Luận văn

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG

36

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu .................................................................................................................. 1

Chương 1. Tổng quan về cổ phần hóa ................................................................ 3

1.1. Lý luận về công ty cổ phần. ...................................................................... 3

1.1.1. Công ty cổ phần. ............................................................................. 3

1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................. 3

1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên TTCK............... 3

1.1.2. Cổ phần. ......................................................................................... 7

1.1.3. Cổ đông. ......................................................................................... 7

1.1.4. Cổ phiếu. ......................................................................................... 7

1.1.5. Cổ tức. ............................................................................................. 7

1.2. Lý luận về cổ phần hóa. ............................................................................ 7

1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa .................................................................... 7

1.2.2. Phân loại. ......................................................................................... 8

1.2.3. Đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam. ............................................... 9

1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp

Việt Nam. ........................................................................................... 10

1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội. ....................... 10

1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho doanh nghiệp. ............ 12

1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động. ................ 13

1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới. ...................... 14

1.3.1. Hungary ........................................................................................... 16

1.3.2. Nga .................................................................................................. 17

1.3.3. Trung Quốc ...................................................................................... 17

Kết luận chương 1. .................................................................................. 22

Chương 2. Thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 23

2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ............................. 23

37

2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. ............. 23

2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ..................... 24

2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang.…27

2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ............................ 27

2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ...................................... 29

2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. .......................... 29

2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. ......................................................... 29

a. Những kết quả đạt được. ................................................................. 29

b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải….. 33

2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa. ............................................................. 34

a. Những kết quả đạt được................................................................... 34

b. Những mặt còn hạn chế ................................................................... 40

c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp......... 41

2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến

trình thực hiện cổ phần hóa. ....................................................... 44

Kết luận chương 2. ................................................................................... 47

Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 49

3.1. Chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Nha

Trang. .............................................................................................................. 49

3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp. .................................................................. 49

3.3. Đề xuất một số giải pháp. ........................................................................ 49

3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô. .................................................................... 49

3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. ............. 50

3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp. ................. 53

3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các

công ty sau cổ phần hóa. ...................................................... 54

3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể

và cá nhân người lao động. .................................................. 57

38

3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất. .................... 59

3.3.1.6. Đối mới kỹ thuật- công nghệ. ............................................. 60

3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã

hội. ....................................................................................... 61

3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô. ................................................................... 62

3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức

chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH ........ 62

3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN....... 64

3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình

cổ phần hóa. .......................................................................... 67

3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ

phần hóa. ............................................................................... 67

3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp .. 69

3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK . 70

Kết luận chương 3. ................................................................................... 71

Kết luận. ................................................................................................................ 73

Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 75

Phụ lục .................................................................................................................. 77

39

MỞ ĐẦU

Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia đều muốn tạo cho mình một

tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ để làm đòn bẩy nâng mình lên một

vị thế mới, một tầm cao mới so với khu vực và thế giới. Trước những sức ép như vậy,

đổi mới thực sự là sự lựa chọn duy nhất giúp Việt Nam thoát khỏi cơ chế tập trung

bao cấp và từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường năng động, nhạy bén hơn.

Bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện ngày càng tốt hơn các chính sách tiền tệ,

chính sách tài khóa và tạo lập một môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như ra sức

phát triển mạnh TTCK trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế...

nhằm xây dựng cho mình một chỗ đứng trong khu vực và thế giới; với chính sách

mở cửa thị trường, thúc đẩy cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế và cho phép nhiều

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm và cung cấp

dịch vụ thì việc tiến hành cổ phần hóa là thật sự cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp nhà nước, từ đó đưa kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò

chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền

kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tại Hội nghị TW lần thứ 2 khoá VII (1991) đã đề ra

chủ trương cổ phần hóa DNNN. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong quá trình

đổi mới tư duy về quản lý kinh tế và cơ cấu sở hữu trong hệ thống doanh nghiệp. Từ

thời gian đó đến nay, nhiều quy định và chính sách đã ra đời có sửa đổi như NĐ

27/CP, NĐ 64/CP, NĐ 187/CP để nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới DNNN.

Thực tế, qua những năm thực hiện, cổ phần hóa đã thật sự tạo ra động lực

giúp các doanh nghiệp phát triển có hiệu quả hơn, theo đó quan hệ sản xuất không

ngừng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản

xuất; thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hợp tác cùng phát triển giữa các doanh

nghiệp. Không những vậy, cổ phần hóa còn góp phần phát triển TTCK - một yếu tố

không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Chính vì nhận thức được những lợi ích

của cổ phần hóa, từ năm 1998 Nha Trang cũng đã bắt đầu thực hiện CPH và đạt

được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ

thì vẫn còn có quá nhiều rào cản, vướng mắc khiến cho các DNNN lo ngại CPH,

40

thậm chí một số DNNN nhận thức được tầm quan trọng của CPH và mong muốn

được tiến hành CPH doanh nghiệp mình nhưng chính những khó khăn, vướng mắc

này lại khiến họ nản lòng, và bối rối trong cách giải quyết, xử lý. Chính những điều

này là tác nhân làm chậm tốc độ cổ phần hóa của thành phố Nha Trang, từ đó ảnh

hưởng đến tiến trình CPH chung của cả nước. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam

đang chuẩn bị gia nhập WTO thì vấn đề cổ phần hóa DNNN càng phải được thực

hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn, càng khó khăn càng phải cần có sự quyết

tâm, đồng thuận cao từ trên xuống dưới.

Để tháo gỡ những khúc mắc này thì việc nghiên cứu thực trạng cổ phần hóa

và đề xuất “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG” được quan tâm

tìm hiểu, để từ đó có thể đẩy nhanh “cỗ xe” CPH DNNN tại thành phố này nói riêng

và Việt Nam nói chung. Đó cũng chính là nội dung chính của đề tài này.

Mục tiêu bao quát của luận văn là đánh giá thực trạng hiệu quả CPH các

DNNN ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tp. Nha Trang nói riêng; xác định

những hạn chế, vướng mắc trong quá trình CPH; từ đó đề xuất các giải pháp góp

phần thực hiện thành công và có hiệu quả công cuộc CPH DNNN ở tp. Nha Trang.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đề tài đề cập đến cơ sở lý luận và

thực tiễn có liên quan đến tình hình CPH DNNN ở Việt Nam; tập trung phân tích và

đánh giá tác động của CPH đến hiệu quả hoạt động của các DNNN trước và sau khi

tiến hành CPH diễn ra trên địa bàn tp. Nha Trang; trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp

để CPH DNNN đạt hiệu quả cao hơn.

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích định

tính và định lượng, so sánh, phân nhóm dựa vào các biểu bảng thống kê kết hợp với

phương pháp thống kê thông qua bảng câu hỏi.

Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương, chương 1 trình bày tổng

quan về cổ phần hóa, chương 2 phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh

và vấn đề cổ phần hóa các DNNN ở thành phố Nha Trang, chương 3 đề xuất một số

giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả CPH các DNNN tại tp. Nha Trang.

41

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA

1.1. Lý luận về công ty cổ phần:

1.1.1. Công ty cổ phần:

1.1.1.1. Khái niệm:

Theo giáo trình luật kinh tế của đại học luật Hà Nội thì công ty cổ phần là

loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều

phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách

nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.

Theo luật doanh nghiệp thì công ty cổ phần được hiểu là doanh nghiệp, trong

đó vốn điều lệ của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ

phần; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh

nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do

chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Cổ đông có thể là tổ chức, cá

nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.

Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra

công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận

đăng ký kinh doanh.

1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán:

Có hai nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán là: cổ

phiếu và trái phiếu.

Cổ phiếu:

Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần trong một công ty, thể hiện sự sở hữu

một phần công ty đó. Giá trị cổ phần của công ty được phản ánh thông qua giá cổ

phiếu trên TTCK. Thông thường, giá cổ phiếu sẽ đi lên khi công ty làm ăn phát đạt

và ngược lại. Cổ phiếu trên sàn là cổ phiếu đã được niêm yết và giao dịch trên

TTCK. Cổ phiếu ngoài sàn (OTC) là cổ phiếu không đủ điều kiện để niêm yết hoặc

42

đủ điều kiện nhưng chưa niêm yết trên TTCK. Cổ phiếu trên sàn thường đã qua chọn

lọc, các thông tin tương đối minh bạch và đầy đủ hơn so với cổ phiếu ngoài sàn.

Ưu điểm:

- Đối với công ty:

+ Giúp công ty cổ phần có quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh

doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần.

+ Công ty có thể huy động một lượng vốn lớn hơn rất nhiều vốn điều lệ của

công ty và tài sản hiện có mà không cần phải cầm cố, thế chấp bất kỳ tài sản nào.

+ Giá trị của công ty sẽ tăng lên rất nhiều nếu nhà đầu tư đánh giá cao về

triển vọng phát triển và kỳ vọng về tương lai của công ty nên họ sẵn sàng mua cổ

phiếu dù có thể hiện giờ công ty chưa phát triển.

+ Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành cổ phiếu không cấu thành

một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng

cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương

thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ... thì

hoàn toàn ngược lại.

+ Tùy vào chính sách cổ tức của công ty mà công ty có thể chi trả cổ tức cho

cổ đông hoặc giữ lại cổ tức để tiếp tục đầu tư nhằm gia tăng giá trị của công ty trong

tương lai.

- Đối với nhà đầu tư:

+ Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác,

từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng,

mua bán cổ phần.

+ Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong

công ty.

+ Các cổ đông được quyền tham gia quản lý, kiểm soát, điều hành công ty

thông qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban Quản Lý, Ban Kiểm Soát

và Ban Điều Hành.

43

+ Cổ đông được quyền hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra dưới

dạng cổ tức cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ góp vốn.

- Đối với TTCK: việc phát hành cổ phiếu trở thành nguồn cung và làm đa

dạng lượng hàng hoá cho TTCK, kích thích TTCK sôi động hơn. Chính điều này lại

tác động hiệu quả giúp công ty dễ dàng hơn trong việc huy động vốn.

Nhược điểm:

- Nhược điểm lớn nhất là phải chia sẻ thu nhập và quyền kiểm soát công ty

cho các cổ đông mới, pha loãng quyền kiểm soát công ty, dễ bị các thế lực bên

ngoài thâu tóm.

- Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế công ty phải thực hiện nghĩa vụ với

ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ

tức và lãi cổ phần theo qui định của nhà nước.

- Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chánh của công ty bị hạn chế do phải

công khai và báo cáo với các cổ đông của công ty.

- Sức ép cho công ty phải kinh doanh có hiệu quả khi phát hành cổ phiếu để

huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại khiến các công

ty chưa mặn mà với việc huy động vốn trên TTCK.

- Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát

hành chứng khoán ra công chúng (điều kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành

phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành

chứng khoán...)

- Lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại quá cao (khoảng 15%/năm) cao

hơn lãi suất từ ngân hàng hiện nay (khoảng 10,8%/năm) nên huy động vốn trên

TTCK là "khá đắt" và khó thực hiện.

- Để huy động vốn trên TTCK các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ

tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng.

Trái phiếu:

Trái phiếu là một khoản vay giữa nhà đầu tư (người cho vay) với nhà phát

hành (người đi vay). Nhà phát hành là các công ty cần huy động vốn để đầu tư phát

44

triển kinh doanh. Trái phiếu thường có kỳ hạn cố định. Khi đến hạn, nhà phát hành

sẽ hoàn trả tiền gốc. Tiền lãi sẽ được trả định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm trong suốt kỳ

hạn của trái phiếu. Trái phiếu niêm yết có thể được tự do mua bán trên TTCK.

Ưu điểm:

- Đối với công ty:

+ Công ty có thể huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu để hoạt

động kinh doanh.

+ So với vay ngân hàng, vay thông qua phát hành trái phiếu là cách thức vay

trực tiếp, do đó chi phí sử dụng vốn rẻ hơn.

+ Đồng thời hình thức vay này giúp doanh nghiệp chủ động hơn và có thể

vay với khối lượng lớn hơn vay ngân hàng.

+ Công ty phát hành xác định được số tiền phải trả cho trái chủ đến ngày đáo

hạn để đầu tư vào những dự án có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

+ Không phải chia sẻ quyền quản lý cho các trái chủ.

- Đối với nhà đầu tư:

+ Phù hợp với nhà đầu tư không thích rủi ro. Họ nhận được thu nhập định kỳ

với mức lãi suất được ấn định ngay từ khi phát hành mà không phụ thuộc kết quả

hoạt động kinh doanh của công ty phát hành.

+ Trái phiếu thường có mức độ rủi ro thấp hơn nên giá cũng ít biến động

hơn. Trong môi trường lạm phát thấp và trong trường hợp thị trường chứng khoán

biến động, đầu tư vào trái phiếu để có thể duy trì nguồn thu nhập ổn định mà vẫn

đảm bảo được sự an toàn của vốn đầu tư.

Nhược điểm:

- Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành trái phiếu cấu thành một

khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân

đối thanh khoản của công ty sẽ tăng lên.

- Các tiêu chí phát hành không được quy định rõ ràng

- Thiếu thông tin vì một số doanh nghiệp không đưa trái phiếu lên niêm yết

do ngại các thủ tục công bố thông tin.

45

- Chưa có tổ chức định mức tín nhiệm (CRA)

- Các quy định điều chỉnh việc chào bán riêng lẻ không đầy đủ

- Hệ thống giao dịch trái phiếu không đồng bộ.

- Nhà đầu tư không có quyền được chia lợi nhuận và tham dự vào các quyết

định của công ty.

1.1.2. Cổ phần:

Cổ phần chính là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng

nhau. Như vậy, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể

hiện dưới hình thức cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần (mệnh giá cổ phần) do công ty

quyềt định và ghi vào cổ phiếu.

Cổ phần của CTCP có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ

phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm các loại sau: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ

phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công

ty quy định.

1.1.3. Cổ đông:

Cổ đông có thể được hiểu là những cá nhân, pháp nhân sở hữu cổ phần của

công ty. Bao gồm cổ đông phổ thông là người sở hữu cổ phần phổ thông và cổ đông

ưu đãi là người sở hữu cổ phần ưu đãi.

1.1.4. Cổ phiếu:

Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác

định quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên

hoặc không ghi tên.

1.1.5. Cổ tức:

Là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ

phần.

1.2. Lý luận về cổ phần hóa:

1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa:

Hiện nay khi đề cập đến vấn đề cổ phần hóa, nhiều người nhầm tưởng rằng

CPH chỉ là cổ phần hóa DNNN. Đó là một thiếu sót, vì thật ra CPH là một thuật

46

ngữ chung để nói về việc cổ phần hóa các DNNN và các loại doanh nghiệp khác

như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu

hạn và các doanh nghiệp tư nhân.

Từ nhận thức trên, chúng ta có khái niệm về cổ phần hóa như sau:

(cid:190) Cổ phần hóa là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ dạng chưa là

công ty cổ phần thành công ty cổ phần.

(cid:190) Cổ phần hóa còn là một thuật ngữ để biểu đạt quá trình chuyển DNNN

thành công ty cổ phần thuộc sở hữu của các pháp nhân và thể nhân (gọi tắt là cổ

đông) đã bỏ tiền ra mua cổ phiếu của DNNN đó.

1.2.2. Phân loại:

Trên thế giới hiện nay có 2 loại hình cổ phần hóa:

Một là, cổ phần hóa DNNN :

Ban đầu, theo QĐ 143/HĐBT (l0-5-1990) và QĐ 202/CT (4-3-1993) thì cổ

phần hoá DNNN được hiểu là quá trình chuyển một số DNNN đáp ứng các điều

kiện như: có quy mô vừa và nhỏ; kinh doanh có lãi hoặc triển vọng có lãi; Nhà nước

không cần giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần bằng cách

giữ nguyên giá trị sở hữu của Nhà nước, phát hành cổ phiếu mới thu hút vốn hoặc

bán một phần tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho cá nhân và pháp nhân trong và

ngoài doanh nghiệp. Đối tượng được ưu tiên mua cổ phiếu là người lao động trong

doanh nghiệp, DNNN khác, hạn chế bán cổ phiếu cho tư nhân trong nước và người

nước ngoài

Theo khái niệm trên thì đối tượng được góp vốn, mua cổ phần đã bị giới hạn

lại làm hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp cũng như có sự phân biệt

đối xử giữa những người lao động trong DNNN được cổ phần hoá và trong các

DNNN khác với tư nhân trong nước và người nước ngoài. Vì vậy, khái niệm này đã

được điều chỉnh. Theo đó, cổ phần hoá DNNN được coi là một thuật ngữ để biểu

đạt một quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, trong đó vốn của nó do

nhiều thành viên góp vào được gọi là cổ đông. Các cổ đông này có thể là pháp nhân

47

hay thể nhân. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là

cổ phần. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần.

Hai là, cổ phần hóa các loại hình doanh nghiệp khác:

Bên cạnh cổ phần hoá DNNN thì còn cần phải cổ phần hoá các loại doanh

nghiệp khác như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách

nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân.

1.2.3. Đặc trưng cổ phần hoá ở Việt Nam:

Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam là một yêu cầu bức xúc từ thực tế và được

hình thành từ những thử nghiệm thực tiễn chứ không phải ứng dụng một một cách

sao chép mô hình lý thuyết từ nước ngoài. Chính vì vậy, cổ phần hoá ở Việt Nam

với những nét đặc trưng sau :

Thứ nhất, mục đích của cổ phần hóa Việt Nam không phải là để tư nhân hóa

càng nhanh càng tốt các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu nhà nước để làm giảm gánh

nặng tài chính cho ngân sách nhà nước, mà nhằm huy động vốn cho doanh nghiệp

vì chính số tiền từ việc bán cổ phần lại được nhà nước tiếp tục đầu tư vào DNNN.

Thứ hai, mục đích khác của cổ phần hóa nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN

bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hỗn hợp sở hữu nhà nước và tư nhân.

Như vậy, một mặt sẽ giảm bớt vốn của nhà nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh

tế tư bản nhà nước với sự kết hợp vai trò kiểm soát của nhà nước với các yếu tố

quản lý và lao động tích cực của cá nhân tốt hơn hình thức doanh nghiệp 100% sở

hữu nhà nước, mặt khác thành phần kinh tế nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát

được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng vốn đầu tư của nhà nước. Với mục đích

này, mặc dù có một phần tài sản chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân,

song mục đích lại không hoàn toàn giống tư nhân hóa ở các nước TBCN.

Thứ ba, ngoài ra mục đích của cổ phần hóa còn nhằm tạo điều kiện cho

người lao động làm chủ và giúp doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động hiệu quả

bằng những phương châm, hình thức cổ phần hóa cũng như chính sách ưu đãi đối

với nguời lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hơn là mục đích chuyển

48

giao DNNN cho tư nhân. Chính vì vậy, Việt Nam không chủ trương giao bán

DNNN càng nhanh càng tốt mà kiên trì con đường cổ phần hóa DNNN.

Tính đặc thù của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam một mặt cho thấy xu

hướng giữ vững bản chất XHCN trong các cải cách kinh tế của nhà nước, nhưng

mặt khác lại khó khăn trong việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước cũng

như không tự vạch ra được một chương trình hoàn thiện ngay từ đầu nhằm đạt tới

sự thống nhất trong cả quá trình cổ phần hóa.

1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt

Nam:

1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội:

- Thúc đẩy TTCK phát triển:

Tăng cung cho TTCK: Thông qua CPH, một lượng chứng khoán lớn sẽ được

cung cấp làm tăng lượng và đa dạng hàng hoá cho TTCK, đáp ứng nhu cầu của các

nhà đầu tư.

Kích cầu cho TTCK: Bên cạnh việc cổ phần hoá DNNN, việc cổ phần hoá

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số NHTM quốc doanh và doanh

nghiệp tư nhân ... sẽ cung cấp cho TTCK rất nhiều loại chứng khoán với mức độ rủi

ro và lợi nhuận khác nhau, đáp ứng mọi sở thích của nhà đầu tư. Từ đó kích thích

các nhà đầu tư quan tâm hơn đến chứng khoán, cả nhà đầu tư trong nước và ngoài

nước, cả những nhà đầu tư sành sỏi lẫn những nhà đầu tư chưa từng tham gia.

Vì vậy, cổ phần hóa sẽ góp phần thúc đẩy hình thành và mở rộng TTCK.

Như ta biết thì TTCK có vai trò rất quan trọng đối với xã hội, kích thích xã hội phát

(cid:57) TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết

triển như:

(cid:57) TTCK là công cụ huy động vốn hiệu quả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

(cid:57) TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát.

(cid:57) TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết và đảm bảo tính thanh

kiệm có hiệu quả vào công cuộc đầu tư.

khoản cho các loại chứng khoán.

49

(cid:57) Thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.

- Xoá bỏ tình trạng vô chủ của các doanh nghiệp:

Thông qua cổ phần hóa, DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Vì vậy, người

chủ trước đây là Nhà nước nay đã trở thành những cổ đông, quyền lợi của họ gắn

liền với các quyết định đầu tư, các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp, hay nói cách khác là phụ thuộc vào sự thành bại của doanh nghiệp. Những

điều này khiến họ tích cực, hăng say làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, tránh

tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm, thay đổi lối suy nghĩ tài sản này là của Nhà nước

chứ không phải là của mình. Bên cạnh đó, vì có sự tham gia kiểm tra, giám sát của

các cổ đông vào hoạt động của công ty nên các tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí

sẽ bị phát hiện và xoá bỏ, đồng thời thúc đẩy công ty làm ăn phát đạt.

- Nộp thuế nhiều hơn cho ngân sách Nhà nước:

Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã làm ăn có hiệu quả hơn

làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng lên, vì vậy mức đóng góp cho ngân sách Nhà

nước cũng tăng lên, cụ thể là các doanh nghiệp phải nộp thuế theo quy định, còn các

cổ đông cũng phải nộp thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo

qui định của Nhà nước.

- Cơ cấu lại hệ thống DNNN:

Bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hoá hỗn hợp sở hữu nhà nước

và tư nhân nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN, một mặt sẽ giảm bớt vốn của Nhà

nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh tế tư bản Nhà nước với vai trò kiểm soát của

Nhà nước kết hợp yếu tố quản lý, mặt khác lao động tích cực của cá nhân tốt hơn

hình thức doanh nghiệp 100% sở hữu Nhà nước. Chính vì vậy, thành phần kinh tế

Nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng

vốn đầu tư của Nhà nước.

- Tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết thất nghiệp:

Doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả sẽ mở rộng phạm vi

hoạt động, đầu tư thêm nhiều dự án mới. Do đó nhu cầu lao động sẽ tăng lên, cần

thu hút thêm lao động. Từ đó, nhiều người sẽ có việc làm, giảm được những tệ nạn

50

xã hội, giúp Nhà nước tiết kiệm chi phí để giải quyết và xoá bỏ các tệ nạn đó, đồng

thời đóng góp cho xã hội nhiều của cải hơn.

1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hoá đem lại cho doanh nghiệp:

Cổ phần hóa là giải pháp cơ bản sắp xếp lại DNNN được thể hiện như:

- Doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, tự chủ tự chịu

trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, hạch toán

kinh doanh thực sự.

- Giúp doanh nghiệp xây dựng một cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thích

nghi với nền kinh tế thị trường. Cơ chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được

đổi mới; đặc biệt, ban kiểm soát do đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong

việc kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ

chức bộ máy của công ty cổ phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực

hành chính được giảm tối đa. ở nhiều công ty cổ phần, số cán bộ gián tiếp chỉ còn

chiếm 7% - 8% tổng số lao động trong công ty. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ

phần được giám sát chặt chẽ, giảm tối đa những khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi

và mức chi trong công ty đều phải công khai, do đại hội cổ đông và hội đồng quản

trị quyết định. Nhờ công khai, dân chủ, nên giá cả nguyên vật liệu, thiết bị và dịch

vụ đầu vào và bán thành phẩm đầu ra được kiểm soát chặt chẽ, tránh được các hiện

tượng thỏa thuận tăng giá "đầu vào", giảm giá "đầu ra" để thu lợi bất chính...

- Tài chính của doanh nghiệp được lành mạnh hơn một bước, doanh nghiệp

sẽ cơ cấu lại các khoản nợ, xử lý tài sản, vật tư, hàng hoá tồn kho lâu ngày, kém

phẩm chất, máy móc thiết bị không dùng, hạch toán vào chi phí kinh doanh, giảm

vốn Nhà nước hoặc bán cho công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp.

- Góp phần rõ rệt vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp.

- Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đối với

chứng khoán của công ty.

51

- Sau khi CPH, các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành

cổ phiếu hoặc trái phiếu. Như vậy, doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn

dành cho các dự án đầu tư phát triển, mở rộng quy mô.

- Tập hợp trí tuệ tập thể trong quản lý và sản xuất.

- Xác định rõ người chủ đích thực của công ty chính là các cổ đông (Nhà

nước, các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp và người lao động).

- Các DNNN khi thực hiện cổ phần hóa đã sắp xếp lại lao động một cách cơ

bản theo chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN.

Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các

doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển khá vững chắc, năng suất lao động,

chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt.

1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động (những người lao động

sở hữu chứng khoán của công ty):

- Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ và thấy được vai trò làm chủ của

mình. Trên cơ sở đó, người lao động làm việc tích cực hơn và có hiệu quả hơn. Nhờ

vậy, năng suất lao động sẽ được tăng lên, tiết kiệm chi phí góp phần nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động:

Sau khi chuyển thành công ty cổ phần, nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy

động được vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nên công ty tạo ra nhiều việc

làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số lao động đã nghỉ trước đó.

- Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm:

Thu nhập của người lao động tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa tăng đáng kể

so với trước, bình quân 12%, chưa kể thu nhập có được từ cổ tức. Ngoài ra, người

lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần, hằng năm còn được nhận cổ tức từ

phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Mức cổ tức bình quân của các công ty cổ

phần cao gấp 2 - 3 lần lãi suất ngân hàng.

52

- Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động là cổ đông được bảo

đảm. Trong công ty cổ phần, người lao động là cổ đông không những có quyền lợi,

nghĩa vụ của người lao động mà còn có quyền và nghĩa vụ của cổ đông, đó là quyền

được bầu cử, ứng cử tại đại hội cổ đông, quyền biểu quyết, quyền được hưởng cổ

tức khi công ty kinh doanh có lãi, quyền chất vấn, phê bình, kiến nghị về công việc

của hội đồng quản trị, giám đốc và kiểm soát viên về hoạt động của công ty. Nhóm

cổ đông đại diện cho 25% vốn điều lệ được yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất

thường khi có dấu hiệu không lành mạnh về hoạt động tài chính của giám đốc,

thành viên hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Đây chính là những yếu tố quan

trọng làm tăng tiền lương và thu nhập của người lao động.

- Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN được

người lao động hoan nghênh, đón nhận tích cực vì:

Đối với những người lao động với nhiều lý do khác nhau không đáp ứng

được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh sẽ được giải quyết phù hợp như nghỉ

chờ hưu, đào tạo lại ...

Đối với những người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà

nước trợ cấp, hỗ trợ cảm thấy phấn khởi và yên tâm, vì được bảo lưu chế độ bảo

hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi làm việc ở các

doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với nhóm đối tượng

lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15 năm đến dưới 20

năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội tìm việc làm mới,

được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng chế độ hưu trí.

1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới:

Ngay từ đầu những thập niên 80, quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu các

DNNN đã diễn ra mạnh mẽ và sôi động đầu tiên ở nước Anh sau đó lan rộng sang

nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Trước hết, các quốc gia đều xác định cho mình mục tiêu chính của việc thực

hiện CPH DNNN. Đó là: nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

để từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Hơn nữa, vừa giảm thiểu số DNNN làm ăn thua

53

lỗ, vừa tối đa hoá các đơn vị làm ăn có lãi và các khoản thu cho Ngân sách Nhà

nước. Ngoài ra, chính phủ các nước có thể chuyển một số lĩnh vực ngành nghề mà

các khu vực kinh tế khác có thể đảm nhận, giảm thâm hụt ngân sách, cân đối khả

năng thanh toán nợ nước ngoài và phát triển thị trường vốn trong nước.

Tiếp theo, các quốc gia đều quan tâm đến việc tổ chức bộ máy chỉ đạo. Bộ

máy này có thể là Bộ Tài chính hay Bộ Ngân khố, hoặc thành lập riêng một bộ

chuyên trách chỉ đạo việc thực hiện CPH những DNNN có đủ điều kiện và chịu

trách nhiệm nắm giữ cổ phần của Nhà nước ở các DNNN chuyển đổi sở hữu thông

qua một số cơ quan quản lý tài sản hoặc công ty tài chính của Nhà nước.

Việc xác định tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp chuyển đổi cũng là một trong

các yếu tố được các quốc gia tiến hành cổ phần hoá quan tâm. Có hai tiêu chí đó là:

Quy mô và lĩnh vực thị trường.

Về quy mô: phải nói đến Mêxico vì họ đã thành công trong việc tiến hành

chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và cạnh tranh hiệu quả.

Một trong những lý do thành công là họ đã học tập được những kinh nghiệm quý

báu từ việc bán các doanh nghiệp nhỏ, từ đó giảm thiểu được rủi ro.

Về lĩnh vực thị trường: các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có thị

trường đang và sẽ hoạt động tốt thường được ưu tiên cải cách trước, sau đó là đến

những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có khó khăn hơn về thị trường,

cuối cùng mới đến những lĩnh vực mà trước đây Nhà nước cần độc quyền hoặc tư

nhân chưa có đủ điều kiện để tham gia.

Thực tế có rất nhiều phương pháp đánh giá và định giá doanh nghiệp nhưng

phương pháp tốt nhất là để thị trường quyết định giá bán thông qua đấu thầu, nhất là

các doanh nghiệp nhỏ. Đối với những doanh nghiệp lớn, việc xác định giá bán

doanh nghiệp thường được thực hiện bằng nhiều phương pháp như: phương pháp

xác định theo giá thành tài sản, phương pháp giá trị tài sản thuần, phương pháp thu

nhập, phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp thặng dư, phương pháp đấu giá,

phương pháp dòng tiền chiết khấu. Theo đó sẽ tổ chức đấu thầu và đấu giá trên thị

trường.

54

Về cơ bản, có 3 hình thức phát hành cổ phiếu tại các doanh nghiệp thực hiện

chuyển đổi sở hữu:

a. Nhà nước giữ lại một phần để giữ vai trò chi phối hoặc tạo điều kiện thực hiện

các mục tiêu chính đặt ra khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp.

b. Bán một phần giá trị doanh nghiệp để thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà

nước cho người lao động trong doanh nghiệp. Đây là hướng ưu tiên giải quyết của

các nước như: Ba lan. Croatia, Ucraina. Nhiều nước như Achentina, Chilê, Ba lan,

Pakistan và Sri Lanka đã dành 5-20% cổ phần cho công nhân viên doanh nghiệp với

giá giảm và được cấp tín dụng với điều kiện thuận lợi.

c. Một phần được bán cho các đối tượng bên ngoài (gồm các nhà đầu tư nước

ngoài) thông qua các công ty quản lý tài chính, quỹ tài sản nhà nước hay các công

ty tài chính và công ty chứng khoán. Đây là hướng ưu tiên của các nước như

Hungary, Albania.

Cụ thể là kinh nghiệm của Hungary, Nga và Trung Quốc:

1.3.1. Hungary:

Vấn đề cổ phần hoá và đa dạng hoá các hình thức sở hữu DNNN ở Hungary

đã được chính phủ phát động mạnh ngay từ những năm đầu thập niên 90. Để thực

hiện chủ trương cổ phần hoá, chính phủ đã thành lập cơ quan cổ phần hoá và sở hữu

cổ phần hóa do một bộ trưởng chỉ đạo. Cơ quan này sẽ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát

cổ phần hóa, đồng thời thẩm tra giá trị doanh nghiệp để đưa ra đấu thầu và tổ chức

đầu thầu các doanh nghiệp cổ phần hóa. Cuối cùng sẽ giải quyết những hậu quả sau

khi thực hiện cổ phần hóa như vấn đề quyền lợi cho người lao động, giải quyết trợ

cấp cho những người không có khả năng làm việc....Với cách tổ chức như vậy,

chương trình CPH sẽ nhất quán, rõ ràng hơn với sự tham gia của đông đảo người

dân, hạn chế tối đa khả năng tổn thất cho Nhà nước. Hơn nữa, chính phủ còn ban

hành một luật riêng nhằm tạo hành lang pháp lý cao nhất cho quá trình chuyển đổi

sở hữu DNNN.

Với chủ trương như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (1990-1994) số lượng

DNNN ở Hungary đã giảm xuống chỉ còn 10% (tức là khoảng 200 doanh nghiệp).

55

Hơn thế nữa quá trình này còn tạo mới 500 nghìn việc làm và thu hút gần 18 tỷ

USD nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công này Hungary cũng phải đối mặt với

những bất cập như: do chính phủ nước này không hạn chế sự tham gia của các nhà

đầu tư nước ngoài nên một số ngành truyền thống của nước này như ngành chăn

nuôi bò không phát triển được. Vì so với nguyên liệu trong nước thì nguyên liệu của

nước ngoài với giá rẻ hơn nhiều nên có khả năng cạnh tranh cao hơn.

1.3.2. Nga:

Với chủ trương nhanh chóng chuyển sang nền kinh tế thị trường từ một nền

kinh tế kế hoạch mà DNNN chiếm vị trí độc tôn, chính phủ đã thực hiện tư nhân

hóa ồ ạt trong thời gian ngắn (3 – 4 năm). Chính phủ đã đề ra kế hoạch tư nhân hoá

30% tổng giá trị tài sản của nhà nước vào năm 1993 và 60% vào năm kế tiếp.

Để kích thích thị trường vốn trong nước phát triển, chính phủ còn thực hiện

các chính sách hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp và các

công dân đã đến tuổi trưởng thành. Cũng như Cộng hoà Séc, Littuania, Nga đã cho

không một phần giá trị doanh nghiệp, cấp sổ ngân phiếu, biên lai chứng chỉ mua cổ

phần... để xác định lại quyền mua cổ phần cho các đối tượng. Hơn nữa, Chính phủ

Nga đã phát không cho mỗi công dân (đủ 18 tuổi) một phiếu voucher với mệnh giá

10.000 Rúp để họ trở thành cổ đông của các xí nghiệp. Người cầm phiếu voucher có

thể sử dụng hoặc trực tiếp mua các cổ phần của các doanh nghiệp thay đổi hình thức

sở hữu; hoặc đổi lấy tín phiếu của các quỹ đầu tư.

Với những cố gắng như vậy, từ năm 1991-1996, CHLB Nga đã chuyển đổi

sở hữu 122.000 DNNN (chiếm 53,3% tổng số doanh nghiệp). Trong đó, DNNN có

quy mô nhỏ chiếm 64,8%, còn lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn.

Nhưng bên cạnh đó, việc áp dụng phiếu voucher đã vô hình tạo ra sự trục lợi của

một số ít quan chức có thế lực và những người có tiền. Cuối cùng dẫn đến sự giảm

sút và thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước, đẩy nhanh sự phân hoá giàu nghèo

trong xã hội.

56

1.3.3. Trung Quốc:

Ngay từ đầu thập niên 80, Chính phủ Trung Quốc đã đề cập đến giải pháp

CPH. Theo đó, cổ phần hóa DNNN là một bộ phận của chương trình đa dạng hóa sở

hữu và trong thập niên 90, giải pháp này đã được thể chế hóa và được coi là biện

pháp hữu hiệu trong cải cách DNNN.

Trái với quan điểm phải nhanh chóng chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN

của các nước Đông Âu như Nga, Hungary, chính phủ Trung Quốc cho rằng phải

tiến hành chuyển đổi sở hữu từ từ, không nhanh, không chậm và luôn tỉnh táo, thận

trọng. Với quan điểm chỉ đạo trên, tiến trình cổ phần hoá của Trung Quốc diễn ra

khá chậm, thận trọng từ thăm dò trải qua một giai đoạn thí điểm kéo dài và hình

thức cổ phần hóa đơn nhất rồi mới triển khai mở rộng trên phạm vi lớn.

Quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc bắt đầu năm 1984, đến cuối 1986 Quốc

vụ viện đã cho phép các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa

có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hoá.

Tháng 9/1997, Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn

mạnh việc đẩy mạnh công tác cổ phần hóa và xây dựng doanh nghiệp hiện đại theo

hướng "củng cố doanh nghiệp lớn và giải phóng doanh nghiệp nhỏ" với kế hoạch

giảm dần theo 3 cấp:

1) Cấp cao nhất: Nhà nước nắm quyền sở hữu 100% vốn, khoảng 1.000 tập

đoàn lớn trong các lĩnh vực chiến lược như an ninh quốc phòng, năng lượng, công

nghệ cao...

2) Cấp trung gian: Nhà nước là cổ đông tham khảo (có thể là cổ đông chi phối

hoặc là cổ đông thường) đối với các doanh nghiệp lớn và vừa không có tính chiến

lược.

3) Cấp thứ ba: Nhà nước tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hóa hàng loạt các

doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng không nắm giữ bất kỳ cổ phần nào trong các doanh

nghiệp này.

Sau đại hội này, Chính phủ Trung Quốc đã phát động một cuộc cải cách

DNNN qui mô lớn chưa từng có với mục tiêu khoảng 100.000 DNNN sẽ được cổ

57

phần hoá, bán các xí nghiệp nhỏ cho tư nhân, sáp nhập hoặc giải thể. Vì vậy, chỉ

trong thời gian ngắn hàng loạt doanh nghiệp đã được "bán tống, bán tháo" nhằm

giải quyết tình trạng thiếu hụt của ngân sách địa phương. Hậu quả là hàng loạt công

nhân tại các doanh nghiệp đã bị sa thải trong khi chính phủ Trung Quốc chưa có

chính sách hỗ trợ lao động dôi dư, thêm vào đó là các vấn đề phúc lợi xã hội của

DNNN trước đây bị xoá bỏ đã làm cho sức ép về thất nghiệp ngày một tăng (khoảng

từ 15 triệu đến 20 triệu người bị sa thải khỏi DNNN), sự ổn định chính trị bị đe doạ.

Trước tình hình như vậy, chính phủ Trung Quốc đã phải kiềm chế tốc độ cổ phần

hóa và bán các DNNN để điều chỉnh chính sách với người lao động và chính sách

giá trong cổ phần hoá và bán DNNN.

Trên thực tế, các DNNN đã tiến hành chuyển đổi sở hữu thành công ty cổ

phần theo 3 cách:

- Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp

- Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội

- Nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp

Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một

cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các

văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp như: Luật phá sản

doanh nghiệp, Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công

nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao

dịch cổ phiếu, Luật Lao động, Điều lệ quản lý đăng ký công ty ... và hai văn bản có

tầm quan trọng đặc biệt là Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu

toàn dân và Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu

toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của

DNNN như: cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường;

có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các

nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản

phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng... Thông qua luật này, các doanh

58

nghiệp sẽ có nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, từ đó tháo gỡ các

ràng buộc về mặt hành chính, đưa doanh nghiệp về đúng với vòng quay thị trường.

Đối với từng loại doanh nghiệp chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn những

biện pháp phù hợp. Ví như các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH đã được áp

dụng những biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa

việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật,

mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với

các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế

suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu

hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong

sản xuất - kinh doanh thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường

chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp

để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v...

Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước:

Nhìn chung, việc bắt đầu cải cách từ đâu phụ thuộc vào mối quan tâm của

nhà đầu tư và khả năng của chính phủ mỗi nước. Nhưng đều phải có sự đầu tư mới

và thay đổi phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các

doanh nghiệp chuyển đổi.

Thêm vào đó, cổ phần hoá chỉ được tiến hành thành công khi đã chuẩn bị chu

đáo cả về cơ chế, chính sách và vật chất để giải quyết những hậu quả do cải cách

DNNN gây nên.

Theo kinh nghiệm các nước, cần xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ, tăng

cường sức cạnh tranh cho các xí nghiệp này. Theo đó, chính phủ phải có kế hoạch

trung hạn trong việc đầu tư cả tiền vốn và kỹ thuật. Thêm vào đó, cần nhanh chóng

bán các DNNN vừa và nhỏ có tính cạnh tranh thông qua đấu thầu cạnh tranh. Để

tăng tính hấp dẫn của doanh nghiệp trước khi bán, các nước đều tiến hành giải quyết

vướng mắc về tài chính đối với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không

hiệu quả hoặc hiệu quả thấp như:

- giải quyết các khoản nợ dây dưa, khả năng thanh toán thấp

59

- loại bỏ những tài sản và dự án đầu tư không hiệu quả theo mệnh lệnh hành

chính ở các nước DNNN trong các thời kỳ trước

- giải quyết vấn đề lao động dôi dư như đào tạo lại, trả trợ cấp thôi việc và

bảo hiểm thất nghiệp vì thực tế sự phản đối của lực lượng lao động trong các doanh

nghiệp chuyển đổi đã gây khó khăn và ảnh hưởng đến tiến trình chuyển đổi sở hữu

DNNN. Nhưng nếu có những biện pháp giải quyết thoả đáng thì nó lại đem lại hiệu

quả rất cao, nổi bật là ở Tuynidi, nước này đã thực hiện chính sách trả trợ cấp trọn

gói thôi việc tương đối cao nên làm cho nhiều lao động tự nguyện ủng hộ việc

chuyển đổi sở hữu DNNN (90% số lao động dôi dư) đến mức chẳng cần phải thải

hồi công khai.

Đồng thời, Nhà nước không nên can thiệp sâu và trực tiếp vào hoạt động của

các doanh nghiệp để không cản trở mục tiêu phân định trách nhiệm giữa Nhà nước

và doanh nghiệp, đồng thời phát huy được tính năng động và tự chủ trong kinh

doanh của doanh nghiệp

Phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp

quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp, kịp thời ban hành các quy chế

chính sách, mà đặc biệt là các chính sách đối với người lao động và giá bán doanh

nghiệp cũng như giá bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tuân thủ nguyên tắc của cơ

chế thị trường. Đồng thời, cần có cơ chế đồng bộ, quan điểm và cách hiểu nhất quán

từ trung ương đến cơ sở, vừa chỉ đạo thực hiện kiên quyết, vừa theo dõi sát để kịp

thời điều chỉnh, bổ sung những cơ chế mới khi xuất hiện các lực cản làm chậm tiến

trình thực hiện cổ phần hóa.

Chính phủ cần có những chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở

rộng thị trường mua, chuyển nợ thành vốn đầu tư làm tăng thành phần tham gia vào

doanh nghiệp, giải quyết khó khăn về vốn đối với doanh nghiệp để thúc đẩy việc

bán từng phần hoặc toàn bộ DNNN. Đó là những bài học từ Achentina, Chilê,

Philipin, các nước này đã lôi kéo được các nhà đầu tư nước ngoài và các ngân hàng

thương mại tham gia vào doanh nghiệp và bằng cách đó đã giảm được tỷ lệ nợ vốn.

60

Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, các DN đã CPH, những

doanh nghiệp sau khi CPH hoạt động hiệu quả, chính phủ cần áp dụng những biện

pháp phù hợp cho từng loại doanh nghiệp. Đặc biệt chính phủ và doanh nghiệp cần

quan tâm giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động, chính phủ cũng cần tạo

điều kiện cho các DN hưởng một số ưu đãi như: thuế suất, thuế thu nhập doanh

nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đồng thời, cần

tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tham gia vào thị trường chứng khoán và được

hưởng các ưu đãi về tài chính...

Kết luận chương 1

Tác giả đã nêu một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần bao gồm khái niệm

công ty cổ phần và những vấn đề liên quan như cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, cổ tức,

các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến lý

luận về cổ phần hóa, các đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam, lợi ích của cổ phần hóa

đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm lợi ích đem lại cho xã

hội, cho doanh nghiệp và người lao động... Chương 1 đã nêu được những bài học

kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm

của Hungary, Nga và Trung Quốc... Từ đó rút ra được một số bài học cho Việt Nam

trong tiến trình thực hiện công cuộc cổ phần hóa của đất nước.

61

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH

VÀ VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở

THÀNH PHỐ NHA TRANG.

2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua.

2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam.

Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam được bắt dầu từ năm 1992, nhưng để xuất

hiện chủ trương này Việt Nam đã trải qua một quá trình nhận thức, tìm toi và thử

nghiệm nhiều phương thức để giúp các DNNN thoát khỏi khó khăn về vốn. Trước

năm 1979, Việt Nam định hướng xây dựng mô hình kinh tế XHCN dựa trên hai loại

hình sở hữu chính là toàn dân và tập thể. Tuy nhiên, để thoát khỏi tình trạng trì trệ

của nền kinh tế do mô hình này với công cụ điều tiết là kế hoạch pháp lệnh, thì từ

1979 vai trò của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể đã được coi

trọng, cũng như quyền tự chủ của các doanh nghiệp và địa phương đã được mở rộng

vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ kế hoạch pháp lệnh. Từ năm 1980, nước ta đã

thử nghiệm cải cách cơ chế quản lý các DNNN (lúc đó gọi là các xí nghiệp, cửa

hàng quốc doanh) như: doanh nghiệp sẽ được tự chủ ở kế hoạch sản xuất phụ theo

giá cả thị trường, được huy động vốn trong cán bộ công nhân viên của doanh

nghiệp, tự chủ sử dụng lao động... Vào những năm thập kỷ 90, nhờ quá trình đổi

mới thận trọng cơ chế quản lý nên các DNNN đã cơ bản chuyển sang hoạt động

theo cơ chế thị trường và góp phần to lớn ổn định nền kinh tế; mặt khác do trước

đây DNNN được đầu tư tràn lan không chú trọng đúng mức đến hiệu quả kinh tế,

nên vào năm 1990 đã có hơn 12.300 DNNN, trong đó đa số là doanh nghiệp có vốn

nhỏ bé, kỹ thuật lạc hậu, thậm chí không đủ vốn hoạt động. Trước thực tế như vậy,

chính phủ đã cho phép doanh nghiệp tự huy động vốn trong cán bộ công nhân viên

và các đối tượng có vốn khác để tạm thời giải quyết khó khăn thiếu vốn. Tuy nhiên,

cách thức huy động vốn như vậy có quy mô rất hạn chế và gây nhiều lộn xộn khiến

người bỏ vốn không được bảo vệ, còn doanh nghiệp sử dụng vốn nhiều khi không

đúng mục đích đề ra khi huy động. Thêm vào đó, theo NĐ388/HĐBT quá trình

thành lập lại DNNN nhằm sáp nhập, thu gọn đầu mối DNNN đã được triển khai. Do

62

vậy, quy mô vốn của những doanh nghiệp chủ chốt đã được tăng lên và các doanh

nghiệp này cũng được cấp vốn còn thiếu. Nhưng do gần 6000 DNNN sau thành lập

vẫn còn là một con số lớn, trong khi ngân sách nhà nước lại quá hạn hẹp nên các

DNNN vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn. Lúc này, Đảng và Nhà nước lại phải đi tìm

một phương cách mới khả thi để vừa có thể giúp cơ cấu lại hệ thống DNNN hiện

có, vừa mở ra những khả năng mới cho việc duy trì ổn định năng lực sản xuất xã hội

và nâng cao việc sử dụng năng lực sản xuất…

Chính từ bối cảnh này, chủ trương về cổ phần hóa DNNN đã ra đời và cho

đến nay vẫn được thực thi ở nước ta.

2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua.

CPH các DNNN vừa là xu thế khách quan, vừa là nhu cầu trong quá trình

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bởi vì công ty cổ phần có điểm

mạnh là thu hút được nguồn vốn rộng rãi trong xã hội, tăng cường hàng hóa cho thị

trường chứng khoán, tách bạch được quyền sở hữu với quyền sử dụng vốn trong sản

xuất kinh doanh. Vì vậy, trong Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành

Trung ương khóa IX đã chỉ rõ cổ phần hóa là một phương thức có hiệu quả để đổi

mới các DNNN và cũng là một trong những hướng quan trọng của quá trình cải

cách các doanh nghiệp này.

Chỉ trong 14 năm qua, với sự chỉ đạo của Chính phủ và tinh thần chủ động

trong thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu

đáng khích lệ.

Bảng 2.1: Số DNNN cổ phần hóa theo thời gian:

Số doanh nghiệp CPH Giai đoạn

1992 – 1998 123

1999 – 2005 2.873

2006 (6 tháng đầu năm) 111

Tổng 3.107

Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương

63

Sau hơn 10 năm (1992-2005) thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,

cả nước đã cổ phần hóa được 2.996 DNNN và bộ phận DNNN. Cụ thể, giai đoạn

1992 - 1998 là 123 doanh nghiệp và giai đoạn 1999 - 2005 là 2.873 doanh nghiệp.

Đến tháng 9/2006, cả nước đã cổ phần hóa 3.107 DNNN và đơn vị phụ thuộc

(bảng 2.1) trên tổng số 5.700 DNNN, hầu hết các doanh nghiệp này sau khi cổ phần

hoá đều hoạt động có hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu đều tăng, vốn nhà nước

được bảo toàn và tiếp tục tăng, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện rõ

rệt. Đến 90% doanh nghiệp khẳng định rằng kết quả sản xuất kinh doanh tốt hơn

trước cổ phần hóa rất nhiều, chủ yếu là sự gia tăng doanh thu và thu nhập của người

lao động, vì vậy đã làm tăng tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN cổ

phần hóa. Hơn nữa, nếu DNNN quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận vì doanh nghiệp

kinh doanh có lãi sẽ được đánh giá là hoạt động hiệu quả thì DNNN cổ phần hóa lại

chú trọng hiệu quả sử dụng vốn và việc minh bạch trong kết quả sản xuất kinh

doanh vì họ bị giám sát bởi nhiều cơ chế: cổ đông, ban kiểm soát, hội đồng quản trị

và nhà đầu tư... Thêm vào đó là những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của

chính phủ đối với DNNN cổ phần hóa trong những năm đầu sau khi cổ phần hóa. Ví

như hơn 850 DNNN đã cổ phần khảo sát năm 2005 cho thấy: vốn điều lệ tăng bình

quân 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng 25%,

thu nhập người lao động tăng 12%. Những con số thực tế trên thật sự rất ý nghĩa đối

với các doanh nghiệp vì chúng khẳng định CPH là một trong những biện pháp hữu

ích nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng sẽ tạo niềm tin

và động lực cho các DNNN khác tiến hành đổi mới hoạt động kinh doanh của mình

một cách tích cực hơn.

Mặc dù số lượng DNNN tiến hành CPH tăng không nhiều nhưng phần đông

trong số đó là các doanh nghiệp làm ăn khá, có quy mô vốn lớn, hấp dẫn công

chúng đầu tư như: công ty Điện lực Khánh Hòa, công ty Nhiệt điện Phả Lại, tổng

công ty Điện lực Việt Nam (EVN) tại nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh,

Thủy điện Thác Bà, Vinamilk, Kinh Đô, Bảo Minh, công ty cổ phần vật liệu và cáp

64

viễn thông, công ty cổ phần giấy Hải Phòng, công ty cổ phần mía đường Lam Sơn,

công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hòa...

Một số công ty cổ phần cũng đã phát hành thêm cổ phiếu như: Sacombank,

Eximbank, Bảo hiểm dầu khí..., hai mạng điện thoại lớn Vina Phone và Mobi

Fone... cũng đang rục rịch chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Cùng với Vietcombank, các

ngân hàng thương mại lớn khác như ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng

Công thương, ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long... cũng đang ráo

riết chuẩn bị để tiến hành cổ phần hóa trong một tương lai gần. Sự kiện này chắc

chắn sẽ thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Việc sắp xếp lại và CPH các DNNN đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64

tỉnh thành. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ, yếu, hoạt động kém hiệu quả, khả năng

cạnh tranh kém đã bị loại ra khỏi hệ thống các DNNN. Nhờ CPH mà nợ xấu, vật tư

hàng hoá tồn kho kém phẩm chất, các trang thiết bị và tài sản cũ nát... đã được giải

quyết. Bộ máy và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp đã CPH năng động

hơn. Cơ chế định giá doanh nghiệp mới qua các tổ chức tư vấn độc lập đã được áp

dụng thay vì qua hội đồng định giá như trước đây.

Về phía nhà nước, trong năm 2005, Chính phủ, Bộ Tài chính liên tiếp có

những quyết định, công văn chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa. Ngoài ra, hệ

thống các văn bản về cổ phần hóa cũng dần được bổ sung, hoàn thiện. Trong đó, nổi

bật là Nghị định 187 và Thông tư 126, hướng dẫn về xử lý tài chính, xác định giá trị

doanh nghiệp cổ phần hóa.

Hiện nay cổ phần hóa DNNN đã được mở rộng ra hầu hết các ngành, lĩnh

vực, kể cả các ngành lĩnh vực cực kỳ quan trọng, kể cả một số tổng công ty và

doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón,

xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn

thông, ngân hàng, bảo hiểm.

65

2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang.

2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang.

Thành phố Nha Trang là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của tỉnh

Khánh Hòa. Hiện nay, thành phố có diện tích tự nhiên là 251 km². Nha Trang nằm

trên tọa độ 12°8'33" đến 12°25'18" Bắc và 109°7'16" đến 109°14'30" Đông. Phía

Bắc giáp xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp các xã Cam Hải, Cam Tân,

thị xã Cam Ranh, phía Tây giáp các xã Diên An, Diên Phú, huyện Diên Khánh, phía

Đông giáp Biển Đông.

Hiện tại dân số Nha Trang vào khoảng 300.000 người và ước tính sẽ tăng lên

khoảng 500.000 đến 600.000 người vào năm 2020. Thành phố có thêm nhiều khu

đô thị mới ở phía Nam như Hòn Rớ, phía Bắc như Vĩnh Thái và kế hoạch xây khu

đô thị phía Tây.

Ngày nay, Nha Trang đã là một trung tâm du lịch khá nổi tiếng của Việt Nam

và quốc tế. Kinh tế mũi nhọn của thành phố là dịch vụ du lịch và thủy sản.

Từ năm 1999 đến nay (tháng 10/2006), trên địa bàn thành phố đã cổ phần

hóa được 34 DNNN và bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN) (xem bảng

2.2 và 2.3).

Bảng 2.2. Tình hình cổ phần hóa DNNN ở thành phố Nha Trang

Năm Số lượng DNNN đã CPH Số lượng DNNN bộ phận đã CPH

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 9/2006 Tổng cộng 1 0 7 4 7 4 4 2 29 1 0 0 1 1 0 1 1 5

Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa

Trong các doanh nghiệp CPH nói trên, các doanh nghiệp thuộc ngành công

nghiệp là 4 (chiếm 11,76%), các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ,

du lịch là 7 doanh nghiệp (chiếm 20,59%), 6 doanh nghiệp (17,65%) thuộc lĩnh vực

66

nông, lâm, thủy sản, các doanh nghiệp giao thông, vận tải, xây dựng là 12 doanh

nghiệp (chiếm 35,29%), còn lại là 5 doanh nghiệp (14,71%) thuộc lĩnh vực giáo

dục, văn hóa, thông tin.

Bảng 2.3. Cơ cấu DNNN đã CPH phân theo ngành

Lĩnh vực kinh doanh Công nghiệp Thương mại, dịch vụ, du lịch Nông, lâm, thủy sản Xây dựng, giao thông, vận tải Giáo dục, văn hóa, thông tin

Tổng cộng Số công ty 4 7 6 12 5 34 Tỷ lệ phần trăm (%) 11,76 20,59 17,65 35,29 14,71 100

Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa

14.71%

Dưới 5 tỷ đồng

Từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng

14.71%

Trên 10 tỷ đồng

70.58%

Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa

Hình 2.1: Cơ cấu DNNN CPH phân theo vốn điều lệ

Trong 34 DNNN đã CPH, các doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng

là 24 doanh nghiệp (chiếm 70,58%), các doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 5 –10 tỷ

đồng là 5 doanh nghiệp (chiếm 14,71%) và 5 doanh nghiệp (14,71%) có vốn Nhà

nước trên 10 tỷ đồng.

2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang

2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa.

2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa.

a. Những kết quả đạt được:

Để thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNNN cổ phần hóa,

chúng tôi dùng các chỉ tiêu sau: doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình

quân, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu

67

thuần bình quân, thu nhập bình quân của người lao động, tổng nộp ngân sách nhà

nước và số lao động bình quân. Chúng tôi so sánh các chỉ tiêu này của các doanh

nghiệp năm 2005 so với thời gian trước khi doanh nghiệp CPH (năm CPH).

Trong số 34 DNNN đã CPH tính đến tháng 9 năm 2006 tại tp. Nha Trang thì

có 8 DNNN mới CPH từ năm 2005 nên chúng tôi không đưa vào so sánh, tính toán

số liệu. Với 26 DNNN được CPH từ năm 2004 trở về trước, chúng tôi nhóm các

doanh nghiệp theo ngành và theo năm CPH để tính toán các chỉ tiêu của năm 2005

so với năm DNNN hoàn thành CPH.

Bảng 2.4 và 2.5 cho thấy thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của các

DNNN trước khi tiến hành CPH. Có thể nhận xét rằng các DNNN được chọn CPH

hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi, đều là những DNNN

hoạt động khá tốt trong tỉnh. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh

chưa cao, thể hiện ở các tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu bình quân, lợi nhuận

sau thuế/vốn CSH bình quân, thu nhập bình quân người lao động, vốn chủ sở hữu

bình quân và các khoản nộp NSNN còn thấp.

Các doanh nghiệp chưa đảm bảo được nhu cầu vật chất cho người lao động,

thu nhập bình quân người lao động quá thấp, không quá 300.000 đồng/tháng. Vốn

chủ sở hữu bình quân của các DNNN trong các ngành nghề khá thấp, cao nhất là

các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông, lâm, thủy sản với 10.668 triệu đồng và thấp

nhất là lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin chỉ có 1.867 triệu đồng. Trong các

ngành nghề hoạt động kinh doanh, thì các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông,

lâm, thủy sản hoạt động có hiệu quả nhất còn lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin

hoạt động dường như ít hiệu quả hơn, các chỉ số hầu như đều thấp hơn các chỉ số

bình quân của những doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác.

b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải.

Bên cạnh những kết quả đạt được như đã trình bày ở trên thì quá trình CPH

các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều vướng mắc:

Trước hết là nhận thức về cổ phần hóa DNNN còn chưa đầy đủ và thống

nhất. Đặc biệt, những doanh nghiệp lâu nay làm ăn kém hiệu quả, khả năng cạnh

tranh kém, cung cách quản lý không xoay kịp theo nền kinh tế thị trường, chủ yếu

vẫn dựa vào cơ chế bao cấp, cơ chế “xin - cho” không nhận thấy được là đã đến lúc

68

thị trường khó chấp nhận những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu như vậy, nếu không

chuyển đổi nhanh, rất có thể sẽ có nhiều doanh nghiệp đổ vỡ hàng loạt, nếu tồn tại

được thì cũng sẽ hết sức vất vả. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho 16

doanh nghiệp cổ phần hóa để tìm hiểu những lý do chính các DNNN này tiến hành

CPH, thu được kết quả như sau:

Bảng 2.6: Lý do chính dẫn đến CPH công ty:

Số công ty 12 Tỷ lệ % 75

Lý do 1. Do đề nghị bắt buộc từ các cơ quan quản lý Nhà nước 2. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty 6 37,5

3. Để huy động thêm vốn với chi phí thấp 0 0

0 4. Do được ưu đãi về thuế

0 Nguồn: kết quả điều tra

Bên cạnh đó, trước khi CPH đa số doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh

doanh thấp và tốc độ phát triển chưa cao. Hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm

đến việc xây dựng thương hiệu sản phẩm và sở hữu công nghiệp. Mặt hàng xuất

khẩu của doanh nghiệp chưa phong phú, đa dạng cũng như chưa được quan tâm thật

sự về chất lượng do vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tâm lí đây là DNNN, được sự hỗ trợ

của nhà nước vì vậy lãi lỗ không quan trọng. Thêm vào đó, việc đầu tư đổi mới

công nghệ còn chậm, trình độ công nghệ của đại bộ phận DNNN còn lạc hậu so với

thế giới. Hậu quả là sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao, chất lượng thấp, khả

năng cạnh tranh kém trên thị trường.

Hơn nữa, trình độ quản lý doanh nghiệp phần lớn còn yếu kém, chưa đạt yêu

cầu mà cơ chế thị trường đòi hỏi. Nhiều cán bộ quản lý chậm được đào tạo, đào tạo

lại và không thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, điều

hành sản xuất kinh doanh, nên không thích ứng kịp với môi trường sản xuất kinh

doanh trong cơ chế thị trường. Việc bảo toàn và phát triển vốn ở một số DNNN

thực hiện chưa tốt, tình hình ăn dần vào vốn, mất vốn vẫn còn. Không ít DNNN

chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại doanh nghiệp, nhất là công khai tài chính.

Công tác quản lý tài chính tại doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót. Định hướng hoạt

động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính doanh nghiệp chưa vững chắc.

69

Về việc quản lý nhà nước vẫn còn nhiều vướng mắc như có quá nhiều văn

bản pháp quy chồng chéo, thiếu tính khả thi, trói buộc quyền tự chủ kinh doanh của

doanh nghiệp, không phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chậm được sửa đổi...

Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với DNNN còn chưa bình đẳng thể hiện là

khi doanh nghiệp vi phạm thì bị xử lý, còn cơ quan quản lý nhà nước không chịu

trách nhiệm gì về những quyết định sai trái gây tổn thất cho doanh nghiệp. Nhưng

vướng mắc chủ yếu vẫn là chưa phân định rõ được quyền quản lý của Nhà nước với

DNNN; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu trực tiếp tại doanh

nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn

nữa, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới của

DNNN và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Vẫn còn

nhiều thủ tục gây khó khăn, phiền hà, tốn kém tiền bạc, thời gian và mất cơ hội kinh

doanh của các doanh nghiệp cũng như chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính

năng động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.

Không chỉ vậy, nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách cũng chưa được sửa

đổi, bổ sung kịp thời như:

+Về đầu tư: Nhà nước vừa buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào quyền tự

chủ đầu tư của doanh nghiệp và người quyết định đầu tư không chịu trách nhiệm

khi phương án đầu tư không có hiệu quả. Vì vậy, việc phân cấp, giao quyền quyết

định đầu tư cho doanh nghiệp chưa phù hợp, rõ ràng, không gắn với trách nhiệm và

chưa có cơ chế kiểm soát để đầu tư có hiệu quả.

+Về tổ chức, cán bộ quản lý: Trong các tổng công ty Nhà nước, cơ chế quyết

định nhân sự chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của Hội

đồng quản trị và Tổng giám đốc. Đối với các DNNN, việc bổ nhiệm nhân sự chủ

yếu do cấp trên quyết định nên không phát huy được đầy đủ dân chủ và trách nhiệm

của doanh nghiệp, cũng như năng lực cán bộ.

+Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước về sắp xếp, đổi mới DNNN còn có

những vướng mắc, nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời, gây nhiều lúng túng,

chậm trễ trong tổ chức thực hiện. Chẳng hạn trong việc xác định giá trị doanh

70

nghiệp, vấn đề đấu giá cổ phần chậm được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn cụ thể,

nên mỗi địa phương chỉ đạo thực hiện khác nhau, thiếu sự thống nhất trong cả nước.

Hay vẫn có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp CPH, thể hiện ở chính

sách cho vay, cho thuê đất đai, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý cho chính

những doanh nghiệp đã cổ phần hóa cũng như các DNNN sẽ thực hiện sắp xếp, cổ

phần hóa.

Các doanh nghiệp cũng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định giá trị

doanh nghiệp. Khi chuyển đổi từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức đa sở

hữu (cổ phần hóa), việc xác định giá trị những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ)

của doanh nghiệp hết sức khó khăn. Cho đến nay, hầu hết các DNNN đã CPH đều

không xác định được hoặc không đưa các đối tượng sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu hàng

hóa, kiểu dáng công nghiệp...) vào việc định giá giá trị doanh nghiệp để CPH.

Việc giải quyết một lượng lớn lao động thiếu việc làm và lao động dôi dư

cũng là một trong những khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát

triển doanh nghiệp nhà nước.

2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa.

a. Những kết quả đạt được.

Sau khi CPH các doanh nghiệp đã thực hiện được các mục tiêu CPH như:

Từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu Nhà nước, cổ phần hóa đã tạo ra loại hình

doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh

nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp, trong đó người lao động trong doanh nghiệp

trở thành người chủ thực sự phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần. Và theo

bình quân kết quả cổ phần hóa trên địa bàn thành phố thì tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ

của Nhà nước là 30,19% (tương ứng 56678 triệu đồng); của người lao động trong

doanh nghiệp là 50,42% (tương ứng 94.643 triệu đồng) và của cổ đông ngoài doanh

nghiệp là 19,39% (tương ứng 36.389 triệu đồng).

71

19.39%

30.19%

Nhà nước

Cán bộ CNV trong công ty

Các nhà đầu tư bên ngoài

50.42%

Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa

Hình 2.2: Cơ cấu sở hữu của DNNN sau cổ phần hóa

Bên cạnh đó, cổ phần hóa đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng nhất

trong cơ cấu lại DNNN, giúp DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào

những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, và cũng là một giải pháp huy động

thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài việc đánh giá

lại khách quan hơn vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, giúp nguồn vốn này tiếp cận

hơn với phương thức thị trường, quá trình CPH DNNN còn huy động được vốn của

các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào doanh nghiệp để kinh doanh đầu tư phát triển

sản xuất. Từ đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không những không

bị giảm đi mà còn được bảo toàn và phát triển nhờ hiệu quả sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp CPH ngày càng tăng.

DNNN sau khi cổ phần hóa đã chuyển sang hoạt động theo luật doanh

nghiệp, tạo động lực mới trong sản xuất kinh doanh và hình thành cơ chế kiểm soát

có hiệu quả hơn của cổ đông và người lao động đối với doanh nghiệp; tiết kiệm

được chi phí quản lý; năng suất lao động tăng; hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng

cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh; thu nhập của người lao động được bảo đảm

và có xu hướng ngày càng tăng; lợi ích của doanh nghiệp, của nhà nước được bảo

đảm. Một số doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị; đổi mới công nghệ; mở

rộng ngành nghề; tăng cường liên doanh liên kết, nên năng lực, hiệu quả sản xuất

kinh doanh tăng đáng kể; tiêu biểu là các công ty cổ phần: Phụ liệu may Nha Trang,

Chế biến lâm thủy sản, Vật tư thiết bị giao thông, Thương mại vật liệu và khí đốt...

So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp về doanh thu thuần bình quân, vốn chủ

sở hữu bình quân, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau

72

thuế/doanh thu và thu nhập bình quân của người lao động, tổng nộp ngân sách nhà

nước... (xem bảng 2.4, 2.5, 2.7, 2.8), chúng ta thấy rằng nhìn chung các chỉ tiêu này

đều tăng so với trước khi cổ phần hóa.

Nhìn vào bảng 2.4 và bảng 2.7 chúng ta có nhận xét là các doanh nghiệp đã

tiến hành cổ phần hóa sớm có sự biến chuyển rõ nét hơn. Chẳng hạn như so với

trước khi CPH, các doanh nghiệp CPH từ năm 1999 đã tăng tỷ lệ lợi nhuận sau

thuế/vốn chủ sở hữu bình quân từ 6,99% lên đến 69,52%; còn các DNNN đã tiến

hành CPH từ năm 2002, tỷ lệ này tăng từ 7,64% lên tới 24,51%.

Trong số các DNNN đã CPH thì các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành nông

lâm, thủy sản có tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân cao nhất

(65,05%), tiếp đến là lĩnh vực xây dựng, giao thông, vận tải (22,24%) và thương

mại, dịch vụ, du lịch (21,98%). Đây là những lĩnh vực có lợi thế của thành phố.

Ngoài ra, CPH còn tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng

cao vai trò làm chủ của doanh nghiệp, làm chủ thật sự của phần vốn góp của mình.

Họ có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp bằng việc dự Đại hội cổ đông để thông

qua điều lệ công ty bầu các thành viên hội đồng quản trị, và Ban kiểm soát, biểu

quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền

Đại hội cổ đông. Nhờ đó nâng cao được tính chủ động và ý thức kỷ luật, tinh thần

tự giác, tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động

của doanh nghiệp.

CPH không những cắt giảm lượng lao động mà thậm chí còn tạo thêm nhiều

việc làm cho người lao động. Sau CPH, doanh nghiệp đã có sự xắp xếp lại lao động

cho phù hợp để có thể phát huy hết năng lực, thay thế những lao động thiếu trách

nhiệm, yếu kém chuyên môn bằng những lao động năng động, sáng tạo, làm việc có

hiệu quả. Vì vậy, trong vài năm đầu khi doanh nghiệp vừa mới CPH xong, việc bố

trí, sắp xếp lao động còn đang ở bước khởi đầu nên số lượng lao động bình quân có

thể giảm xuống, tăng lên hoặc gần như không đổi, như so với năm 2005 số lao động

trong các DNNN CPH năm 2001 (217 so với 209), năm 2002 (300 so với 295), năm

2004 (267 so với 262) giảm xuống, trong khi số lao động trong các DNNN CPH

73

năm 2003 (92 so với 104) lại tăng lên. Tuy nhiên, với sự xắp xếp lao động ngày

càng phù hợp như vậy thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ngày càng

được nâng lên, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô hoạt động của mình. Do đó,

nhu cầu lao động sẽ tăng lên, thậm chí nhiều hơn rất nhiều so với số lượng đã sa

thải trước đây. Điều này thể hiện rõ trong số lượng lao động bình quân của các

DNNN năm 1999 là 226 người, vậy mà sau khi CPH đến nay đã tăng gần gấp đôi là

405 người. Không chỉ tạo thêm việc làm cho người lao động mà từ việc nâng cao

hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp, thu nhập của người lao động còn tăng lên

đáng kể. Doanh nghiệp càng CPH sớm thì đến nay thu nhập bình quân người lao

động càng cao, càng tăng từ 230-600 nghìn đồng. Vì vậy, đời sống của người lao

động được bảo đảm và nâng cao hơn. Đó cũng là một trong những lý do mà người

lao động rất đồng tình và ủng hộ việc DNNN sớm CPH.

Người được lợi không chỉ là người lao động và doanh nghiệp, mà việc

DNNN CPH hoạt động có hiệu quả còn là một nguồn thu đáng kể cho ngân sách

nhà nước. Điểm nổi bật là đa số các doanh nghiệp CPH đều hoạt động hiệu quả

được thể hiện rõ trong phần nộp NSNN. Nếu như trước đây (năm 1999) số tiền nộp

NSNN bình quân các doanh nghiệp chỉ là 679 triệu đồng thì sau CPH đến nay số

tiền này đã tăng lên gần 4,44 lần tức 3041 triệu đồng, hay so với số tiền nộp NSNN

của các doanh nghiệp CPH trong những năm 2002, 2003 đến nay số tiền này đã

tăng gần 1,4-2 lần. Đó là những dấu hiệu đáng mừng trong kết quả đạt được thời

gian qua.

Thêm vào đó, tài chính của công ty cổ phần được minh bạch hơn, công khai

hơn, cùng với những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông, tạo điều

kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách hiệu quả và

khá triệt để.

b. Những mặt còn hạn chế:

-Số lượng doanh nghiệp CPH tuy có tăng đáng kể, nhất là trong những năm

gần đây, nhưng so với yêu cầu đổi mới còn hạn chế, tốc độ cổ phần hóa còn chậm,

74

thời gian thực hiện CPH còn quá dài. Trung bình việc CPH một doanh nghiệp kéo

dài khoảng 300 ngày.

-Việc đa dạng hóa sở hữu trong CPH còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp thuộc

dạng không cần giữ cổ phần chi phối nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ. Nhiều người

lao động trong doanh nghiệp chưa đủ khả năng mua cổ phần với số lượng lớn ngoài

số cổ phần ưu đãi; trong khi đó, không ít người lao động không những không mua

cổ phần, lại bán cổ phần ưu đãi ngay sau khi mua. Việc thu hút cổ đông ngoài

doanh nghiệp cũng chưa được nhiều (mới chỉ đạt 19,39% vốn điều lệ) và chưa rộng

rãi, đặc biệt là chưa có sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài. Rất nhiều doanh

nghiệp thực hiện CPH khép kín, có tới 17 doanh nghiệp không bán cổ phần ra bên

ngoài (chiếm 50% số doanh nghiệp cổ phần).

-Vốn Nhà nước trong các DNNN cổ phần hóa còn quá nhỏ, và việc huy động

vốn trong quá trình CPH doanh nghiệp Nhà nước chưa được nhiều. Quy mô vốn

bình quân tại một doanh nghiệp đã CPH xấp xỉ 5 tỷ đồng. Mục tiêu huy động vốn

ngoài xã hội nhằm tăng quy mô vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh thực hiện

còn rất hạn chế.

c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp:

Việc chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần đã mang lại một môi trường

kinh doanh mới, nhưng từ đây cũng nảy sinh những khó khăn như: đất đai của

doanh nghiệp sau CPH; kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp cổ phần;

vướng mắc về chính sách tài chính, hoàn thuế giá trị gia tăng, hoàn thuế nhập khẩu,

xuất khẩu... Trong đó, vấn đề được doanh nghiệp quan tâm chính là đất đai, tín

dụng và thủ tục hành chính... do sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng đất cũng như

chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng

ký dưới hình thức công ty cổ phần.

Nhìn chung việc sắp xếp DNNN chủ yếu mới thu gọn đầu mối về mặt số

lượng. Cơ cấu và chất lượng các doanh nghiệp sau khi đổi mới, sắp xếp còn nhiều

tồn tại. Vốn ngân sách đầu tư cho các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chủ yếu là

doanh nghiệp tự đi vay để đầu tư nên hiệu quả chưa cao, năng lực sản xuất, khả

75

năng mở rộng thị trường và sức cạnh tranh của nhiều DNNN còn nhiều hạn chế.Bên

cạnh các doanh nghiệp sau khi CPH đã nhanh chóng thích nghi với môi trường mới,

thì vẫn còn một số các doanh nghiệp chưa thực sự thoát khỏi “bầu sữa mẹ”. Các

doanh nghiệp này vẫn chưa thật sự chuẩn bị hành trang cho một sự đổi mới về chất.

Vì vậy, trong thời gian đầu khi mới tiến hành CPH, một số doanh nghiệp hoạt động

vẫn chưa thực sự hiệu quả, tốc độ phát triển còn chậm. Một số doanh nghiệp sau khi

CPH vẫn chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu sản

phẩm, tạo uy tín cho thị trường trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, việc đầu tư

đổi mới công nghệ vẫn chậm, trang thiết bị công nghệ còn lạc hậu so với nhiều

nước trong khu vực. Ngoài một số doanh nghiệp như Dệt Tân Tiến, công ty nước

khoáng Khánh Hòa, công ty Vật liệu may Nha Trang có đầu tư máy móc thiết bị

tiên tiến, trình độ công nghệ tương đối hiện đại, còn đại bộ phận DNNN vẫn còn sử

dụng các thiết bị máy móc, công nghệ lạc hậu so với trong nước và thế giới. Vì vậy,

sản phẩm có giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã, bao bì kém đa dạng, khả năng

cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài không cao. Việc tìm kiếm thị

trường tiêu thụ ở các nước trong khu vực và trên thế giới, công tác tiếp thị đã bước

đầu được quan tâm nhưng chưa được đầu tư đúng mức. Các trang web giới thiệu về

công ty chưa ấn tượng và chưa thể hiện được thế mạnh công ty. Việc tham gia các

hội chợ triển lãm nước ngoài vẫn còn hạn chế. Không ít DNNN chưa thực hiện tốt

quy chế dân chủ tại doanh nghiệp, nhất là công khai tài chính.

Việc bán cổ phần thiếu sự công khai minh bạch, còn khép kín trong nội bộ

doanh nghiệp ở một số trường hợp đã dẫn đến những yếu kém của DNNN sau CPH

và chậm được khắc phục. Với xu hướng CPH trong nội bộ doanh nghiệp, các công

ty cổ phần sẽ không thực hiện được việc mở rộng đối tượng, quyền mua cổ phần

của các nhà đầu tư cũng như việc huy động vốn và thay đổi phương thức quản lý,

nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Hiện nay, chưa có một DNNN đã CPH nào ở TP. Nha Trang có cổ phiếu

niêm yết trên TTCK và khi được hỏi các doanh nghiệp cũng chưa có ý định lên sàn,

nguyên nhân chính là do hầu hết các công ty có vốn điều lệ thấp, không đủ điều

76

kiện niêm yết, bên cạnh đó các công ty cổ phần ngại phải công khai báo cáo tài

chính hàng năm khi được niêm yết trên TTCK, mặt khác những điều kiện, thủ tục

niêm yết, sự can thiệp mang tính hành chính cũng cản trở việc niêm yết trên TTCK

Vì vậy, thị trường ngầm về cổ phiếu đã diễn ra tương đối phổ biến.

Hầu hết các DNNN ở Nha Trang sau khi chuyển thành công ty cổ phần ít

được đổi mới mà do bộ máy lãnh đạo trước đây đảm nhận, cách quản lý điều hành

vẫn như cũ. Việc duy trì đội ngũ lãnh đạo cũ với cách làm và nếp nghĩ cũ không

phù hợp với địa vị pháp lý mới của doanh nghiệp và không phù hợp với cơ chế thị

trường. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp sau khi CPH đã gặp không ít khó khăn về

vốn, phương thức hoạt động và công tác quản lý kinh doanh. Một số khác tìm mọi

cách để thôn tính dần số cổ phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu

khác dưới nhiều thủ tục rất tinh vi nhằm thâu tóm quyền lực. Một số DNNN được

sắp xếp, chuyển đổi theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 còn

thiếu những ràng buộc cần thiết nên ngay sau khi chuyển đổi đã có hiện tượng mua

gom cổ phần vào một số ít cá nhân. Khi chuyển thành công ty cổ phần, chưa quan

tâm đúng mức đến đổi mới phương thức quản trị và điều hành doanh nghiệp, hiệu

quả sản xuất, kinh doanh của một số công ty cổ phần chưa cao.

Vấn đề quản lý nhà nước về hành chính, về phần vốn Nhà nước nắm giữ

cũng gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp sau CPH. Khi còn là DNNN, số vốn

Nhà nước trong doanh nghiệp chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản. Sau CPH, chế

độ cơ quan chủ quản không còn, nhiều doanh nghiệp xử lý vấn đề này hết sức lúng

túng. Như trong vấn đề tiếp cận nguồn vốn sau khi cổ phần hóa, các đơn vị gặp

nhiều khó khăn đối với hệ thống ngân hàng. Khi còn là DNNN, nếu thiếu vốn

doanh nghiệp có thể vay ngân hàng đã có cơ quan chủ quản cấp trên đứng ra bảo

lãnh nhưng sau CPH, doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế

chấp, mà tài sản thế chấp của doanh nghiệp thường lại không có đầy đủ các loại

giấy tờ liên quan, đặc biệt là giấy chứng nhân quyền sử dụng đất đai (sổ đỏ)... Còn

đối với kênh huy động vốn từ thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp đều dè

dặt khi tiếp cận. Bên cạnh đó, những điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản

77

và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với công ty cổ

phần trước và sau khi chuyển đổi. Có khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế

thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng, chưa tạo được môi trường bình đẳng

cho doanh nghiệp CPH. Đây là những trở ngại đối với các công ty cổ phần. Mặt

khác, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như

khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn Nhà nước đầu tư... sau CPH

đã không còn. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có

nhu cầu, ngoài huy động nguồn vốn nội bộ hạn chế, rất nhiều doanh nghiệp phải tự

huy động vốn từ bên ngoài và đây đang là nguồn vốn quan trọng đối với nhiều

doanh nghiệp. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp mang tính tình thế không thể áp dụng

về lâu dài.

Việc giải quyết số lao động dôi dư sau CPH đang là một bài toán không kém

phần nan giải. Trong khi đó, doanh nghiệp lại không được hỗ trợ kinh phí như trước

đây để đào tạo và sắp xếp lại số lao động này khiến cho khả năng hoạt động của

doanh nghiệp bị hạn chế. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ chủ chốt một số doanh nghiệp

còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển

sang công ty cổ phần đã không đảm đương được nhiệm vụ được giao.

Các doanh nghiệp đã CPH chỉ sau khi nộp thuế thu nhập mới được tính cổ

tức, nhưng nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì lãi vay lại được hạch toán vào

chi phí, sau đó mới tính thuế thu nhập. Đây là quy định rất bất bình đẳng, ảnh

hưởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp.

Ngoài ra, nhiều cổ đông nhỏ trong các doanh nghiệp CPH thường không biết

quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong công ty, không am hiểu việc chuyển nhượng cổ

phiếu như thế nào, tỷ lệ ra sao, bởi công tác thông tin còn chưa đầy đủ... Ngoài ra,

hàng loạt các vấn đề về pháp lý, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược có tiềm lực tài

chính, kinh nghiệm quản lý tốt để hợp tác, học hỏi, nhằm củng cố vị thế phát triển...

cũng là những vấn đề bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp sau CPH.

Có thể khẳng định, những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp sau

CPH đi trước gặp phải, nếu không được quan tâm đúng mức sẽ không chỉ cản trở

78

sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần, mà còn trở thành rào cản tâm lý khiến các

doanh nghiệp chưa CPH nhìn vào e ngại, không mặn mà với việc CPH.

2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực

hiện cổ phần hóa.

Tính đến tháng 10/2006, trên địa bàn tp. Nha Trang có 10 DNNN đang tiến

hành cổ phần hóa theo chủ trương của tỉnh Khánh Hòa. Chúng tôi đã tiến hành phát

phiếu điều tra cho cả 10 doanh nghiệp để tìm hiểu những vướng mắc các doanh

nghiệp đang gặp phải với 7 tiêu chí và kết quả khảo sát như bảng 9.

Tiến độ cổ phần hóa DNNN tại tp. Nha Trang gặp khó khăn do nhiều nguyên

nhân, đặc biệt là quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Có 8/10 công ty cho rằng

họ đang gặp vướng mắc rất lớn trong việc định giá doanh nghiệp. Mặc dù giá trị

doanh nghiệp được xác định hợp lý sẽ bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của

Nhà nước, nhưng việc xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn mang tính chủ quan,

hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn. Một số đơn vị kiểm

toán được lựa chọn tham gia quá trình này non yếu về nghiệp vụ gây tình trạng kéo

dài. Hầu hết các DNNN tại tp. Nha Trang nằm trong chủ trương CPH năm 2006

được chỉ định mời trung tâm định giá Miền Nam xác định giá trị doanh nghiệp. Khi

được hỏi lý do chưa tiến hành CPH doanh nghiệp đã than phiền rằng mặc dù trung

tâm đã tiến hành tính toán giá trị doanh nghiệp 2 lần nhưng vẫn chưa thể xác định

giá trị cuối cùng của doanh nghiệp, lúc thì cho rằng giá định ra lần đầu quá rẻ phải

định lại, còn khi định giá lần thứ hai vẫn kêu chưa được vì giá quá cao.

Bảng 2.9: Những vướng mắc các DNNN đang CPH gặp phải:

Số DN Tỷ lệ %

Vướng mắc 1. Phương pháp định giá tài sản (theo qui định của nhà nước) 2. Những trở ngại về hành lang pháp lý 3. Những trở ngại về thủ tục hành chính 4. Thiếu sự ủng hộ từ giám đốc các DNNN 5. Vấn đề phúc lợi xã hội của NLĐ sau CPH 6. Vấn đề xử lý nợ tồn đọng của các DN được chọn CPH 7. Vấn đề tranh chấp đất đai 8 6 3 3 0 6 2 80 60 30 30 0 60 20

Nguồn: kết quả điều tra

79

Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa bắt đầu thực hiện chủ trương CPH các DNNN

hoạt động công ích, việc định giá các DN này đang gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết

các dịch vụ công ích đưa ra đều được Nhà nước quản lý về giá, giá cả mang tính

chất xã hội, giá cả thấp hơn chi phí bỏ ra, không phản ánh đúng giá thành thực sự

của công ty. Chính vì vậy, hàng năm Nhà nước phải bỏ ra một khoản tiền để bù lỗ

cho các DN này. Như vậy, khi xây dựng phương án CPH cho công ty, các chỉ số về

tỷ suất lợi nhuận và cổ tức đều rất thấp, chưa phản ánh đúng khả năng thật sự của

công ty, kết quả là không thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Qua tìm

hiểu về những vướng mắc của các DNNN đang tiến hành CPH chúng tôi được biết,

công ty dịch vụ vận tải Khánh Hòa với chức năng chính là quản lý bến xe và cung

cấp các dịch vụ trong bến xe, nhưng hiện nay giá các dịch vụ này không phản ánh

đúng chi phí đã bỏ ra. Chẳng hạn như, công ty đang quản lý và cung cấp dịch vụ xe

buýt công cộng, giá vé xe buýt thấp hơn so với chi phí công ty phải bỏ ra. Do đó,

hàng năm Nhà nước phải bù lỗ 11 tỷ đồng cho công ty này. Vì vậy, nếu trở thành

CTCP, công ty không thể định giá theo thị trường được vì giá cao người dân sẽ

không đi xe buýt, điều này ảnh hưởng không tốt đến xã hội vì xe buýt đang được

Nhà nước quan tâm khuyến khích làm giảm sự ùn tắc trong giao thông. Chính vì

những vướng mắc trên mà cả hai công ty hoạt động công ích ở tp. NT là công ty

dịch vụ vận tải Khánh Hòa và công ty Môi trường đô thị Nha Trang không thể hoàn

thành kế hoạch CPH trong năm 2006 theo chủ trương của tỉnh.

Thêm vào đó, việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác

định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa (60% doanh nghiệp đồng ý vướng mắc này)

nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa

khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu

ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn chứng từ, không sổ sách nên không thể

xác nhận được. Hơn nữa, sự thiếu cơ chế chung xác định giá đất, đền bù giải tỏa,

khung giá đất cao, ... cũng khiến tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra chậm

chạp. Công ty kinh doanh và phát triển nhà Khánh Hòa cũng đang gặp khó khăn

trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, đó là việc công ty phải tính tiền chuyển

80

quyền sử dụng đất vào giá trị của công ty. Điều 19 trong Nghị định 187/2004/NĐ-

CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định về việc xác định giá trị chuyển quyền

sử dụng đất theo mức giá do UBND tỉnh hoặc Trung ương quy định vào ngày 1

tháng 1 hàng năm, nhưng khung giá này hiện nay quá thấp, chưa phản ánh đúng giá

thị trường. Do đó, công ty vẫn chưa xác định được giá trị doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nhận thức về chủ trương đổi mới, sắp xếp DNNN chưa thống

nhất, đầy đủ. Các cấp, các ngành của tỉnh chưa quan tâm đúng mức, thiếu kiên

quyết trong chỉ đạo, thực hiện, nên công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN

trong thời gian qua ở tỉnh còn diễn ra chậm. Doanh nghiệp giải thích cho lý do về

việc mình có tên trong danh sách CPH từ đầu năm 2005 nhưng đến cuối tháng

10/2006 nhưng chưa tiến hành thực hiện, đó là vì cho đến tận thời điểm này ban đổi

mới DNNN vẫn phải họp để bàn xem có nên CPH hay vẫn giữ nguyên loại hình

công ty. Doanh nghiệp Dệt Tân Tiến than phiền rằng mặc dù đã định giá xong và đã

nộp hồ sơ lên Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước tỉnh từ tháng 8/2006, nhưng đến

nay vẫn chưa nhận được phản hồi. DN cho rằng đây không phải lần đầu tiên doanh

nghiệp bị chậm trễ như vậy. Doanh nghiệp cũng chưa hiểu rõ sự phân định giữa

quyền của Ban đổi mới DNNN và Bộ tài chính trong việc ra quyết định xác định giá

trị doanh nghiệp để tiến hành CPH. Khi tìm hiểu về việc này, chúng tôi được biết do

giá trị DN khá lớn nên Ban đổi mới DNNN đã có công văn xin ý kiến của Bộ tài

chính nhưng đến nay chưa có ý kiến phản hồi. Vì vậy, DN vẫn chưa tiến hành xong

CPH được. Có một thực tế là 100% các DN đang tiến hành CPH được hỏi đều cho

rằng nguyên nhân chính công ty phải CPH là do đề nghị hoặc bắt buộc từ các cơ

quan cấp trên.

Việc tranh chấp đất đai cũng là nguyên nhân dẫn đến sự trì hoãn CPH ở

DNNN. Quy trình CPH ở xí nghiệp khai thác và dịch vụ thủy sản Khánh Hòa đã

hoàn tất nhưng hiện tại xí nghiệp đang có tranh chấp về đất đai, do đó công ty vẫn

chưa tiến hành đại hội cổ đông được.

Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước về sắp xếp, đổi mới DNNN còn có

những vướng mắc, nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi, xử lý kịp thời, gây nhiều

81

lúng túng, chậm trễ trong tổ chức thực hiện, nổi rõ là việc xác định giá trị doanh

nghiệp, nhất là xác định giá đất cho thuê hay vấn đề đấu giá cổ phần chậm được sửa

đổi, bổ sung và hướng dẫn cụ thể, nên các địa phương chỉ đạo thực hiện khác nhau,

thiếu thống nhất chung trong cả nước.

Sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp CPH trên thực tế đã xảy ra,

thể hiện ở chính sách cho vay, cho thuê đất đai, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý

cho chính những doanh nghiệp đã CPH cũng như các DNNN sẽ thực hiện sắp xếp,

cổ phần hóa.

Kết luận chương 2.

Chương này đã nêu được thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề

cổ phần hóa các DNNN ở thành phố Nha Trang. Nhìn chung các doanh nghiệp sau

khi tiến hành cổ phần hóa đều nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh so với trước

đó. Các chỉ số về doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận

sau thuế/doanh thu thuần bình quân, lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân,

thu nhập bình quân người lao động, tổng nộp ngân sách nhà nước, số lao động bình

quân... của doanh nghiệp đều tăng lên đáng kể. Đây là những kết quả rất khả quan

và khẳng định thêm chủ trương cổ phần hóa của nhà nước là đúng đắn và tất yếu

trong cơ chế thị trường. Bên cạnh những mặt đã đạt được, luận án cũng nêu lên

những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa

cũng như những vướng mắc mà các doanh nghiệp đang trong tiến trình CPH phải

đối mặt. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng

mắc trong chương 3.

82

CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG

CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ

NƯỚC TẠI TP. NHA TRANG

3.1. Chủ trương cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang

Thực hiện chủ trương của chính phủ, từ năm 1990 đến nay tỉnh Khánh Hòa

và tp. Nha Trang đã tiến hành 3 đợt sắp xếp DNNN. Đợt 1 từ 1990 đến 1993, đợt 2

từ 1994 đến 1997 và đợt 3 từ 1998 đến nay. Bắt đầu từ năm 1998 tỉnh đã chủ trương

cổ phần hóa thí điểm một số DNNN làm ăn có hiệu quả, sau đó mở rộng đối tượng

CPH sang các doanh nghiệp khác.

Từ năm 1998 đến nay, trên địa bàn tp. Nha Trang đã có 34 DNNN cổ phần

hóa, trong số đó có 5 doanh nghiệp bộ phận. Theo chủ trương của tỉnh Khánh Hòa

trong năm 2006 phải tiến hành cổ phần hóa 12 DNNN tại tp. Nha Trang và số

DNNN còn lại là 13 doanh nghiệp. Nhưng tính đến tháng 10/2006 tp. Nha Trang

mới chỉ CPH xong 3 DNNN. Như vậy, trên địa bàn tp. Nha Trang vẫn còn 9 DNNN

chưa tiến hành xong CPH như kế hoạch đề ra.

Hiện nay, theo tinh thần mới mở rộng diện CPH của Chính phủ, tỉnh có kế

hoạch chuyển đổi tiếp một số doanh nghiệp sang hình thức cổ phần, chỉ giữ lại dưới

10 doanh nghiệp là công ty 100% vốn Nhà nước. Trong khuôn khổ bài luận văn

này, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh

tiến trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tp. Nha Trang.

3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp.

Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia

trên thế giới, bài học rút ra về kinh nghiệm cổ phần hóa cho Việt Nam, thực trạng

cổ phần hóa và những vướng mắc của các doanh nghiệp đã tiến hành CPH cũng như

các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện CPH, các giải pháp được đưa ra

nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước trên địa

bàn tp. Nha Trang.

3.3. Đề xuất một số giải pháp.

3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô

83

3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH:

Chúng ta thấy rằng, CPH DNNN là hoạt động mang tính trao đổi mua bán,

trong đó bên bán là Nhà nước do các cấp được ủy quyền khác nhau đại diện và bên

mua là công dân với các chủ thể đa dạng như cá nhân, pháp nhân, tổ chức đoàn thể

trong nước và nước ngoài... Trong mối quan hệ mua bán này, lợi ích của mỗi bên

không nhất thiết phải tuyệt đối thống nhất với nhau. Nhà nước muốn bán được giá

cao còn người mua lại muốn mua rẻ để có lợi sau này. Do đó, giá cả cổ phiếu phải

được sự chấp nhận của cả bên mua lẫn bên bán thông qua thỏa thuận và cơ chế tạo

ra giá thỏa đáng ấy chính là giá thị trường trên cơ sở cung - cầu và cạnh tranh.

Như vậy, nếu xác định hợp lý giá trị doanh nghiệp sẽ bảo đảm lợi ích của cả

nhà đầu tư và Nhà nước. Nhưng trên thực tế, việc xác định giá trị doanh nghiệp

trong thời gian qua với cơ chế định giá theo NĐ 28/CP, NĐ 44/CP, NĐ 64/CP rồi

đến NĐ187/CP cho thấy quá trình xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn mang tính

chủ quan, hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn và thiếu tính

thị trường.

Hiện nay theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ

về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần và Thông tư 126/2004 TT-

BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP, quy định hai phương pháp

xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền

chiết khấu. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp ở Nha Trang chỉ mới sử

dụng phương pháp tài sản trong định giá. Các phương pháp định giá doanh nghiệp

mặc dù đã được cải tiến so với trước đây nhưng vẫn nghiêng về tính giá trị trên sổ

sách. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần

dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn

chứng từ, sổ sách nên không thể xác nhận được. Bên cạnh đó, do thiếu thông tin về

thị trường để xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, máy móc, đồng thời do chưa có

tiêu chuẩn cụ thể để định giá thương hiệu, uy tín, mẫu mã của doanh nghiệp nên

chưa tính hết được giá trị tiềm năng của doanh nghiệp. Việc tính giá trị tiềm năng

như thương hiệu, sức phát triển tương lai chỉ được áng chừng rồi cộng vào chứ

84

không có cơ sở xác thực. Trong khi đó, phương pháp dòng tiền chiết khấu ưu việt

hơn lại chưa được áp dụng rộng rãi, một phần do phương pháp này tính toán phức

tạp hơn, phần do tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp không muốn giá trị công ty

được đánh giá quá cao sẽ khó bán cổ phần, bất lợi trong việc phân chia cổ phần ưu

đãi trong nội bộ doanh nghiệp.

Bên cạnh đó việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác

định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn

đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này

vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Trong hội nghị tư vấn giữa kỳ các nhà tài trợ cho Việt Nam ở Nha Trang, các

chuyên viên cổ phần hóa đã nhận định là cần “phải tổ chức thị trường đấu giá cổ

phần công khai hơn, cả trong quy định lẫn thực hiện, để đông đảo quần chúng có

thể tham gia. Nếu không sẽ tạo ra sự tiêu cực và lạm dụng trong cơ chế mới”. Càng

nhiều nhà đầu tư tham gia càng giảm bớt sự thông đồng làm dìm giá doanh nghiệp.

Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp khi chuyển đổi thành công ty

cổ phần phải được các tổ chức chuyên nghiệp (công ty định giá doanh nghiệp, công

ty tư vấn tài chính, công ty kiểm toán...) tính toán đặt ra một mức giá làm căn cứ

đưa ra chào thầu, sau đó trên cơ sở bỏ thầu mà xác định được mức giá cổ phiếu.

Như vậy giá cổ phiếu sẽ do cung cầu trên thị trường quyết định.

Ở nước ta hiện nay, các tổ chức dịch vụ thị trường tài chính còn yếu kém do

thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh. Do đó, trong thời gian đầu, chúng ta

có thể mời thầu các cổ đông chiến lược, vì đây mới là yếu tố hiệu quả và đổi mới

của công ty cổ phần sau này. Sau đó, căn cứ vào giá thầu có tham chiếu là giá tính

toán để quyết định giá trị DNNN. Theo cách làm này có thể xảy ra một số doanh

nghiệp sau CPH giá tăng cao. Nhưng nếu giá tăng cao do năng lực quản trị và chiến

lược của công ty cổ phần tốt thì đó không phải là thất thoát của Nhà nước. Cũng có

thể xuất hiện nhiều DNNN không bán được vì doanh nghiệp quá kém, không thu

hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, khi đó cần giảm giá hay bán với giá ưu

đãi. Thậm chí với những DNNN dù có chuyển sang hình thức công ty cổ phần cũng

85

không thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thì nên chuyển qua xử lý

bằng các hình thức khác như giao, bán, khoán, cho thuê thậm chí giải thể, phá sản.

Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp CPH là nguồn cung cấp hàng hoá

chủ yếu cho TTCK. Khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán thì giá

cổ phiếu chịu tác động rất lớn bởi giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp nên

được tính theo nguyên tắc khả năng sinh lợi của doanh nghiệp mà được sự chấp

nhận của người bán lẫn người mua. Giá trị doanh nghiệp phải bao gồm cả lợi ích vô

hình như vị trí kinh doanh, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, tính chất độc

quyền về sản phẩm,… Nếu chúng ta chỉ xác định giá trị doanh nghiệp một cách

cứng nhắc thì những thông tin xác thực về doanh nghiệp sẽ không đến được nhà đầu

tư và công ty sẽ bị thiệt trong việc thu hút nguồn vốn. Chúng ta có thể thực hiện bán

đấu giá cổ phiếu thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đảm bảo tính minh

bạch và phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp hoặc thuê chuyên gia và các doanh

nghiệp định giá nước ngoài về hỗ trợ định giá. Đa số các doanh nghiệp được CPH ở

tp.Nha Trang là những doanh nghiệp nhỏ nên phương pháp tốt nhất là để thị trường

quyết định giá bán thông qua đấu thầu, cạnh tranh.

Một vấn đề nữa là các phương pháp định giá theo quy định của Chính phủ

chỉ đề cập đến lợi thế doanh nghiệp thông qua việc so sánh giữa lợi nhuận bình

quân 3 năm gần nhất và lãi suất trái phiếu Chính phủ. Cách xác định lợi thế doanh

nghiệp như vậy chưa phản ánh đúng thực tế những thuận lợi cũng như những khó

khăn của các doanh nghiệp khác nhau, hoạt động trên những địa điểm khác nhau.

Chẳng hạn, trên cùng địa bàn thành phố Nha Trang, nhưng nếu các doanh nghiệp,

nhất là các công ty hoạt động trong lĩnh vực du lịch (các khách sạn, nhà hàng…),

các công ty thương mại nằm trên những tuyến đường khác nhau sẽ có những lợi thế

khác nhau, thậm chí với những vị trí đất rất thuận lợi thì địa tô của nó có thể nuôi

sống sung túc những cổ đông của các công ty cổ phần sau chuyển đổi. Vì vậy Nhà

nước nên đưa yếu tố lợi thế địa điểm vào trong giá trị doanh nghiệp, có như vậy,

mới phản ánh đầy đủ lợi thế của từng doanh nghiệp, từ đó xác định đúng giá trị thực

của từng doanh nghiệp.

86

3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp:

Một trong những mục tiêu của cổ phần hóa là huy động vốn của toàn xã hội,

bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư

đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Khi công ty muốn thu hút vốn đầu tư

từ các nhà đầu tư bên ngoài thì trước hết công ty phải công khai hóa thông tin tài

chính của mình để các nhà đầu tư xem xét, đánh giá và đưa ra các quyết định đầu

tư. Nhưng trên thực tế hiện nay của các doanh nghiệp thuộc tỉnh Khánh Hoà nói

chung hay tp. Nha Trang nói riêng là các thông tin tài chính luôn được giữ bí mật

hoặc chỉ cung cấp rất hạn chế, do vậy mà các nhà đầu tư không nắm bắt đầy đủ

thông tin nên chưa dám mạnh dạn đầu tư vào công ty. Dẫn đến kết quả là cổ phần

của doanh nghiệp chủ yếu do Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp nắm

giữ, còn nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp chỉ nắm tỷ lệ rất nhỏ, chưa thu hút được sự

quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi không công khai thông tin tài chính

của doanh nghiệp thì không đảm bảo tính công bằng trong mua bán, không bảo vệ

các nhà đầu tư cũng như không hình thành nên giá trị thực của cổ phiếu.

Các thông tin về tài chính cần công khai bao gồm: thông tin về cấu trúc vốn,

cơ cấu tài sản, hiệu quả sản xuất kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu

nhập, dự toán xu hướng vận động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng trong tương

lai. Để thực hiện được điều này, tỉnh Khánh Hoà cần ra quyết định bắt buộc các

công ty cổ phần theo định kỳ hàng năm phải báo cáo tình hình tài chính của mình,

trong đó bao gồm những thông tin về: hình thức công khai, thời gian công khai, số

liệu công khai đã được cơ quan kiểm toán xác nhận. Có như vậy, mới giảm thiểu

tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, tạo nhiều cơ hội để thu hút vốn

đầu tư từ bên ngoài để phát triển doanh nghiệp.

Để các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động kinh doanh thật sự có

hiệu quả, có thay đổi căn bản về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô

hình công ty cổ phần thực thụ, các doanh nghiệp cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn

thiện chiến lược kinh doanh của mình; phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo

động lực cho tập thể và cá nhân người lao động; bên cạnh đổi mới công tác quản trị

87

và tổ chức sản xuất, cũng cần phải đổi mới hơn nữa kỹ thuật- công nghệ và tăng

cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội.

3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty

sau cổ phần hóa

Sau CPH, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có những thay đổi căn bản về tổ

chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần thực thụ. Các

doanh nghiệp này chưa có hay rất thiếu những cổ đông chiến lược mới. Để CPH

thực sự là giải pháp đúng đắn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh

tranh cho DNNN, các doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho người lao động và các

nhà đầu tư làm chủ thật sự của công ty, thay đổi phương pháp quản lý, tạo động lực

thúc đẩy công ty kinh doanh có hiệu quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị

trường.

Bên cạnh đó, chính phủ cần có kế hoạch tư vấn, hỗ trợ kịp thời khi các doanh

nghiệp gặp khó khăn, quản lý và phân phối vốn vay ưu đãi từ nguồn vốn nhà nước

thu về trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, giúp công ty cổ phần đầu tư đổi mới

công nghệ.

Trước xu thế hội nhập, chiến lược kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự tồn tại và

phát triển của một doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa khả năng

cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sau CPH phải tiếp tục

điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của mình; đồng thời đổi

mới kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại; chủ động đổi mới tổ chức quản lý,

tổ chức lại sản xuất, kinh doanh; tổ chức lao động, tiền lương, thu nhập; tăng cường

đào tạo nhằm nâng cao tay nghề của người lao động, từ đó nâng cao năng suất lao

động, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng, nâng cao khả năng

cạnh tranh; tổ chức tốt mạng lưới phân phối và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp,

giữ vững thị trường truyền thống và khai thác thêm những thị trường tiềm năng…

Có như vậy thì các công ty cổ phần trên địa bàn tp. Nha Trang mới thu hút

được sự quan tâm hơn nữa của các nhà đầu tư. Với việc xác định chiến lược kinh

doanh đúng đắn, các công ty có thể khai thác nhiều cơ hội và tạo dựng, phát huy thế

88

mạnh để thành công trong kinh doanh, đồng thời định hướng rõ mục tiêu trước mắt và

lâu dài, từ đó khuyến khích các thành viên trong công ty nâng cao tinh thần trách nhiệm.

Chẳng hạn như, ngành du lịch Khánh Hòa cần phát triển theo hướng bền

vững, đảm bảo các mục tiêu cơ bản sau:

(cid:131) Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế: đảm bảo sự tăng trưởng, phát

triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của du lịch, góp phần tích cực vào sự phát triển

kinh tế của tỉnh Khánh Hoà.

(cid:131) Đảm bảo sự bền vững về tài nguyên và môi trường, thể hiện ở việc sử

dụng hợp lí các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử

dụng tài nguyên du lịch cho phát triển cần được quản lí sao cho không chỉ thỏa mãn

nhu cầu hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch qua nhiều thế hệ.

Bên cạnh đó trong quá trình phát triển các tác động của hoạt động du lịch đến môi

trường sẽ được hạn chế đi đôi với những đóng góp cho các nỗ lực tôn tạo tài nguyên bảo vệ môi trường.

Xác định đúng đắn chiến lược kinh doanh còn giúp các nhà quản lý chủ động

trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, nắm bắt nhanh, chính xác thông tin để

khai thác những cơ hội, giảm bớt những rủi ro và sử dụng tốt hơn các nguồn lực tài

chính của doanh nghiệp, từ đó đạt được hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao, duy

trì sự thành công liên tục của doanh nghiệp một cách toàn diện. Tuy nhiên, để xây

dựng phương án kinh doanh có tính thuyết phục thì:

a.Các nhà quản lý phải nâng cao khả năng thu thập, phân tích và xử lý thông

tin sao cho hiệu quả nhất; nâng cao trình độ xây dựng chiến lược, dự báo, nắm chắc

thông tin thị trường, có giải pháp xử lý. Các nhà quản trị cần phân tích kỹ lưỡng các

yếu tố môi trường bên ngoài mà doanh nghiệp phải đối mặt (các cơ hội và nguy cơ)

cũng như các yếu tố thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp (các mặt mạnh và mặt

yếu). Từ đó các nhà quản lý có cơ sở để đưa ra những phương án kinh doanh hiệu

quả nhất cho doanh nghiệp mình. Đây là một việc làm khó đòi hỏi nhiều thời gian,

công sức và chi phí.

89

b.Doanh nghiệp cần xác định các mục tiêu tổng quát về hoạt động kinh

doanh của công ty trong dài hạn, trên cơ sở đó, đưa ra những mục tiêu cụ thể phù

hợp trong ngắn hạn.

c.Khi xây dựng chiến lược kinh doanh, các nhà quản lý cần đưa ra nhiều

phương án để lựa chọn khi cần thiết vì trong quá trình phân tích và dự đoán có thể

xảy ra sai lệch do trong thực tế môi trường kinh doanh luôn luôn thay đổi, biến

động không ngừng.

Trong xây dựng chiến lược kinh doanh cần phải chú ý các điểm sau:

-Chiến lược kinh doanh phải gắn với thị trường:

+ Các doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở điều tra,

nghiên cứu nhu cầu trị trường và khai thác tối đa các thời cơ, các thuận lợi, các

nguồn lực để sản xuất ra các sản phẩm với số lượng, chất lượng, chủng loại và thời

hạn thích hợp.

Chẳng hạn như, đối với các doanh nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn tp.

Nha Trang cần chú trọng đầu tư sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có giá trị gia

tăng như: cá ngừ xông khói, ghẹ bọc thịt, tôm duỗi, sumi và sasumi, mực trái

thông…, để phục vụ cho các thị trường xuất khẩu khó tính như EU, Mỹ, Nhật...

Có thể coi “chiến lược phải thể hiện tính làm chủ thị trường của doanh

nghiệp” là phương châm, là nguyên tắc quản trị chiến lược của doanh nghiệp.

+ Việc xây dựng chiến lược kinh doanh phải làm tăng được thế mạnh của

doanh nghiệp, dành ưu thế cạnh tranh trên thị trường.

+ Chiến lược phải thể hiện tính linh hoạt cao và vì thế xây dựng chiến lược

chỉ đề cập những vấn đề khái quát, không cụ thể.

-Khi xây dựng chiến lược kinh doanh phải tính đến vùng an toàn trong kinh

doanh, hạn chế rủi ro tới mức tối thiểu

-Trong chiến lược kinh doanh cần xác định mục tiêu then chốt, vùng kinh

doanh chiến lược và những điều kiện cơ bản để đạt được mục tiêu đó.

-Chiến lược kinh doanh phải thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai loại chiến

lược: chiến lược kinh doanh chung (những vấn đề tổng quát bao trùm, có tính chất

90

quyết định nhất) và chiến lược kinh doanh bộ phận (những vấn đề mang tính chất

bộ phận như chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược tiếp thị, chiến lược

giao tiếp khuyếch trương,...).

-Chiến lược kinh doanh không phải là bản thuyết trình chung chung mà phải

thể hiện bằng những mục tiêu cụ thể, có tính khả thi với mục đích đạt hiệu quả tối

đa trong sản xuất kinh doanh.

Một vấn đề hết sức quan trọng là nếu doanh nghiệp chỉ xây dựng chiến lược

kinh doanh thì chưa đủ, vì dù cho chiến lược xây dựng có hoàn hảo đến đâu nếu

không triển khai tốt, không biến nó thành các chương trình, chính sách kinh doanh

phù hợp với từng giai đoạn phát triển cũng sẽ trở thành vô ích, hoàn toàn không có

giá trị làm tăng hiệu quả kinh doanh mà vẫn phải chịu chi phí kinh doanh cho công

tác này. Cần lưu ý rằng, trước khi xây dựng phương án kinh doanh các doanh

nghiệp cần lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược cũng như dự kiến số lượng cổ phần

bán cho các nhà đầu tư này.

3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá

nhân người lao động.

Ngay sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp phải thích nghi với môi trường kinh

doanh đầy cạnh tranh, rủi ro và không ngừng biến động. Các doanh nghiệp lúc này

không còn được bao cấp như trước nữa nên để tồn tại và phát triển mạnh trong nền

kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực vươn lên,

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn như vậy, doanh nghiệp phải thực sự

thay đổi về chất so với trước, không chỉ bổ sung và hoàn thiện một chiến lược kinh

doanh đúng đắn mà bên cạnh đó đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động giỏi, nhiệt

tình, với đội ngũ ban lãnh đạo thực sự đổi mới trong tư duy, đổi mới phương thức

quản trị và điều hành doanh nghiệp. Đội ngũ nhân sự của doanh nghiệp sẽ quyết

định năng suất lao động, đồng thời nó cũng quyết định đến quá trình đổi mới công

nghệ và hoàn thiện sản phẩm cũng như khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối

với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Vấn đề con người trong lao động sản

91

xuất và hoạt động quản lý cực kỳ quan trọng, quyết định lợi thế nhiều mặt của

doanh nghiệp.

Tuy nhiên để có được một đội ngũ lao động giỏi, nhiệt tình trong công việc,

đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính sách nhân sự phù hợp, phải xây dựng được

văn hóa tổ chức đặc trưng cần thiết cho công ty mình. Để làm được điều này, trước

hết các doanh nghiệp nên vận dụng linh hoạt các văn bản hướng dẫn về thang bảng

lương và thực hiện việc trả thù lao cho người lao động phù hợp với điều kiện của thị

trường sức lao động nhằm giữ chân những lao động giỏi, tay nghề cao. Nói cách

khác, doanh nghiệp chi trả mức lương cho người lao động dựa trên năng lực và hiệu

quả công việc của họ, thay vì dựa vào chức vụ và thâm niên như trong các DNNN

hiện nay. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần có sự đầu tư thỏa đáng để phát

triển quy mô, bồi dưỡng lại và đào tạo mới lực lượng lao động, đội ngũ trí thức có

chất lượng cao trong các doanh nghiệp, cần nâng cao nghiệp vụ kinh doanh, trình

độ tay nghề của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ sư, công nhân kỹ thuật để khai thác tối

ưu nguyên vật liệu, năng suất máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến,...

Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quản trị, ban giám đốc cần được tuyển chọn

kỹ càng, có trình độ hiểu biết cao. Doanh nghiệp nên triển khai việc hội đồng quản

trị ký hợp đồng thuê giám đốc giỏi điều hành doanh nghiệp. Để hoạt động kinh

doanh có hiệu quả, giám đốc phải là người năng động, có kiến thức về công nghệ,

khoa học, cũng như về giao tiếp xã hội, tâm lý, kinh tế,... và biết vận dụng linh hoạt

những kiến thức đó vào tổ chức, đồng thời có khả năng đưa ra các quyết định đúng

đắn, kịp thời trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.

Về công tác quản trị nhân sự, tiến trình cổ phần hóa đòi hỏi doanh nghiệp

phải cơ cấu và bố trí lại lực lượng lao động, điều này tạo điều kiện cho người lao

động có thể được làm việc theo đúng chuyên môn của mình. Doanh nghiệp phải

hình thành nên cơ cấu lao động tối ưu, bảo đảm đủ việc làm trên cơ sở phân công và

bố trí lao động hợp lý, sao cho phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của

mỗi người. Trước khi phân công bố trí hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra tay

nghề. Khi giao việc cần xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm.

92

Đặc biệt công tác trả lương, thưởng, khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao

động luôn là vấn đề hết sức quan trọng.

Động lực tập thể và cá nhân người lao động là yếu tố quyết định tới hiệu quả

kinh tế. Động lực cũng là yếu tố để tập hợp, cố kết người lao động lại. Trong doanh

nghiệp, động lực cho tập thể và cá nhân người lao động chính là lợi ích, là lợi nhuận

thu được từ sản xuất có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp cần phân phối lợi nhuận

thỏa đáng, đảm bảo công bằng, hợp lý, thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt cần có

chế độ đãi ngộ thỏa đáng với những nhân viên giỏi, trình độ tay nghề cao hoặc có

thành tích, có sáng kiến,... Đồng thời cũng cần nghiêm khắc xử lý những trường

hợp vi phạm. Đối với các DNNN sau CPH, việc bán cổ phần cho người lao động

cũng là một trong những giải pháp gắn người lao động với doanh nghiệp bởi lẽ cùng

với việc mua cổ phần người lao động không chỉ có thêm nguồn thu nhập từ doanh

nghiệp mà còn có quyền nhiều hơn trong việc tham gia vào các công việc của DN.

3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất

Khi còn là DNNN thì bộ máy nhân sự khá cồng kềnh, các bộ phận hoạt động

chồng chéo lên nhau; sau khi chuyển sang công ty cổ phần, các doanh nghiệp cần

đổi mới tổ chức quản lý, đổi mới quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tổ chức

lại bộ máy sao cho gọn nhẹ, năng động, linh hoạt trước thay đổi của thị trường. Cơ

cấu tổ chức phải thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, phải được

xây dựng phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp (qui mô, ngành nghề kinh

doanh, đặc điểm quá trình tạo ra kết quả,...) thì mới đảm bảo cho việc quản trị

doanh nghiệp có hiệu quả được.

Sau khi xây dựng lại cơ cấu tổ chức linh hoạt, gọn nhẹ hơn, công ty cần nâng

cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp; đồng thời cần xác định

rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ trách nhiệm, quan hệ giữa các bộ phận

với nhau, đưa hoạt động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tránh sự chồng chéo giữa

chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận. Doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì

và đảm bảo sự cân đối tăng cường quan hệ giữa các khâu, các bộ phận trong quá

93

trình sản xuất,... mới có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao

tính chủ động sáng tạo trong sản xuất.

3.3.1.6. Đổi mới kỹ thuật- công nghệ

Có thể nói một trong những nguyên nhân làm hiệu quả kinh tế ở các DNNN

đã CPH trên địa bàn tp. Nha Trang chưa cao là do đa phần trang thiết bị, kỹ thuật -

công nghệ chưa hiện đại. Do vậy, vấn đề nâng cao kỹ thuật, đổi mới công nghệ là

vấn đề cần được quan tâm sâu sắc ở các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp tùy

thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh và mục tiêu kinh doanh mà đưa ra chính sách

đầu tư công nghệ phù hợp. Việc đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh

của sản phẩm và doanh nghiệp cần được tiến hành một cách chủ động, không để

trường hợp khi khách hàng đến đặt mặt hàng mới, đòi hỏi công nghệ mới, thì mới đi

tìm công nghệ mới.

Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp

chế biến xuất khẩu thủy sản ở tp. Nha Trang cần đầu tư các thiết bị hiện đại như:

dây chuyền rửa - phân cỡ, băng chuyền tự động, tủ cấp đông thế hệ mới, máy đóng

gói qua hút chân không, thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh và các máy chế biến

thực phẩm chuyên dụng khác...

Tuy nhiên, để đổi mới và phát triển kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có đầu tư

lớn, phải có thời gian dài và doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau:

- Dự đoán đúng nhu cầu của thị trường và của doanh nghiệp về những loại

sản phẩm doanh nghiệp có ý định đầu tư phát triển. Dựa trên những dự đoán này

doanh nghiệp đưa ra những mục tiêu cụ thể trong đổi mới công nghệ.

- Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, mỗi doanh nghiệp đưa ra biện pháp đổi mới

công nghệ phù hợp, lựa chọn cho mình công nghệ thích hợp, tránh nhập công nghệ

lạc hậu, lỗi thời, tân trang lại, gây ô nhiễm môi trường...

- Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì doanh nghiệp cần sử dụng vốn có

hiệu quả, đúng mục tiêu nguồn vốn đầu tư công nghệ. Muốn như vậy, công ty cần

có giải pháp đúng đắn về huy động và sử dụng vốn, đặc biệt là vốn cho đổi mới

công nghệ.

94

- Các doanh nghiệp cần xem công nghệ như một loại hàng hóa đặc biệt đem

lại nhiều tiềm năng to lớn có thể khai thác trong quá trình sử dụng thay vì chỉ tiếp

nhận công nghệ được chuyển giao như hàng hoá tiêu dùng thông thường. Bên cạnh

đó, doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ

nhập từ bên ngoài, dẫn tới có khả năng tạo ra công nghệ và tham gia chuyển giao

công nghệ cho nơi khác.

Thêm vào đó, trong đổi mới công nghệ nên quan tâm đến nghiên cứu sử

dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế vì giá trị nguyên vật liệu thường chiếm tỷ

trọng cao trong giá thành của nhiều loại sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, việc sử dụng

nguyên vật liệu mới thay thế còn có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng

sản phẩm.

Máy móc, trang thiết bị cũng là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng và

hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp cần bảo quản máy móc thiết bị,

đảm bảo cho máy móc luôn hoạt động đúng kế hoạch và tận dụng công suất của

thiết bị máy móc.

Đổi mới công nghệ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực

hiện tốt công tác kiểm tra kỹ thuật và nghiệm thu sản phẩm, tránh để cho những sản

phẩm chất lượng kém ra tiêu thụ trên thị trường.

3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sản xuất của các doanh

nghiệp mở rộng theo hướng sản xuất lớn, xã hội hóa và mở cửa làm cho mối quan

hệ lẫn nhau trong xã hội ngày càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết sử dụng mối

quan hệ sẽ khai thác được nhiều đơn hàng, tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao cần tranh thủ tận dụng các lợi thế, hạn chế khó

khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Đó là:

-Giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng: là mục đích ý đồ chủ yếu trong

kinh doanh, vì khách hàng là người tiếp nhận sản phẩm, người tiêu dùng sản phẩm

của doanh nghiệp. Khách hàng có được thỏa mãn thì sản phẩm mới được tiêu thụ

một cách nhanh chóng và rộng rãi trên thị trường.

95

-Tạo ra sự tín nhiệm, uy tín trên thị trường đối với doanh nghiệp về chất

lượng sản phẩm, tác phong kinh doanh, tinh thần phục vụ,... bất cứ doanh nghiệp

nào muốn có chỗ đứng trên thị trường đều phải gây dựng sự tín nhiệm. Đó là quy

luật bất di bất dịch để tồn tại trong cạnh tranh trên thương trường.

-Giải quyết tốt mối quan hệ với các đơn vị cung ứng để họ trở thành khách

hàng quen thuộc của công ty nhằm tiết kiệm được chi phí và ổn định nguồn đầu vào

cho doanh nghiệp.

-Giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, các cơ quan lãnh đạo

doanh nghiệp,... thông qua các tổ chức này để mở rộng ảnh hưởng của doanh

nghiệp, tạo cho khách hàng, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp

nhiều hơn, đồng thời bảo vệ uy tín và sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp.

-Có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên sinh thái: bảo vệ rừng đầu nguồn,

chống sự ô nhiễm của bầu không khí, nguồn nước, sự bạc mầu của đất đai trong

phát triển sản xuất kinh doanh...

3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô:

Để đẩy nhanh công tác cổ phần hóa, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác

tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà

nước về cổ phần hóa; bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và đơn

giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình CPH; đồng thời nâng cao hơn

nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa, tạo “sân chơi”

bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp... Hơn nữa, đẩy mạnh việc bán cổ phần,

niêm yết và phát triển TTCK cũng là giải pháp hỗ trợ cho tiến trình CPH DNNN.

3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ

trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa:

Tâm lý lẩn tránh, bảo thủ, trì trệ vẫn đang tồn tại ở một số cán bộ quản lý

Nhà nước, cán bộ quản lý DNNN và cả người lao động trong các doanh nghiệp cần

CPH trên địa bàn tp. Nha Trang. Nhận thức về cổ phần hoá DNNN chưa đầy đủ và

thống nhất, vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời. Hầu

hết doanh nghiệp trên địa bàn tp. Nha Trang không muốn hoặc tìm cách né tránh

96

thực hiện CPH do chưa thấy được lợi ích của cổ phần hoá đem lại và muốn được an

toàn hơn cũng như không muốn mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những

lợi thế mang lại quá nhiều lợi ích đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà chỉ

DNNN mới có được. Do đó, khi các doanh nghiệp được chỉ định cổ phần hóa thì

thực hiện một cách miễn cưỡng, dẫn đến hiệu quả không cao trong phương thức

quản trị, điều hành doanh nghiệp cũng như trong sản xuất kinh doanh.

Để khắc phục thực trạng này, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền,

giải thích, vận động chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa cho

các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Cụ thể:

+ Bộ tài chính cần phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như các

bộ, ngành, địa phương, tổng công ty tiếp tục tổ chức tập huấn, phổ biến tuyên

truyền sâu rộng chủ trương cổ phần hoá cho những đối tượng tham gia công tác cổ

phần hóa, phải làm cho các doanh nghiệp ý thức được tầm quan trọng của cổ phần

hoá trong lộ trình hội nhập. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về

đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH.

+ Nên đa dạng hóa các hình thức và nội dung tuyên truyền, lựa chọn các hình

thức tuyên truyền phù hợp, kết hợp phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông

tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về cổ phần hóa. Thời gian qua chúng ta

chủ yếu mới tuyên truyền thiên về thuyết phục, vận động doanh nghiệp tự nguyện

CPH. Giờ đây cần mở rộng cách thức và nội dung tuyên truyền thông qua giáo dục

kiến thức về công ty cổ phần, về quyền và trách nhiệm của cổ đông, của Đại hội cổ

đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành cho các doanh nghiệp,

đây là những kiến thức cần thiết để người lao động và các nhà quản lý doanh nghiệp

tự giác lựa chọn CPH cũng như đủ sức điều hành công ty sau cổ phần hóa hoạt động

có hiệu quả.

+ Thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi

pháp luật nói chung và đặc biệt luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư, luật Thương mại,

luật Cạnh tranh… làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý doanh

97

nghiệp và người lao động, các cổ đông, người góp vốn hiểu và thực hiện đầy đủ,

đúng quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình mà pháp luật quy định.

+ Tuyên truyền phổ biến các tấm gương doanh nghiệp sau CPH hoạt động

hiệu quả để kích thích các doanh nghiệp thuộc diện CPH tích cực hơn nữa. Thường

xuyên kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm để chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu quả chương

trình, kế hoạch CPH DNNN. Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh

nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của

các doanh nghiệp. Qua đó làm cho doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng, những

bài học cụ thể từ cổ phần hóa. Làm tốt công tác này sẽ có tác động làm thay đổi

nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong

của doanh nghiệp.

+ Các chủ trương chính sách về cổ phần hóa của Nhà nước cũng phải được

truyền tải đến tận người lao động để mỗi người biết lựa chọn phương thức hành

động tốt nhất cho mình.

+ Cần đưa các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, về thị trường chứng

khoán, về công ty cổ phần, và cổ phần hóa DNNN... vào các chương trình đào tạo

từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành một cách có hệ thống nhận thức về nền

kinh tế thị trường cho thế hệ tương lai của đất nước.

3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN

Bộ tư pháp cần liên tục rà soát các thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện

những bất hợp lý, mâu thuẫn, những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi; đồng

thời đề xuất giải pháp tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng trong việc thực hiện

cổ phần hóa.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình CPH DNNN theo hướng

đơn giản, gọn nhẹ hơn, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình

CPH DNNN. Đặc biệt là quy trình về kiểm kê tài sản, xác nhận nợ, xử lý tài chính

và định giá doanh nghiệp. Sử dụng các dịch vụ của thị trường tài chính và thị trường

bất động sản để định giá doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định liên quan đến bán

đấu giá cổ phần, đa dạng hóa hình thức đấu giá để doanh nghiệp lựa chọn phù hợp

98

với thực tế của doanh nghiệp khi thực hiện đấu giá cổ phần, thực hiện các biện pháp

ngăn chặn tình trạng liên kết thông thầu trong quá trình bán đấu giá cổ phần... Các

cơ chế, chính sách sửa đổi theo hướng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên

quan trong quá trình CPH DNNN; tăng cường kiểm tra, giám sát của cơ quan quản

lý Nhà nước, cơ quan tài chính đối với công tác CPH DNNN; nâng cao tính công

khai, minh bạch và thị trường trong quá trình sắp xếp, đổi mới.

Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004

về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần đã quy định, hướng dẫn

một cách chi tiết hơn những vấn đề bất cập trong những văn bản trước đây. Tuy

nhiên, vẫn còn một số điểm cần xem xét lại như: thẩm quyền phê duyệt phương án

CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần, chính sách ưu đãi đối với

doanh nghiệp CPH, quyền lợi của người lao động trong công ty cổ phần... Trước

mắt Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 187/2004/NĐ-CP

cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như bổ sung đối tượng CPH bao gồm các DN

hoạt động công ích, các đơn vị sự nghiệp; phương thức bán cổ phần lần đầu; nhà

đầu tư chiến lược và chính sách đối với nhà đầu tư chiến lược; gắn CPH với niêm

yết trên TTCK ngay từ khi phê duyệt phương án CPH; ưu đãi cho các DN CPH...

Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua

cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam.

Trường hợp doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị

quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá đất đã được Ủy ban nhân dân

các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích đất được

giao) quy định và công bố. Nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử

dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần

hóa thì UBND tỉnh, thành phố trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày gửi đủ hồ sơ, nếu chưa nhận được văn bản của

UBND tỉnh, thành phố trung ương về giá đất thì cơ quan có thẩm quyền quyết định

giá trị doanh nghiệp được quyền xác định giá trị doanh nghiệp theo giá đất doanh

nghiệp đã đề nghị.

99

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh doanh chứng khoán và thị

trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành chứng

khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu lần đầu. Bên cạnh đó, ra sức thu hút các công

ty cổ phần niêm yết để đa dạng mặt hàng, mở rộng thị trường và trở thành kênh thu

hút đầu tư quan trọng cho các doanh nghiệp. Bổ sung các quy định bắt buộc những

DNNN có quy mô vốn lớn và hoạt động có hiệu quả phải niêm yết và đăng ký giao

dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán.

Để đẩy mạnh tiến trình CPH các DNNN, cần phải có một môi trường vững

chắc và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật

nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp trong kinh tế

thị trường có định hướng của Nhà nước. Tuy vậy, để tiến trình CPH được thông

suốt hơn, các ngành, bộ cần nghiên cứu ban hành các văn bản dưới luật ngày càng

hoàn chỉnh hơn nhằm tạo điều kiện cho quá trình CPH các DNNN ở các tỉnh thành

thực hiện có kết quả.

Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm cải thiện môi trường pháp lý chung, tạo

khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Các DNNN và

DNNN sau CPH cần được Nhà nước quan tâm như nhau về tài chính, thông tin, thủ

tục hành chính… Nhà nước xoá bỏ nhanh bao cấp dưới mọi hình thức để không còn

chỗ dựa tạo đặc quyền, đặc lợi như trước đây mà hiện vẫn còn ở mức độ khác nhau

của các DNNN. Trong thời gian tới, Nhà nước cần ban hành luật doanh nghiệp

thống nhất chung cho mọi loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Xây dựng

cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp chưa xóa bỏ

được vị thế độc quyền kinh doanh.

Cần tạo môi trường pháp lý, tổ chức, xã hội giúp các DNNN khi trở thành

các công ty cổ phần thoát khỏi mặc cảm bị bỏ rơi khi gặp khó khăn không biết kêu

cứu ai. Nhà nước cần thi hành chính sách tài chính cứng với tất cả các loại hình

doanh nghiệp nhằm đưa yếu tố tự chủ, cạnh tranh vào nhận thức và hành vi của

doanh nghiệp, không để các DNNN tồn tại tư tưởng trông chờ, ỷ lại quá nhiều vào

Nhà nước như hiện nay.

100

3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần

hóa:

Mỗi khâu cổ phần hóa cần tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy định của

Nhà nước nhưng phải khẩn trương, nhanh chóng. Đặc biệt có khả năng rút ngắn

được nhiều thời gian hiện nay ở các khâu: lập Ban đổi mới doanh nghiệp, định giá,

quyết định giá, phê duyệt phương án cổ phần hóa và đăng ký kinh doanh. Các công

ty được cổ phần hóa hoàn toàn khác với một doanh nghiệp mới thành lập đi vào

kinh doanh. Các công ty đó đều đã có hồ sơ gốc, sẵn có địa điểm, có tên và thương

hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, đã đăng ký từ trước, có thị trường truyền thống; nếu có

khác, chỉ là số yếu tố mới phát sinh hoặc bổ sung trong và sau cổ phần hóa. Do vậy,

thủ tục đăng ký kinh doanh cần được đơn giản hóa và rút ngắn hơn nhiều về nội

dung, thể thức và thời gian.

Thực hiện cải cách hành chính hướng tới mục tiêu phục vụ doanh nghiệp:

đổi mới phương thức quản lý, hạn chế việc ban hành các giấy phép kinh doanh, cải

cách nâng cao hiệu quả cơ chế “một cửa” trong thực hiện thủ tục hành chính, tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp gia nhập thị trường và tự chủ, tự chịu

trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.

3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần

hóa:

Để chủ trương cổ phần hóa đến được với từng doanh nghiệp, cần phải có một

bộ phận chuyên trách tham mưu hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cho quá trình cổ

phần hóa. Không chỉ vậy, bộ phận này sẽ chuyên nghiên cứu quá trình thực hiện cổ

phần hóa, nắm bắt được những vướng mắc, trở ngại để từ đó đề xuất các phương án

cổ phần hóa khoa học, khả thi lên chính phủ.

Theo kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước, cần phải thiết lập một cơ quan

chuyên trách đủ mạnh để dồn tâm lực vào quá trình xây dựng chương trình, mục

tiêu, phương án CPH khoa học, khả thi trên phạm vi tổng thể bỏ qua lợi ích cục bộ

của các cơ quan chủ quản và kiên quyết thực hiện tới cùng chương trình đó. Cách

làm theo kiểu phong trào những năm qua đã dẫn đến các hậu quả không mong

101

muốn như: CPH diễn ra chậm do phải chờ các cơ quan chủ quản và doanh nghiệp

tự nguyện; các DNNN dễ CPH và có lợi cho các bên liên quan khi CPH thì làm

nhanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc xin rút, hoặc tìm mọi cách lẩn tránh,

kéo dài quá trình làm thủ tục; nhà nước không kiểm soát được quá trình CPH nên

đôi khi bị thất thoát vốn nhà nước...

Bộ phận này phải hoạt động thực sự có hiệu quả, không chỉ tồn tại trên giấy

tờ hay làm việc một cách quan liêu, cho có lệ, qua loa. Cơ quan này cần phối hợp

chặt chẽ với các bộ, các ngành trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện các

chương trình kế hoạch được thủ tướng Chính phủ phê duyệt, kịp thời tháo gỡ các

vướng mắc trong: xác định giá trị doanh nghiệp, xử lý nợ tồn đọng, giải quyết chế

độ cho lao động dôi dư, những vấn đề liên quan đến tổ chức, quản lý công ty theo

luật Doanh nghiệp và luật DNNN... kịp thời kiến nghị với thủ tướng Chính phủ có

cơ chế, chính sách thúc đẩy tiến trình CPH DNNN. Cơ quan chuyên trách của tỉnh

sẽ cùng các doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình cổ

phần hóa. Đối với những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề hơi đặc biệt, có

ít doanh nghiệp cùng lĩnh vực cổ phần hóa để học hỏi kinh nghiệm, đồng thời các

quy định của chính phủ khi đưa ra chưa xét đến những trường hợp đặc biệt này, ban

đổi mới DNNN địa phương cần xem xét những kinh nghiệm CPH cho doanh nghiệp

đó ở các địa phương khác hoặc nhanh chóng kiến nghị với tỉnh hoặc trung ương về

những trường hợp chưa xử lý được, để có biện pháp xử lý nhanh giúp tiến trình

CPH được thực hiện nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, không làm các doanh nghiệp

hoang mang, lo lắng, mất nhiều thời gian trong tiến trình cổ phần hóa.

Đồng thời, cơ quan này phải đủ năng lực và tâm huyết để giải quyết nhanh

gọn, không để tình trạng ùn tắc giấy tờ, bắt các doanh nghiệp phải đợi lâu trong tiến

trình cổ phần hóa.

Do vậy, cần thiết phải thiết lập cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa để thực

sự đặt quá trình CPH trên cơ sở khoa học và kiểm soát được từ phía nhà nước cũng

như linh hoạt, kiên quyết khi giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình cổ

phần hóa.

102

3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp

Nhà nước cần định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các loại

hình doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, đảm bảo thực sự bình đẳng đối với mọi loại

hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong

và ngoài nước. Từ đó, các doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả hơn theo cơ chế

thị trường, phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta với thế giới.

Điều 36 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ đã

quy định “Doanh nghiệp sau khi CPH được tiếp tục vay vốn ngân hàng tại các ngân

hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ

chế như đối với các công ty nhà nước”. Nhưng trên thực tế đang có sự bất bình đẳng

trong thế chấp vay vốn giữa doanh nghiệp Nhà nước với các công ty cổ phần ra đời

từ chính các doanh nghiệp Nhà nước trước đây. Các công ty nhà nước có cơ chế cho

vay ưu đãi hơn so với công ty cổ phần. Do vậy, các DNNN sau khi CPH gặp nhiều

khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các

ngân hàng thương mại yên tâm hơn khi cho các DNNN vay vì được sự bảo lãnh của

Nhà nước, còn đối với công ty cổ phần thì họ ngần ngại cho vay do các công ty này

không được Nhà nước bảo lãnh nên đòi hỏi nhiều thủ tục, giấy tờ hơn. Vì vậy, nhà

nước cần từng bước điều chỉnh, dẫn đến xoá bỏ trên thực tế (không phải chỉ trên

giấy tờ, văn bản) sự phân biệt đối xử trong các chính sách nhằm khuyến khích các

DNNN thực hiện cổ phần hoá, tạo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh

nghiệp, đặc biệt giữa loại hình doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần.

Để đáp ứng yêu cầu trên, trong thời gian tới Nhà nước cần đưa DNNN trở

thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất, đồng thời xác định

cơ chế, chính sách, quyền lợi của công ty cổ phần trong việc vay vốn, nhằm tăng

khả năng tạo nguồn vốn như:

-Các ngân hàng sẽ áp dụng chung mức lãi suất cho các đối tượng đi vay

thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay công ty

cổ phần mà chỉ xem xét cho vay dựa trên tính khả thi của dự án. Từ đó xoá bỏ hoàn

toàn việc Nhà nước gián tiếp bao cấp cho các DNNN thông qua lãi suất vay ưu đãi.

103

-Khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty để vay vốn dài

hạn. Trái phiếu của các doanh nghiệp sẽ được các nhà đầu tư mua nếu lãi suất cao,

hấp dẫn, được bảo hiểm và có tính thanh khoản cao. Do đó, để thúc đẩy thị trường

trái phiếu phát triển, đã đến lúc Nhà nước cần thành lập các tổ chức định mức tín

nhiệm nhằm thông tin về rủi ro của các công cụ nợ và định hướng cho người đầu tư.

3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK.

Các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần có khả năng huy động vốn

đầu tư thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên TTCK. Tuy nhiên thị trường

chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn có

hiệu quả cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp. Một thị trường chứng khoán với

quy mô lớn và chất lượng cao sẽ tạo điều kiện cho thị trường vốn hoạt động mạnh.

Các nhà đầu tư dựa vào khả năng sinh lợi và tính thanh khoản của chứng khoán để

quyết định có nên đầu tư vào chứng khoán hay không. Có thể nói trong giai đoạn

hiện nay, tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam chưa cao do số lượng công ty cổ phần niêm yết trên thị trường còn khiêm

tốn và chất lượng chứng khoán chưa cao. Vì vậy, đối tượng mua chứng khoán chủ

yếu là người lao động trong doanh nghiệp, nhưng do thu nhập thấp nên số lượng cổ

phần mà họ mua được không nhiều. Khi cần chuyển nhượng, người lao động chủ

yếu chỉ bán theo hình thức “sang tay” trong nội bộ, mà không tham gia thị trường

chứng khoán.

Mặt khác, với quy mô nhỏ và chất lượng hàng hóa chưa cao, thị trường

chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thật sự khuyến khích các công ty cổ phần

niêm yết cũng như chưa thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của các nhà đầu tư. Do

vậy, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, Nhà nước cần mở rộng

các hình thức bán cổ phần lần đầu thông qua hình thức đấu giá, bảo lãnh phát hành,

đại lý phát hành...; đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sau khi được CPH

nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của mình trên TTCK; gắn việc phát hành cổ phiếu

với niêm yết công khai trên thị trường. Thậm chí, đối với những DNNN đã tiến

hành CPH có đủ điều kiện, Nhà nước cần quy định cụ thể lộ trình thực hiện niêm

104

yết trên thị trường chứng khoán. Song song đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện chủ

trương cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn cung hàng

hóa có chất lượng cao trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, cần phát triển hệ

thống các tổ chức tài chính trung gian để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư

trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK.

Để tăng quy mô của TTCK, mặt khác Chính phủ cần đưa ra những chính

sách ưu đãi cụ thể đối với các doanh nghiệp CPH khi thực hiện niêm yết, giảm thiểu

quy định không phù hợp về thủ tục và điều kiện niêm yết để những doanh nghiệp đủ

điều kiện, khi tiến hành CPH sẽ thích thú, tự giác niêm yết trên TTCK như:

(cid:57) Cần có chính sách hỗ trợ thiết thực như hỗ trợ phí kiểm toán, tư vấn niêm yết,

hỗ trợ nâng cấp hệ thống quản trị doanh nghiệp.

(cid:57) Thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp

cổ phần hóa niêm yết căn cứ theo thời gian doanh nghiệp tham gia niêm yết sau khi

cổ phần hóa.

(cid:57) Khuyến khích và ưu tiên niêm yết đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có

vốn lớn, có quy mô hoạt động rộng, có uy tín thương hiệu nhằm tăng chất lượng

hàng hóa niêm yết và quy mô cho thị trường.

Kết luận chương 3.

Trên cơ sở thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và những vướng mắc

còn tồn tại ở các doanh nghiệp đã và đang tiến hành cổ phần hóa, chương 3 đã đưa

ra chủ trương cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang, đồng thời đề xuất một số

giải pháp vi mô cũng như vĩ mô nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh

tiến trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tp. Nha Trang. Các giải pháp vi mô

được luận văn đề cập đến bao gồm: giải pháp cho việc xác định giá trị doanh nghiệp

CPH, công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp, tiếp tục bổ sung và hoàn

thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa, phát triển trình độ đội

ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động, đổi mới công tác

quản trị và tổ chức sản xuất, đổi mới kỹ thuật- công nghệ và tăng cường mở rộng

quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất

105

các giải pháp vĩ mô đó là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận

thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa; tiếp tục hoàn

thiện cơ chế, chính sách và đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến

trình CPH; đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên

trách về cổ phần hóa; tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp và

đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. Trên đây là một số giải

pháp với hy vọng góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả và đẩy mạnh tiến trình cổ

phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang.

106

KẾT LUẬN

Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển, cạnh tranh

và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương cổ phần hóa DNNN của chính phủ đã được

xem là một quyết định đúng đắn và tất yếu nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi

mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Vì vậy, ngay trong chương đầu

của đề tài này đã nêu ra những vấn đề có tính chất tổng quan về cổ phần hóa như:

các vấn đề liên quan đến công ty cổ phần; khái niệm, phân loại và đặc trưng của

CPH cũng như vai trò quan trọng của nó đối với xã hội, doanh nghiệp và cả người

lao động. Bên cạnh đó, việc phân tích những kinh nghiệm CPH của một số quốc gia

đã rút ra những bài học quý giá để có thể vận dụng linh hoạt vào các doanh nghiệp

Việt Nam nói chung và tp.Nha Trang nói riêng dựa trên hoàn cảnh và điều kiện kinh

tế hiện nay.

Từ việc nghiên cứu những lý luận tổng quan này đã xây dựng cơ sở cho đề

tài đi sâu vào phân tích tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH của DNNN

tại tp.Nha Trang. Với những kết quả so sánh và phân tích các chỉ số về doanh thu

thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần

bình quân… đã cho thấy những kết quả rất khả quan, hiệu quả sản xuất kinh doanh

của các DN sau CPH được nâng lên rõ rệt, những kết quả này đã góp phần vào sự

thành công của chủ trương CPH. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được thì đề

tài cũng đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở cả các DN sau khi

CPH cũng như ở các DN đang trong tiến trình CPH phải đối mặt. Đó là những hạn

chế, rào cản làm giảm hiệu quả của quá trình CPH.

Như vậy, thiết nghĩ để nâng cao hiệu quả CPH các DNNN ở tp. Nha Trang

thì cần có sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền nhằm tạo một môi trường vĩ mô thuận

lợi cho các DNNN đã CPH, nhanh chóng có những định hướng để giúp các DN

trước và sau CPH có thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, về phía

DN cũng cần có sự hợp tác thật sự để thực hiện đồng bộ những giải pháp nhằm tự

mình giải quyết những bất cập, vướng mắc đó. Đặc biệt khi tiến trình gia nhập

107

WTO đang tiến gần kề thì việc mau chóng CPH các DNNN càng trở nên cần thiết

và đặt ra nhiều thách thức cho DNNN chủ động đổi mới nhằm đáp ứng cao trong

thời kỳ hội nhập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (10/2006), Báo cáo kết quả sắp

xếp, đổi mới, phát triển DNNN và phương hướng, nhiệm vụ 2006-2010.

2. Bộ tài chính (2000), Các văn bản thực hiện luật doanh nghiệp, NXB Xây dựng.

3. Bộ Tài chính, Thông tư số 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định số

187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành

công ty cổ phần.

4. Lưu Quang Định (2005), “Năm 2005: Đẩy mạnh thị trường hoá cổ phần hoá”,

Báo Lao Động.

5. Nguyễn Đỗ (2006), Chứng khoán đầu tư và quản lý, NXB Lao động xã hội.

6. Lâm Du Hải (2006), “Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa: Cần có thêm

những nghiên cứu bổ sung”, VNECONOMY.

7. Lâm Du Hải (2006), “Đẩy nhanh cổ phần hoá: Đề xuất ba phương pháp tính giá

trị doanh nghiệp”, VNECONOMY .

8. Đoàn Văn Hạnh (1998), Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ

phần, NXB Thống kê.

9. Hồ Sỹ Hùng (2002), “Cổ phần hoá DNNN - bước đi tất yếu”, Đầu tư.

10. Thu Huyền - Ngọc Quyết, “Cổ phần hóa phải hướng tới thị trường”, Tiền

Phong.

11. Nhật Linh (2005), “Chấm dứt cổ phần hóa khép kín”, Báo Tuổi Trẻ .

12. Hà My (2005), “Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc”, TCCN.

13. Nguyễn Văn Nghĩa, CPH giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, NXB

CTQG.

14. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp.

108

15. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Khánh Hoà (2005), Báo cáo tình hình thực hiện sắp

xếp DNNN năm 2005 và kế hoạch năm 2006.

16. Lê Sơn, “Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: DNNN cần cơ cấu theo hướng đa

sở hữu”, Pháp luật TP.HCM.

17. Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động công ty

cổ phần, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

18. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật kinh tế, NXB Tư pháp, Hà

Nội.

19. Lê Tuấn ( 2005), “Đẩy nhanh vững chắc cổ phần hóa công ty nhà nước”, Cục

Tin học và Thống kê tài chính.

20. Văn phòng Chính phủ (2004), Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP

ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần.

21. Ngô Việt - Hải Yến, “Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một

kênh huy động vốn”, Nhà quản lý

22. TS.Bùi Kim Yến (2006), Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động xã

hội.