Báo cáo tốt nghiệp

“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân

quỹ tại Bưu điện trung tâm 1”

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền 3

kinh tế thị trường

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp 3

1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền 4

kinh tế thị trường

1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị 12

trường

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế 12

thị trường

1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 15

1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh 25

nghiệp

1.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng 25

thanh toán của doanh nghiệp

1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng hoạt 28

động của doanh nghiệp

1.3.3 Chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý của doanh nghiệp 30 31

1.4.1 Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 31

1.4.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 34

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1 37

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm1 37

2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1 2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1 37 38

2.1.4 Đặc điểm kinh doanh của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị 39

trường

42 2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1

44 2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

44 49 2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

52 2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền

56 2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

2.3 Đánh giá thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung 61

tâm 1

61 2.3.1 Những kết quả đạt được

62 2.3.2 Những hạn chế

63 2.3.3 Nguyên nhân

66

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1 3.1 Định hướng phát triển của Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian tới

66 67 3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông-Cơ hội và thách thức 3.1.2 Kế hoạch hoạt động trong năm 2005

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện 68

trung tâm 1

3.2.1 Áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp 3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản lý 68 76

tài chính của Bưu điện trung tâm 1

3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ 77

3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ 78

3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân quỹ 78 79 3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu

điện trung tâm 1

3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam 79

3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của Nhà nước 81

Danh mục tài liệu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

luôn tiềm ẩn các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa

và toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro

của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm

bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững của các doanh nghiệp

trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của

các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất

kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt

động của doanh nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó,

nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý

giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của doanh nghiệp, hay nói cách khác

là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp ứng các yêu cầu của

hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội, trong thời

gian qua cũng đã quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ, song gặp không ít

những khó khăn. Với chiến lược phát triển của ngành Bưu điện trong xu thế

hội nhập cạnh tranh, quản lý tốt ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với

Bưu điện trung tâm 1.

Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại Bưu điện trung tâm 1, em đã chọn

đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung

tâm 1” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn tốt nghiệp của

em được trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh

tế thị trường.

Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1.

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý

ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1.

CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 . VAI TRÒ CỦA NGÂN QUỸ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH

NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết

để sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận .

Hoạt động của doanh nghiệp được đặc trưng bởi 2 dạng:

+ Sản xuất : Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để

tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán.

+ Trao đổi : Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để phục vụ cho việc

sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại).

Hình 1.1 thể hiện hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương

mại và cung ứng-sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động

Dòng vào

Dòng ra

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sản xuất Trao đổi Cung ứng Trao đổi Trao đổi Cung ứng Cung ứng

Hình 1.1 : Dòng biến đổi vật chất của doanh nghiệp

Hoạt động trao đổi tạo ra dòng vật chất và tài chính đối ứng (Hình 1.2).

Để có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần

Sản xuất

dùng vốn để mua sắm các tài sản và sử dụng các tài sản đó để tạo ra giá trị gia tăng.

Dòng vật chất Dòng tài chính

Dòng vật chất Dòng tài chính

Trao đổi Cung ứng Trao đổi Cung ứng

Hình 1.2: Dòng vật chất và dòng tài chính của doanh nghiệp

Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn vào các tài sản dùng trong hoạt động

sản xuất kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng ổn định, ngày càng lớn và phân

chia lợi ích tạo ra cho các chủ thể liên quan là hoạt động cơ bản hình thành

nên chức năng thứ ba của doanh nghiệp là tài chính hay còn gọi là hoạt động

tài chính của doanh nghiệp.

Chức năng tài chính hay hoạt động tài chính trước hết có nhiệm vụ hỗ

trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và

có hiệu quả bằng các tài sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt

động này cũng có thể tạo ra những thu nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho

doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng hoạt động tài chính này

cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có mối quan hệ

mật thiết với nhau cho dù mỗi mảng có đặc trưng riêng.

Đối với doanh nghiệp, trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân

bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu

chính của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn giúp

cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng

đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy trong quản lý tài chính

ngắn hạn, quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng.

1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong

nền kinh tế thị trường

1.1.2.1 Khái niệm ngân quỹ

Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền ( bao gồm tiền mặt trong két tại

doanh nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như

chứng khoán dễ bán. Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “ bước đệm ”

cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào

chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể

chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí.

Những khoản phải thu có khả năng thu được tiền ngay khi cần cũng được coi

là một phần của ngân quỹ.

Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân

quỹ và thực chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.

Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh

doanh. Đây là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản

chi, trao đổi hàng hoá… nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một

mức dự trữ tiền dương là nhằm để có phương tiện giao dịch giúp doanh

nghiệp mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các khoản chi cần

thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại cũng

như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong

tương lai. Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức

năng chủ yếu: tiền là phương tiện lưu thông, tiền là phương tiện thanh toán,

tiền là phương tiện đo lường giá trị, tiền là phương tiện dự trữ về mặt giá trị.

1.1.2.2 Ngân sách hoạt động hàng năm và sự hình thành ngân quỹ

a) Các loại ngân sách hoạt động hàng năm của doanh nghiệp

a.1) Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh

Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tổng hợp

các dòng tài chính vào và ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp, đó là doanh thu và các khoản chi có xuất quỹ liên quan đến hoạt động

sản xuất kinh doanh. Các dòng tài chính được thiết lập căn cứ trên giá trị phát

sinh trong từng khoảng thời gian xem xét. Việc thiết lập ngân sách hoạt động

sản xuất kinh doanh sẽ làm xuất hiện các thành phần liên quan đến tài sản lưu

động và nợ ngắn hạn. Việc thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh

thường theo từng tháng và tập hợp thành các ngân sách theo chức năng trên

cơ sở ngân sách hoạt động của các bộ phận.

Các ngân sách chức năng trong ngân sách hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp bao gồm:

+ Ngân sách bán hàng là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận

bán hàng.

Ngân sách bán hàng hình thành hai dòng tài chính cơ bản:

- Dòng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng bán ra và biểu giá

bán.

- Dòng chi liên quan đến chi phí cho hoạt động bán hàng không

tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bán hàng.

Chính sách tín dụng đối với khách hàng của doanh nghiệp sẽ tác động

đến ngân sách bán hàng và làm xuất hiện khoản Phải thu dự tính.

Kế hoạch bán hàng

Giá bán, số lượng bán Chính sách thương mại

Tồn kho hàng hoá

Ngân sách bán hàng

Tồn kho đầu kỳ Chính sách dự trữ

Doanh thu Chi phí bán hàng Phải thu

Kế hoạch sản xuất

Số lượng sản xuất Mức tiêu hao

Tồn kho đầu kỳ Chính sách mua

Tồn kho NVL

Ngân sách quản lý

Kế hoạch cung ứng

Chi phí QL Hàng tồn kho Phải trả

Ngân sách sản xuất

Chi phí sản xuất Hàng tồn kho Phải trả

NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG SXKD

Hình 1.3 -Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh-

+ Ngân sách sản xuất là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận

sản xuất.

Ngân sách sản xuất chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá

trình sản xuất chế biến : Chi mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp

và chi phí sản xuất chung, không tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định

dùng trong sản xuất. Ngân sách sản xuất được hình thành từ chương trình sản

xuất của doanh nghiệp căn cứ vào chương trình bán hàng dự kiến có tính tới

mức tồn kho thành phẩm đầu kỳ, mức tồn kho thành phẩm cuối kỳ mong

muốn.

Ngân sách sản xuất sẽ bao gồm trong nó cả ngân sách cung ứng vì quá

trình sản xuất sẽ làm xuất hiện nhu cầu tiêu hao nguyên vật liệu. Từ mức tồn

kho nguyên vật liệu đầu kỳ, mức tồn kho nguyên vật liệu cuối kỳ mong muốn

và nhu cầu sử dụng phát sinh sẽ xác định tổng giá trị nguyên vật liệu cần mua,

phương thức cung ứng. Từ ngân sách sản xuất sẽ xác định được mức Tồn kho

và khoản Phải trả dự tính.

+ Ngân sách quản lý chung là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ

phận gián tiếp.

Ngân sách quản lý chung chỉ bao gồm các khoản chi phục vụ quản lý

và cũng không tính tới chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý.

a.2) Ngân sách đầu tư

Đầu tư là một hoạt động nằm trong chiến lược của doanh nghiệp. Tuy

nhiên, việc đầu tư thường đòi hỏi một khoản tiền lớn, sẽ ảnh hưởng đến ngân

quỹ khi thực hiện các khoản chi đầu tư theo lịch giải ngân đã được hoạch

định. Trong phạm vi quản lý tài chính ngắn hạn, ngân sách đầu tư sẽ liên quan

đến dòng tài chính ra nhằm mua sắm tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh

doanh (đầu tư bên trong) , bao gồm:

Các khoản chi đầu tư hàng năm (đầu tư thay thế ).

ĐẦU TƯ HÀNG NĂM

ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

Đầu tư thay thế

Đầu tư mở rộng hiện đại hoá

NGÂN SÁCH ĐẦU TƯ

Các khoản chi cho đầu tư phát triển ( mở rộng, hiện đại hoá ).

Hình 1.4 - Sơ đồ hình thành ngân sách đầu tư -

a.3) Ngân sách hoạt động tài chính

Ngân sách hoạt động tài chính liên quan đến các hoạt động vay, cho

vay và đầu tư tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh, bao gồm các dòng tài

chính vào như thu tiền ứng với các khoản cho vay, thu tiền từ các tài sản tài

chính dài hạn, và các dòng tài chính ra như trả tiền ứng với các khoản đi vay,

THU HĐTC

CHI HĐTC

Thu lãi và gốc vay Thu từ TS tài chính dài hạn

Trả lãi và gốc vay Trả từ TS tài chính dài hạn

NGÂN SÁCH HĐTC

trả tiền cho các tài sản tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh.

Hình 1.5- Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động tài chính -

a.4) Ngân sách hoạt động bất thường

Ngân sách này, khi lập kế hoạch, chỉ xét đến các khoản thu và chi do

bán tài sản cố định cần thanh lý. Các khoản thu, chi bất thường khác không

được xem xét. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh các quỹ dự

phòng thì việc điều chỉnh sẽ được thể hiện ở ngân sách này:

Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính ra tức

là khoản chi bất thường.

Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính vào

THU BẤT THƯỜNG

CHI BẤT THƯỜNG

Thanh lý TSCĐ Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng

Chi phí liên quan đến việc thanh lý TSCĐ Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng

NGÂN SÁCH HĐ BẤT THƯỜNG

tức là khoản thu bất thường.

Hình 1.6 - Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động bất thường-

b) Sự liên kết của các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ

Để xác lập được trạng thái ngân quỹ cần phải liên kết các ngân sách

hoạt động bộ phận. Trước khi liên kết các ngân sách hoạt động bộ phận, cần

có sự điều chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự điều

chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ căn cứ trên chính

sách thương mại dự kiến của doanh nghiệp và chính sách của Người bán đối

NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG SXKD

NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ

NGÂN QUỸ

NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH

NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG BẤT THƯỜNG

với cách mua dự kiến mà doanh nghiệp lựa chọn.

Hình 1.7 -Sơ đồ liên kết các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ-

Chính sách thương mại của doanh nghiệp được thể hiện ở cách thức

thanh toán áp dụng cho khách hàng. Điều này làm cho khoản thực thu trong

kỳ xem xét có thể khác biệt so với doanh thu. Việc điều chỉnh là để xác định

dòng thực thu của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét sau khi đã loại bỏ

lượng tiền mà doanh nghiệp cung cấp tín dụng (tín dụng thương mại) cho

khách hàng (Phải thu).Việc điều chỉnh đối với khoản thu từ bán hàng sẽ cho

thấy một phần khả năng tài trợ bên trong thực tế của doanh nghiệp từ hoạt

động sản xuất kinh doanh.

Chính sách của Người bán cũng đòi hỏi việc điều chỉnh theo cách

tương tự. Tất nhiên nó sẽ có tác động đối với khoản chi mua của doanh

nghiệp trong thời kỳ xem xét và cho biết một phần nhu cầu tài trợ thực tế phát

sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Việc điều chỉnh cũng có thể phải áp dụng đối với ngân sách hoạt động

bất thường liên quan đến thanh lý tài sản cố định. Việc điều chỉnh các quỹ dự

phòng sẽ chưa thực hiện ở bước này.

Các ngân sách đầu tư và ngân sách hoạt động tài chính cũng sẽ không

điều chỉnh ở bước thiết lập ngân quỹ đầu tiên vì các ràng buộc hợp đồng đối

với các khoản vay hoặc các ràng buộc chiến lược đối với việc đầu tư trực tiếp

và đầu tư gián tiếp.

Tổng hợp các ngân sách hoạt động sẽ xác định ngân quỹ của doanh

nghiệp trong thời kỳ xem xét và là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính

của doanh nghiệp.

1.1.2.3 Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp

Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn; chu

kỳ sử dụng vốn; chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang

hoạt động thì ba chu kỳ này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và

cũng có lúc gián đoạn. Điều này tương ứng với tính chất đan xen trong việc

hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ của doanh nghiệp trong suốt

một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa

khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của

quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho

doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều

đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất

quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá

trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.

Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực chính: động lực giao

dịch; động lực dự phòng; động lực đầu cơ.

Động lực dự trữ tiền để giao dịch nghĩa là doanh nghiệp dự trữ tiền để

có thể mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít.

Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt động nào cũng đòi hỏi cần đến

tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp rất cao, đặc biệt là

đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh nghiệp có

ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của

doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hoá, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi

ngân quỹ thặng dư tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh

cho nhà cung ứng, điều này có thể là thuận lợi cho doanh nghiệp rất nhiều vì

uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh nghiệp có thể hưởng lợi thế

chiết khấu.

Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong

tương lai biến động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của nhà

nước, đình công, hỏa hoạn, khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.

Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng dự báo thu chi bằng tiền trong tương

lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng là cao và ngược lại, nếu

doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì nhu cầu

tiền dự phòng sẽ thấp… Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình

thường để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ

rộng rãi đủ để bù đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…

Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn

sàng để lợi dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh

những cơ hội đem lại lợi nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ

bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán còn nhằm mục đích dự phòng mà

không phải giữ tiền mặt.

Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một

doanh nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản

xuất kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm

thế nào để ổn định mức cân đối ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động

bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải quản lý tốt ngân quỹ.

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN

1.2

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền

kinh tế thị trường

Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp.

Một cách cụ thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân

tích, đánh giá và hoạch định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết

định đúng đắn cũng như kiểm soát hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết

định về mặt tài chính với các nguyên tắc:

 Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán.

 Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.

 Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp.

Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với

hai bộ phận chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các

dòng tiền vào ra doanh nghiệp - có nghĩa là nó liên quan tới các khoản thu

chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền,

mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động. Mặt khác, các khoản thu chi

tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường, ảnh hưởng

không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến

động bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lí ngân

quỹ.

1.2.1.1 Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động

theo chiều hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi

doanh nghiệp. Như vậy, một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp

cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán là khái

niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ hay các khoản chi khi đến

hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi phí với thu

và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được biểu hiện

dưới hình thái tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả

năng tái sản xuất mở rộng cũng như đảm bảo khả năng thanh toán doanh

nghiệp được diễn ra bình thường. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp

không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát sinh do các dòng tiền

vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, cùng chu kỳ.

Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi

bằng tiền, số lượng là bao nhiêu và chu kì các khoản thu, các khoản chi đó

như thế nào rất khó.

Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp

bởi lẽ nó quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh

hưởng tới uy tín của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh

toán đúng hạn có thể được hưởng chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được

mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra,

một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ dàng vay tiền từ ngân

hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Ví

dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay

phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp

cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ để dự báo

những trường hợp có thể dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào

trạng thái khó khăn, từ đó có biện pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay

tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo những trường hợp ngân quỹ có

thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo thêm nguồn cho ngân

quỹ, phòng ngừa cho biến động bất thường có thể xảy ra trong tương lai.

1.2.1.2 Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp

Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách

tạo nguồn ngắn hạn để bù đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh

toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì

những lí do nào đó, doanh nghiệp không thể tìm được nguồn chi phí thấp mà

phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có chi phí cao

hơn. Nếu như doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh

nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có

thể giảm các khoản phải thu khách hàng; tăng cường quan hệ tốt với nhà cung

cấp bằng cách thanh toán nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay

trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào chứng khoán và đặc biệt là có kế

hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế các khoản vay không

cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch chủ

động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá

nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh

nghiệp.

Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của

doanh nghiệp cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh

hưởng tới lợi nhuận đồng thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh

nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp không thể

tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh

toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lí chặt chẽ ngân quỹ, để tình trạng thâm

hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

sẽ bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hoá chi phí vốn sẽ không đạt được.

Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh

vào kì trước, đến kì sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung ứng dịch vụ và

đồng thời nhận được các khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh

nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền của doanh nghiệp vượt trội các khoản

chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh nghiệp hay gửi không kì

hạn vào ngân hàng không đem lại mấy lợi nhuận. Doanh nghiệp cũng không

thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong

ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm

ẩn nhiều rủi ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp

sẽ tìm cách đầu tư ngắn hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có

thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn

rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ luôn duy trì một mức dự

trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lí ngân quỹ tốt sẽ sẽ tạo cơ hội sinh lợi, tăng

lợi nhuận và và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.

1.2.1.3 Dự phòng cho những biến động bất thường

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không

tránh khỏi những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng

của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán... Những tác động trên có thể trực

tiếp làm giảm các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh

nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì vậy, doanh nghiệp phải dự

trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động bất thường

đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản

thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào

kinh doanh.

Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để

thanh toán cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ

cho những tổn thất có nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả

năng thanh toán. Vì vậy, công tác quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan

trọng đối với doanh nghiệp.

1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

1.2.2.1 Dự tính thu nhập và chi phí

Để có thể dự tính được thu nhập và chi phí trong kỳ tới, doanh nghiệp

cần phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định được nhu

cầu của thị trường về sản phẩm của đơn vị mình trong kỳ tới là bao nhiêu, xây

dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới như thế

nào. Từ đó doanh nghiệp có thể dự tính lượng hàng hoá, dịch vụ được cung

cấp trong từng kỳ. Ngoài ra, doanh nghiệp phải dự tính trước những biến

động trên thị trường sắp tới về cung các hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào để

từ đó có thể tính được các chi phí mà doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra trong kỳ.

Như vậy, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp phải bao hàm đầy đủ thông tin

phản ánh tình hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ và dự tính mọi mặt hoạt

động của doanh nghiệp trong kỳ tới.

 Căn cứ vào nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp gồm:

+)Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh

Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản thu chủ yếu trong

thu nhập của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong

thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, thời

điểm để xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán, không

phụ thuộc tiền đã thu được hay chưa.

Đối với doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là

toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ sau khi trừ khoản

giảm giá hàng bán (nếu có chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh

toán không phân biệt đã thu được tiền hay chưa. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm các khoản phí thu thêm

ngoài giá bán nếu có, phụ thu theo quy định của nhà nước mà doanh nghiệp

được hưởng đối với dịch vụ cung cấp trong kỳ.

+ )Thu nhập từ hoạt động tài chính :

Thu nhập hoạt động tài chính được xác định tại thời điểm tính lãi thu

+)Thu nhập từ hoạt động bất thường

được, không phụ thuộc tiền lãi đã thu được hay chưa.

Thời điểm để xác định thu nhập từ hoạt động bất thường là khi các đối

tác của doanh nghiệp chấp nhận thanh toán cho các khoản trên, không phụ

thuộc tiền đã thu được hay chưa.

+ )Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh

 Căn cứ vào nguồn hình thành, chi phí của doanh nghiệp gồm:

Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm

các chi phí như: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền

lương và các khoản chi phí có tính chất lương, chi phí dịch vụ mua ngoài..Các

chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản

xuất sản phẩm.

Đối với doanh nghiệp thương mại dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất

kinh doanh bao gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi cung cấp dịch

vụ cho khách hàng và bảo hành cho khách hàng trong một khoảng thời gian

nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh doanh dịch vụ bao gồm chi phí vận

chuyển, chi phí quản lý, chi phí bằng tiền khác..

+) Chi phí cho hoạt động tài chính :

Chi phí cho hoạt động tài chính bao gồm những khoản lãi mà doanh

nghiệp chi trả cho việc đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sử dụng hợp lý các

nguồn vốn, chi trả tiền vay ngân hàng, chi trả lãi cho bên góp vốn liên doanh

và các khoản chi khác có liên quan đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp

đều được coi là những khoản chi phí cho hoạt động tài chính của doanh

+) Chi phí cho hoạt động bất thường

nghiệp.

Chi phí cho hoạt động bất thường của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí

phạt vi phạm hợp đồng, chi phí thanh lý tài sản và các chi phí cho các hoạt

động bất thường khác.

1.2.2.2 Dự tính nhu cầu tiền

Trên cơ sở thu nhập và chi phí được dự tính cho kỳ sau, nhà quản lý tài

chính cần dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Nguồn tiền của doanh

nghiệp là những khoản doanh nghiệp thực thu được trong kỳ và mức tồn quỹ

của kỳ trước còn việc sử dụng nguồn tiền chính là việc chi trả trong kỳ.

Việc dự tính này nhằm hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà quản lý

nắm được nhu cầu tiền trong tương lai; thứ hai, cho biết khả năng thu được

tiền để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu. Việc dự tính các khoản thu chi là không

dễ song doanh nghiệp có thể căn cứ vào thu chi của kỳ trước, kế hoạch mở

rộng sản xuất kinh doanh kỳ này để ước lượng một cách tương đối thời điểm,

chu kỳ, khối lượng các dòng tiền vào, ra. Từ đó doanh nghiệp có thể xác định

mức cân đối tiền mặt khi có nhu cầu thu chi phát sinh.

Trước hết, doanh nghiệp cần phải dự đoán tiền thu ngân quỹ. Các

khoản thực thu ngân quỹ bao gồm: Thu tiền bán hàng trong kỳ; Thu tiền nợ

kỳ trước của khách hàng; Thu từ hoạt động tài chính; Thu từ hoạt động bất

thường. Doanh nghiệp phải xác định thời gian trả tiền trung bình của các

khoản phải thu khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định được tỷ lệ

phần trăm doanh thu được chuyển thành tiền trong kỳ.

Sau khi dự tính các khoản thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần

dự toán các khoản chi ra từ ngân quỹ như: Thanh toán các khoản phải trả; Chi

tiền lương cho công nhân viên, nhà quản lý và chi khác; Thanh toán thuế, lợi

tức, lãi cổ phần.

Cuối cùng từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ nhà quản lý

sẽ tìm ra chênh lệch thu chi ngân quỹ, đối chiếu với mức tồn quỹ tiền mặt tối

ưu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ để thấy được nhu cầu tiền mặt của

doanh nghiệp trong kỳ tới.

1.2.2.3 Áp dụng phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp

Sau khi có được những thông tin về nhu cầu tiền, căn cứ vào kế hoạch

sản xuất kinh doanh và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần áp

dụng một phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp. Có rất nhiều phương

pháp quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp chủ yếu lựa

chọn hai phương pháp sau:

a) Phương pháp quản lý theo mô hình Baumol

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán

mức tiền mặt dự trữ hợp lí và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh

nghiệp là nhỏ nhất đồng thời doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì

vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư số tiền mặt nhàn rỗi vào hình

thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.

Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ

chuyển hoá thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc

giữ tiền là lãi suất tín phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào

tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy

nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện thanh toán nên khi doanh

nghiệp cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm phát sinh chi

phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ tiền

tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín

phiếu ít đi tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lí và hiệu quả

nhất đạt được khi tổng chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ

là nhỏ nhất.

Chi phí do dự trữ tiền gây ra

Tổng chi phí do

điểm cực tiểu

Chi phí cơ hội của dự trữ tiền

Chi phí do thiếu tiền

Lượng tiền dự trữ

Lượng dự trữ

Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:

Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên

Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên

tại thời điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín

phiếu doanh nghiệp có đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền

lượng tiền dự trữ (tính toán)

dự trữ bình quân trong doanh nghiệp là:

2

lượng tiền dự trữ (tính toán) x chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ

2 lượng tiền dự trữ

Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:

chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

2

Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:

Từ đó, ta có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí do mỗi lần thiếu tiền Q =

chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền

dự trữ hợp lí được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho

trường hợp này ta suy ra được công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí cho mỗi lần bán tín phiếu

Q= ==

lãi suất

Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hoá đơn là đều đặn,

chủ động mà không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh

nghiệp, và hơn thế nữa không tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh

nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt mà giả định khi thu về, tiền

được dùng để chuyển hoá luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà kinh tế học đã

xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến cả

những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.

b) Phương pháp quản lý theo mô hình Miller-Orr

Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các

nhà kinh tế học đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động

của dòng vào và dòng ra với đơn vị thời gian là ngày có tên gọi là mô hình

Miller – Orr. Mô hình này cho phép nhà quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn

toàn tự do trừ khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới hạn dưới.

Ta có đồ thị sau:

Giới hạn trên

Mức tồn quỹ theo thiết kế

Giới hạn dưới

Thời gian

Lượng tiền mặt

Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn

trên, giới hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới

hạn trên hoặc giới hạn dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ

bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo

thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt trong mô hình

phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày

rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp

nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản

đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt.

1 3 Chi phí giao dịch x phương sai của thu

= 3

3 4

Lãi

Khoảng dao động tiền mặt được xác định theo công thức sau đây:

Khoảng cách của giớ i hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền

Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba

khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế

+

được xác định như sau:

Mức tiền theo thiết kế

Khoảng dao dộng tiền 3

= Mức tiền mặt giới hạn dưới

Mô hình Miller–Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được

mức tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá chi

phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.

Mô hình Miller–Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ

trong đơn vị thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính

năng động. Mô hình này xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang

giới hạn trên, giới hạn dưới của mức cân đối tiền và coi một nửa của mức dao

động này thể hiện nhu cầu cần điền đầy mức thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề

này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi hỏi doanh nghiệp

phải dự báo được dòng vào và ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt nhất). Vì

vậy, khi doanh nghiệp có những trở ngại trong công tác dự báo ngân quỹ, mô

hình Baumol vẫn có giá trị ứng dụng nhất định vì sự đơn giản của nó.

Những mô hình quản lý ngân quỹ trên đây sẽ là những định hướng cho

nhà quản lý tài chính trong quá trình thực hiện công tác quản lý ngân quỹ.

Tuy nhiên, đã là mô hình thì sẽ ít nhiều mang tính cứng nhắc và không thể

hoàn toàn tất cả những biến động của thực tế. Vì vậy, để vận dụng tốt được

mô hình, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao nhận thức và trình độ của

đội ngũ cán bộ tài chính trong doanh nghiệp.

1.2.2.4 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ

Việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ bao gồm các quyết định để sử dụng

nguồn tiền nhàn rỗi khi có thặng dư ngân quỹ vượt qua giới hạn trên theo mô

hình mà doanh nghiệp áp dụng và các quyết định tìm nguồn tài trợ khi có

ngân quỹ xuống thấp hơn giới hạn cho phép của mô hình. Đối với hình thức

tài trợ hay sử dụng ngân quỹ nào thì doanh nghiệp cần phải xem xét có phù

hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt của đơn vị mình hay không.

Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian mà tất cả các bước của quá

trình tái sản xuất phải trải qua như: nguyên vật liệu – sản phẩm dở dang – bán

thành phẩm – thành phẩm – giao hàng – chờ thu tiền về.

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền

Chu kỳ dự trữ là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu mua nguyên vật liệu

nhập kho cho đến khi xuất kho sản phẩm giao cho khách hàng.

Chu kỳ chờ thu tiền được tính từ khi giao hàng cho khách đến khi nhận

lại tiền bán hàng.

Chu kỳ kinh doanh còn tính theo chu kỳ trả tiền và chu kỳ tiền mặt

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ trả tiền + Chu kỳ tiền mặt

Chu kỳ tiền mặt là khoảng thời gian từ khi trả tiền cho nhà cung cấp

cho đến khi thu được tiền của khách hàng. Như vậy, trong quản lý ngân quỹ

doanh nghiệp cần phải quan tâm đến chênh lệch độ dài chu kỳ thu tiền và độ

dài chu kỳ trả tiền để đưa ra những quyết định phù hợp cho công tác quản lý

ngân quỹ.

 Các nguồn tài trợ ngắn hạn cho ngân quỹ

 Bán chứng khoán ngắn hạn, giấy tờ có giá

Khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn mức tối ưu, doanh nghiệp có thể bán

chứng khoán để tài trợ cho ngân quỹ. Các chứng khoán sẽ được bán trên thị

trường trước hết là để đáp ứng nhu cầu tiền mặt, thứ hai là để thực hiện lợi

nhuận cho các khoản đầu tư. Các chứng khoán dễ bán có thể được bán trên

thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, hoặc có thể đem thương phiếu đến

ngân hàng để chiết khấu.

 Vay ngân hàng

Nếu doanh nghiệp không có các chứng khoán thanh khoản để bán hoặc

doanh nghiệp chưa muốn bán chứng khoán thì doanh nghiệp có thể vay ngân

hàng. Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng theo nhiều phương thức khác nhau

với các điều kiện như thời hạn trả, số dư tối thiểu, cách hoàn trả nợ vay..với

mức lãi suất tương ứng. Ngân hàng có khả năng đáp ứng những nhu cầu này

cho doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến cả năm, có thể đảm bảo

hoặc không có đảm bảo. Với hình thức tài trợ này, doanh nghiệp cần phải so

sánh giữa vay ngân hàng và việc bán chứng khoán. Lãi suất mà doanh nghiệp

phải trả cho ngân hàng có thể cao hơn lãi suất mà doanh nghiệp nhận được từ

việc bán chứng khoán. Nếu doanh nghiệp không chắc chắn về thu chi ngân

quỹ trong tương lai thì doanh nghiệp cần phải giữ mức cân đối tiền mặt lớn

với mục đích là sẽ không phải đi vay. Ngược lại, nếu doanh nghiệp biết chắc

chắn về khả năng thu chi ngân quỹ trong tương lai thì có thể giữ tiền mặt ở

mức thấp hơn.

 Tín dụng thương mại

Doanh nghiệp nhận chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp

sẽ làm cho cân đối tiền mặt của ngân quỹ bớt căng thẳng do doanh nghiệp

không cần phải chi ngay các khoản tiền mua hàng. Khi đó doanh nghiệp sẽ

phải trả thêm một khoản tiền do việc thanh toán chậm và phải chấp nhận với

một giá thanh toán cao hơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải rất thận trọng vì

khoản tiền doanh nghiệp trả chậm trong kỳ này sẽ có thể trở thành gánh nặng

cho ngân quỹ trong các kỳ sau.

 Các biện pháp sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi

 Đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao trên thị trường

Việc đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp là nhằm tận dụng khoản

tiền nhàn rỗi tạm thời. Có rất nhiều những chứng khoán dễ bán mà doanh

nghiệp có thể lựa chọn như: tín phiếu kho bạc, chấp nhận thanh toán của ngân

hàng, thương phiếu..Vì thế, việc quyết định đầu tư vào chứng khoán hay

không và đầu tư vào loại nào phụ thuộc vào: lãi suất, tính thanh khoản, ngày

đáo hạn. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cần phải quản lý một danh

mục đầu tư hợp lý sao cho lợi nhuận thu được đủ bù đắp các rủi ro và mức lợi

tức mong muốn. Đối với các doanh nghiệp lớn, chi phí giao dịch để mua và

bán chứng khoán không đáng kể so với chi phí cơ hội của viêc giữ tiền mặt

nên các doanh nghiệp này cần chú ý tới công cụ đầu tư này.

 Cung cấp tín dụng cho khách hàng

Cung cấp tín dụng cho khách hàng là một công cụ quan trọng mà doanh

nghiệp cần phải chú trọng. Chính sách cung cấp tín dụng thương mại cho

khách hàng có nhiều ưu điểm như : Doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng

hoá hơn với mức giá cao hơn; Hiệu quả sử dụng tiền của doanh nghiệp tăng

do cung cấp các khoản phải thu sẽ thu được mức lãi cao hơn hẳn so với việc

đầu tư vào các khoản mục khác đồng thời doanh nghiệp có thể tạo lập mối

quan hệ lâu dài với những khách hàng lớn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể

gặp rủi ro khi khách hàng không thanh toán đúng hạn. Vì vậy, việc doanh

nghiệp có cung cấp tín dụng thương mại cho một khách hàng hay không cần

phải được cân nhắc và tìm hiểu kỹ lưỡng, doanh nghiệp nên chọn những

khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài.

 Trả trước cho nhà cung cấp

Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của mình để

thanh toán trước cho nhà cung cấp. Khi thực hiện việc này, doanh nghiệp sẽ

được nhà cung cấp cho hưởng một khoản chiết khấu tiền mặt.

1.3 HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA

DOANH NGHIỆP

1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh

giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, người ta sử dụng

các chỉ tiêu:

 Khả năng thanh toán hiện hành

Tài sản lưu động

Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành = --------------------------- Nợ ngắn hạn

Tỷ lệ này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm

bảo bằng bao nhiêu đồng giá trị tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường

bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải

thu và dự trữ (tồn kho). Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn

hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung

cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác..

Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành thể hiện khả năng thanh toán

tổng quát của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ

nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong

một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Nếu tỷ lệ khả

năng thanh toán hiện hành >1 thì doanh nghiệp được coi như đang ở trạng

thái thuận lợi. Tuy nhiên hệ số này chưa đủ chặt chẽ trong việc đánh giá cân

bằng tài chính ngắn hạn vì còn tính đến khoản mục Hàng tồn kho. Nếu

khoản mục này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản lưu động và thời gian

chuyển hoá cần thiết đủ dài thì vẫn tồn tại nguy cơ mất cân bằng ngắn hạn.

 Khả năng thanh toán nhanh

Tài sản lưu động - Tài sản dự trữ (tồn kho) Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------------------

Nợ ngắn hạn

Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản

quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền,

bao gồm: Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ

(tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động

và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, khả năng thanh toán nhanh cho biết

khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài

sản dự trữ (tồn kho).

 Khả năng thanh toán tức thời

Ngân quỹ Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời = --------------------------------------

Nợ đến hạn

Khả năng thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán ngay bằng

tiền cho các khoản nợ đến hạn. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời cao thì

tỷ lệ này có thể minh chứng cho khả năng thanh toán tốt nhưng mặt khác lại

thể hiện sự kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính với một ngân

quỹ ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì nguồn lực tài chính được sử dụng

dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ yếu đi, đặc biệt khi các

thành phần khác của tài sản lưu động có khả năng luân chuyển kém (nhất là

đối với các doanh nghiệp mà hoạt động có đặc trưng mùa vụ).

Ngoài các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý còn xem xét đến chỉ tiêu vốn

lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng. Hai chỉ tiêu này cũng là yếu tố

quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một

doanh nghiệp.

Vốn lưu động ròng (VLĐR) là khoản chênh lệch giữa tổng tài sản

lưu động (TSLĐ) và tổng nợ ngắn hạn hoặc giữa nguồn dài hạn và tài sản cố

định (TSCĐ):

VLĐR = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn

+ Vốn lưu động ròng < 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho

TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn,

TSLĐ không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán

của doanh nghiệp mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để

thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy, doanh nghiệp phải tăng cường

huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực

hiện đồng thời cả 2 giải pháp đó.

+ Vốn lưu động ròng > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào

TSCĐ, đồng thời TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán

của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên, nếu vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ làm

giảm hiệu quả đầu tư vì lượng tài sản lưu động quá nhiều so với nhu cầu và

phần dư thêm này không làm tăng thu nhập.

 Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng

Dự trữ

Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng = ---------------------------- Vốn lưu động ròng

Tỷ lệ này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng.

Trên đây mới chỉ là ràng buộc về mặt giá trị mang tính chất chung. Với

doanh nghiệp cụ thể, thường có thể xác định gần đúng “độ hóa lỏng” của tài

sản cố định căn cứ vào đặc trưng công nghệ và hoạt động thương mại. Khi độ

hóa lỏng của tài sản lưu động lớn hơn tính cấp thiết của khoản nợ ngắn hạn thì

một mức vốn lưu động ròng âm cũng không gây ra sự mất cân bằng như đối

với các công ty kinh doanh siêu thị chẳng hạn. Trong trường hợp ngược lại,

vẫn có thể xảy ra mất cân bằng khi vốn lưu động ròng dương không vượt qua

một giá trị an toàn nhất định.

Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần

để tài trợ cho 1 phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải

thu.

Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn

+ Khi nhu cầu VLĐR > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn

hạn, nghĩa là các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn

ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng

nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.

+ Khi nhu cầu VLĐR < 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn

hạn, nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các

sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn

hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.

1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá

khả năng hoạt động

 Vòng quay tiền

Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của

tiền trong doanh nghiệp.

Tỷ lệ này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho

tổng số tiền mặt và các tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán

ngắn hạn dễ chuyển nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.

Doanh thu tiêu thụ trong năm

Vòng quay tiền = --------------------------------------------------------- Tiền + Các chứng khoán ngắn hạn

Vòng quay tiền phụ thuộc vào tốc độ sử dụng tiền của doanh nghiệp.

Khi tốc độ tăng lên của doanh thu không bằng với tốc độ tăng của việc sử

dụng tiền của doanh nghiệp sẽ làm cho tiền và các chứng khoán ngắn hạn

giảm xuống, vòng quay tiền sẽ lớn. Ngược lại, khi tốc độ tăng lên của doanh

thu nhanh hơn so với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền sẽ làm cho vòng quay

tiền giảm đi.

 Vòng quay dự trữ (hàng tồn kho)

Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác

định bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ trong năm và giá trị tài sản dự trữ

(nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa)

bình quân.

Doanh thu tiêu thụ trong năm

Vòng quay dự trữ = ------------------------------------------------------

Dự trữ bình quân

Vòng quay dự trữ càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt,

bởi doanh nghiệp chỉ đầu tư cho tài sản dự trữ thấp nhưng vẫn đạt được doanh

số cao.

 Vòng quay các khoản phải thu

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản

phải thu thành tiền của doanh nghiệp.

Doanh thu tiêu thụ trong năm Vòng quay các khoản phải thu = ----------------------------------------- Các khoản phải thu bình quân

Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng quay các khoản

phải thu sẽ cao và doanh ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng quay các

khoản phải thu nếu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng

hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán

ngay hay thanh toán trong thời gian ngắn).

 Kỳ thu tiền trung bình

Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các

khoản phải thu.

365

Kỳ thu tiền trung bình = ----------------------------------------- Vòng quay các khoản phải thu

Nếu số ngày này lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng

thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định

bán chịu cho khách hàng lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc

thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời gian.

Tuy nhiên, kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp

chưa thể có kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét cụ thể các mục tiêu và

chính sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín

dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra, kỳ thu tiền trung bình còn phụ thuộc vào

loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp thương mại bán lẻ thì hệ số

này rất nhỏ.

1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất

thường

Tùy vào từng tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, vào mức độ

hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp lập ra các loại quỹ dự

phòng. Trong doanh nghiệp thường có các khoản dự phòng như: Dự phòng

giảm giá đầu tư ngắn hạn, dự phòng các khoản phải thu khó đòi; dự phòng

giảm giá hàng tồn kho; dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn; quỹ dự phòng tài

chính và quỹ dự phòng mất việc làm.

Với các nhà quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp cần phải quan tâm

đến các khoản dự phòng này vì nó có thể là một nguồn tài trợ tức thời cho

ngân quỹ trong ngắn hạn, nâng cao độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ

họ cũng phải tính đến các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến

động bất thường của doanh nghiệp.

1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ

CỦA DOANH NGHIỆP

1.4.1 Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp

1.4.1.1 Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp về quản lý ngân quỹ

Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá trị của doanh nghiệp.

Vì vậy, mặc dù quản lý ngân quỹ là một trong các bộ phận của quản lý tài

chính doanh nghiệp nhưng mục tiêu quản lý ngân quỹ có tính chất bao trùm

các bộ phận khác.

Công tác quản lý ngân quỹ tại một doanh nghiệp bị chi phối sâu sắc

bởi người lãnh đạo doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chính sách

đầu tư vốn lưu động “lỏng lẻo”, theo đó người ta duy trì một khối lượng lớn

tiền mặt, đồng thời doanh thu bán ra được khuyến khích bằng các khoản bán

chịu rộng rãi, nhờ đó khoản phải thu cũng tăng lên. Đây là chính sách an

toàn cho doanh nghiệp trước khả năng nhu cầu thị trường tăng lên đột ngột,

tuy nhiên thu nhập của doanh nghiệp sẽ thấp. Ngược lại, doanh nghiệp có

thể theo đuổi chính sách vốn lưu động “chặt chẽ”. Theo đó người ta cố gắng

duy trì một khối lượng hạn chế tiền mặt, chứng khoán dễ bán và hàng tồn

kho, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các khoản bán chịu để giảm tới mức thấp

nhất các khoản phải thu. Đây là một chính sách có thể mang lại thu nhập

cao, nhưng đồng thời cũng là một chính sách rủi ro nếu có những biến động

bất thường.

Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp là nhân tố quan trọng, con

người được đề cập đến đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao động trong

doanh nghiệp, mà trước hết là giám đốc doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp).

Giám đốc doanh nghiệp là người toàn quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài

sản và tiền vốn của doanh nghiệp và là người chịu trách nhiệm, quyết định

mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp. Quyết định của các nhà quản lý tài

chính trong doanh nghiệp là đúng đắn, phù hợp xu hướng phát triển thì

doanh nghiệp kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng một cách tiết kiệm

và đem lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù

hợp sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh.

1.4.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Công tác quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp chịu tác động lớn bởi

đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính chất ngành kinh

doanh ảnh hưởng tới thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh

nghiệp, do đó ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn, cách thức đầu tư và thể

thức thanh toán chi trả. Đối với các doanh nghiệp mà các dòng tiền vào và ra

tương đối cân đối về mặt thời gian và khối lượng, nhu cầu vốn lưu động

giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn thì nội dung và

phương pháp công tác quản lý sẽ đơn giản. Trong khi đó, rất nhiều doanh

nghiệp chịu ảnh hưởng của tính chất thời vụ trong hoạt động kinh doanh,

đặc biệt là trong các hoạt động bán lẻ hoặc trong ngành du lịch, dịch vụ, sản

xuất các mặt hàng có nhu cầu không thường xuyên.. Trong thời kỳ nhu cầu

hạ thấp, nhu cầu tiền tệ giảm mạnh, thậm chí còn xuất hiện hiện tượng dôi

thừa tiền tệ. Ngược lại, khi đến gần thời vụ kinh doanh, hàng hoá cần được

tích trữ, do đó hoạt động kinh doanh cần được hỗ trợ từ các nguồn tiền bên

trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp. Tại thời điểm chính vụ, nhu cầu này vẫn

tồn tại trong thời gian ngắn do sự tăng lên của các khoản phải thu của khách

hàng sau đó sẽ được bù đắp khi các khoản phải thu đầu tiên đến thời hạn thu

hồi. Đối với các doanh nghiệp này, việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng

như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp khó

khăn hơn nên đòi hỏi công tác quản lý ngân quỹ càng phải được chú trọng

hơn, phải có phương pháp quản lý phù hợp.

1.4.1.3 Chiến lược sản xuất kinh doanh

Chiến lược hoạt động kinh doanh trong thời gian tới cũng có ảnh hưởng

tới nhận thức cũng như việc tổ chức quản lí ngân quỹ trong doanh nghiệp.

Việc xác định mục tiêu của chiến lược kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan

trọng. Thông thường mục tiêu chiến lược kinh doanh gồm: Lợi nhuận, tạo thế

lực trong cạnh tranh, an toàn tránh rủi ro. Để tăng lợi nhuận cần phải tăng thu,

giảm chi phí (trong đó có giảm chi phí vốn), một trong rất nhiều biện pháp là

phải quan hệ tốt với bạn hàng, cả nhà cung cấp lẫn người mua… mà để làm

điều đó có vai trò quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ. Đối với các

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt

động của doanh nghiệp trong một thời gian dài, nó quy định loại sản phẩm

hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận, quy mô kinh doanh, các nguồn lực

của sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng phát triển của doanh

nghiệp. Việc đảm bảo khả năng thanh toán cũng như có các chính sách tín

dụng thương mại hấp dẫn sẽ giúp cho các doanh nghiệp này thu được nhiều

lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động

thích ứng với môi trường.

1.4.1.4 Cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp

Đó là những nguyên tắc về quản lý tài chính đối với hoạt động của

doanh nghiệp trong đó quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản,

quản lý doanh thu chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản

lý tài chính trong doanh nghiệp vừa là cụ thể hoá những quy định về tài chính

của nhà nước vừa là những quy định áp dụng riêng cho doanh nghiệp. Quản

lý ngân quỹ cũng là một hoạt động quản lý tài chính nên không nằm ngoài sự

điều chỉnh của quy chế. Do vậy, hiệu quả của quản lý ngân quỹ ít nhiều chịu

ảnh hưởng của những quy định trong quy chế tài chính của doanh nghiệp.

1.4.1.5 Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý ngân quỹ

Hoạt động của ngân quỹ biến động từng ngày, từng giờ và tác động đến

nhiều bộ phận của doanh nghiệp nên quản lý ngân quỹ đòi hỏi quá trình xử lý

thông tin và đưa ra các quyết định nhanh chóng, chính xác. Kinh nghiệm

thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy việc nắm các thông tin cần thiết,

biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là điều kiện rất quan trọng để

ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh

tranh. Vì vậy, để đạt được thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần

thu thập và xử lý thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần nắm được các thông tin có liên quan đến lĩnh

vực kinh doanh của mình tỷ giá, lãi suất, đối thủ cạnh tranh.. để phục vụ cho

việc phân tích, so sánh làm cơ sở cho công tác quản lý ngân quỹ. Do đó, các

doanh nghiệp cần phải áp dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đặc biệt là công

nghệ thông tin để xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý

ngân quỹ.

1.4.2 Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp

1.4.2.1 Trạng thái của nền kinh tế

Tình hình nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái hay tăng trưởng

cũng có ảnh hưởng quan trọng tới công tác quản lý ngân quỹ. Nền kinh tế

phát triển ổn định, có tăng trưởng bền vững là điều kiện cho sự phát triển của

doanh nghiệp. Ngược lại, nền kinh tế suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động chu kỳ và khủng hoảng kinh

tế là các ảnh hưởng do sự thay đổi các điều kiện kinh tế trong trong toàn bộ

nền kinh tế hoặc trong từng ngành và có tác động lâu dài đến hoạt động của

doanh nghiệp. Những ảnh hưởng này không đều đặn, khó dự đoán trước và

thường đi kèm với rất nhiều yếu tố khác, ví dụ như thay đổi về lượng cung và

giá cả nguyên vật liệu, lạm phát, các điều kiện cạnh tranh, nhu cầu đầu tư

vốn.. Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái, các nhà quản lý cần kịp thời

nhận biết tình hình, từ đó có các chính sách cắt giảm vốn bằng tiền, hàng tồn

kho, giảm nhân công và các chi phí khác, thận trọng trong sử dụng và cung

cấp các khoản tín dụng..Ngược lại, khi nền kinh tế phục hồi thì việc chậm trễ

trong quá trình ra quyết định có thể dẫn đến sản lượng và hàng hoá tồn kho

không đủ để thực hiện hoạt động kinh doanh. Điều tất yếu nhu cầu tiền tệ của

doanh nghiệp sẽ thay đổi.

1.4.2.2 Môi trường hoạt động của doanh nghiệp

Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các

chủ thể kinh doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác

động, chi phối mọi hành vi, hoạt động của họ.

Sự ổn định của thể chế chính trị có tác động tích cực cho việc thu hút

vốn đầu tư, tạo môi trường kinh doanh tin cậy cho người đầu tư và khả năng

huy động vốn kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, môi

trường pháp luật thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, sự không ổn định của pháp luật và chính

sách kinh tế có thể gây ra những tác động bất lợi đối với doanh nghiệp. Môi

trường kinh doanh trong đó thói quen coi trọng chữ tín và đạo đức của người

kinh doanh hoặc các thông tin liên quan tới hoạt động kinh doanh và tình hình

tài chính của doanh nghiệp được công khai minh bạch theo các quy định của

luật pháp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Từ đó, chúng tác

động tới mức tồn quỹ, vòng quay tiền và các dòng thu, chi ngân quỹ.

1.4.2.3 Ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh

Tác động qua lại lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng

nhất định đến môi trường kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến công tác quản lý

ngân quỹ của doanh nghiệp. Các điều kiện về giá bán, thời hạn tín dụng, tỷ lệ

chiết khấu, uy tín, thị phần của doanh nghiệp thay đổi dẫn đến nhu cầu về vốn

bằng tiền thay đổi. Ví dụ, trong trường hợp giá bán giảm xuống với điều kiện

số lượng hàng bán không đổi làm cho giá trị các khoản phải thu giảm nhưng

chỉ bù đắp được một phần nào sự tổn thất doanh thu của doanh nghiệp và kết

quả là nhu cầu tiền tệ tăng lên. Hiện tượng này sẽ kết thúc khi doanh nghiệp

thực thi các quyết định cắt giảm quy mô kinh doanh. Để kiểm soát yếu tố này,

doanh nghiệp cần phải xác định vị thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh,

khả năng và chiến lược cạnh tranh, từ đó xây dựng chiến lược huy động huy

động vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ phát sinh hoặc có chính sách cắt

giảm kịp thời đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp.

1.4.2.4 Ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ và chính sách thuế

của nhà nước

Các chính sách về tài chính tiền tệ cũng như chính sách thuế, kế toán có

tác động lớn đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Trong trường

hợp chính phủ cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách hoặc giảm thuế sẽ làm

cho lợi nhuận tăng lên, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao

hơn, và kết quả là doanh nghiệp có điều kiện để xây dựng các kế hoạch đầu tư

mới dẫn đến nhu cầu tiền tệ phát sinh. Mặt khác, khi chính phủ thực hiện các

chính sách tiền tệ biểu hiện bằng sự tăng hoặc giảm mức cung tiền tệ hoặc

phá giá đồng tiền, thậm chí sử dụng chính sách thả nổi tỷ giá thì nó sẽ ảnh

hưởng nhanh chóng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ví

dụ, khi chính phủ tăng mức cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến lãi

suất tiền gửi hạ xuống và từ đó khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường

đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là làm tăng thêm nhu cầu

tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng đến công tác

quản lý ngân quỹ để đạt hiệu quả trong đầu tư.

1.4.2.5 Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực

tiền tệ. Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng là: nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó

để cho vay và làm phương tiện thanh toán. Ngày nay, các doanh nghiệp

thường sử dụng các dịch vụ của ngân hàng trong hoạt động thanh toán của

mình. Như vậy, ngân hàng càng cung cấp nhiều dịch vụ thì các doanh nghiệp

càng thuận lợi hơn trong thanh toán với nhà cung cấp và khách hàng của

mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng càng đa dạng và hiện đại sẽ đẩy

nhanh quá trình thanh toán. Có thể nói, các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng

thương mại là một yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý ngân quỹ.

1.4.2.6 Khách hàng của doanh nghiệp

Trong kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển

của doanh nghiệp. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc quản lý ngân

quỹ của doanh nghiệp. Những khách hàng kinh doanh thường xuyên thua lỗ,

sẽ trì trệ trong thanh toán, làm ảnh hưởng tới ngân quỹ của xí nghiệp. Vì vậy,

doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của mình trên thị trường để xác

định những đặc điểm tâm lý, sinh lý, thị hiếu của khách hàng. Nghiên cứu nhu

cầu để dự báo được thay đổi nhu cầu, khả năng thanh toán. Các nhà quản lý

thường duy trì mức tồn quỹ lớn hơn để dự phòng khả năng không thu hồi nợ

đúng hạn, đồng thời cũng tăng cường theo dõi, lên kế hoạch tài trợ cho ngân

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

quỹ ngay từ đầu.

2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm 1

Bưu điện trung tâm 1 được thành lập căn cứ vào quyết định 5041/QĐ -

TCCB ngày 25/12/2002 của Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính viễn

thông Việt Nam. Đây là một doanh nghiệp trực thuộc Bưu điện Hà Nội, làm

việc theo chế độ thủ trưởng. Mọi hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung dân

chủ thống nhất theo các quy định của Nhà nước, Bộ Bưu chính viễn thông,

Bưu điện Hà Nội.

Bưu điện trung tâm 1 hoạt động kinh doanh và phục vụ trong lĩnh vực

bưu chính - viễn thông, được Bưu điện giao quyền quản lý vốn và tài sản

tương ứng với nhiệm vụ kinh doanh và dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1, có

trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao.

Dịch vụ mà Bưu điện trung tâm 1 cung cấp không phải là vật chất cụ

thể mà là hiệu quả của việc truyền tin tức được kết tinh trong sản phẩm của

các ngành kinh tế dịch vụ khác.

Đối với Bưu điện trung tâm 1, kinh doanh và dịch vụ là hai mặt của quá

trình sản xuất kinh doanh. Ngoài mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận, Bưu điện

trung tâm 1 còn có mục tiêu là dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của cộng đồng, thực

hiện các nhiệm vụ an ninh quốc phòng trên địa bàn thủ đô.

2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1

2.1.2.1 Chức năng

CHỨC NĂNG PHỤC VỤ

Bưu điện trung tâm 1 là một ngành quản lý độc quyền có chức năng

phục vụ các dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát hành báo chí cho sự chỉ đạo

của Đảng và Nhà nước đồng thời tổ chức tốt phục vụ nhu cầu thông tin của

nhân dân, ở đâu có dân là ở đó phải có điện thoại phục vụ. Bưu điện trung tâm

1 là ngành sản xuất dịch vụ.

CHỨC NĂNG KINH DOANH

Bên cạnh việc phục vụ, Bưu điện trung tâm 1 có chức năng tổ chức mọi

hoạt động sản xuất kinh doanh mạng lưới bưu chính với phương châm kinh

doanh có lãi để phục vụ tốt hơn. Tuy nhiên việc phân biệt giữa công ích và

kinh doanh trong hoạt động của ngành bưu chính-viễn thông vẫn còn tồn tại

chưa giải quyết được vì đây là vấn đề phức tạp.

2.1.2.2 Nhiệm vụ

Bưu điện trung tâm 1 có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bưu chính,

phát hành báo chí, các dịch vụ viễn thông, tin học trả trước trên địa bàn quận

Hoàn Kiếm và khu vực các phường Phúc Xá, Nguyễn Trung Trực, Quan

Thánh, Điện Biên, Kim Mã, Giảng Võ, Thành Công thuộc quận Ba Đình.

Đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của cơ quan Đảng, chính quyền

các cấp, phục vụ yêu cầu thông tin trong đời sống kinh tế xã hội các ngành và

nhân dân trên địa bàn quản lý.

2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1

Cơ cấu tổ chức

*Ban giám đốc: Gồm giám đốc và hai phó giám đốc.

*Các phòng ban chức năng

Phòng tổ chức hành chính

Phòng nghiệp vụ kinh doanh

Phòng tài chính kế toán

*Các đơn vị trực thuộc Bưu điện trung tâm 1

Bưu cục giao dịch 1

Bưu cục giao dịch 2

Bưu cục bưu chính quốc tế

Bưu cục viễn thông quốc tế

Bưu cục Tràng Tiền

Bưu cục Lương Văn Can

Bưu cục Cửa Nam

Bưu cục Hùng Vương

Bưu cục Giảng Võ

Bưu cục phát hành báo chí

Đội vận chuyển và phát thư báo

Đội kiểm tra kiểm soát

2.1.4 Đặc điểm kinh doanh, phục vụ của ngành Bưu điện trong nền kinh

tế thị trường

2.1.4.1 Sản phẩm của ngành Bưu điện

Bưu điện là ngành sản xuất đặc biệt vì sản phẩm của ngành Bưu điện

chính là hiệu quả có ích của việc truyền đưa thông tin, lưu chuyển bưu phẩm.

Sản phẩm bưu chính viễn thông không mang hình thái vật chất mà là hiệu quả

có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận. Sản

phẩm của ngành tồn tại dưới nhiều dạng, có sản phẩm tồn tại dưới dưới dạng

vật chất cụ thể như con tem, các phương tiện, thiết bị để lưu truyền thông tin.

Sản phẩm bưu chính viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ.

Để tạo ra sản phẩm dịch vụ nói chung và sản phẩm bưu chính viễn

thông nói riêng đều cần có sự tham gia của các yếu tố sản xuất như lao động,

tư liệu lao động và đối tượng lao động.

Sản phẩm bưu chính viễn thông là sản phẩm đặc biệt, để tạo ra sản

phẩm, trong quá trình sản xuất không tạo ra bất cứ một sự thay đổi nào ngoài

sự thay đổi về vị trí không gian: các bưu phẩm phải được đảm bảo nguyên

vẹn, các thông tin mã hoá phải được giải mã chính xác, nếu tạo ra bất cứ một

sự thay đổi nào khác là bưu điện đã vi phạm chất lượng. Như vậy, sản phẩm

bưu chính viễn thông không phải là hình thái vật chất cụ thể, không tồn tại

ngoài quá trình sản xuất, không thể đưa vào kho cũng như không thể thay thế

được.

Mặt khác, do đặc thù của sản phẩm bưu chính viễn thông là mang tính

vô hình, không tồn tại ở một dạng vật chất cụ thể, các doanh nghiệp bưu

chính viễn thông không cần nguyên vật liệu chính, phải bỏ tiền ra mua ngoài

các vật liệu phụ như dây gai, ấn phẩm.. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu chi

phí sản xuất kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông: chi phí vật liệu chiếm

tỷ trọng nhỏ, chi phí lao động sống chiếm tỷ trọng lớn..và tạo nên sự khác biệt

lớn trong phương thức tính giá thành sản phẩm và chế độ hạch toán kế toán

của doanh nghiệp bưu chính viễn thông so với doanh nghiệp sản xuất khác.

2.1.4.2 Đặc điểm kinh doanh của ngành bưu điện

 Quá trình cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông mang tính dây

chuyền

Quá trình cung cấp dịch vụ trong ngành bưu điện đòi hỏi mỗi doanh

nghiệp phải có hệ thống mạng lưới thông tin, mạng lưới tổ chức con người và

hoạt động sản xuất kinh doanh rộng khắp. Quá trình sản xuất cung cấp dịch

vụ bưu chính viễn thông mang tính dây chuyền. Điểm đầu và điểm cuối của

một quá trình truyền đưa tin tức có thể cùng một thành phố, cùng quốc gia

hay tại các nước khác nhau. Để truyền đưa một tin tức hoàn chỉnh từ người

gửi đến người nhận thường có hai hay nhiều cơ sở bưu điện tham gia, mỗi cơ

sở chỉ thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn

chỉnh đó. Việc chi phí cho một quá trình sản xuất bưu điện rải rác ở nhiều đơn

vị bưu điện song việc thu cước (giá cả bán sản phẩm bưu điện) của toàn trình

lại được thực hiện ở một nơi, đó là nơi ký gửi tin tức. Do vậy, doanh thu cước

của một đơn vị bưu điện không đặc trưng cho kết quả hoạt động kinh doanh

của đơn vị đó. Chính do đặc điểm này nên trong giai đoạn hiện nay, toàn khối

thông tin được hạch toán tập trung. Toàn bộ doanh thu được tập trung về một

mối, chi phí cân đối từ một nguồn, những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao

hỗ trợ cho các đơn vị có doanh thu thấp.

 Quá trình cung cấp gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm

Chu kỳ tái sản xuất sản phẩm nói chung là Sản xuất – Phân phối – Trao

đổi – Tiêu dùng. Như vậy, thông thường tiêu dùng sản phẩm nằm sau quá

trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp, sản phẩm sau khi sản xuất được đưa

vào kho, sau đó thông qua mạng lưới thương nghiệp thực hiện phân phối, trao

đổi và sau đó người tiêu dùng mới tiêu dùng được. Còn trong hoạt động bưu

chính viễn thông, quá trình tiêu thụ sản phẩm không tách rời quá trình sản

xuất và tiêu dùng nên chất lượng bưu chính viễn thông đòi hỏi ngày càng cao.

Sản phẩm của các ngành khác sau khi sản xuất phải trải qua khâu chất lượng

rồi mới được đưa ra thị trường. Người tiêu dùng có thể từ chối không mua sản

phẩm có chất lượng kém hoặc chấp nhận mua những sản phẩm cạnh tranh với

giá rẻ hơn. Còn đối với các dịch vụ bưu chính viễn thông thì dù muốn hay

không, người tiêu dùng vẫn phải tiêu dùng những sản phẩm do Ngành tạo ra.

Hơn thế nữa, một sản phẩm bưu chính viễn thông kém chất lượng không thể

thay thế bằng một sản phẩm khác chất lượng tốt hơn, sản phẩm bưu chính

viễn thông kém chất lượng có thể tạo ra những tổn thất to lớn cả về vật chất

lẫn tinh thần.

 Tải trọng không đồng đều theo không gian và thời gian

Trong quá trình khai thác sản xuất gắn liền với tiêu thụ, yêu cầu thông

tin liên lạc phải thông suốt, tức là cung ứng 24/24 giờ trong ngày. Trong khi

đó nhu cầu sử dụng lại phân bố không đều theo thời gian và không gian, điều

đó dẫn tới khi thì quá tải, khi thì dư thừa năng lực không khai thác hết.

Hiệu quả sử dụng thực tế của sản phẩm bưu chính viễn thông rất khác

nhau đối với những người sử dụng khác nhau và ở những vùng khác nhau.

Mỗi tổ chức bưu chính viễn thông đều thực hiện hai chức năng kinh doanh và

dịch vụ, cung cấp cho xã hội những loại hình dịch vụ khác nhau, phục vụ cho

nhiều loại đối tượng, trên nhiều địa bàn. Từ đó việc chấp nhận mức giá của

sản phẩm bưu chính viễn thông của một loại dịch vụ cung cấp cũng khác

nhau.

Các sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông có khả năng thay thế lẫn

nhau trong một giới hạn nhất định, bởi vì mỗi lượng tin tức người ta có thể ký

thác dưới dạng này hay dạng khác để truyền đưa qua mạng bưu điện.

2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1

Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực tiếp tạo ra sản phẩm bằng các hoạt

động mang tính chất dịch vụ của mình. Giá trị của sản phẩm là những hao phí

về lao động sống và lao động vật hoá làm thay đổi đối tượng lao động (tin

tức) từ không gian này đến không gian kia. Trong một khoảng thời gian cho

phép nào đó, sản phẩm của một đơn vị thực chất chỉ là một công đoạn của sản

phẩm toàn ngành bởi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ bưu điện

là một dây chuyền liên tục và phải có sự tham gia của ít nhất hai đơn vị bưu

điện trở lên. Các sản phẩm, dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1 là:

Dịch vụ Bưu chính bao gồm: Bưu phẩm; bưu kiện; Bưu chính uỷ thác;

Dịch vụ chuyển tiền (bao gồm thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền

nhanh, điện hoa); Dịch vụ tiết kiệm bưu điện.

Dịch vụ viễn thông bao gồm: Dịch vụ đàm thoại ghisê (bao gồm dịch

vụ điện thoại nội hạt, dịch vụ gọi 171, dịch vụ điện thoại Collect-call, HCD..);

Dịch vụ điện thoại thẻ.

Dịch vụ phát hành báo chí bao gồm: Nhận đặt báo dài hạn; Bán báo lẻ.

Bảng 2.1 : Phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông

năm 2003 và 2004

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu

Năm 2003 Năm 2004 Mức biến động 2004/2003

Lượng

Tỷ trọng (%)

57286 37965 17713 1608 52235 38363 11493 2379 -5051 398 -6220 771 91,2 101,04 64,9 147,9

315 111,1 17612 69847 12031 6980

5581 62867 Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004

Doanh thu bưu chính viễn thông  Doanh thu dịch vụ bưu chính  Doanh thu dịch vụ viễn thông  Doanh thu dịch vụ PHBC Doanh thu phân chia Doanh thu được hưởng

Qua bảng phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông năm

2003 và 2004 ta thấy, năm 2004 chỉ tiêu doanh thu được hưởng của Bưu điện

trung tâm 1 tăng lên 11,1% so với năm 2003 thể hiện nhu cầu sử dụng các

dịch vụ Bưu điện trên thị trường tăng lên. Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu

chính viễn thông năm 2004 thấp hơn so với năm 2003 là 5051 triệu đồng

(bằng 91,2% so với 2003). Nguyên nhân là doanh thu từ dịch vụ viễn thông

giảm 35,1%, giảm 6220 triệu đồng, doanh thu từ dịch vụ bưu chính chỉ tăng

1,04% so với năm 2003. Doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm bởi năm 2003,

trung tâm được hạch toán toàn bộ doanh thu từ dịch vụ bán thẻ Cardphone,

nhưng từ năm 2004, theo quy định của Bưu điện Hà Nội, trung tâm chỉ được

hạch toán 8% doanh thu bán thẻ Cardphone. Chính sự thay đổi này đã làm

cho doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm đáng kể. Tuy nhiên, doanh thu phân

chia năm 2004 tăng lên đáng kể là 12 031 triệu đồng. Doanh thu phân chia

Bưu chính viễn thông của Bưu điện trung tâm 1 là kết quả bù trừ giữa phần

doanh thu bưu chính viễn thông phải trả và nhận được khi thực hiện phân chia

cước với các đơn vị trong nội bộ Bưu điện Hà Nội như Công ty điện thoại,

Trung tâm dịch vụ khách hàng, Trung tâm tin học..

Bảng 2.2 : Bảng phân tích lợi nhuận trước thuế năm 2003,2004

Đơn vị: Triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Mức biến động 2004/2003

Lượng Tỷ trọng(%)

Doanh thu được hưởng 62867 69847 6980 111,1

Giá vốn hàng bán 26525 26639 114 100,4

Lợi nhuận trước thuế 34659 38255 3596 110,3

Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004

Qua số liệu ở bảng trên, ta thấy lợi nhuận trước thuế năm 2004 đạt

38255 triệu đồng, tăng 10,3% so với lợi nhuận trước thuế năm 2003, tăng 3

596 triệu đồng. Điều này được lý giải bởi doanh thu được hưởng năm 2004

tăng 11,1% so với doanh thu năm 2003, trong khi đó giá vốn hàng bán tăng

lên ít, chỉ tăng 0,4%, tăng 114 triệu đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là

tiêu chí duy nhất đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Vì vậy, từ số liệu trong bảng trên ta tính được chỉ tiêu tỷ suất

lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1. Chỉ tiêu này

được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế cho doanh thu.

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu = Lợi nhuận trước thuế/Doanh thu

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1

năm 2003 là 55,1%, năm 2004 là 54,6%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trên

doanh thu năm 2004 giảm so với năm 2003 chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của

năm 2004 không bằng năm 2003. Tuy nhiên, sự sụt giảm không lớn ( khoảng

0,5%) nên ảnh hưởng không nhiều đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh

doanh của Bưu điện trung tâm 1 năm 2004.

2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG

TÂM 1

2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

2.2.1.1 Đặc điểm hoạt động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

Với đặc thù về loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nên ngành Bưu

điện thực hiện hạch toán kế toán toàn ngành. Mọi chi phí được tập hợp từ cơ

sở Bưu điện huyện, lên đến Bưu điện tỉnh, thành phố rồi lên Tổng công ty

Bưu chính viễn thông Việt Nam. Ở các cơ sở bưu điện huyện chỉ tập hợp chi

phí không tính giá thành dịch vụ, ở Bưu điện tỉnh là nơi tính giá thành một

công đoạn dịch vụ, còn Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam mới là

nơi tính giá thành toàn ngành Bưu điện. Bưu điện Hà Nội được coi là đơn vị

hạch toán cấp tỉnh, các đơn vị trực thuộc là đơn vị hạch toán cấp huyện.

Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu bao gồm tiền mặt và tiền

gửi ngân hàng. Bưu điện trung tâm 1 có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng

Công thương và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tiền gửi

ngân hàng của công ty bao gồm :

- Tài khoản tiền gửi kinh doanh

- Tài khoản tiền gửi tiết kiệm bưu điện

- Tài khoản tiền gửi chuyên thu: Hàng ngày Bưu điện trung tâm 1 phải

chuyển toàn bộ số dư trên tài khoản chuyên thu của ngày hôm trước về

Bưu điện Hà Nội.

Hiện nay công tác quản lý tài chính của công ty do phòng Tài chính kế

toán đảm nhiệm. Công tác kế toán tại đây được hạch toán theo hình thức

chứng từ ghi sổ trên máy vi tính. Bưu điện trung tâm 1 tổ chức hạch toán và

lưu trữ chứng từ kế toán tại đơn vị, lập các báo cáo kế toán nội bộ theo quy

định gửi về Bưu điện Hà Nội. Mọi công việc quản lý đều được thực hiện qua

mạng máy tính. Công tác quản lý ngân quỹ được coi là một phần công việc

của các nhân viên kế toán và thủ quỹ. Kế toán trưởng là người có quyền ra

các quyết định quản lý ngân quỹ. Các kế toán viên và thủ quỹ có nhiệm vụ

báo cáo với kế toán trưởng khi có tình huống bất lợi cho ngân quỹ xảy ra.

Công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 dựa vào sự biến động

của tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các tài khoản có liên quan như

tài khoản theo dõi các khoản phải thu, phải trả...

Bưu điện trung tâm 1 phải thực hiện định mức lưu quỹ hàng ngày các

tại bưu cục giao dịch theo quy định của Bưu điện Hà Nội. Cụ thể, đối với các

Bưu cục không phục vụ dịch vụ chuyển tiền (Thư chuyển tiền, Điện chuyển

tiền, Chuyển tiền nhanh) mức lưu quỹ tiền mặt tối đa dưới 3.000.000 đồng.

Đối với các Bưu cục có phục vụ dịch vụ chuyển tiền mức lưu quỹ tiền mặt tối

đa dưới 30.000.000 đồng. Đặc biệt các Bưu cục có số lượng nhận phát hành

và chi trả của các dịch vụ chuyển tiền nhiều cho phép mức lưu quỹ tiền mặt

tối đa dưới 50.000.000 đồng. Định mức số dư tài khoản tiền gửi kinh doanh

và tài khoản tiền gửi tiết kiệm Bưu điện dưới hai tỷ năm trăm triệu đồng.

Hàng ngày, phòng Tài chính- Kế toán của trung tâm cử người đến các Bưu

cục để nhận thu gom tiền, đồng thời tiếp quỹ cho các Bưu cục phải chi trả tiền

ngân vụ hoặc tiết kiệm Bưu điện. Các bưu cục của Bưu điện trung tâm 1 sẽ

phải dự trù lượng tiền cần thiết tối thiểu phải có tại thời điểm trong ngày để

đáp ứng ngay khi khách hàng đến lấy tiền. Với đặc thù hoạt động sản xuất

kinh doanh của Bưu điện, hoạt động thu chi diễn ra hàng ngày, không thể dự

đoán trước được, đặc biệt trong trường hợp khách hàng đến rút tiền đột xuất

mà các bưu cục không có bất kỳ một thông tin nào báo trước thì với định mức

lưu quỹ theo quy định như hiện nay sẽ làm cho các bưu cục luôn ở trong trạng

thái bị động khi phải chi trả các khoản tiền ngân vụ (trả cho dịch vụ thư

chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh), trả cho dịch vụ tiết kiệm

Bưu điện (trả gốc và lãi). Hiện nay, trung tâm không quản lý ngân quỹ theo

mô hình nhất định, không xác định một mức cân đối tiền tối ưu. Như vậy,

công tác quản lý ngân quỹ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động sản

xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1. Nếu trung tâm áp dụng một mô

hình quản lý thích hợp kết hợp cùng với những định mức lưu quỹ theo quy

định thì sẽ giúp cho trung tâm luôn chủ động trong việc chi trả, thanh toán

cho khách hàng.

2.2.1.2 Thu – chi ngân quỹ

 Các khoản thực thu ngân quỹ:

 Thu từ kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông

+ Thu tiền phát hành ngân vụ: bao gồm các dịch vụ thư chuyển tiền, điện

chuyển tiền, chuyển tiền nhanh. Khoản thu này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong

các khoản thực thu của Bưu điện trung tâm 1 trong kỳ.

+ Tiền thu cước dịch vụ bưu chính viễn thông (gồm cả thu từ đại lý bưu

điện) sau khi trừ các khoản hoàn cước, giảm cước, phân chia cước với các đối

tác và các đơn vị khác.

+ Thu về phí phát hành báo chí đã phát hành sau khi trừ các khoản thiệt

hại về báo ế, báo thiếu hụt.

+ Thu về lắp đặt, dịch chuyển máy thuê bao, phát triển thuê bao.

+ Thu về từ dịch vụ tiết kiệm bưu điện.

+ Thu do người mua ứng trước để mua hàng hoá dịch vụ.

 Thu từ hoạt động đầu tư

+Thu từ lãi tiền gửi ngân hàng: Khoản thu này làm tăng số dư tài khoản

tiền gửi thanh toán.

 Thu từ hoạt động bất thường

Tóm lại, thu ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu là thu từ kinh

doanh bưu chính viễn thông. Các khoản thu này chủ yếu được trả bằng tiền

mặt, qua tài khoản tiền gửi kinh doanh tại ngân hàng.

 Các khoản thực chi ngân quỹ

 Chi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông

+ Một yếu tố ảnh hưởng lớn đến các khoản thực chi ngân quỹ là:

*Trả tiền ngân vụ : trả cho dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền,

chuyển tiền nhanh.

*Trả cho dịch vụ tiết kiệm : trả gốc và lãi cho dịch vụ tiết kiệm.

+ Chi trả nguyên nhiên vât liệu, động lực

*Vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, cho khai thác nghiệp vụ:

Tại Bưu điện trung tâm 1, không có phần chi về nguyên vật liệu chính

để tạo ra thực thể sản phẩm, nó khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Do

đó, tỷ trọng khoản mục vật liệu trong tổng chi phí chiếm tỷ trọng không cao.

Chi phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất như xi,dây gai, ấn phẩm,

mực dấu, bao bì, chi phí in tem, giấy Fax, giấy photocopy, đĩa mềm, giấy in

cho máy vi tính, vật liệu cho lắp đặt điện thoại, thiết bị viễn thông.. và quản lý

như giấy, bút, dập ghim..

* Vật liệu dùng cho sửa chữa tài sản

* Nhiên liệu: Khoản chi ngày càng được giảm trong số chi phí khi mà

trang thiết bị hiện đại ngày càng được nâng cao.

Đây là khoản mục chi phí phục vụ cho máy móc, thiết bị phương tiện

vận chuyển phục vụ cho việc truyền tin tức, bao gồm: xăng dầu phục vụ cho

sản xuất và quản lý mạng lưới, xăng dầu dùng cho ô tô, chạy máy nổ khi mất

điện..

* Động lực : Là khoản mục chi phí về động lực, thiết bị động lực phục

vụ cho máy móc chuyên dùng để phục vụ cho việc truyền đưa tin tức.

* Dụng cụ sản xuất, đồ dùng văn phòng: Đây là khoản chi mua sắm

dụng cụ phục vụ cho công nhân khai thác, vận hành, bảo dưỡng mạng lưới,

phục vụ cho cán bộ công nhân viên làm công tác quản lý như máy tính cá

nhân, đồ dùng văn phòng. Hay nói cách khác, chi phí dụng cụ sản xuất, đồ

dùng văn phòng là khoản chi mua sắm những dụng cụ phục vụ cho điều kiện

làm việc của cán bộ công nhân viên không đủ điều kiện của tài sản cố định.

+ Chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp tiền ăn ca

Tiền lương là khoản mục chi phí ngày càng chiếm tỷ trọng một cao

trên tổng chi phí của Bưu điện trung tâm 1 bởi nhu cầu truyền đưa thông tin

ngày một nhiều, khối lượng ngày một nâng cao, đòi hỏi phải có lao động

tiền lương cao phục vụ việc truyền đưa tin tức.

Chi trả lương cho cán bộ, công nhân viên quản lý được tính trên cơ sở

lương cơ bản, bậc lương và các hệ số điều chỉnh. Khoản chi này cũng có

biến động không đáng kể. Tiền lương được chi theo đúng mục đích, gắn với

kết quả sản xuất kinh doanh.

+ Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: Đây là khoản chi

được tính trên cơ sở quỹ tiền lương của Bưu điện trung tâm 1 theo các chế

độ hiện hành của nhà nước.

+ Chi dịch vụ mua ngoài

* Chi sửa chữa TSCĐ mua ngoài:

Khoản mục này có xu hướng giảm trong tỷ trọng tổng chi phí bởi tài

sản cố định, máy móc, thiết bị mới, hiện đại được trang bị sẽ không còn

những thiết bị cũ, sẽ không phải sửa chữa nhiều.

Đây là khoản chi nhằm phục hồi tài sản đã hao mòn trong quá trình sử

dụng, nhằm khôi phục giá trị sử dụng của tài sản cố định, đảm bảo khang

trang cơ sở vật chất phục vụ cho khách hàng và các khoản chi phí sửa chữa

tài sản cố định đặc thù.

* Vận chuyển bốc dỡ thuê ngoài: Đây là khoản chi vận chuyển hàng

hoá thông tin cho nhu cầu truyền đưa tin tức, bao gồm chi thuê phương

tiện vận chuyển trong khai thác, sản xuất bưu chính, chi thuê bốc dỡ bưu

phẩm, bưu kiện...tính theo quy định hiện hành của nhà nước và Tổng công

ty bưu chính viễn thông. Khoản chi này ngày càng được giảm đáng kể khi

mà thiết bị truyền tin ngày càng được hiện đại hoá, điện tử hoá, công nghệ

hoá.

*Điện năng : Bao gồm chi phí tiêu hao điện năng phục vụ cho sản xuất

bưu chính viễn thông, phát hành báo chí và cho công tác quản lý khác.

* Hoa hồng đại lý: Chi hoa hồng đại lý là khoản chi trả cho các đại lý

bán tem, báo, đại lý điện thoại công cộng, đại lý bưu điện, tính theo quy

định hiện hành của Tổng công ty.

+ Chi bằng tiền khác

* Các khoản thuế, phí, lệ phí

* Bảo hộ lao động

* Tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại:

* Bổ túc, đào tạo

* Chi khác

 Chi hoạt động đầu tư tài chính: Chi mua sắm đầu tư xây dựng cơ bản

 Chi hoạt động bất thường

Như vậy, ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 là chênh lệch giữa các

khoản thực thu và thực chi ngân quỹ. Vì Bưu điện trung tâm 1 hoạt động

kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ nên các khoản thu và chi của trung tâm

nhiều, đặc biệt là khoản thu chi ngân vụ và tiết kiệm bưu điện có ảnh hưởng

rất lớn đến ngân quỹ của đơn vị hàng ngày.

2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

Qua các bảng báo cáo tài chính của Bưu điện trung tâm 1 ta có:

Bảng 2.3 : Dự trữ, phải thu, phải trả năm 2003 – 2004

Đơn vị: triệu đồng

Khoản mục 31/12/2003 31/12/2004 Bình quân

Các khoản phải thu 3103 3267 3185

Các khoản phải trả 2095 1867 1981

Dự trữ (Nguyên vật liệu) 683 1525 1254

Nguồn: Bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2003 và 2004

Dựa vào bảng tổng hợp doanh thu chi phí ta biết:

+ Tổng doanh thu :68847 triệu đồng

+ Tổng giá vốn hàng bán: 26639 triệu đồng

Độ dài chu kỳ dự trữ được tính như sau Giá vốn hàng bán

Vòng quay hàng dự trữ = ----------------------------------- Dự trữ bình quân

365 ngày

Độ dài chu kỳ dự trữ = -------------------------

Số lần dự trữ

Tổng doanh thu tiêu thụ

Vòng quay khoản phải thu = --------------------------------------------- Mức thu tiền bình quân trong năm

365 ngày

Độ dài chu kỳ chờ thu tiền = -------------------------- Số lần chờ thu tiền

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền

Độ dài chu kỳ kinh doanh Độ dài chu kỳ trả tiền Giá vốn hàng bán

Số lần trả tiền = ------------------------------------------- Mức trả tiền bình quân hàng năm

365 ngày

Độ dài chu kỳ trả tiền = -------------------------------------

Chu kỳ tiền mặt = Chu kỳ kinh doanh - Chu kỳ trả tiền

Số lần trả tiền Độ dài chu kỳ tiền mặt Thay số vào ta có:

+ Vòng quay hàng dự trữ :24 vòng

Độ dài chu kỳ dự trữ là : 15,2 ngày

+ Vòng quay các khoản phải thu: 21,5 vòng

Độ dài chu kỳ chờ thu tiền là : 17 ngày

+ Chu kỳ kinh doanh : 32,2 ngày

+ Vòng quay các khoản phải trả: 13,4 vòng

Độ dài chu kỳ trả tiền là : 27,2 ngày

+ Chu kỳ tiền mặt là : 5 ngày

Thu tiền từ khách hàng

Giao hàng cho khách hàng

Bắt đầu dự trữ

Chu kỳ chờ thu tiền (17 ngày)

Chu kỳ dự trữ (15 ngày)

Chu kỳ trả tiền

Chu kỳ tiền mặt (5 ngày)

(27 ngày)

Trả tiền cho nhà cung cấp

Chu kỳ kinh doanh

(32 ngày)

Những phân tích trên được thể hiện qua sơ đồ sau:

Độ dài chu kỳ dự trữ của Bưu điện trung tâm 1 là 15 ngày, chiếm

46.8% chu kỳ kinh doanh. Điều này phản ánh đúng đặc trưng của ngành Bưu

điện- là ngành sản xuất dịch vụ. Sản phẩm của Bưu điện là sản phẩm đặc biệt,

không có hình thái vật chất. Các cơ sở sản xuất dịch vụ chỉ sản xuất khi có

người đến mua, không thể chủ động sản xuất sẵn sản phẩm dự trữ. Xuất phát

từ đặc điểm kinh tế – xã hội của ngành Bưu chính viễn thông nên vốn lưu

động của công ty có nét đặc thù khác với các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp

ra sản phẩm: Trong vốn lưu động sản xuất chính không có thành phần nguyên

vật liệu tồn kho, trong thành phần của vốn lưu thông không có thành phẩm.

Dự trữ chủ yếu của Bưu điện trung tâm 1 là nguyên nhiên vật liệu dùng cho

sản xuất sản phẩm, khai thác nghiệp vụ.

Ta thấy, chu kỳ tiền mặt của Bưu điện trung tâm 1 là 5 ngày, chiếm

khoảng 15,6% chu kỳ kinh doanh. Điều này có nghĩa là thời gian bình quân từ

lúc doanh nghiệp chi tiền cho đến khi thu được tiền là 5 ngày. Độ dài chu kỳ

chờ thu tiền là 17 ngày. Trong khi chu kỳ trả tiền là 27 ngày, chiếm 84% chu

kỳ kinh doanh. Chênh lệch giữa chu kỳ trả tiền và chu kỳ chờ thu tiền là 10

ngày, số lần thu lớn hơn số lần chi phát sinh. Sự khác biệt thu chi này đòi hỏi

công ty phải áp dụng những biện pháp quản lý ngân quỹ thích hợp bởi lẽ hoạt

động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 diễn ra từng ngày, từng giờ. Phần

lớn tiền thu của khách hàng đến giao dịch tại trung tâm là tiền mặt. Tại thời

điểm thu được tiền của khách hàng, trung tâm thường gửi tiền ở ngân hàng,

không đem tiền đầu tư ngắn hạn. Các dịch vụ mà công ty cung cấp cho khách

hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động ngân quỹ hàng ngày như: thư

chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm bưu điện..Chính

có sự chênh lệch giữa hai chu kỳ thu tiền và chu kỳ trả tiền đòi hỏi trung tâm

phải quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ.

2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền

Mỗi kỳ kinh doanh, công ty đều có những khoản thực thu, thực chi

ngân quỹ. Để có thể lập được kế hoạch tài trợ và sử dụng ngân quỹ, trước hết

ta phải xem đến thực trạng vận động của khoản thực thu, thực chi trong thời

gian qua.

Bảng 2.4 :

Một số chỉ tiêu trong bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2004

Đơn vị: triệu đồng

Khoản mục 31/12/2003

11539,5 Tài sản lưu động Quý 1/2004 12747,2 Quý 2/2004 11428,6 Quý 3/2004 18595,3 Quý 4/2004 10880,6

7586 7931,7 6282,2 12957,7 5050,3 Tiền

3103 Các khoản phải thu 3374,7 3506,1 3873 3267,4

683 Dự trữ 997 1084,2 1134,3 1525

167,5 Tài sản lưu động khác 443,8 556,1 630,3 1037,9

7366,7 Nợ ngắn hạn 7389,6 8276,6 9864,3 9758,8

0 Vay ngắn hạn 0 0 0 0

1136 Phải trả cho người bán 336,8 378,4 757,2 1361,7

959 Phải trả công nhân viên 15,3 10,9 103,2 1264

4632 6566 7258,7 8243,4 6346,2

639,7 trả, 471,5 628,6 760,5 786,9

Phải trả cho các đơn vị nội bộ Các khoản phải phải nộp khác

Nguồn : Bảng cân (cid:0)ối phát sinh tài khoản theo

quý năm 2004

Bảng 2.5: Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí theo quý năm 2004

Đơn vị : Triệu đồng

Chỉ tiêu

Mã số Quý 1/2004 16034 6339 10C 11 Quý 2/2004 17534 3733 Quý 3/2004 17108 7071 Quý 4/2004 19171 9496

20 9695 13801 10037 9675

21,47 20,2 19,3 16,7

17,7 9698,77 4378 9443,2 615 9441,3 25,3 9666,4 21 22 22A 24 25 30

0 9698,77 1,9 1,9 9445,1 3,6 3,6 9444,9 0 9666,4 31 32 40 50

1.Doanh thu được hưởng 2.Giá vốn hàng bán 3.Chênh lệch DT được hưởng và GV hàng bán(20=10C – 11) 4.Doanh thu hoạt động tài chính 5.Chi phí tài chính Trong đó: Chi phí lãi vay 6.Chi phí bán hàng 7.Chi phí quản lý doanh nghiệp 8.Chênh lệch thu chi từ HĐKD (30 = 20+(21-22)-(24+25) 9.Thu nhập khác 10.Chi phí khác 11.Chênh lệch thu chi hoạt động khác 12.Tổng chênh lệch doanh thu chi phí (50 = 30 + 40 )

Nguồn số liệu:Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2004

 Quý 1 năm 2004

So với đầu quý 1, lượng tiền của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 345,7

triệu đồng. Một đặc điểm hoạt động của Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị

truyền đưa tin tức, mọi tin tức phải do khách hàng mang đến. Nhu cầu

truyền đưa tin tức không phát sinh đều theo các tháng trong năm...Thường

nhu cầu truyền đưa tin tức phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt của xã hội

(thường vào các kỳ báo cáo, các ngày lễ tết thì có lượng nhu cầu lớn). Chính

đặc điểm này ảnh hưởng đến công tác tổ chức sản xuất kinh doanh của công

ty. Đây là thời điểm đầu năm 2004, vào dịp giáp tết nên khách hàng sử dụng

các dịch vụ của công ty nhiều hơn. Trong quý 1, công ty đã tăng dự trữ tại

đơn vị nên làm giảm tiền mặt 314 triệu đồng, bên cạnh đó các khoản phải

thu của công ty tăng lên 271,7 triệu đồng.

Nguồn tiền thu được, Bưu điện trung tâm 1 đã sử dụng để thanh toán

các khoản nợ ngắn hạn như: Phải trả người bán, phải trả công nhân viên,

phải trả khác.

Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm là

 Quý 2 năm 2004

16 034 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 1 là 9698,77 triệu đồng.

Trong quý 2, lượng tiền trong đơn vị giảm 1649,5 triệu đồng. Sở dĩ

như vậy là vì trong quý này, trung tâm phải tăng dự trữ nguyên vật liệu

phục vụ cho khách hàng, khoản phải thu của Bưu điện trung tâm 1 tăng

131,4 triệu đồng. Đồng thời các khoản mục trong tài sản lưu động khác của

đơn vị tăng lên cũng làm giảm lượng tiền của công ty. Trong quý này, nợ

ngắn hạn của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 887 triệu đồng so với quý 1.

Sản lượng doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông trong quý cao hơn so với

kỳ trước, nhưng ở quý 2 này chi phí bán hàng của trung tâm lớn (4378

triệu đồng), tăng 4360,3 triệu đồng vì thế làm cho lợi nhuận trước thuế quý

2 là 9445,1 triệu đồng, thấp hơn 253,67 triệu đồng so với quý 1. Trong đó

khoản chi cho hoa hồng đại lý của Bưu điện trung tâm 1 chiếm một phần

đáng kể.

 Quý 3 năm 2004

Trong quý 3, số dư tiền mặt của công ty tăng lên đáng kể. Tài sản lưu

động tăng lên 7166,7 triệu đồng, tăng 62,7% so với quý 2. Đồng thời khoản

mục nợ ngắn hạn trong quý cũng tăng lên 1587,7 triệu đồng. Qua bảng ta có

thể thấy được các khoản phải thu trong quý 3 là cao nhất trong năm 2004. Các

khoản phải trả nội bộ trong kỳ tăng 984,7 triệu đồng, tăng 14%. Đây là các

khoản mà Bưu điện trung tâm 1 phải trả cho các đơn vị kinh doanh các dịch

vụ viễn thông trong Bưu điện Hà Nội là : Công ty điện thoại, Công ty viễn

thông, Trung tâm tin học..Các khoản phải trả nội bộ chiếm tỷ lệ khá lớn trong

các khoản phải trả của trung tâm. Đó chính là doanh thu thu hộ giữa các đơn

vị trực thuộc, doanh thu phân chia dịch vụ bưu chính viễn thông như: Phát

triển thuê bao; bán các SIM và thẻ trả trước (cố định, di động, Internet..); thu

cước thuê bao viễn thông.

Khoản phải trả công nhân viên tăng 94,6% so với đầu quý. Phải thu

khách hàng trong kỳ này cũng tăng lên đáng kể,tăng 366,9 triệu đồng, chứng

tỏ công ty đã tăng lượng tín dụng thương mại cho khách hàng. Đối với cơ

quan xí nghiệp, cá nhân có ký hợp đồng với Bưu điện, có thể sử dụng dịch vụ

bưu chính viễn thông trước và thanh toán sau vào thời điểm quy định trong

tháng. Khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 phần nhiều là khách hàng

thường xuyên, việc giữ uy tín của khách hàng là rất cần thiết. Đối với trung

tâm, trong nhiều trường hợp có thể hy sinh lợi ích trước mắt để đảm bảo lợi

ích lâu dài vì trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, việc tìm các dịch vụ

được sử dụng với tần số cao như vậy là rất khó.

So với quý 2, doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm

giảm 426 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 3 là 9444,9 triệu đồng.

 Quý 4 năm 2004

Trong quý 4, lượng tiền của công ty đã giảm 7907,4 triệu đồng do Bưu

điện trung tâm 1 tăng một lượng dự trữ đáng kể là 390,7 triệu đồng, chiếm

14% tài sản lưu động, đồng thời tăng các tài sản lưu động. Đây là lượng dự

trữ cao nhất trong năm 2004, vì đây là thời điểm 3 tháng cuối năm, có rất

nhiều ngày lễ như ngày 20/10; 20/11;24/12, khách hàng sử dụng các dịch vụ

của Bưu điện trung tâm tăng lên đáng kể như dịch vụ: điện hoa, chuyển phát

nhanh, chuyển tiền...Công ty phải tăng lượng dự trữ để nhằm phục vụ cho

khách hàng. Với đặc thù của ngành bưu điện, hoạt động dịch vụ diễn ra hàng

ngày nên trung tâm thu về lượng tiền mặt khá lớn. Trong quý này, các khoản

phải thu khách hàng giảm 605,6 triệu đồng, đây là thời gian các khách hàng

thanh toán các khoản nợ vì đa số khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 là

khách hàng có quan hệ lâu dài với bưu điện, sử dụng các dịch vụ của trung

tâm như bưu chính, báo chí, viễn thông. Trong quý này, doanh thu được

hưởng của Bưu điện trung tâm là cao nhất trong năm, chiếm 27,8 % doanh

thu năm 2004. Lợi nhuận trước thuế quý 4 tăng 221,5 triệu đồng so với quý 3.

2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

2.2.4.1 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng

thanh toán

Bảng 2.6: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004

Đơn vị tính: lần

Chỉ tiêu

Công thức tính

Quí

Quí

Quí

Quí

1/2004

2/2004

3/2004

4/2004

Khả năng thanh

(TSLĐ)

toán hiện hành

(Nợ ngắn hạn)

Khả năng thanh

(TSLĐ - Dự trữ)

1,72 1,38 1,88 1,1

toán nhanh

( Nợ ngắn hạn)

Khả năng thanh

(Tiền mặt)

1,7 1,24 1,76 0,95

toán tức thời

(Nợ ngắn hạn)

1,07 0,75 1,3 0,52

Qua các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004 của Bưu

điện trung tâm 1, ta thấy nợ ngắn hạn của công ty được đảm bảo khá đầy đủ

bằng tài sản lưu động và các tài sản quay vòng nhanh khác. Như vậy nợ

ngắn hạn không phải là nguồn tài trợ chính cho tài sản lưu động. Trong tài

sản lưu động của công ty, chiếm tỷ lệ lớn là tiền (bao gồm tiền mặt, tiền gửi

ngân hàng và tiền đang chuyển) và khoản phải thu.

Về khả năng thanh toán hiện hành: khả năng thanh toán hiện hành

của Bưu điện trung tâm 1 thấp nhất trong quý 1 và cao nhất trong quý 3.

Nhìn chung, trung tâm có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.

Về khả năng thanh toán nhanh : Tỷ lệ này cao nhất ở quý 3 nhưng

lại thấp nhất ở quý 4 (tỷ lệ này ở quý 4 nhỏ hơn 1). Trong quý 1, quý 2, quý

3 dự trữ chiếm lần lượt là 7,8%; 9,8 %; 6,1% tài sản lưu động. Sang quý 4

dự trữ chiếm 14% tài sản lưu động của đơn vị. Trong quý 4, công ty phải dự

trữ nguyên vật liệu nhiều hơn so với các quý còn lại, bởi đây là thời điểm có

nhiều ngày lễ trong năm, nhu cầu của khách hàng sử dụng các sản phẩm

dịch vụ của công ty lớn. Dự trữ chủ yếu là nguyên vật liệu dùng cho khai

thác nghiệp vụ. Tuy nhiên, nhìn chung dự trữ chiếm tỷ lệ không lớn trong

tài sản lưu động của đơn vị. Điều này được lý giải Bưu điện trung tâm 1 là

doanh nghiệp dịch vụ, sản phẩm của công ty là sản phẩm vô hình, việc tiêu

thụ sản phẩm gắn liền với việc tạo ra sản phẩm. Đơn vị chỉ sản xuất khi có

người đến mua, không thể chủ động sản xuất sản phẩm dự trữ. Trong khi

đó, khách hàng ngày càng khó tính, cùng với xu hướng cạnh tranh ngày

càng gia tăng, khách hàng ngày càng có nhiều quyền lựa chọn. Do vậy, yêu

cầu đối với chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp phải thật cao, nếu

không ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng.

Về khả năng thanh toán tức thời: Chỉ tiêu thanh toán tức thời trong 4

quý năm 2004 của công ty có sự biến động rõ rệt. Trong quý 1 và quý 3, tỷ

lệ khả năng thanh toán tức thời của đơn vị lần lượt là 1,07; 1,3. Ngân quỹ

của trung tâm trong các quý này là khá cao, đặc biệt là tiền gửi ngân hàng

và tiền đang chuyển, nên có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Ngân quỹ của công ty trong quý 1 và quý 3 lần lượt chiếm khoảng 62,2% và

69,7% tài sản lưu động. Ngược lại, trong quý 2 và quý 4 chỉ tiêu này ở mức

thấp hơn: quý 2 (0,75); quý 4 (0,52). Các khoản phải thu của đơn vị trong 4

quý lần lượt chiếm 25,7%; 30 %; 20,2%; 29,9% tài sản lưu động của công

ty.

Hiện nay, ngành Bưu chính viễn thông nói riêng cũng như các ngành

khác nói chung chưa có chỉ số tài chính mẫu để đánh giá, so sánh. Do vậy,

những tỷ lệ về khả năng thanh toán của Bưu điện trung tâm 1 chưa thể đánh

giá chính xác là đã tốt hay chưa. Tuy nhiên, sự ổn định của các tỷ lệ đó

chứng tỏ khả năng tài chính của đơn vị là khá vững chắc. Hệ số khả năng

thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán tức

thời của quý 4 năm 2004 đều thấp hơn so với các quý khác cảnh báo đơn vị

sẽ có thể gặp khó khăn trong trường hợp cần thanh toán đột xuất các khoản

nợ.

Bảng 2.7: Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng năm 2004

Đơn vị tính: lần

Nội dung

Công thức

Quý

Quý

Quý

Quý

1/2004

2/2004

3/2004

4/2004

Tỷ lệ dự trữ trên

Dự trữ

vốn lưu động ròng

Vốn lưu động ròng

0,18 0,34 0,13 1,35

Do đặc thù của ngành bưu điện, nên dự trữ chiếm phần không đáng

kể trong vốn lưu động ròng của công ty. Hoạt động kinh doanh bưu chính

viễn thông khác với các hoạt động kinh doanh thông thường khác vì không

có hàng tồn kho chờ bán. Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng của Bưu điện

trung tâm 1 có sự thay đổi rõ rệt, tỷ lệ này cao nhất ở quý 4, thấp nhất ở quý

3. Hiện nay, Tổng công ty Bưu chính viễn thông chưa có chỉ số trung bình

ngành để so sánh, đánh giá. Do vậy, rất khó khăn cho Bưu điện trung tâm 1

trong việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính là tốt hay chưa tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ

dự trữ trên vốn lưu động ròng ở quý 4 là 1,35. Điều này thể hiện toàn bộ

vốn lưu động ròng ở quý 4 không đủ tài trợ cho hàng dự trữ.

2.2.4.2 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng

hoạt động

 Vòng quay tiền

Bảng 2.8: Vòng quay tiền năm 2004

Đơn vị tính: vòng

Nội

Công thức

Quý

Quý

Quý

Quý

dung

1/2004

2/2004

3/2004

4/2004

Vòng

Doanh thu tiêu thụ trong quý

quay tiền

Tiền+chứng khoán ngắn hạn

2,02 2,79 1,32 3,6

Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của

tiền trong công ty. Việc sử dụng tiền dưới bất kỳ hình thức nào cũng đẩy

nhanh tốc độ chuyển hóa tiền thành các tài sản khác và như vậy, góp phần

đẩy nhanh tốc độ vận động của tiền.

Trong 4 quý năm 2004, vòng quay tiền cao nhất trong quý 4 là 3,6

vòng/quý, thấp nhất trong quý 3 là 1,32 vòng/quý. Từ bảng 2.5, ta thấy

doanh thu được hưởng của trung tâm trong 4 quý lần lượt là: 16034 triệu

đồng; 17534 triệu đồng; 17108 triệu đồng; 19171 triệu đồng. Như vậy, vòng

quay tiền của trung tâm cao nhất ở quý 4 là do sản lượng dịch vụ bưu chính

viễn thông mà trung tâm cung cấp cho khách hàng tăng.

 Vòng quay dự trữ

Bảng 2.9: Vòng quay dự trữ năm 2004

Đơn vị tính:vòng

Quý

Quý

Quý

Quý

Nội dung Công thức

1/2004

2/2004

3/2004

4/2004

Vòng quay

Doanh thu tiêu thụ trong quý

dự trữ

Dự trữ

16,08 16,17 15,08 11,9

Vòng quay dự trữ của trung tâm trong khoảng từ 11.9 đến 16.17 vòng

trong một quý. Dự trữ của trung tâm chiếm tỷ lệ không lớn trong tài sản lưu

động. Tỷ lệ dự trữ trên tài sản lưu động lần lượt trong 4 quý năm 2004 là:

7,8%; 9,5%; 6,1%; 14%. Như vậy, ở thời điểm cuối năm trung tâm dự trữ

nhiều hơn so với các quý 1, quý 2, quý 3. Trung tâm phải đầu tư cho hàng

dự trữ nhiều hơn trước để đạt mức doanh thu cần thiết. Sản phẩm bưu điện

chỉ có giá trị sử dụng khi nó đảm bảo việc truyền đưa thông tin từ khâu đầu

(nơi ký gửi) đến khâu cuối (nơi nhận tin). Chính vì vậy, ngành bưu điện

không có sản phẩm tồn kho, không cho phép có sản phẩm phế phẩm. Do đó,

chỉ tiêu chất lượng sản phẩm của ngành bưu điện là quan trọng vô cùng.

Khác với các ngành sản xuất vật chất khác, sản phẩm bưu điện không do vật

liệu chính tạo ra thực thể sản phẩm. Vì vậy, khoản mục nguyên nhiên vật

liệu cấu thành trong thực thể sản phẩm là không đáng kể. Dự trữ chủ yếu

dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm dây gai, ấn phẩm, bao bì,

vật liệu cho lắp đặt máy điện thoại, thiết bị viễn thông. Hoạt động dịch vụ

bưu điện chủ yếu phải dựa trên các tài sản cố định (bao gồm các tài sản cố

định đặc thù như thiết bị chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn, nguồn điện, nhà

cửa, xe cộ...). Điều này đòi hỏi công ty phải tiến hành công tác quản lý dự

trữ phải tốt, giảm thiểu chi phí cho việc dự trữ.

 Vòng quay các khoản phải thu

Bảng 2.10: Vòng quay các khoản phải thu năm 2004

Đơn vị tính:vòng

Quý

Quý

Quý

Quý

Nội dung Công thức

1/2004

2/2004

3/2004

4/2004

Vòng quay các

Doanh thu tiêu thụ trong quý

khoản phải thu

Các khoản phải thu

4,95 5,1 4,63 5,09

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản

phải thu thành tiền của doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ

thu hồi các khoản phải thu là tốt. Như vậy, tốc độ thu hồi các khoản phải

thu của trung tâm ở quý 3 không tốt như quý 1, quý 2, quý 4.

2.2.4.3 Đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng dự

phòng những biến động bất thường

Thông thường, tuỳ vào từng doanh nghiệp mà các doanh nghiệp trích

lập các quỹ dự phòng để có thể sử dụng các quỹ này trong trường hợp đây là

nguồn tài trợ tức thời cho ngân quỹ trong ngắn hạn.

Hiện tại theo quy chế tài chính của Bưu điện Hà Nội, Bưu điện Hà Nội

sẽ trích lập quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ

cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng. Các đơn vị trực thuộc Bưu

điện Hà Nội sẽ không trích các quỹ này. Vì thế, tại Bưu điện trung tâm 1 hiện

nay không trích lập các quỹ dự phòng những biến động bất thường mà quản

lý và sử dụng quỹ quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng do Bưu điện Hà Nội trích

lập và phân phối cho các đơn vị trực thuộc.

2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA BƯU

ĐIỆN TRUNG TÂM 1

2.3.1 Những kết quả đạt được

Trong thời gian qua, công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm

1 được quan tâm đúng mức nên đã mang lại một số kết quả nhất định. Trung

tâm đã xây dựng các kế hoạch sản lượng và doanh thu, kế hoạch chi phí, kế

hoạch tiếp thị..cho từng năm. Các kế hoạch đó được xây dựng dựa trên việc

khảo sát nhu cầu thị trường cho các loại hình dịch vụ, tốc độ phát triển của

từng loại hình dịch vụ và nguyên nhân của sự phát triển đó. Việc xây dựng

này được trung tâm thực hiện chủ yếu dựa vào kế hoạch Bưu điện Hà Nội

giao xuống để trung tâm cân đối với khả năng hiện có. Các quyết định quản lý

ngân quỹ được đưa ra dựa vào nguồn thông tin từ các nghiệp vụ phát sinh

hàng ngày. Ngoài ra, các quyết định này còn được dựa vào các thông tin về

thị trường, cơ hội đầu tư kinh doanh, các thông tin về ngành, cơ cấu sản phẩm

dịch vụ..mà trung tâm thu thập. Đây là những nguồn thông tin làm cơ sở cho

công tác quản lý ngân quỹ được thuận lợi hơn.

Thông qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ

của Bưu điện trung tâm 1 trong 4 quý năm 2004 đã cho thấy trung tâm đã

đảm bảo khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán đều

lớn hơn 1. Các khoản nợ ngắn hạn của trung tâm đã được đảm bảo bằng tiền

và các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu dao động từ 4,63

vòng/quý đến 5,1 vòng/quý. Quý 1, vòng quay các khoản phải thu tương

đương với 18 ngày; Quý 2, vòng quay các khoản phải thu tương đương với 17

ngày; quý 3, một vòng quay có độ dài 19,4 ngày và đến quý 4 độ dài một

vòng quay tương đương 17,6 ngày. Như vậy, độ dài các khoản phải thu của

trung tâm tương đối ổn định qua các quý.

Mặc dù hiện nay trung tâm chưa áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ cụ

thể nhưng trung tâm vẫn đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời khi có nhu cầu

thanh toán. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân quỹ tại

đơn vị, Bưu điện trung tâm 1 cần áp dụng một mô hình quản lý ngân quỹ phù

hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình.

2.3.2 Những hạn chế

 Chưa tận dụng được tối đa ngân quỹ nhàn rỗi

Ngân quỹ nhàn rỗi của Bưu điện trung tâm 1 được tận dụng gửi ngân

hàng để thu lãi được tính với lãi suất không kỳ hạn. Đây là sự lãng phí trong

công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1. Vòng quay các khoản

phải thu là 21,5 vòng/năm và số ngày trung bình để thu được các khoản phải

thu là 17 ngày. Trong khi đó, vòng quay các khoản phải trả là 13,4

vòng/năm, trung bình cứ sau 27 ngày trung tâm thanh toán các khoản phải

trả. Trong khoảng thời gian chờ trả tiền cho khách hàng, trả cho các đơn vị

trực thuộc Bưu điện Hà Nội, nếu tiền mặt được chuyển sang tài khoản tiền

gửi có kỳ hạn thì sẽ có thu được khoản tiền lãi lớn hơn.

 Chưa đánh giá được hiệu quả quản lý ngân quỹ một cách đầy đủ

Hiện nay, Bưu điện trung tâm 1 chưa có một hệ thống cụ thể các chỉ

tiêu để đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ mà chỉ có các chỉ tiêu tổng hợp

chung về khả năng thanh toán và khả năng hoạt động của trung tâm. Công tác

quản lý ngân quỹ cũng như bất kỳ một hoạt động nào khác, không thể hoàn

thiện ngay mà phải dần dần từng bước. Để thúc đẩy quá trình hoàn thiện ngân

quỹ, các nhà quản lý tài chính cần đánh giá được những mặt còn tồn tại trong

công tác quản lý ngân quỹ để từ đó đưa ra những phương hướng cho phù hợp

với Bưu điện trung tâm 1.

 Chưa tiến hành dự tính cung cầu tiền để lập được kế hoạch quản lý ngân

quỹ cho thời gian tiếp theo

Trong công tác quản lý ngân quỹ, Bưu điện trung tâm 1 mới chỉ chú

trọng tới xác định các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ trong các quý.

Đồng thời, công ty mới chỉ tiến hành phân tích tình hình tài chính theo luồng

tiền. Việc tiến hành dự báo các luồng tiền tương lai, khả năng trả nợ và đầu tư

từ các luồng tiền cho thời gian tiếp theo là cần thiết vì nó sẽ giúp công ty có

những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn.

2.3.3 Nguyên nhân

 Chưa áp dụng một mô hình quản lý ngân quỹ cụ thể

Trong thời gian qua, Bưu điện trung tâm 1 đã chú trọng đến công tác

quản lý ngân quỹ nhưng việc thực hiện đó không dựa trên một cơ sở khoa học

như việc lập và thực hiện theo các mô hình quản lý. Trung tâm chưa áp dụng

các biện pháp quản lý ngân quỹ thường xuyên vì thế hiệu quả đạt được còn

hạn chế.

 Quy chế tài chính của Tổng công ty còn nhiều hạn chế

Bưu điện trung tâm 1 là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu

chính viễn thông Việt Nam. Theo cơ chế quản lý vốn hiện nay, đơn vị chỉ

được giao quyền quản lý và quyền sử dụng một số vốn rất hạn chế, do đó làm

cho hoạt động sản xuất kinh doanh mất đi tính chủ động. Bưu điện trung tâm

1 là đơn vị hạch toán phụ thuộc, tư cách pháp nhân không đầy đủ nên khi cần

huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh vẫn cần đến sự bảo lãnh của Tổng

công ty, do đó làm chậm trễ, thậm chí mất cơ hội kinh doanh nhất là trong cơ

chế thị trường khi mà tính nhanh nhạy và cơ hội kinh doanh được đặt lên là

một yếu tố cạnh tranh.

Bên cạnh đó, Tổng công ty còn ban hành các tỷ lệ chi mang tính gò bó,

bắt buộc làm mất tính năng động, sáng tạo và tiết kiệm chi phí của các đơn vị

thành viên.

 Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả ngân quỹ còn chưa hoàn thiện

Hệ thống chỉ tiêu chưa hoàn thiện sẽ gây bất lợi cho Bưu điện trung

tâm 1 trong công tác quản lý ngân quỹ. Hiện nay, công ty chỉ mới có các chỉ

tiêu tổng hợp chung về khả năng thanh toán và khả năng hoạt động của công

ty. Trung tâm chưa tiến hành đánh giá diễn biến nguồn vốn và tình hình sử

dụng vốn. Để đánh giá đầy đủ về khả năng thanh toán, Bưu điện trung tâm 1

nên bổ sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải thu so với khoản phải trả. Ngoài ra,

trung tâm cần tiến hành đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua các chỉ

tiêu vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng. Thông qua bảng 2.4, ta

có thể tiến hành đánh giá vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng

của Bưu điện trung tâm 1 năm 2004 như sau:

Bảng 2.11:

Phân tích vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng năm 2004

Đơn vị : Triệu đồng

Chỉ tiêu Quý Quý Quý Quý

1/2004 2/2004 3/2004 4/2004

Nợ ngắn hạn 7389,6 8276,6 9864,6 9758,6

Dự trữ và các khoản phải thu 4371,7 4590,3 5007,3 4792,4

Vốn lưu động ròng 5357,6 3152 8731 1121,8

Nhu cầu vốn lưu động ròng -3017,9 -3686,3 -4857 -4966,4

Nguồn : Bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2004

Qua bảng phân tích trên, ta thấy trong 4 quý năm 2004 vốn lưu động

ròng đều > 0, như vậy tài sản lưu động đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán cho các

khoản nợ ngắn hạn. Nhu cầu vốn lưu động ròng của Bưu điện trung tâm 1

trong 4 quý đều âm, toàn bộ dự trữ và các khoản phải thu được tài trợ bởi nợ

ngắn hạn, trung tâm không cần nhận thêm vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ

kinh doanh. Như vậy, khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của trung

tâm phụ thuộc vào việc thu hồi các khoản phải thu.

Vì vậy, để hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ của đơn vị, Bưu điện

trung tâm 1 cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân

quỹ phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.

 Đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong doanh nghiệp còn mỏng

Công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý ngân quỹ nói

riêng hầu như do các nhân viên kế toán thực hiện. Nhân viên phòng kế toán

được đào tạo chủ yếu về nghiệp vụ kế toán còn các nghiệp vụ về tài chính còn

hạn chế. Do vậy, công tác quản lý ngân quỹ chỉ được xem như hạch toán thu

chi tiền mặt, việc đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ mới chỉ dừng lại ở việc

tính toán một số chỉ tiêu mà chưa phân tích và tìm ra nguyên nhân, giải pháp

CHƯƠNG 3 :

khắc phục, đồng thời chưa dự báo xu thế tài chính trong tương lai.

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1 TRONG THỜI

GIAN TỚI

3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông- Cơ hội và thách thức

Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hoá nền kinh tế đã trở thành xu thế

khách quan, lôi cuốn hầu hết các nước trên thế giới. Hội nhập nền kinh tế thế

giới và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Bưu điện trung tâm

1 nói riêng sẽ được hưởng lợi từ việc thu hút vốn đầu tư và chuyển giao công

nghệ, đồng thời cũng sẽ vấp phải một thách thức lớn về cạnh tranh trong lĩnh

vực cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông thông qua hoạt động đầu tư nước

ngoài. Doanh nghiệp bưu chính viễn thông không thể giữ mãi vị thế độc

quyền như hiện nay. Các dịch vụ bưu chính phát triển đa dạng, đan xen với

các dịch vụ viễn thông, tin học, cụ thể như việc tin học hoá các dịch vụ

chuyển tiền nhanh và chuyển tiền truyền thống, chuyển phát bưu phẩm, bưu

kiện; phát hành báo chí; tiết kiệm bưu điện..Bên cạnh đó, công nghệ mới và

tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho bưu chính khai thác dịch vụ thương mại điện tử

như bán hàng qua bưu chính, Datapost, thư điện tử.. với chất lượng ngày càng

cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Xu hướng phát triển dịch vụ

viễn thông sẽ phát triển mạnh với chất lượng cao và di động hoá.

Trong chiến lược của mình, Bưu điện trung tâm 1 đã phân tích về

khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh.

Những cơ hội và thách thức chủ yếu đặt ra cho Bưu điện trung tâm 1

trong thời gian tới là:

 Thị trường bưu chính-viễn thông là thị trường có nhiều cơ hội kinh doanh

đem lại lợi nhuận cao. Nhu cầu thông tin liên lạc đang dần dần trở thành

nhu cầu thiết yếu của xã hội. Xu thế phát triển của xã hội khiến cho

khuynh hướng tiêu dùng các dịch vụ nói chung, dịch vụ thông tin liên lạc

nói chung ngày càng lớn.

 Chi phí cho việc thành lập cơ sở hạ tầng mạng lưới rất lớn. Đây là một rào

cản khiến cho các doanh nghiệp đi sau không thể dễ dàng xâm nhập vào

toàn bộ thị trường kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông.

 Bưu điện trung tâm 1 hoạt động trên địa bàn có dân cư đông, nhu cầu

thông tin liên lạc cao. Đây là thị trường hấp dẫn đối với các đối thủ cạnh

tranh. Hiện nay, đã có 4 doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần Bưu chính-

Viễn thông Sài Gòn, Công ty Điện tử viễn thông Quân đội, Công ty viễn

thông Hàng hải, Công ty Viễn thông Điện lực tham gia kinh doanh trong

lĩnh vực bưu chính viễn thông ở một số thành phố lớn. Các doanh nghiệp

này đang tích cực mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá dịch vụ để cạnh

tranh với bưu điện tỉnh, thành phố.

 Trong lĩnh vực bưu chính và phát hành báo chí, mới xuất hiện thêm nhiều

đối thủ cạnh tranh như: DHL kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh; các

ngân hàng thương mại kinh doanh dịch vụ chuyển tiền điện tử và nhận tiền

gửi tiết kiệm, các hội tư nhân kinh doanh báo chí, chuyển hàng hoá,

chuyển điện hoa..

3.1.2 Kế hoạch hoạt động năm 2005

Trong những năm qua, nhu cầu về dịch vụ bưu điện phát triển rất nhanh

trong giai đoạn tới. Nhu cầu này đòi hỏi Bưu điện trung tâm 1 không những

đáp ứng đủ các dịch vụ cơ bản với chất lượng cao mà phải mở thêm nhiều

dịch vụ gia tăng, dịch vụ mới để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách

hàng. Từ đó mới có lợi nhuận để tiến hành sản xuất kinh doanh và có nguồn

để bù đắp cho các sản phẩm truyền thống. Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh

doanh năm 2005, Bưu điện trung tâm 1 gặp không ít khó khăn, nhưng dưới

sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty, được sự giúp đỡ của Bưu điện Hà Nội, công

ty phấn đấu đạt và vượt mục tiêu năm 2005 như phấn đấu đạt giá trị sản lượng

doanh thu trên 70 tỷ đồng,tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân

viên trong trung tâm.

Với những mục tiêu trên đòi hỏi Bưu điện trung tâm 1 phải dự báo

được tình hình phát triển để có định hướng đầu tư kịp thời, đúng đắn. Đồng

thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính như quản lý vốn, tài sản..

trong đó không thể thiếu được quản lý ngân quỹ. Việc phối hợp đồng thời các

biện pháp sẽ giúp Bưu điện trung tâm 1 thực hiện được các mục tiêu đề ra.

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI

BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

3.2.1 Áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp

Việc lựa chọn kỳ quản lý phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng, phải

phù hợp với đặc điểm thu chi của mỗi doanh nghiệp. Với đặc điểm sản phẩm

của ngành bưu điện, các nguồn chi chủ yếu là chi trả lương công nhân viên,

chi phí bán hàng, trong khi chi mua nguyên vật liệu không đáng kể. Các

nghiệp vụ bưu điện phát sinh hàng ngày, tác động đến dòng tiền vào và ra của

Bưu điện trung tâm 1. Do vậy, kỳ quản lý ngân quỹ phù hợp với Bưu điện

trung tâm 1 là theo tháng.

 Dự báo thu nhập và chi phí

Để có thể dự báo được thu nhập và chi phí trong tháng tới, trung tâm

cần xác định được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp

trong tháng sau là bao nhiêu, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

trong tháng sau như thế nào, từ đó doanh nghiệp có thể dự đoán lượng tiêu

thụ trong từng tháng.

Trung tâm phải phân tích môi trường kinh doanh một cách có hệ thống,

phân tích sự biến động của giá cả thị trường, khối lượng sản phẩm dịch vụ

trong tháng tới để dự tính được các chi phí mà trung tâm sẽ phải bỏ ra. Hàng

tháng, Bưu điện trung tâm 1 phải trả nhiều cho các loại chi phí và các khoản

chi khác. Việc dự báo trước giúp cho công ty chủ động hơn và chuẩn bị kế

hoạch chi trả. Vì vậy, công tác kế toán thống kê có vai trò rất quan trọng, qua

đó giúp cho nhà quản lý có thể biết được có được bao nhiêu loại chi, bao gồm

những loại chi nào như chi mua nguyên vật liệu, chi trả lương cho cán bộ

công nhân viên...Người quản lý doanh nghiệp sẽ biết được lịch trình và chu

kỳ của từng loại chi, từ đó sẽ giúp cho nhà quản lý dự báo chu kỳ phát sinh

các khoản thanh toán trong tháng tới.

Tương tự như phân tích các khoản chi ngân quỹ, ta sẽ lập dự báo các

khoản thu ngân quỹ trên cơ sở xác định nguồn thu chủ yếu của Bưu điện trung

tâm 1. Nguồn thu chủ yếu của Bưu điện trung tâm là thu từ kinh doanh dịch

vụ bưu chính, viễn thông, phát hành báo chí. Đây là nguồn thu khá lớn và

tương đối ổn định. Việc dự báo thu nhập của đơn vị mình chủ yếu là dựa vào

việc dự đoán nhu cầu của khách hàng, tiếp đó là việc cân đối tiềm năng sẵn có

và khả năng phát triển của trung tâm. Để làm tốt công tác dự báo, trung tâm

cần phân tích tốc độ phát triển của từng loại dịch vụ trong thời gian tới, đánh

giá khả năng mạng lưới hiện có và xu hướng phát triển trong tương lai.

 Dự tính nhu cầu tiền

Sau khi đã dự báo được các thu nhập và chi phí trong kỳ sau, dựa trên

các dự báo đó, nhà quản lý cần dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Việc

dự tính nhu cầu tiền giúp cho Bưu điện trung tâm 1 nắm được nhu cầu tiền

trong tương lai và cho biết khả năng thu được tiền để đáp ứng nhu cầu chi

tiêu trong tháng tới.

Nguồn tiền của doanh nghiệp là những khoản doanh nghiệp thực thu

được trong kỳ và mức tồn quỹ của kỳ trước. Việc sử dụng nguồn tiền chính

là việc chi trả trong kỳ. Như đã đề cập ở chương hai, Bưu điện trung tâm 1

chưa tiến hành đánh giá và phân tích diễn biến nguồn tiền và sử dụng nguồn

tiền. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà quản lý tài chính trong doanh nghiệp là

phải dự đoán được nguồn tiền và việc sử dụng nguồn tiền.

*Dự báo nhu cầu chi tiền

Việc dự báo được chi ngân quỹ sẽ giúp Bưu điện trung tâm 1 chủ

động trong việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ. Các khoản chi chủ yếu của

trung tâm: Các khoản phải trả nội bộ (trả cho các đơn vị trực thuộc Bưu

điện Hà Nội cùng kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông), chi trả ngân vụ

và tiết kiệm bưu điện, chi trả lương công nhân viên, chi dịch vụ mua ngoài,

chi mua nguyên vật liêu..Vì vậy, nhà quản lý cần phải thống kê đầy đủ và

chi tiết các loại chi trong tháng. Với đặc thù của ngành bưu điện, dự trữ

nguyên vật liệu chủ yếu phục vụ cho khai thác các nghiệp vụ bưu chính viễn

thông, không phải nguyên vật liệu chính tạo ra thực thể sản phẩm nên đối

với Bưu điện trung tâm 1 chi mua nguyên vật liệu không được vượt quá

định mức tiêu hao đã được tính trước, đây chính là căn cứ để nhà quản lý dự

trù khối lượng cho khoản chi này. Khoản chi cho hoa hồng đại lý của Bưu

điện trung tâm 1 (bao gồm đại lý tem, đại lý điện thoại công cộng, đại lý

thẻ..) chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng khoản chi của công ty trong tháng.

Hàng tháng, Bưu điện trung tâm 1 sẽ phải trích khoảng xấp xỉ 7% doanh thu

thực hiện của các đại lý này. Khi dự báo được số lượng chi, nhà quản lý còn

phải độ dài chu kỳ trả tiền trung bình và cách thức chi trả các khoản chi phát

sinh. Các khoản nào trung tâm phải chi trả ngay, khoản nào được trả chậm,

chi phí cho việc trả chậm là bao nhiêu, thời gian trả chậm có thể là bao

lâu..Từ đó nhà quản lý sẽ xác định chu kỳ chi trả và số lượng chi trả trong

tháng.

*Dự báo tiền thu vào ngân quỹ

Cũng như xác định nhu cầu chi tiền, nhà quản lý cần phải nắm rõ các

khoản thu và tỷ lệ từng loại thu, đâu là nguồn thu chủ yếu của trung tâm.

Các khoản thu của Bưu điện trung tâm 1 phát sinh hàng ngày, hàng giờ.

Nguồn thu chủ yếu của công ty là thu từ các dịch vụ như tiền bán tem, tiền

bán phong bì, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền..; thu từ các đại lý bưu điện;

thu từ phát hành báo chí dài hạn, thu từ dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Song

quan trọng hơn trung tâm phải dự báo được con số thực thu trong tháng của

đơn vị mình. Để dự báo được số tiền thực tế trong tháng đòi hỏi Bưu điện

trung tâm phải dựa vào các khoản phải thu có khả năng thu được và mối

quan hệ với khách hàng của mình- vốn là khách hàng có quan hệ lâu dài với

công ty. Dựa vào số liệu thực thu trong các tháng trước từ đó dự báo bao

nhiêu phần trăm các khoản phải thu sẽ thu được bằng tiền và bao nhiêu

phần trăm tạm thời chưa thu được. Đồng thời qua số liệu có được trong

tháng trước sẽ giúp cho trung tâm có thể dự báo được đúng số tiền thu được

từ doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông trong tháng là nhiều

hay ít.

Từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ mà nhà quản lý sẽ

dự báo được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp trong tháng tới. Để đảm

bảo quản lý ngân quỹ có hiệu quả, nhà quản lý cần phải xác định mức tồn

quỹ tối ưu mà dựa vào đó nhà quản lý sẽ điều chỉnh khoản thực thu thực chi

của mình sao cho trong mọi trường hợp trung tâm vẫn đảm bảo được khả

năng thanh toán với khách hàng song không để ngân quỹ nhàn rỗi quá

nhiều.

 Xác định mức tồn quỹ tối ưu hoặc khoảng dao động của mức tồn

quỹ

Tùy vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy định về tài chính, quan

hệ với bạn hàng mà từng doanh nghiệp sẽ xác định mức tồn quỹ tối ưu hay

khoảng dao động của mức tồn quỹ. Nếu quản lý theo mức tồn quỹ tối ưu thì

sẽ đảm bảo được khả năng thanh toán nhưng hạn chế về mặt lợi nhuận,

ngược lại quản lý theo khoảng dao động của mức tồn quỹ sẽ giúp cho doanh

nghiệp linh hoạt trong việc tìm các biện pháp tối ưu để xử lý các tình trạng

bất lợi của ngân quỹ. Với tình hình thu chi ngân quỹ như hiện nay, Bưu điện

trung tâm 1 nên quản lý ngân quỹ theo khoảng dao động vì thế tạo nên sự

linh hoạt trong quản lý, phù hợp với đặc điểm thu chi của doanh nghiệp. Để

xác định được mức tiền dự trữ thì phải:

 Căn cứ vào mức tiền mặt bình quân trong một số kỳ gần đây bằng cách

dựa vào số dư tài khoản tiền gửi và tiền gửi ngân hàng, từ đó tính số dư

bình quân. Ngoài ra, nhà quản lý cần phải tính toán các chỉ tiêu tài chính

như khả năng thanh toán, khả năng hoạt động của các kỳ đó. Từ đó, có

thể xem xét được mức cân đối tiền trong các kỳ trước đó đã hợp lý hay

chưa, nếu chưa thì cần phải điều chỉnh như thế nào. Sau khi xem xét

mức tồn quỹ tối ưu của các kỳ trước, nhà quản lý sẽ lấy mức tồn quỹ đó

làm tham khảo để xác định mức tồn quỹ tối ưu cho kỳ sau.

 Nhà quản lý phải nắm được tình hình hoạt động sản xuất trong tháng tới

có gì thay đổi lớn hay không (cần phải chú ý đến những thời điểm có

lượng khách hàng đến sử dụng các dịch vụ bưu điện nhiều như các ngày

lễ, tết,..) những thay đổi trong sản xuất kinh doanh tác động như thế nào

đến ngân quỹ của trung tâm, nhu cầu chi trả tiền có khả năng tăng hay

giảm. Kết hợp với mức tồn quỹ tối ưu đã xác định ở tháng trước, nhà

quản lý sẽ đưa ra mức cân đối tiền hợp lý cho tháng sau.

Đồng thời , nhà quản lý cũng xem xét mối quan hệ của đơn vị mình

với ngân hàng, mối quan hệ với khách hàng để đảm bảo khả năng thanh

toán, công việc này giúp nhà quản lý tìm ra giới hạn dưới của khoảng cách

dao động mức tồn quỹ.

Theo mô hình Miller – Orr, nhà quản lý tính toán mức tồn quỹ tối ưu

Chi phí giao dịch x phương sai của thu 1 3

= 3

3 4

Lãi

và khoảng dao động tiền như sau:

Khoảng cách của giớ i hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền

Phương sai của thu chi ngân quỹ được tính toán như sau:

- Lấy số liệu thu chi của ngân quỹ một vài tháng trước, đảm bảo số liệu đó

phản ánh tình hình thu chi thường xuyên của doanh nghiệp.

 xi – x)2

2 = 

n

- Phương sai được tính theo công thức:

x =

xi x n

Với

Trong đó: xi : là khoản thu (chi )thứ i ; xi <0 nếu đó là khoản chi; xi > 0 nếu

đó là khoản thu.

Khi đó mức tiền tối ưu nằm giữa giới hạn trên và giới hạn dưới.

Người ta thường thiết kế mức cân đối tiền ở khoảng 1/3 khoảng dao động

tính từ mức tồn quỹ tối thiểu. Trung tâm cũng không nên cứng nhắc trong

việc xác định mức tồn quỹ tối ưu này mà có thể chọn một mức nào đó miễn

là nó nằm trong khoảng dao động.

Trên cơ sở dự báo nhu cầu tiền mặt, tính toán được mức cân đối tiền

và khoảng dao động tiền tối ưu, doanh nghiệp sẽ quản lý ngân quỹ theo

nguyên tắc: Khi nào dự trữ tiền nằm ngoài khoảng dao động tiền, trung tâm

phải có biện pháp đưa mức dự trữ về đúng mức cân đối tiền tối ưu. Khi

lượng tiền dự trữ ở dưới giới hạn dưới thì nhà quản lý cần phải nhanh chóng

tìm kiếm các nguồn tài trợ để đưa lượng tiền dự trữ về mức tiền tối ưu. Vì

vậy, trung tâm phải lập bảng dự báo để theo dõi tình hình biến động ngân

quỹ trong kỳ.

Phương pháp theo dõi và xử lý ngân quỹ cho cả thời kỳ giúp cho nhà

quản lý dự tính được tổng số tiền cần huy động hay cần đầu tư trong kỳ để

đảm bảo tồn quỹ của công ty ở mức thiết kế, để từ đó nhà quản lý lên kế

hoạch huy động hay đầu tư khoản tiền đó.

Bảng 3.1: Bảng theo dõi tình hình thu chi ngân quỹ tháng...

Đơn vị:

Số tiền Biện pháp Ngân quỹ

Đầu kỳ Tồn quỹ

Trong kỳ Tổng thu:

+Thu từ dịch vụ bưu chính

+Thu từ dịch vụ viễn thông

+Thu từ phát hành báo chí

+Thu tiền nợ kỳ trước

+Lãi ngân hàng

......

Tổng chi

+Chi nguyên vật liệu

+Chi trả lương

+Chi hoa hồng đại lý

..................................

Chênh lệch thu chi

Cuối kỳ Tồn quỹ Nếu sai lệch với mức

cân đối tối ưu,tìm

biện pháp đưa về

mức tối ưu.

Mức cân đối tối ưu

Bưu điện trung tâm 1 còn có thể theo dõi và xử lý ngân quỹ theo từng

thời điểm phát sinh các khoản thực thu, thực chi trong kỳ.

Bảng 3.2 : Bảng theo dõi tình hình thu chi ngân quỹ tháng...

Đơn vị :

Ngày(tháng) Ngân quỹ Số tiền Biện pháp

1 Tồn quỹ

3 +Thu tiền bưu điện

phí

+ Chi tiền ngân vụ

+ Chi mua nguyên

vật liệu

+ Chi vận chuyển

..............................

+Cân đối ngân quỹ

5 +Thu tiền ngân vụ Nếu mức tồn quỹ bị rơi

+Chi trả lương ra khỏi khoảng dao

............................... động thì công ty phải

... có biện pháp đưa về

+Cân đối ngân quỹ mức tối ưu.

Tồn quỹ 30

Phương pháp theo dõi này phức tạp hơn nhưng trung tâm có thể đánh

giá và điều chỉnh ngân quỹ ngay sau mỗi lần phát sinh thu, chi ngân quỹ.

Nếu mức tồn quỹ không còn tối ưu thì nhà quản lý sẽ tìm biện pháp xử lý để

đưa ngân quỹ về mức tối ưu. Trong trường hợp trung tâm dự đoán sẽ thu

được một khoản thu lớn thì nhà quản lý sẽ không huy động ngay các nguồn

khác mà chờ khoản tiền chuyển về vào ngày hôm sau để đáp ứng nhu cầu

tiền mặt. Khi mức tồn quỹ vượt giới hạn trên của khoảng dao động ngân

quỹ, trong thời điểm đó công ty không phải chi một khoản chi lớn nào,

trung tâm sẽ phải tìm các hình thức đầu tư phù hợp với độ lớn của khoản

tiền.

Phương pháp này đòi hỏi tỉ mỉ hơn nhưng lại rất phù hợp với đặc

điểm sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1. Hoạt động thu, chi tiền

mặt ở đây diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Với cách làm này, trung tâm có thể

nắm được tình hình ngân quỹ tại các thời điểm trong kỳ, đặc biệt vào thời

điểm lượng khách đến giao dịch nhiều, từ đó giúp Bưu điện trung tâm 1 có

kế hoạch điều chỉnh ngân quỹ về mức tồn quỹ theo thiết kế cho từng thời

điểm để ngân quỹ không rơi vào trạng thái bất lợi.

 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ

Sau khi dự tính được mức tồn quỹ cuối tháng, nếu mức tồn quỹ vượt

ra ngoài khoảng dao động, trung tâm phải tìm nguồn tài trợ hay sử dụng

nguồn để tồn quỹ về mức tối ưu.

Khi lượng tiền nhàn rỗi, công ty có thể gửi vào tài khoản tiền gửi có

kỳ hạn ở ngân hàng để kiếm mức sinh lợi cao hơn. Tiền nhàn rỗi với thời kỳ

dài sẽ được gửi kỳ hạn dài, được hưởng mức lãi suất cao hơn, nhờ đó Bưu

điện trung tâm 1 có thể khai thác tối đa khả năng sinh lợi của vốn bằng tiền

mà vẫn đảm bảo được khả năng thanh toán hàng ngày.

3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản

lý tài chính của Bưu điện trung tâm 1

Mỗi doanh nghiệp đều có quy chế quản lý tài chính riêng để phù hợp

với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nhà nước. Trong

quy chế tài chính của Bưu điện trung tâm 1 mặc dù đã có những quy định về

quản lý ngân quỹ nhưng những quy định này còn chưa đầy đủ. Vì thế, trong

thời gian tới, trong những quy định về quản lý tài chính của công ty cần

phải bổ sung những điều khoản về quản lý ngân quỹ như nội dung, phương

pháp, trách nhiệm của người thực hiện công tác này. Quy định và hướng

dẫn cụ thể các bưu cục trực thuộc định mức lưu quỹ tiền mặt và hàng hóa

(tem, thẻ điện thoại) trong ngày. Trung tâm nên bổ sung quy định thu gom

tiền, trả thu gom tiền nhằm đảm bảo an toàn công tác quản lý tiền và hàng

hoá như: Nhân viên chuyên trách phục vụ thu gom tiền, tiếp quỹ, bố trí xe ô

tô chuyên dùng..

3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ bao gồm:

Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp ; nhóm chỉ

tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua khả năng hoạt động như

vòng quay tiền, vòng quay dự trữ; nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng dự

phòng những biến động bất thường.

Các chỉ tiêu này sẽ cho ta thấy hiệu quả của việc sử dụng nguồn tiền

trong doanh nghiệp vào việc đảm bảo khả năng chi trả. Như đã đề cập ở

chương hai, Bưu điện trung tâm 1 đã sử dụng một số chỉ tiêu để đánh giá

khả năng thanh toán nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, trung tâm nên bổ sung

thêm chỉ tiêu tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả.

Tổng số các khoản phải thu

Tỷ lệ các khoản phải thu so với phải trả = -----------------------------------------

Tổng số các khoản phải trả

Chỉ tiêu này sẽ cho ta biết sự biến động của các khoản phải thu và các

khoản phải trả ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính doanh nghiệp,

doanh nghiệp là người bị chiếm dụng vốn hay đi chiếm dụng vốn.

Do đặc thù kinh doanh bưu chính viễn thông là doanh thu tháng trước

tháng sau mới thu nợ nên tỷ lệ nợ cước bao giờ cũng trên 1 tháng nợ. Vì

vậy, tỷ lệ nợ lớn của viễn thông làm cho tỷ lệ nợ chung của trung tâm lớn.

Đây là chỉ tiêu mà Bưu điện trung tâm 1 cần bổ sung để đánh giá được tình

hình thu nợ của đơn vị.

Tổng số cước phí nợ

Tỷ lệ nợ = ----------------------------------------- Doanh thu cước bình quân tháng

Bưu điện trung tâm 1 nên tiến hành xây dựng một hệ thống định mức

cho bộ phận vốn lưu động nhằm tăng vòng quay của các bộ phận vốn lưu

động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Xác định mức vốn lưu động một

cách hợp lý căn cứ vào nhu cầu của sản xuất kinh doanh tránh tình trạng

lãng phí hay không đáp ứng nhu cầu vốn.

Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ

phù hợp với đặc điểm kinh doanh sẽ giúp nhà quản lý phân tích và đánh giá

chính xác tình hình tài chính doanh nghiệp, từ đó sẽ đưa ra các quyết định

kinh doanh đúng đắn.

3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân quỹ là một yêu cầu cần thiết

để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1.

Thông qua quản lý ngân quỹ, Bưu điện trung tâm 1 có thể giảm bớt những

lãng phí không đáng có, cũng như đảm bảo khả năng thanh toán của công ty.

Công tác quản lý có hiệu quả hay không là do trình độ của đội ngũ cán bộ tài

chính bởi con người là nhân tố đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Vì vậy, Bưu

điện trung tâm 1 cần phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bổ sung

kiến thức về quản lý tài chính cho cán bộ công nhân viên. Đây là yêu cầu bắt

buộc đối với nhân viên phòng tài chính kế toán. Ngoài ra, các giao dịch viên

tại các bưu cục cũng như nhân viên phòng ban khác cũng cần nắm những kiến

thức cơ bản về quản lý ngân quỹ. Việc mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về

nghiệp vụ là cần thiết để các cán bộ có thể cập nhật những kiến thức cũng như

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình. Công ty cũng cần phải

chú ý đến vấn đề xây dựng và công bố kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ

hàng năm bằng cách cử người đi học để nâng cao trình độ, tích cực trong

công tác tuyển dụng, sử dụng các chính sách ưu đãi thu hút đội ngũ lao động

trẻ.

3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân

quỹ

Muốn có sự phân tích tài chính chính xác và đầy đủ thì cần phải có các

nguồn thông tin đa dạng, phong phú như thông tin về thị trường, sản phẩm

dịch vụ.. Hệ thống thông tin này phải được cập nhật và mở rộng phục vụ cho

yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý tài chính. Trong quản lý ngân

quỹ, người ta không chỉ quan tâm đến ngân quỹ mà còn phải theo dõi sự thay

đổi của các yếu tố có liên quan đến ngân quỹ. Nguồn thông tin cung cấp

không chỉ giới hạn trong báo cáo tài chính mà còn phải có hệ thống thông tin

về các lĩnh vực khác có liên quan. Hiện tại Bưu điện trung tâm 1 đã có hệ

thống mạng máy tính được nối mạng, hệ thống phần cứng, phần mềm nhưng

phần mềm ứng dụng mới chỉ chạy chương trình kế toán bưu điện, chủ yếu

phục vụ mục đích lập báo cáo nên chưa phát huy được hiệu quả của mạng. Để

có thể cập nhật nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ các thông tin, đòi hỏi Bưu

điện trung tâm 1 phải đầu tư vào các công nghệ kỹ thuật hiện đại như hệ

thống máy tính, phần mềm hỗ trợ cho việc tính toán..

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN

QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam

Từ khi đất nước chuyển sang thời kỳ mở cửa, Tổng Công ty Bưu chính

viễn thông Việt Nam đã có nhiều cố gắng hoàn thiện các mô hình tổ chức và

quản lý linh hoạt để xây dựng và phát triển thành một doanh nghiệp chủ lực

của nhà nước trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, có thể đứng vững trong

môi trường hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tổng công ty

đã ban hành và điều chỉnh kịp thời Quy chế tài chính để đảm bảo quản lý

ngày càng hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh về khía cạnh tài chính.

Do có nhiều nét đặc thù trong quá trình kinh doanh dịch vụ bưu chính

viễn thông nên quy chế tài chính hiện hành có nhiều nét bất cập, ảnh hưởng

một phần đến các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ Bưu chính viễn

thông, trong đó có Bưu điện trung tâm 1. Theo cơ chế hiện nay, Tổng công ty

trực tiếp cấp gần như toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh cho các đơn vị hạch

toán phụ thuộc. Nhưng các đơn vị chỉ được giao quyền quản lý và quyền sử

dụng một số vốn rất hạn chế, do đó làm mất đi tính chủ động , làm chậm trễ,

thậm chí mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, Tổng công ty nên

có chính sách khuyến khích các đơn vị phụ thuộc gửi tiền để thu thêm lợi

nhuận trong trường hợp có thặng dư ngân quỹ. Tổng công ty nên tạo điều kiện

cho các đơn vị phụ thuộc chủ động hơn trong việc tham gia đầu tư, góp vốn

liên doanh, liên kết.

 Chuyển các đơn vị sang hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập

Tổng công ty có thể chuyển các đơn vị hạch toán phụ thuộc sang hạch

toán độc lập khi điều kiện cho phép. Các đơn vị hạch toán phụ thuộc tiến hành

hạch toán nội bộ trong toàn khối, thay mặt Tổng công ty thu cước trực tiếp từ

khách hàng sử dụng các dịch vụ, được Tổng công ty thanh toán doanh thu

riêng để bù đắp các chi phí và có lợi nhuận trong quá trình hoạt động sản xuất

kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với thời gian, với sự lớn mạnh của các đơn vị,

tính độc lập trong sản xuất của các đơn vị ngày càng rõ nét, nên có sự chuyển

đổi từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập. Từ đó thúc đẩy

hoạt động của các đơn vị sản xuất kinh doanh trên mạng nội hạt, đặt các đơn

vị này cùng trong guồng máy kinh doanh, ngang tầm với doanh nghiệp nhà

nước khác.

 Xây dựng các chỉ số của ngành để so sánh

Vì đặc thù hoạt động của mỗi ngành rất khác nhau nên việc đánh giá

một chỉ tiêu tài chính là tốt hay xấu không đơn thuần là phụ thuộc vào phép

tính số học mà còn phụ thuộc vào chỉ số trung bình của ngành. Tiêu chuẩn

ngành có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định vị trí tương đối của doanh

nghiệp trong ngành. Nó là cơ sở cho việc hoạch định các giải pháp điều chỉnh

đối với doanh nghiệp.

Để đánh giá được hiệu quả của công tác quản lý ngân quỹ, bên cạnh

việc so sánh giữa các chỉ tiêu bằng tỷ lệ của kỳ này với kỳ trước để thấy

được xu hướng thay đổi các tỷ lệ tài chính này, qua đó đánh giá tình hình

quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp được cải thiện hoăc trở nên yếu kém

như thế nào nhằm đưa ra biện pháp xử lý kịp thời, nhà quản lý tài chính còn

phải so sánh các tỷ lệ của kỳ này với mức trung bình của ngành để xác định

vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành.

Trong thời gian tới, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam

nên xây dựng và tính toán các mức trung bình ngành của các chỉ tiêu đánh

giá hiệu quả quản lý ngân quỹ như mức trung bình ngành về khả năng thanh

toán hiện hành, mức trung bình ngành về khả năng thanh toán nhanh, mức

trung bình ngành về khả năng thanh toán tức thời và mức trung bình ngành

của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ để các đơn vị tham

chiếu, từ đó đưa ra các quyết định đúng trong quá trình hoàn thiện công tác

quản lý ngân quỹ của mình.

3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của nhà nước

 Về việc trích lập và sử dụng các quỹ nhàn rỗi trong các doanh nghiệp

nhà nước

Theo quy định của thông tư 64/1999/TT – BTC về “Hướng dẫn chế độ

phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lý các quỹ trong doanh nghiệp nhà

nước”, doanh nghiệp phải sử dụng các quỹ trong doanh nghiệp bao gồm: quỹ

dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc

làm..vào đúng mục đích như tên gọi của chúng. Quy định như vậy chưa phù

hợp với sự vận động của cơ chế thị trường, chưa tạo điều kiện cho doanh

nghiệp có khả năng tích luỹ vốn đáp ứng nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công

nghệ, tăng khả năng cạnh tranh. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ

động hơn trong việc sử dụng vốn khi cần thiết, nhà nước cần bổ sung thêm

những quy định cho phép doanh nghiệp nhà nước sử dụng các quỹ nhàn rỗi

tạm thời vào mục đích tài trợ cho thanh toán ngắn hạn .

 Hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và phát triển được hơn 4

năm, đã mang lại một số lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp. Đây là kênh

bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều

kiện hiện nay quy mô thị trường còn nhỏ, việc đầu tư chứng khoán vẫn còn

mới đối với các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Chính vì vậy, để tạo niềm

tin cho đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực khá rủi ro này, Nhà nước

cần ban hành và bổ sung và các văn bản pháp quy phù hợp với thực tiễn và

yêu cầu phát triển thị trường. Ngoài ra, việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá

doanh nghiệp nhà nước hiện naysẽ góp phần làm đa dạng hoá lượng hàng hoá

trên thị trường chứng khoán .

 Xây dựng các chuẩn mực đánh giá an ninh tài chính và phát triển dịch

vụ xếp hạng tín nhiệm

Để đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp phải căn cứ

vào các chuẩn mực, chỉ số về kinh tế, tài chính nhưng hiện tại chưa có một cơ

quan nào đảm nhận việc xây dựng hệ thống này để giúp cho doanh nghiệp, cơ

quan quản lý nhà nước, ngân hàng cũng như các nhà đầu tư nắm bắt được

thông tin về tài chính doanh nghiệp.

Hệ thống các chỉ tiêu này cần tập trung vào phản ánh tình hình tài chính

doanh nghiệp nói chung, trong đó các chỉ tiêu cơ bản là: các chỉ số về kết quả

hoạt động, khả năng sinh lợi, các chỉ số về năng lực tự tài trợ, các chỉ số về

luân chuyển vốn.

Việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu tài chính và phát triển dịch vụ xếp

hạng tín nhiệm có quan hệ khăng khít với nhau. Xếp hạng tín nhiệm có thể

hiểu là sự đánh giá hiện thời về khả năng và mức độ sẵn sàng trả nợ gốc, lãi

của một người đi vay với đối với một khoản vay nhất định trong suốt thời hạn

có hiệu lực của khoản vay đó. Những chỉ tiêu về an ninh tài chính đối với

từng ngành, lĩnh vực là một trong những căn cứ giúp cho việc xếp hạng mức

độ tín nhiệm của mỗi doanh nghiệp.

Đối với nền kinh tế, xếp hạng tín nhiệm góp phần làm lành mạnh hoá

thị trường, tăng cường hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn.. ở Việt Nam,

xếp hạng tín nhiệm giúp làm lành mạnh hóa thị trường tín dụng, đánh giá

đúng thực trạng tài chính của các doanh nghiệp, tạo điều kiện phát triển thị

KẾT LUẬN

trường chứng khoán.

Nhu cầu vốn lưu động nói chung và nhu cầu tiền tệ nói riêng là một

vấn đề cần được quan tâm đúng mức bởi đó là một trong những điều kiện

dẫn đến thành công trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực

hiện tốt điều này, các nhà quản lý doanh nghiệp phải nắm vững các nhân tố

ảnh hưởng tới nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp, từ đó có khả năng lập kế

hoạch cũng như thực hiện tốt hoạt động quản lý và điều hành doanh nghiệp

trong những điều kiện khác nhau.

Công tác quản lý ngân quỹ chỉ là một bộ phận trong công tác quản lý

tài chính trong doanh nghiệp, nhưng nó có vai trò rất quan trọng, nhất là đối

với Bưu điện trung tâm 1.

Trong thời gian tới, Bưu điện trung tâm 1 cần nhanh chóng hoàn

thiện công tác quản lý để có thể đứng vững trong môi trường kinh doanh

đầy những biến động, cạnh tranh gay gắt. Những giải pháp cần thực hiện

trước hết là bổ sung những quy chế, điều khoản về quản lý ngân quỹ trong

quy chế tài chính của công ty, nhanh chóng áp dụng một mô hình quản lý

ngân quỹ thích hợp và xây dựng kế hoạch quản lý ngân quỹ trong từng

tháng. Đồng thời, công ty cũng cần chú trọng công tác đào tạo cán bộ nhằm

nâng cao năng lực quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ quản lý trong công

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc dân –

ty, nâng cao năng lực áp dụng công nghệ kỹ thuật trong quản lý.

Nhà xuất bản Thống kê năm 2003.

2. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc

dân – Nhà xuất bản Thống kê năm 1997.

3. Giáo trình quản lý tài chính – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia năm 2000.

4. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh – Trường Đại học Kinh tế quốc

dân – Nhà xuất bản Thống kê năm 2001.

5. Giáo trình quản trị kinh doanh bưu chính viễn thông – Nhà xuất bản Thống

kê năm 2001.

6. Cơ chế quản lý tài chính của Bưu điện Hà Nội.

7. Các báo cáo kế toán tài chính của Bưu điện trung tâm 1 năm 2003, năm

2004.

8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, tạp chí Kinh tế và dự báo, tạp chí Phát

triển kinh tế năm 2002, năm 2003, năm 2004.

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền 3

kinh tế thị trường

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp 3

1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền 4

kinh tế thị trường

1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị 12

trường

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế 12

thị trường

1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 15

1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh 25

nghiệp

1.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng 25

thanh toán của doanh nghiệp

1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng hoạt 28

động của doanh nghiệp

1.3.3 Chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý của doanh nghiệp 30 31

1.4.1 Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 31

1.4.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 34

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1

2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1 37

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm1 37

2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1 2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1 37 38

2.1.4 Đặc điểm kinh doanh của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị 39

trường

42 2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1

44 2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

44 49 2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

52 2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền

56 2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

2.3 Đánh giá thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung 61

tâm 1

61 2.3.1 Những kết quả đạt được

62 2.3.2 Những hạn chế

63 2.3.3 Nguyên nhân

66

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1 3.1 Định hướng phát triển của Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian tới

66 67 3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông-Cơ hội và thách thức 3.1.2 Kế hoạch hoạt động trong năm 2005

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện 68

trung tâm 1

3.2.1 Áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp 3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản lý 68 76

tài chính của Bưu điện trung tâm 1

3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ 77

3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ 78

3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân quỹ 78 79 3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu

điện trung tâm 1

3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam 79

3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của Nhà nước 81

Danh mục tài liệu tham khảo