
3
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước ta hiện nay, Giáo dục
và Đào tạo được xem là “quốc sách hàng đầu”. Việc phát triển giáo dục và đào
tạo không chỉ có tác động đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
mà còn có ý nghĩa đối với việc nâng cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần của
người dân, đặc biệt là các vùng miền núi khó khăn. Vì vậy Đảng và nhà nước
luôn quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ở
các trường miền núi, trong đó việc duy trì sĩ số HS (học sinh) để hạn chế tình
trạng bỏ học luôn được chú trọng.
Vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTS, MN) có điều kiện kinh tế - xã hội
chậm phát triển, đời sống của đồng bào gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao,
mặt bằng dân trí thấp. Do đặc điểm này mà vùng DTTS, MN được xem là một
đối tượng đặc thù cần có các mục tiêu, giải pháp chiến lược phát triển kinh tế xã
hội phù hợp, trong đó có phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây thực trạng bỏ học giữa chừng của HS
nói chung và HSTHPT (học sinh trung học phổ thông) nói riêng, nhất là HSDTTS
(học sinh dân tộc thiểu số) tại các trường miền núi còn nhiều đã ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giáo dục vùng miền cũng như đời sống kinh tế, xã hội nơi đây.
Do đó đây là vấn đề đưa đến nỗi trăn trở cho những người quản lí giáo dục cũng
như đội ngũ GVCN (giáo viên chủ nhiệm) thương trò và tâm huyết với nghề. Vì
vậy việc tìm ra giải pháp để hạn chế tình trạng bỏ học của HS nói chung và
HSDTTS nói riêng là một yêu cầu mang ý nghĩa nhân văn và thực tiễn.
Việc duy trì sĩ số HS, hạn chế tình trạng HS bỏ học ở các trường THPT nói
chung và tại các trường THPT miền núi nói riêng cần có những giải pháp đồng
bộ từ các cấp, các ngành, trong đó ngành giáo dục và đào tạo (GĐ-ĐT) đóng vai
trò quan trọng. Nhiệm vụ duy trì sĩ số và hạn chế tình trạng HS bỏ học là trách
nhiệm chính của mỗi trường học.
Trong hoạt động giáo dục chung của các nhà trường, GVCN có thể hiểu là
những người thay mặt hiệu trưởng quản lý giáo dục toàn diện HS một lớp trên
cơ sở quản lý học tập, quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách. Đồng thời
GVCN, nhất là những GVCN công tác tại các trường THPT miền núi như chúng
tôi nhiệm vụ duy trì sĩ số, thực hiện công tác vận động HS nhằm hạn chế tình
trạng bỏ học còn mang một ý nghĩa đặc biệt.
Nhưng thực trạng của công tác vận động HSDTTS bỏ học quay lại trường
tại các trường miền núi gặp rất nhiều khó khăn; đồng thời công tác vận động HS
của đội ngũ GVCN trong thời gian vừa qua chưa thực sự mang lại hiệu quả cao.
Tỉ lệ HSDTTS bỏ học vẫn còn nhiều. Vì vậy việc GVCN tìm ra giải pháp phù