GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUTHỰC HIỆN CÔNG TÁC AN TOÀN, VỆ SINH
LAO ĐỘNG (ATVSLĐ) KHI VIỆT NAM THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN
VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)
ThS. Lưu Thu Hường1
Tóm tắt: CPTPP là hiệp định thương mại tự do đa phương quy mô lớn.Xét dưới góc độ việc làm bền vững, an
toàn, vệ sinh lao động, CPTPP mang lại cả cơ hội và thách thức cho Chính phủ và Doanh nghiệp Việt Nam. Về cơ
hội, việc gia nhập CPTPP sẽ đem lại nhiều cơ hội mới về việc làm cho người lao động, tăng trưởng kinh tế và lợi ích
xã hội. Cùng với cơ hội việc làm, các tiêu chuẩn lao động, các quy định, quy chuẩn và tiêu chuẩn về ATVSLĐ cũng
tiếp tục được yêu cầu thực thi ở mức độ cao hơn; vấn đề tuân thủ quy định về ATVSLĐ được xem xét trong quá
trình đầu tư, mua hàng và xem xét đánh giá về tự do bình đẳng trong thương mại và đầu tư khi tham gia sân chơi
chung của quốc tế. Thách thức đặt ra cho Chính phủ và Doanh nghiệp là phải tìm ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện Công tác ATVSLĐ nhằm phù hợp và thích ứng với bối cảnh hội nhập hiện nay.
Abstract: CPTPP is a large-scale multilaretal free trade agreement. From the angle of sustainable working and
occupational safety and health, CPTPP brings both opportunities and challenges for Vietnam Government
and Enterprises. Regarding opportunities, joining CPTPP enhances new opportunities for employment,
economic growth and social benefits. Along with employment, working standards, regulations, norms and
standards on OSH continue to be required to be implemented at higher level; compliance with regulations on
OSH is considered in the process of investment, purchase and review of equality in trade and investment when
participating in the international playing field. Challenge for the Government and Enterprises is to figure out
solutions to improve the performance of OSH in order to suit and adapt to the current integration context.
I. ẢNH HƯỞNG CỦA CPTPP TỚI CÔNG TÁC ATVSLĐ
“Theo tờ trình của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội
khóa XIV, việc thông qua CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương)
giúp Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập toàn diện, sâu rộng, khẳng
định vai trò vị thế địa chính trị của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu
Á Thái Bình Dương, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như
trên trường quốc tế.”
Ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn thông qua CPTPP. Hiệp định
chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14/1/2019. Nội dung cam kết lao động trong đó
1 Email: huongluuthu@gmail.com, Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động – Xã hội.
624 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
có cam kết về điều kiện lao động, an toàn, vệ sinh lao động được quy định tại Điều 19.3 Chương
19 của Hiệp định. Trong đó, quy định các nước tham gia Hiệp định phải thông qua và duy trì trong
các đạo luật và quy định cũng như trong thực hiện các đạo luật và quy định ở nước mình (tức nội
luật hóa và tổ chức triển khai) những quyền được nêu trong Tuyên bố 1998 của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO), nhưchấm dứt mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc ép buộc; loại bỏ một cách
hiệu quả lao động trẻ em, cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất bảo hộ lao động khác
đối với trẻ em người vị thành niên; chấm dứt phân biệt đối xử về việc làm nghề nghiệp
những điều kiện làm việc có thể chấp nhận được về lương tối thiểu, giờ làm việc an toàn sức
khỏe nghề nghiệp”. Ngoài ra, Điều 19.3 cũng quy định các bên phải quy định trong pháp luật
thực hiện trong thực tiễn những điều kiện làm việc ở mức chấp nhận được về lương tối thiểu, giờ
làm việc và an toàn sức khoẻ nghề nghiệp.
1.1. Những mặt đã đạt được
Trên thực tế đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã gia nhập 21 Công ước của ILO, bao gồm
5 Công ước cơ bản. Trong số này, liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, đặc biệt phải kể đến là
Công ước về an toàn, vệ sinh lao động số 155 năm 1981, Công ước về thúc đẩy khung chính sách
an toàn, vệ sinh lao động số 187 năm 2006.
Quá trình xây dựng Bộ luật Lao động, đặc biệt là Luật An toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ)
đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua, các quy định trong các công ước của ILO về
an toàn, vệ sinh lao động cũng đã được rà soát, nội luật hóa. Cụ thể như cơ chế ba bên thông qua
các quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, của nhà
nước, của tổ chức chính trị, hội; các quy định dựa trên các nguyên tắc ưu tiên công tác phòng
ngừa; đặc biệt Luật An toàn, vệ sinh lao động còn mở rộng đối tượng áp dụng tới người lao động
làm việc không theo hợp đồng lao động (khu vực không có quan hệ lao động).
Như vậy, hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam về công tác an toàn, vệ sinh lao động
cơ bản đã nội luật hóa phù hợp với các Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO về an toàn,
vệ sinh lao động. Nội luật hoá được thực hiện trong cả khu vực có quan hệ lao động và không có
quan hệ lao động thông qua các hoạt động thiết lập bộ máy quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh
lao động từ trung ương, đến cấp sở địa phương như xã, phường; duy trì thường niên chế
đối thoại của hội đồng quốc gia, hội đồng cấp tỉnh về an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng thiết chế
về thanh tra lao động (trong đó có Thanh tra về an toàn, vệ sinh lao động riêng biệt).
Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 nêu rõ: Chính sách của Nhà nước về ATVSLĐ là khuyến
khích phát triển các sở hoạt động dịch vụ về ATVSLĐ như huấn luyện, kiểm định, quan trắc môi
trường lao động, chăm sóc sức khỏe nhằm xã hội hoá công tác ATVSLĐ; xây dựng và duy trì các
thiết chế bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tổ chức nhiều hoạt động thông tin, tuyên
truyền ATVSLĐ đến doanh nghiệp, người lao động và quần chúng nhân dân lao động.
1.2. Những khó khăn, thách thức
Để đáp ứng được các chuẩn mực chung về ATVSLĐ trong sân chơi CPTPP, chúng ta cũng đối
diện với rất nhiều khó khăn, thách thức về quản lý, thực hiện, triển khai công tác ATVSLĐ đó là:
625
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Nội dung của Công tác ATVSLĐ
Nội dung của công tác ATVSLĐ rộng, liên quan đến nhiều vấn đề, mọi người dân, thuộc
nhiều quan quản lý, từ kiểm soát thông tin đầu vào của các yếu tố sản xuất như máy, thiết bị, hóa
chất, nhà xưởng, sức khỏe người lao động, điều kiện lao động, đến các vấn đề như: lao động chưa
thành niên, lao động nữ, lao động là người cao tuổi; thời giờ làm việc, đến việc giải quyết hậu quả
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… thuộc mọi lĩnh vực, cả khu vực quan hệ lao động không
có quan hệ lao động. Vì nội dung hoạt động rộng, Quản lý nhà nước về lĩnh vực này cũng đòi hỏi
cao hơn, sự tham gia góp mặt của nhiều Bộ ban ngành đối với cùng một vấn đề. Việc chồng
chéo về thủ tục hành chính, thẩm quyền quản lý và triển khai thực hiện là điều không tránh khỏi.
1.2.2. Nhận thức
Người sử dụng lao động chưa nhận thức hết sự liên quan giữa phát triển bền vững và an toàn,
vệ sinh lao động như lợi ích của công tác ATVSLĐ đến nâng cao năng suất lao động, giảm giá
thành, vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại như các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội nên
chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện các quy định của pháp luật về ATVSLĐ, cải thiện điều
kiện lao động cho người lao động hoặc thực hiện còn mang tính đối phó hình thức. Vấn đề ý thức,
tác phong của một bộ phận người lao động còn chủ quan, xem nhẹ công tác an toàn, vệ sinh lao
động; chưa chủ động thực hiện đầy đủ các quyền cũng như trách nhiệm của mình trong công tác an
toàn, vệ sinh lao động. Người lao động còn thiếu các kỹ năng, hiểu biết để phòng tránh các nguy
cơ, rủi ro gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
1.2.3. Nguồn lực
Với hệ thống pháp luật môi trường đầu tốt hơn, người lao động Việt Nam sẽ nhiều
cơ hội việc làm, lựa chọn nghề nghiệp, điều kiện lao động, thu nhập, đời sống được nâng cao hơn,
được bảo vệ và bình đẳng với người lao động các quốc gia khác. Để tận dụng được những cơ hội
CPTPP mang lại, lực lượng lao động của Việt Nam cần được đào tạo để kỹ năng nghề, công
nghệ thông tin, đặc biệt khi vào giai đoạn công nghiệp 4.0. Nếu không đáp ứng được yêu cầu, nguy
không việc làm, thất nghiệp của người lao động là rất lớn, luôn có thể đến với cá nhân, nhóm
người thậm chí là cả doanh nghiệp.
Khi quy mô của nền kinh tế càng lớn, đòi hỏi nguồn lực như nhân sự, tài chính mà Nhà nước
đầu cho công tác an toàn, vệ sinh lao động tăng; tuy nhiên trong bối cảnh tinh giảm biên chế, thắt
chặt các chi tiêu công thì sự gia tăng nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho công tác an toàn, vệ sinh
lao động là rất hạn chế. Năng lực quản lý, kiểm soát công tác an toàn, vệ sinh lao động của các
quan quản an toàn, vệ sinh lao động còn nhiều bất cập, chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển. Thiếu
một đội ngũ quản lý, triển khai công tác an toàn, vệ sinh lao động am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ
ở cấp cơ sở. Do nguồn cung về nhân lực này còn hạn chế, Các trường Đại học đào tạo về chuyên
ngành này còn rất ít. Hiện nay, có hai trường Đại học đào tạo chính quy về ngành ATVSLĐ, ngoài
ra rất ít trường Đại học đưa vào thành học phần học tập cho sinh viên. Nguồn nhân lực trong
nghiên cứu ứng dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật trong việc phòng ngừa tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; nhận diện đánh giá các nguy cơ, rủi ro mới về an toàn, vệ sinh lao động chưa
bắt kịp với sự phát triển của kinh tế, xã hội.
626 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1.2.4. Hệ thống văn bản pháp lut
Một số chính sách, quy định về an toàn, vệ sinh lao động cũng không còn phù hợp trong điều
kiện của tình hình thực tiễn, cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp hơn khi Việt Nam
tham gia CPTPP như danh mục một số công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại cấm sử dụng lao
động nữ, đảm bảo sự bình đẳng, quyền được lựa chọn việc làm cũng như cơ hội có việc làm của lao
động nữ; vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ làm thêm của người lao động trong bối cảnh công nghệ
4.0 đang phát triển nhanh và mạnh; Hệ thống thống kê, báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
vấn về ATVSLĐ còn nhiều hạn chế; Quy trình báo cáo về tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở cấp sở, địa phương còn nhiều thủ tục hành chính chồng chéo gây phiền nhiễu bất cấp
cho doanh nghiệp. Chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào vấn đề quản nhà nước về ATVSLĐ
như: Báo cáo hàng năm của các doanh nghiệp về Công tác ATVSLĐ còn dài và thủ công, phiếu tự
kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật lao động hàng năm cho doanh nghiệp còn thực hiện chưa hiệu
quả. Hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn triển khai sửa đổi nhiều khiến doanh nghiệp chưa kịp thời
cập nhật thì đã có sự thay đổi, việc triển khai cấp cơ sở rất khó khăn và lúng túng.
1.2.5. Các dịch vụ an toàn, vệ sinh lao động
Phát triển dịch vụ về ATVSLĐ đã hình thành như khám chữa bệnh nghề nghiệp, huấn luyện
ATVSLĐ, kiểm định an toàn máy thiết bị vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt, quan trắc môi trường lao
động; hệ thống tư vấn kỹ thuật, hệ thống quản lý về ATVSLĐ với tốc độ nhanh kể từ trước và sau
khi Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 ra đời. Tuy nhiên các tổ chức dịch vụ này chưa đáp ứng
các yêu cầu của phát triển, còn nhiều vướng mắc về mặt triển khai và hệ thống thủ tục hành chính
còn cồng kềnh chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Nhiều đơn vị dịch vụ về huấn luyện ATVSLĐ ra đời,
quản lý lỏng lẻo dẫn tới tình trạng triển khai đối phó, trục lợi, hoạt động thiếu hiệu quả.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG (ATVSLĐ) NHẰM PHÙ HỢP
VỚI TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Để công tác ATVSLĐ thật sự có hiệu quả trong tình hình hiện nay thì cần có sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị, hội đối với công tác này. Đây là vấn đề đã được Ban Bí thư chỉ rõ trong
Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 18/9/2013 về đẩy mạnh công tác an toàn, vệ sinh lao động trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế, đồng thời đã được quy định trong Luật
an toàn, vệ sinh lao động 2015.
2.1. Giải pháp tăng cường nhận thức về Công tác ATVSLĐ
Tăng cường nhận thức về ATVSLĐ góp phần thúc đẩy thực hiện tốt công tác ATVSLĐ, đảm
bảo thực hiện quyền trách nhiệm không chỉ của người sử dụng lao động của cả người lao
động. Giải pháp này muốn thực hiện được phải thông qua các hoạt động tuyên truyền, huấn luyện
về ATVSLĐ đối với Doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Phải coi trọng tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền ATVSLĐ đến tận sở sản
xuất- kinh doanh, đến từng người lao động bằng hình thức phong phú, đa dạng, đi vào chiều sâu
để bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp cận được với các thông tin về ATVSLĐ, hình thành văn
hóa an toàn tại cơ sở lao động.
627
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Tiếp tục đổi mới triển khai sâu rộng công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật
an toàn, vệ sinh lao động đến các đối tượng, chủ thể liên quan; Đặc biệt quan quản nhà
nước chịu trách nhiệm về công tác ATVSLĐ cần có những chương trình huấn luyện về ATVSLĐ
đi sâu vào chất lượng cho các đối tượng là chủ doanh nghiệp, cơ sở lao động nhằm thay đổi nhận
thức của chính những nhà quản lý doanh nghiệp về ATVSLĐ.
Nhà nước cần chú trọng xây dựng sở dữ liệu các hoạt động cung cấp thông tin về các
tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động cho các doanh nghiệp. Vì hiện nay hệ
thống văn bản của Việt Nam lớn da dạng khiến việc tra cứu tìm kiếm rất khó khăn cho doanh
nghiệp; mở rộng các hoạt động thông tin, tuyên truyền, tập huấn về an toàn, vệ sinh lao động cho
người lao động trong khu vực phi kết cấu. Tiếp tục tổ chức có hiệu quả các hoạt động của Tháng
hành động về an toàn, vệ sinh lao động, các phong trào thi đua sản xuất đảm bảo an toàn, vệ sinh
lao động. Công tác thông tin, tuyên truyền cần phải đổi mới theo hướng làm thay đổi cách nghĩ,
cách làm của doanh nghiệp và người lao động.
2.2. Giải pháp tăng cường và nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác ATVSLĐ
Đội ngũ cán bộ, nhân sự làm công tác ATVSLĐ trong các quan quản Nhà nước, trong
các doanh nghiệp, cơ sở lao động cần nâng cao năng lực thông qua bồi dưỡng, tập huấn, kỹ năng
và cập nhật kiến thức phù hợp với tình hình thực tiễn. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật
An toàn, vệ sinh lao động tới các đối tượng người lao động làm việc trong khu vực này đồng nghĩa
với khối lượng công việc quản nhà nước an toàn, vệ sinh lao động sẽ nhiều hơn, đòi hỏi phải
sự phân cấp, phân quyền cải cách hành chính mạnh mẽ. Trong bối cảnh biên chế, nhân lực
làm công tác này hiện nay được coi là khá mỏng thì việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phân cấp hợp
lý và tăng cường trách nhiệm của từng cấp từng ngành là quan trọng, nhất là cấp quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh. Đội ngũ làm công tác ATVSLĐ cấp sở còn chưa được đào tạo bài bản
nguyên nhân do từ nguồn cung cấp đội ngũ này từ các trường Đại học còn quá ít so với nhu cầu
thực tế. Các bộ an toàn cấp cơ sở cũng cần được phân loại theo chuyên môn nghiệp vụ, có thể sử
dụng cả những người lao động trực tiếp tại các tổ đội sản xuất đã có thời gian cống hiến thực tiễn
lâu năm tại doanh nghiệp am hiểu về dây chuyền công nghệ, kỹ thuật phẩm chất cách tốt
được đào tạo chuyên tu thêm để phụ trách công tác an toàn.
2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn về ATVSLĐ
Tăng cường thanh tra chuyên ngành bằng các hình thức thanh tra theo kế hoạch nhằm sớm
phòng ngừa, kịp thời phát hiện những sai phạm của Doanh nghiệp trong thực hiện công tác ATVSLĐ
để hướng dẫn, định hướng cho doanh nghiệp sửa đổi, bổ xung và nâng cao hiệu quả các hoạt động
ATVSLĐ. Đối với những lĩnh vực trọng điểm, có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
nhằm kịp thời phát hiện, xử nghiêm các sai phạm để ngăn ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; đưa tin, công khai các đơn vị vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng; biểu dương
các đơn vị làm tốt và phê phán các đơn vị, tổ chức vi phạm để doanh nghiệp, xã hội được biết.
2.4. Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế về ATVSLĐ
Tích cực triển khai các hoạt động của Mạng thông tin quốc gia về an toàn, vệ sinh lao
động kết nối với Mạng An toàn, vệ sinh lao động khu vực ASEAN (ASEAN-OSHNET)