BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2011”
TÊN CÔNG TRÌNH:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải Từ gốc tiếng Anh
ABS Hệ thống giao dịch trái phiếu tự động Automated Bond System
TPDN Trái phiếu doanh nghiệp Corporate bond
TPCP Trái phiếu chính phủ Government bond
NHTM Ngân hàng thương mại Commercial bank
NHNN Ngân hàng nhà nước Central bank
NYSE Sở giao dịch chứng khoán New York New York Stock Exchange
OTC phi chính thức (tạm dịch) Over The Counter
CTCK Công ty chứng khoán
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH
DANH MỤC CÁC BẢNG Trang
Bảng 2.1: chỉ tiêu kinh tế thực tế và dự kiến một số năm .................................................. 26
Bảng 3.1: thống kê các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam tính đến 6/2010 .................... 38
Bảng 3.2: tỉ trọng đầu tư TPDN ngành bảo hiểm .............................................................. 40
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: biểu đồ phần trăm giá trị theo GDP các khu vực của thị trường tài chính .... 29
Biểu đồ 2.2: giá trị phát hành TPDN qua các năm ............................................................ 30
Biểu đồ 2.3: giá trị % theo GDP của công cụ nợ ngắn hạn ............................................... 31
Biểu đồ 2.4. đường cong lãi suất TPCP ............................................................................. 34
Biểu đồ 3.1: thống kê đánh giá của các tổ chức ................................................................. 42
Biểu đồ 3.2: chỉ số CPI các tháng năm 2009 và 2010 ....................................................... 44
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Mô hình cạnh tranh giữa các nhà đầu tư và các nhà phát hành ......................... 45
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng câu hỏi khảo sát
Phụ lục 2: Tổng hợp kết quả khảo sát
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thị trường trái phiếu là một trong những kênh huy động vốn quan trọng của nền
kinh tế. Huy động vốn bằng trái phiếu thực sự mang lại nhiều thuận lợi cho chủ thể
phát hành: thời gian huy động vốn nhanh hơn, tiếp cận trực tiếp với nguồn vốn do đó
chi phí phải trả thấp hơn so với việc qua các kênh trung gian,…Đối với các doanh
nghiệp, trái phiếu thực sự là một sự lựa chọn tốt khi muốn huy động thêm vốn bởi
ngoài những ưu điểm như đã kể trên, trái phiếu còn mang lại nhiều lợi thế cho các
doanh nghiệp. Nhiều nước trên thế giới đã rất thành công trong việc phát triển thị
trường trái phiếu mà trọng tâm là thị trường TPDN. Tại Việt Nam, những năm gần đây
có thể nói cả chính phủ và các doanh nghiệp đều dần nhận thấy vai trò của trái phiếu
và sự cần thiết phải phát triển thị trường trái phiếu. Trong tình hình nền kinh tế Việt
Nam còn tồn tại nhiều những bất cập, cơ sở phát triển thị trường còn thấp, nhiều giải
pháp đã được đề ra song vẫn chưa thực sự hiệu quả. Trong những năm vừa qua, đặc
biệt là trong năm 2010 theo nhiều chuyên gia nhận định thị trường trái phiếu đã có
những nét khởi sắc nhưng nếu so sánh tương quan với các nước cùng trình độ phát
triển trong khu vực và thế giới thì thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn chưa thực sự
phát triển đúng tầm. Nhằm đi sâu nghiên cứu, xác định nguyên nhân chính đâu là hạn
chế phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài: “MỘT
SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM”.
Đề tài hướng vào các nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường TPDN, song song tiến
hành đi vào phân tích và đánh giá tác động giữa các khu vực trong thị trường vốn như
thị trường cổ phiếu, hệ thống ngân hàng, trái phiếu chính phủ,…từ đó đề xuất một số
giải pháp theo trình tự ưu tiên, giải quyết và tháo gỡ từng bước một những khó khăn
thực tại.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định chủ thể đầu tư chính trên thị trên thị trường TPDN Việt Nam, trên cơ
sở đó tìm hiểu những khó khăn chính cản trở hoạt động đầu tư các tổ chức này.
Phân tích mối quan hệ giữa thị trường TPDN với sự phát triển của thị trường các
công cụ tài chính dài hạn khác và hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Đề xuất những giải pháp mang tính ưu tiên cho phát triển thị trường TPDN Việt
Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lý thuyết suy luận logic, duy vật biện chứng, phân tích
hoạt động kinh tế trên cơ sở thống kê, so sách, đối chiếu thực tế thị trường với các
nghiên cứu khoa học trước đó và thị trường các quốc gia khác. Số liẹu được sử dụng là
số liệu thứ cấp lấy từ các nguồn đáng tin cậy.
Khảo sát thực tế, thống kê số liệu từ đó đánh giá định tính xu hướng của thị
trường.
4. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài đi vào tìm hiểu các nghiên cứu chuyên sâu cũng
như kinh nghiệm phát triển thị trường TPDN các nước từ đó so sánh với thực trạng thị
trường Việt Nam nhằm xác định chủ thể đầu tư dẫn dắt sự phát triển của thị trường,
phân tích nhhững nhân tố ảnh hưởng đến chủ thể này, từ đó đề xuất những giải pháp
phù hợp. Song song với hướng nghiên cứu trên, đề tài đi vào phân tích mối quan hệ
giữa thị trường TPDN với hệ thống ngân hàng và với các thị trường khác nằm trong
tổng thể thị trường vốn, đặt thị trường TPDN trong tổng thể các mối quan hệ hữu cơ
quanh nó , từ đó đưa ra những nhận định sơ lược về tiến trình phát triển của thị trường
TPDN Việt Nam.
5. Đóng góp của đề tài
Qua khảo sát và các phân tích, đề tài một lần nữa khẳng định vai trò đầu tư chủ
đạo của các định chế tài chính trên thị trường TPDN Việt Nam, đồng thời chỉ ra vai trò
trọng tâm của các tổ chức đầu tư đối với sự phát triển của thị trường TPDN Việt Nam.
Đề tài đã phác họa những nét chính trong hoạt động đầu tư của các định chế tài chính
trên thị trường hiện nay, xác định những khó khăn cấp bách cần giải quyết và đưa ra
những giải pháp phù hợp. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã chỉ ra những mối tương tác
trong quan hệ phức tạp giữa sự phát triển thị trường TPDN và hệ thống ngân hàng, làm
cơ sở cho việc định hướng dài hạn sự phát triển của thị trường.
6. Hướng phát triển của đề tài
Những phân tích của đề tài mở ra nhiều hướng phát triển cho các nghiên cứu tiếp
theo. Những đề xuất của đề tài đưa ra mang tính ưu tiên cần giải quyết, tuy nhiên để
những đề xuất này có thể thực hiện ở thị trường Việt Nam thì cần nhiều hơn những
nghiên cứu chuyên sâu. Mặt khác, mối quan hệ giữa thị trường TPDN với hệ thống
ngân hàng đã được chú ý phân tích trong đề tài, tuy nhiên cần thiết có những nghiên
cứu lượng hóa các tác động trên nhiều mặt để từ đó đưa ra những nhận định chính xác
và toàn diện hơn, góp phần xây dựng chiến lược dài hạn đúng đắn cho cả hệ thống
ngân hàng và thị trường TPDN.
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH
DANH MỤC PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP ... 1
1.1. LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP ................................ 1
1.1.1. Lý luận về trái phiếu .................................................................................................. 1
1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 1
1.1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................................. 1
1.1.1.3. Người phát hành .................................................................................................. 1
1.1.1.4. Thời hạn .............................................................................................................. 1
1.1.1.5. Mệnh giá và lãi suất trái phiếu ............................................................................ 2
1.1.1.6. Các loại TPDN thường gặp ................................................................................. 2
1.1.1.7. Rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu ............................................................. 4
1.1.2. Lý luận về thị trường TPDN ...................................................................................... 6
1.1.2.1. Chủ thể tham gia vào thị trường trái phiếu ......................................................... 6
1.1.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu ............................................................................ 7
1.1.2.3. Thị trường TPDN trong tương quan với sự phát triển của thị trường các
công cụ tài chính khác ................................................................................................. 8
1.1.2.4. Vai trò của thị trường TPDN trong nền kinh tế .................................................. 9
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP ................................................................................................................................................10
1.2.1. Thị trường tiền tệ, điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường TPDN .................. 10
1.2.2. Chính sách điều chỉnh (regulatory policies) ............................................................ 10
1.2.3. Sự tập trung sức mạnh thị trường trong thị trường tài chính ................................... 11
1.2.4. Nhà đầu tư (investor base) ....................................................................................... 12
1.2.5. Cơ sở hạ tầng của thị trường sơ cấp ......................................................................... 12
1.2.5.1. Hệ thống tổ chức phát hành và tư vấn phát hành .............................................. 13
1.2.5.2. Các công cụ làm cơ sở xác định lãi suất cơ bản ............................................... 13
1.2.5.3. Sự có mặt của tổ chức xếp hạng tín nhiệm ....................................................... 14
1.2.6. Cơ sở hạ tầng của thị trường thứ cấp ....................................................................... 14
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ......15
1.3.1. Một vài khuyến nghị chung đối với thị trường TPDN............................................. 15
1.3.2. Phát triển tính minh bạch thị trường-kinh nghiệm từ thị trường TPDN Mỹ ........... 16
1.3.3. Thị trường TPDN Malaysia ..................................................................................... 16
1.3.3.1. Những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến thị trường TPDN Malaysia ........... 17
1.3.3.2. Đặc điểm của thị trường TPDN Malaysia ........................................................ 18
1.3.4. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia .......................................................... 19
1.3.4.1. Thuận lợi và thách thức của của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Australia .................................................................................................................... 19
1.3.4.2. Xu hướng phát triển hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Australia .................................................................................................................... 19
1.3.4.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia và thị trường ngoại hối ............. 20
1.3.4.4. Những đặc trưng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia ................. 20
1.3.5. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp New Zealand ................................................... 21
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM ............................................................................................................................................................................... 24
2.1. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ..............................................................................24
2.2. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ..............................26
2.2.1. Khái quát về thị trường trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2000-2011 .................. 26
2.2.2. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong sự phát triển chung của thị
trường tài chính ...................................................................................................................... 29
2.2.3. Đánh giá sơ lược các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường trái
phiếu doanh nghiệp Việt Nam ................................................................................................ 31
2.2.3.1. Lỗ hổng ở thị trường tiền tệ .............................................................................. 31
2.2.3.2. Chính sách điều chỉnh ....................................................................................... 32
2.2.3.3. Sự tập trung sức mạnh thị trường trong thị trường tài chính ............................ 32
2.2.3.4. Cơ sở nhà đầu tư ............................................................................................... 32
2.2.3.5. Cơ sở hạ tầng thị trường sơ cấp ........................................................................ 33
2.2.3.6. Cơ sở hạ tầng thị trường thứ cấp ....................................................................... 34
CHƯƠNG III. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM .............. 36
3.1. NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI GẦN .....................................36
3.2. YẾU TỐ NHÀ ĐẦU TƯ TỔ CHỨC ........................................................................................................36
3.2.1. Nhà đầu tư tổ chức trên thị trường ........................................................................... 36
3.2.2. Thực tế tình hình đầu tư của các định chế tài chính vào trái phiếu doanh nghiệp .. 37
3.2.2.1. Hoạt động của ngân hàng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp ................. 38
3.2.2.2. Hoạt động của các định chế tài chính phi ngân hàng trên thị trường trái
phiếu doanh nghiệp ................................................................................................... 39
3.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và sự phát triển của hệ thống ngân hàng ....................45
CHƯƠNG IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM ............................................................................................................................................... 49
4.1. NHÓM CÁC GIẢI PHÁP CẦN ƯU TIÊN THỰC HIỆN ....................................................................49
4.1.1. Minh bạch thông tin về giá cả giao dịch trái phiếu .................................................. 49
4.1.2. Hoàn thiện hệ thống qui định điều chỉnh ................................................................. 49
4.1.3. Khuyến khích phát triển công cụ nợ ngắn hạn và nghiệp vụ SWAP ....................... 50
4.1.3.1. Khuyến khích phát triển công cụ nợ ngắn hạn ................................................. 50
4.1.3.2. Phát triển nghiệp vụ SWAP ngoại tệ ................................................................ 50
4.2. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TRONG NHIỀU NĂM TỚI .............50
4.2.1. Sự cần thiết của tổ chức xếp hạng tín nhiệm ........................................................... 50
4.2.2. Định hướng rõ ràng trong phát triển thị trường TPDN và hệ thống ngân hàng ...... 51
4.2.3. Xây dựng cơ quan quản lý chuyên môn .................................................................. 52
KẾT LUẬN .................................................................................................................................................................. 53
1
1. CHƯƠNG I. KHUNG LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH
NGHIỆP
1.1. LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP
1.1.1. Lý luận về trái phiếu
1.1.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm về trái phiếu của các tác giả trong và ngoài nước, nhưng
quy lại khái niệm trái phiếu được đề cập như là một hình thức vay nợ của tổ chức,
trong đó người vay sẽ phát hành một chứng chỉ có lãi suất xác định gọi là lãi suất trái
phiếu (coupon) và đảm bảo thanh toán vào một thời gian đáo hạn xác định trong tương
lai.
Trái phiếu doanh nghiệp là một giấy chứng nhận nợ dài hạn được ký kết giữa
doanh nghiệp và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn
gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có
ghi kỳ hạn, mệnh giá và lãi suất định kỳ của trái phiếu.
1.1.1.2. Đặc điểm
Trái phiếu doanh nghiệp mang đầy đủ những đặc điểm của một trái phiếu thông
thường. Xuất phát từ nguyên nhân nhà phát hành là các doanh nghiệp, ngoài việc gánh
chịu những rủi ro chung của thị trường, các TPDN còn hàm chứa rủi ro riêng của của
các doanh nghiệp phát hành. Các nhà đầu tư khi hướng đến đầu tư TPDN cần phải hết
sức chú ý các đặc điểm này.
1.1.1.3. Người phát hành
Người phát hành là một đặc trưng quan trọng của trái phiếu. Với bản chất là một
giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp, các đặc điểm của doanh nghiệp đó có ảnh
hưởng rất lớn đến trái phiếu. Quy mô doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, nhà quản
trị doanh nghiệp, …. tất cả đều có ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá
cả, rủi ro, tính thanh khoản, … của trái phiếu lúc phát hành và giao dịch trên thị
trường.
1.1.1.4. Thời hạn
Thời hạn của trái phiếu (còn gọi là thời gian đáo hạn của trái phiếu) là số năm mà
2
theo đó doanh nghiệp phát hành hứa hẹn đáp ứng những điều kiện của trái phiếu. Thời
hạn của trái phiếu là ngày chấm dứt sự tồn tại của khoản nợ, doanh nghiệp phát hành
sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả khoản vay gốc. .
Những trái phiếu có thời hạn 5 từ 1-5 năm được gọi là trái phiếu ngắn hạn, từ 5-
10 năm được gọi là trái phiếu trung hạn, trên 12 năm được gọi là trái phiếu dài hạn.
Thời gian đáo hạn của trái phiếu rất quan trọng vì:
- Cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu có thể mong đợi nhận
được các khoản thanh toán lãi định kỳ và cho biết số năm trước khi khoản vay gốc
được hoàn trả toàn bộ.
- Lợi tức của trái phiêu tùy thuộc vào thời hạn của trái phiếu.
- Giá của trái phiếu sẽ biến đổi khi lãi suất trên thị trường thay đổi. Tính biến
động của giá trái phiếu cũng phụ thuộc vào thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các
yếu tố khác không thay đổi, thời gian đáo hạn của trái phiếu càng dài thì tính biến
động giá của trái phiếu càng lớn trước sự thay đổi của lãi suất thị trường.
1.1.1.5. Mệnh giá và lãi suất trái phiếu
Mệnh giá của trái phiếu là số tiền được ghi trên bề mặt của trái phiếu mà người
phát hành đồng ý hoàn trả cho người nắm giữ trái phiếu tại thời điểm đáo hạn.
Lãi suất trái phiếu, còn gọi là lãi suất danh nghĩa, là lãi suất mà người phát hành
đồng ý trả cho người sở hữu trái phiếu trong suốt thời hạn của trái phiếu.
Ngoài việc cho biết các khoản thanh toán lãi trái phiếu mà nhà đầu tư có thể nhận
được trong thời hạn của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu còn chỉ ra mức độ mà theo đó
giá của trái phiếu sẽ chịu sự tác động của những thay đổi lãi suất thị trường. Nếu các
yếu tố khác không đổi, lãi suất trái phiếu càng cao thì giá trái phiếu càng ít thay đổi
trước một thay đổi của lãi suất. Kết quả là lãi suất trái phiếu và thời gian đáo hạn có
những hiệu ứng ngược chiều đối với tính biến động giá một trái phiếu.
1.1.1.6. Các loại TPDN thường gặp
a. Trái phiếu thế chấp (Mortage bond)
Còn gọi là trái phiếu bảo đảm (Secured bond) là loại trái phiếu khi phát hành đòi
hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan ủy thác để
đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả vốn và lãi cho trái phiếu. Trái phiếu thế chấp là
loại được xếp hạng bảo vệ cao, có hai loại:
3
- Trái phiếu đóng: không cho phép doanh nghiệp phát hành bất kỳ một loại
chứng khoán bổ sung nào đối với những tài sản đã được thế chấp.
- Trái phiếu mở: cho phép doanh nghiệp phát hành chứng khoán bổ sung đối với
tài sản đã được thế chấp theo tỷ lệ quy định. Loại này thường có lãi suất cao hơn so
với trái phiếu thế chấp đóng.
b. Trái phiếu tín chấp (Debenture bond)
Còn gọi là trái phiếu không đảm bảo (unsecured bond) là loại trái phiếu chỉ dựa
vào uy tín của doanh nghiệp để phát hành. Doanh nghiệp không đưa bất động sản hay
tài sản gì khác làm vật đảm bảo cho trái phiếu.
c. Trái phiêu chuyển đổi (Convertible bond)
Là loại trái phiếu mà khi phát hành có kèm điều khoản cho phép người sở hữu
trái phiếu có đặc quyền được chuyển đổi trái phiếu sang một số lượng nhất định cổ
phiếu thường với hệ số và thời gian chuyển đổi đã được xác định. Loại trái phiếu
chuyển đổi này có lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thông thường. Thay vào đó, khi
doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, cổ phiếu lên giá, người nắm giữ trái phiếu
chuyển đổi sẽ kiếm được lợi nhuận do chênh lệch giá cổ phiếu. Điều khoản chuyển đổi
đã làm tăng cơ hội kiếm lời cho người mua trái phiếu nếu giá cổ phiếu tăng trên thị
trường. Vì vậy, trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu hấp dẫn, thường được nhiều
công ty cổ phần áp dụng.
d. Trái phiếu thu nhập (Income bond)
Là loại trái phiếu thường được sử dụng khi tổ chức lại doanh nghiệp hoặc trong
các tình huống khác, như khi doanh nghiệp bị suy thoái về tài chính. Theo đó, trái
phiếu thu nhập có lợi tức được trả tùy thuộc vào lợi nhuận của doanh nghiệp và không
cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. Đây là loại chứng khoán lai tạp giữa trái phiếu và
cổ phiếu thường, nó có phần ưu tiên về lợi nhuận hơn cổ phiếu có nghĩa là trái chủ
nhận được lãi trước khi cổ đông nhận cổ tức.
e. Trái phiếu có thể mua lại (Callable bond)
Trái phiếu loại này có quy định điều khoản cho phép doanh nghiệp có thể mua lại
một phần hoặc toàn bộ trái phiếu đã phát hành, tức là trả lại vốn cho người nắm giữ
trái phiếu trước khi đến hạn. Chính những đặc tính đó mà loại trái phiếu này thường
được phát hành với lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng kỳ hạn. Việc
phát hành trái phiếu này thường được áp dụng khi lãi suất trên thị trường giảm xuống.
4
Nếu doanh nghiệp phát hành thực hiện quyền này, họ có thể huy động được khoản vốn
khác thay thế cho số trái phiếu này với một mức chi phí có lợi hơn. Cho nên, doanh
nghiệp phát hành thực hiện điều khoản mua lại trái phiếu với giá “gia tăng để giảm bớt
nợ”.
f. Trái phiếu có thể bán lại (Putable bond)
Là loại trái phiếu có quy định điều khoản cho phép người nắm giữ trái phiếu
được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền
chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này
có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. Quyền bán lại cũng có
tác dụng loại bỏ rủi ro lãi suất cho người nắm giữ trái phiếu. Trong trường hợplãi suất
thị trường tăng khiến cho giá trái phiếu giảm xuống, người nắm giữ trái phiếu có thể
tránh được khoản thua lỗ bằng cách thực hiện quyền bán lại đó và với số vốn thu hồi
về họ có thể đầu tư vào một công cụ khác đem lại lãi suất cao hơn, phù hợp với xu thế
của lãi suất thị trường.
Ngoài ra còn có một số loại trái phiếu cải biên hoặc lai tạp giữa các loại trái
phiếu trên, như trái phiếu dự phần (Participating bond), trái phiếu trả nợ (Refunding
bond), trái phiếu đăng ký vốn gốc và lãi suất (Registered as to principal and interest)…
1.1.1.7. Rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu
Tất cả các khoản đầu tư luôn tồn tại những rủi ro nhất định. Đầu tư chứng khoán
nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng, có thể gặp một số rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi
ro do lạm phát gây ra, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản, rủi ro biến động về giá.
Do đó, nhận diện rủi ro trong hoạt động đầu tư TPDN là yêu cầu hết sức quan trọng
đối với nhà đầu tư, nhà phát hành và nhà quản lý, thông qua đó giảm thiểu rủi ro cũng
như thiết lập danh mục đầu tư tối ưu.
a. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là yếu tố thường xuyên biến động, phản ánh những thay đổi về tương
quan cung cầu tiền tệ, vốn tiền tệ và tín dụng trên thị trường tài chính, từ đó dẫn tới
những thay đổi liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của trái phiếu. Giá của trái phiếu
thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị trường. Khi lãi suất tăng làm cho trái
phiếu với mức lãi suất thấp hơn nên kém hấp dẫn hơn, giá trái phiếu sẽ giảm. Ngược
lại, khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu tăng.
5
Các loại trái phiếu đều tiềm ẩn rủi ro lãi suất. Khi chính phủ thâm hụt ngân sách
sẽ huy động vốn bằng cách phát hành thêm trái phiếu, chính phủ muốn huy động được
vốn thì phải tăng lãi suất trái phiếu, còn nhà đầu tư chỉ mua trái phiếu với lãi suất cao
hơn lãi suất trái phiếu đang lưu hành, do đó những người đang nắm giữ trái phiếu sẽ bị
thiệt hại do giá trái phiếu giảm. Lãi suất TPCP tăng sẽ dẫn tới hệ quả nhà đầu tư thay
vì mua TPDN sẽ chuyển sang mua TPCP, do đó lãi suất TPDN cũng phải tăng lên.
b. Rủi ro lạm phát
Lạm phát là sự suy giảm sức mua của tiền tệ nên lạm phát tăng làm thiệt hại nhất
định cho các nhà đầu tư trái phiếu. Lạm phát càng cao, lãi suât thực của trái phiếu càng
giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. TPCP được cho là an toàn nhất nhưng vẫn
tiềm ẩn rủi ro lạm phát. Lạm phát càng cao thì rủi ro đầu tư trái phiếu càng cao.
c. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản xuất hiện trong đầu tư trái phiếu đề cập đến khả năng chuyển
đổi trái phiếu thành tiền mặt trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian và giá cả
chuyển đổi.
Có hai dạng nhà đầu tư khác nhau trên thị trường trái phiếu.
Dạng đầu tư trái phiếu nhằm tìm kiếm lợi tức khi đáo hạn, ít quan tâm đến thanh
khoản để chuyển nhượng trái phiếu trước hạn vì rủi ro thanh khoản trong trường hợp
này không quan trọng với nhà đầu tư.
Dạng đầu tư hưởng chênh lệch giá của trái phiếu thông qua việc chuyển nhựơng
trái phiếu khi giá trái phiếu gia tăng trên thị trường. Rủi ro về thanh khoản hay rủi ro
có thể bán được trái phiếu trên thị trường phụ thuộc vào trái phiếu được bán bằng hoặc
gần với mệnh giá. Thước đo khả năng thanh khoản là biên độ giữa giá mua và giá bán
của nhà môi giới. Biên độ càng lớn thì rủi ro thanh khoản càng cao.
Để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu, nhà đầu tư phải tăng mức chiết khấu trái
phiếu, do đó giá trái phiếu bị đẩy xuống, và nhà đầu tơ phải gánh chịu thiệt hại về giá
trị, khoản này càng lớn khi thị trường thiếu tính thanh khoản.
d. Rủi ro tín dụng
Rủi ro về khả năng thanh toán, khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu không đủ
khả năng để hoản trả đầy đủ, đúng hạn vốn gốc và lãi như đã cam kết với trái chủ.
Đối với TPDN thì đây là rủi ro đáng ngại nhất, đặc biệt là trái phiếu tín chấp. Rủi
ro tài chính của TPDN gắn liền với hệ số tín nhiệm của doanh nghiệp, hệ số tín nhiệm
6
càng cao thì trái phiếu càng được đánh giá an toàn.
e. Rủi ro về biến động giá
Giá của trái phiếu với những quyền chọn phụ thuộc vào lãi suất thị trường và
những nhân tố ảnh hưởng đến những quyền chọn này. Một trong số đó là sự biến động
của lãi suất mong đợi, cụ thể giá quyền chọn tăng khi lãi suất mong đợi tăng. Đối với
trái phiếu có thể mua lại (Callable bond) hoặc trái phiếu có đảm bảo (mortage backed
security), nhà đầu tư cho phép người vay một quyền chọn, giá của trái phiếu lúc này sẽ
giảm bởi vì nhà đầu tư cung cấp nhiều quyền chọn giá trị cho nhà phát hành. Rủi ro
mà một sự thay đổi ảnh hưởng bất lợi đến giá trái phiếu chính là rủi ro về biến động
giá.
1.1.2. Lý luận về thị trường TPDN
1.1.2.1. Chủ thể tham gia vào thị trường trái phiếu
Chủ thể tham gia thị trường TPDN cũng giống như những chủ thể trên hầu hết
các thị trường tài chính, cũng có người đi vay và người cho vay hoặc cả hai tham gia
trên thị trường. Trong đó, các tổ chức cá nhân tham gia thị trường trái phiếu được chia
thành ba nhóm chính: nhà phát hành (Issuers), nhà đầu tư (Investors) và chủ thể trung
gian (Bond brokers).
- Nhà phát hành (Issuers): là các doanh nghiệp thực hiện huy động vốn bằng cách
phát hành trái phiếu hàng hóa trên thị trường trái phiếu. Trên thị trường TPDN, các
chủ thể phát hành bao gồm các công ty, các định chế tài chính như ngân hàng, công ty
tài chính, …
- Nhà đầu tư (Investors): là những người thực sự mua và bán trái phiếu trên thị
trường nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trên lợi tức trái phiếu và chênh lệch giá, có
thể chia thành 2 loại:
+ Nhà đầu tư cá nhân (Indivisuals): những người có vốn tạm thời tham gia mua
bán trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận, tuy nhiên các nhà đầu tư cá nhân luôn
phải lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi
ro của mình.
+ Nhà đầu tư tổ chức thường xuyên mau bán trái phiếu với số lượng lớn, có thể
là các NHTM, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, CTCK, quỹ hưu trí và
các quỹ bảo hiểm xã hội. Đầu tư thông qua các tổ chức có ưu điểm nổi bật là có thể đa
7
dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được quyết định bởi các chuyên
gia có kinh nghiệm. .
+ Nhà môi giới: là một trung gian trên thị trường trái phiếu, có vai trò là cầu
nối cho một hoặc cả hai bên trong một giao dịch. Trên thị trường chứng khoán nói
chung có hai kiểu nhà môi giới là nhà môi giới hoa hồng (broker) và các nhà môi giới
vừa tiến hành môi giới vừa tự doanh trên chính tài khoản của mình (dealer). Đối với
thị trường TPDN, do đặc thù hầu hết các giao dịch thực hiện trên thị trường OTC nên
vai trò của các dealer được coi là cực kì quan trọng.
- Các tổ chức liên quan đến thị trường: là những tổ chức giám sát về hoạt động
phát hành và kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn
định của thị trường, gồm có:
+ Cơ quan quản lý Nhà nước,
+ Sở giao dịch chứng khoán,
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán,
+ Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán,
+ Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán,
+ Các tổ chức tài trợ chứng khoán,
+ Công ty định mức tín nhiệm.
1.1.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu
Có nhiều cách phân loại thị trường trái phiếu dựa trên những tiêu chuẩn khác
nhau, trong phạm vi giới hạn tập trung nghiên cứu, đề tài sẽ đi sâu vào TPDN trên cơ
sở phân loại thành hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, dưới đây là khái niệm và cách
nhận biết hai thị trường này:
a. Thị trường sơ cấp
Là nơi tập trung diễn ra quá trình mua bán lần đầu đối với các trái phiếu. Thị
trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Hiện nay
tùy theo loại hình trái phiếu, có một số hình thức phát hành chủ yếu sau:
- Phát hành bán lẻ thông qua Kho bạc nhà nước.
- Đấu thầu qua NHNN và thị trường chứng khoán chính thức.
- Bảo lãnh phát hành trái phiếu.
8
b. Thị trường thứ cấp
Là thị trường giao dịch các loại trái phiếu nhằm tạo tính thanh khoản cho trái
phiếu. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp thuộc về
các nhà đầu tư và nhà kinh doanh, do đó nếu thị trường thứ cấp có tính thanh khoản
càng cao thì sự quan tâm của nhà đầu tư đối với thị trường trái phiếu sẽ tăng lên. Đây
chính là một trong những điều kiện phát triển thị trường trái phiếu.
Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường thứ cấp trái phiếu gồm hai
loại:
Thứ nhất, thị trường tập trung, đâylà thị trường giao dịch trái phiếu theo phương
thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận tại một địa điêm tập trung là Sở giao dịch chứng
khoán.
Thứ hai, thị trường phi tập trung, loại thị trường này không có địa điểm cụ thể,
trái phiếu chỉ được giao dịch trực tiếp thông qua các nhà môi giới trái phiếu.
Trên thực tế, hầu hết các giao dịch trái phiếu trên thế giới đều thông qua thị
trường phi tập trung OTC. Đây là điểm khác biệt giữa thị trường thứ cấp cổ phiếu và
thị trường thứ cấp trái phiếu. Sự khác biệt này dẫn đến các kết quả sau:
- Phát sinh vấn đề thiếu minh bạch về giá cả, trong khi các tổ chức lớn có được
giá từ các nhà giao dịch trái phiếu, các nhà đầu tư lớn thì không được.
- Cơ chế thanh toán bù trừ không áp dụng cho giao dịch trái phiếu. Trước đây,
giao dịch trái phiếu được tiến hành chủ yếu tại bàn của nhà môi giới và nó đòi hỏi
hoàn tất một số thủ tục đặt lệnh mua hay bán. Những năm gàn đây có sự cải tiến về sử
dụng giao dịch trái phiếu điện tử.
1.1.2.3. Thị trường TPDN trong tương quan với sự phát triển của thị trường
các công cụ tài chính khác
Giống như cổ phiếu, TPCP,… TPDN cũng là một hàng hóa trên thị trường tài
chính. Bởi vậy, trong thị trường TPDN luôn tồn tại sự cạnh tranh giữa các trái phiếu
với nhau, mặt khác, khi tham gia vào thị trường tài chính, TPDN lại tiếp tục cạnh tranh
với những công cụ khác trên thị trường. Tuy nhiên,bên cạnh quan hệ cạnh tranh, giữa
các công cụ tài chính còn có quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
Một số nghiên cứu cho thấy thị trường TPDN có mối liên hệ khá chặt chẽ với sự
9
phát triển của thị trường tiền gửi và thị trường tín dụng ngân hàng. Các mối liên hệ này
có thể là cùng chiều, có thể là ngược chiều, đôi khi có thể bù trừ hoặc không thể bù trừ
cho nhau.
1.1.2.4. Vai trò của thị trường TPDN trong nền kinh tế
Thị trường trái phiếu có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một
nước đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển trên cả hai phương diện vĩ mô và vi
mô.
a. Trên phương diện vĩ mô
Vai trò thường thấy và dễ nhận biết nhất của thị trường TPDN là cung cấp những
khoản tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài
hạn của các công ty. Một thị trường vận hành tốt có thể kết nối gần như ngay lập tức
nhu cầu vốn dài hạn của công ty phát hành và nhu cầu đầu tư dài hạn của các nhà đầu
tư. Từ đó giảm áp lực tín dụng lên hệ thống ngân hàng, giảm chi phí sử dụng vốn cho
các doanh nghiệp đồng thời tăng hiệu quả sử dụng vốn của toàn nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã cho thấy những giới hạn của hệ
thống ngân hàng mà chỉ thị trường TPDN mới có thể thay thế được. Vai trò cơ bản của
hệ thống ngân hàng là tạo ra và duy trì tính thanh khoản cần thiết cho các công cụ tài
chính trong ngắn hạn. Một khi hệ thống ngân hàng cung cấp các nguồn tài chính dài
hạn sẽ rất dễ tạo ra những rủi ro cho nền kinh tế khi gặp phải các cú sốc.
Ngoài ra, thị trường TPDN có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng của cả nhà
đầu tư và doanh nghiệp phát hành, cung cấp vốn đến những khu vực hoạt động yếu
vốn dĩ được tài trợ bởi khu vực tài chính công hoặc ngân hàng.
b. Trên phương diện vi mô
So với huy động vống bằng cổ phiểu và vốn vay ngân hàng, huy động vốn TPDN
có nhiều ưu điểm đáng kể như sau:
So với cổ phiếu thì huy động vốn bằng trái phiếu tăng áp lực điều hành lên ban
quản trị công ty, nhờ đó làm giảm chi phí đại diện. Mặt khác, hình thức tài trợ này hạn
chế sự pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông trong công ty mà vẫn đáp ứng được
nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, huy động vống bằng trái phiếu sẽ giúp
công ty giảm được chi phí sử dụng vốn rất nhiều so với bằng cổ phần.
So với vay vốn ngân hàng thì ở góc độ doanh nghiệp phát hành trái phiếu, trong
10
một nền kinh tế có thị trường TPDN phát triển, việc tiếp cận nguồn vốn thông qua
kênh phát hành trái phiếu dễ dàng hơn và tiết kiệm chi phí hơn so với vay vốn ngân
hàng.
1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP
1.2.1. Thị trường tiền tệ, điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường TPDN
Một thị trường tiền tệ vận hành tốt là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của
thị trường TPDN. Thị trường tiền tệ sẽ định giá tính thanh khoản (price liquidity) dùng
làm cơ sở để định giá bất kì một công cụ thu nhập nào. Giá của thanh khoản neo giữ
đường cong lãi suất ngắn hạn, trở thành cơ sở định giá các chứng khoán thu nhập khác
nhau về tính thanh khoản, hệ số tín nhiệm và thời gian đáo hạn. Một thị trường tiền tệ
vận hành tốt sẽ là chất xúc tác cơ sở góp phần vào sự phát triển của thị trường trái
phiếu.
Theo Stanley (1991), vào những năm 1980, hầu như chưa tồn tại một thị trường
TPDN thực sự ở hầu hết các nước. Trong khi đó, thị trường TPDN Mỹ đã phát triển
vào cuối thế kỉ 19. Một trong số những nguyên nhân được chỉ ra là do sự kém phát
triển của thị trường tiền tệ. Vào những năm 80, hầu như không có thương phiếu ở
ngoài khu vực Bắc Mỹ, trong thời gian này, lượng thương phiếu của thị trường Mỹ
chiếm hơn 90% toàn cầu, mãi đến những năm 1986, 1987, thương phiếu mới được
phát hành lần lượt ở Anh và Nhật Bản.[12]
1.2.2. Chính sách điều chỉnh (regulatory policies)
Các chính sách điều chỉnh đối với thị trường sơ cấp có tác động lớn trong việc
khuyến khích hay ngăn cản sự phát triển của thị trường. Một hệ thống chính sách điều
chỉnh yếu sẽ làm chậm sự tăng trưởng và phát triển của thị trường chứng khoán nói
chung mà trong đó có trái phiếu.
Các chính sách có tác động trực tiếp đến sự phát triển của thị trường trái phiếu
hoặc tác động gián tiếp thông qua thị trường tiền tệ. Những yêu cầu do chính sách đặt
ra đối với nhà phát hành có thể khiến việc huy động vốn bằng trái phiếu trở nên đắt đỏ
hơn so với vay vốn ngân hàng.
Theo một báo cáo của quỹ tiền tệ quốc tế IMF (2005), sự tồn tại của một hệ
11
thống luật pháp chú trọng bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, tính minh bạch của thị
trường và hàm chứa được các rủi ro hệ thống của thị trường là hết sức cần thiết [10].
IOSCO (1998) chỉ ra 3 điều kiện cần chú ý khi soạn thảo các chính sách như sau:
- Tiến trình điều chỉnh phải thực sự hiệu quả, đặc biệt phải chú ý đến yếu tố thời
gian bởi yếu tố thời cơ rất quan trọng đối với cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Sự trì
hoãn trong các chính sách có tác động tương đương như một luật cấm.
- Thuế có tác dụng dẫn dắt hành vi của nhà phát hành, các nhà đầu tư và các giao
dịch trên thị trường.
- Các điều khoản của trái phiếu về lãi suất, về kì hạn, … tốt nhất nên để cho các
bên phát hành và đầu tư tự thương lượng với nhau.
1.2.3. Sự tập trung sức mạnh thị trường trong thị trường tài chính
Những cản trở đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu không chỉ bắt nguồn
từ những yếu tố bên ngoài mà còn xuất phát từ bên trong bản thân nền tài chính. Thực
tế ở một số nước nơi ngân hàng đang nắm giữ sức mạnh thị trường, hệ thống ngân
hàng trở thành một trở ngại đối với thị trường trái phiếu.[7]
Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường TPDN
bởi ngân hàng là tổ chức tư vấn phát hành, phát hành và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên
không phải lúc nào các ngân hàng cũng thích vai trò này. Một sự thay thế trong việc sử
dụng công cụ nợ của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến sụt giảm tín dụng doanh nghiệp, mà
các ngân hàng thì lại không thích điều này. Thông qua các chiến lược về thiết lập các
khoản vay và lãi vay, cùng với việc trực tiếp khống chế phát hành thông qua phân phối
và hệ thống thanh toán, các ngân hàng có thể hỗ trợ hoặc cản trở việc phát hành
TPDN.
Nghiên cứu của Endo (2000) đã chỉ rõ mối quan hệ giữa sự phát triển thị trường
TPDN trong mối tương quan với tăng trưởng qui mô của hệ thống ngân hàng, TPCP
và thị trường cổ phiếu. Theo đó tương quan này là nghịch biến ở các nước phát triển
và đồng biến ở các nước đang phát triển [9].
Rajan và Zingaless (2003) trên cơ sở những nghiên cứu của Schinasi và Smith
(1998) đã chỉ ra tác động của ngành ngân hàng đối với thị trường TPDN Nhật Bản và
Châu Âu những năm 1980. Theo đó, cho đến những năm 1980, việc hệ thống ngân
hàng nắm giữ sức mạnh thị trường đã cản trở sự phát triển của thị trường trái phiếu các
12
nước này [13].
Tuy nhiên, Calmes (2004) lại cho thấy một khuynh hướng ngược lại ở thị trường
Canada và liên minh Châu Âu trong khoảng thời gian 2000-2004. Thị trường trái
phiếu và hệ thống ngân hàng đã gần như hỗ trợ nhau cùng phát triển, đặc biệt là thông
qua các ngân hàng đầu tư.
1.2.4. Nhà đầu tư (investor base)
Ở các thị trường đã phát triển như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, … thành phần nhà
đầu tư chủ chốt trên thị trường là các tổ chức. Với sự chuyên nghiệp và khả năng tài
chính mạnh, các tổ chức nắm giữ phần lớn khối lượng trái phiếu trên thị trường. Sự
tham gia của các tổ chức đầu tư không chỉ là nguồn cung cấp nguồn vốn với khối
lượng lớn mà khả năng thẩm định và kiểm soát tốt của họ còn giảm thiểu được các rủi
ro trong đầu tư, từ đó hỗ trợ phát triển thị trường một cách ổn định. Ở Nhật Bản và
Châu Âu, các nhà đầu tư tổ chức đang dần thay thế các ngân hàng, các nhà đầu tư cá
nhân để trở thành nhà đầu tư chính trên thị trường.
Chiến lược “mua và nắm giữ” bị coi là một trong những nguyên nhân gây ra tình
trạng thanh khoản kém của thị trường trái phiếu, tuy nhiên chiến lược này lại được hầu
hết các nhà đầu tư tổ chức sử dụng. Trái phiếu thường được coi là một công cụ đảm
bảo tính thanh khoản và giảm rủi ro của danh mục đầu tư, bởi vậy mà các nhà tổ chức
đầu tư thường mua trái phiếu và nắm giữ đến đáo hạn. Tính thanh khoản thị trường và
chiến lược “mua và nắm giữ” tác động qua lại lẫn nhau như một vong luẩn quẩn, một
khi thanh khoản của trái phiếu thấp, các tổ chức đầu tư với tiềm lực tài chính mạnh sẽ
không bán trái phiếu bởi khi đó tỉ suất sinh lợi mà họ nhận được sẽ thấp [9].
Hiện nay, xu hướng đầu tư vào trái phiếu của các quỹ đầu tư ngày càng phát triển
ở thị trường của nhiều quốc gia.
1.2.5. Cơ sở hạ tầng của thị trường sơ cấp
Đề cập đến cơ sở hạ tầng của thị trường sơ cấp, Schinary và Smith (1998) đã liệt
kê 3 thành phần như sau:
(i) Hệ thống tổ chức phát hành và tư vấn phát hành,
(ii) Các công cụ làm cơ sở xác định lãi suất cơ bản nhằm định giá các trái phiếu
khác nhau,
(iii) Sự có mặt của tổ chức xếp hạng tín nhiệm.
13
1.2.5.1. Hệ thống tổ chức phát hành và tư vấn phát hành
Cách thức phát hành trái phiếu ra thị trường rất quan trọng bởi nó tác động trực
tiếp đến niềm tin của nhà đầu tư rằng trái phiếu có được định giá đúng hay không,
công ty phát hành có đáng tin cậy hay không. Ở các nước có thị trường trái phiếu đang
phát triển, vai trò này chủ yếu do các ngân hàng đảm nhiệm, tuy nhiên, chi phí phát
hành tương đối cao [7]. Giải pháp đề xuất là khuyến khích phát triển đồng thời các
ngân hàng và các định chế tài chính nước ngoài có kinh nghiệm trong việc tư vấn phát
hành và phát hành trái phiếu ra thị trường. Giải pháp này đã thực sự phát huy được
hiệu quả ở thị trường Nhật Bản và Châu Âu.
1.2.5.2. Các công cụ làm cơ sở xác định lãi suất cơ bản
Trong thị trường tài chính luôn có một sự cạnh tranh đối với cả nhà đầu tư và
người phát hành. Các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để phát hành được chứng
khoán còn các nhà đầu tư cạnh tranh với nhau để được sở hữu những chứng khoán tốt
(Endo 2000, [9]). Trong khi số lượng các đơn vị đứng ra tổ chức phát hành trái phiếu
còn hạn chế và các quy định về định giá cho trái phiếu phát hành còn yếu và thiếu, thì
do cạnh tranh giữa các nhà phát hành, trái phiếu thường được phát hành dưới giá trị
thật. Điều này sẽ dẫn đến nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp. Do đó, những phương
pháp định giá phát hành hợp lý là rất cần thiết.Các công cụ làm cơ sở xác định lãi suất
cơ bản nhằm định giá các trái phiếu khác nhau
Mức giá cơ sở trong thị trường thứ cấp thường được dùng làm một trong những
cơ sở để định giá trái phiếu phát hành lần đầu. Việc xác định mức giá cơ sở sẽ trở nên
thuận lợi hơn khi có một đường cong lãi suất cơ sở ổn định và đáng tin cậy, mặt khác,
đường cong lãi suất cơ bản cũng là một công cụ trực tiếp hỗ trợ định giá trái phiếu
phát hành.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, TPCP ở các kì hạn khác nhau là căn cứ để xác
định đường cong lãi suất cơ sở cho thị trường. Một cán cân ngân sách được duy trì ổn
định và bền vững là nhân tố tiềm ẩn để phát triển thị trường TPCP. Hầu hết chính phủ
trung ương các nước đều phát hành trái phiếu quốc tế mà hiếm khi phát hành trong
nước. Đối với những quốc gia như Mỹ hay Nhật Bản, việc phát hành nợ vay thực sự
chỉ là một công cụ để hỗ trợ phát triển bền vững sự giàu có của đất nước bởi về cơ
bản, ngân sách của họ không cần thiết phải kêu gọi vốn để bù đắp.
14
Tuy nhiên, một thị trường TPCP phát triển tốt đôi khi vẫn để lại những lỗ hổng,
đó chính là sự thiếu sót các công cụ làm cơ sở xác định lãi suất ngắn hạn. Lịch sử các
nước G7 đã ghi nhận thời điểm không có nhiều những chứng khoán nợ ngắn hạn mặc
dù đôi khi một số công cụ ngắn hạn cũng được phát hành vì mục tiêu chính sách tiền tệ
và Đức là một trong những ví dụ tiêu biểu cho vấn đề này. Sự thiếu vắng các công cụ
tiền tệ ngắn hạn trong nền kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến sự kém phát triển của thị trường TPDN các nước ngoài Bắc Mỹ những năm
1980.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các công cụ như hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương
lai, … cũng góp phần vào xây dựng đường cong lãi suất cơ bản, hỗ trợ đánh giá rủi ro
và định giá trái phiếu.
1.2.5.3. Sự có mặt của tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Cùng với đường cong lãi suất cơ bản, hạng mức tín nhiệm của công ty cũng là
một cơ sở để xác định giá phát hành trái phiếu. Xếp hạng tín nhiệm hiện nay được sử
dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Ở Mỹ, các công ty xếp hạng mức tín nhiệm thực hiện
đánh giá tất cả các chứng khoán được đăng ký với SEC dù các công ty có thuê hay
không. Ở một số nước khác, chẳng hạn như Nhật, dù có tổ chức xếp hạng tín nhiệm
trong nước nhưng như để kiểm chứng kết quả của các tổ chức trong nước, người ta vẫn
có khuynh hướng sử dụng rộng rãi những đánh giá của các công ty nước ngoài. Vì thế
nên hệ thống xếp hạng tín nhiệm được thiết lập bằng sự bổ sung và hoàn thiện của các
tổ chức nước ngoài trên cơ sở xếp hạng của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong nước
là xu hướng hợp lý đang được chấp nhận rộng rãi.
1.2.6. Cơ sở hạ tầng của thị trường thứ cấp
Lý do chính mà các giao dịch trái phiếu thường được thực hiện trên thị trường
OTC là bởi vì sự đa dạng của chứng khoán nợ nói chung (thời hạn, kì thanh toán, rủi
ro, lãi suất) có xu hướng dẫn đến giới hạn khả năng giao dịch của các TPDN, vì vậy
mà giao dịch thômg qua môi giới sẽ hiệu quả hơn cho trái phiếu. Vì lẽ đó mà tính
thanh khoản của thị trường TPDN thường thấp, kể cả trong thị trường trái phiếu lớn
nhất thế giới là thị trường Mỹ thì tính thanh khoản của hầu hết trái phiếu vẫn thấp. Tuy
nhiên, một sàn giao dịch các trái phiếu niêm yết cũng có góp phần làm tăng tính thanh
khoản trên thị trường thứ cấp cho trái phiếu. Chẳng hạn, niêm yết TPDN tại sở giao
15
dịch chứng khoán New York (NYSE) phục vụ cho hai mục đích quan trọng đối với thị
trường thứ cấp. Thứ nhất, các thành viên của NYSE bị yêu cầu phải thực hiên giao
dịch trái phiếu của những khách hàng nhỏ dù mức giá là không tốt, quy chế này góp
phần bảo vệ nhà đầu tư nhỏ, đóng góp vào tình thanh khoản chung của thị trường. Thứ
hai, thông qua hệ thống tự động, tiến trình cung cấp thông tin và định giá (price
discovery) sẽ thuận lợi hơn.
Bài học kinh nghiệm của các nước có thị trường đã phát triển cho thấy, tính
thanh khoản của thị trường thứ cấp được thúc đẩy rất nhiều khi có sự tham gia của các
nhà tạo lập thị trường. Ở Mỹ, các nhà môi giới nội bộ đóng vai trò là nhà tạo lập thị
trường, các nhà tạo lập thị trường được hưởng rất nhiều ưu đãi.
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng chính là hệ thống thanh toán và chuyển
khoản. Sự hiệu quả, an toàn và minh bạch của hệ thống thanh toán nhận được sự chú ý rất
lớn từ phía các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Những thành tố đáng chú ý của một hệ
thống thanh toán và chuyển khoản với mỗi nước bao gồm: các tổ chức tham gia; thiết bị
thực hiện thanh toán; các qui định; những đặc trưng riêng và các tiêu chuẩn đòi hỏi để phù
hợp với các sản phẩm tài chính; kĩ thuật thực hiện (theo Guadamillas và Keppler, 2003)
[11].
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA
1.3.1. Một vài khuyến nghị chung đối với thị trường TPDN
Tháng 12 năm 2006, hội nghị cấp cao về phát triển thị trường tài chính châu Á,
với sự tham gia của 12 ngân hàng trung ương khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã
diễn ra. Hội nghị đặc biệt chú trọng đến việc phát triển thị trường TPDN, hội nghị đã
nêu ra một số khuyến nghị chung cho các nước khu vực châu Á như sau:
- Tự do hóa dòng vốn và thả nổi lãi suất.
- Phát triển hệ thống luật, quy định về tái cấu trúc doanh nghiệp và cơ chế bảo
vệ nhà đầu tư.
- Phát triển các tiêu chuẩn về quản lý công ty nhằm giảm chi phí đại diện, điều
khiển các hoạt động nhằm giảm chi phí vay mượn vốn của các công ty.
- Xây dựng đường cong lãi suất cơ bản ổn định và đáng tin cậy.
- Phát triển thị trường sơ cấp và thứ cấp minh bạch và hiệu quả.
16
- Mở rộng các đối tượng nhà đầu tư thông qua việc tạo lập các quỹ đầu tư trái
phiếu.
- Mở cửa thị trường tín dụng và tiền tệ.
- Cung cấp những công cụ hoán đổi rủi ro tín dụng cho thị trường.
1.3.2. Phát triển tính minh bạch thị trường-kinh nghiệm từ thị trường TPDN
Mỹ
Ở thị trường Mỹ, hầu hết trái phiếu được giao dịch trên thị trường OTC. Khuynh
hướng hiện tại là giao dịch thỏa thuận điện tử. Trước đây, NYSE dẫn đầu thị trường về
giao dịch trái phiếu (hệ thống giao dịch tự động automated bonds system - ABS). Tuy
nhiên đến thời điểm năm 2005, quy mô niêm yết tại NYSE chỉ chiếm khoảng 5% tổng
khối lượng TPDN và thu hút 1% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường.
ABS tuy chỉ niêm yết và thực hiện một khối lượng giao dịch nhỏ nhưng đã góp
phần đáng kể vào tính thanh khoản của thị trường. Trên ABS, các công ty thành viên
sẽ giao dịch trên tài khoản của mình một khi nhà đầu tư có yêu cầu dù mức giá đưa ra
không phải là mức giá tốt hơn, hoạt động này một mặt bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ, một
mặt khác thông qua giao dịch công khai các trái phiếu niêm yết sẽ tạo ra mức giá
chuẩn cho thị trường (price discovery) đồng thời cung cấp một số thông tin cần thiết
cho toàn thị trường trái phiếu (Schinasi và Smith,1998) [7].
Từ năm 2002, hiệp hội môi giới chứng khoán Mỹ đã có sự điều chỉnh nhằm làm
minh bạch hóa giá cả trái phiếu giao dịch trên thị trường OTC thông qua các báo cáo
giao dịch TRACE (Trade Reporting And Compliance Engine). Kể từ tháng 6 năm
2002, tất cả các giao dịch trái phiếu nằm trong qui định của TRACE sẽ phải báo cáo về
hiệp hội môi giới chứng khoán Mỹ. Cứ mỗi 15 phút các nhà môi giới chứng khoán
phải báo cáo một lần. Thông tin giao dịch của các trái phiếu trên thị trường OTC được
công bố hàng ngày từ thứ 2 đến thứ 6. Mặc dù cả ABS và TRACE đều tồn tại một số
nhược điểm nhất định như không thể phản ánh hết toàn bộ các loại trái phiếu giao
dịch, TRACE chỉ minh bạch được những công ty trước khi giao dịch chứ không bao
quát được những thông tin trước lúc phát hành nhưng hai hệ thống này đã làm gia tăng
đáng kể tính minh bạch của thị trường TPDN Mỹ.
1.3.3. Thị trường TPDN Malaysia
Sự phát triển của thị trường TPDN Malaysia bắt đầu từ những năm 1970 khi chính
17
phủ bắt đầu phát hành trái phiếu để tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Từ
giữa những năm 1980, khu vực tư nhân đã bắt đầu được coi là có vai trò quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế của Malaysia. Trong suốt thời gian đó nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1997-1998 đã vạch rõ
những nhược điểm của của nền kinh tế quá phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Bài học
từ cuộc khủng hoảng đã khiến chính phủ Malaysia nỗ lực nhiều hơn trong việc phát triển
thị trường TPDN, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thay đổi nguồn huy động vốn và giảm
những sai lầm của hệ thống cho vay. Hiện nay, thị trường TPDN Malaysia rất phát triển,
là một trong 3 nước có thị trường TPDN dẫn đầu khu vực châu Á cùng với Nhật Bản và
Hàn Quốc.
1.3.3.1. Những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến thị trường TPDN Malaysia
a. Các cơ quan giám sát và cơ sở hạ tầng cho thị trường
Tháng 3/1993, Ủy ban chứng khoán được thành lập và hoạt động như một cơ
quan độc lập nhằm hỗ trợ sự phát triển của thi trường vốn.
Hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm cho các công ty trong nước là RAM và MARC
được thành lập vào năm 1990 và 1995.
7/1996, hiệp hội môi giới chứng khoán được thành lập, đại diện cho các cái nhìn
của những chủ thể tham gia trực tiếp vào thị trường làm việc với các nhà hoạch định
chính sách để khuyến khích sự phát triển của thị trường.
Về hoạt động thông tin và giao dịch, BNM tự động hóa và đặt trên hệ thống
online khá nhiều bước nhằm tăng tính hiệu quả và giảm chi phí. Hoạt động này bao
gồm:
- Hệ thống đấu giá tự động (FAST) được thành lập và 11/1996.
- Hệ thống thanh toán (RENTAS) được thành lập vào 6/1999.
- 10/1997, thành lập hệ thống thông tin BIDS
Ủy ban trái phiếu quốc gia (NBMC) được thành lập năm 1999 là một trong
những bước tiến quan trọng đối với thị trường TPDN Malaysia. Thành viên của ủy ban
là đại diện cấp cao của bộ tài chính, ủy ban kế hoạch kinh tế, ngân hàng trung ương,
ủy ban chứng khoản, đại diện các công ty đăng kí. Mục tiêu của tổ chức này là hoạch
định những chỉ dẫn chính sách trong tầm nhìn dài hạn. Bước đầu tiên, NBMC cho
18
phép ủy ban chứng khoán hoạt động độc lập trong việc quản lý sự phát triển của thị
trường TPDN.
Ủy ban chiến lược thị trường vốn (ra đời năm 1999) đã phát hành kế hoạch thị
trường vốn (CMP) vào năm 2001, trong đó trình bày rõ chiến lược phát triển thị
trường vốn cho mười năm tiếp đó. CMP chia 10 năm thành 3 giai đoạn phát triển và đề
xuất 152 lời khuyên chi tiết cho thị trường TPDN.
b. Hợp tác khu vực
Thị trường trái phiếu nội địa cũng được hưởng lợi từ những khu vực hợp tác của
chính phủ Malaysia. Biên giới quốc gia được gỡ bỏ nhờ vào những chia sẻ kinh
nghiệm và chuyển giao về kỹ thuật. Thị trường trái phiếu Malaysia đã được hỗ trợ phát
triển hiệu quả nhờ nhận hai gói hỗ trợ ABF1 và ABF2 từ diễn đàn cấp cao các ngân
hàng trung ương khu vực châu A-Thái Bình Dương (EMEAP).
1.3.3.2. Đặc điểm của thị trường TPDN Malaysia
a. Cải tiến các qui định đối với doanh nghiệp phát hành
Nhằm sắp xếp hợp lý tiến trình phát hành, hệ thống quản lý dựa trên cơ sở giá trị
được thay thế bằng hệ thống quản lý dựa trên cơ sở thông tin. Tháng 7/2000, ủy ban
chứng khoán Malaysia đã ban hành “hướng dẫn về phát hành chứng khoán nợ tư
nhân” , hướng dẫn này đã có tác động đáng kể đến việc thúc đẩy tiến trình phát hành.
Thời gian đăng ký phát hành giảm xuống còn 14 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ phát
hành thay vì 9-12 tháng như trước. Những điều chỉnh trong các qui định đối với nhà
phát hành đã khiến các doanh nghiệp hào hứng hơn với trái phiếu và tiến hành huy
động vốn bằng trái phiếu thay vì phát hành cổ phiếu.
b. Đa dạng hóa sản phẩm
Sau một thời gian phát triển của thị trường trái phiếu, khả năng huy động nguồn
tài chính của doanh nghiệp trở nên linh động hơn, thị trường tài chính đáp ứng được
nhu cầu của cả nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Các qui định về phát hành các loại trái
phiếu cũng linh động hơn trong tiến trình đăng kí và phát hành, nhờ đó đã thúc đẩy tạo
ra nhiều sản phẩm mới.
c. Những yêu cầu về tính thanh khoản
Yêu cầu về xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp phát hành là BBB trở
19
lên, sự chênh lệch lãi suất giữa các công ty A với BBB cho thấy các nhà đầu tư ưa
thích trái phiếu của các công ty hạng mức tín nhiệm cao hơn.
1.3.4. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia
1.3.4.1. Thuận lợi và thách thức của của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Australia
Sự điều tiết kinh tế vĩ mô và các chính sách quản lý tốt đã mang lại nhiều lợi thế
cho thị trường TPDN Australia. Thị trường TPCP phát triển và vận hành tốt cung cấp
đường cong lãi suất cơ bản cho thị trường, hỗ trợ cho thị trường tương lai về TPDN
phát triển, làm cơ sở cho định giá trái phiếu với những kì hạn khác nhau.
Bên cạnh đó, chương trình giảm thiểu các qui định đối với thị trường đã dẫn đến
rất nhiều những thay đổi trong hệ thống điều chỉnh, những qui định đã từng giới hạn
thay đổi lãi suất và khả năng mua bán của nhà đầu tư đã được điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.
Hệ thống luật nội địa được thiết lập tốt, bao quát được hoạt động của các quỹ đầu
tư. Tính không chắc chắn của đầu tư được giảm thiểu nhờ vào sự tham gia của các quĩ
đầu tư trong việc huy động vốn và quản trị công ty, kết hợp với mộtmôi trường kinh tế
vĩ mô ổn định, lạm phát được duy trì ở mức thấp, lãi suất giảm, lợi nhuận từ các khoản
tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kì hạn ở ngân hàng thấp đã thúc đẩy nhà đầu tư tìm
kiếm những cơ hội đầu tư với tỉ suất sinh lợi cao hơn, từ đó làm tăng tính hấp dẫn của
TPDN.
1.3.4.2. Xu hướng phát triển hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Australia
Từ giữa những năm 1990, thị trường TPDN Australia đã phát triển khá nhanh
chóng. Chứng khoán có tài sản đảm bảo là loại hình được phát hành rộng rãi nhất
trong suốt thời kì này. Các nguyên nhân được dẫn ra trong báo cáo của Ngân hàng dự
trữ Australia tại hội nghị cấp cao các ngân hàng và định chế tài chính năm 2005 tại
Trung Quốc như sau:
- Phát triển kinh tế vĩ mô bền vững trong suốt những năm 1990, điều này đồng
nghĩa với việc sẽ trở nên khả thi hơn cho những nhà cho vay cầm cố (mortgage
originator) tham gia vào thị trường cho vay bất động sản, gia tăng cạnh tranh với các
ngân hàng và những nhà cho vay truyền thống khác.
- Australia đã trải qua một đợt bùng nổ bất động sản đến tận năm 2003. Đã có sự
20
tham gia của rất nhiều nhà đầu tư bán lẻ vào thị trường bất động sản nội địa. Cả những
nhà đầu tư theo phương thức cầm cố và những định chế cho vay truyền thống cần huy
động những khoản cho vay nhà đất với khối lượng lớn, bởi vậy mà việc phát hành trái
phiếu đảm bảo bằng tài sản cầm cố tăng trưởng rất nhanh.
1.3.4.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia và thị trường ngoại hối
Thị trường TPDN Australia phát triển thuận lợi hơn nhờ vào sự tồn tại của một
thị trường ngoại hối hội nhập sâu và tính thanh khoản cao. Mối quan hệ giữa hai thị
trường thể hiện qua hai kênh chính sau:
- Thứ nhất là thị trường SWAP, sự phát triển của thị trường này luôn là yêu cầu
tiên quyết khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường nội địa cũng như nhà đầu tư
trong nước đầu tư ra nước ngoài.
- Thứ hai là một thị trường kì hạn về tiền tệ được vận hành tốt, kênh này đã giúp
nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước giảm thiểu rủi ro tỉ giá.
1.3.4.4. Những đặc trưng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Australia
a. Thị trường sơ cấp
Những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chủ yếu ở Australia là Fitch ratings, Moody’s
và Standard and Poor’s. Hầu hết các doanh nghiệp phát hành trái phiếu đều được xếp ở
hạng mức cao, một lượng rất nhỏ xếp hạng BBB hoặc thấp hơn.Ở Australia, trái phiếu
các doanh nghiệp được đánh giá dựa vào những trái phiếu tương tự trên thị trường
quốc tế. Do những tiêu chuẩn toàn cầu, TPDN nội địa Australia thường có kì hạn
tương đối ngắn, khoảng từ 4-6 năm. Xu hướng này cũng phản ánh một sự ưa thích hơn
của các nhà đầu tư nói chung đối với những trái phiếu có kì hạn tương tự.
Qui mô các đợt phát hành ở thị trường trong nước của các doanh nghiệp tăng lên
cao thay vì xu thế phát hành ở thị trường nước ngoài như trước đây. Từ năm 2004, thị
trường trái phiếu nội địa đã tăng trưởng đủ lớn mạnh về qui mô để hấp thụ các đợt phát
hành qui mô lớn.
b. Các nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp
Những nhà đầu tư lớn nhất trong thị trường TPDN là các quĩ đầu tư mạo hiểm,
các tổ chức bảo hiểm nhân thọ và các công ty quản lý quỹ đầu tư. Các tổ chức này nắm
giữ khoảng 50% tổng khối lượng trái phiếu trên thị trường.
Giữ vị trí tiếp theo về khối lượng trái phiếu nắm giữ trên thị trường là các nhà
21
đầu tư nước ngoài, đến năm 2005, khối lượng trái phiếu do nhà đầu tư nước ngoài nắm
giữ chiếm khoảng 1/4 toàn thị trường.
Các ngân hàng đầu tư và các định chế liên quan nắm giữ khoảng 20% khối lượng
trái phiếu trên thị trường. Kênh đầu tư trực tiếp từ các nhà đầu tư cá nhân theo thống
kê chưa tới 2% khối lượng TPDN toàn thị trường
c. Giao dịch và định giá trong thị trường thứ cấp
Giao dịch thứ cấp của cả TPCP và TPDN đều được thực hiện trên thị trường
OTC với khoảng 10 nhà tạo lập thị trường đối với TPDN.
Mức giá của các trái phiếu dựa trên đường cong lãi suất hình thành đặc biệt dựa
trên các hợp đồng tương lai của TPCP và đường cong lãi suất của các nghiệp vụ hoán
đổi. Những thông tin khác để định giá là dựa trên xếp hạng tín nhiệm.
Tính thanh khoản của thị trường TPDN Australia tương đối cao so với thị trường
các nước khác trên thế giới. Những trái phiếu có tính thanh khoản thấp nhất trên thị
trường là trái phiếu có đảm bảo của những công ty nhỏ, hạng mức tín nhiệm thấp. Thời
gian thanh toán bù trừ là T+3. Các giao dịch đều thực hiện thanh toán điện tử. Hầu hết
trái phiếu đều được đăng ký về một đầu mối là Austraclear, hệ thống thanh toán trực
thuộc sở giao dịch chứng khoán Sydney.
1.3.5. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp New Zealand
Thị trường TPDN New Zealand bắt đầu phát triển từ cuối những năm 1980, nhờ
vào sự thay đổi giảm bớt các qui định rào cản đối với hệ thống tài chính quốc gia và
thả nổi lãi suất đồng NZD. Tuy nhiên, cho đến năm 2005 (New Zealand 2005) thị
trường trái phiếu nội địa phát triển rất chậm. Những lí do đưa ra là:
- Hoạt động huy động vốn phát triển chậm, không tạo ra nhu cầu về phát hành
các tài sản tài chính.
- New Zealand có một đường cong lãi suất phẳng và điểm cao nhất thường đối
với những khoản vay kì hạn 90 ngày. Điều này làm cho tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng rất hấp dẫn và khiến các khoản huy động tín dụng dài hạn trở nên rất khó khăn.
- Thị trường ngoại hối hoạt động rất hiệu quả, kết quả là các nhà đầu tư trong
nước dễ dàng đầu tư ra nước ngoài mà vẫn có thể phòng ngừa được rủi ro về tỉ giá.
Điều này cũng góp phần làm giảm sự quan tâm của nhà đầu tư với thị trường nội địa.
Sau đây là một số điểm đáng chú ý của thị trường TPDN New Zealand:
22
a. Lãi suất cho trái phiếu doanh nghiệp
Mỗi nhà đầu tư có một cách thiết lập và đánh giá riêng cho mình, một số nhà đầu
tư sử dụng đánh giá của các ngân hàng, số khác lại tin tưởng và sử dụng báo cáo của
Reutuers, không có một cơ sở thống nhất chung cho thị trường.
b. Thị trường thứ cấp cho trái phiếu doanh nghiệp
Qui mô thị trường thứ cấp New Zealand còn rất nhỏ và tính thanh khoản thấp.
Hoàn toàn không có các nhà tạo lập thị trường, chỉ một số ngân hàng địa phương đôi
khi thực hiện các giao dịch không phải với mức giá tốt hơn để tạo điều kiện cho khách
hàng của họ. Những chủ thể nắm giữ TPDN chủ yếu là nhà đầu tư bán lẻ, những nhà
quản lý quỹ, các nhà đầu tư tổ chức và ngân hàng.
c. Xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp phát hành
Hạng mức tín nhiệm các doanh nghiệp phát hành rất thấp, chỉ xấp xỉ 50% được
xếp hạng A trở lên trong khi số còn lại thấp hơn BBB+ hoặc không được xếp hạng.
d. Phát hành trái phiếu quốc tế
Phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp New Zealand rất phát triển,
đặc biệt là từ cuối năm 2005 bởi vì thị trường quốc tế dễ huy động với khối lượng lớn,
các doanh nghiệp sau đó dễ dàng chuyển đổi thành đồng NZD với nghiệp vụ SWAP.
Có thể nhìn thấy hai xu hướng tách bạch trong thị trường trái phiếu New
Zealand, một thị trường nội địa kém phát triển và một thị trường quốc tế phát triển. các
nhà đầu tư đã tận dụng ưu thế về sự phát triển của thị trường tiền tệ New Zealand, nhà
đầu tư nước ngoài chuyển đổi từ đồng NZD thành những khoản đầu tư bằng USD,
trong khi các nhà phát hành trong nước thì phát hành trái phiếu ra nước ngoài rồi đổi
ngược thành NZD. Một xu hướng gần như đi ngược lại với những thị trường thông
thường. Điều này tuy thực sự không phải là một điểm phát triển tốt cho thị trường trái
phiếu nhưng nó cũng góp phần vào tính sôi động của thị trường, đặc biệt nó khuyến
khích mạnh sự tham gia của các tổ chức đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Xuất phát từ những đặc điểm riêng có của hàng hóa giao dịch trên thị trường là
TPDN, thị trường TPDN có những đặc điểm khá đặc biệt. Tổng kết kinh nghiệm từ
các thị trường trái phiếu trên thế giới cho thấy đặc điểm về tính thanh khoản thấp của
23
thị trường trái phiếu tuy là một khó khăn đối với nhà đầu tư nhưng lại gần như là một
đặc điểm cố hữu của thị trường này, đi kèm theo tính thanh khoản thấp là đặc điểm đặc
trưng về giao dịch trên thị trường OTC. Do đó, để đẩy mạnh tính thanh khoản cũng
như tăng sự minh bạch thông tin về giao dịch thì sự có mặt của các trung tâm tập trung
thông tin về giao dịch OTC là khá quan trọng. Bên cạnh đó, một thị trường tiền tệ phát
triển tốt cũng là một chất xúc tác quan trọng cho sự phát triển của thị trường. Trong sự
phát triển của các thị trường TPDN ở giai đoạn đầu, chính phủ và các cơ quan quản lý
liên quan không chỉ đóng vai trò là người tạo lập môi trường phát triển thuận lợi mà
còn là người đưa ra những định hướng và các chỉ dẫn dẫn dắt thị trường.
24
2. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 ảnh hưởng mạnh đến hầu hết các nền
kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sau 3 năm, nền kinh tế thế giới đang dần
bước những bước phục hồi tuy nhiên hết sức chậm chạp. Biểu đồ 2.1 thể hiện một
vài chỉ tiêu kinh tế quan trọng của Việt Nam giai đoạn 2008-2010. Trong bối cảnh
chung của nền kinh tế toàn cầu, các chuyên gia vẫn có những nhận định hết sức khả
quan về nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam đạt 6,87% so với năm 2009, giữ
tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm.
Tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với
năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân
cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước bằng
22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong
nước được huy động tích cực hơn.
Kết thúc năm 2010, vốn FDI thực hiện đạt 11 tỷ USD, tăng 11% so với năm
trước, trong đó vốn thực hiện của các nhà đầu tư nước ngoài đạt khoảng 8 tỷ USD,
tăng 9,5% so với năm 2009 và vượt mức dự kiến cho năm 2010.
Bội chi ngân sách đạt hơn khoảng 110 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 5.8% GDP,
giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%).
Năm 2010 cũng chứng kiến giai đoạn tăng trưởng mạnh của khu vực kinh tế tư
nhân khi tổng sản phẩm khu vực tư nhân chiếm 48% GDP (so với mức 45,6% tổng
GDP năm 2006) và tạo ra 50,2% việc làm của cả nước.
Tuy nhiên, bước sang các tháng đầu năm 2011, bức tranh tổng quan nền kinh tế
dường như có những biểu hiện kém khả quan. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm
mạnh trong quí 1/2011 ở mức 5,43%, thấp nhất từ 3/2009 trở lại đây.
Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện. Theo Tổng
cục thống kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5 nghìn tỷ
25
đồng, tăng 14,7% so cùng kỳ năm ngoái và bằng 38.8% của GDP. Trong khi đó,
hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ số ICOR quý 1 ở mức 7,15 lần,
cao hơn con số 6,2 lần của cả năm 2010. Chất lượng đầu tư thấp cho thấy tính bền
vững trong tăng trưởng của nền kinh tế đang gặp thách thức nghiêm trọng.
Bảng 2.1. Chỉ tiêu kinh tế thực tế và dự kiến một số năm
Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011f ĐV
Tăng trưởng GDP 6,18 5,32 6,87 6,30 %
Tổng sản phẩm quốc nội Tỷ VND 1.477.717 1.645.481 1.980.914 2.377.097
Tổng sản phẩm quốc nội Tỷ USD 89,55 91,53 104,60 110,56
Thu nhập bình quân USD 1.052 1.064 1.175 1.256
Tăng trưởng SXCN 14,60 7,60 14,00 14,50 %
Tăng trưởng bán lẻ (loại tăng giá) 6,50 18,60 14,00 16,00 %
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 19,89 6,52 11,50 13,50 %
Xuất khẩu Tỷ USD 62,90 56,58 71,60 82,34
Nhập khẩu Tỷ USD 80,41 68,83 84,00 95,76
Thâm hụt thương mại Tỷ USD (17,51) (12,25) (12,40) (13,42)
FDI đăng ký Tỷ USD 75,00 21,50 18,60 18,00
FDI giải ngân Tỷ USD 11,50 10,00 11,00 12,00
Tăng trưởng tín dụng % 20,79 37,74 29,89 23,00
Tăng trưởng cung tiền % 20,76 28,40 25,30 21,00
Tỷ giá USD/VND VND/USD 17,486 18,435 19,500 22,500
( Nguồn: TCTK và dự báo của Vietstock)
Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện. Theo Tổng
cục thống kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5 nghìn tỷ
đồng, tăng 14,7% so cùng kỳ năm ngoái và bằng 38.8% của GDP. Trong khi đó,
hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ số ICOR quý 1 ở mức 7,15 lần,
cao hơn con số 6,2 lần của cả năm 2010. Chất lượng đầu tư thấp cho thấy tính bền
vững trong tăng trưởng của nền kinh tế đang gặp thách thức nghiêm trọng.
Lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế. CPI tháng 3/2011
tăng 2.17% so với tháng 2, như vậy đã tăng 6,12% so với đầu năm và tăng 13,89%
26
so với cùng kỳ năm trước.
Tài khoản vãng lai thâm hụt lớn từ 10-12% trong những năm gần đây. Thâm
hụt cán cân vãng lai kết hợp với suy giảm niềm tin của người dân vào nội tệ và tình
trạng đô la hóa trong nền kinh tế tăng đã dẫn đến giá trị đồng nội tệ liên tục suy
giảm, tính từ năm 2008 đến nay, đồng nội tệ đã mất giá 20% so với đồng USD.
Mặt bằng lãi suất trong nước tăng cao, lãi suất cho vay tiêu dùng ở mức 25-
30%, lãi suất cho vay sản xuất cũng dao động quanh mức 20%. Đáng chú ý, nền
kinh tế Việt Nam đang có tình trạng đường cong lãi suất nằm ngang.
Từ năm 2009 trở lại đây, thị trường vốn Việt Nam chứng kiến một diễn biến kì
lạ khi mà các dòng vốn nóng từ chối không vào thị trường Việt Nam trong khi các
quốc gia khác lại phải tập trung nỗ lực hạn chế các dòng vốn này. Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) tính từ đầu năm đến tháng 3/2011 đạt 2,37 tỷ USD, giảm
33,1% so với cùng kỳ năm 2010. Theo một số chuyên gia nhận định, trong những
nguyên nhân làm chững lại dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, ngoài nguyên nhân do
những bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô còn có nguyên nhân do khả năng hấp thụ vốn
của bản thân nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn chung, tình hình tổng quan nền kinh tế Việt Nam vẫn khả quan, tuy nhiên
trong nền kinh tế vẫn hàm chứa nhiều rủi ro cả vĩ mô lẫn vi mô. Đối với các doanh
nghiệp và cả nhà đầu tư nói chung, có thể thấy đây là giai đoạn khá khó khăn.
2.2. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM
2.2.1. Khái quát về thị trường trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2000-2011
Năm 2000, trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nay là sở
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ra đời, đánh dấu bước phát triển mới
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Một thị trường cổ phiếu phát triển nhanh đã
có những tác động tích cực đến thị trường trái phiếu nói chung mà đặc biệt là TPDN.
Trước năm 2000, đã có một số doanh nghiệp chủ động phát hành trái phiếu tuy
nhiên số lượng rất ít. Khi trung tâm giao dịch chứng khoán ra đời, hệ thống luật điều
chỉnh hoàn thiện hơn, kèm theo đó là các cơ sở vật chất kĩ thuật phát triển đã tạo
điều kiện cho cả phía doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư tham gia vào thị trường
27
TPDN. Khái quát chặng đường 10 năm của thị trường TPDN 2000-2010 có thể chia
thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 2000-2005: thị trường bước đầu có những khởi sắc, tuy nhiên số
lượng doanh nghiệp phát hành vẫn chưa nhiều. Tổng giá trị phát hành toàn thị
trường (không kể giá trị phát hành trái phiếu chuyển đổi của Vietcombank) xấp xỉ
460,64 triệu USD (khoảng 7.310 tỷ VND). Các doanh nghiệp đã dần nhận thấy
những ưu điểm của việc huy động vốn bằng trái phiếu, tuy nhiên vẫn còn những giới
hạn, mặt khác nhà đầu tư vẫn chưa mấy quan tâm đến TPDN.
Giai đoạn 2006-2010: điểm mốc đánh dấu cho sự chuyển giao giữa hai giai
đoạn chính là sự kiện Vietcombank phát hành thành công 1.365 tỷ đồng trái phiếu
chuyển đổi vào tháng 12/2005. Như một làn gió mới thổi vào thị trường trái phiếu
Việt Nam, sự kiện này đã thu hút sự chú ý rất lớn của nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Giai đoạn 2005-2010 tuy là giai đoạn nhiều thăng trầm đối với thị trường cổ phiếu
nhưng lại là giai đoạn phát triển tương đối ổn định của TPDN. Đặc biệt, trong hai
năm 2009, 2010, thị trường chứng kiến làn sóng phát hành trái phiếu mạnh mẽ của
các doanh nghiệp). Trong hai năm này, tổng giá trị phát hành trái phiếu đạt 75.000
tỉ đồng so với tổng số 120.000 tỉ của cả 5 năm từ 2006-2010. Những yếu tố vĩ mô
thuận lợi tác động đến sự phát triển của thị trường TPDN giai đoạn này có thể dẫn
ra như sau:
- Hệ thống văn bản qui phạm điều chỉnh ngày càng hoàn thiện, với những qui
định rõ ràng và chi tiết hơn.
- Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường cổ phiếu và hệ thống ngân hàng tạo ra
động lực phát triển hệ thống cơ sở kỹ thuật và nhân lực cho toàn thị trường chứng
khoán, gia tăng minh bạch và thanh khoản của thị trường, đồng thời cũng góp phần
cổ vũ nhà đầu tư trong nước tham gia đầu tư vào TPDN.
- Sự tham gia của các tổ chức và các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài
chính mạnh và kinh nghiệm đầu tư tốt cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của thị trường.
- Thị trường TPCP phát triển ổn định xác định đường cong lãi suất cơ bản cho thị
trường.
- Năm 2009 sang năm 2010, lãi suất cơ bản ở mức thấp, một giai đoạn tín dụng
28
ngân hàng thắt chặt, tổng hợp hai yếu tố này vừa tạo ra tính hấp dẫn đối với nhà đầu
tư vào thị trường đồng thời gia tăng áp lực cho các công ty về phát hành trái phiếu
để huy động vốn.
Thống kê về quy mô thị trường TPDN Việt Nam ở thời điểm hiện tại có khá
nhiều nguồn tin đưa ra với các số liệu không thống nhất với nhau. Theo nguồn thống
kê dựa vào số liệu trình bày trong giới hạn đề tài thì tổng giá trị thị trường trái phiếu
Việt Nam hiện tại vào khoảng 4,5 tỷ USD tương đương với khoảng 4,3% GDP năm
2010.
Trên thị trường sơ cấp, số lượng nhà phát hành cũng tăng lên với phạm vi
ngành nghề rộng hơn. Nếu trước năm 2008, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu
chủ yếu là các tập đoàn kinh tế nhà nước có uy tín rất lớn trên thị trường, những anh
cả của nền kinh tế như EVN, Vinashin, Lilama, Vietcombank, BIDV thì từ năm
2008, các doanh nghiệp với uy tín thấp hơn, qui mô nhỏ hơn cũng hào hứng tham
gia vào thị trường và đã thành công.
Về phía nhà đầu tư, thành phần tham gia chủ yếu trên thị trường sơ cấp vẫn là
các định chế tài chính. Một lượng lớn TPDN được các NHTM nắm giữ, về cơ bản,
đây có thể được coi như một hình thức cấp tín dụng cho doanh nghiệp của các ngân
hàng.
Trên thị trường thứ cấp, các giao dịch TPDN rất ít và chủ yếu diễn ra trên thị
trường OTC. Ghi nhận giao dịch TPDN thứ cấp trên HOSE gần như bằng không.
Tính thanh khoản của thị trường rất thấp kể cả trong giai đoạn hoạt động phát hành
nở rộ vào năm 2010.
Bước sang đầu năm 2011, tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, tác động
bất lợi đến toàn bộ nền kinh tế. Lãi suất cho vay trên thị trường lên đến 20% tác
động trực tiếp đến khả năng phát hành của các doanh nghiệp. Tổng số doanh nghiệp
đăng kí phát hành trái phiếu trong năm 2011 hiện đã đăng kí chỉ khoảng 30 doanh
nghiệp. Trong 4 tháng đầu năm, mới có trên 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu
với số tiền thu được chỉ vào khoảng 4.000 tỷ đồng mặc dù đã phải trả với lãi suất
13,5-15,5%/năm. Bên cạnh đó, lãi suất tăng cao, rủi ro tiềm ẩn trong nền kinh tế
ngày càng lớn cũng ảnh hưởng làm giảm tính hấp dẫn của TPDN. Đáng chú ý, năm
tháng đầu năm ghi nhận một số đợt phát hành TPCP nhưng nhà đầu tư không mấy
29
quan tâm, cho thấy xu hướng thờ ơ của thị trường đối với trái phiếu, điều này ngược
lại lại tác động đến tâm lý và phân tích của các nhà đầu tư, dễ đưa thị trường đến xu
hướng đi xuống trầm trọng hơn.
2.2.2. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong sự phát triển
chung của thị trường tài chính
Bất kì một thành phần nào trong nền kinh tế cũng phát triển trong mối tương
quan với những yếu tố tồn tại xung quanh nó trong xã hội, sự phát triển của thị
trường TPDN nằm trong mối quan hệ tác động qua lại với những nhân tố khác trong
nền kinh tế. Đặc biệt, với hình thức của TPDN là một chứng khoán nợ dài hạn, một
công cụ đầu tư trên thị trường vốn thì sự phát triển của nó nằm trong mối liên hệ
chặt chẽ với những thành phần khác trong thị trường.
Nghiên cứu của Endo công bố năm 2000 dựa trên quan sát thị trường TPDN
các nền kinh tế mới nổi đã kết luận rằng sự phát triển thị trường TPDN của khu vực
đồng biến với sự phát triển của thị trường cổ phiếu, thị trường TPCP và thị trường
tín dụng ngân hàng. Trong mối tương quan này, thị trường TPCP có ảnh hưởng
nhiều nhất, tiếp theo là thị trường tín dụng ngân hàng và sau cùng là thị trường cổ
1,40
1,20
1,00
0,80
0,60
phiếu [9].
P D G %
0,40
0,20
0,00
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
năm
tín dụng ngân hàng trái phiếu chính phủ
vốn hóa equity trái phiếu doanh nghiệp
Biểu đồ 2.1. Phần trăm giá trị theo GDP các khu vực của thị trường tài chính
( Nguồn: World Bank, [18])
Không nằm ngoài qui luật chung của thị trường các quốc gia trên thế giới, sự
30
phát triển thị trường TPDN Vi Việt Nam cũng có tương quan chặt chẽ với th i thị trường
TPCP, thị trường cổ phiếu và th u và thị trường tín dụng ngân hàng. Trong gi ng ngân hàng. Trong giới hạn khả
năng thu thập số liệu của đề tài chưa cho phép việc sử dụng mô hình ki ng mô hình kiểm định
tương quan sự phát triển giữa các th a các thị trường, tuy nhiên, nhận xét định tính d nh tính dựa trên
biều đồ số liệu của các thị trư trường có thể đưa ra kết luận ở thị trường Việ ệt Nam mối
quan hệ giữa các thị trường này là tương quan đ ng này là tương quan đồng biến với nhau.
Một cách khái quát có th t cách khái quát có thể nhìn thấy 2 mối tương tác ngược chiều nha u nhau trong
mối quan hệ giữa các thị trường công c ng công cụ tài chính dài hạn.
Mối quan hệ thứ nhất chính là s t chính là sự tương trợ nhau cùng phát triển, cùng là nh n, cùng là những
công cụ tài chính được sử dụng trong th ng trong thị trường vốn, sự phát triển của thị ị trường các
công cụ này tất nhiên bị chi ph chi phối bởi một số nhân tố chung mà những nhân t ng nhân tố này
cùng lúc có ảnh hưởng gần như nhau lên các thành ph n như nhau lên các thành phần của thị trường. M ng. Một vài
nhân tố tác động nhiều nhất trong s t trong số đó ở nước ta hiện nay chính là tính thanh kho n nay chính là tính thanh khoản
của thị trường, tâm lý nhà đầu tư và u tư và sự phát triển cơ sở hạ tầng giao dịch. Giai đo ch. Giai đoạn
2005-2010 với sự phát triển m n mạnh của thị trường cổ phiếu, thị trường tín d ng tín dụng ngân
hàng và sự ổn định của thị trườ ờng TPCP đã tạo đà cho TPDN phát triển, đ n, đặc biệt thời
gian 2005-2007 khi thị trường c ng cổ phiếu và hệ thống ngân hàng phát triển m n mạnh cũng
là khoảng thời gian chứng ki ng kiến những sự tăng trưởng đáng ghi nhận c n của TPDN.
Biểu đồ 2.2 cho thấy giá trị phát hành TPDN qua các năm t phát hành TPDN qua các năm từ 2000 – 2010, ghi nh 2010, ghi nhận
con số tăng trưởng đột biến củ ủa TPDN trong giai đoạn 2005-2007.
)
2500
2000
1500
1000
D S U u ệ i r t ( h n à h t á h p
500
ị r t á i G
0
Năm
2000 2001 2002
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Biểu đồ ồ 2.2. Giá trị phát hành qua các năm
(Nguồn: theo Vương Quân Hoàng và Tr theo Vương Quân Hoàng và Trần Trí Dũng(2010) [ [17])
31
Mối quan hệ thứ hai là sự cạnh tranh giữa các công cụ này với nhau. Giống
như những hàng hóa thông thường, do đặc tính về khả năng thay thế tương đối nên
vẫn luôn tồn tại sự cạnh tranh giữa các công cụ tài chính với nhau. Ở Việt Nam, hệ
thống tài chính dù đã phát triển hơn trước rất nhiều nhưng so với các nước khác thì
thị trường tài chính Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu (early stage). Do đó,
tiềm năng phát triển của cả thị trường nói chung còn khá lớn, một mặt khác, do trình
độ phát triển kinh tế chưa cao, sự phân định thị trường chưa thực sự rõ ràng nên nhìn
chung sự cạnh tranh giữa các công cụ tài chính dài hạn với nhau vẫn tồn tại nhưng
không biểu hiện nhiều.
2.2.3. Đánh giá sơ lược các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị
trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
2.2.3.1. Lỗ hổng ở thị trường tiền tệ
Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cho thấy sự có mặt của một
thị trường tiền tệ vận hành tốt là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường TPDN.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, ngoài thị trường tín dụng ngân hàng ngắn hạn phát
triển mạnh thì thị trường tiền tệ có thể nhận định là chưa tốt và ít ổn định. Biểu đồ
2.3 thể hiện % giá trị theo GDP của các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường hai
nước Việt Nam và Malaysia, so sánh với thị trường Malaysia là một nền kinh tế
cùng khu vực, giá trị thị trường các công cụ nợ ngắn hạn theo GDP của Malaysia
0,15
Malaysia
0,10
gần như gấp đôi Việt Nam.
P D G o e h t
Việt Nam
%
0,05
ị r t á i G
0,00
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Năm
Biểu đồ 2.3. So sánh giá trị % theo GDP của công cụ nợ ngắn hạn
(Nguồn: World bank)
32
2.2.3.2. Chính sách điều chỉnh
Hoạt động phát hành và mua bán TPDN hiện nay chủ yếu dựa trên luật chứng
khoán 2006, luật doanh nghiệp 2005, nghị định 52//2006/NĐ-CP về phát hành TPCP
và quyết định 07/2008/QĐ-NHNN tổ chức hoạt động các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam. Các qui định này có thể nói là một nỗ lớn của các các cơ quan quản lý nhà
nước nhằm tạo ra một nền tảng cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ chức và cá
nhân tham gia thị trường TPDN nói riêng và trái phiếu nói chung. Tuy nhiên, trong
những khuôn khổ các qui định còn nhiều những tồn tại cần được tháo gỡ. Còn thiếu
sự phối hợp và thống nhất trong công tác quản lý vĩ mô của nhà nước, do đó dẫn đến
tình trạng chống chéo nhau trong các quy định đưa ra giữa cơ quan này với cơ quan
kia, giữa qui định trước với qui định sau. Cả tổ chức phát hành và nhà đầu tư tham
gia trên thị trường đều gặp khó khi những quy định mới đưa ra mà thiếu các văn bản
hướng dẫn chi tiết kèm theo.
2.2.3.3. Sự tập trung sức mạnh thị trường trong thị trường tài chính
Nhìn vào cấu trúc thị trường tài chính hiện nay, dễ dàng nhận thấy hệ thống
ngân hàng đang nắm giữ sức mạnh kiểm soát thị trường. Bên cạnh việc duy trì tăng
trưởng mạnh trong lĩnh vực hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động tiền gửi,
hệ thống NHTM tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động sang thị trường chứng khoán
và các dịch vụ khác. Trên thị trường chứng khoán, các ngân hàng không chỉ nắm giữ
vai trò chủ chốt là những nhà môi giới mà còn đóng vai trò là những nhà đầu tư quan
trọng trên thị trường.
2.2.3.4. Cơ sở nhà đầu tư
Tuy có những bước phát triển mạnh trong những năm gần đây nhưng TPDN
vẫn chưa thể trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn với các nhà đầu tư. Trong bối cảnh
tính thanh khoản thấp, minh bạch thông tin còn hạn chế và tình hình kinh tế vĩ mô
kém ổn định, các nhà đầu tư cá nhân trong nước rất ít tham gia vào thị trường
TPDN. Hiện nay, những nhà đầu tư tham gia chủ yếu vào thị trường là các định chế
tài chính gồm NHTM, các quỹ đầu tư và cá nhà đầu tư nước ngoài.
33
2.2.3.5. Cơ sở hạ tầng thị trường sơ cấp
a. Hệ thống tổ chức phát hành và tư vấn phát hành
Luật chứng khoán 2006 và nghi định 52 của chính phủ về phát hành TPDN cho
phép các CTCK tham gia vào hoạt động bảo lãnh và tư vấn phát hành. Tuy nhiên,
giới hạn về nghiệp vụ bảo lãnh toàn bộ khiến các CTCK với nguồn vốn không lớn
không thể thực hiện nghiệp vụ này. Do đó, các nhà bảo lãnh phát hành hiện nay trên
thị trường trái phiếu thực chất chính là các NHTM với uy tín và nguồn lực tài chính
dồi dào. Đến thời điểm 5/2011, thị trường Việt Nam chưa ghi nhận được sự tham gia
của bất kì định chế tài chính phi ngân hàng nào trong hoạt động bảo lãnh phát hành
trái phiếu. Thị trường hiện tại mới chỉ ở bước đầu phát triển vì vậy mà những khiếm
khuyết của sự không đa dạng hình thức các nhà bảo lãnh phát hành chưa bộc lộ, nếu
xét về lâu dài và định hướng phát triển chiến lược cho thị trường trái phiếu thì thực
trạng trên cần được điều chỉnh.
b. Các công cụ xác định đường cong lãi suất cơ bản.
Thị trường Việt Nam hiện tại đang thiếu một cơ sở xác định lãi suất trong ngắn
hạn. Bề ngoài, những chứng khoán nợ ngắn hạn của chính phủ và lãi suất ngắn hạn
không tác động nhiều đến thị trường TPDN tuy nhiên trên thực tế những những
chứng khoán nợ ngắn hạn của chính phủ sẽ giúp xác định thanh khoản của thị
trường, làm cơ sở để nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành xác định lãi suất dài hạn
[7].
Từ cuối năm 2010 trở lại đây, đường cong lãi suất cơ bản gần như đi ngang,
biểu đồ bên dưới thể hiện đường cong lãi suất của trái phiếu qua các kì hạn, xu
hướng đi ngang của đường cong lãi suất sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý nhà đầu tư.
Nguyên nhân của vấn đề một phần là sự khó khăn chung của các nền kinh tế sau
khủng hoảng, một phần là do quản lý vĩ mô chưa tốt, trong đó có việc phát hành
TPCP - công cụ xác định lãi suất dài hạn trên thị trường còn chưa đi theo chiến lược
dài hạn mà còn thiên về tài trợ thâm hụt ngân sách.
34
Biểu đồ 2.4. Đường cong lãi suất TPCP
(Nguồn: Asia bond)
c. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Theo yêu cầu về xu hướng phát triển của thị trường, trong năm 2008 và
2009,hai trung hoạt động xếp hạng tín nhiệm là CIC và CRV đi vào hoạt động cung
cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp trong nước. Hàng năm, 2 đơn vị
này tổ chức đánh giá các doanh nghiệp và công bố thông tin rộng rãi. Các bảng xếp
hạng VNR 500, VFR 500 đang dần trở thành những cơ sở quen thuộc để nhà đầu tư
xem xét khi đầu tư.
Cùng với hai trung tâm này, một số CTCK, ngân hàng cũng tham gia vào xếp
hạng tín nhiệm doanh nghiệp, đưa ra những cơ sở tham khảo cho nhà đầu tư. Tuy
nhiên, đánh giá chung về hoạt động xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam hiện nay vẫn
chưa hiệu quả, độ tin cậy của các báo cáo về xếp hạng doanh nghiệp chưa cao.
2.2.3.6. Cơ sở hạ tầng thị trường thứ cấp
Hoạt động giao dịch trái phiếu thứ cấp nước ta hiện nay rất ít, chủ yếu diễn ra
trên thị trường OTC thông qua môi giới. Việt Nam hiện tại vẫn chưa có sàn giao
35
dịch chuyên biệt cho TPDN.
Về hệ thống thanh toán và chuyển khoản, cơ sở hiện có của thị trường là nhờ
vào sự phát triển của thị trường cổ phiếu. Hệ thống thanh toán và chuyển khoản hiện
tại được xây dựng hướng đến hoạt động giao dịch cổ phiếu nhiều hơn, do vậy mà
tính phù hợp với giao dịch trái phiếu chưa cao.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Thực tế cho thấy, thị trường TPDN Việt Nam thời gian qua nhìn chung đã có
những bước phát triển đáng ghi nhận. Nhờ đó mà sức thu hút của TPDN cũng tăng
lên đối với cả nhà đầu tư và về phía các doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phát triển vừa
qua mới chỉ là bước đầu, cần có những bước tiến xa hơn để phát triển thị trường
TPDN Việt Nam vươn lên đúng tầm của nó.
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng trong hiện tại cho thấy trong bản thân thị
trường trái phiếu và tổng thể nền kinh tế còn hàm chứa nhiều yếu tố cản trở sự phát
triển của thị trường TPDN cần được giải quyết. Thị trường trái phiếu nước ta hiện tại
phát triển trong mối tương quan đồng biến với sự phát triển các khu vực khác của thị
trường vốn, mối tương quan này khá lớn, bởi vậy mà trong quá trình quản lý cần
phải đặt thị trường trái phiếu trong mối tương quan với các thị trường quanh nó để
có thể đưa ra những quyết sách hợp lý.
36
3. CHƯƠNG III. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM
3.1. NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TRONG
TƯƠNG LAI GẦN
Đánh giá sơ lược về sáu nhóm nhân tố chính tác động đến thị trường trái phiếu
cho thấy những cơ sở để phát triển thị trường trái phiếu đến nay ở Việt Nam còn
những tồn tại và thực sự rất cần những thay đổi và điều chỉnh. Tuy nhiên, việc đồng
loạt cải thiện tất cả các nhân tố không phải là một việc đơn giản và có thể tiến hành
trong thời ngắn, đặc biệt là đối với một nền kinh tế có trình độ phát triển chưa cao
như Việt Nam thì việc tiến hành cùng lúc lại càng không thể. Trên cơ sở so sánh
kinh nghiệm từ thị trường trái phiếu các quốc gia trên thế giới và thực tế thị trường
trái phiếu Việt Nam, có thể nhìn thấy 2 điểm nổi bật cần chú ý phân tích và ưu tiên
đi vào tìm hướng giải quyết:
- Tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tổ chức, phát triển hoạt
động đầu tư vào TPDN của các định chế tài chính.
- Phát triển thị trường TPDN trước lựa chọn chiến lược phát triển thị trường
vốn.
Trong những phần tiếp theo, đề tài sẽ đi sâu vào phân tích những điểm nổi bật
được liệt kê ở trên.
3.2. YẾU TỐ NHÀ ĐẦU TƯ TỔ CHỨC
3.2.1. Nhà đầu tư tổ chức trên thị trường
Thực tế trên thị trường TPDN Việt Nam hiện nay, phần lớn lượng TPDN đang
nằm trong tay các định chế tài chính, tỉ trọng đầu tư của nhà đầu tư cá nhân rất ít. Xu
hướng đầu tư trái phiếu của các định chế tài chính “mua và nắm giữ” là một trong
những nguyên nhân tạo nên tính thanh khoản thấp của thị trường, một khi tính thanh
khoản của thị trường thấp, nó lại tác động ngược trở lại, khiến cho xu hướng nắm
giữ trái phiếu đến đáo hạn lại càng tăng. Đây không phải là tình trạng riêng của thị
trường trái phiếu Việt Nam mà là tình hình chung của hầu hết các thị trường TPDN
37
trên thế giới. Điều này xuất phát từ nguyên nhân do những đặc trưng của trái phiếu.
Theo Schinasi và Smith (1998), do tính đa dạng của trái phiếu về kì hạn, lãi suất và
rủi ro mà giao dịch thứ cấp trái phiếu trở nên bị hạn chế, từ đó dẫn đến tính thanh
khoản của thị trường thấp. Ở những thị trường được coi là có tính thanh khoản cao
nhất thế giới như thị trường TPDN Mỹ hay châu Âu thì mức độ thanh khoản vẫn
được nhận định ở là ở mức thấp [7].
Như vậy, từ thực thế ở nhiều thị trường trên thế giới đồng thời cũng xuất phát
từ đặc điểm của TPDN, có thể nhận định rằng thanh khoản thị trường thấp gần như
là một đặc trưng của thị trường TPDN nói chung. Với những đặc điểm về tính thanh
khoản thấp và giao dịch chủ yếu diễn ra trên thị trường OTC, có thể đi đến kết luận
rằng: đối với thị trường TPDN, nhà đầu tư tổ chức là thành phần chính và dẫn dắt thị
trường, các định chế tài chính với tiềm lực tài chính mạnh, năng lực thẩm định tốt
mới thực sự là những nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường trên thị trường.
Ở Việt Nam thời gian vừa qua, trong những công bố sơ lược về chiến lược phát
triển thị trường chứng khoán đến năm 2020, ủy ban chứng khoán nhà nước đã xác
định sẽ ưu tiên phát triển nhà đầu tư tổ chức vì mục tiêu phát triển bền vững của thị
trường chứng khoán, đây là một hướng đi phù hợp với xu thế phát triển chung của
thị trường. Với riêng thị trường TPDN, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tổ chức không
chỉ vì sự sự phát triển ổn định của thị trường mà là một trong những điều kiện quyết
định sự phát triển của thị trường TPDN Việt Nam trong thời gian tới.
3.2.2. Thực tế tình hình đầu tư của các định chế tài chính vào trái phiếu
doanh nghiệp
Ở thị trường Việt Nam hiện nay, các đối tượng được gọi là nhà đầu tư tổ chức
bao gồm các NHTM, các công ty tài chính, quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm. Do
đặc thù của thị trường TPDN Việt Nam là có tính thanh khoản quá thấp và rủi ro cao
nên những tổ chức đầu tư vào TPDN đa phần là những định chế tài chính lớn, nguồn
tài chính dồi dào và có nhiều kinh nghiệm. Xét trên tổng quan toàn thị trường có thể
phân chia hoạt động đầu tư của các định chế tài chính vào thị trường TPDN thành
hai nhóm: nhóm 1 là các NHTM (và các công ty con trực thuộc) chiếm một tỉ trọng
lớn trong đầu tư TPDN ở Việt Nam, nhóm hai bao gồm các định chế còn lại là công
ty tài chính, quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm.
38
3.2.2.1. Hoạt động của ngân hàng trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Theo qui định trong luật tổ chức tín dụng mới sửa đổi năm 2010, văn phòng đại
diện ngân hàng nước ngoài không được phép có các hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam, như vậy, trên toàn thị trường có tổng cộng 83 ngân hàng có thể tham gia vào
thị trường TPDN (trừ ra 50 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài, xem
bảng 2). Các hoạt động của ngân hàng trên thị trường TPDN gồm có: (i) tư vấn và
bảo lãnh phát hành; (ii) đại lý phát hành và (iii) đầu tư trái phiếu như một tổ chức tài
chính thông thường. Đánh giá tổng quan thị trường TPDN Việt Nam hiện nay có thể
thấy các ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của thị
trường này.
Bảng 3.1. Các loại hình ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam
Tổng cộng Loại hình ngân hàng NHTM nhà nước Văn phòng đại diện NH nước ngoài NHTM cổ phần trong nước Chi nhánh NH nước ngoài Ngân hàng liên doanh Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
5 37 36 50 5 5 133 Số lượng
(Nguồn: ngân hàng nhà nước )
Về hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu, thống kê cho thấy tất cả các đợt
phát hành trái phiếu trong 2 năm 2009-2010 đều có sự tham gia bảo lãnh của các
ngân hàng. Theo thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA),
năm 2010, các doanh nghiệp đã huy động được gần 45.500 tỷ đồng từ kênh phát
hành trái phiếu thông qua 45 đợt phát hành, tăng so với 30.000 tỷ đồng và 39 đợt
phát hành được thực hiện trong năm 2009.Có thể kể đến một số đợt phát hành lớn đã
thành công với sự tham gia bảo lãnh của các ngân hàng trong và ngoài nước như
sau.
Hoạt động trên thị trường TPDN hiện nay của các ngân hàng ở Việt Nam hiện
chịu sự quản lý, giám sát và chi phối đáng kể của luật chứng khoán 2006, luật các tổ
chức tín dụng 2006 và sửa đổi 2010, nghị định 226 về các chỉ tiêu an toàn tài chính
của các tổ chức tín dụng.
Trên thị trường TPDN hiện nay, hoạt động đầu tư của các ngân hàng có thể nói
là mang những điểm rất riêng so với hoạt động đầu tư nói chung của các định chế tài
chính. Các ngân hàng có ưu thế về nguồn thông tin tín dụng doanh nghiệp thông qua
39
hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, khác với các tổ chức tài chính thông thường,
nguồn tài chính của các ngân hàng rất mạnh, mặt khác, do vai trò quan trọng của hệ
thống ngân hàng trong nền kinh tế, hoạt động của hệ thống ngân hàng chịu những
chi phối đặc biệt của các cơ quan quản lý. Một điểm đặc biệt khác đối với hệ thống
NHTM Việt Nam đó là sự tham gia “đỡ lưng” của ngân hàng nhà nước nếu có tình
trạng xấu xảy ra. Những điểm đặc biệt này tạo ra những thuận lợi lớn cho các ngân
hàng trong quá trình đầu tư. Tất nhiên các ngân hàng khi tham gia đầu tư cũng chịu
những tác động do những khó khăn chung của thị trường, nhưng do những đặc điểm
khác biệt như nêu trên mà hoạt động của hệ thống ngân hàng trên thị trường TPDN
cần được nghiên cứu chi tiết và sâu hơn, đặt trong mối liên hệ phức tạp của nó với
TPDN để có thể tìm ra những cách giải quyết phù hợp. Trong giới hạn của đề tài,
chúng tôi chỉ thực hiện khảo sát thực tế những hoạt động của các định chế tài chính
phi ngân hàng.
3.2.2.2. Hoạt động của các định chế tài chính phi ngân hàng trên thị trường
trái phiếu doanh nghiệp
a. Toàn cảnh hoạt động của các định chế tài chính phi ngân hàng trên thị
trường trái phiếu doanh nghiệp
Những tổ chức đầu tư chính thức tại Việt Nam được thành lập theo luật chứng
khoán 2006 gồm có 39 công ty công ty bảo hiểm (tính đến hết năm 2009), 46 công
ty quản lý quỹ đầu tư với 23 quỹ đầu tư và khoản 38 CTCK. Bên cạnh các nhà đầu
tư trong nước là các tổ chức đầu tư nước ngoài tập trung dưới dạng các quỹ đầu tư,
một dạng khác của các tổ chức đầu tư nước ngoài vào nước ta hiện nay là hình thức
đầu tư thông qua văn phòng đại diện tại nước thứ 3 để tránh thuế cũng như nhiều thủ
tục khác . Mặc dù các tài liệu nghiên cứu đều thống nhất với kết luận về tỉ trọng đầu
tư vào TPDN hiện nay trên thị trường phần lớn đều thuộc về các nhà đầu tư tổ chức,
tuy nhiên, khảo sát thực tế của chúng tôi cho thấy một lượng khá đông trong số các
định chế tài chính tham gia vào thị trường chứng khoán hiện nay không đầu tư vào
TPDN.
Để có thể có những đánh giá khách quan và sát hơn với tình hình thực tế, tác
giả tiến hành khảo sát thực tế những khó khăn của các định chế tài chính khi đầu tư
vào thị trường TPDN.
40
Trước khi khảo sát, tác giả tiến hành đánh giá sơ lược hoạt động đầu tư của các
tổ chức. Hiện nay, thị trường TPDN không thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, ngay cả
trong giai đoạn tăng trưởng nhanh của thị trường thì các nhà đầu tư cũng không đầu
tư nhiều vào TPDN. Theo báo cáo về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm
hoạt động ở thị trường TPDN năm 2004-2009 (bảng 3.2), tỉ trọng đầu tư vào TPDN
của các công ty bảo hiểm giai đoạn 2004-2008 là 0%, sang năm 2009 là 1%, tổng
vốn đầu tư của toàn bộ các doanh nghiệp bảo hiểm kể cả các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài là 2%. So sánh với các thị trường khác trên thế giới có tỉ trọng thường ở
mức 20-30% tỉ trọng như vậy ở Việt Nam là quá nhỏ. Tính trên giá trị tuyệt đối, tổng
đầu tư vào TPDN năm 2009 khoản 1.340 tỷ, so với giá trị TPDN phát hành vào năm
2009 thì tương đương khoảng 4%.
Bảng 3.2. Tỉ trọng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ngành bảo hiểm
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009
21.795 25.724 30.676 42.420 56.434 66.906 Tổng đầu tư toàn thị trường
1% 2% 2% 2% 2% 2% Tỉ trọng đầu tư TPDN
Qua đánh giá sơ lược và trao đổi ban đầu với một số tổ chức đầu tư có vốn nhỏ
chúng tôi nhận định mặc dù số lượng nhà đầu tư tổ chức tương đối nhiều, tuy nhiên
không phải tất cả các tổ chức này đều đầu tư vào TPDN. Các tổ chức đầu tư với khả
năng vốn thấp và thời gian ngắn thường không đầu tư vào TPDN. Lý do được các
nhà đầu tư đưa ra là do khả năng thẩm định còn chưa tốt, mặt khác, với nguồn vốn
thấp, đầu tư vào trái phiếu lợi nhuận thu được không cao, thời gian găm giữ vốn kéo
dài. Đặc điểm thị trường TPDN Việt Nam hiện nay tuy chưa có những đánh giá rõ
ràng và chính xác nhưng với một nền kinh tế mà hạng mức tín dụng ở mức B1(theo
xếp hạng của Moody’s tháng 4/2011) thì rủi ro tiềm ẩn là rất lớn. TPDN được đánh
giá là có rủi ro thấp hơn cổ phiếu, tuy nhiên đặt trong điều kiện rủi ro hệ thống cao,
tính thanh khoản thị trường thấp nên rủi ro của TPDN nói chung là cao.
Để kiểm tra tính xác thực của nhận định trên, chúng tôi đã tiếp xúc với 45 tổ
chức đầu tư trong nhóm các nhà đầu tư được đánh giá là có nguồn lực tài chính khá
bao gồm các CTCK và công ty tài chính có vốn điều lệ từ 300 tỷ trở lên, các công ty
quản lý quỹ và các quỹ đầu tư trong và ngoài nước hiện có quản lý các quỹ đầu tư,
41
các công ty bảo hiểm (Nội dung khảo sát và kết quả khảo sát xem Phụ lục).
Kết quả trong số 45 tổ chức đầu tư này, nhóm các CTCK và quỹ đầu tư có vốn
điều lệ nhỏ hơn 500 tỷ gần như không đầu tư và hiện tại cũng quan tâm không nhiều
vào TPDN, các doanh nghiệp cũng cho biết thêm, các CTCK ngoài hệ thống ngân
hàng có vốn điều lệ dưới 1000 tỷ rất ít đầu tư vào TPDN. Nguyên nhân chính khiến
các công ty này không đầu tư vào TPDN là sự kém hấp dẫn của thị trường này, tỉ
suất sinh lợi không tương xứng với rủi ro cao, thanh khoản thấp. Với các công ty
quản lý quỹ không có quản lý trực tiếp một quỹ đầu tư mà chủ yếu thực hiện nghiệp
vụ quản lý danh mục đầu tư, nguồn vốn của các công ty này đa phần là ngắn hạn,
phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà đầu tư nên họ cùng không quan tâm
đến TPDN.
Trong số 45 tổ chức đầu tư khảo sát được, có 12 tổ chức hiện đang đầu tư vào
TPDN (hoặc hiện đang qua tâm, có dự dịnh đầu tư vào TPDN trong thời gian tới).
Điểm đáng chú ý là trong 12 tổ chức này có 10 công ty có vốn điều lệ trên 1000 tỷ
và hai công ty quản lý quỹ đầu tư hiện đang quản lý các quỹ đầu tư với tổng vốn
điều lệ các quỹ đã góp đến thời điểm 06/2010 trên 2000 tỷ cho mỗi công ty
(vinafund và dragon capital). Có đến 30 tổ chức được khảo sát không đầu tư vào
TPDN cùng những nhận định về thị trường nói chung của các công ty này cho phép
đánh giá toàn cảnh thị trường TPDN Việt Nam hiện nay về phía nhà đầu tư thực sự
chỉ là thị trường của những định chế tài chính lớn.
b. Những khó khăn chính của các định chế tài chính
Các định chế tài chính hiện tham gia đầu tư TPDN có xu hướng nắm giữ trái
phiếu của các tổ chức này gần như thống nhất là nắm giữ đến đáo hạn với mục tiêu
là thu nhập từ lãi suất coupon thu được, kể cả những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp
và khả năng thẩm định rất tốt, có uy tín như công ty tài chính dầu khí Việt Nam,
công ty quản lý quỹ đầu tư Vinafund, các quỹ đầu tư của Dragon Capital ở Việt
Nam,….
Đánh giá những khó khăn hiện tại, các trở ngại chính của các tổ chức này là:
tính thanh khoản của thị trường thấp, khó khăn trong việc thẩm định rủi ro tín dụng
của các doanh nghiệp phát hành, hệ thống luật điều chỉnh còn chưa hoàn thiện, thiếu
tính thống nhất và những biến động vĩ mô của nền kinh tế về lãi suất, lạm phát.
Trên cơ sở trung bình đánh giá của các tổ chức đầu tư, tác giả biểu diễn số liệu
42
trên biểu đồ mạng nhện (Biểu đồ 5). Mô hình này dựa trên biểu đồ mạng nhện đánh
giá tính thanh khoản tại website của hiệp hội trái phiếu Asian +3, tuy không có ý
nghĩa nhiều về mặt định lượng, nhưng cách biểu diễn này cho phép chúng ta có một
cái nhìn tổng quan về những khó khăn mà hiện tại các tổ chức đầu tư trong nước gặp
phải khi đầu tư vào TPDN.
Theo mô hình này, vùng phía trong đường màu cam càng mở rộng thì khó khăn
thanh khoản 5,00
của các tổ chức đầu tư càng nhiều.
vùng khó khăn của tổ chức đầu tư
4,50
4,00
3,50
3,00
2,50
2,00
1,50
rủi ro vi mô
rủi ro vĩ mô
1,00
luật điều chỉnh
Biểu đồ 3.1. thống kê đánh giá của các tổ chức
(i) Khó khăn về tính thanh khoản của thị trường: mặc dù tính thanh khoản
thấp là một đặc trưng của thị trường TPDN, các nhà đầu tư một khi đã chấp nhận
đầu tư vào TPDN nghĩa là đã tính toán đến yếu tố này. Tuy nhiên, ở nước ta hiện
nay tính thanh khoản của TPDN đang ở mức khó chấp nhận đối với các nhà đầu tư.
Thanh khoản của thị trường Việt Nam gần như bằng không. Khả năng bán lại một
TPDN là rất khó khăn, thị trường Việt Nam hiện nay chưa có một trung tâm tập
trung thông tin giao dịch thứ cấp TPDN trên OTC, trong khi đó thị trường lại thiếu
vắng các nhà tạo lập thị trường. Do đó, hoạt động mua bán thứ cấp TPDN hiện nay
43
không phải không có nguồn cung và cầu mà là chưa có một “thị trường” để cung và
cầu gặp nhau. Các định chế tài chính lớn với nguồn lực tài chính mạnh có đủ khả
năng để chiu đựng thời gian giam vốn khá lâu vào TPDN, tuy nhiên, một thị trường
thanh khoản gần như bằng không thực sự là một cản trở đối với tất cả các định chế
tài chính kinh doanh tài chính để kiếm lời.
(ii) Hệ thống qui định của pháp luật: hệ thống luật điều chỉnh của Việt Nam
hiện nay còn chưa hoàn thiện, thiếu tính thống nhất giữa các cơ quan ban hành và
thậm chí là giữa các qui định của cùng một cơ quan. Đây không chỉ là điểm tồn tại
lớn của Việt Nam không chỉ đối với riêng TPDN hay thị trường tài chính mà là đối
với rất nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
(iii) Khó khăn trong công tác thẩm định tín dụng các nhà phát hành: khả
năng thẩm định tín dụng liên quan trực tiếp đến minh bạch thông tin của các nhà
phát hành. Ở Việt Nam hiện nay, khả năng tiếp cận với nguồn thông tin của doanh
nghiệp đối với một tổ chức tài chính phi ngân hàng là rất khó. Để cải thiện vấn đề
này, các tổ chức tài chính thường kết hợp giữa phương pháp phân tích báo cáo tài
chính với bảng các chỉ tiêu khác được soạn theo yêu cầu đầu tư của từng doanh
nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, đặt trong tình hình chung tính minh bạch thông tin hiện tại
quá thấp, các định chế tài chính dù khá chuyên nghiệp với đội ngũ chuyên viên phân
tích có chuyên môn cao thì sự lo ngại không đánh giá hết rủi ro tín dụng của nhà
phát hành vẫn là một cản trở lớn khiến các tổ chức trở nên dè dặt và thận trọng khi
đầu tư vào TPDN. Sự cố vỡ nợ của Vinashin một lần nữa khiến các doanh nghiệp
phải đắn đo hơn nhiều trước những quyết định đầu tư.
(iv) Biến động vĩ mô của nền kinh tế: cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008 có những ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Liên tiếp từ cuối
năm 2009 đến nay lạm phát Việt Nam duy trì ở mức cao.
2,50
2,00
1,50
44
)
1,00
%
( I
0,50
P C
0,00
-0,50
-1,00
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
T12
Thời gian (tháng)
2009
2010
Biểu đồ 3.2. Chỉ số CPI các tháng năm 2009 và 2010
Trong năm 2010 lạm phát lên đến 11,75%, mặt bằng lãi suất vào khoảng trên
dưới 10%. Bước sang đầu năm 2011, với chủ trương thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm
phát, ngân hàng nhà nước nâng lãi suất bình quân liên ngân hàng lên 14%, mặt bằng
huy động lãi suất ngân hàng lên đến 20-22%, đường cong lãi suất đi ngang. Những
yếu tố này không chỉ gây tác động đến các doanh nghiệp do sự lo ngại về môi trường
kinh tế kém ổn định, ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của trái phiếu nắm giữ mà còn
tác động đến hoạt động đầu tư thông ảnh hưởng đến tổng thể tổ chức đầu tư. Kết
thúc năm 2010, khá nhiều tổ chức đầu tư báo lỗ, trong đó đáng kể như quỹ VF4 lỗ
ròng 133 tỷ, CTCK Kim Long lỗ 173 tỷ, CTCK Vina lỗ 128 tỷ,…Kết quả này một
phần là do khả năng quản lý, đánh giá thị trường của các công ty này nhưng mặt
khác, tác động của kinh tế vĩ mô đến các doanh nghiệp là không nhỏ.
Qua khảo sát, có thể thấy hiện nay các tổ chức đầu tư trong nước gặp khá nhiều
khó khăn trong quá trình đầu tư. Khi được hỏi về những ý kiến của các tổ chức nhằm
cải thiện môi trường đầu tư, đa số các tổ chức đều cho rằng, những yêu cầu cấp bách
hiện nay là phải có một hệ thống luật với các điều khoản thoáng hơn, thống nhất hơn
và đi sát hơn với các tổ chức đầu tư đồng thời cần minh bạch thông tin về giá cả mua
bán trái phiếu hiện nay trên thị trường, một số tổ chức đầu tư cố gắng minh bạch
thông tin về giá cả những trái phiếu mình đang nắm giữ, tuy nhiên, nỗ lực của một
vài tổ chức riêng lẻ khó đem lại một kết quả tốt.
45
3.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và sự phát triển của hệ thống
ngân hàng
Thị trường TPDN Việt Nam nằm trong một tương quan phát triển với các khu
vực khác của thị trường vốn. Tuy mối quan hệ cạnh tranh giữa các công cụ tài chính
dài hạn trên thị trường hiện nay không thể hiện rõ nhưng vẫn rất cần một sự chú ý
theo dõi và phân tích, đặc biệt là từ góc độ quản lý vĩ mô.
Trong thị trường vốn, sự cạnh tranh giữa TPDN với thị trường tín dụng ngân
hàng trung-dài hạn được coi là mạnh nhất. Theo mô hình cạnh tranh của Endo
(2000), sự cạnh tranh trong thị trường TPDN và tín dụng ngân hàng sẽ là sự cạnh
tranh giữa ngân hàng và các nhà đầu tư với vai trò là người cho vay tìm kiếm cơ hội
đầu tư tốt hơn trong khi các doanh nghiệp là chủ thể đi vay tìm đến nguồn vốn vay
rẻ hơn [9]. Ngày nay, các ngân hàng phát triển theo mô hình ngân hàng hiện đại, đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ. Nằm trong cùng một chủ thể là các NHTM, các loại
hình dịch vụ này có mối quan hệ khắng khít với nhau, bởi vậy mà trái phiếu doah
nghiệp không chỉ chịu tác động của tín dụng dài hạn ngân hàng mà chịu tác động
của tổng thể các loại hình dịch vụ này.
nhà phát
hành tốt hơn
Nhà đầu tư có
nguốn vốn tốt
hơn
Hình 3.1. Mô hình cạnh tranh giữa các nhà đầu tư và các nhà phát hành [9]
Ở Việt Nam thời gian vừa qua, không thể phủ nhận đóng góp quan trọng của
ngành ngân hàng vào sự phát triển của thị trường TPDN. Hệ thống ngân hàng tác
động gián tiếp đến TPDN thông qua sự tham gia mạnh mẽ vào thị trường chứng
khoán. Cơ sở hạ tầng cho giao dịch trên thị trường phát triển nhanh, trong số 105
CTCK hiện nay, nắm vị trí dẫn đầu về hoạt động và vốn điều lệ vẫn là các NHTM.
46
Hệ thống ngân hàng cũng tác động trực tiếp đến thị trường TPDN bằng các hoạt
động bảo lãnh và tư vấn phát hành, trực tiếp tham gia đầu tư vào trái phiếu trên thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực này, những hạn
chế của hệ thống ngân hàng đối với sự phát triển của TPDN đang dần hình thành và
phát triển.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành trái phiếu đều có
bảo lãnh của các NHTM. Với uy tín lớn và khả năng thẩm định tốt, sự tham gia của
NHTM vào hoạt động bảo lãnh phát hành tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều cho
cả doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư. Tuy nhiên một sự tham gia quá sâu của
NHTM vào hoạt động bảo lãnh sẽ tác động đáng kể đến chi phí phát hành trái phiếu.
Một khi trên thị trường không có nhiều thành phần tổ chức tham gia bảo lãnh, các
NHTM sẽ có nhiều điều kiện hơn để khống chế chi phí phát hành, đẩy chi phí phát
hành lên cao [1]. Có 2 lý do để thúc đẩy các ngân hàng:
Một là hiện tại một lượng lớn TPDN đang nằm trong tay các NHTM, đây thực
chất là một hình thức cấp tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp. Do đó, không có lí
do gì để khiến các ngân hàng phải cấp tín dụng với mức giá thấp hơn hoạt động cho
vay thông thường.
Hai là sức mạnh thị trường hiện nay của các ngân hàng quá lớn, cùng lúc các
ngân hàng nắm khả năng khống chế hai hình thức tín dụng có mức độ cạnh tranh lẫn
nhau cao là hoạt động tín dụng trung-dài hạn và hoạt động phát hành, đầu tư trái
phiếu. Trong khi đó, hiện nay phần lớn lợi nhuận hệ thống ngân hàng là từ hoạt động
cho vay, tuy các NHTM hiện nay đang phát triển theo hướng hiện đại, đa dạng hóa
các loại hình dịch vụ, nhưng dù phát triển theo hướng nào thì với một nền kinh tế nhỏ,
sức chống chịu yếu như Việt Nam, hệ thống ngân hàng vẫn phải đi đúng với vai trò
thực sự của nó trong nền kinh tế. Vì vậy, nếu NHTM chấp nhận bảo lãnh với mức phí
thấp, tạo ra một nguồn huy động chi phí thấp hơn cho doanh nghiệp thì cũng giống
như “lấy tay nghịch đánh tay thuận”.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, thanh khoản của hệ thống ngân
hàng Việt Nam luôn đặt trong tình trạng căng thẳng. Báo tuổi trẻ đăng ngày
17/05/2011 đã dẫn lời thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu: “thanh
khoản hệ thống ngân hàng 3 năm nay chưa ngày nào yên ổn”. Chưa có những phân
tích cụ thể về lợi nhuận từ hoạt động đầu tư và bảo lãnh phát hành chứng khoán
47
nhưng xu hướng hiện tại cho thấy các ngân hàng đang rất hào hứng với mảng đầu tư
chứng khoán, trong đó có TPDN. Trong điều kiện các NHTM Việt Nam hiện nay
phần lớn lấy vốn ngắn hạn cấp tín dụng trung dài hạn, như trong những lí do đã nêu
ở trên, các ngân hàng không có lí do gì để mua chứng khoán nợ trung dài hạn của
một doanh nghiệp với giá thấp hơn việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp đó. Xu
hướng này kéo dài lâu có thể sẽ tạo nên một mặt bằng lãi suất đòi hỏi trên thị trường
cao hơn mức thực tế mà các doanh nghiệp phải trả.Một mặt khác, theo Simiko và
Kenzie (2004), việc bảo lãnh phát hành quá nhiều cũng gián tiếp làm tăng chi phí
phát hành của những công ty lớn có uy tín cao trên thị trường [17]. Trên cơ sở lý
thuyết, sự bảo lãnh của NHTM củng cố niềm tin của nhà đầu tư đối với doanh
nghiệp do niềm tin vào khả năng thẩm định của các ngân hàng dựa trên hoạt động tín
dụng và sự đỡ đầu của ngân hàng nếu trường hợp có rủi ro xảy ra. Thoạt nhìn, có vẻ
như điều này là tốt cho các doanh nghiệp, tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp lớn
hơn và uy tín cao hơn nhưng chưa đủ để vượt tầm các ngân hàng, để cạnh tranh phát
hành, họ buộc phải tăng lãi suất hoặc quay trở lại nhờ vào sự bảo lãnh của ngân
hàng. Tất nhiên, những điều này dẫn đến sự gia tăng chi phí phát hành, gia tăng chi
phí sử dụng vốn của doanh nghiệp mà lẽ ra họ không phải gánh chịu [7]. Ở nước ta
hiện nay, với uy tín của hệ thống ngân hàng, một TPDN được ngân hàng bảo lãnh sẽ
có uy tín rất lớn. Điều này xuất phát từ đặc điểm về minh bạch thông tin thấp, các
nhà đầu tư kể cả những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp cũng khó thẩm định được hết
những rủi ro vi mô của doanh nghiệp. Đặc biệt sau những bê bối của Vinashin bị
phát hiện vào năm 2009, niềm tin của thị trường vào các doanh nghiệp nói chung
giảm rõ rệt, uy tín của các ngân hàng nhờ đó càng có điều kiện nâng cao trên thị
trường. So sánh với những thị trường có tính minh bạch cao hơn, trình độ cao hơn
thì những tác động cả thuận chiều và ngược chiều của hệ thống ngân hàng đối với thị
trường TPDN Việt Nam ở mức cao hơn.
Như vậy, điểm chính thể hiện trong sự tác động của hệ thống ngân hàng lên thị
trường trái phiếu chính là những tác động trực tiếp và gián tiếp làm tăng chi phí phát
hành của doanh nghiệp. Ở hiện tại, thị trường trái phiếu Việt Nam mới chỉ ở những
bước đầu, những ảnh hưởng không tốt của hệ thống ngân hàng cũng như những bất
lợi của một nền tài chính phụ thuộc quá mức vào ngân hàng chưa bộc lộ, tuy nhiên
về lâu dài những ảnh hưởng này sẽ lớn dần và thể hiện rõ hơn. Đánh giá quan hệ
48
giữa hệ thống ngân hàng và thị trường trái phiếu là một trong những yếu tố hết sức
cần thiết để các cơ quan quản lý đưa ra những quyết định hợp lý và thống nhất trong
quá trình quản lý thị trường [145], bởi vậy mà các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam
cần chú ý hơn để đưa ra những chính sách quản lý phù hợp hơn với thị trường Việt
Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Qua các phân tích và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cho
thấy, phát triển nhà đầu tư tổ chức, tạo điều kiện cho các định chế tài chính tham gia
vào thị trường TPDN là một yêu cầu quan trọng cho phát triển thị trường trái phiếu
Việt Nam hiện nay. Về thực tế các tổ chức đầu tư, những khó khăn chính trong quá
trình tham gia vào thị trường gồm 4 yếu tố chính: tính thanh khoản, hệ thống luật
pháp và các qui định, khả năng thẩm định doanh nghiệp phát hành và cuối cùng là
những biến động mạnh của nền kinh tế vĩ mô. Trong số 4 yếu tố này, đa phần các tổ
chức cho rằng có thể linh động để thích ứng với các biến đổi vĩ mô, những khó khăn
trong thẩm định tín dụng doanh nghiệp, nhưng những yếu tố về minh bạch thông tin
giá cả giao dịch trái phiếu và yêu cầu về một hệ thống luật làm nền tảng bền vững thì
nằm ngoài khả năng chủ quan của doanh nghiệp, rất cần sự can thiệp điều chính của
nhà nước.
Mặt khác, thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay đang chịu sự chi phối tương
đối mạnh của các NHTM. Về mặt bản chất, giữa sự phát triển của thị trường TPDN
và hệ thống ngân hàng tồn tại một mối quan hệ phức tạp vừa cạnh tranh vừa hỗ trợ
nhau, tùy từng giai đoạn phát triển mà yếu tố cạnh tranh và yếu tố tương tác hỗ trợ
nhau chi phối lẫn nhau. Công tác quản lý vĩ mô cần chú ý đến các yếu tố này để có
những chính sách hợp lý.
49
4. CHƯƠNG IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
4.1. NHÓM CÁC GIẢI PHÁP CẦN ƯU TIÊN THỰC HIỆN
4.1.1. Minh bạch thông tin về giá cả giao dịch trái phiếu
Kinh nghiệm từ thị trường trái phiếu Mỹ cho thấy hoạt động giao dịch trên sàn
giao dịch tập trung rất ít. Yếu tố chính gia tăng tính thanh khoản của thị trường là
các nhà môi giới (Dealer). Ở nước ta hiện nay, hoạt động môi giới trái phiếu còn khá
giới hạn, ngoài lý do về những yếu kém của thị trường nói chung thì một nguyên
nhân quan trọng chính là thông tin về mua và bán trái phiếu trên thị trường.
Thị trường TPDN Việt Nam hiện nay cần thiết phải có một trung tâm tập hợp
thông tin giao dịch trái phiếu trên thị trường OTC
Bên cạnh đó, cần xem xét phát triển các hình thức ưu đãi hợp lý để khuyến
khích một số tổ chức đầu tư lớn trở thành các nhà tạo lập thị trường. Một cơ chế
khuyến khích rõ ràng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ các định chế tài chính lớn gia nhập đội
ngũ các nhà tạo lập thị trường. Kinh nghiệm của thị trường TPDN Mỹ cho thấy hiệu
quả của các hệ thống thông tin sẽ không cao nếu không có đội ngũ các nhà tạo lập
thị trường.
4.1.2. Hoàn thiện hệ thống qui định điều chỉnh
Để có thể có những thay đổi chính sách phù hợp với tình hình thực tế các chủ
thể tham gia vào thị trường trái phiếu đồng thời cũng phù hợp với công tác điều
hành nền kinh tế nói chung, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của Malaysia và một
số nước xây dựng một cơ quan gồm có đại diện của các chủ thể tham gia trên thị
trường và các cơ quan quản lý vĩ mô.
Ở nước ta, công tác xây dựng các chính sách thường thông qua kênh tham khảo
ý kiến các hiệp hội trong ngành nghề hoặc lĩnh vực liên quan, tuy nhiên, vai trò của
những hiệp hội này còn chưa được thể hiện nhiều. Vì vậy mà trước mắt, trong điều
kiện khả năng chưa cho phép thành lập một cơ quan riêng biệt theo yêu cầu, chính
phủ cần có những qui định rõ ràng về vai trò của các hiệp hội trong công tác ban
hành các chính sách.
Trong công tác xây dựng chính sách và điều hành kinh tế, bộ tài chính và ngân
hàng nhà nước cần có một lộ trình rõ ràng, từ đó đưa ra những qui định hợp lý và
50
thống nhất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát hành và tổ chức đầu tư xây
dựng chiến lược dài hạn, từ đó thuận lợi hơn trong công tác quản lý và đầu tư.
4.1.3. Khuyến khích phát triển công cụ nợ ngắn hạn và nghiệp vụ SWAP
4.1.3.1. Khuyến khích phát triển công cụ nợ ngắn hạn
Đánh giá các yếu tố cơ sở cho sự phát triển của thị trường TPDN thì thị trường
tiền tệ có lẽ khâu yếu nhất và gần như còn bỏ ngõ. Nhà nước cần có những biện
pháp khuyến khích phát triển thị trường các công cụ tài chính ngắn hạn của Việt
Nam. Bài học kinh nghiệm từ thị trường các nước cho thấy không thể có một thị
trường TPDN phát triển bền vững nếu thiếu một sự phát triển sôi động của thị
trường các công cụ ngắn hạn này.
4.1.3.2. Phát triển nghiệp vụ SWAP ngoại tệ
Đánh giá nhà đầu tư trên thị trường TPDN hiện tại cho thấy chỉ những nhà đầu
tư lớn, khả năng thẩm định và kinh nghiệm nắm bắt thị trường tốt mới tham gia vào
thị trường. Ngoài hệ thống ngân hàng, có thể thấy những tổ chức đầu tư lớn ở Việt
Nam vẫn chưa nhiều, hơn nữa cả kinh nghiệm và khả năng thẩm định cũng còn
những hạn chế, do đó, trong khi chờ đợi sự lớn mạnh của các tổ chức đầu tư trong
nước, cần chú trọng tạo điều kiện cho sự tham gia của các tổ chức đầu tư nước
ngoài, hướng tới mục tiêu cơ bản là tạo dựng những cơ sở ban đầu cho thị trường.
Kinh nghiệm của Australia và New Zealand cho thấy thị trường ngoại hối là yếu tố
hàng đầu mà nhà đầu tư nước ngoài hết sức quan tâm, đặc biệt là nghiệp vụ SWAP.
4.2. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TRONG NHIỀU NĂM
TỚI
4.2.1. Sự cần thiết của tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Về lâu dài, sự phát triển của các công ty xếp hạng tín nhiệm là rất quan trọng
đối với thị trường TPDN. Những kết quả xếp hạng với độ tin cậy cao không chỉ tạo
sự thuận lợi cho nhà đầu tư mà còn tạo điều kiện cho cả các nhà phát hành, xếp hạng
tín nhiệm cho phép thị trường định giá tốt hơn giá trái phiếu, từ đó xác định chi phí
phát hành sát với tình tình thực của doanh nghiệp. . Hiện nay, Việt Nam đã có hai tổ
chức xếp hạng tín nhiệm là trung tâm CIC và công ty CRV. Tuy nhiên, kết quả đánh
giá của hai tổ chức này vẫn chưa được thị trường tin tưởng. Một số tổ chức tài chính
51
khác cũng đã bắt đầu công bố các bảng xếp hạng tín nhiệm công khai nhưng hoàn
toàn chỉ mang tính chất tham khảo. Để hoạt động của các tổ chức này đi vào bài bản,
gia tăng độ tin cậy đối với thị trường cần thiết phải có các quy định hướng dẫn cụ
thể về chuẩn xếp hạng cũng như trách nhiệm pháp lý của các tổ chức này với các kết
quả xếp hạng được công bố.
4.2.2. Định hướng rõ ràng trong phát triển thị trường TPDN và hệ thống
ngân hàng
Giữa thị trường TPDN và sự phát triển của hệ thống ngân hàng tồn tại mối
quan hệ phức tạp. Với thực tế Việt Nam, mối quan hệ này mang tính tác động một
chiều từ phía NHTM nhiều hơn. Do mối cạnh tranh tiềm ẩn, sự phát triển của hệ
thống ngân hàng có thể có một phần tác động khống chế thị trường TPDN, tuy
nhiên, khi thị trường TPDN phát triển hơn, tác động một chiều sẽ giảm và khuynh
hướng cạnh tranh tăng dần. Do đó, bộ tài chính và ngân hàng nhà nước cần xem xét
phân tích mối quan hệ này để có những quyết sách phù hợp.
Theo xu hướng của các doanh nghiệp khi lựa chọn nguồn vốn, trong điều kiện
bình thường, các công ty lớn và có uy tín thường lựa chọn phát hành trái phiếu trong
khi các công ty nhỏ, ít danh tiếng trên thị trường thường có xu hướng lựa chọn vốn
vay ngân hàng. Thực tế ở Việt Nam, khi 98% số lượng công ty (đến cuối năm 2010)
trong cả nước là các công ty vừa và nhỏ thì vai trò của hệ thống ngân hàng là rất
quan trọng. Trong dài hạn, theo quan điểm chủ quan của tác giả, thị trường Việt
Nam nên định hướng hệ thống ngân hàng thiên về tín dụng cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đồng thời phát triển thị trường TPDN với sự tham gia tích cực và năng
động hơn của các định chế tài chính phi ngân hàng. Hiện nay, một số ngân hàng và
các tổ chức tài chính đang định hướng phát triển theo mô hình ngân hàng đa năng,
sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán cũng thu hút nhiều định chế tài chính khác
đặc biệt là các NHTM vào xu hướng này. Bỏ qua ảnh hưởng đến rủi ro của toàn nền
kinh tế, chính phủ cũng nên phân tích để có những hướng điều chỉnh đúng bởi hoạt
động của các ngân hàng đa năng tuy có nhiều khác biệt và ưu điểm so với mô hình
NHTM hay ngân hàng đầu tư, tuy nhiên, tiềm ẩn trong mô hình này vẫn là nhiều
mâu thuẫn giữa các hoạt động kinh doanh khác nhau, bên cạnh đó, mô hình ngân
hàng đa năng tuy góp phần lớn vào sự phát triển thị trường TPDN nhiều nước trên
52
thế giới nhưng đó là bài học ở những nước có thị trường tài chính phát triển ở mức
cao, riêng tại Việt Nam, nền tài chính còn nhỏ và yếu, một sự lấn át của hệ thống
ngân hàng sẽ có nguy cơ dẫn đến thu hẹp môi trường hoạt động và đầu tư của các
thành phần khác vốn dĩ đã quá hẹp.
4.2.3. Xây dựng cơ quan quản lý chuyên môn
Với vai trò quan trọng của thị trường TPDN đối với nền kinh tế, chính phủ nền
cân nhắc thành lập một cơ quan quản lý về trái phiếu riêng. Cơ quan này cùng với hệ
thống các cơ quan trực thuộc sẽ điều phối hoạt động của thị trường trái phiếu, xây
dựng những chỉ dẫn rõ ràng cho từng bước phát triển của thị trường và tham gia vào
quá trình soạn thảo, ban hành những chính sách về tài chính-tiền tệ, nắm vai trò
chính trong việc soạn thảo các qui định trực tiếp điều chỉnh thị trường trái phiếu.
53
5. KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung, thị trường TPDN nói riêng thời
gian qua đã có những bước tiến nhất định đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thị trường trái
phiếu nước ta so với sự phát triển của thị trường TPDN thế giới thì những bước hiện
tại mới chỉ trong giai đoạn đầu (early stage). Trong điều kiện của Việt Nam, những
điều kiện cần thiết, những yếu tố cơ sở cho sự phát triển thị trưởng TPDN còn thiếu
và yếu, đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhiều thành phần bao gồm cả chính phủ, các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư và những chủ thể liên quan cùng đóng góp và xây
dựng thị trường. Trong đó, vai trò của chính phủ là hết sức quan trọng. Trong giai
đoạn đầu phát triển thị trường TPDN, chính phủ vừa là cơ quan tạo lập những cơ sở
nền tảng cho sự phát triển của thị trường, vừa khuyến khích sự tham gia của các chủ
thể liên quan.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn khó khăn, các cơ quan
quản lý nhà nước cùng lúc phải giải quyết nhiều vấn đề. Vì vậy, cần thiết phải có
một định hướng chiến lược dài hạn tương đối rõ ràng để làm cơ sở cho quá trình
quản lý, đồng thời về phía các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng có những dự biến
thích hợp. Riêng đối với thị trường TPDN Việt Nam, theo nhận định của nhiều
chuyên gia, phát triển kinh tế dựa trên một thị trường TPDN phát triển ổn định sẽ tạo
ra sự ổn định và bền vững cho nền kinh tế. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế của nước ta
mang nhiều đặc điểm đặc thù riêng có, song song tồn tại bên cạnh các doanh nghiệp
có uy tín và quy mô lớn là rất nhiều các công ty vừa và nhỏ. Một lựa chọn hợp lý
cho dài hạn là một bài toán rất khó cần sự vào cuộc của nhiều cơ quan, tổ chức liên
quan.
Thực tế thị trường TPDN Việt Nam hiện nay, để phát triển thị trường cần chú
trọng hỗ trợ phát triển các định chế tài chính trong đầu tư trái phiếu cũng như trong
các dịch vụ liên quan như bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành,…nhằm tạo thuận lợi
cho các nhà phát hành, giảm chi phí phát hành trái phiếu cho các doanh nghiệp.
Kết quả đề tài hướng tới đưa ra những gợi ý về một số vấn đề cần ưu tiên giải
quyết cho sự phát triển của thị trường TPDN Việt Nam. Toàn cảnh thị trường TPDN
Việt Nam hiện nay cho thấy đây vẫn còn là thị trường của những công ty lớn với
những nhà đầu tư lớn, tuy nhiên, bản thân các công ty, các tổ chức đầu tư đang tham
gia đầu tư cũng gặp không ít những khó khăn, trong điều kiện khó khăn hiện nay,
54
cần phải tháo gỡ từng bước những khó khăn một cách có ưu tiên trong từng giai
đoạn trên thị trường. bên cạnh đó, đề tài cũng đề cập đến quan hệ phức tạp giữa thị
trường TPDN với các khu vực khác, đặc biệt là mối quan hệ với hệ thống ngân hàng
mà các cơ quan quản lý cần chú trọng trong quá trình điều hành thị trường. Mặc dù
còn đề tài còn nhiều hạn chế nhất định, song chúng tôi hy vọng đề tài này sẽ góp
phần vẽ nên bức tranh toàn cảnh thị trường TPDN với những điểm nhấn cần được
chú ý ở hiện tại và thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. PGS-TS Bùi Kim Yến 2008: “Phát triển thị trường TPDN trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh”
2. TS Thân Thị Thu Thủy 2009: “Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam”.
3. GS.TS Trần Ngọc Thơ, Giáo trình tài chính doanh nghiệp hiện đại, nhà xuất bản
thống kê 2007
4. PGS.TS Bùi Kim Yến-TS Thân Thị Thu Thủy, Giáo trình thị trường chứng khoán,
nhà xuất bản thống kê 2008.
5. Nghị định 52//2006/ND-CP về phát hành trái phiếu.
6. Luật chứng khoán 2006.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
7. Garry J. Schinasi và R. Todd Smith 1998: “Fixed-income markets in the United
States, Europe and Japan: Some lesons for emerging markets” (IMF working paper
No. WP/98/173)
8. “Developing corporate bond markets in Asia”, tài liệu hội thảo “Phát triển thị
trường TPDN châu Á” 11/2005 tại Côn Minh Trung Quốc (BIS paper No. 26).
9. Tadashi Endo 2000:”The development of corporate debt market”
10. IMF 2005: “Global Financial Stability Report: Market Developments and
Issues”.
11. Mario Guadamillas và Robert Kepler “Securities clearance and settlement
systems: A guide to best practice”
12. Morgan Stanley 1991: “The Yen bond market” và “The Deutschemark bond
Ragan và Ringales 2003: “Banks and markets: The changing character of european
finance” (NBER working paper No. 9595)
13. Fabozzi: “Bond market, analysis and strategies”
14. Paul Dickie và Emma Xiaoquin Fan 2005: “Banks and corporate debt market
development” (ERD working paper No. 67)
15. Yener Altunbes, Alber Cara và David 2009 “Large debt financing, syndicated
loan versus corporate bond”
16. Simiko và C.R. Mc Kenzie 2004: “The impact of Bank entry in the Japanese
corporate Bond underwriting market”
17. Vương Quân Hoàng và Trần Trí Dũng 2010: “Corporate bond market in the
transition economy of Viet Nam, 1992-2010”
CÁC BÀI BÁO
18. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: “Tổng quan kinh tế năm 2010”. Tạp chí cộng sản, Số
ra ngày 17/5/2011
19. TS. Nguyễn Đại Lai: “Tổng quan thị trường tài chính Việt Nam năm 2010 và bài
học cho những năm tiếp theo”. Tạp chí Cộng sản, số ra ngày 17/5/2011
WEBSITE
20. http://books.google.com
21. http://web.worldbank.org
22. http://www.adb.org
23. http://www.tradingeconomics.com
24. http://www.mof.gov.vn
25. http://atpvietnam.com
26. http://tuoitre.vn/
27. http://vbma.org.vn
28. http://vneconomy.vn
29. http://www.tapchicongsan.org.vn
30. http://papers.ssrn.com
31. http://www.bis.org/
32. http://www.ssc.gov.vn
33. http://www.vsd.vn
34. http://www.thesaigontimes.vn
35. http://www.hnx.vn/
36. http://www.hsx.vn
37. http://asianbondsonline.adb.org
PHỤ LỤC 1: BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT
BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT NHÀ ĐẦU TƯ TỔ CHỨC
TRÊN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
1. Tên tổ chức được khảo sát:…………………………………………………………… 2. Người trực tiếp trả lời phỏng vấn:…………………………… Chức vụ:……………… Liên hệ:………………
NỘI DUNG KHẢO SÁT
1. Anh/chị vui lòng cho biết quí tổ chức hiện tại có đầu tư vào trái phiếu doanh
nghiệp hay không? a. Có. b. Không.
Chuyển sang câu 2 Chuyển sang câu 4
2. Mục đích đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp của quí công ty là gì? (xếp hạng theo
mức độ ưu tiên giảm dần từ 1->3)
ð Đa dạng hóa danh mục đầu tư, quản trị rủi ro. ð Lợi nhuận do chênh lệch giá mua và bán trái phiếu. ð Lợi nhuận từ việc nắm giữ đến đáo hạn.
3. Xu hướng đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp hiện nay của quí công ty như thế
nào? a. Nắm giữ đến đáo hạn. b. Thường xuyên mua bán trên thị trường.
4. Anh/chị vui lòng cho biết mức độ quan tâm của quí công ty đến thị trường trái
phiếu doanh nghiệp hiện tại như thế nào? Theo thang điểm từ 1-5. 1. Không quan tâm. 2. Ít quan tâm. 3. Mức độ trung bình. 4. Có quan tâm khá. 5. Rất quan tâm.
(Nếu đánh giá >=3 thì chuyển sang câu 6, không thì tiếp tục câu 5)
5. Vui lòng cho biết lí do vì sao quý công ty lại không đầu tư và ít quan tâm đến trái
phiếu doanh nghiệp: ……………………………………………………………………. ..….……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………..
6. Vui lòng đánh giá mức độ trở ngại của những yếu tố sau đây trong quá trình đầu
tư vào trái phiếu doanh nghiệp của quí công ty: theo thang điểm từ 1-5
1. Không có trở ngại gì. 2. Có cản trở nhưng không nhiều. 3. Có cản trở vừa phải. 4. Có cản trở tương đối lớn. 5. Có cản trở rất lớn.
a. Thanh khoản của thị trường thấp.
1 2 3 4 5
b. Hệ thống qui định pháp luật chưa tốt.
1 2 3 4 5
c. Rủi ro tín dụng của nhà phát hành
1 2 3 4 5
d. Rủi ro về lãi suất và lạm phát.
1 2 3 4 5
e. Khác:……………………………………………………….
1 2 3 4 5
7. Những đề xuất, chia sẻ thêm từ quí tổ chức đầu tư:
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Chỉ tiêu Thống Số thứ tự
câu hỏi kê
1 12 Có
không 33
2 Đa dạng hóa danh mục đầu tư 1.4
Lợi nhuận do chênh lệch giá mua bán 3
Lợi nhuận do nắm giữ đến đáo hạn 1
3 Nắm giữ đến đáo hạn 9
Mua bán thường xuyên trên thị trường 2
4 Không quan tâm. 23
Ít quan tâm. 10
Mức độ trung bình. 0
Có quan tâm khá. 1
Rất quan tâm. 0
6 Thanh khoản của thị trường thấp. 3,9
Hệ thống qui định pháp luật chưa tốt. 3,3
Rủi ro tín dụng của nhà phát hành 3,5
Rủi ro về lãi suất và lạm phát 3,3
Khác:…………………………………………………… 0