/8/1996 của thống đốc NHNN.

 Nghị quyết 49/CP-m ngày 6/5/1997 của Chính phủ, tại điểm I mục II quy

định doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn tại ngân hàng thương mại quốc doanh

không phải thế chấp và công văn 417/CV-NH14 ngày 31/5/1997của ngân hàng

nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị quyết 49/CP-m của chính phủ.

 Hộ nghèo vay vốn tại ngân hàng phục vụ người nghèo không phải thế

chấp tài sản theo qui định 525/TTg ngày 31/8/1995 của thủ tướng chính phủ.

 Chị thị số 09/CT-NH1 ngày 27/8/1997 của Thống đốc NHNN xử lý một

số vấn đề cụ thể về điều kiện và thủ tục tín dụng.

Cùng với các văn bản của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước, các

Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cũng đã có các văn bản hướng

dẫn cụ thể. Quá trình thực hiện đã giúp cho công tác điều hành vĩ mô của Ngân

hàng Nhà nước nhanh nhậy, sát hợp và có hiệu quả theo tín hiệu thị trường. Ðồng

thời góp phần quan trọng vào thành công của hệ thống ngân hàng Việt nam trong

thời gian qua là kiềm chế đẩy lùi lạm phát, kích thích tăng trưởng kinh tế, nâng

cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng,

hạn chế rủi ro, an toàn vốn, giải quyết tốt các chính sách xã hội, tạo cơ chế gắn

trách nhiệm và nâng cao trách nhiệm của bên vay trong việc sử dụng có hiệu quả

vốn vay ngân hàng.

Tuy nhiên, khi triển khai các qui định này, các ngân hàng gặp phải không ít

khó khăn, một phần do bối cảnh nền kinh tế năm 1997 có dấu hiệu chững lại về

tốc độ tăng trưởng, nhưng phần lớn do qui định về bảo đảm tiền vay trong thời kì

thắt chặt quá mức cần thiết. Các thủ tục cầm cố, thế chấp phức tạp, chặt chẽ

nhưng không phù hợp với thực tế, nên đã gây lãng phí thời gian của cả doanh

nghiệp nhà nước và khách hàng.

Mặc dù đã có sự thay đổi trong các văn bản về bảo đảm tiền vay, nhưng về

cơ bản, những quy định này cũng giống như những quy định ở giai đoạn từ năm

1989 đến tháng 9/1994; tạo ra sự khác biệt rất lớn giữa khách hàng là doanh

nghiệp Nhà nước và các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế cũng như giữa

tổ chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh. Các tổ chức tín dụng ngoài

quốc doanh ít được trao quyền tự chủ trong quyết định lựa chọn khách hàng vay,

đồng thời về mặt pháp lý, cũng không được bảo đảm an toàn khi có quyết định

cho vay dựa trên sự tín nhiệm của khách hàng vay. Ðây chính là một trong số

những nguyên nhân làm gia tăng nợ quá hạn ngân hàng trong thời kì này.

Qui định trên vô hình trung đã coi việc bảo đảm tiền vay bằng cách lấy

cầm cố thế chấp tài sản của khách hàng vay và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ

3 là điều kiện tiên quyết trong cho vay. Trong khi chất lượng tài sản bảo đảm

thời kì này rất kém, thậm chí là tài sản không hợp pháp, tài sản đi thuê mượn,

dùng tài sản khác, giấy tờ không đủ cơ sở pháp lý nên không thể xử lý để thu hồi

nợ.Việc cho vay như vậy chẳng khác nào dùng tiền nhà nước để mua tài sản

không có nhu cầu sử dụng, chôn vốn tín dụng vào những tài sản kém giá trị, biến

vốn sống thành vốn chết.

Hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay đã xuất

hiện, nhưng chỉ mới áp dụng đối với các dự án vì quốc kế dân sinh hoặc các

khoản vay do tổng giám đốc hoặc giám đốc các tổ chức tín dụng quyết định và

chịu trách nhiệm. Nhưng trong qui định lại không làm rõ khái niệm vì quốc tế

dân sinh, nên hình thức này nhìn chung không phù hợp với nhu cầu của thực tế

hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Việc bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức chính trị-xã hội cho các thành

viên của các tổ chức đó được vay vốn ngân hàng, thực chất là các tổ chức trên

dùng uy tín của mình, cam kết ngân hàng về khả năng trả nợ của cá nhân, hộ gia

đình nghèo khi tham gia vay vốn. Nhưng vấn đề uy tín, tiêu chuẩn xác định uy

tín và trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội vẫn còn chung chung. Do đó,

khi áp dụng trên thực tế, xảy ra khá nhiều trường hợp các tổ chức chỉ kí mà ít có

trách nhiệm đối với khoản nợ ngân hàng.

Mặt khác, quy định các thủ tục thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay

buộc phải công chứng trong bối cảnh mạng lưới công chứng nhà nước còn thưa

thớt, trách nhiệm của cơ quan công chứng chưa được qui định cụ thể đã làm mất

quá nhiều thời gian của khách hàng vay. Trong khi đó khoảng thời gian từ lúc

doanh nghiệp ký được hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng là có hạn, nhất

là trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện theo đơn đặt hàng.Vô

hình trung thủ tục phức tạp đó đã làm mất cơ hội của nhiều doanh nghiệp. Mặt

khác hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, với qui định ngặt nghèo về

bảo đảm tiền vay như trên, ngân hàng rất có thể sẽ trở thành nạn nhân của rủi ro

tín dụng vì sự chậm trễ cung ứng vốn cho doanh nghiệp là nguyên nhân trực tiếp

dẫn đến hợp đồng kinh tế không hoàn thành đúng thời hạn. Ðó là chưa kể đến

việc doanh nghiệp phải sử dụng một khoản chi phí lớn do vi phạm hợp đồng, kết

quả là doanh nghiệp sử dụng tiền vay sai mục đích nên không tạo được nguồn để

trả nợ ngân hàng.

Cơ chế bảo đảm tiền vay thời kì này có rất nhiều bất cập như : mang nặng

tính bao cấp, tạo ra sự ưu đãi riêng có tính xin cho, tạo sự phân biệt, không bình

đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng như giữa tổ

chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh. Chính sự phân biệt này khiến

các doanh nghiệp Nhà nước không phát huy nội lực để vươn lên, hằn sâu tâm lý

chây ỳ, ỷ vào bao cấp của nhà nước. đó cũng chính là một nguyên nhân làm

chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, mặt khác làm kém hiệu quả

trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại quốc doanh.

2.4 Thời kì từ tháng 1/2000 đến nay.

Ðây là thời kì nghiên cứu và ứng dụng nhiều văn bản quản lý pháp luật về

bảo đảm tiền vay nhất từ trước tới nay. Các qui định về bảo đảm tiền vay được đề

cập đến trong những văn bản sau:

 Nghị định 178/1999/NÐ-CP ngày 29/12/1999: về bảo đảm tiền vay của

tài chính tín dụng. Thông tư 06/TT-NHNN1 ngày 04/04/2000: hướng dẫn thực

hiện 178.

 Quy định 993/2001/QÐ-NHNN ngày 06/8/2001: quy định mức cho vay

không có bảo đảm bằng tài sản ngân hàng thương mại nhà nước, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài tại Việt Nam, công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước và

ngân hàng phục vụ người nghèo.

 Quy định 991/2001/QÐ-NHNN ngày 06/8/2001: quy định mức cho vay

không có bảo đảm bằng tài sản đối với quỹ tín dụng nhân dân các cấp.

 Quy định 992/2001/QÐ-NHNN ngày 06/8/2001: quy định mức cho vay

không có bảo đảm bằng tài sản đối với ngân hàng thương mại cổ phần, công ty

tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh.

 Nghị định 08/2000/NÐ-CP ngày 10/3/ 2000 của chính phủ về đăng kí

giao dịch bảo đảm.

 Quy định 67/1999/QÐ-ttg ngày 30/3/1999 và 148/1999/QÐ-ttg ngày

07/7/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ nông nghiệp và

nông thôn.

 Quy định 103/2000/QÐ-ttg ngày 25/8/2000 về một số chính sách phát

triển giống thuỷ sản.

 Quy định 132/2000/ QÐ-ttg ngày 24/11/2000 về một số chính sách phát

triển khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.

 Nghị quyết 11/2000/NQ-CP ngày 31/7/2000: về giải pháp điều hành kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong 6 tháng cuối năm 2000.

 Thông tư 10/2000/TT-NHNN1 ngày 31/8/2000 và thông tư

12/2000/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCÐC ngày 22/11/2000 hướng dẫn thực hiện

giải pháp về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng.

 Nghị định 24/2000/ NÐ-CP ngày 31/7/2000 của chính phủ: quy định chi

tiết về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và thông tư liên tịch số

772/2001/TTLT- TCÐC- NHNN.

 Thông tư 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCÐC ngày

23/4/2001 hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thu hồi nợ cho các tổ chức

tín dụng .

Ðây là hệ thống các văn bản liên quan đến cơ chế mới về bảo đảm tiền vay

của các tổ chức tín dụng. Nó đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc áp

dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, tạo cơ sở kinh tế

cũng như cơ sở pháp lý để thu hồi các khoản nợ, nhằm hạn chế và phòng ngừa

rủi ro trong cấp tín dụng dưới hình thức cho vay. Cơ chế mới tạo ra sân chơi bình

đẳng cho tổ chức tín dụng , khách hàng vay, xoá bỏ cơ chế xin - cho, bước đầu

tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại.

3 KHÁT QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGOÀI QUỐC DOANH

TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH:

3.1 Bối cảnh ảnh hưởng đến hoạt động cho vay ngoài quốc doanh

Trong những năm gần đây, hoạt động cho vay đối với khu vực ngoài quốc

doanh tại ngân hàng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như: hành lang pháp lý,

tình hình kinh tế xã hội và chính sách cho vay của bản thân ngân hàng.

Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài quốc

doanh tự nó đã khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Với tỉ trọng đóng

góp vào giá trị sản xuất trong nước ở mức 35%, kinh tế ngoài quốc doanh vừa là

đối trọng, vừa là một đối tác đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Cùng với khu

vực này, kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm bổ sung cho

thị trường. Chính sách mở cửa đầu tư nước ngoài và tiếp nhận sự hỗ trợ của công

ty tài chính quốc tế IFC mang lại nhiều cơ hội phát triển thuận lợi cho khu vực.

doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã ra đời

trong năm 2001, công ty trong khu vực kinh tế tư nhân được IFC rót vốn trực

tiếp, thể hiện tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển vững mạnh của nền

kinh tế. Nhận được sự ủng hộ của nhiều đối tượng khác nhau, khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh ngày càng mở rộng hoạt động và kết quả là nhu cầu vốn của họ

cũng không ngừng được nâng lên.

Mặc dù, đã có những thành tựu đáng kể trong công cuộc xây dựng đất

nước, nhưng do những yếu kém mà lịch sử để lại, trong con mắt của các nhà làm

luật, khu vực này vẫn là khu vực hoạt động bấp bênh, thiếu uy tín. Vì vậy, khung

pháp lý áp dụng đối với khu vực không thông thoáng, thậm chí gò ép cả đối với

cán bộ thực hiện cho vay.

3.2 Kết quả hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại ngân hàng công

thương khu vực Ba Ðình.

3.2.1 Cho vay vốn lưu động đối với kinh tế ngoài quốc doanh:

Cho vay vốn lưu động là các khoản vay ngắn hạn đối với các hãng kinh

doanh, chúng thường được dùng để mua hàng hoá hoặc nguyên vật liệu. Thông

thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức sản xuất và

nhu cầu tín dụng trong thời kì cao điểm của chu kì kinh doanh. Với đặc điềm đó,

khi cho vay vốn lưu động, ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay theo

hạn mức tín dụng. Tại ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình, hình thức cho

vay vốn lưu động luôn chiếm tỉ trọng lớn trong doanh số cho vay và tổng dư nợ.

Hiện tượng này hoàn toàn phù hợp với thực tế huy động vốn của ngân hàng.

Tình hình cho vay vốn lưu động

Ðơn vị: triệu đồng

1999 2000 2001

Doanh số Doanh số Doanh số

cho vay Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay Dư nợ

Công ty TNHH 9637 7886 7854 5411 30766 19499

HTX-Tổ SX 650 190 600 115 500 0

Tư nhân-cá thể 8394 3084 18154 5038 25040 8362

Cho vay sinh viên 64 145 829 1035 698 1074

Cho vay ngoại tệ 0 0 2522 950 2354 2278

Tổng cộng 18745 11305 29959 12549 59358 29559

Theo số liệu của phòng tín dụng ngoài quốc doanh

Năm 2001, hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tăng mạnh so với những

năm 2000. Mặc dù cơ chế cho vay đối với khu vực này có khắt khe hơn so với

những năm 1995-1996, nhưng do nhu cầu đầu tư vốn vào sản xuất, kinh doanh

và cung cấp dịch vụ trong khu vực tăng nhanh. Doanh số cho vay năm 2001 tăng

gần gấp đôi so với năm 2000. Dư nợ cho vay vốn lưu động chiếm 61,67% tổng

dư nợ ngoài quốc doanh. Con số này tăng hơn năm 2000 là 1,58 lần. Sự tăng

trưởng này chủ yếu bắt nguồn từ sự gia tăng trong nhu cầu vốn của các công ty

trách nhiệm hữu hạn và tư nhân, cá thể.

Hiện tượng này, một phần là kết quả của hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ

mô. Chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách kích cầu thông qua các công cụ như

giảm lãi suất cho vay, ưu đãi về thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, cũng như

việc hỗ trợ lãi suất đầu tư đã dần đi vào cuộc sống. Ðã có rất nhiều các doanh

nghiệp,các công ty ra đời và đi vào hoạt động. Phần lớn các công ty mới thành

lập hoạt động trên lĩnh vực thương mại và xuất nhập khẩu, nên nhu cầu vốn lưu

động cao.

3.2.2 Cho vay trung dài hạn đối với kinh tế ngoài quốc doanh:

Là loại hình cho vay kinh doanh có độ rủi ro cao nhất. Các khoản vay này

chủ yếu tập trung vào việc đầu tư vào các dự án hay xây dựng các tài sản cố định

dự kiến sẽ mang lại thu nhập trong tương lai. Thông thường cho vay đối với một

dự án trung dài hạn tại ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình đòi hỏi quy

trình thẩm định khá chặt chẽ. Các cán bộ tín dụng khi nhận được hồ sơ vay vốn

sẽ vận dụng các kiến thức của mình để thẩm định sơ bộ dự án đó. Một hội đồng

thẩm định ( không chính thức) được lập ra, chịu trách nhiệm kiểm tra tính chính

xác của thông tin do khách hàng cung cấp, đồng thời kiểm tra tính hợp pháp của

các yếu tố trong hồ sơ vay vốn. Công việc này thường được thực hiện thông qua

việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng vay vốn, điều tra trực tiếp tại cơ sở, gặp gỡ

các cấp chính quyền địa phương hoặc các đối tác làm ăn với khách hàng để

chứng thực các thông tin. Sau đó, dựa trên các kỹ thuật thẩm định dự án, hội

đồng thẩm định tính khả thi của dự án.

Vì đây là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng , nên chi

nhánh khá dè dặt trong việc cung cấp các khoản vay. Hoạt động cho vay trung

dài hạn của ngân hàng trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng sau:

Tình hình cho vay trung và dài hạn

Ðơn vị: triệu đồng

1999 2000 2001

Cho vay Dư nợ Cho vay Dư nợ Cho vay Dư nợ

Cho vay trung dài hạn 6337 10810 13449 17313 20521 0

Cho vay EC 500 0 1095 0 1093 0

Cho vay Việt Ðức 274 500 0 0 0 0

Cho vay vốn Ðài Loan 9276 0 7195 0 6125 0

Tổng cộng 16377 11310 21739 17313 27739 0

Nguồn: báo cáo của phòng tín dụng ngoài quốc doanh.

Tốc độ tăng của hoạt động cho vay trung dài hạn chậm hơn nhiều so với tốc

độ tăng trong hoạt động cho vay vốn lưu động. Các khoản vay từ nguồn vốn tài

trợ trong vài năm gần đây hầu như không thực hiện được, mà ngân hàng chỉ chủ

yếu tập trung vào hoạt động thu nợ.

Tuy nhiên, chi nhánh vẫn ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể trong hoạt động

này, từ 10 tỉ VND lên 16 tỉ VND tương ứng với tốc độ tăng là 60%. Sở dĩ có

được kết quả này là do nỗ lực không ngừng của các cán bộ tín dụng trong việc

khơi thông nguồn vốn tín dụng, đồng thời phải kể đến nhu cầu đầu tư cho các dự

án gia tăng.

Mặc dù, chiếm tỷ trọng nhỏ so với hoạt động cho vay ngoài quốc doanh,

nhưng nợ quá hạn của các dự án vay lại khá cao. Nguyên nhân chính là vì các dự

án vay vốn này khi đưa vào vận hành gặp phải nhiều vướng mắc như thiếu kinh

nghiệm trong đàm phán với nước ngoài, thiếu thông tin, công nghệ lựa chọn

không phù hợp, lại không có được chuyên viên kỹ thuật tư vấn. Kết quả là sản

phẩm làm ra không phù hợp với thị trường.

4 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO ÐẢM TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN

DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG

THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH:

4.1 Các hình thức bảo đảm tiền vay áp dụng đối với khách hàng trong khu

vực kinh tế ngoài quốc doanh:

Ngân hàng là một thể chế tài chính hoạt động trong một hành lang pháp lý

hẹp nhất so với bất kì một tổ chức kinh tế nào. Khung pháp lý này lại càng khắt

khe hơn đối với những ngân hàng được xây dựng trong một nền kinh tế đang

chập chững bước vào cơ chế thị trường. Cũng như vậy, ngân hàng công thương

khu vực Ba Ðình hoạt động dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước và sự

quản lý trực tiếp của Ngân hàng công thương Việt nam. Mọi hoạt động của chi

nhánh, đặc biệt là hoạt động cho vay của chi nhánh phải tuân thủ các nghị định,

nghị quyết của chính phủ, quy chế và thể lệ của Ngân hàng Nhà nước và chỉ thị,

công văn của Ngân hàng công thương.

Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN đã mở ra cho chi nhánh một hướng hoạt

động mới: hoàn toàn tự chủ trong quyết định cho vay cũng như việc lựa chọn

hình thức bảo đảm tiền vay. Đồng thời Nghị định 178/1999/NĐ-CP cũng quy

định các hình thức bảo đảm tiền vay mà Ngân hàng có thể áp dụng là :

1. Biện pháp bảo đảm bằng tài sản:

a. Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.

b. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.

c. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.

2. Biện pháp bảo đảm trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng

tài sản:

a. Tổ chức tính dụng chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có

bảo đảm bằng tài sản.

b. Tổ chức tín dụng Nhà nước được cho vay không có bảo đảm bằng tài

sản theo Nghị định của Chính phủ.

c. Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn bảo lãnh bằng

tín chấp của tổ chức chính trị, xã hội.

Như đã đề cập ở chương I, việc lựa chọn khách hàng vay là biện pháp quan

trọng nhất trong việc thực hiện bảo đảm tiền vay. Do đó, bất kỳ khách hàng nào

khi đến với ngân hàng, các cán bộ tín dụng đều phải đánh giá khách hàng trên

các khía cạnh tài chính và phi tài chính, đồng thời thẩm định phương án sử dụng

vốn vay. Và tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng, uy tín của khách

hàng cũng như hiệu quả của dự án mà chi nhánh quyết định hình thức bảo đảm

đối vật hay đối nhân. Tuy nhiên, một phần do hạn chế từ phía khung pháp lý, mặt

khác do sự dè dặt của các cán bộ tín dụng nên chi nhánh không áp dụng biện

pháp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà thường yêu cầu khách hàng sẵn

sàng chấp nhận những điều kiện về tài sản kèm theo. Vì lẽ đó, các điều kiện về

tài sản mà khách hàng phải thực hiện khi vay vốn ngân hàng bao gồm:

 Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay

 Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay

 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3

 Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay

 Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với cán bộ công nhân viên.

4.2 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng

vay:

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay là hình thức

bảo đảm tiền vay chủ yếu mà chi nhánh áp dụng đối với khách hàng tham gia vay

vốn, đặc biệt là đối với cho vay trung dài hạn.

Các tài sản được sử dụng làm tài sản thế chấp:

- Theo thông tư 06/2000/TT-NHNN1, các tài sản mà khách hàng được phép

thế chấp để bảo đảm cho khoản tiền vay của mình bao gồm:

- Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả tài sản gắn với nhà ở,

công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất.

- Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp.

Trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ, thì vật phụ đó thuộc tài sản

thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật

phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận.

- Tàu biển theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt nam, tàu bay theo quy

định của Luật hàng không dân dụng Việt nam trong trường hợp được thế chấp.

- Các tài sản khác theo quy định của Pháp luật

Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ thế chấp cũng thuộc tài sản thế

chấp, nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, trường hợp tài sản

thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.

Nhưng do đặc điểm của chi nhánh là hoạt động trên địa bàn đông dân cư, là

nơi tập trung nhiều trụ sở và cơ quan hành chính, nên các khách hàng có nhu cầu

vay vốn của ngân hàng thường được ngân hàng lựa chọn hình thức bảo đảm tiền

vay bằng tài sản thế chấp là nhà ở, máy móc, thiết bị và quyền sử dụng đất.

Điều kiện về tài sản:

Theo thông tư 06/2000/TT-NHNN1, chi nhánh chỉ được lựa chọn tài sản

làm tài sản thế chấp khi tài sản đó thoả mãn các điều kiện sau: Tài sản phải thuộc

quyền sở hữu của khách hàng vay. Nếu pháp luật có quy định tài sản phải đăng kí

quyền sở hữu thì khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản,

nếu tài sản là quyền sử dụng đất thì khách hàng phải có giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của luật đất đai. Trên thực tế, việc

chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất hợp pháp của chủ tài sản là

công việc làm mất nhiều thời gian của các cán bộ tín dụng, vì thường các tài sản

không nằm dưới quyền kiểm soát của chủ sở hữu đầu tiên. Chi nhánh thường thu

thập thông tin về quyền sở hữu của khách hàng đối với tài sản tại cơ quan đăng kí

quyền sở hữu; quyền sử dụng đất ở Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung Ương (đối với các tổ chức sử dụng đất và những đối tượng được Chính

phủ giao đất) hoặc ở Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

(đối với hộ gia đình và cá nhân). “ Trường hợp những tài sản được dùng làm tài

sản thế chấp là máy móc, thiết bị gắn liền với nhà xưởng, công trình xây dựng,

các tài sản gắn liền với đất mà pháp luật chưa có quy định phải đăng kí quyền sở

hữu, ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp những giấy tờ chứng

minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp như: hợp đồng mua bán, tặng, cho

tài sản, hoá đơn mua bán theo quy định của Bộ tài chính, chứng từ nộp tiền mua

hàng, biên bản nghiệm thu công trinh và các giấy tờ khác phù hợp với quy định

của pháp luật” - theo thông tư 12/2000/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCÐC.

Xác định giá trị tài sản thế chấp:

Giá trị tài sản thế chấp là cơ sở để chi nhánh cho vay đối với khách hàng,

vì vậy việc định giá giá trị của tài sản thế chấp có ý nghĩa rất lớn đối với khách

hàng vay cũng như đối với ngân hàng. Nếu giá trị của tài sản được định giá quá

thấp so với giá trị thực của nó, khách hàng sẽ không thể nhận đủ lượng vốn cần

thiết để theo kịp tiến độ sản xuất kinh doanh hoặc bỏ lỡ cơ hội sinh lời cao. Ðây

có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiền vay không

đúng mục đích. Ngược lại, nếu định giá quá cao giá trị tài sản thế chấp hoặc

không dự báo được xu hướng biến động giá của tài sản, khi rủi ro tín dụng phát

sinh, ngân hàng phải phát mại tài sản để thu hồi nợ, lúc đó, do giá trị tài sản được

định giá cao hơn giá trị thực, ngân hàng sẽ gánh chịu tổn thất do giá trị bảo đảm

không đủ bù nợ vay. Vậy, việc đánh giá chính xác tính khả mại của tài sản có

liên quan trực tiếp đến những mất mát mà ngân hàng phải chịu khi rủi ro tín dụng

xảy ra.

Hiện nay, chi nhánh vẫn đang sử dụng khung giá nhà đất do Chính phủ xây

dựng từ năm 1997, trên cơ sở tham khảo giá thị trường và dự báo xu hướng biến

động để định giá giá trị tài sản có lợi cho cả 2 bên. Tuy nhiên, trong một vài năm

trở lại đây, ở Hà nội có hiện tượng sốt giá nhà đất. Có nhiều người cho rằng, đây

là cơn sốt đất giả tạo, là hiện tượng bong bóng trong mua bán nhà đất, và họ dự

báo: cùng với sự ra đời của hàng loạt khu chung cư, nhu cầu nhà đất của người

dân Hà nội sẽ theo đó mà hạ nhiệt. Cùng chung nhận định về xu hướng biến động

giá như vậy, ngân hàng thường đưa ra mức giá nhà đất thấp hơn khá nhiều so với

giá trị thực của tài sản. Theo kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng phòng tín dụng

ngoài quốc doanh, giá trị tài sản thế chấp không chỉ được định giá thấp so với giá

trị thị trường, mà còn nằm trong biên độ giao động giảm khá rộng.

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp năm 2001

Ðơn vị: triệu đồng

Loại hình tài sản Tỷ trọng (%) Cho vay Thu nợ Dư nợ

Cho vay trung dài hạn 39.2 12515 5250,27 9441,47

- Thế chấp nhà 29.8 9515 3281,25 6739,47

- Thế chấp ô tô 900 656.34 900 2.8

- Máy móc thiết bị 2100 1312.68 1802 6.6

Cho vay vốn lưu động 60.8 19410 7362,81 13009

- Thế chấp nhà 19410 7362,81 13009 60.8

Tổng cộng 31925 12613.08 22450.47

Nguồn: Báo cáo của phòng tín dụng ngoài quốc doanh

Phần lớn các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp mà ngân hàng

cung cấp đều tồn tại dưới hình thức thế chấp nhà (chiếm tỷ trọng 90% trong tổng

doanh số cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp). Mà theo nghị định

178/1999/NÐ-CP thì khi thế chấp tài sản gắn liền với đất, khách hàng vay phải

thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản đó, trừ trường hợp pháp

luật có quy định khác. Như vậy, khi cho vay có bảo đảm bằng nhà, ngân hàng

không chỉ phải xác định quyền sở hữu nhà mà còn yêu cầu khách hàng vay chứng

minh quyền sử dụng đất.

Nhưng hiện nay, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đang

trong giai đoạn triển khai, nên tỉ lệ đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất còn rất khiêm tốn. Hơn nữa, trên địa bàn hoạt động của chi nhánh, đã và đang

có rất nhiều cá nhân sống ở khu chung cư có nhu cầu vay vốn. Song, các nhà ở

cao tầng hiện nay hầu như không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ðiều này tạo ra một rào cản rất lớn đối với khách hàng vay. Mặc dù vậy, các cán

bộ tín dụng của phòng đã rất linh hoạt trong việc xử lý tình huống này.

Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp

Nhà( vay vốn lưu động) Ô tô

Nhà( vay trung và dài hạn) Máy móc, thiết bị

Việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp là các tài sản khác ngoài nhà ở và

quyền sử dụng đất tại chi nhánh còn rất hạn chế. Chỉ có khoảng 4-5 món vay

trong năm, vay thế chấp bằng ô tô, vay thế chấp bằng máy móc thiết bị. Thường

ngân hàng rất thận trọng trong khi cho vay đối với những đối tượng vay vốn theo

hình thức bảo đảm này. Vì những tài sản thế chấp này, theo nghị định

178/1999/NÐ-CP, khách hàng có thể giữ tài sản để khai thác, mà đặc điểm của

những tài sản này là có tính hao mòn nhanh, đặc biệt là hao mòn vô hình. Cho

nên, giá trị những tài sản này có xu hướng biến động rất lớn. Không giống như sự

biến động của đất đai, nhà ở - là những biến động có thể dự đoán trong thời gian

tương đối dài, sự biến động của máy móc, thiết bị phụ thuộc rất lớn vào sự ra đời

của các công nghệ mới. Mà với trình độ kỹ thuật của các cán bộ tín dụng hiện

nay, thì việc xác định giá trị của loại tài sản này rất khó có thể thực hiện được.

4.3 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng

vay:

Tồn tại hai quy định: “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức

cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khách và Tổ chức tín dụng

được phép cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng

vay” đã có thời gian gây nhầm lẫn cho ngân hàng. Nhưng, về mặt bản chất, đây

là hai hình thức cho vay khác hẳn nhau. Việc cấp tín dụng dưới hình thức cầm

cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác là một nghiệp vụ cấp tín dụng

của ngân hàng, còn việc cầm cố tài sản của khách hàng vay khi cho vay chỉ là

một hình thức bảo đảm tiền vay mà ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện khi

cho vay. Không những thế, phạm vi đối tượng cầm cố trong hai quy định này

cũng khác hẳn nhau. Trong khi đối tượng cầm cố của nghiệp vụ cấp tín dụng

dưới hình thức cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác chỉ là

thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn, thì theo thông tư 06/2000/TT-

NHNN1, các tài sản của khách hàng vay được dùng để bảo đảm tiền vay bằng

hình thức cầm cố bao gồm:

- Máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim

khí quý, đá quý.

- Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại các tổ chức tín

dụng bằng tiền Việt nam, ngoại tệ.

- Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm,

thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền, riêng đối với cổ phiếu của

chính tổ chức tín dụng phát hành thì tổ chức tín dụng không được nhận làm tài

sản cầm cố.

- Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,

quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát

sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.

- Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh

nghiệp có vốn đầu ta nước ngoài.- Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo

quy định của pháp luật.

- Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải việt nam, tàu bay theo quy

định của Luật hàng không dân dụng Việt nam trong trường hợp được cầm cố.

- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Lợi tức và các quyền phát

sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố nếu các bên có thoả thuận hoặc

pháp luật có quy định; trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền

bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.

Với danh mục các tài sản được phép cầm cố để vay vốn phong phú như

vậy, ngân hàng có điều kiện rất thuận lợi để mở rộng danh sách khách hàng vay,

tuy nhiên trên thực tế, các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố mà ngân

hàng cung cấp mới chỉ dừng lại ở tài sản cầm cố là xe máy, máy móc thiết bị, sổ

tiết kiệm và trái phiếu kho bạc... Mà chủ yếu các khoản vay này chỉ dùng để tài

trợ cho nhu cầu vốn ngắn hạn.

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố năm 2001

Ðơn vị: triệu đồng

Loại hình tài sản Tỷ trọng (%) Cho vay Thu nợ Dư nợ

Sổ tiết kiệm 94,0 20123,4 7237 14018

Trái phiếu kho bạc 5,52 1184,4 420 960

Xe máy 0,48 96,2 50 68,34

Tổng cộng 21404 7707 15046,34

Nguồn: Báo cáo của phòng tín dụng ngoài quốc doanh

Cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố sổ tiết kiệm và trái phiếu kho bạc chiếm

tỷ trọng lớn trong cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố. Phần lớn các khoản

vay này đều phát sinh khi khách hàng có nhu cầu về vốn trước thời gian đáo hạn

của sổ tiết kiệm và trái phiếu kho bạc. Nếu tài sản của khách hàng có mệnh giá

lớn, thì việc rút sổ tiết kiệm hay bán trái phiếu kho bạc khiến khách hàng vay

chịu thiệt nhiều hơn so với lãi suất vay của ngân hàng. Khi đó, khách hàng tìm

đến với ngân hàng, xin vay vốn dưới hình thức bảo đảm tiền vay là cầm cố.

Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố

Sổ tiết kiệm Trái phiếu kho bạc Xe máy

Các cán bộ tín dụng thường xác định thời hạn cho vay đối với khoản vay đó dựa

trên khoảng thời gian từ thời điểm kí kết hợp đồng cho đến lúc sổ tiết kiệm hay

trái phiếu chính phủ đáo hạn. Ðây là hình thức bảo đảm tiền vay an toàn nhất đối

với chi nhánh vì sổ tiết kiệm và trái phiếu kho bạc là loại loại giấy tờ có giá mà

khi đem cầm cố, khách hàng luôn phải để lại ngân hàng.

4.4 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba:

Trong doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ có 4,3

tỷ VND dành cho các công ty cổ phần thành lập từ doanh nghiệp Nhà nước với

hình thức bảo lãnh bằng tín chấp của cơ quan, đơn vị quản lý và một số ít các

khoản vay được bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3 (chiếm khoảng 3.75% trong

tổng doanh số cho vay). Mặc dù chi nhánh luôn coi bảo lãnh bằng tài sản của bên

thứ 3 cũng chỉ là hình thức bảo đảm tiền vay giống như 2 hình thức trên, nhưng

số món vay có bảo đảm bằng hình thức này còn khá khiêm tốn. Hình thức bảo

đảm này thường được các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các

công ty tư nhân áp dụng khi vay vốn chi nhánh để đầu tư cho các dự án trung dài

hạn. Vì các dự án này cần một lượng vốn tương đối lớn, trong khi vốn tự có của

các công ty này thường rất nhỏ, nên khi vay vốn ngân hàng, họ thường kêu gọi sự

bảo lãnh của những thành viên trong công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu

hạn và công ty cổ phần) và của người thân của chủ sở hữu công ty (đối với công

ty tư nhân). Các tài sản của bên bảo lãnh cùng với các tài sản thế chấp hoặc cầm

cố của công ty sẽ cùng trở thành tài sản bảo đảm cho khoản vay.

Vì bên bảo lãnh sẽ là người cùng ngân hàng chia sẻ rủi ro trong hoạt động

kinh doanh của các công ty, nên các cán bộ tín dụng luôn phải chắc chắn rằng

bên bảo lãnh hiểu rõ trách nhiệm mình khi đứng ra bảo lãnh đồng thời tự nguyện

đỡ đầu cho người vay bằng cách thế chấp hay cầm cố tài sản thuộc sở hữu của

mình cho ngân hàng.

4.5 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:

Nghị định 178 của Chính phủ quy định việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản

hình thành từ vốn vay chỉ áp dụng đối với loại cho vay trung và dài hạn, bởi đây

là hình thức bảo đảm có nhiều rủi ro hơn cầm cố. thế chấp tài sản, do khi phát

tiền vay chưa có tài sản bảo đảm. Hơn nữa, việc quản lý trong quá trình hình

thành tài sản tuỳ thuộc vào điều kiện và trình độ quản lý của chi nhánh. Do đó,

phòng tín dụng ngoài quốc doanh chỉ áp dụng hình thức bảo đảm này đối với các

công ty có quan hệ làm ăn lâu dài với chi nhánh, khi các khoản tiền vay trước đó

đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Doanh số cho vay dưới hình thức

bảo đảm này chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, vì số lượng các công ty có quan hệ vay

vốn thường xuyên với chi nhánh chỉ có 6 công ty trong tổng số 34 công ty tham

gia vay vốn.

4.6 Hoạt động cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:

Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản ở chi nhánh ngân hàng công

thương khu vực Ba Ðình hiện nay chỉ giành cho các đối tượng là cán bộ công

nhân viên. Loại cho vay này không lấy tài sản thế chấp mà lấy thu nhập thường

xuyên( chủ yếu là tiền lương) làm bảo đảm tiền vay. Doanh số cho vay đối với

cán bộ công nhân viên năm 2001 đạt 5,2 tỷ VND chiếm tỷ trọng 6,54% so với

tổng doanh số cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh. Ðây là loại vay được

đánh giá từ phía ngân hàng thương mại là có tỷ lệ nợ quá hạn thấp, được chi

nhánh quan tâm.

Khả năng trả nợ của người vay chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập thường

xuyên tại cơ quan doanh nghiệp, mà ít phụ thuộc và không ràng buộc vào các thu

nhập khác, cũng như không phụ thuộc chính yếu vào việc sử dụng tiền vay có

hiệu quả cao hay thấp. Bảo đảm bằng thu nhập tại cơ quan doanh nghiệp, gồm

lương, phụ cấp và thu nhập thường xuyên khác, những thu nhập này thường gắn

chặt với tình hình hoạt động của cơ quan mà người vay vốn làm việc. Ðồng thời,

cơ quan doanh nghiệp chính là chỗ dựa cho chi nhánh có thể cho cán bộ công

nhân viên vay mà không cần thế chấp tài sản. Do vây, khi cho vay, cán bộ phòng

tín dụng ngoài quốc doanh quan tâm đến những vấn đề sau:

Sự ổn định của thu nhập của người vay thông qua quan hệ hợp đồng lao

động đối với cơ quan, doanh nghiệp nơi làm việc. Trước khi cho vay chi nhánh

phải chứng thực được mức thu nhập mà người vay thực tế nhận được ở đơn vị.

Hơn nữa, mục đích vay vốn của các cán bộ công nhân viên chủ yếu là để mang

lại lợi ích cho cả gia đình họ. Chi nhánh cũng quan tâm đến trách nhiệm của

người cùng sử dụng vốn vay hay người có trách nhiệm trả thay khi người vay

không có khả năng hoàn trả nợ. Trước đây, do sơ suất này, chi nhánh đã phải

chịu mất mát trong một số khoản vay.

4.7 Đánh giá về công tác bảo đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc

doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình:

4.7.1 Những kết quả mà chi nhánh đã đạt được trong việc thực hiện bảo

đảm tiền vay:

Như đã thảo luận ở chương I, nội dung đề tài sẽ tập trung tìm hiểu biện

pháp đầu tiên trong các biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp lựa chọn khách

hàng để cung ứng các khoản vay. Ta cũng lập luận tằng, việc lựa chọn đúng

khách hàng để cho vay có khả năng hạn chế và giảm thiểu những rủi ro phát sinh

và tạo điều kiện cho chi nhánh chủ động trong việc áp dụng các biện pháp kế

tiếp. Có hể nói, việc thực hiện bảo đảm tiền vay của chi nhánh đã gặt hái được

những thành công đáng kể:

a) Thực sự là biện pháp hữu hiệu để khoản vay có thể trở về với ngân hàng

một cách an toàn và có lợi:

Mức độ an toàn của các khoản vay khi quay trở về với ngân hàng thể hiện

qua khả năng thu hồi nợ và nợ quá hạn còn tồn đọng tại ngân hàng:

Đơn vị: triệu đồng

Năm 2000 2001

Chỉ tiêu Thu hồi nợ Nợ quá hạn Thu hồi nợ Nợ quá hạn

Cho vay vốn lưu động 26587 685 51742 600

Cho vay trung và dài 5539 261 11574 271

hạn

Tổng cộng 32126 946 63316 871

Theo số liệu của phòng tín dụng ngoài quốc doanh

Qua bảng số liệu ta thấy, không những doanh số cho vay của năm 2001

tăng hơn so với năm 2000 mà khả năng thu hồi nợ trên các khoản vay cũng tăng

lên, đồng thời tỷ lệ nợ quá hạn cũng giảm đi. Tỷ lệ thu hồi nợ/doanh số cho vay

trong năm 2001 là 82%, cao hơn so với năm 2000 ( là 80%). Điều đó chứng tỏ

việc thu hồi nợ của năm 2001 tiến triển tốt hơn các năm trước. Đồng thời, chi

nhánh cũng đã thu hồi được một khoản nợ quá hạn tồn đọng từ nhiều năm nay.

Đó là việc thu hồi khoản nợ quá hạn của công ty điện tử EIE là 85 triệu. Sở dĩ có

được kết quả này là do khâu lựa chọn khách hàng vay vốn khá cẩn trọng và bước

đầu có thể coi là sự lựa chọn chính xác.

b) Tạo điều kiện cho việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong

quá trình giải ngân và khi phát sinh nợ quá hạn:

Sở dĩ sự đúng đắn trong việc lựa chọn khách hàng vay có thể tạo điều kiện

thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp kế tiếp là vì:

Có nhiều khách hàng trong quá trình tiếp xúc và đánh giá khả năng sử dụng

vốn vay, cán bộ tín dụng đã thấy được những khó khăn có thể xảy ra đối với

khách hàng trong quá trình sử dụng vốn cũng như rủi ro có thể phát sinh, nhưng

cán bộ tín dụng lại không đủ lí do để từ chối việc vay vốn. Do vậy, trong thời

gian giải ngân, các cán bộ tín dụng luôn đặc biệt lưu tâm đến những khoản vay

đó, và đã có những biện pháp tháo gỡ kịp thời, giúp doanh nghiệp có thể sử dụng

vốn hiệu quả hơn. Ví như: Công ty trách nhiệm hữu hạn C&E vay vốn trung dài

hạn từ nguồn vốn uỷ thác Đài Loan để đầu tư dây chuyền sản xuất gỗ, nhưng do

thiết bị lạc hậu và tiêu thụ gặp khó khăn, chi nhánh được sự đồng ý của Ngân

hàng công thương Việt Nam đã đồng ý cho công ty kéo dài thời hạn vay thêm 48

tháng và điều chỉnh kế hoạch trả nợ.

Mặt khác, việc định giá tài sản bảo đảm đã giúp chi nhánh có thể thu hồi

được những món nợ tồn đọng có tài sản thế chấp. Năm 2001, cùng với các cơ

quan nằm trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố, chi nhánh đã tiến hành tái bán

đấu giá dứt điểm ngôi nhà phường Giảng Võ 280 triệu. Nay người mua đã nộp đủ

tiền và nhận nhà ở. Đây là món nợ quá hạn của bà Nguyễn Thị Uyển với số tiền

gốc là 102 triệu từ nhiều năm nay.

c) Bảo đảm tiền vay là nhân tố góp phần mở rộng tín dụng của Chi nhánh:

Cơ chế bảo đảm tiền vay mới đã tạo điều kiện cho việc mở rộng tín dụng

của Chi nhánh trên một số mặt sau:

Việc quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm tiền vay đã tạo điều kiện thuận

lợi cho cán bộ tín dụng khi tiếp xúc và thẩm định các điều kiện vay vốn của

khách hàng. Danh mục các loại hình tài sản bảo đảm cùng các yếu tố có liên quan

trong nghị định 178/1999/NĐ-CP và thông tư 06/2000/TT-NHNN1 phù hợp với

thực tế và đã giải quyết được nhiều “mâu thuẫn” giữa những cái mà khách hàng

có với những các mà ngân hàng cần. Sự đa dạng hóa trong các loại tài sản bảo

đảm mở ra nhiều hướng cho vay, trong đó, tài sản bảo đảm được coi như là một

trong những điều kiện để xét duyệt nhu cầu vay vốn. Chính vì vậy mà chi nhánh

cũng như các ngân hàng thương mại khác cũng được lợi rất nhiều khi ra đời cơ

chế này.

Sự mở rộng tín dụng được thể hiện qua tình hình tăng trưởng của doanh số

cho vay như sau:

Năm 1999 2000 2001

Doanh số cho vay 18745 41269 76671

Có thể thất được sự tăng trưởng vượt bậc trong doanh số cho vay của Chi

nhánh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là khu vực kinh tế chứa

nhiều yếu tố rủi ro khi cho vay khiến các ngân hàng thường đòi hỏi tài sản bảo

đảm như một yêu cầu bắt buộc, thì kết quả đạt được ở trên không thể có được

nếu thiếu đi vai trò của bảo đảm tiền vay.

Cũng như các ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng công thương Ba

Đình có thêm một hình thức cho vay nữa là cho vay có tài sản bảo đảm hình

thành từ vốn vay từ khi có những quy định khởi đầu về vấn đề này. Mặc dầu nó

chưa được áp dụng nhiều nhưng chắc chắn sẽ có xu hướng phát triển trong tương

lai nhờ những ưu điểm của hình thức này.

4.7.2 Những hạn chế và vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện

bảo đảm tiền vay:

Mặc dù doanh cho vay và dư nợ ngoài quốc doanh của năm 2001 tăng

mạnh, nhưng kết quả đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng cũng

như chưa đáp ứng đáng kể nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế ngoài

quốc doanh:

a) Sự dè dặt trong cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh:

Nghị định 178/1999/NĐ-CP, tiếp theo đó là công văn 1219/NHCT5 đã có

những quy định và hướng dẫn đối với hình thức cho vay không có bảo đảm bằng

tài sản. Theo những quy định này, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn

được phép cho vay không có bảo đảm bằng tài sản nếu đáp ứng được một số yêu

cầu đề ra:

Thứ nhất, theo thông tư 06/2000/TT-NHNN1, các điều kiện đó là:

“ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và

trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.

Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có

khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù

hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp vay để phục vụ nhu cầu thiết

yếu của đời sống thì khách hàng vay phải có phương án trả nợ khả thi.

Có khả năng tài chính và các nguồn thu hợp pháp có khả năng thu được

trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng;

Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức

tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam

kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài

sản quy định tại điểm này.”

Thêm vào đó, nếu khách hàng là doanh nghiệp thì hàng năm phải thực hiện

kiểm toán và phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán đối với kết quả sản xuất,

kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được vay

không có bảo đảm bằng tài sản sau khi doanh nghiệp đã sử dụng hết tài sản để

cầm cố thế chấp cho chi nhánh.

Quy định như vậy phần nào không khuyến khích việc cho vay không có bảo

đảm bằng tài sản đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì nếu cán bộ tín dụng

có khả năng đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng, việc quy định doanh

nghiệp chỉ được vay không có bảo đảm bằng tài sản khi đã cầm cố hay thế chấp

hết tài sản của khách hàng có thể là một trở ngại trong việc giữ những khách

hàng lâu nămVì có những doanh nghiệp đã vay vốn nhiều lần ở chi nhánh và có

uy tín trong việc sử dụng vốn vay và thanh toán nợ, nhưng nhu cầu vay vốn của

họ chưa vượt quá giá trị tài sản có thể sử dụng làm bảo đảm.

b) Các loại hình tài sản bảo đảm chưa đa dạng:

Thông tư 06/TT-NHNN1 hướng dẫn thực hiện nghị định 178/1999/NÐ-CP

đã mở ra cho chi nhánh một danh mục các tài sản có thể sử dụng để bảo đảm cho

khoản vay, nhưng các tài sản được Ngân hàng chấp nhận làm tài sản bảo đảm

còn rất hạn chế, chỉ dừng lại ở các tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, sổ tiết

kiệm, trái phiếu kho bạc. Một số khoản vay có thế chấp bằng máy móc, thiết bị

chủ yếu dành cho các công ty có quan hệ vay vốn truyền thống của Ngân hàng.

Ðây là một cản trở rất lớn đối với khu vực ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận

vốn Ngân hàng.

c) Việc định giá tài sản bảo đảm còn mang tính chủ quan:

Cũng như đa số các ngân hàng thương mại Việt Nam, việc tiến hành định

giá tài sản bảo đảm của khách hàng đều do Hội đồng tín dụng của chi nhánh tiến

hành mà không có sự tham gia của các cơ quan chuyên môn. Sở dĩ việc định giá

tài sản bảo đảm thiếu vắng cơ quan chuyên môn là do hầu hết các khoản cho vay

của chi nhánh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có giá trị thấp ( một

phần do quy định hạn chế của ngân hàng công thương Việt Nam) và tài sản bảo

đảm thường không quá khó để đánh giá. Nhưng trong yêu cầu phát triển ngày

càng cao của kinh doanh thì an toàn lại càng phải được chú trọng hơn. Chính vì

thế đánh giá tài sản bảo đảm một cách chính xác là một trong những yêu cầu

không thể thiếu được.

d) Về vấn đề công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm:

Các món vay của cá nhân và tổ chức ngoài quốc doanh thường có giá trị

thấp, nên không giống như các cán bộ tín dụng quốc doanh, phòng ngoài quốc

doanh phải tìm kiếm, tiếp cận và theo dõi rất nhiều các hồ sơ xin vay vốn. Theo

điều 7-nghị định 178/1999/NĐ-CP về điều kiện thủ tục thực hiện bảo đảm tiền

vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và bảo lãnh của bên thứ

ba: nếu có thoả thuận, hợp động bảo đảm phải có chứng nhận của công chứng

Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền, trừ trường

hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, theo nghị định này, việc công chứng,

chứng thực sẽ chỉ được thực hiện nếu hai bên có thoả thuận. Nhưng trên thực tế,

các cán bộ tín dụng không biết hết được các quy định của pháp luật liên qua đến

công chứng, chứng thực và trường hợp nào là trường hợp “pháp luật quy định

khác”. Cho nên, để bảo đảm an toàn cho khoản vay và làm cơ sở để chi nhanh có

thể thu hồi vốn khi rủi ro tín dụng phát sinh, các cán bộ tín dụng thường yêu cầu

khách hàng thực hiện thủ tục công chứng, chứng thực. Nhưng thủ tục công

chứng, chứng thực rất rườm rà, gây tốn phí thời gian cho cả Ngân hàng và khách

hàng vay vốn, phần nào thu hẹp mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng mới.

Mặt khác, các nhân viên công chứng thường thiếu tôn trọng tính tự nguyện,

tính thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng và tính ý chí của hai bên. Vì dù

sao cả hai bên kí kết hợp đồng đều là những pháp nhân hay thể nhân có đầy đủ

năng lực dân sự và năng lực pháp lý trong kí kết hợp đồng. Thậm chí, nhiều nơi

công chứng còn áp đặt mẫu hợp đồng cho vả hai bên, áp đặt thời gian vay vốn và

thời hạn thế chấp. Ðiều này đặc biệt không phù hợp với quan hệ tín dụng giữa

ngân hàng và doanh nghiệp- là quan hệ có tính thường xuyên và có tính kinh tế.

e) Khách hàng vay vốn có bảo đảm bằng tài sản thế chấp rất quan tâm đến

giá trị tài sản đem thế chấp của mình được định giá như thế nào? Vì nó quyết

định giá trị khoản vay mà họ nhận được. Thông thường, chi nhánh cho vay từ 70-

80% giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên, việc định giá tài sản thế chấp, nhất là nhà

ở không phù hợp với thực tế, khiến các khách hàng vay, dù xây dựng được một

dự án khả thi, nhưng không nhận được đủ số tiền vay như dự kiến. Hơn nữa,

trong thời gian qua, ngân hàng cũng từ chối rất nhiều yêu cầu vay vốn từ khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh. Lí do chủ yếu không phải là khách hàng không có mục

đích sử dụng vốn vay hợp lý hay vì lí do tiềm lực tài chính của khách hàng của

yếu, mà là vì tài sản thế chấp không có đủ giấy tờ hợp pháp về quyền sở hữu tài

sản, quyền sử dụng đất và bất động sản.

f) Về tài sản mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu:

Việc đăng ký quyền sở hữu tài sản có liên quan đến quyết định ai sẽ là

người giữ tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm và việc một tài sản có thể được

sử dụng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ. Theo điều 174 Bộ luật dân sự: “ Những

tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký”.

Nhưng, hiện nay Luật và các văn bản dưới luật chưa có văn bản nào quy định

trực tiếp và đầy đủ về những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, mà những quy

định này nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, khiến các cán bộ tín dụng rất

khó thu thập và xử lý những tình huống phát sinh đúng theo quy định của pháp

luật.

Những tồn tại nói trên không chỉ xuất phát từ bản thân Ngân hàng mà còn

chịu nhiều ảnh hưởng từ phía khách hàng vay vốn lẫn môi trường pháp lý để thực

hiện bảo đảm tiền vay.

Việc tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trên là cơ sở đưa

ra những giải pháp góp phần khơi thông nguồn vốn và giúp ngân hàng hoạt động

hiệu quả hơn.

a) Nguyên nhân từ phía khách hàng vay:

Là người có nhu cầu cấp thiết về vốn, nên khách hàng luôn muốn nhanh

chống nhận được tiền vay từ phía ngân hàng. Nhưng thực tế cho thấy các cá nhân

hay tổ chức ngoài quốc doanh không hiểu rõ về điều kiện vay vốn của Ngân

hàng, nên họ nghĩ chỉ cần một phương án sản xuất kinh doanh là đủ. Suy nghĩ

như vậy thường dẫn đến thất bại trong quan hệ vay vốn, bởi lẽ, tính khả thi mà

khách hàng xây dựng dự án, tính khả thi mà Ngân hàng xem xét có phần khác

nhau. Ngân hàng không chỉ dựa trên khả năng mang lại lợi nhuận của dự án cũng

như nguồn trả nợ ổn định của dự án, mà còn phải xem xét mức độ rủi ro mà

khách hàng phải chia sẻ với mình. Ðó chính là vốn tự có của khách hàng đầu tư

cho dự án vay. Tuy nhiên, vốn tự có của khách hàng ngoài quốc doanh (đặc biệt

là tư nhân và cá thể) thường là quá nhỏ, nên nhiều khi họ tự ý nâng giá trị vốn

chủ sở hữu lên. Kết quả là, khi đi thực tế, các cán bộ tín dụng lập tức từ chối cho

vay.

Khách hàng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thường không có trình

độ về lập phương án sản xuất kinh doanh. Hồ sơ vay vốn thường có nhiều thiếu

sót, việc tính toán các chỉ tiêu của dự án không có tính thuyết phục, thông tin

cung cấp sơ sài, không có cơ sở dự báo nhu cầu vốn trong kinh doanh. Phương

án thường được xây dựng theo hướng lạc quan nhằm có được các chỉ tiêu với

hiệu quả cao, song lại kém tính khả thi, hay không phù hợp với thực tế. Do đó,

thường không thuyết phục được ngân hàng cả về mặt tài chính lẫn mặt kỹ thuật

của dự án vay.

b) Nguyên nhân từ phía ngân hàng:

- Trong quá trình thẩm định dự án vay vốn, thông tin thu thập được thường

mang tính cá nhân. Mỗi cán bộ tín dụng nhận đơn xin vay nào thì thu thập thông

tin về khoản vay đó. Ðôi khi có tham khảo thêm ý kiến của các cán bộ tín dụng

khác hay những mối quan hệ của cá nhân. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những

nguồn thông tin như thế thì các cán bộ sẽ đối mặt với rất nhiều khó khăn khi

thẩm định dự án vay vốn của khách hàng. Vì không phải đối với khách hàng nào,

ngân hàng cũng có thể thu thập được đầy đủ thông tin cần thiết phục vụ cho quá

trinh thẩm định. Ngay cả khi trung tâm thông tin tín dụng của NHNN ra đời, thì

cũng chẳng cung cấp cho ngân hàng được bao nhiêu thông tin có giá trị. Thêm

vào đó, phòng tín dụng ngoài quốc doanh thường xuyên phải tiếp cận với một số

lượng lớn các mối quan hệ với khách hàng. Như vậy, họ không có nhiều thời

gian để chỉ thu thập thông tin liên quan đến một dự án, một khách hàng đơn lẻ

nào cả. Và kết quả là, chất lượng của quá trình thẩm định dự án không cao, nên

nếu tôn chỉ của chi nhánh là thận trọng trong cho vay, thì rất có thể đã bỏ qua

nhiều cơ hội tăng lợi nhuận, ngược lại, nếu chấp nhận rủi ro thì nguy cơ mất vốn

lớn hơn và trách nhiệm liên đới của cán bộ tín dụng cũng nặng nề hơn. Do đó,

các cán bộ tín dụng thường lựa chọn giải pháp an toàn, nên doanh số cho vay của

chi nhánh không tương xứng với tiềm năng của ngân hàng.

- Bảo đảm bằng tài sản là điều kiện không thể thiếu đối với tín dụng ngoài

quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình, nhưng việc

nhận tài sản bảo đảm nhiều khi lại là nguy cơ không thu hồi được nợ của ngân

hàng. Vì khi định giá giá trị tài sản bảo đảm, các cán bộ tín dụng hầu như chỉ có

kiến thức về ngân hàng tài chính, mà thiếu hẳn kiến thức về kỹ thuật và công

nghệ. Nên định giá tài sản bảo đảm thường thiếu độ chính xác.

c) Nguyên nhân từ khung pháp lý cho việc thực hiện bảo đảm tiền vay:

Trong những năm gần đây, những văn bản pháp luật liên quan đến bảo đảm

tiền vay được ban hành rất nhiều, không thể nói là số lượng các văn bản là chưa

đủ, mà chất lượng còn nhiều điểm gây tranh cãi, nên chưa thực sự tạo ta môi

trường pháp lý hoàn chỉnh để công tác bảo đảm tiền vay có thể vận hành tổt.

- Từ điền kiện vay vốn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh: theo

thông lệ quốc tế, cũng như quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự và hợp

đồng kinh tế, các hình thức bảo đảm thực hiện hợp đồng bằng tài sản thế chấp,

cầm cố, bảo lãnh được coi là điều kiện tuỳ nghi. Nhưng, trong thời gian qua, chế

định này lại được áp dụng như là một điều kiện bắt buộc đối với hoạt động cho

vay ngoài quốc doanh.

- Ðã thế, cơ sở pháp lý lại không thông thoáng và ít tạo điều kiện cho cả

khách hàng lẫn ngân hàng để thực hiện hợp đồng một cách có hiệu quả. Ví như:

Thông tư 06/TT-NHNN1 hướng dẫn tài sản thế chấp có thể là quyền sử dụng đất,

nhưng tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra rất chậm. Việc cấp

giấy tờ nhà ở, hoá giá nhà tập thể chưa làm được bao nhiêu. Hơn nữa, với biến

động khó lường của giá bất động sản, giá đất theo khung giá của nhà nước chênh

lệch quá lớn so thị trường tự do, gây khó khăn của ngân hàng khi định giá tài sản.

Yêu cầu tài sản bảo đảm phải chứng minh được quyền sở hữu của chủ nhà,

nhưng việc đăng kí sở hữu chưa được triển khai, thủ tục lại phiền hà. Cộng thêm,

luật kiểm toán kế toán chưa đi vào hoạt động nên tính trách nhiệm của người phát

hoá đơn, chứng từ và hợp đồng mua bán hàng hoá chưa cao, dẫn tới việc cầm cố

tài sản gặp trở ngại. Ðó là lí do mà ngân hàng thường phải trả lời người vay là

không đủ điều kiện vay vốn hoặc khách hàng nhận được ít vốn.

CHƯƠNG III:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC

THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC

DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH.

**********

1 ÐỊNH HƯỚNG HOẠT ÐỘNG CHO VAY NGOÀI QUÔC DOANH CỦA

CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA ÐÌNH

TRONG NHỮNG NĂM TỚI.

Chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để đầu tư, thực hiện đúng quy

trình và biện pháp cho vay để mở rộng tín dụng có hiệu quả, nâng cao chất lượng

tín dụng, bảo đảm thu hồi được cả gốc lẫn lãi đúng hạn.

Tăng cường công tác tiếp thị mở rộng và phát triển thị phần đầu tư tín dụng,

trong đó coi trọng khách hàng truyền thống và các công ty có uy tín trên thị

trường nhằm tăng trưởng dư nợ trong tầm kiểm soát.

Xây dựng cơ chế ưu đãi linh hoạt, phù hợp, mở rộng các hình thức cấp tín

dụng, đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay, phối hợp chặt chẽ với các phòng

nghiệp vụ khác để tạo nên hệ thống các sản phẩm dịch vụ tốt phục vụ khách

hàng, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng thương mại

khác trên cùng địa bàn.

Ðẩy mạnh công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, đảm bảo kinh doanh an toàn

hiệu quả. Thực hiện đầu tư kinh doanh đúng hướng, góp phần làm lành mạnh hoá

hoạt động tài chính tín dụng ngân hàng.

Tiếp tục triển khai mở rộng mạng lưới hoạt động tại các khu vực dân cư có

hoạt động thương mại dịch vụ phát triển, hướng mở rộng địa bàn ra các khu vực

lân cận nơi có các khu công nghiệp của thành phố.

Xây dựng và triển khai thực hiện phong trào “văn minh giao tiếp” của cán

bộ ngân hàng trong quá trình giao dịch làm việc với khách hàng. Thực hiện

nghiêm túc việc sử dụng trang phục công sở của cán bộ ngân hàng.

Ðẩy mạnh phong trào thi đua lao động giỏi theo mục tiêu thi đua do công

đoàn và chính quyền phối hợp phát động. Chú trọng công tác đào tạo nâng cao

chất lượng cán bộ phát huy tinh thần trách nhiệm ý thức tự gíac của người lao

động trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi nhánh.

Với phương châm phát triển an toàn và hiệu quả, phòng tín dụng ngoài

quốc doanh cùng với các phòng ban khác thuộc chi nhánh ngân hàng công

thương khu vực Ba Ðình tiếp tục đổi mới và phát triển, thực hiện tốt tiến trình cơ

cấu lại ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh, chắc chắn sẽ hoàn thành tốt

mục tiêu nhiệm vụ năm 2002.

2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO ÐẢM

TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH:

2.1 Nhóm giải pháp nhằm thực hiện hình thức bảo đảm tiền vay bằng uy tín

của khách hàng vay:

2.1.1 Xây dựng chiến lược khách hàng truyền thống:

Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản có thể giúp chi nhánh giảm được

những chi phí liên quan đến định giá và quản lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên,

những khoản cho vay này có thực hiện được hay không lại tùy thuộc vào khả

năng đánh giá, lựa chọn khách hàng và khả năng hoạt động hiệu quả của khách

hàng.

Mà đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh có nguồn vốn nhỏ bé, nhưng lại

rất linh hoạt trong việc dịch chuyển vốn từ nơi có lợi nhuận thấp đến nơi có lợi

nhuận cao. Sự dịch chuyển đòi hỏi các thành phần kinh tế trong khu vực phải

không ngừng đổi mới trình độ công nghệ, trình độ quản lý và nâng cao tay nghề

của người lao động. Tất cả những thay đổi như vậy đều đòi hỏi có sự tập trung

nguồn vốn lớn hơn nhiều so với vốn tự có nhỏ bé của họ. Theo quy luật cạnh

tranh, những đối tượng nào thích ứng được với sự thay đổi này sẽ tồn tại và phát

triển ngày càng lớn mạnh, ngược lại, những tổ chức hay cá nhân nào không bắt

kịp sẽ nhanh chóng bị đào thải. Như vậy, khác hẳn với khu vực kinh tế quốc

doanh, thời gian tồn tại của các thành phần kinh tế trong khu vực rất bấp bênh.

Nắm bắt được xu hướng phát triển của khu vực này, các cán bộ tín dụng phải chủ

động tìm kiếm, khai thác và thiết lập mối quan hệ lâu dài với những khách hàng

nhạy bén trong kinh doanh, có vị thế cạnh tranh trên thị trường và có năng lực tài

chính. Thực trạng hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh cho thấy,

các khoản vay của chi nhánh đều được bảo đảm bằng tài sản không chỉ xuất phát

từ sự yếu kém từ phía khách hàng, mà còn do sự cẩn trọng từ phía người cho vay.

Hơn nữa với quy định của pháp luật hiện nay, chỉ có những khách hàng nào có

tín nhiệm đối với chi nhánh, đồng thời sử dụng hết tài sản để làm tài sản bảo đảm

thì mới nhận được các khoản vay không có bảo đảm bằng tài sản của chi nhánh.

Do vậy, chi nhánh nên tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp làm ăn có

hiệu quả như cho hưởng lãi suất ưu đãi không những so với các khách hàng khác

mà còn so với các ngân hàng khác. Nhờ đó, có thể hình thành được một hệ thống

khách hàng tin cậy, có uy tín, từ đó có thể thực hiện khoản vay không có bảo

đảm bằng tài sản. Ðó chính là lời chào mời hấp dẫn nhất đối với người vay.

2.1.2 Nâng cao khả năng thẩm định khách hàng và phương án sản xuất kinh

doanh của các cán bộ tín dụng.

Việc thực hiện các khoản vay không có bảo đảm bằng tài sản đòi hỏi rất

nhiều điều kiện liên quan đến cả khách hàng và ngân hàng. Đối với khách hàng là

sự tín nhiệm của ngân hàng, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy

nhiên, việc đánh giá một phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả không lại

không phụ thuộc vào cách đánh giá của khách hàng, mà được nhình nhận trên

quan điểm của ngân hàng. Vì vậy để có thể cho vay không có bảo đảm bằng tài

sản, một yếu tố không thể thiếu được là khả năng thẩm định dự án vay vốn cũng

như khả năng đánh giá những yếu tố liên quan đến khách hàng vay. Việc nâng

cao chất lượng của quá trình thẩm định cho phép ngân hàng lựa chọn được những

khách hàng vay đủ phẩm chất và có khả năng hoàn trả nợ vay.

2.1.2.1 Thành lập bộ phận thẩm định độc lập.

Các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh hiện nay vừa phải đảm nhiệm chức

năng tìm kiếm, thu hút khách hàng vay, vừa là người hướng dẫn khách hàng xây

dựng hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm thẩm định phương án sử dụng vốn vay (

trong phạm vi cho phép), đồng thời theo dõi tình hình sử dụng vốn của khách

hàng sau khi vay. Mặc dù, với những dự án có giá trị lớn, phòng cũng đã thành

lập một hội đồng thẩm định, nhưng số lượng những dự án như vậy không nhiều.

Trong khi đó, các cán bộ tín dụng một mặt, phải hoàn thành tất cả các giai đoạn

của một món vay, mặt khác, không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình.

Do vậy, việc thành lập một bộ phận thẩm định riêng biệt sẽ giảm nhẹ công việc

mà một cán bộ tín dụng phải thực hiện. Hơn nữa, các nhân viên trong bộ phận

thẩm định được đào tạo về chuyên môn sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm

định dự án, là cơ sở lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản.

2.1.2.2 Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.

Sức mạnh của bất kỳ ngân hàng nào cũng được thể hiện trên ba phương

diện: nguồn vốn, công nghệ ngân hàng và trí tuệ của con người. Một ngân hàng

với công nghệ hiện đại, thu hút được nguồn vốn lớn, mà không có sự tác động

của các cán bộ tín dụng để biến vốn chết thành vốn sống, thì làm sao có thể tồn

tại và phát triển được. Vì vậy, đối với bất kì ngân hàng nào, việc đào tạo và phát

triển nguồn nhân lực luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu.

Ðội ngũ nhân viên trong phòng tín dụng ngoài quốc doanh hiện nay là sự

kết hợp giữa hai thế hệ- một thế hệ đi trước giàu kinh nghiệm thực tiễn và am

hiểu lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng với một thế hệ trẻ, năng động,

ham học hỏi và được trang bị những kiến thức lý luận. Cùng với chính sách trẻ

hoá cán bộ tín dụng, ngân hàng cần phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo thế hệ

trẻ những kiến thức chuyên môn, những kiến thức tổng hợp cũng như kiến thức

thực tế. Chi nhánh cần tiếp tục phát huy các biện pháp đã thực hiện như: thường

xuyên tổ chức các khoá học, tạo điều kiện cho các các bộ tín dụng tham khảo

kinh nghiệm của các đối tác, tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề,

đối luyện về các quy định của cơ quan cấp trên cũng như về các sự kiện trong

thực tế. Ðặc biệt các kỹ năng về tiếp cận, gợi mở ý tưởng vay vốn và thu hút

khách hàng mới thường xuyên nên được huấn luyện, trau dồi và trao đổi.

2.2 Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và mở rộng hình thức bảo đảm tiền vay

bằng tài sản:

2.2.1 Thiết lập hệ thống thông tin trong nội bộ ngân hàng về định giá tài sản

bảo đảm.

Khó khăn nhất đối với phòng tín dụng ngoài quốc doanh chủ yếu nằm ở

khâu thu thập thông tin liên quan đến quá trình thẩm định như thông tin về khách

hàng, thông tin về tiềm năng phát triển của dự án và thông tin về giá trị tài sản

bảo đảm. Nguồn thông tin mà chi nhánh nhận được chủ yếu từ khách hàng vay,

một số mối quan hệ cá nhân và trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. Nhưng

trung tâm này hoạt động không mấy hiệu quả. Thiết nghĩ, chi nhánh nên chủ

động xây dựng một mạng thông tin liên quan đến khách hàng vay, giá trị thị

trường của tài sản bảo đảm. Trước mắt, những thông tin này tập trung vào việc

theo dõi những biến động về giá bất động sản trên thị trường, khi cần có thể cập

nhật giá trị thị trường của một số tài sản khác như thiết bị, máy móc. Ðồng thời,

chi nhánh có thể kết hợp với trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro NHCT Việt

nam, cơ quan tài chính, thị trường và khác ngân hàng khác để đánh giá tài sản

bảo đảm nhanh và chính xác.

2.2.2 Cơ cấu lại bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh theo hướng đa dạng hoá

chuyên ngành của các cán bộ tín dụng.

Quy trình thẩm định một hồ sơ vay vốn rất phức tạp, phải trải qua ba giai

đoạn: thẩm định khách hàng vay, thẩm định dự án đầu tư và thẩm định bảo đảm

tiền vay. Ðánh giá năng lực tài chính của khách hàng không phải là việc làm vượt

quá khả năng của các cán bộ tín dụng. Vì năng lực tài chính của khách hàng có

thể dễ dàng đánh giá được thông qua việc sử dụng các kỹ thuật thẩm định tài

chính. Nhưng khó khăn đối với phòng tín dụng nằm ở khâu thẩm định dự án đầu

tư và thẩm định bảo đảm tiền vay. Ðây là giai đoạn đòi hỏi phải có trình độ

chuyên môn trên những lĩnh vực nhất định: thẩm định về phương diện thị trường

cần có hệ thống thông tin liên quan đến sản phẩm trên thị trường, thẩm định về

phương diện kỹ thuật cần sự am hiểu về lĩnh vực mà khách hàng hoạt động, thẩm

định phương diện tài chính cần có những kỹ năng phân tích tài chính của dự án,

hợp thẩm định bảo đảm tiền vay cần những hiểu biết về các loại hình tài sản dùng

để bảo đảm.

Mà phần lớn các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh đều tốt nghiệp từ các

trường khối kinh tế, nên khả năng thẩm định khách hàng, thẩm định dự án cũng

như thẩm định bảo đảm tiền vay chỉ giới hạn trong phạm vi tài chính. Tất nhiên,

khi cần, chi nhánh có thể thuê chuyên gia để định giá tài sản cầm cố, thế chấp và

bảo lãnh. Nhưng chi phí cho mỗi lần định giá như vậy cao hơn nhiều so với lợi

nhuận ngân hàng thu được từ khoản vay. Hơn nữa, hầu hết các khoản vay trong

khu vực này có giá trị không lớn, mà việc bảo đảm bằng tài sản lại là bắt buộc,

nên chỉ cần những nhân viên có kiến thức trên lĩnh vực đó là đủ. Vì vậy, việc

tuyển mộ nhân viên ngân hàng từ các chuyên ngành khác nhau là việc làm rất cần

thiết đối với chi nhánh trong thời gian tới.

2.2.3 Ða dạng hoá danh mục tài sản bảo đảm.

Quy chế hiện hành quy định các tài sản bảo đảm tiền vay tương đối đa

dạng, nhưng việc áp dụng trong cho vay ngoài quốc doanh còn rất hạn chế, tài

sản bảo đảm chỉ giới hạn trong phạm vi các tài sản thông dụng và có độ an toàn

cao như: nhà ở, đất đai, ô tô, xe máy, sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc. Thiết nghĩ,

chi nhánh có thể mở rộng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của mình

bằng cách chấp nhận những hợp đồng bán hàng của khách hàng. Những hợp

đồng này có thể là hợp đồng bán cho những người mua có độ tin cậy cao, đó là

các doanh nghiệp có sản phẩm được chấp nhận rộng rãi trên thị trường. Hơn nữa,

trong khả năng có thể quản lý, chi nhánh nên áp dụng hình thức cầm cố hàng hoá

luân chuyển. Dĩ nhiên, để có thể thực hiện tốt hình thức này, chi nhánh phải nhận

được sự hỗ trợ của một cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá, có như vậy, chi

nhánh mới thấy thực sự an toàn khi cho vay có bảo đảm bằng hình thức này. Nói

như vậy cũng không có nghĩa là nếu không có sự giúp đỡ của cơ quan này, ngân

hàng không nhận hàng hoá luân chuyển làm tài sản bảo đảm. Việc mở rộng danh

mục các tài sản bảo đảm mang lại cơ hội thu hút được nhiều khách hàng hơn cho

ngân hàng.

3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO ÐẢM

TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH:

Pháp luật nước ta quy định về vấn đề cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản để

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và còn quy định các biện pháp bảo

đảm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng.

Từ năm 1989 đến nay, nhất là từ 1996, khi bộ Luật Dân sự ra đời và có hiệu

lực thi hành, vấn đề bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng được coi là một

biện pháp hàng đầu để bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng.

Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng trong những năm

qua, có thể khẳng định, với cơ chế mới về bảo đảm tiền vay như hiện nay, các tổ

chức tín dụng đã có hành lang pháp lý tương đối chặt chẽ và thông thoáng, tạo

điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động kinh doanh và phát huy tính tự

chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay và bảo đảm tiền vay, góp phần

tích cực trong phòng ngừa rủi ro, thúc đẩy mở rộng đầu tư tín dụng cho nền kinh

tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều vướng mắc. Ðể phù hợp

hơn với thực tế hoạt động của cơ chế thị trường, cơ chế bảo đảm tiền vay cũng

cần phải được đổi mới và hoàn thiện.

3.1 Ðối với Chính Phủ:

Cơ chế mới về bảo đảm tiền vay theo nghị định số 178 của Chính phủ đi

vào hoạt động từ tháng 1/2000 đến nay đã gặp một số khó khăn, vướng mắc chưa

phù hợp với tình hình thực tế, nên không thực sự đạt được mục tiêu mở rộng tín

dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Do vậy, cần phải có những bổ sung, chỉnh

sửa đồng bộ, phù hợp giữa quy định của pháp luật với thực tế, cụ thể như sau:

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn các văn bản pháp quy của Chính

phủ đã ban hành có liên quan đến bảo đảm tiền vay như thông tư hướng dẫn

Nghị định 08/1999/NÐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm.

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn nghị định 75/2000/NĐ-CP về thủ

tục công chứng chứng thực.

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn Nghị định số 178/1999/NÐ-CP

về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

- Bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện một số nội dung Nghị định số

178/1999/NÐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

Trong phạm vi của chuyên đề này, em chỉ đưa ra những kiến nghị sửa đổi,

bổ sung một số điều trong Nghị định 178/1999/NÐ-CP và nghị định phù hợp với

tình hình thực tế trong hoạt động cho vay ngoài quốc doanh của chi nhánh ngân

hàng công thương khu vực Ba Ðình.

3.1.1 Về bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố,thế chấp và bảo lãnh của bên

thứ 3:

Cơ chế bảo đảm tiền vay cần đổi mới theo hướng bảo đảm bằng các dự án

khả thi để lựa chọn cho vay không cần áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản.

Trường hợp cần áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản thì cần tạo đủ cơ sở

kinh tế và pháp lý để chi nhánh có thể thu hồi các khoản cho vay, tránh tình trạng

tồn đọng tài sản thế chấp,cầm cố không xử lý được.

Về vấn đề giấy tờ sở hữu tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm: theo

quy định của Bộ luật dân sự đối với tài sản cầm cố, thì bên cầm cố phải giao tài

sản cầm cố cho bên nhận cầm cố, trừ tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì các bên

thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho người thứ ba giữ (điều 329).

Tài sản cầm cố, thế chấp có đăng ký quyền sở hữu thì bên nhận cầm cố, thế chấp

phải giữ bản chính giấy tờ sở hữu tài sản. Nhìn chung, đối với các khoản vay cuả

chi nhánh hiện nay, nếu thực hiện theo đúng luật thì việc cầm cố, thế chấp để vay

vốn bị ách tắc, nhất là tài sản dùng trong kinh doanh như nhà xưởng, thiết bị, dây

chuyền sản xuất.. không có giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu. Như vậy,

việc kiểm tra tính hợp pháp của tài sản bảo đảm mất nhiều thời gian và chi phí và

thực tế các cán bộ tín dụng cũng không thể có khả năng thực hiện đầy đủ, kịp

thời, gây ra sự chậm chễ việc vay vốn của khách hàng.

Nên sửa đổi khoản 3 điều 7 nghị định 178 như sau: “ Tổ chức tín dụng

kiểm tra điều kiện của tài sản bảo đảm tiền vay. Khách hàng vay, bên bảo

lãnh chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của tài sản bảo đảm tiền vay”

Xác định giá trị tài sản bảo đảm: là một nội dung rất quan trọng, làm cơ

sở để tổ chức tín dụng quyết định mức cho vay so với giá trị tài sản và được quy

định rõ trong khoản 1 điều 8 của nghị định này. Theo quy định thì việc xác định

giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bắt buộc phải lập thành văn bản riêng kèm theo

hợp đồng bảo đảm là chưa phù hợp với thực tế, vì việc lập thành văn bản riêng

hoặc ghi vào hợp đồng tín dụng là tuỳ thuộc vào đặc điểm của các loại tài sản

bảo đảm và do các bên thoả thuận ( như cầm cố các giấy tờ có giá thì chỉ cần ghi

vào hợp đồng tín dụng mà không cần lập thành văn bản riêng).

Kiến nghị sửa đổi Khoản 1, điều 8 như sau: “ Tài sản bảo đảm tiền vay

phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm; việc xác định

giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ làm cơ sở xác định mức cho vay của tổ chức

tín dụng, không áp dụng khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Việc xác định

giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được lập thành văn bản riêng hoặc ghi vào

hợp đồng tín dụng”

Xác định giá trị quyền sử dụng đất: Công việc này do các cán bộ tín dụng

tiến hành và được quy định tại khoản 3 điều 8. Ðối chiếu với quy định của Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 và Nghị định

79/2001/NÐ-CP thì quy định về xác định giá trị quyền sử dụng đất thuê, đất được

Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất là không có sự thay đổi. Vướng mắc

nổi lên là vấn đề xác định giá trị thế chấp quyền sử dụng đất được Nhà nước

giao, đất ở, đất được chuyển nhượng hợp pháp là giá đất UBND tỉnh, thành phố

quy định hay cần có quy định theo hướng thị trường phù hợp với quan hệ dân sự.

Sửa đổi, bổ sung mục a) khoản 3 điều 8 của Nghị định như sau:

“Giá trị quyền sử dụng đất thế chấp, bảo lãnh được xác định như sau:

a) Ðất do Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng để sản xuất nông

nghiệp, lâm nghiệp, đất ở, đất mà hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng

quyền sử dụng đất hợp pháp; đất do Nhà nước giao có thu tiền đối với tổ chức

kinh tế; đất mà tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp,

thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp, bảo lãnh do tổ chức tín dụng và khách

hàng vay, bên bảo lãnh thoả thuận theo giá đất thực tế chuyển nhượng ở địa

phương đó tại thời điểm thế chấp. Tổ chức tín dụng xem xét quyết định mức cho

vay và tự chịu trách nhiệm về rủi ro vốn cho vay”

Về việc thế chấp tài sản gắn liền với đất phải thế chấp quyền sử dụng

đất: nghị định 178 coi đây là nguyên tắc trong bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế

chấp. Như vậy, khách hàng vay phải thế chấp đồng thời cả tài sản gắn liền với

đất và giá trị quyền sử dụng đất. Quy định này hiện nay đang có nhiều bất cập, vì

trong thực tế, nhiều khách hàng vay có tài sản phù hợp với quy định của pháp

luật, có nhu cầu vay vốn và chỉ đủ điều kiện thế chấp tài sản gắn liền mà không

thế chấp được giá trị quyền sử dụng đất như: nhà ở cao tầng, nhà xưởng máy

móc, thiết bị đã có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng, nhưng diện

tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Vì vậy, khoản 5, điều 6 cần phải được sửa đổi cho phù hợp với quy định

của bộ luật Dân sự, luật Ðất đai và nâng cao quyền chủ động và tự chịu trách

nhiêm của chi nhánh. Cụ thể là: “ Giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với

đất có đủ điều kiện làm bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật, thì việc

thế chấp, bảo lãnh đồng thời cả giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với

đất hay tách rời là do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên thoả thuận thế

chấp, bảo lãnh tách rời giữa tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất,

thì tổ chức tín dụng nhận thế chấp, bảo lãnh phải có khả năng quản lý tài sản

trong quá trình cho vay và xử lý được tài sản đó để thu hồi nợ, nếu khách hàng

vay không trả được nợ”

3.1.2 Về bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:

Tài sản hình thành từ vốn vay chính là hình thức bảo đảm bằng tài sản sẽ có

trong tương lai, nhưng quy định hiện hành về hình thức này còn quá hẹp, do chỉ

cho phép tài sản hình thành từ vốn vay trung dài hạn làm bảo đảm, tức là chỉ đối

với hình thành tài sản cố định. Có rất nhiều lý do đưa ra để luận bàn tại sao đối

tượng cho vay ngắn hạn lại không được áp dụng, trong khi tài sản hình thành từ

vốn vay ngắn hạn có nhiều loại như các kho hàng là tài sản mà chi nhánh có thể

quản lý và theo dõi dễ dàng hơn nhiều so với tài sản hình thành từ vốn vay trung

và dài hạn như phương tiện vận tải đang lưu hành.

Ðây là hình thức bảo đảm có nhiều rủi ro hơn cầm cố, thế chấp tài sản, do

khi phát tiền vay chưa có vật bảo đảm, quản lý trong quá trình hình thành tài sản

tuỷ thuộc vào điều kiện và trình độ quản lý của chi nhánh nếu cho vay bảo đảm

bằng các kho hàng. Nhưng nếu ngân hàng không đủ khả năng kiểm tra, giám sát,

theo dõi hàng ngày biến động của tài sản bán ra, hoặc đưa vào sản xuất cho đến

khi có nguồn tiền về để kịp thu nợ, thì đến khi cần xử lý tài sản để thu hồi nợ, các

kho hàng trống rỗng, gây hậu quả nghiêm trọng đối với chi nhánh.

Mặt khác quy định điều kiện khách hàng vay phải có tín nhiệm với chi

nhánh là không cần thiết, vì như vậy, khách hàng phải có quan hệ vay vốn với tổ

chức tín dụng, điều này hạn chế khả năng tiếp cận với khách hàng mới của các

cán bộ tín dụng. Hơn nữa, quy định khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào

dự án hoặc phải có tài sản cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% giá trị khoản vay

( theo Nghị quyết 11/2000/NQ-CP thì tỷ lệ này là 30%). Quy định tỷ lệ tối thiểu

này là cần thiết nhằm bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng, thông lệ Quốc tế

trong cho vay, đều yêu cầu chủ đầu tư phải có vốn đối ứng, không một ngân hàng

nào cho vay 100% dự án. Nhưng quy định tỷ lệ tối thiểu như vậy là quá cao, thực

tế rất khó thực hiện, đặc biệt là đối với khu vực ngoài quốc doanh, do vốn tự có

của khách hàng trong thực tế rất thấp.

Ðiều 15 về điều kiện đối với khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn

vay được sửa đổi như sau:

1. Ðối với khách hàng vay:

a ) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

b) Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có

hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với

quy định của pháp luật.

c) Có mức vốn tự có tham gia vào dự án hoặc phương án sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ, đời sống và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các pháp cầm

cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% vốn đầu tư của dự án hoặc phương án đó.

2. Ðối với tài sản:

a) Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định

được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng; xác định được giá trị, số lượng

và được phép giao dịch. Ðối với tài sản hình thành từ vốn vay là vật tư, hàng hoá,

thì ngoài việc có đủ các điều kiện này, tổ chức tín dụng phải có khả năng quản lý,

giám sảt tài sản bảo đảm.

b) Ðối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, thì khách

hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã

được hình thành đưa vào sử dụng.

3.1.3 Tăng cường các biện pháp khuyến khích trong các chương trình bảo

lãnh tín dụng:

Hiện nay, Chính phủ đã có quyết định thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho

các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ Tài chính đã giao cho Ngân hàng Ngoại thương

chịu trách nhiệm thành lập và quản lý quỹ này ở phạm vi trung ương. Còn các địa

phương trong nước muốn thành lập quỹ trên địa bàn thì phải đảm bảo một số

điều kiện do Bộ tài chính mới ban hành.

Việc cho ra đời quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai

trò quan trọng trong việc chuyển đổi và nâng cao khả năng tiếp cận các khoản

vay vay ngân hàng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu được quản lý

và giám sát đúng đắn, sự xuất hiện của quỹ có thể làm giảm các chi phí giao dịch

cho các ngân hàng, cải thiện các hoạt động hiện hành về định giá rủi ro thông qua

việc thu các khoản lệ phí bảo lãnh linh hoạt hơn (nếu được phép thương thuyết

giữa các quỹ và bên vay), và khắc phục được vấn đề về tài sản bảo đảm của khu

vực kinh tế ngoài quốc doanh.

3.2 Ðối với Ngân hàng Nhà nước:

3.2.1 Cho phép các ngân hàng thu phí giao dịch và phí giám sát đối với cho

vay ngoài quốc doanh:

Các ngân hàng thấy rằng việc cho khu vực ngoài quốc doanh vay vốn kéo

theo các chi phí về giao dịch đơn vị cao hơn vì phần lớn các cá nhân, tổ chức

kinh tế trong khu vực này có quy mô nhỏ và thông tin không rõ ràng. Vì vậy nếu

sử dụng các thủ tục nhất quán, không phân biệt các loại bên vay khác nhau thì

các ngân hàng có thể phân biệt đối xử với khu vực này. Các khoản phí giao dịch,

ở một chừng mực nào đó đã tạo điều kiện để quyết định xem xét cho vay trên

quan điểm tín dụng. Vì thế, nếu có các khoản phí này, các ngân hàng được

khuyến khích để xem xét đề nghị vay vốn của một số lớn các doanh nghiệp nhỏ

hơn và các công ty không có thông tin rõ ràng. Như vậy, các phí này sẽ khuyến

khích ngân hàng phát triển một nền văn hoá hướng vào dịch vụ hơn và đóng vai

trò tích cực trong việc nâng cao hơn tính minh bạch đối với khu vực này.

3.2.2 Thu thập và sắp xếp lại những văn bản liên quan đến bảo đảm tiền

vay:

Hiện nay có khoảng 61 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm

tiền vay. Số lượng các văn bản khá nhiều nhưng lại thiếu tính thống nhất trong

nội bộ hệ thống. Một văn bản Chính phủ ban hành thường đi kèm với một số

lượng lớn các văn bản hướng dẫn của các cơ quan hữu quan khác nhau, nên

không tránh được những quy định chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với nhau.

Hơn nữa, các quy định trong nghị định của Chính phủ thường rất mở thể hiện ở

câu “ trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Chính điều này gây khó khăn

cho các cán bộ tín dụng khi áp dụng các quy định này trong thực tế, vì họ không

thể sưu tầm được tất cả những văn bản có liên quan mà có những quy định khác

với quy định trong văn bản về bảo đảm tiền vay. Nên chăng, Ngân hàng Nhà

nước nên có một bộ phận chuyên thu thập các văn bản có liên quan để có thể hỗ

trợ các chi nhánh khi cần thiết.

3.2.3 Phối hợp với các cơ quan khác để thành lập một trung tâm cung cấp

thông tin hoạt động có hiệu quả.

Ðối với cán bộ tín dụng, thông tin có vị trí đặc biệt quan trọng trong quyết

định cho vay đối với khách hàng. Thông tin chính xác là cơ sở của một khoản

cho vay hoàn hảo. Cán bộ tín dụng nói riêng và chi nhánh nói chung luôn phải

chủ động trong việc thu thập và xử lý thông tin liên quan đến mọi khía cạnh của

một món vay. Các nhân viên phòng tín dụng ngoài quốc doanh có thể thu thập

thông tin trực tiếp qua khách hàng, các đối tác, các mối quan hệ của bản thân.

Chi nhánh có thể hỗ trợ phòng bằng cách xây dựng một mạng lưới thông tin.

Nhưng việc xây dựng được mạng lưới như vậy cần có một chi phí không nhỏ,

trong một thời gian ngắn, chi nhánh khó có thể thực hiện được. Thiết nghĩ, nếu

Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các cơ quan khác thành lập được một trung

tâm cung cấp thông tin, thì mạng lưới thông tin của chi nhánh lúc này chỉ tập

trung đi sâu vào những thông tin có tính đặc thù trong quan hệ với khách hàng

của chi nhánh. Sự kết hợp như vậy mới có thể nâng cao chất lượng tín dụng, góp

phần lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng.

3.2.4 Xây dựng một công ty định giá tài sản:

Việc từng chi nhánh lập một bộ phận định giá tài sản là một hình thức giúp

phòng tín dụng ngoài quốc doanh nhanh chóng xác định được giá trị của tài sản

bảo đảm, trên cơ sở đó xác định được giá trị của khoản cho vay, phục vụ nhu cầu

vay vốn của khách hàng kịp thời. Nhưng do đặc điểm của phòng tuy số lượng

khách hàng lớn nhưng giá trị các món vay lại rất nhỏ, nên nếu chi nhánh đầu tư

vào một bộ phận định giá như vậy sẽ vượt quá khả năng chi trả của chi nhánh.

Mặc dù vây, việc làm này không phải là quá khó khăn đối với ngân hàng Nhà

nước. Ðịnh giá tài sản đòi hỏi các nhân viên có trình độ chuyên môn trên nhiều

lĩnh vực khác nhau. Nếu thiết lập một bộ phận đảm nhiệm chức năng này ở ngân

hàng đơn lẻ, ngân hàng phải chuyên môn hoá từng giai đoạn trong tiến trình cho

vay. Việc này rất kém tính khả thi, nhất là trong điều kiện kinh tế của nước ta

hiện nay. Vì thế, Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng này là phù hợp nhất.

Mặt khác,với nhiệm vụ là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng

thương mại, việc thành lập công ty định giá tài sản sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước

quản lý sát sao hơn các khoản cho vay về mặt chất lượng, do vậy ngay từ đầu,

các khoản vay đã được đánh giá độ an toàn.

3.3 Ðối với Tổng cục địa chính, bộ tư pháp vá các bộ ngành khác có liên quan.

Với Tổng cục địa chính: Trong định giá tài sản bảo đảm là quyền sử dụng

đất hoặc nhà ở hiện nay, chi nhánh đang sử dụng khung giá nhà, đất của Uỷ ban

nhân dân thành phố Hà nội, nhưng khung giá này được xây dựng từ khá lâu, nên

vốn dĩ khác xa với giá nhà đất hiện nay. Hơn nữa, thị trường bất động sản ở Hà

nội đang trong tình trạng nóng, nên giá thị trường của những tài sản này lớn hơn

nhiều so với giá được quy định. Mặc dù, các cán bộ tín dụng của phòng đã rất

linh hoạt kết hợp giữa giá được quy định, giá thị trường, và biên độ giao động để

đưa ra mức giá vừa bảo đảm an toàn cho ngân hàng, vừa thu hút được khách

hàng vay, nhưng việc thu thập giá thị trường của các tài sản này mất rất nhiều

thời gian. Nên chăng, Tổng cục địa chính và Ban vật giá Chính phủ phối hợp

công bố giá nhà, đất trên thị trường ở từng vùng để việc cho vay có căn cứ phù

hợp với cơ chế thị trường, người vay có thể nhận được khoản vốn vay lớn hơn và

cán bộ tín dụng cũng tránh được nhiều sai phạm.

Mục 2- thông tư 06/2000/TT-NHNN1 quy định: “ Tổ chức tín dụng lựa

chọn tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đối với các tài sản có đủ điều kiện sau:

Tài sản phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trường

hợp tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì khách hàng vay,

bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Ðối với quyền sử

dụng đất, khách hàng vay, bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai…”

Như vậy, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải chứng minh được quyền

sở hữu hoặc quyền sử dụng của mình đối với tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

của Sở địa chính và Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền rất chậm, hạn chế

khả năng cung ứng vốn của ngân hàng. Thiết nghĩ, Tổng cục địa chính nên sớm

ban hành quyết định rà soát lại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở các

cấp cơ sở, đồng thời xúc tiến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những

khu đất đủ tiêu chuẩn.

Ðối với Bộ tư pháp: Bộ luật dân sự quy định đối với tài sản đăng ký sở hữu

thì khi cầm cố, thế chấp phải đăng ký tại cơ quan Ngân hàng có thẩm quyền.

Việc đăng ký cầm cố, thế chấp tạo thuận lợi cho việc cầm cố, thế chấp được an

toàn và bên cầm cố, thế chấp vẫn được giữ và sử dụng tài sản vào sản xuất, kinh

doanh không phải giao tài sản cho bên nhận cầm cố, thế chấp giữ. Tuy nhiên đến

nay, việc hướng dẫn chưa thống nhất về trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch

bảo đảm đối với tất cả các loại tài sản là bất động sản và động sản, cho nên việc

cầm cố, thế chấp nhất là thế chấp bất động sản như đất đai và tài sản gắn liền với

đất tại UBND xã (đối với hộ gia đình và cá nhân), tại Sở Ðịa chính (đối với tổ

chức) để vay vốn hầu như chưa thực hiện được. Ðể tạo điều kiện thuận lợi cho

khách hàng vay cũng như duy trì độ an toàn trong các khoản vay của ngân hàng,

Bộ tư pháp nên nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về những

vấn để liên quan đến giao dịch bảo đảm. Việc thành lập Cục quốc gia về giao

dịch bảo đảm ( ra đời theo quyết định số 104/2001/QÐ-TTg) là nguồn thông tin

chính xác về tài sản cầm cố, thế chấp đã được dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ

nào hay chưa, cơ sở cho việc hạn chế, ngăn ngừa rủi ro khi nhận bảo đảm tiền

vay bằng các tài sản này của chi nhánh.

3.4 Ðối với Ngân hàng Công thương Việt nam:

Ðiều 19-Nghị định 178/NÐ-CP quy định: “tổ chức tín dụng được lựa chọn

khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn

hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay…”.

Theo quy định này, các khoản cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh

hay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đều được áp dụng hình thức bảo đảm tiền

vay này miễn là hội tụ đủ điều kiện ghi trong Ðiều 20 của Nghị định. Ngân hàng

công thương Việt nam cũng đã có công văn 1219/CV-NHCT5 quy định về cho

vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng vay là khu vực kinh tế

quốc doanh, nhưng điều kiện kèm theo đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh

có phần khắt khe hơn. Thận trọng trong cho vay đối với khu vực này là cần thiết,

song thiết nghĩ, ngân hàng công thương Việt nam nên giao quyền chủ động cho

các chi nhánh trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng

tài sản. Vì theo đánh giá của các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh

ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình, không phải không có những khách

hàng đáp ứng đủ những điều kiện của Ðiều 20. Nhưng do các doanh nghiệp này

chưa sử dụng hết tài sản để thực hiện cầm cố hay thế chấp cho chi nhánh, nên

hình thức bảo đảm tiền vay này không được áp dụng, phần nào không khuyến

khích được khách hàng vay vốn, đồng thời chi nhánh chịu thêm nhiều chi phí liên

quan đến tài sản bảo đảm.

KẾT LUẬN

Bảo đảm tiền vay là một công cụ quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm

cũng như nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Ba

Ðình nói riêng và đối với hệ thống ngân hàng nói chung. Nhưng việc thực hiện

bảo đảm tiền vay có hiệu quả hay không lại phụ thuộc chủ yếu vào quan điểm

của các nhà làm luật về vai trò của bảo đảm tiền vay. Ở nước ta, cách tiếp cận về

bảo đảm tiền vay cũng thay đổi qua nhiều giai đoạn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến

phương thức mà các cán bộ tín dụng cho vay, qua đó, thể hiện chất lượng của các

khoản vay

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngân hàng thương mại-Edward W.reed, Ph.D và Edward K.Gill,Ph.D.

2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-Frederic S. Minskin.

3. Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng.

4. Các định chế tài chính-tài liệu biên dịch.

5. Quản trị Ngân hàng thương mại-Peter S.Rose.

6. Luật đất đai của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.

7. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo đảm tiền vay.

8. Tạp chí Ngân hàng năm 1999-2001.

9. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ năm 1999-2001.

MỤC LỤC:

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG I:LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY .................................... 3

1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: ................................. 4

1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại: ................................................................ 4

1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế: .................................. 6

1.2.1 Chức năng cung cấp điểm nhận tiền gửi cho các doanh nghiệp, hộ gia đình

và chính phủ. ................................................................................................................. 6

1.2.2 Chức năng thanh toán: ...................................................................................... 6

1.2.3 Chức năng tạo tiền: ........................................................................................... 7

1.3 Cho vay –Lí do tồn tại cơ bản của một ngân hàng. ............................................ 8

1.4 Kinh tế ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vốn của ngân hàng: ................... 11

1.4.1 Vị trí của tín dụng ngoài quốc doanh đối với hoạt động kinh doanh của

ngân hàng 11

1.4.2 Khó khăn của ngân hàng khi thực hiện hoạt động tín dụng ngoài quốc

doanh: 12

2 BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG CỦA NGÂN

HÀNG: ...................................................................................................................... 14

2.1 Khái niệm về bảo đảm tiền vay : ..................................................................... 14

2.2 Sự cần thiết có sự bảo đảm đối với khoản cho vay của ngân hàng. ................. 16

2.3 Ý nghĩa của bảo đảm tiền vay đối với các đối tượng tham gia quan hệ

vay vốn ...................................................................................................................... 19

2.4 Các hình thức bảo đảm tiền vay: ..................................................................... 24

2.4.1 Bảo đảm đối nhân: .......................................................................................... 24

2.4.1.1 Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: ........................................................ 24

2.4.1.2 Bảo lãnh của bên thứ ba: ................................................................................. 25

2.4.2 Bảo đảm đối vật: ............................................................................................. 26

2.4.2.1 Bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay: ....................................... 26

2.4.2.2 Bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay: ......................................... 27

2.4.2.3 Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: .................................................. 27

2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm tiền vay: ............................................ 28

2.5.1 Môi trường pháp lý: ........................................................................................ 28

2.5.2 Quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng: ......................................................... 28

2.5.3 Những yếu tố liên quan đến bản thân ngân hàng: ............................................ 29

2.5.4 Mức độ an toàn của các tài sản bảo đảm: ........................................................ 30

2.5.5 Các yếu tố từ phía khách hàng vay: ................................................................. 30

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TIỀN VAY

ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG

THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH .............................................................................. 27

1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG

CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH. ......................................................... 31

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng công thương khu vực Ba

Ðình. 31

1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình: ....................... 32

1.3 Những hoạt động chủ yếu của Chi nhánh ngân hàng công thương Ba

Ðình: 35

1.4 Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng

công thương Ba Ðình: ..................................................................................... 37

1.4.1 Về tình hình huy động vốn: ............................................................................. 37

1.4.2 Về công tác tín dụng: ...................................................................................... 39

Về tình hinh thu nợ và nợ quá hạn................................................................... 40

1.4.3 Về hoạt động kinh doanh đối ngoại: ................................................................ 40

1.4.4 Về công tác kế toán: ........................................................................................ 42

1.4.5 Công tác tiền tệ kho quỹ : ............................................................................... 43

1.4.6 Về công tác kiểm tra - kiểm soát ..................................................................... 43

2 TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

LIÊN QUAN ĐẾN BẢO ĐẢM TIỀN VAY: ..................................................... 44

2.1 Thời kì trước tháng 7/1989.............................................................................. 44

2.2 Thời kỳ từ tháng 8/1989 đến 16/8/1996.......................................................... 44

2.3 Thời kì từ 17/8/1996 đến 14/01/2000 .............................................................. 46

2.4 Thời kì từ tháng 1/2000 đến nay...................................................................... 49

3 KHÁT QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGOÀI QUỐC DOANH

TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH: ..................... 51

3.1 Bối cảnh ảnh hưởng đến hoạt động cho vay ngoài quốc doanh ........................ 51

3.2 Kết quả hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương

khu vực Ba Ðình. ............................................................................................ 51

3.2.1 Cho vay vốn lưu động đối với kinh tế ngoài quốc doanh: ................................ 52

3.2.2 Cho vay trung dài hạn đối với kinh tế ngoài quốc doanh: ................................ 53

4 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO ÐẢM TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN

DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG

THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH:..................................................................... 55

4.1 Các hình thức bảo đảm tiền vay áp dụng đối với khách hàng trong khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh: .................................................................................. 55

4.2 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay: ..... 57

4.3 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay: ....... 62

4.4 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba: ........................ 65

4.5 Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: ................ 65

4.6 Hoạt động cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: ........................................ 66

4.7 Đánh giá về công tác bảo đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc doanh

tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình: ................................. 67

4.7.1 Những kết quả mà chi nhánh đã đạt được trong việc thực hiện bảo đảm

tiền vay: 67

4.7.2 Những hạn chế và vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện bảo đảm

tiền vay: 70

CHƯƠNG III:MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

CÔNG TÁC BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC

DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA

ĐÌNH 68

1 ÐỊNH HƯỚNG HOẠT ÐỘNG CHO VAY NGOÀI QUỐC DOANH CỦA

CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH

TRONG NHỮNG NĂM TỚI. ........................................................................... 78

2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC bẢO ÐẢM

TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH: ........................... 79

2.1 Nhóm giải pháp nhằm thực hiện hình thức bảo đảm tiền vay bằng uy tín

của khách hàng vay: .......................................................................................... 79

2.1.1 Xây dựng chiến lược khách hàng truyền thống:.............................................. 79

2.1.2 Nâng cao khả năng thẩm định khách hàng và phương án sản xuất kinh

doanh của các cán bộ tín dụng. .................................................................................. 80

2.1.2.1 Thành lập bộ phận thẩm định độc lập. ............................................................ 81

2.1.2.2 Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. ..................... 81

2.2 Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và mở rộng hình thức bảo đảm tiền vay

bằng tài sản:................................................................................................................... 82

2.2.1 Thiết lập hệ thống thông tin trong nội bộ ngân hàng về định giá tài sản bảo

đảm. 82

2.2.2 Cơ cấu lại bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh theo hướng đa dạng hoá

chuyên ngành của các cán bộ tín dụng. ...................................................................... 83

2.2.3 Ða dạng hoá danh mục tài sản bảo đảm. .......................................................... 84

3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO ÐẢM

TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH: ........................... 84

3.1 Ðối với Chính Phủ: ......................................................................................... 85

3.1.1 Về bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố,thế chấp và bảo lãnh của bên thứ

3: 86

3.1.2 Về bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: ............................................. 89

3.1.3 Tăng cường các biện pháp khuyến khích trong các chương trình bảo lãnh

tín dụng: 90

3.2 Ðối với Ngân hàng Nhà nước: ........................................................................ 91

3.2.1 Cho phép các ngân hàng thu phí giao dịch và phí giám sát đối với cho vay

ngoài quốc doanh: ............................................................................................... 91

3.2.2 Thu thập và sắp xếp lại những văn bản liên quan đến bảo đảm tiền vay: ......... 92

3.2.3 Phối hợp với các cơ quan khác để thành lập một trung tâm cung cấp thông

tin hoạt động có hiệu quả. ............................................................................... 92

3.2.4 Xây dựng một công ty định giá tài sản: ........................................................... 93

3.3 Ðối với Tổng cục địa chính, bộ tư pháp vá các bộ ngành khác có liên

quan. 93

3.4 Ðối với Ngân hàng Công thương Việt nam: .................................................... 95

KẾT

LUẬN……………………………………………………………………………

……..85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM

KHẢO………………………………………………….....86