TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện phương pháp phân tích
cơ bản trong đầu tư chứng khóan
ở Việt Nam
MMỞỞ ĐĐẦẦUU
1. Tính cấp thiết của đề tài
TTCK Việt Nam với lịch sử ra đời và phát triển 8 năm có thể nói là một thị trường
còn khá non trẻ. Tuy nhiên, với tuổi đời non trẻ như vậy nhưng TTCK Việt Nam đã có
những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao (đặc biệt là trong giai đoạn 2006 – 2007), và
ĐTCK đã thực sự trở thành một trong những kênh đầu tư quan trọng và hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư. Ngày nay, thuật ngữ chứng khoán và TTCK đã trở nên gần gũi đối với nhiều
người dân Việt Nam, từ nhân viên văn phòng cho đến những người buôn bán nhỏ. Điều này
là một thành quả rất đáng tự hào, là một điểm nhấn tốt đẹp đóng góp vào quá trình phát triển
kinh tế chung của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động ĐTCK ở Việt Nam tồn tại rất nhiều hạn chế cần
phải khắc phục, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, và bị chi phối bởi yếu tố tâm lý đám đông, hay
nói một cách khác việc vận dụng những kết luận từ hoạt động phân tích chứng khoán nói
chung, PTCB nói riêng trong ĐTCK ở Việt Nam chưa được coi trọng, chính vì vậy công tác
PTCB chứng khoán ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, và do vậy nó có tác động ngược trở lại
làm cho những kết luận mà PTCB đưa ra chưa thực sự khách quan và khoa học, do vậy
chưa hỗ trợ cho hoạt động ĐTCK hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả cho rằng việc hoàn thiện phương pháp PTCB, làm
cho PTCB là một công cụ nhằm giúp cho hoạt động ĐTCK trở nên hiệu quả hơn là việc làm
cần thiết, qua đó ĐTCK sẽ ngày càng trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn, TTCK Việt Nam
sẽ ngày càng phát triển.
Do đó, đề tài: “Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam” được
chọn để nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm đối với phương
pháp phân tích cơ bản trong ĐTCK ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương pháp
PTCB trong ĐTCK.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2008
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học logic để nghiên cứu.
- Phương pháp diễn giải, phân tích.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương pháp PTCB
trong ĐTCK
- Về thực tiễn: phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động PTCB trong ĐTCK ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB
trong ĐTCK ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và bảng các chữ viết tắt, luận văn
được kết cấu gồm ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về PTCB trong ĐTCK
- Chương 2: Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam
CCHHƯƯƠƠNNGG 11:: LLÝÝ LLUUẬẬNN CCHHUUNNGG VVỀỀ PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG ĐĐẦẦUU TTƯƯ
CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN
1.1. Tổng quan về chứng khoán và TTCK
1.1.1. Chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại
thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị
trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, nhưng tựu chung lại, người ta thường
phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ chuyển
đổi và các công cụ phái sinh.
1.1.1.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán
ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản
hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn. Theo tính chất
của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu
phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
1.1.1.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người
vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định,
thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi
nó đáo hạn.
1.1.1.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Quỹ ĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào các chứng
khoán. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của NĐT đối với
một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
1.1.1.4. Chứng khoán có thể chuyển đồi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó,
tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán
khác
1.1.1.5. Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành cho
các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một
đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong
công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một
thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua
một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức
giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các
công ty, hoặc khi công ty nhằm mục tiêu khuyến khích các NĐT tiềm năng mua các trái
phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều
kiện đó, NĐT có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
- Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp
thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với một khối lượng xác định, tại một thời điểm xác
định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc
bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định
trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ
hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất
lợi.
- Quyền lựa chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là
quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng
hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có
thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay
hợp đồng tương lai.
1.1.2. Những vấn đề chung của TTCK
1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển TTCK
Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố
trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các
thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá.
Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp
đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ
XV, khu chợ riêng đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác
định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất
bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành
phố Bruges (Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da
tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng hoá; Thị trường ngoại tệ và
TTCK động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi
buôn bán chứng khoán”. Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa
biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố, bị cát biển lấp mất.
Đến năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị
trường này phát triển nhanh chóng. Đến thế kỷ XVIII, một thị trường như vậy cũng được
thành lập ở London (Anh) và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, Ý, một số nước
Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã
chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị
trường hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và
phát triển thành thị trường hối đoái. TTCK động sản trở thành TTCK. Như vậy, TTCK được
hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi
nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị
sụp đổ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và ngày 19/10/1987. Nhưng cuối cùng, TTCK lại
được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được
trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ
khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc tăng cường vai trò
của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi điều kiện phát triển. Các chính
sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của TTCK.
1.1.2.2. Khái niệm và bản chất của TTCK
Theo quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện
nay, thì TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng
khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có
quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền
yêu cầu này có sự khác giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các
quan hệ mua bán, trao đổi trên TTCK làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như
vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư
bản kinh doanh.
Hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại
hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, bản chất của TTCK là thị trường
thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán
chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển
bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Qua đó có thể thấy, TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, huy động
vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, đánh giá hoạt động của
DN, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có: chủ thể phát hành (bao gồm Chính phủ, các
DN, và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian…); NĐT (là
những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi
nhuận, bao gồm NĐT cá nhân và NĐT có tổ chức) các tổ chức có liên quan đến TTCK (như
cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK, SGD chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ,
các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm).
TTCK hoạt động dựa trên một số các nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc công khai
(nguyên tắc này phải thoả mãn yêu cầu về thông tin chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận), nguyên
tắc trung gian (trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian là
các CTCK), nguyên tắc đấu giá (mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động
trên nguyên tắc đấu giá, và do mối cung cầu trên thị trường quyết định).
1.1.2.3. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của TTCK trong tổng thể thị
trường tài chính thể hiện:
Một là: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
Thị trường tiền tệ
TTCK
…Thị trường vốn…….. ………………………………………… …………………………… ………………………………………… ……………………………
Thời gian đáo hạn 1 năm t
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị
trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
Hai là, TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra quá trình
phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu)
Thị trường vốn cổ phần
TTCK
Thị trường nợ ………... ……………………… ……………………… ……………………… ……………………… ……………………… ………………………
1.1.2.4. Cấu trúc của TTCK
Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại theo nhiều
tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ba cách thức cơ bản để phân loại TTCK đó
là: phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại
theo quá trình luân chuyển vốn.
- Phân loại theo hàng hoá: theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường,
người ta có thể phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các
công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm
cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu công ty.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi
bán lại các chứng khoán phái sinh đã phát hành như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp
đồng quyền chọn…
- Theo quá trình luân chuyển vốn: TTCK được phân thành thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị
trường này, vốn từ NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc NĐT mua các
chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ
cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
- Theo hình thức tổ chức của thị trường, TTCK được phân thành: thị trường tập trung
(SGD chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường OTC).
Tại SGD chứng khoán, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp
nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. SGD
chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự
điều chỉnh của Luật chứng khoán và TTCK.
Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) là thị
trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một danh mục
chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các NĐT khi
những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch
chính thức mà có thể diễn ra ở tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua
điện thoại hay mạng máy tính diện rộng.
Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường
tự do dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung
và thị trường OTC. Ngoải ra, người ta còn phân loại TTCK thành thị trường đàm phán và
thị trường mở, thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn.
1.2. Đầu tư chứng khoán
1.2.1. Khái quát chung về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết
quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến
hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ
văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm
việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Căn cứ vào bản chất và phạm
vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư thành đầu tư thương mại, đầu tư tài
sản vật chất và sức lao động, và đầu tư tài chính.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá
và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành
các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời
sống của mọi người dân trong xã hội, đó chính là việc xâ;y dựng, sửa chữa nhà cửa và các
kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài
sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền
ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua
trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài
chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Với sự hoạt
động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có
thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cố phiếu, trái phiếu cho
người khác), điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.
1.2.2. Khái niệm và mục đích của ĐTCK
Chứng khoán là các tài sản tài chính, vì vậy ĐTCK là một loại hình đầu tư tài chính.
Trong hoạt động này, các NĐT mua các chứng khoán theo một danh mục đầu tư rất đa
dạng, bao gồm cả các công cụ trên thị trường tiền tệ và các công cụ trên thị trường vốn.
Mục đích của ĐTCK trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đầu tư đã bỏ ra.
Tiếp đến mục đích của ĐTCK là để phân tán rủi ro có thể gặp trong tương lai nhờ đa dạng
hoá các hình thức đầu tư, và để thực hiện quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị DN với tư
cách người nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định
của từng NĐT, song cũng có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ
thể.
1.2.3. Phân loại ĐTCK
Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động ĐTCK có thể được phân loại theo nhiều cách
khác nhau.
Căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư trái phiếu Chính
phủ, đầu tư trái phiếu DN và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này có thể giúp các nhà quản
lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp, trên cơ sở đó, dễ dàng thay đổi kết
cấu danh mục đầu tư.
Nếu phân loại theo mục đích đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư nhằm
hưởng lợi tức và đầu tư nhằm nắm quyền quản lý, kiểm soát tổ chức phát hành. Trong hoạt
động đầu tư nhằm hưởng lợi tức, NĐT có thể mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu và cổ
phiếu do DN phát hành. Khi ĐTCK với mục đích nắm quyền sở hữu, NĐT có thể vừa đa
dạng hoá tài sản, vừa phát triển lĩnh vực kinh doanh mới thông qua thâu tóm và sáp nhập.
Việc phân loại này giúp nhà quản lý có thể kiểm soát được hoạt động đầu tư theo các mục
đích đã được xác định.
Căn cứ theo phương thức đầu tư, ĐTCK được phân thành đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức NĐT trực tiếp mua chứng khoán cho mình thông qua
các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Đầu tư gián tiếp là hình thức các NĐT chứng
khoán thông qua các định chế, tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ ĐTCK, Quỹ tín thác
đầu tư…để thực hiện hoạt động đầu tư cho mình.
1.2.4. Mức sinh lời và rủi ro trong ĐTCK
Giống như các hình thức đầu tư khác, ĐTCK cũng gắn liền với rủi ro. Lý luận và
thực tiễn ĐTCK cũng chỉ ra rằng khả năng sinh lời trong ĐTCK luôn gắn liền với những rủi
ro mà NĐT chứng khoán có thể gặp phải, thông thường kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì khả
năng gặp phải rủi ro càng lớn, và ngược lại.
1.2.4.1. Mức sinh lời trong ĐTCK
Mức sinh lời trong ĐTCK phản ánh khả năng đem lại lợi nhuận cho NĐT chứng
khoán trong một khoảng thời gian nhất định từ số vốn gốc đã bỏ ra ban đầu. Mức sinh lời
trong ĐTCK có thể đo bằng số tuyệt đối hoặc tương đối.
Mức sinh lời tuyệt đối là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập từ ĐTCK (bao gồm số
lợi tức chứng khoán cộng mức lãi hoặc lỗ về vốn) với số tiền đầu tư ban đầu (vốn gốc).
Theo số tương đối, mức sinh lời chứng khoán là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu
được từ ĐTCK so với vốn gốc.
1.2.4.2. Rủi ro trong ĐTCK
Rủi ro trong ĐTCK được hiểu là khả năng xảy ra những kết quả không mong đợi
trong tương lai. Điều đó có thể là sự sụt giảm, thua lỗ hoặc những biến động thất thường về
mức sinh lợi trong hoạt động ĐTCK. Rủi ro trong ĐTCK có nhiều loại, có thể phân thành
hai loại chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.
- Rủi ro hệ thống: là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các loại chứng
khoán đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống thường là các
tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như: tình trạng lạm phát
hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị
trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của nền kinh tế…Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu
bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro sức mua, rủi ro tỷ giá.
Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Trong thực tế,
giá cả của chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường, lãi suất thị
trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán sụt giảm và ngược lại. Vì thế sự biến
động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập nhận được từ ĐTCK ở các
thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, do đó ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của
ĐTCK.
Rủi ro thị trường: là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị trường.
Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu của các loại chứng khoán
trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng khoán thường rất phức tạp,
có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô hình, cả những yếu tố bên trong hoặc ngoài DN.
Sự đánh giá khác nhau của các NĐT về mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được
giao dịch trên thị trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng Đôminô) đối
với giá cả của các loại chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói
chung bị sụt giảm.
Rủi ro sức mua (rủi ro lạm phát): là loại rủi ro do giảm sút sức mua của đồng tiền.
NĐT nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được lợi nhuận trong tương lai nhưng
họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ trong thời hạn nắm giữ chứng
khoán. Nếu trong khoảng thời gian đó giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát,
họ sẽ mất đi một phần sức mua từ số thu nhập có được trong tương lai. Giá trị phần sức mua
bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro sức mua của NĐT chứng khoán.
Rủi ro tỷ giá: là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi NĐT cho
rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì NĐT đó sẽ quyết định không đầu tư
vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá
trị chứng khoán sẽ bị sụt giảm.
- Rủi ro không hệ thống: là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một công ty
hoặc một ngành kinh doanh cụ thể mà không gắn liền với toàn bộ thị trường. Ảnh hưởng
của các rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong phạm vi một công ty, một ngành hay
một số loại chứng khoán nhất định. Rủi ro không hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi
ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro quản lý…trong hoạt động của một công ty hoặc một
ngành kinh doanh nhất định.
Rủi ro kinh doanh: là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu hàng hoá hay
dịch vụ của DN hay là sự thay đổi bất lợi môi trường kinh doanh của DN.
Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán trái tức, cổ tức và hoàn vốn cho
người sở hữu chứng khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân đối giữa doanh thu,
chi phí và các khoản nợ của DN.
Rủi ro quản lý: là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không hợp lý từ các
nhà quản trị DN.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Để đi đến quyết định ĐTCK NĐT thường phải xem xét, cân nhắc nhiều nhân tố. Các
nhân tố cơ bản thường bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản ĐTCK trong tương lai. Mục đích trước hết của ĐTCK
là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi của khoản ĐTCK là
nhân tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lợi của chứng khoán lại chịu
ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, chính sách kinh tế
của nhà nước, khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường…Vì thế để tối đa hoá lợi nhuận,
NĐT cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời
nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.
- Mức độ rủi ro có thể gặp phải của loại chứng khoán đầu tư. Để có thể thu được lợi
nhuận tối đa trong ĐTCK NĐT phải biết cách tối thiểu hoá các rủi ro có thế gặp phải. Việc
đánh giá mức độ rủi ro trong ĐTCK không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà
còn đối với toàn bộ danh mục ĐTCK nhằm hạn chế và phân tán rủi ro.
- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: Tính thanh khoản (hay tính lỏng)
của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông
thường, khi có số tiền mặt nhàn rỗi NĐT thường ĐTCK để thu lợi nhuận, song khi cần tiền
mặt để đáp ứng các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng
chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu các chứng khoán mà họ đang sở hữu có khả
năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không khác gì việc giữ tiền
mặt thì sẽ khuyến khích họ ĐTCK và ngược lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán
cũng là một yếu tố quan trọng để các NĐT xem xét, lựa chọn.
- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN. Đôi khi mức độ và khả
năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN cũng là một nhân tố được xét đến khi lựa chọn
quyết định ĐTCK. Quyền hạn và lợi ích của NĐT chứng khoán thường được tăng thêm theo
mức độ nắm giữ cổ phần của DN. Vì vậy, khi ĐTCK họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư
sao cho có thể đạt được mục đích kiểm soát, chi phối hoạt động của DN, hỗ trợ cho việc
thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
1.2.6. Quy trình ĐTCK
Quy trình ĐTCK sẽ có những sự khác biệt nhất định nếu NĐT chứng khoán lựa chọn
các phương thức ĐTCK khác nhau, về cơ bản bao gồm các bước sau:
- Phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK: Việc ĐTCK thường bắt đầu bằng việc
phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK tối ưu sao cho vừa có thể đem lại tỷ suất sinh lời
cao, đồng thời hạn chế tối đa các rủi ro đầu tư có thể gặp phải. Nội dung phân tích sẽ xem
xét, đánh giá mức độ sinh lời và khả năng rủi ro có thể gặp phải trong ĐTCK sẽ lựa chọn.
Do các chứng khoán có mức sinh lời cao thường gắn với độ rủi ro cao, vì thế đa dạng hoá
danh mục ĐTCK là cách mà các NĐT hay lựa chọn để phân tán rủi ro và tối đa hoá thu
nhập ĐTCK. Hình thức đa dạng hoá ĐTCK có thể là đầu tư vào chứng khoán của nhiều DN
trong các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau, kết hợp giữa đầu tư cổ phiếu và đầu
tư trái phiếu với những kỳ hạn thanh toán đa dạng để tăng khả năng thanh khoản của chứng
khoán. Việc lựa chọn một danh mục ĐTCK cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào chiến lược ĐTCK của
từng NĐT riêng biệt.
- Quản lý danh mục ĐTCK: Hoạt động ĐTCK không chỉ dừng lại ở chỗ lựa chọn
được danh mục ĐTCK mà còn ở chỗ quản lý, điều chỉnh danh mục đầu tư trong suốt thời
gian nắm giữ chứng khoán phù hợp với những diễn biến cụ thể của thị trường. Người ta
thường phân biệt thành hai phương pháp quản lý chủ yếu là quản lý thu động và quản lý chủ
động.
Đặc trưng cơ bản của phương pháp quản lý thụ động là việc NĐT chọn mua và nắm
giữ các chứng khoán cho đến khi đáo hạn mà không quá chú trọng đến việc phân tích, dự
báo những ảnh hưởng của sự biến động của lãi suất thị trường. Theo đó, danh mục ĐTCK
tốt nhất sẽ là danh mục đầu tư có thể đem lại mức thu nhập ngang bằng với mức doanh lợi
đầu tư trung bình trên thị trường. Phương pháp quản lý thụ động vì vậy chỉ có tác dụng
phòng tránh các rủi ro không hệ thống mà không có khả năng phòng tránh những rủi ro hệ
thống trên thị trường.
Phương pháp quản lý danh mục đầu tư chủ động đòi hỏi việc mua và nắm giữ các
chứng khoán phải trên cơ sở phân tích, dự báo các ảnh hưởng của sự biến động thị trường
để đạt mức sinh lợi cao hơn mức doanh lợi trung bình của thị trường với một mức độ rủi ro
có thể chấp nhận được. Các yếu tố có thể gây nên những biến động thị trường cần được
phân tích và dự báo trong quản lý danh mục đầu tư chủ động là sự biến động của lãi suất thị
trường, sự thay đổi của cơ cấu kỳ hạn lãi suất hoặc sự thay đổi mức chênh lệch lãi suất giữa
các loại chứng khoán khác nhau…Dựa trên kết quả phân tích dự báo đó, các NĐT sẽ hướng
vào việc lựa chọn danh mục ĐTCK có thể đem lại mức thu nhập cao hơn mức doanh lợi
trung bình trên thị trường.
1.3. PTCB trong ĐTCK
Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định
đầu tư. Phân tích chứng khoán là bước khởi đầu cho hoạt động ĐTCK. Mục tiêu của phân
tích chứng khoán là giúp cho NĐT chứng khoán lựa chọn được các quyết định ĐTCK có
hiệu quả nhất, mang lại lợi nhuận tối đa với rủi ro tối thiểu. Kết quả phân tích chứng khoán
phải làm rõ được các căn cứ cho sự lựa chọn quyết định đầu tư. Nó phải trả lời được các câu
hỏi cơ bản: khi nào thì nên đầu tư, nên đầu tư vào loại chứng khoán nào và với giá cả ra sao,
khi nào thì nên rút khỏi thị trường…Để đạt được kết quả đó, việc phân tích chứng khoán
cần được tiến hành theo một quy trình cụ thể và khoa học.
Phân tích chứng khoán có thể tiến hành theo quy trình từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
Theo phương pháp phân tích từ trên xuống, người ta thường bắt đầu từ những phân tích khái
quát về tình hình kinh tế vĩ mô cả trong nước và quốc tế, xem xét những ảnh hưởng, tác
động của nó đến hoạt động của các DN và TTCK, sau đó mới đi đến phân tích tình hình của
ngành kinh doanh và cuối cùng là hoạt động của từng DN, công ty riêng biệt. Phương pháp
phân tích chứng khoán từ dưới lên bắt đầu từ phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của
một công ty cụ thể và đặt nó trong mối liên hệ tương quan giữa hoạt động của công ty với
môi trường kinh doanh bên ngoài là tình hình hoạt động của ngành hoặc nền kinh tế.
Trong hoạt động ĐTCK có hai phương pháp phân tích chủ yếu được sử dụng là
phương pháp PTCB (phân tích tài chính) và phân tích kỹ thuật. PTCB giúp cho NĐT có thể
lựa chọn kết cấu danh mục đầu tư phù hợp. Phân tích kỹ thuật giúp cho các nhà quản lý có
thể lựa chọn được thời điểm và chiến lược mua bán chứng khoán tuỳ theo diễn biến của thị
trường.
1.3.1.Khái niệm và mục tiêu của PTCB
PTCB là phương pháp nghiên cứu các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, tình hình
kinh doanh của ngành, các thông tin tài chính công ty như cổ tức, lợi nhuận, báo cáo thu
nhập, bảng cân đối kế toán...nhằm xác định một giá trị hợp lý của một loại chứng khoán
hoặc các chứng khoán trên thị trường.
Khi người đầu tư mua một loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp hay thị trường thứ
cấp với ý định nắm giữ lâu dài đều muốn biết rằng giá chứng khoán mà người ta chào bán
cho mình có hợp lý hay không, tức là có phù hợp với giá trị của công ty phát hành ra chứng
khoán đó hay không. Muốn vậy, phải tiến hành PTCB để tìm ra giá trị nội tại của chứng
khoán.
1.3.2. Nội dung phương pháp PTCB
1.3.2.1. Phân tích kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của TTCK và hiệu
quả hoạt động của DN, vì thế trước phân tích các yếu tố thuộc bản thân DN, cần đánh giá
đúng các ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đến hiệu quả hoạt động của TTCK và giá cả
chứng khoán của DN như thế nào. Việc phân tích kinh tế vĩ mô nhằm mục đích đánh giá
đúng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tác động của nó đến sự phát triển
của TTCK, từ đó có các giải pháp phù hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
- Phân tích tình hình kinh tế - chính trị - xã hội quốc tế:
Ngày nay hợp tác, mở cửa, và hội nhập kinh tế đã trở thành một xu thế tất yếu trong
phát triển kinh tế của mỗi nước, do đó nền kinh tế quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình
hình sản xuất kinh doanh của DN và của quốc gia, có những tác động trực tiếp đến hoạt
động của TTCK, vì vậy yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình phân tích ĐTCK.
Các vấn đế có tính quốc tế cần lưu ý trong quá trình phân tích chứng khoán là mức
tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ, chính sách tự do hoá
tài chính, chính sách tiền tệ...
- Phân tích môi trường chính trị - xã hội của đất nước:
Môi trường chính trị, xã hội của mỗi quốc gia thể hiện ở hệ thống các yếu tố về thể
chế quản lý xã hội (như hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy của cơ quan hành
chính), cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy quản lý hành chính nhà nước các cấp, các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo, sắc tộc, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy
hành chính nhà nước.
Thực tế đã chứng minh sự ổn định của môi trường chính trị - xã hội của đất nước là
yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, DN và TTCK. Sự
mất ổn định chính trị - xã hội của đất nước, bất kể vì lý do gì cũng gây tổn hại, thậm chí làm
gián đoạn hoạt động của TTCK và hiệu quả của các DN. Bởi lẽ, sự thay đổi về thể chế chính
trị thường kéo theo những thay đổi về chính sách kinh tế - xã hội, chính sách chi tiêu ngân
sách, chính sách ngoại giao và an ninh quốc phòng... của Chính phủ. Thực tế cho thấy yếu
tố chính trị ngày càng có mối liên hệ và ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế của đất nước.
- Phân tích ảnh hưởng của môi trường pháp luật:
Ngày nay hầu hết các nước đều quản lý đất nước theo chế độ pháp quyền, vì thế môi
trường pháp luật cũng có tác động quan trọng đến hoạt động của DN và TTCK. Các cơ quan
của Chính phủ tác động đền TTCK bằng Luật và các văn bản dưới Luật. Chẳng hạn Luật
DN thống nhất, Luật chống độc quyền sẽ tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các DN
thuộc mọi thành phần kinh tế, và làm giảm giá chứng khoán của các DN thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật chống độc quyền. Luật thâu tóm, sáp nhập công ty có thể tác động tiêu
cực hay tích cực đến một nhóm các công ty. Các chính sách tài chính - tiền tệ trực tiếp gây
tác động lớn tới thị trường...
Tóm lại môi trường pháp lý có tác động mạnh mẽ, là điều kiện để nâng cao hiệu quả
hoạt động của DN và sự phát triển của TTCK. Việc phân tích môi trường pháp lý cần được
xem xét trên các mặt như: tính hệ thống, đồng bộ, ổn định, minh bạch, khả thi và hiệu quả
của hệ thống pháp luật cũng như tính quốc tế của hệ thống pháp luật.
- Phân tích và dự đoán về xu hướng thị trường:
Môi trường kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng, quyết định xu thế chung của TTCK.
Thông thường, khi nền kinh tế đang ở giai đoạn tăng trưởng và thịnh vượng thì TTCK phát
triển và ngược lại khi nền kinh tế ở giai đoạn suy giảm, suy thoái và khủng hoảng thì thị
trường sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế thì ta
có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh
đặc biệt, diễn biến chung của TTCK với tình hình kinh tế không phải lúc nào cũng diễn ra
cùng chiều.
Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các
NĐT luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế
và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi TTCK.
- Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô:
Các điều kiện kinh tế vĩ mô của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
DN và TTCK do có liên quan trực tiếp đến mức rủi ro hệ thống trên thị trường. Các yếu tố
vĩ mô cần quan tâm trong phân tích chứng khoán là: tổng sản phẩm quốc nội; tỷ lệ thất
nghiệp; tỷ lệ lạm phát; lãi suất; cân đối thu chi ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, ba nhân tố
vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoàn đó là: tỷ
giá hối đoái, lãi suất và tỷ lệ lạm phát.
1.3.2.2. Phân tích ngành
Mục đích của phân tích ngành là nhằm giúp cho NĐT thấy rõ những lợi ích hoặc rủi
ro có thể gặp khi quyết định đầu tư vào chứng khoán của một DN hoạt động trong một
ngành kinh doanh cụ thể. Những nội dung cần thực hiện trong phân tích ngành bao gồm:
phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành, đánh giá mức độ rủi ro của ngành.
- Phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành:
Mỗi ngành kinh doanh cũng có những chu kỳ phát triển nhất định. Giữa chu kỳ phát
triển của nền kinh tế và của ngành có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau
nhưng không phải bao giờ cũng có sự biến động cùng chiều, đồng điệu với nhau. Mỗi ngành
có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi trong chu kỳ phát triển của nền kinh tế.
Có thể trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển song có ngành phát đạt có
ngành lại gặp nhiều khó khăn. Các ngành kinh doanh các sản phẩm không phải là sản phẩm
thiết yếu (ô tô, đồ xa xỉ...), sẽ có lợi hơn trong giai đoạn nền kinh tế có sự tăng trưởng,
nhưng cũng gặp khó khăn trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái. Ngược lại, các ngành kinh
doanh các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng thiết yếu (lương thực, thực phẩm...) sẽ không bị
ảnh hưởng nhiều ngay cả khi nền kinh tế suy thoái.
Nhìn chung, triển vọng và chu kỳ kinh doanh của ngành có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh của các DN trong ngành. Nếu một công ty hoạt động kinh doanh trong
một ngành còn kém phát triển thì cũng khó có triển vọng đầu tư đem lại hiệu quả cao. Vào
cùng một thời điểm nhất định, các DN kinh doanh trong các ngành khác nhau sẽ có mức
doanh lợi thu được khác nhau, mức rủi ro khác nhau. Do đó, cần có sự phân tích đánh giá
ngành kinh doanh để chọn ngành có mức doanh lợi cao, mức độ rủi ro thấp để đầu tư. Mặc
khác, cũng cần có sự theo dõi, phân tích ngành để lựa chọn thời điểm quyết định đầu tư hay
rút khỏi đầu tư cho phù hợp.
- Đánh giá mức độ rủi ro của ngành kinh doanh:
Mỗi ngành kinh doanh khác nhau cũng có mức độ rủi ro khác nhau. Việc xác định
mức độ rủi ro của ngành giúp cho NĐT lựa chọn được ngành đầu tư có hiệu quả với độ rủi
ro tối thiểu hoặc có thể chấp nhận được. Qui trình phân tích, đánh giá rủi ro của ngành được
tiến hành theo trình tự sau:
+ Xác định hệ số rủi ro () của ngành, từ đó tính toán được mức lợi suất đòi hỏi dựa
theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác định như sau:
E(R) = Rf + (Rm + Rf)
Trong đó: E(R): Mức lợi suất đòi hỏi
Rf : Mức lợi suất phi rủi ro
Rm: Mức lợi suất bình quân của thị trường
: Hệ số rủi ro ngành
+ Phân tích hệ số P/E của ngành: xem xét mối quan hệ của P/E ngành với P/E tổng
thể của thị trường; xem xét các nhân tố cơ bản của ngành gây tác động trực tiếp tới P/E
ngành như hệ số trả cổ tức, mức sinh lợi (lợi suất) yêu cầu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức.
+ Ước tính thu nhập trên một cổ phiếu (EPS): được xác định theo một số phương
pháp chủ yếu như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào - đầu ra, phân tích mối
quan hệ giữa ngành và nền kinh tế.
+ Ước tính mức lợi suất đạt được (r): Giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng hệ số
P/E cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập trên một cổ phiếu. Sau đó só sánh giá trị
cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để ước tính lợi suất đạt được (r) theo công thức:
(Giá trị chỉ số cuối kỳ - Giá trị đầu kỳ + Cổ tức nhận trong kỳ) r = Giá trị đầu kỳ
+ Lựa chọn quyết định đầu tư hay không: So sánh mức lợi suất đạt được r với mức
doanh lợi đòi hỏi E(R), nếu r > E(R) thì nên đầu tư vào ngành này, ngược lại thì nên rút khỏi
đầu tư vào ngành này.
1.3.2.3. Phân tích công ty
- Phân tích báo cáo tài chính công ty: Hệ thống báo cáo tài chính của công ty là
những thông tin cực kỳ quan trọng, phản ánh tổng hợp về tình hình tài chính của công ty
trong một thời gian cụ thể. Những thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính trước hết
phục vụ cho những người có quyền lợi trực tiếp (cổ đông, đối tác đầu tư, khách hàng, người
cho vay...), sau nữa là những người lãnh đạo điều hành DN (Hội đồng quản trị, ban giám
đốc...) và cuối cùng là những người có quyền lợi gián tiếp (thuế vụ, tài chính, thống kê...).
Phân tích báo cáo tài chính nhằm đạt được các mục tiêu đó là: đánh giá khả năng sinh lợi
của tổ chức phát hành; khả năng thanh khoản, tức là khả năng chi trả các khoản nợ, đặc biệt
là nợ ngắn hạn; tiềm năng phát triển trong tương lai.
Việc phân tích báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả chiều dọc và chiều
ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là tính toán các tỷ lệ của DN và so
sánh trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng, giảm. Phân tích theo chiều
ngang là phân tích cần có sự so sánh giữa DN phân tích với các DN ngang hàng nhau trong
cùng một ngành. Phương tiện cơ bản của các báo cáo tài chính công ty là báo cáo thường
niên bao gồm ba loại báo cáo chính đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các hệ số tài chính được sử dụng khi phân tích,
đánh giá tình hình tài chính của công ty bao gồm: Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh
toán, nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả
năng hoạt động, và nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận.
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán: xét về mặt thời gian thì DN có các
khoản nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các NĐT, các chủ
nợ là liệu số vốn họ bỏ ra đầu tư có thu hồi lại được không, mức độ rủi ro là bao nhiêu. Các
chỉ tiêu thường được dùng gồm các chỉ tiêu sau:
Tổng tài sản Hệ số thanh toán tổng quát = Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện hành = Tổng nợ ngắn hạn
TSLĐ & đầu tư ngắn hạn - Vật tư hàng hoá tồn kho Hệ số thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản:
Tổng số nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản
Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số tự tài trợ = Tổng nguồn vốn
Hệ số tự tài trợ = 1 - Hệ số nợ
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Cơ cấu tài sản = Tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động: hiệu quả sử dụng vốn luôn gắn liền
với sự tồn tại và phát triển của DN. Do đó, thông qua phân tích các chỉ tiêu phản ánh khả
năng hoạt động cho biết trình độ sử dụng các nguồn lực đạt kết quả cao nhất với chi phí bỏ
ra thấp nhất.
Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân
Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân
Doanh thu thuần Vòng quay toàn bộ vốn = Tổng vốn bình quân
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận: với các NĐT
thì đây là một nhóm chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng vì nó gắn liền với lợi ích kinh tế của
họ, nó là cơ sở để đánh giá kết quả kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định và là căn
cứ để các nhà quản lý đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai.
Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi tổng tài sản = Tổng giá trị tài sản
Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức cổ phiếu ưu đãi Thu nhập trên mỗi cổ phiếu = Số lượng cổ phiếu thường đang lưu hành
Thị giá một cổ phiếu Tỷ lệ giá thị trường trên thu nhập = Thu nhập một cổ phiếu
- Phân tích rủi ro của công ty: Khi tiến hành phân tích rủi ro tức là chúng ta tiến
hành xem xét sự bất ổn của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Mức độ biến động của
các dòng thu nhập càng cao có nghĩa rủi ro phải đối diện càng lớn. Rủi ro công ty thường
bao gồm hai loại là: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
+ Rủi ro kinh doanh: là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ bản của nó lại xuất
phát từ lĩnh vực ngành mà công ty đó trực thuộc. Sự bất ổn này là kết quả của sự thay đổi
doanh số bán hàng của công ty, mà doanh số bán hàng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
các khách hàng, loại hàng hoá, chất lượng hay cách thức sản xuất hàng hoá…Rủi ro kinh
doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty.
Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động Rủi ro kinh doanh = Thu nhập hoạt động bình quân
Bên cạnh việc tính mức độ rủi ro kinh doanh chung, chúng ta cũng cần xem xét hai
yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới sự biến động thu nhập hoạt động của công ty,
đó là sự biến động doanh số bán hàng và đòn bẩy hoạt động.
+ Rủi ro tài chính: là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông khi DN vay nợ. Để
xác định rủi ro tài chính, các nhà phân tích thường sử dụng hai loại hệ số. Loại thứ nhất là
các hệ số trên bảng cân đối kế toán, những hệ số này cho biết tỷ lệ vốn nợ so với vốn cổ
phần, nợ dài hạn so với tổng vốn, và loại thứ hai là nhóm các hệ số về các dòng thu nhập
hoặc dòng tiền sẵn có để thanh toán các chi phí tài chính cố định. Việc tính toán và phân
tích các hệ số này sẽ đem lại một đánh giá khái quát về hai vấn đề cơ bản: khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn, cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn.
- Phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng của công ty: Việc phân tích tiềm
năng tăng trưởng của một DN có ý nghĩa quan trọng đối với cả người cho vay lẫn chủ sở
hữu của DN đó. Đối tượng của việc phân tích khả năng tăng trưởng lâu dài là các hệ số, các
hệ số này sẽ cho chúng ta biết một DN sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh như thế nào. Giống
như bất kỳ một chủ thể kinh tế nào trong nền kinh tế nói chung, sự tăng trưởng của một DN
phụ thuộc vào: giá trị những nguồn lực được giữ lại và tái đầu tư vào DN, và tỷ lệ lợi nhuận
thu được từ các nguồn lực được giữ lại. DN tái đầu tư càng nhiều thì tiềm năng tăng trưởng
càng lớn, mặt khác, với một mức tái đầu tư nhất định, DN sẽ tăng trưởng nhanh hơn nếu
mức sinh lời từ tái đầu tư cao hơn. Căn cứ vào những cơ hội đầu tư mà DN có được, hội
đồng quản trị sẽ quyết định tỷ lệ thu nhập giữ lại là bao nhiêu. Về mặt lý thuyết, chứng nào
mà mức sinh lời ước tính đạt được còn vượt quá chi phí vốn của DN thì DN vẫn nên giữ lại
và tái đầu tư một phần thu nhập.
1.3.3. Một số phương pháp ĐTCK thông dụng theo PTCB
1.3.3.1. Phương pháp đầu tư theo Warren Buffett
Warren Buffett - Người được coi là NĐT tài chính thành công nhất thế giới từ trước
cho tới nay. Ông nổi tiếng bởi sự thành công dựa trên thuyết “đầu tư giá trị”. Ông đã đặt ra
các nguyên tắc và nghiêm chỉnh thực hiện theo các nguyên tắc, đó là: đầu tư vào công ty
chứ không đầu tư vào cổ phiếu (tờ giấy); đầu tư theo giá trị thực; và chọn thời điểm mua và
bán
- Đầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếu: Warren Buffett quan niệm rằng
cổ phiếu chỉ là tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty đó. Ông
không đầu tư vào cổ phiếu, mà đầu tư vào công ty, thực chất đây là quan điểm phản ánh ông
hoàn toàn không quan tâm đến việc mua đi bán lại cổ phiếu trong thời gian ngắn (thực hiện
chiến lược đầu tư dài hạn), thay vào đó, ông áp dụng chiến lược “buy and hold” - mua và
giữ - nghĩa là ông sẽ giữ cổ phiếu trong thời gian dài, rất dài và đôi khi giữ luôn nếu đó là
những công ty ông xác định vẫn còn ưu thế để tăng trưởng hoặc độc quyền .
- Đầu tư theo giá trị đích thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết
định chọn công ty để đầu tư: Công ty có phát triển tốt không, có lợi thế cạnh tranh không?
(Warren Buffett chỉ muốn mua cổ phiếu của công ty có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc là công
ty dẫn đầu thị trường của ngành kinh doanh chính của nó; hoặc là có thương hiệu được
khách hàng đánh giá cao. Ông không muốn đầu tư vào những công ty không có lợi thế cạnh
tranh và chỉ có thể cạnh tranh bằng cách giảm giá bán. Ông còn xét xem công ty mà ông sắp
đầu tư có nguy cơ bị công ty lớn mạnh khác nhảy vào cạnh tranh hay không. Ông là người
sáng chế ra từ “economic moat” ngụ ý công ty đó có lợi thế cạnh tranh và tạo ra “hàng rào”
ngăn cản sự cạnh tranh của các công ty khác); Công ty đó có mô hình kinh doanh đơn giản
không? (Warren Buffett chỉ đầu tư vào các công ty có mô hình đơn giản, dễ hiểu, không quá
phức tạp. Ông chỉ đầu tư vào những ngành mà ông biết rất rõ. Thậm chí ông còn có ý tưởng
: “Hàng ngày ông hay dùng đồ dùng (vật phẩm) gì, thì ông sẽ mua cổ phiếu của công ty sản
xuất ra đồ dùng (vật phẩm) đó); Lợi nhuận công ty tốt, tăng trưởng ổn định không? (Tốc độ
tăng trưởng hàng năm của công ty); Tỷ số nợ trên vốn có thấp không? Tỷ số lợi nhuận trên
nợ có cao không? Giả sử lợi nhuận không đạt được mức kỳ vọng, công ty có khả năng trả
được những món nợ đến hạn không? Tỷ lệ hàng tồn kho có cao không? (Warren Buffett
thường rất “dị ứng” với các công ty có hệ số hàng tồn kho cao. Ông luôn sợ các rủi ro mang
lại từ hàng tồn kho); Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư có tốt không? (Đây là một trong những
chỉ số mà Buffett đặc biệt quan tâm. Ông chỉ đầu tư vào những công ty tạo ra mức lợi nhuận
tốt ); Chi phí vận hành của công ty có ở mức chấp nhận được hay không? Dòng tiền mặt để
đầu tư có đủ lớn để tạo ra lợi nhuận và sự tăng trưởng? Công ty có giữ lại lợi nhuận để tái
đầu tư hay không? Warren Buffett rất muốn công ty giữ lại phần lớn lợi nhuận và không
chia cổ tức để tái đầu tư phát triển kinh doanh – Quy luật lãi mẹ đẻ lãi con...); Ban lãnh đạo
có giỏi, có tầm nhìn, có bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức không?
(Buffett chỉ đầu tư vào những công ty mà ông tin rằng ban lãnh đạo có năng lực).
- Thời điểm mua của Warren Buffett: Ông không bao giờ vội vã mua những cổ phiếu
có biên độ an toàn không rõ ràng. Thường thì ông sẽ đợi khi thị trường vào giai đoạn điều
chỉnh hoặc khi thị trường đang thời kỳ giảm giá mạnh. Khi đó ông sẽ mua được cổ phiếu
của công ty với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó. Phương pháp đầu tư đơn giản này đã giúp
ông thành công lớn và trở thành một trong những người có tài sản lớn nhất thế giới. Nó
cũng giúp ông thoát được tổn thất trong những giai đoạn mà hầu hết mọi người đều bị thiệt
hại, ví dụ như giai đoạn cổ phiếu các công ty Internet bùng nổ và sụp đổ. Tuy vậy, ông bị
một số người phê bình là quá thận trọng và vì thế đã bỏ qua những cơ hội lớn.
- Thời điểm bán của Warren Buffett: Ông thường có câu “ Bán khi cảm nhận thấy
chẳng có gì đáng để mua”. Thực ra bản chất câu này phản ánh Warren Buffett sẽ bán các cổ
phiếu của mình khi nó bị định giá quá cao so với “giá trị đích thực” mà ông đã tính.
1.3.3.2. Phương pháp đầu tư theo Benjamin Graham
Benjamin Graham là một NĐT thành công, được xem như “ông thầy của Wall
Street” và cũng là người đi đầu trong chiến lược đầu tư theo giá trị. Warren Buffett coi
Benjamin Graham là người thầy vĩ đại. Ba chỉ tiêu chính của Benjamin Graham: Chỉ tiêu lợi
nhuận; Doanh thu; Chỉ tiêu lợi nhuận/Doanh thu.
- Chỉ tiêu lợi nhuận: Thu nhập ròng hay lợi nhuận sau thuế có thể được xem xét bằng
tổng lợi nhuận hoặc lợi nhuận tính trên một cổ phiếu (EPS). Một công ty có sự gia tăng về
tốc độ tăng trưởng thu nhập khi tốc độ tăng trưởng thu nhập của quý sau cao hơn quý trước.
Một công ty tốt có tốc độ gia tăng về tăng trưởng thu nhập cao hơn so với 3 hay 4 quý trước
liền kề. Tăng trưởng của chỉ số thu nhập ít nhất là 25% so với cùng quý của năm trước.
EPS hàng năm của cổ phiếu tốt ít nhất phải tăng trưởng 25% so với 3 năm trước đó. Theo
cách nghĩ thông thường thì nên chọn mua những cổ phiếu có chỉ số P/E thấp và ông cho
rằng những cổ phiếu có chỉ số P/E cao là đắt và không nên mua.
Tổng hợp một số tiêu chí chọn lựa CP căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuân bao gồm :
Dựa vào thực hiện thu nhập quan trọng hơn thu nhập dự kiến; Lựa chọn những công ty có
tốc độ tăng trưởng thu nhập ít nhất 25% ở quý gần nhất; Lựa chọn công ty có sự gia tăng về
tốc độ tăng trưởng thu nhập ở 3 hay 4 quý gần nhất; Lựa chọn công ty có thu nhập hàng
năm tăng trưởng ít nhất 25% so với mỗi năm của 3 năm trước
- Chỉ tiêu doanh thu: Lượng hàng bán là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường một
công ty có sức mạnh hay không và là nhân tố chính của tăng trưởng. Khi chọn lựa cổ phiếu
tốt hãy tìm công ty có tốc độ bán hàng mạnh để làm tiền đề cho tăng trưởng thu nhập. Một
số biểu hiện có thể xem xét khi một công ty gia tăng lượng hàng bán như nhiều khách hàng
hơn, khách hàng tăng lượng mua, công ty giới thiệu sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào thị
trường mới, công ty cải thiện sản phẩm cũ. Tiêu chí để xác định công ty có tăng trưởng bán
hàng tốt nếu 3 quý gần nhất có sự tăng lượng hàng bán lớn hơn hoặc bằng 25% so với quý
gần nhất trước đó. Cần xem xét kỹ chỉ tiêu doanh thu vì đôi khi lượng hàng bán vẫn ẩn chứa
những vấn đề như công ty có thể quá phụ thuộc vào một số khách hàng, phụ thuộc quá
nhiều vào một số mặt hàng hay quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Cũng cần lưu ý đến
việc công ty thêm vào lượng hàng bán được mà thực tế nó chưa xảy ra, hay các đơn đặt
hàng mà không được chuyển đi hay chưa thu được tiền bán đã được hạch toán làm gia tăng
lượng hàng bán.
- Chỉ tiêu Lợi nhuận/Doanh thu: Lợi nhuận đánh giá tỷ lệ chuyển doanh thu thành
thu nhập. Trên quan điểm của NĐT, nên tìm những công ty có sự tăng về tỷ lệ lợi
nhuận/doanh thu. Con số này càng lớn thì công ty có sự tốt lên về quản lý và có sự tốt lên
trong các hoạt động. Lợi nhuận có thể là đầu mối chủ yếu tìm cổ phiếu để mua và nên so
sánh chỉ số này giữa các công ty có ngành nghề tương đồng. Tiêu chí để xác định cho chỉ
tiêu này là lợi nhuận trước thuế ít nhất đạt 18% doanh thu. Yêu cầu lợi nhuận sau thuế luôn
đạt 10% trở lên. Tuy nhiên, cũng cần phải xét cả những chỉ tiêu cơ bản khác như tăng
truởng thu nhập. Mức tăng về lợi nhuận sẽ ít đi nếu doanh thu giảm, ngoại trừ có sự thay đổi
về chiến lược của công ty (giả sử như khi cắt giảm những dây chuyền sản xuất không hiệu
quả).
1.3.3.3. Phương pháp đầu tư theo William J.O’Neil (CANSLIM)
William J.O’Neil là một hình mẫu NĐT chứng khoán thành công tại Mỹ. Trước đó,
ông làm nghề kế toán và rồi với những công thức đầu tư của riêng mình, ông đã trở thành
một nhà “phù thuỷ chân chính” tại Wall Street khi thu về hàng triệu USD lợi nhuận mỗi
năm từ TTCK.
Bảy tiêu chuẩn ( CANSLIM ):
- C: Current Quaterly Earnings Per Share (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của quý gần
nhất). William nhận định rằng, hầu hết các cổ phiếu tốt đều có sự gia tăng lợi nhuận so với
cùng quý năm trước đó và tỷ lệ tăng càng cao thì chứng tỏ cổ phiếu càng có nhiều triển
vọng. Theo ông, các NĐT trước khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu cần xem xét tới sự gia tăng
mạnh mẽ lợi nhuận của cổ phiếu đó, cụ thể là mức tăng trưởng của lãi ròng trên mỗi cổ
phiếu trong 3 tháng gần nhất. Nhưng phải tìm hiểu sự gia tăng lợi nhuận này ở đâu và như
thế nào? William cho rằng NĐT có thể nghiên cứu các báo cáo tài chính có kiểm toán của
công ty niêm yết, cùng với việc thăm dò các các kênh thông tin khác như báo chí, người
quen... Điều quan trọng là các NĐT cần coi trọng độ tin cậy và tính đồng nhất của thông tin,
chẳng hạn có thể có điều gì đó không đúng, nếu doanh thu của công ty tăng 20%, trong khi
lãi ròng chỉ tăng 5%.
- A: Annual Earnings Increases (sự gia tăng lợi nhuận hàng năm). Theo ONeil, cổ
phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm trước đó. Các
NĐT cần đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và đạt
trên 25%, tuy nhiên nên chú ý tới chu kỳ kinh doanh của từng ngành, từng công ty. Theo
ONeil, tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khoảng 80% các cổ phiếu tồi. Để có được sự
chính xác về mức gia tăng lợi nhuận, NĐT cần nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến
công ty mà họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm lịch sử và đặc điểm của công ty,
tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành cổ phiếu và tổ chức bảo lãnh phát hành cổ
phiếu. NĐT có thể tìm các thông tin này trong Bản thông cáo phát hành, trong Báo cáo tài
chính của công ty hoặc từ các công ty dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định đầu tư chỉ nên
đưa ra khi bạn đã có đủ cơ sở thông tin về cổ phiếu cũng như về mức tăng trưởng lãi ròng
hàng năm.
- N: New Products, New Management, New Highs (sản phẩm mới, sự quản lý mới,
giá cổ phiếu đạt mức giá cao mới). Những nghiên cứu của William chỉ ra rằng giá cổ phiếu
tăng sẽ bắt nguồn từ một số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản phẩm
mới của công ty, ban giám đốc mới, phương thức quản lý mới hay mức giá trần mới của cổ
phiếu trên TTCK. Do vậy, sẽ không bao giờ thừa nếu các NĐT quan tâm đến những nhân tố
nội tại này. Nếu xét thấy những nhân tố này có sự ổn định, không có biểu hiện đột biến theo
chiều hướng xấu, thì đó sẽ là một cổ phiếu có nhiều triển vọng tăng trưởng trên TTCK
- S: Supply and Demand (tình hình cung và cầu). Trong kinh doanh, quy luật cung
cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, và ĐTCK cũng không phải là một
ngoại lệ. Giá cổ phiếu cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William cho rằng cổ phiếu
của các công ty đại chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng
đáng để mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít nên
giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của cổ phiếu cũng
như rất khó sinh lợi nhuận lớn. Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị
trường mới có nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số
lượng lưu hành lớn. Từ đó suy ra, cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ
lớn thường là những cổ phiếu có độ an toàn cao. William đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu
được công ty mua lại và cổ phiếu của các công ty có tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn tự có vừa
phải, bởi theo ông thì tỷ lệ này càng cao bao nhiêu công ty sẽ càng phải đương đầu với áp
lực trả lãi trong tương lai nhiều bấy nhiêu. Các NĐT nên so sánh tỷ số này ở công ty mình
dự định đầu tư với tỷ số nợ bình quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích
thêm khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty.
- L: Leader and Laggard (cổ phiếu dẫn đầu và cổ phiếu tụt hậu). Theo O’Neil, NĐT
trên thị trường chỉ nên mua 2 hay 3 cổ phiếu tốt nhất trong nhóm những cổ phiếu đầu bảng
hiện tại, còn lại nên dành tiền cho những cổ phiếu có khả năng sinh lời trong tương lai. Ðặc
biệt, các NĐT cần tránh mua những cổ phiếu có mức tăng trưởng cao nhưng không bền
vững, chẳng hạn như cổ phiếu lên giá theo trào lưu, theo sự kiện nổi bật… bởi vì các cổ
phiếu này được đánh giá là những cổ phiếu tụt hậu, không sớm thì muộn cũng mất giá.
- I: Institutional Sponsorship (sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư). Định
chế tài chính đầu tư ở đây thường là các cơ quan chức năng, các cơ quan chính phủ chuyên
về tài chính đầu tư. Các cơ quan này có thể nắm giữ một số lượng cổ phiếu nhất định của
các công ty nào đó, nhờ vậy mà công ty sẽ có sự ủng hộ và trợ giúp mạnh mẽ từ những cơ
quan này, một điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, khiến giá cổ phiếu
tăng mạnh. Tuy nhiên, một số lượng quá lớn các định chế tài chính đầu tư nắm giữ cổ phiếu
lại trở thành yếu tố bất lợi, vì điều đó đồng nghĩa với việc nguồn cung sẽ hạn chế bởi các cơ
quan ít khi muốn bán từng phần cổ phiếu của mình, đẩy tính thanh khoản của cổ phiếu
xuống thấp.
- M: Market Direction (định hướng thị trường). Cho dù bạn có hoàn toàn chính xác
khi nhận định về cả 6 tiêu chí kể trên, nhưng đến tiêu chí định hướng thị trường mà bạn mắc
phải sai lầm thì sẽ có đến 5 trong số 7 cổ phiếu bạn mua sẽ mất giá và khiến bạn thua lỗ.
Yếu tố thị trường là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá cổ phiếu. Khi hàng
loạt các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của công ty mà bạn
lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu của các công ty này
tăng theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu bạn mua vào cũng được “ăn theo” những
chỉ số tích cực đó. Do đó, William nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu các
đồ thị biến động giá chứng khoán theo ngày, theo tuần và theo tháng trước mỗi quyết định
đầu tư cổ phiếu (Sự cần thiết phải dùng phân tích kỹ thuật)...
1.3.3.4. Một số phương pháp đầu tư khác
- Phương pháp 1: Chỉ số P/E < Hệ số tăng thu nhập bình quân 3 năm. Ba năm liền có
lãi liên tục. Giá giao dịch hiện tại < Giá cao nhất 52 tuần.
- Phương pháp 2: Chỉ số P/E < ½ Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại, Doanh
thu, Thu nhập tăng dần đều.
- Phương pháp 3: Hệ số tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận tăng gấp đôi hệ số tăng giá
chỉ số bình quân thị trường (VN Index, HASTC Index ). Hệ số nợ thấp hơn so với hệ số nợ
bình quân ngành. Giá bắt đầu vào kỳ bullish.
- Phương pháp 4: Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng EPS (ước tính). Lợi nhuận các quý
tăng dần. Doanh thu tăng dần.
- Phương pháp 5: Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại. Chỉ số sức
mạnh tương đối giá (RS) ở mức < 20. Tỷ lệ nợ/Tài sản < 50%.
- Phương pháp 6: Ba năm liền có lãi, Tăng trưởng lợi nhuận bình quân năm >10%.
Ban lãnh đạo công ty chiếm giữ > 15% số cổ phiếu phát hành.
1.3.4. Mối quan hệ giữa PTCB và phân tích kỹ thuật trong ĐTCK
Nếu như PTCB tập trung vào xu hướng kinh tế nói chung, tình hình kinh doanh hiện
tại của một ngành kinh doanh hoặc chất lượng cổ phiếu của một công ty cụ thể. Ngược lại,
phân tích kỹ thuật lại quan tâm đến việc dự báo ngắn hạn về xu hướng thị trường và giá cả
chứng khoán hơn là tập trung nghiên cứu một công ty nào đó. Đối với một nhà phân tích kỹ
thuật, quyết định mua hoặc bán chứng khoán dựa trên hoạt động của thị trường và sự thay
đổi xu hướng thị trường.
Một số học giả cho rằng, PTCB nghiên cứu các nguyên nhân dẫn tới biến động giá cổ
phiếu trên thị trường để trả lời câu hỏi “tại sao xảy ra và xảy ra điều gì trong giá cổ phiếu”,
còn phân tích kỹ thuật nghiên cứu các hiệu ứng của nó để trả lời câu hỏi “khi nào thay đổi
giá cổ phiếu sẽ bắt đầu và khi nào kết thúc”. Nói cách khác, nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần
biết hiệu ứng là gì mà không cần quan tâm tới nguyên nhân tại sao lại dẫn tới tình hình đó;
còn nhà PTCB phải luôn cần phải biết nguyên nhân tại sao. Các nhà phân tích TTCK sử
dụng đồng thời cả hai phương pháp PTCB và kỹ thuật để đưa ra quyết định đầu tư. Họ dùng
phương pháp PTCB để xác định loại giao dịch nào nên thực hiện và dùng phương pháp kỹ
thuật để chọn thời điểm mua bán thích hợp nhất. Đôi khi người ta nói rằng PTCB được dùng
để trả lời câu hỏi “Mua, bán cái gì”, và phân tích kỹ thuật được dùng để trả lời câu hỏi “Khi
nào nên mua, bán”.
Dưới góc độ đầu tư, việc kết hợp cả hai phương pháp PTCB và phân tích kỹ thuật
dường như có thể đem lại những kết quả phối hợp tốt nhất. Điều đó đòi hỏi thời gian, sự am
hiểu và trình độ phân tích đáng kể của NĐT và đó là một công việc không thực sự dễ dàng.
Cả hai phương pháp phân tích này đều đóng vai trò thiết yếu trong ĐTCK, bởi vì nếu
NĐT có khả năng xác định được các loại chứng khoán đang giao dịch không đúng với giá
trị thực thông qua PTCB, đồng thời cũng có thể xác định được thời điểm thích hợp để mua
hoặc bán thông qua phân tích kỹ thuật. Có nghĩa rằng NĐT đã có trong tay công cụ phân
tích kết hợp rất hiệu quả.
Với sự phổ biến của máy tính cá nhân và các phần mềm phân tích kỹ thuật cũng như
khả năng truy cập dữ liệu từ xa hiện nay, NĐT cá nhân có thể dễ dàng có được các thông tin
cần thiết về giá và khối lượng giao dịch để phục vụ mục đích phân tích kỹ thuật cho riêng
mình. Tuy nhiên, số lượng NĐT sử dụng PTCB vẫn lớn hơn nhiều so với những người sử
dụng phân tích kỹ thuật.
CCHHƯƯƠƠNNGG 22:: TTHHỰỰCC TTRRẠẠNNGG HHOOẠẠTT ĐĐỘỘNNGG PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG
ĐĐẦẦUU TTƯƯ CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM
2.1. Khái quát về TTCK Việt Nam
2.1.1. TTCK một số nước trên thế giới
2.1.1.1. TTCK Mỹ
TTCK Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trình độ cao về mọi mặt, từ hệ
thống luật chứng khoán đến hệ thống giao dịch chứng khoán và đặc biệt đã xây dựng được
cơ quan quản lý nhà nước mạnh. Chính vì vậy, mô hình TTCK Mỹ đã được nhiều nước học
tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp với thực trạng, điều kiện kinh tế của từng nước. TTCK
Mỹ xuất hiện từ năm 1792 và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời SGD chứng khoán đầu tiên,
tiếp theo đó là hàng loạt các SGD chứng khoán được hình thành trên khắp nước Mỹ.
SGD chứng khoán New York (NYSE) là SGD lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ.
Năm 2000, hệ thống giao dịch của Sở được hoàn thiện hơn bằng sự thay đổi của cách yết
giá (yết giá dạng thập phân thay cho dạng phân số).
SGD chứng khoán Mỹ (AMEX) là TTCK tập trung lớn thứ hai ở Mỹ và hiện có hơn
1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị trường này. Cũng tương tự như SGD
chứng khoán New York, AMEX hoạt động theo hệ thống đấu giá mở và các chuyên gia trên
thị trường đóng vai trò quan trọng.
Bên cạnh các TTCK tập trung là các SGD (hiện có khoảng 14 SGD chứng khoán
khác nhau), tại Mỹ còn có TTCK phi tập trung (OTC) rất phát triển mà tiêu biểu là thị
trường Nasdaq. Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971, là
bộ phận lớn nhất của thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng khoán giao dịch trên thị
trường với trên 15000 chứng khoán, chứng khoán giao dịch trên thị trường này chiếm đa số
là của các công ty thuộc ngành công nghệ thông tin và các công ty vừa và nhỏ. Thị trường
được vận hành bởi một hệ thống các nhà tạo lập thị trường và các nhà môi giới, có khoảng
600 nhà tạo lập thị trường hoạt động tích cực trên Nasdaq và trung bình mỗi nhà tạo lập thị
trường đảm nhiệm 8 loại cổ phiếu. Thị trường Nasdaq hiện nay đã được nối mạng toàn cầu
với nhiều thị trường OTC khác trên thế giới.
2.1.1.2. TTCK Nhật Bản
Ở Nhật Bản, TTCK đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu hút vốn dài hạn
cho Chính phủ và các công ty. Nói đến TTCK Nhật Bản, trước hết phải kể đến SGD chứng
khoán Tokyo (TSE), đây là thị trường ra đời sớm nhất và là thị trường lớn nhất tại Nhật Bản
về số lượng chứng khoán đang lưu hành, là SGD lớn thứ hai trên thế giới về doanh số bán,
chỉ sau NYSE. SGD chứng khoán Tokyo được hình thành vào cuối năm 1878, những năm
1943 – 1945, SGD này bị đóng cửa do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1948,
Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán được ban hành và SGD chứng khoán Tokyo
được mở cửa hoạt động trở lại vào năm 1949. Đến nay, SGD chứng khoán Tokyo đã trở
thành một định chế tài chính quan trọng trong hệ thống kinh tế của Nhật Bản. Sau khi đưa
hệ thống giao dịch bằng máy tính chính thức đi vào hoạt động (ngày 18/03/1991). Hiện nay,
các cổ phiếu trên TSE vẫn được giao dịch theo hai phương thức khác nhau: giao dịch tại sàn
và thông qua hệ thống máy tính. Trên TSE, hầu hết các giao dịch mua bán chứng khoán
được thanh toán vào ngày làm việc thứ ba sau ngày giao dịch (T+3).
Hiện nay, Nhật Bản có 8 SGD chứng khoán, bên cạnh các SGD chứng khoán là các
TTCK phi tập trung (OTC), tiêu biểu là thị trường Jasdaq và thị trường J – net.
Thị trường Jasdaq, hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC
truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963. Thị trường J – net mới được đưa vào hoạt động từ
tháng 5/2000, chịu sự quản lý trực tiếp của SGD chứng khoán Osaka, được tổ chức dành
cho các chứng khoán không được niêm yết trên SGD nhằm đáp ứng yêu cầu tiết kiệm thời
gian và chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường, hoạt động theo phương thức thương
lượng giá. Thành viên của SGD Osaka, người đầu tư và trung tâm quản lý được trực tiếp nối
mạng với nhau thông qua một mạng điện tử đa tầng, tạo điều kiện chia sẻ thông tin thị
trường một cách dễ dàng.
2.1.1.3. TTCK Thái Lan
TTCK Thái Lan là một trong những TTCK phát triển nhanh nhất ở khu vực châu Á.
TTCK Thái Lan ban đầu được các công ty tư nhân thành lập (tháng 7/1962), đến năm 1992,
Uỷ ban chứng khoán, cơ quan quản lý trực tiếp TTCK Thái Lan mới được thành lập. Tại
Thái Lan, các CTCK muốn trở thành thành viên của SGD chứng khoán thì phải được Bộ tài
chính đồng ý. Các thành viên phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng thực hiện
các giao dịch chứng khoán và có kinh nghiệm trong các hoạt động giao dịch đó. TTCK Thái
Lan cũng là nơi điển hình của việc sử dụng hệ thống vi tính hoàn toàn tự động. Với hệ thống
giao dịch tự động này, SGD chứng khoán Thái Lan cho phép các CTCK thông qua hệ thống
vi tính thực hiện các giao dịch ngay tại văn phòng của họ mà không cần trực tiếp đến Sở.
2.1.2. TTCK Việt Nam
Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, duy trì nhịp độ tăng
trưởng kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Vì vậy, việc xây
dựng TTCK ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các
nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế thông qua
chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Thêm vào đó, việc cổ phần hóa các DN nhà nước với
sự hình thành và phát triển của TTCK sẽ tạo môi trường ngày càng công khai và lành mạnh
hơn. Ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về
Chứng khoán và TTCK cùng với Quyết định thành lập hai (02) TTGDCK tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành TTGDCK
tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào
ngày 28/07/2000, với 02 loại cổ phiếu niêm yết
2.1.2.1. Các chủ thể tham gia trên TTCK Việt Nam
- UBCKNN:
UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/1/1996 của Chính phủ.
Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về
chứng khoán và TTCK, quản lý việc cấp phép, đăng ký phát hành và kinh doanh chứng
khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát các hoạt động giao dịch, mua bán chứng
khoán… để đảm bảo thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch.
- SGD chứng khoán:
Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tiền thân là TTGDCK thành phố
Hồ Chí Minh, được chuyển đổi theo Quyết định 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 của Thủ
tướng Chính phủ. Ngày 08/08/2007, Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã
chính thức được khai trương. SGD Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là pháp nhân
thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật DN, Điều lệ của SGD chứng khoán và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có quyền hạn và nghĩa vụ như
sau:
+ Quyền hạn: Ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng
khoán, công bố thông tin và thành viên giao dịch sau khi được UBCKNN chấp thuận; Tổ
chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại SGD chứng khoán; Tạm ngừng,
đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng khoán của SGD
chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ NĐT; Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết
chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm
yết tại SGD chứng khoán; Chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; Giám sát hoạt
động giao dịch chứng khoán của các thành viên giao dịch; Giám sát hoạt động công bố
thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại SGD chứng; Cung cấp thông tin
thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết; Thu phí theo quy định của
Bộ Tài chính; Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh
tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán
+ Nghĩa vụ: Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến
hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả; Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống
kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; Thực hiện công bố thông tin về giao dịch
chứng khoán, thông tin về tổ chức niêm yết tại SGD chứng khoán, thông tin về CTCK, công
ty quản lý quỹ, quỹ ĐTCK, công ty ĐTCK và thông tin giám sát hoạt động của thị trường;
Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác
điều tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK; Phối hợp
thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho NĐT;
Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp SGD chứng khoán gây thiệt
hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.
- TTGDCK Hà Nội:
Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành
lập hai TTGDCK trực thuộc UBCKNN. Theo đó, TTGDCK Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có
thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân
sách Nhà nước cấp. Biên chế của TTGDCK Hà Nội thuộc biên chế của UBCKNN.
TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán;
2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán;
3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng
khoán;
4. Thực hiện đăng ký chứng khoán.
Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho TTGDCK Hà Nội có ý nghĩa rất quan
trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy
mô và lộ trình phát triển TTCK Việt Nam. Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao
dịch cổ phiếu của các DN vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển
thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra
Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng
thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng TTGDCK Hà
Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó,
TTGDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực
hiện đấu giá cổ phiếu DN nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời
tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch. Giai đoạn sau
2007 - Phát triển TTGDCK Hà Nội thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát
triển của TTCK Việt NamMô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ
thể hoá. Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế
tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở
pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập. Theo đó, có thể khái
quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau
1. Tổ chức đấu giá cổ phần cho các DN: TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để
thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các DN nhà nước cổ phần hoá, theo tinh
thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần
vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP. Trong đó quy định các DN khi cổ phần hoá phải
bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp DN cổ phần hóa
có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để
thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK
2. Tổ chức đấu thầu trái phiếu: TTGDCKHN tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm
các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa
phương, trái phiếu công trình…
3. Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch
Ngày 08/03/2005, TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một
bước phát triển mới của TTCK Việt Nam. Ngày 14/07/2005, TTGDCK Hà Nội khai trương
Sàn Giao dịch chứng khoán thứ cấp
- Các CTCK
Trên TTCK Việt Nam, các CTCK được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty
cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân, có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh
mà một công ty có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi
giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư.
Tính đến hết tháng 09/2008, Việt Nam có 98 CTCK đi vào hoạt động
- Các tổ chức phát hành chứng khoán
Các tổ chức được phép phát hành chứng khoán ở Việt Nam bao gồm:
+ Chính phủ: phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư.
+ Chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu tài trợ cho các dự án và nhu cầu chi
tiêu của chính quyền địa phương.
+ Các công ty cổ phần: phát hành cổ phiếu và trái phiếu DN
+ Các DN nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn: phát hành trái phiếu DN
+ Các quỹ ĐTCK và công ty quản lý quỹ: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.
- Các NĐT chứng khoán
Các NĐT trên TTCK Việt Nam bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các qũy
đầu tư, các DN, các công ty bảo hiểm…
- Các tổ chức phụ trợ khác
Các tổ chức phụ trợ trên TTCK Việt Nam gồm: các tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ,
các tổ chức kiểm toán…
2.1.2.2. Thực trạng phát triển của TTCK Việt Nam
- Giai đoạn 2000 – 2005:
Đến cuối năm 2005, trên TTCK Việt Nam đã có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với
tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng,
đã có tổng cộng 73 loại chửng khoán với tổng mức vốn hóa khoảng 6.6oo tỷ đồng, gần l,6%
GDP.
Hơn 14.000 tài khoản giao dịch được mở tại các CTCK, trong đó có hơn 100 NĐT tổ
chức, chiếm 0,8%, và 45 NĐT nước ngoài. Cùng với sự phát triển của TTCK, khung pháp
lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ.
Diễn biến chính của giá cổ phiếu và chỉ số Vn-lndex trong năm năm qua được thể
hiện qua đồ thị sau: Trong thời gian đầu, các NĐT còn đang mong chờ có những điều kỳ
diệu xảy ra như những gì họ dã được học, được biết đến. Tâm lý này làm cho số lượng NĐT
rất cao và nhu cầu mua cổ phiếu rất lớn, chỉ số Vn - lndex tăng mạnh, giá các loại cố phiếu
tăng liên tục trong nhiều tháng liền.
Tuy nhiên, thời gian này, lượng cố phiếu bán ra thị trường lại rất ít có 2 loại, sau đó
là 4 loại. Giá cổ phiếu tăng và vượt quá xa giá trị thực của nó. Hiện tượng "bong bóng tài
chính" đã xuất hiện. Vì vậy để bảo vệ các NĐT, UBCKNN đã dưa ra một loạt các biện
pháp, trong đó đáng kể nhất là tăng cung chứng khoán, giảm biên độ giao dịch, quy định
khối lượng giao dịch tối đa cho một loại chứng khoán...
Những tác động đó đã làm cho giá cổ phiếu giảm dần, sau đó giảm mạnh. UBCKNN
và nhiều bộ, ngành có liên quan đã đưa ngay ra nhiều biện pháp, chính sách ưu đãi nhưng kể
từ đó, thị trường không thể hồi sinh. Giá cổ phiếu đã giam xuống mức thấp nhất vào giữa
năm 2003 chỉ số VN- lndex dao động dưới mức 150.
Chức năng quan trọng nhất của TTCK là huy động vốn cho nền kinh tế, tuy nhiên,
trong giai đoạn này số vốn các DN huy động được qua TTCK còn quá nhỏ. Năm 2000 và
2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh
với dư nợ cho vay trung và dài hạn đã là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay
của cả hệ thống ngân hàng thì con số này là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường
sơ cấp rất mờ nhạt. Ví dụ như: trong hai năm đầu thị trường đi vào hoạt động, có duy nhất
Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương
dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraft.
Như vậy, TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền
kinh tế.
Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản là: Những vướng mắc từ cơ
chế chính sách của Nhà nước…; So với mặt bằng lãi suất ngân hàng, huy động vốn trên
TTCK là "khá đắt" và khó thực hiện; Để huy động vốn trên TTCK các DN phải thực hiện
những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn,
các DN phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hoá tài chính, phương án kinh doanh...
hơn nữa, nhiều DN không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh
nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên TTCK; Thị trường thứ cấp hoạt động
trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong giai đoạn này. Nguyên nhân là do
việc công bố thông tin của các DN niêm yết trong một số trường hợp không trung thực,
đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty
đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các NĐT trên
TTCK không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn
không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2002...
- Giai đoạn 2006 – 2007:
Tuy có những lúc thị trường đi xuống nhưng có thể nói, đây là giai đoạn phát triển
nóng của TTCK Việt Nam. Chỉ số chứng khoán VN-index tăng gần 144% trong năm 2006,
và chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng đầu năm 2007, tăng 44%. Chỉ số này vào 28/2/2007 là
1136 như vậy là đã tăng 11 lần kể từ ngày mở sàn buôn bán ngày 28 tháng 7 năm 2000. Số
trương mục đăng ký giao dịch chứng khoán tăng 4 lần, từ 32 ngàn lên 120 ngàn.
Đấy là TTCK chính thức. Còn một thị trường khác, rất tự do kiểu kinh tế miền Viễn
tây nước Mỹ trước đây, hoạt động trên internet hoặc vỉa hè, buôn bán cổ phần các công ty
chưa được phép bán trên thị trường chính thức ở thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội. Số
người giao dịch trên thị trường này có thể lên tới 500 ngàn, 5 lần cao hơn thị trường có kiểm
soát.
Sự nổi dậy của TTCK ở Việt Nam có hai mặt. Mặt cơ bản và quan trọng nhất là dân
chúng đã biết thêm một cửa ngõ dùng tiền dư, thay vì chỉ bỏ tiền vào ngân hàng hay mua
trái phiếu (bonds) để nhận một lãi suất nhiều khi thấp hơn cả lạm phát; họ có thể tham gia
gián tiếp vào đầu tư, làm chủ DN bằng cách bỏ vốn mua cổ phiếu, lời ăn lỗ chịu mà không
phải tự đứng lập DN. Về mặt cơ bản này, thị trường cổ phiếu tạo thêm một kênh quan trọng
nhằm thu hút vốn trong nền kinh tế. Không những thế kênh này còn quan trọng hơn cả kênh
ngân hàng vì nó tạo cơ hội cho các nhà DN có ý tưởng mới hợp tác với những người sẵn
sàng bỏ vốn trên cơ sở rủi ro cao đi liền với lợi nhuận cao. Nhưng cần phải thấy đóng góp
của TTCK vào phát triển kinh tế chính là số vốn mới thu hút được hàng năm qua phát hành
cổ phiếu mới IPOs (initial public offerings).
TTCK đã nổ bùng sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO), với kỳ vọng doanh nghịêp nước ngoài tăng cường đổ vốn vào thị trường Việt
Nam. Chỉ có điều nó nổ bùng một cách đầy rủi ro. Vấn đề phát triển nằm ở chỗ số cung
chứng khoán mới trên thị trường ngày càng cao và nguồn vốn cung cho thị trường cũng
ngày càng cao. Điều này chưa xảy ra ở Việt Nam bởi vì số cung chứng khoán quá hạn chế.
Giá trị cổ phiếu tăng vọt ở Việt Nam trong giai đoạn này không phải do sự phát triển của thị
trường cổ phiếu mà do đầu cơ và tâm lý đánh bạc vì cầu tăng mạnh chạy đuổi mua số lượng
chứng khoán hạn chế, sự thụt giá bất cứ lúc nào sẽ khó tránh khỏi. Có thể nó là điều cần
thiết để thị trường tự điều chỉnh.
- 09 tháng đầu năm 2008:
TTCK Việt Nam trong 09 tháng đầu năm 2008 luôn trong tình trạng giảm đỏ sàn, chỉ
số VN-Index từ 921,07 điểm ngày 02/01/2008 xuống còn 456,7 điểm ngày 30/09/2008, các
NĐT lớn nhỏ đứng ngồi không yên. Sự suy đoán của nhiều nhà chuyên môn: VN-Index đã
chạm đáy. Thế nhưng đáy VN-Index vẫn lần lượt bị phá và nhiều người hoài nghi về điểm
đáy của chỉ số này?
Sau khi thông tin SCIC cứu chứng khoán được đăng đàn, điều mà các NĐT chờ đợi
đã xảy ra: VN-Index tăng liên tục một tuần, tiếp theo là sự dập dình trồi sụt của TTCK Việt
Nam.
Bên cạnh đó, tác động của kinh tế thế giới: giá dầu giảm, vàng tuột xuống khỏi mốc
1.000 USD/oz, FED điều chỉnh lãi suất... Quan trọng hơn cả là do nền kinh tế của chúng ta
đang đứng trước thử thách rất lớn: lãi suất tăng, lạm phát, xuất khẩu kêu cứu, nhập siêu tăng
cao... Tâm lý các NĐT quá sức chịu đựng. Các NĐT liên tục đặt các lệnh bán tháo để cắt
giảm sự thua lỗ.
Ngày 25/3/2008 khi Thủ tướng Chính phủ "bật đèn xanh", một loạt các biện pháp
được đưa ra và dường như có tác dụng ngay tức thì, trong đó, có tác động mạnh mẽ và như
một cú hích phải kể tới quyết định thu hẹp biên độ giao động tại cả hai sàn HoSE và
HaSTC. Ngay phiên giao dịch ngày 26/3, VN-Index tạm ngừng rơi và tăng 8,05 điểm tương
đương 1,61%...
Biên độ dao động điều chỉnh giảm xuống có tác dụng nhất thời, nhưng coi chừng đó
có thể là nguyên nhân "nghẽn cổ chai" nếu không có thêm sự hỗ trợ khác nữa.
TTCK nhiều lần trồi sụt như vừa qua, chắc chắn các NĐT sẽ học thêm nhiều kinh
nghiệm, TTCK: VN-Index không có đáy!? Đáy là do chúng ta tạo ra? Niềm tin là điều mà ai
cũng thừa nhận phải có của các NĐT, nhưng quan trọng là họ tin vào cơ sở nào? Nếu các
chính sách vĩ mô không nhanh chóng thay đổi cho phù hợp với nền kinh tế, thì niềm tin của
NĐT thực sự chưa có cơ sở vững chắc.
2.2. Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được
TTCK Việt Nam được ghi nhận có lịch sử phát triển gần tám năm, khoảng thời gian
này so với lịch sử phát triển hàng trăm năm của TTCK các nước trên thế giới thì có thể nói
TTCK Việt Nam là một thị trường còn rất non trẻ, tuy nhiên với lịch sử ra đời non trẻ như
vậy nhưng TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, đặc biệt hoạt
động ĐTCK đã ngày càng trở nên chuyên nghiệp, hạn chế rủi ro cho các NĐT, việc đầu tư
theo phong trào và bị ảnh hưởng mạnh mẽ của tâm lý bầy đàn đã bị hạn chế, thay vào đó
việc sử dụng các phương pháp phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng nhằm có
một cái nhìn khách quan, khoa học đối với TTCK, và các loại chứng khoán trên thị trường
đã ngày càng trở nên phổ biến. Hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam ghi nhận những
kết quả đạt được sau đây:
Một là, Luật chứng khoán của Việt Nam đã được Quốc hội ban hành vào năm 2006
cùng các Thông tư, Nghị định, Quyết định liên quan đã góp phần tạo một sân chơi lành
mạnh và quy củ cho TTCK Việt Nam, cùng với đó các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt
động phân tích chứng khoán, PTCB cũng được ban hành như một quy chuẩn chung cho hoạt
động PTCB nhờ đó chất lượng của hoạt động PTCB trong ĐTCK được nâng lên một bước.
Hai là, lượng thông tin phục vụ cho hoạt động phân tích chứng khoán nói chung,
PTCB nói riêng ngày càng dồi dào về số lượng và chính xác về chất lượng. Ngày nay, các
thông tin về diễn biến của tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước nói chung, của các
TTCK các nước trên thế giới và TTCK Việt Nam nói riêng được các cơ quan có chức năng
có trách nhiệm quan tâm, mặt khác các thông tin này cũng đầy ắp trên các báo cả báo giấy
lẫn báo mạng. Mặt khác, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi, báo, đài
cũng góp phần đưa những kiến thức chứng khoán cũng như những kết luận của PTCB từ
các chuyên gia đến mọi tầng lớp quan tâm trong xã hội, hiện nay hầu như các đài truyền
hình lớn trên cả nước hàng ngày đều có chương trình đưa tin về hoạt động của TTCK, cùng
với đó là các đánh giá, phân tích của các chuyên gia, điều này đã giúp cho vai trò của PTCB
được nâng cao, hoạt động PTCB được cải thiện
Ba là, quy trình PTCB đã được xây dựng ở nhiều công ty chứng khoán và các tổ
chức ĐTCK chuyên nghiệp và đã được kiểm nghiệm về tính ứng dụng của nó, điều này đã
làm cho hoạt động PTCB trở thành một hoạt động chuyên nghiệp và thường xuyên trong
các tổ chức này, và do đó hoạt động PTCB ngày càng được hoàn thiện về mặt nội dung và
phương pháp, ngày càng làm cho hoạt động đầu tư của các NĐT chứng khoán trở nên hiệu
quả hơn, ít rủi ro hơn, vai trò của PTCB ngày càng được nâng cao.
Bốn là, năng lực PTCB của NĐT trên TTCK Việt Nam ngày càng được cải thiện và
nâng cao, để có được kết quả này là do bản thân các NĐT đã tích luỹ cho mình một tâm lý
vững vàng và bình tĩnh xem xét vấn đề hơn trước những biến động của thị trường, cả những
vấn đề kinh tế vĩ mô trong nước cũng như ngoài nước, cả những yếu tố tác động lên toàn bộ
ngành kinh doanh cũng như các yếu tố tác động lên một doanh nghiệp cụ thể cũng được
xem xét một cách cẩn trọng. Mặt khác, trải qua những thăng trầm của hoạt động đầu tư trên
TTCK, các NĐT cũng đã tích luỹ cho mình những kinh nghiệm đầu tư quý báu, qua đó họ
đã có cách đánh giá khách quan, khoa học và hợp với logic của PTCB hơn.
Bên cạnh đó, kiến thức về phân tích chứng khoán, PTCB của các NĐT và của toàn
xã hội đã được nâng lên một bước. Trong năm 2007, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã cho
phép năm trường Đại học có uy tín về đào tạo kinh tế và có đội ngũ giáo viên giỏi chuyên
môn và có kiến thức phong phú về chứng khoán được phép đào tạo về chứng khoán và các
học viên tại các cơ sở này nếu đạt điều kiện trong kỳ thi cấp chứng chỉ sẽ được cấp chứng
chỉ của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, điều mà trước đó chỉ do trung tâm đào tạo chứng
khoán của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đảm nhiệm, dẫn đến tình trạng bão hoà, quá tải
tại trung tâm đặc biệt là trong giai đoạn TTCK Việt Nam phát triển nóng, nhiều người có
nhu cầu học mà không được đáp ứng, dẫn đến kiến thức về chứng khoán, TTCK, phân tích
chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng bị hạn chế. Vì vậy, việc cho phép năm trường đại
học có uy tín được phép đào tạo về chứng khoán đã góp phần đáng kể giảm tải cho Trung
tâm đào tạo chứng khoán, và điều quan trọng hơn là đã đưa kiến thức về chứng khoán,
TTCK đến mọi đối tượng có nhu cầu góp phần làm cho sự hiểu biết của các NĐT chứng
khoán nói riêng, toàn xã hội nói chung được nâng lên một bước. Thông qua đó hoạt động
PTCB cũng được chú trọng và đánh giá nghiêm túc hơn, nâng cao vai trò, vị thế của hoạt
động này trong ĐTCK tại Việt Nam, nhờ đó mà hoạt động PTCB ngày càng được hoàn
thiện.
Thêm vào đó, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của các NĐT cũng ngày càng
được cải thiện, đây là đóng góp không nhỏ của quá trình xã hội hoá tin học đã bắt đầu diễn
ra ở Việt Nam từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước.
Năm là, hoạt động PTCB không những được coi trọng hơn mà đã được nhìn nhận,
phân tích một cách toàn diện hơn, không chỉ chú trọng vào việc phân tích công ty mà các
yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới, các yếu tố tác động đến ngành kinh doanh cũng
đã được xem xét và đánh giá một cách thận trọng.
2.2.2. Những mặt hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động PTCB ở Việt Nam còn tồn tại những
hạn chế to lớn. Những hạn chế đó là:
Một là, Cơ sở dữ liệu làm căn cứ cho các PTCB vẫn chưa thực sự đầy đủ và hoàn
thiện. Đối với thông tin về nền kinh tế và với các ngành kinh doanh, đặc biệt là với các
ngành kinh doanh còn rất thiếu, và yếu, các số liệu thống kê chính thức được cập nhật theo
hàng tháng, hàng quý và hàng năm, trong khi đó nhu cầu thực hiện các PTCB đòi hỏi các
thông tin cần thiết phải cập nhật hàng ngày, và ngay cả khi đã có các số liệu thống kê của
các cơ quan có trách nhiệm thì một thực trạng không thể phủ nhận ở Việt Nam là chất lượng
của các con số cũng chưa được đảm bảo. Vì vậy, hiện tại các hoạt động PTCB trong ĐTCK
xảy ra hàng ngày các chuyên gia PTCB thường dựa vào kiến thức, kinh nghiệm của mình để
đánh giá về nền kinh tế, các ngành kinh doanh nói chung. Mặt khác, đối với việc thu thập
thông tin về công ty cũng khá khó khăn, đối với các công ty niêm yết thường xảy ra tình
trạng công bố thông tin chưa đầy đủ và chậm trễ, thông tin công bố không theo một form
chuẩn nên thông tin không thể sử dụng ngay được mà phải qua một công đoạn xử lý số liệu
phức tạp và mất nhiều thời gian. Đối với thông tin về các công ty niêm yết đã vậy, thông tin
về các công ty chưa niêm yết còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Mặt khác, mặc dù việc phân tích tài chính DN là việc làm quan trọng nhất khi xem
xét, đánh giá một DN nhưng trên thực tế bản thân các DN vẫn còn rất coi nhẹ việc này. Tỷ
lệ DN thường xuyên tham gia công tác phân tích tài chính còn chưa nhiều, chỉ thường tập
trung ở những công ty lớn, công ty nhà nước hoặc những công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Số còn lại hầu như không tham gia công tác này. Mặt khác, hầu hết DN thường dùng chính
các nhân viên Phòng Tài chính - Kế toán để kiêm nhiệm thực hiện công tác phân tích tài
chính, mà chưa có nhân sự chuyên trách cho công tác này. Điều đó làm cho ảnh hưởng lớn
đến chất lượng của công tác phân tích tài chính làm cho tính chuyên nghiệp trong phân tích
tài chính chưa cao, dẫn đến chất lượng phân tích thấp; Kết quả và báo cáo phân tích tài
chính không mang tính khách quan, vì các thông tin chủ yếu dùng trong phân tích tài chính
là các thông tin kế toán; Không phát hiện ra các sai phạm trong thông tin, dẫn đến kết quả
phân tích không chính xác... và như vậy sẽ trực tiếp tác động đến chất lượng của công tác
PTCB (nội dung phân tích công ty) trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam.
Hai là, hiện nay hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam đã được chú trọng hơn rất
nhiều, tuy nhiên hoạt động này diễn ra không đồng bộ, việc phân tích nền kinh tế và phân
tích ngành thường không được coi trọng đúng mức, ngay cả việc phân tích công ty cũng còn
rất nhiều bất cập, chỉ chú trọng chủ yếu vào việc phân tích tình hình hoạt động tài chính của
công ty, còn các nội dung khác chưa đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu cần có, như việc phân tích
bộ máy tổ chức của công ty, chưa chú trọng đến trình độ, năng lực của các thành viên trong
công ty.
Ba là, trình độ nhân lực thực hiện hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Mặc dù có nhiều trường đại học kinh tế, nước ta hiện vẫn đang rất thiếu đội
ngũ chuyên gia phân tích kinh tế - nguồn nhân lực rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Thị trường lao động hiện nay đang rất thiếu nguồn nhân
lực chất lượng cao, trong đó rất thiếu các chuyên gia phân tích kinh tế, tức là lực lượng đảm
nhiệm việc phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô, các chính sách kinh tế, các ngành kinh doanh,
và tài chính công ty… Chẳng hạn như, đối với việc phân tích ngành, nhân lực thực hiện
phân tích còn gặp phải một số sai lầm, chưa vượt qua được tư duy quản lý theo kiểu cảm
tính và tùy tiện, trong phân tích chuỗi cạnh tranh của ngành, người ta thường có xu hướng
dựa trên những yếu tố, những khái niệm đã được thừa nhận để nhận diện và đánh giá các
nhân tố tạo ra giá trị (ví dụ trước đây người ta không coi trọng yếu tố thương hiệu, nhưng
nay nó lại trở thành câu cửa miệng khi nói về sức cạnh tranh), mà không phát hiện và thừa
nhận kịp thời các xu hướng hoặc nhân tố mới (ví dụ sự tăng trưởng nhanh chóng của nhóm
khách hàng tuổi teen). Trong phân tích cạnh tranh ngành, thường có xu hướng đưa ra các
yếu tố mà mình ưa thích để so sánh, bỏ qua các yếu tố không ưa thích (vì cho rằng nó không
chính yếu).
Mặt khác, một đặc điểm nổi bật trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam là các NĐT
thường đầu tư theo phong trào và phương thức đầu tư của phần đông các NĐT là khi chỉ số
giá chứng khoán tăng thì ào ào mua vào, khi chỉ số chứng khoán xuống thì lại có phong trào
“bán tháo” để cắt lỗ, bên cạnh đó tâm lý và hành vi của các NĐT trên TTCK Việt Nam còn
phụ thuộc rất nhiều vào động thái của các NĐT nước ngoài và các NĐT lớn, NĐT nước
ngoài gần như đã trở thành người điều khiển giá trên TTCK hiện nay. Vì vậy, hoạt động
phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng thường không được xem trọng.
Bốn là, đặc trưng của PTCB là dựa trên rất nhiều ý kiến chủ quan, những ước lượng,
dự đoán (chẳng hạn như những đánh giá về ngành kinh doanh, những giả định về tình trạng
hoạt động của công ty) nên những PTCB cũng mang khá nhiều tính chủ quan – đây là hạn
chế lớn nhất của PTCB. Trong khi đó, tính kết hợp của PTCB với các phương pháp phân
tích khác chưa cao, vì vậy chưa làm giảm được tính chủ quan của PTCB, làm cho việc sử
dụng phương pháp này trở nên hiệu quả hơn, đưa ra được các quyết định đúng đắn hơn
trong ĐTCK tại Việt Nam.
Năm là, các thiết bị công nghệ phần cứng cũng như phần mềm phục vụ cho hoạt
động PTCB còn nhiều hạn chế, chưa hỗ trợ tốt cho hoạt động này, điều đó cũng làm cho
chất lượng và tính kịp thời của hoạt động PTCB bị hạn chế, ngay cả ở các CTCK cũng chưa
có phần mềm tự động cập nhật số liệu phục vụ hoạt động PTCB, nhân viên PTCB phải mất
rất nhiều thời gian cho việc cập nhật và xử lý số liệu, khiến cho chất lượng của PTCB bị ảnh
hưởng.
CCHHƯƯƠƠNNGG 33:: HHOOÀÀNN TTHHIIỆỆNN PPHHƯƯƠƠNNGG PPHHÁÁPP PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG
ĐĐẦẦUU TTƯƯ CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM
3.1. Những tác động từ môi trường vĩ mô đến TTCK Việt Nam
3.1.1. Những tác động từ nền kinh tế trong nước
3.1.1.1. Những thành tựu của nền kinh tế
Trong nh÷ng th¸ng ®Çu n¨m nay, nÒn kinh tÕ n-íc ta liªn tiÕp ph¶i ®èi mÆt víi
nhiÒu khã kh¨n th¸ch thøc ë c¶ trong n-íc vµ ngoµi n-íc, song víi sù chØ ®¹o s¸t sao, quyÕt
liÖt cña ChÝnh phñ, sù phÊn ®Êu cao cña c¸c ngµnh, c¸c cÊp vµ c¸c doanh nghiÖp, ®Õn
nay, mÆc dï cßn nhiÒu khã kh¨n, song t×nh h×nh kinh tÕ vÜ m« (tiÒn tÖ, tû gi¸, l¹m
ph¸t...) trong c¸c th¸ng gÇn ®©y cã nhiÒu chuyÓn biÕn tÝch cùc. ChØ sè gi¸ ®· t¨ng
chËm l¹i vµ th¸ng sau thÊp h¬n th¸ng tr-íc; tû gi¸ gi÷a ®ång ViÖt Nam víi ®« la Mü æn
®Þnh h¬n; mét sè chØ tiªu ®¹t kh¸ so víi cïng kú, nhiÒu mÆt ho¹t ®éng x· héi cã tiÕn bé.
Nh÷ng kÕt qu¶ næi bËt trong 9 th¸ng ®Çu n¨m nh- sau:
Mét lµ, tèc ®é t¨ng tr-ëng kinh tÕ 9 th¸ng ®¹t kho¶ng 6,52% (quý I t¨ng 7,4%; quý II
t¨ng 5,82%, quý III t¨ng 6,55%), tuy cßn thÊp h¬n tèc ®é t¨ng GDP cña cïng kú n¨m 2007
nh-ng trong bèi c¶nh t×nh h×nh kinh tÕ vÜ m« cã nhiÒu khã kh¨n th× ®©y lµ mét kÕt qu¶
kh¶ quan, phï hîp víi c¸c biÖn ph¸p kiÒm chÕ l¹m ph¸t, æn ®Þnh kinh tÕ vÜ m« cña
ChÝnh phñ; nhÊt lµ tèc ®é t¨ng GDP cña quý III ®· cao h¬n GDP cu¶ quý II.
Hai lµ, c¸c ngµnh dÞch vô ®¹t kÕt qu¶ kh¸ tèt, ®· gãp phÇn n©ng møc t¨ng tr-ëng
chung cña nÒn kinh tÕ. Gi¸ trÞ gia t¨ng cña ngµnh dÞch vô 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng 7,23%,
cao h¬n møc t¨ng GDP; c¸c ngµnh dÞch vô cã gi¸ trÞ cao (vËn t¶i, b-u ®iÖn, du lÞch, y tÕ,
gi¸o dôc...) ®-îc khai th¸c vµ ®¸p øng tèt h¬n yªu cÇu cña s¶n xuÊt vµ ®êi sèng nh©n d©n.
Ba lµ, trong ®iÒu kiÖn c¹nh tranh gay g¾t vÒ thÞ tr-êng vµ gi¸ c¶ nh-ng kim ng¹ch xuÊt
khÈu vÉn duy tr× ®-îc tèc ®é t¨ng tr-ëng cao, t¨ng 39% so víi cïng kú; nhËp siªu gi¶m dÇn.
Bèn lµ, thu hót vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ®¹t ®-îc nhiÒu kÕt qu¶ tèt. So víi 9
th¸ng ®Çu n¨m tr-íc, sè vèn ®Çu t- trùc tiÕp n-íc ngoµi thùc hiÖn t¨ng 37%; vèn
®¨ng ký cÊp míi vµ t¨ng thªm t¨ng gÊp 5 lÇn
N¨m lµ, mét sè lÜnh vùc x· héi nh- v¨n hãa, gi¸o dôc, y tÕ, b¶o trî x· héi... cã nhiÒu
tiÕn bé
C¸c chØ tiªu chñ yÕu trong 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008 ®¹t ®îc nh sau:
C¸c chØ tiªu chñ yÕu 9 th¸ng n¨m 2007 9 th¸ng n¨m 2008
Tèc ®é t¨ng tr-ëng GDP (%) 8,16 6,52
Kim ng¹ch xuÊt khÈu (tû USD) 34,9 48,6
Kim ng¹ch nhËp khÈu (tû USD) 43,4 64,4
Vèn FDI thùc hiÖn (triÖu USD) 5.900 8.100
Vèn FDI cÊp míi vµ t¨ng thªm (triÖu USD) 9.607 57.124
ChØ sè gi¸ tiªu dïng vµ dÞch vô (%) 7,3 21,8
Nguồn: Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và đầu tư
Trong lÜnh vùc tµi chÝnh, tiÒn tÖ, gi¸ c¶ cã chuyÓn biÕn tÝch cùc. Tæng thu
ng©n s¸ch nhµ n-íc tõ ®Çu n¨m ®Õn hÕt 15/9 ®¹t 292,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 90,5% dù
to¸n n¨m; trong ®ã thu néi ®Þa ®¹t 160,5 ngh×n tû ®ång, b»ng 84,8% dù to¸n n¨m, thu tõ
dÇu th« ®¹t 56,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 86,0% dù to¸n, thu tõ ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu ®¹t
71,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 111,0% dù to¸n. Trong thu néi ®Þa, thu tõ khu vùc kinh tÕ quèc
doanh ®¹t 52,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 83,0% dù to¸n n¨m; thu tõ khu vùc doanh nghiÖp cã
vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ®¹t 30,1 ngh×n tû ®ång, b»ng 75,0% dù to¸n n¨m; thu thuÕ c«ng
th-¬ng nghiÖp ngoµi quèc doanh ®¹t 29,8 ngh×n tû ®ång, b»ng 77,7% dù to¸n n¨m; thu tõ
thuÕ thu nhËp ®èi víi ng-êi cã thu nhËp cao ®¹t 8,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 105,6% dù to¸n
n¨m; thu phÝ x¨ng dÇu ®¹t 3,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 68,3% dù to¸n n¨m; thu phÝ, lÖ
phÝ ®¹t 3,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 72,8% dù to¸n n¨m.
Tæng chi ng©n s¸ch nhµ n-íc tõ ®Çu n¨m ®Õn 15/9 -íc ®¹t 311,2 ngh×n tû ®ång,
b»ng 78% dù to¸n n¨m, trong ®ã chi ®Çu t- ph¸t triÓn ®¹t 68,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 68,6%
dù to¸n n¨m (riªng chi ®Çu t- x©y dùng c¬ b¶n ®¹t 62,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 64,8% dù
to¸n n¨m); chi th-êng xuyªn ®¹t 184,2 ngh×n tû ®ång, b»ng 77,7% dù to¸n n¨m; chi tr¶ nî vµ
viÖn trî ®¹t 38,8 ngh×n tû ®ång, b»ng 75,8% dù to¸n n¨m.
Trong th¸ng 9 t×nh h×nh tiÒn tÖ dÇn ®i vµo æn ®Þnh, nhiÒu ng©n hµng th-¬ng
m¹i ®· h¹ møc l·i suÊt huy ®éng vµ cho vay. Tæng ph-¬ng tiÖn thanh to¸n ®Õn 30 th¸ng 9
t¨ng 1,34% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 6,54% so víi 31/12/2007. TiÒn mÆt l-u th«ng ngoµi
hÖ thèng ng©n hµng t¨ng 2,15% so víi th¸ng 8/2008 vµ t¨ng 13,7% so víi cuèi n¨m 2007.
Nguån vèn huy ®éng ®Õn 30 th¸ng 9 t¨ng 1,2% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 11% so víi
31/12/2007; trong ®ã tiÒn göi b»ng VN§ t¨ng 6,3%, b»ng ngo¹i tÖ t¨ng 27,0%. D- nî cho
vay toµn nÒn kinh tÕ ®Õn 30/9 t¨ng 1,06% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 19,25% so víi
31/12/2007.
Gi¸ tiªu dïng: ChØ sè gi¸ tiªu dïng th¸ng 9 so víi th¸ng 8 t¨ng 0,18%, lµ møc t¨ng thÊp
nhÊt so víi nhiÒu th¸ng gÇn ®©y. ChØ sè gi¸ vµng vµ ®« la Mü cïng gi¶m víi møc gi¶m
t-¬ng øng lµ 6,36% vµ 0,75%. ChØ sè gi¸ th¸ng 9 t¨ng thÊp tr-íc hÕt lµ do kÕt qu¶ cña hµng
lo¹t biÖn ph¸p kiÒm chÕ l¹m ph¸t ®ång bé vµ quyÕt liÖt cña ChÝnh phñ, ®Æc biÖt
chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®· ph¸t huy t¸c dông; bªn c¹nh ®ã lµ t×nh h×nh gi¸ c¶ quèc
tÕ ®· thuËn lîi h¬n, nh- gi¸ dÇu, gi¸ l-¬ng thùc, gi¸ mét sè lo¹i nguyªn liÖu gi¶m so víi tr-íc.
Thùc hiÖn vèn ®Çu t- tõ Ng©n s¸ch Nhµ n-íc 9 th¸ng ®¹t 71.440 ngh×n tû ®ång, b»ng
71,6% kÕ ho¹ch n¨m.
Vèn tÝn dông ®Çu t-: TÝnh ®Õn hÕt th¸ng 9 n¨m 2008 nguån vèn tÝn dông ®Çu t-
thùc hiÖn ®¹t 25,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 59,7% kÕ ho¹ch n¨m, trong ®ã nguån vèn trong
n-íc cho vay theo kÕ ho¹ch chØ ®¹t 9,6 ngh×n tû ®ång b»ng 35,7% kÕ ho¹ch n¨m. Nguån
vèn ODA cho vay l¹i ®¹t 5 ngh×n tû ®ång, b»ng 55,6% kÕ ho¹ch n¨m, riªng d- nî b×nh
qu©n hç trî xuÊt khÈu ®¹t 9,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 116,2% kÕ ho¹ch n¨m.
Thu hót vèn ODA: Tõ ®Çu n¨m ®Õn ngµy 23/9/2008, nguån vèn ODA ®-îc hîp thøc
ho¸ th«ng qua c¸c hiÖp ®Þnh ký kÕt víi c¸c nhµ tµi trî ®¹t tæng gi¸ trÞ 1.826 triÖu USD,
trong ®ã vèn vay ®¹t 1.642 triÖu USD vµ vèn viÖn trî kh«ng hoµn l¹i ®¹t 184 triÖu USD.
TÝnh chung 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008, gi¸ trÞ gi¶i ng©n ODA ®¹t 1.415 triÖu USD, b»ng
74,5% kÕ ho¹ch gi¶i ng©n n¨m 2008, trong ®ã vèn vay ®¹t 1.227 triÖu USD, vèn viÖn trî
®¹t 188 triÖu USD.
Vèn ®Çu t- trùc tiÕp n-íc ngoµi thùc hiÖn trong th¸ng 9 ®¹t 1.100 triÖu USD,
n©ng tæng sè vèn ®Çu t- thùc hiÖn 9 th¸ng lªn gÇn 8.100 triÖu USD, trong ®ã vèn
®Çu t- cña n-íc ngoµi thùc hiÖn ®¹t 6,5 tû USD, t¨ng 37,3% so víi cïng kú.
Tæng vèn cña dù ¸n cÊp phÐp míi vµ vèn ®¨ng ký t¨ng thªm cña c¸c dù ¸n ®ang ho¹t
®éng trong th¸ng 9 ®¹t 9.966 triÖu USD (vèn cÊp phÐp míi lµ 9.944 triÖu USD; vèn t¨ng thªm
lµ 22 triÖu USD). TÝnh chung 9 th¸ng n¨m 2008, sè vèn cÊp phÐp míi vµ t¨ng thªm ®¹t
57.124 triÖu USD, t¨ng 398,5% so víi cïng kú; trong ®ã vèn ®Çu t- cÊp phÐp míi lµ 56.268
triÖu USD víi 885 dù ¸n, t¨ng 472% vÒ vèn vµ gi¶m 20% vÒ sè dù ¸n so víi cïng kú n¨m
tr-íc; vèn t¨ng thªm ®¹t 855,7 triÖu USD víi 225 l-ît dù ¸n.
3.1.1.2. Những khó khăn của nền kinh tế
MÆc dï nÒn kinh tÕ b-íc ®Çu ®· v-ît qua ®-îc khã kh¨n, tèc ®é t¨ng GDP cña Quý
III cao h¬n quý II nh-ng tèc ®é t¨ng tr-ëng GDP cña 9 th¸ng ®Çu n¨m míi ®¹t 6,52%, ch-a
®¹t môc tiªu cña kÕ ho¹ch Quèc héi ®· ®iÒu chØnh xuèng lµ 7%.
Gi¸ c¶ ®Çu vµo cña c¸c ngµnh s¶n xuÊt kinh doanh t¨ng cao g©y ¶nh h-ëng ®Õn
hiÖu qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh. Gi¸ trÞ s¶n xuÊt c«ng nghiÖp 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008 t¨ng
16,0% nh-ng tèc ®é t¨ng gi¸ trÞ gia t¨ng chØ ®¹t 8,9% (tû lÖ t-¬ng øng cña n¨m 2007 lµ
17,1% vµ 10,05%).
Thùc hiÖn chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®· ph¸t huy t¸c dông trong viÖc kiÒm
chÕ l¹m ph¸t, tuy nhiªn còng t¸c ®éng ®Õn kh¶ n¨ng t¨ng tr-ëng cña nÒn kinh tÕ. C¸c
ngµnh s¶n xuÊt kinh doanh ®ang ph¶i ®èi mÆt víi nhiÒu khã kh¨n th¸ch thøc do thiÕu
vèn, l·i suÊt vay ng©n hµng cao, gi¸ nguyªn liÖu s¶n xuÊt ®øng ë møc cao lµm t¨ng chi
phÝ s¶n xuÊt, gi¶m hiÖu qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh vµ søc c¹nh tranh cña s¶n phÈm. Do
vËy, cïng víi viÖc tiÕp tôc thùc hiÖn chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®Ó kiÒm chÕ l¹m
ph¸t, cÇn cã sù ®iÒu chØnh linh ho¹t ®Ó hç trî doanh nghiÖp trong ®iÒu kiÖn l¹m ph¸t
®ang ®-îc kiÓm so¸t.
ChØ sè gi¸ tiªu dïng 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng cao víi møc 21,87%, trong khi 3 th¸ng
cuèi n¨m thÞ tr-êng trong n-íc cßn tiÒm Èn nh÷ng yÕu tè g©y biÕn ®éng gi¸ do nguyªn vËt
liÖu trªn thÞ tr-êng thÕ giíi, nhÊt lµ gi¸ x¨ng dÇu vµ nh÷ng vËt t- ®Çu vµo chñ yÕu vÉn
diÔn biÕn phøc t¹p sÏ t¹o søc Ðp t¨ng gi¸, ¶nh h-ëng ®Õn s¶n xuÊt vµ ®êi sèng nh©n d©n.
ViÖc gi¶i ng©n vèn ®Çu t-, nhÊt lµ vèn tr¸i phiÕu ChÝnh phñ ®¹t thÊp. Tæng vèn
®Çu t- gi¶i ng©n tõ ng©n s¸ch nhµ n-íc cña c¸c bé, ngµnh ®Þa ph-¬ng trong 8 th¸ng ®Çu
n¨m míi ®¹t 40.479 tû ®ång, b»ng 47% kÕ ho¹ch; 9 th¸ng ®Çu n¨m gi¶i ng©n -íc ®¹t
46,657 tû ®ång, b»ng 54,2% kÕ ho¹ch.
§èi víi vèn tr¸i phiÕu ChÝnh phñ, theo b¸o c¸o cña Kho b¹c Nhµ n-íc, sè vèn gi¶i
ng©n tr¸i phiÕu ChÝnh phñ hÕt th¸ng 8 n¨m 2008 ®¹t 10.402,5 tû ®ång, b»ng 36% kÕ
ho¹ch.
Gi¸ tiªu dïng b×nh qu©n 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng ®Õn 22,76% nªn søc mua thùc tÕ cña
d©n c- gi¶m râ rÖt (tæng møc l-u chuyÓn hµng hãa b¸n lÎ 9 th¸ng t¨ng 30,1% nh-ng nÕu trõ
yÕu tè gi¸ th× chØ t¨ng trªn 6%).
3.1.1.3. Những tác động của nền kinh tế trong nước đến TTCK Việt Nam
MÆc dï cã nh÷ng khã kh¨n nhÊt ®Þnh nh-ng nh×n chung trong giai ®o¹n võa qua
nÒn kinh tÕ ViÖt Nam vÉn ®¹t ®-îc tèc ®é t¨ng tr-ëng cao, vµ høa hÑn trong thêi gian tíi
xu h-íng t¨ng tr-ëng vÉn lµ xu h-íng chñ ®¹o cña nÒn kinh tÕ ViÖt Nam bÊt chÊp nh÷ng
trë ng¹i trong qu¸ tr×nh ph¸t triÓn do nÒn kinh tÕ thÕ giíi ®-a l¹i. Víi nhËn ®Þnh ®ã, ng-êi
viÕt bµi cho r»ng trong thêi gian tíi mÆc dï TTCK ViÖt Nam sÏ khã cã thÓ ®¹t ®-îc tèc
®é t¨ng tr-ëng cao vµ ho¹t ®éng nhén nhÞp nh- giai ®o¹n 2006 – 2007, nh-ng sÏ vÉn lµ mét
kªnh ®Çu t- ®-îc c¸c N§T quan t©m vµ do ®ã TTCK ViÖt Nam vÉn sÏ tiÕp tôc xu h-íng
®i lªn. Tuy nhiªn trong tõng giai ®o¹n ng¾n TTCK ViÖt Nam sÏ cã nh÷ng ®iÒu chØnh
nhÊt ®Þnh, nh÷ng ®iÒu chØnh nµy lµ cÇn thiÕt vµ lµ tÊt yÕu kh¸ch quan ®èi víi bÊt cø
mét qu¸ tr×nh ph¸t triÓn nµo, nh-ng tr¶i qua nh÷ng ®iÒu chØnh ®ã TTCK ViÖt Nam sÏ
ph¸t triÓn bÒn v÷ng h¬n víi hÖ thèng v¨n b¶n ph¸p luËt hoµn thiÖn h¬n, víi chÊt l-îng
hµng ho¸ tèt h¬n, víi dÞch vô phôc vô cho c¸c N§T chuyªn nghiÖp h¬n, vµ víi mét thÕ hÖ
N§T míi cã tiÒm lùc m¹nh mÏ h¬n, n¨ng lùc ®Çu t- cao h¬n …
3.1.2. Những tác động từ nền kinh tế thế giới đến TTCK Việt Nam
“Cuộc khủng hoảng thế kỷ” của nền kinh tế Mỹ rõ ràng đã và đang tác động mạnh
mẽ đến nền kinh tế trên thế giới, kéo theo đó là các cuộc khủng hoảng với quy mô rộng trên
TTCK, bất động sản, tài chính, tín dụng... đang có nguy cơ bùng nổ. Tuy nhiên, cuộc khủng
hoảng mới chỉ tác động ở một mức độ chậm chưa đủ mức có thể làm “khuynh đảo” đối với
nền kinh tế Việt Nam.
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), do ảnh hưởng của quá trình khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế Mỹ kinh tế toàn cầu đã dự báo tăng trưởng chậm lại từ 5% (2007)
xuống còn còn 4,1% (2008) và 3,9% (2009), trong đó Mỹ dự báo tăng trưởng 1,3% năm
2008 và khoảng 0,8% vào năm 2009. Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ, thêm vào đó, giá dầu
và giá của các loại hàng hóa toàn cầu tăng đã dẫn tới giá tiêu dùng tại nhiều quốc gia tăng
theo. Ngoài việc ảnh hưởng trực tiếp lên chỉ số giá tiêu dùng, giá dầu đã tạo ra sự tăng giá
thất thường của nhiều hàng hóa và dịch vụ khác.
Ngày 15/9, khi Ngân hàng Lehman Brothers chính thức nộp đơn phá sản, TTCK toàn
cầu đồng loạt tuột dốc, nhưng TTCK Việt Nam gần như đứng ngoài cuộc, thậm chí, trong
phiên giao dịch sáng 15/9, chỉ số Vn-Index vẫn tăng 0,76 điểm với khối lượng giao dịch
toàn thị trường đạt 1.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong phiên giao dịch này là
các NĐT nước ngoài ào ạt bán ra gần 4,9 triệu cổ phiếu, trong khi lượng mua chỉ khoảng
gần 2,9 triệu cổ phiếu tại sàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phiên giao dịch ngày 16/9, khi tin
tức về vụ phá sản của ngân hàng Lehman Brothers lan rộng thì cũng giống như tất cả các chỉ
số chứng khoán chủ chốt tại châu Á đã đồng loạt giảm mạnh nhất trong 6 tháng qua, VN-
Index có một phiên tụt giảm mất 20,81 điểm, tương đương với 4,36%, khối lượng giao dịch
toàn thị trường sụt giảm hơn một nửa so với phiên trước đó. Trong phiên giao dịch này, rất
nhiều NĐT muốn bán cổ phiếu cũng không thể bán được bởi lượng mua không nhiều.
Xu hướng giảm giá chung trên TTCK thế giới, bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng cho
vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ mà hiện đang dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất
trong vòng gần 80 năm qua.
Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ đến Việt Nam có tính gián
tiếp vì ngoài những khó khăn, thách thức, chúng ta cũng có những cơ hội để phát triển. Với
TTCK, chúng tác động gián tiếp thông qua ảnh hưởng về mặt tâm lý. Tất nhiên, ảnh hưởng
của thị trường tài chính Mỹ đối với thế giới là rõ rệt nhưng với thị trường Việt Nam thì
không nhiều. Điều này thể hiện qua mấy điểm: Việt Nam hiện chưa có công ty nào niêm yết
trên TTCK Mỹ như các công ty của Nga; tỷ lệ sở hữu của NĐT Mỹ trong DN Việt Nam
không nhiều; dòng tiền NĐT nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt từ thị trường Mỹ cũng
không nhiều (giá trị danh mục đầu tư của NĐT nước ngoài hiện có khoảng 7-8 tỷ USD) nếu
so với vốn tiền trên thị trường tài chính Mỹ thì rất nhỏ. Tuy nhiên, sự đổ vỡ trên thị trường
tài chính Mỹ là rất nghiêm trọng. Điều đó tác động đến hầu hết các thị trường ở châu Âu,
châu Á và các thị trường tên tuổi. Tại Việt Nam, TTCK bị ảnh hưởng do hiệu ứng tâm lý là
chính (do nhiều NĐT không có nhiều kiến thức chuyên môn). Đối với các DN niêm yết
trên TTCK Việt Nam, điều chi phối chính là yếu tố kinh tế vĩ mô.
Những ảnh hưởng trên thế giới đến Việt Nam có tính gián tiếp như: đến hoạt động
xuất khẩu, một số nhóm mặt hàng và có ảnh hướng nhất định tới giải ngân nguồn vốn đầu tư
trực tiếp. Trên TTCK chúng tác động gián tiếp thông qua ảnh hưởng về mặt tâm lý. Ngoài
ra, do giá trị tài sản và cổ phiếu trên thế giới giảm làm mất đi lợi thế so sánh với cổ phiếu
trên thị trường, đồng thời các tổ chức quốc tế có thể tái cấu trúc về danh mục, củng cố lại
luồng vốn đầu tư của họ làm luồng vốn đầu tư gián tiếp của họ không tăng và có thể có điều
chỉnh nhất định. Có thể nói, TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn tích luỹ để phát triển bền
vững.
3.2. Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010
3.2.1. Đối với hàng hoá cho TTCK
Thứ nhất, Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách đảm bảo Nhà nước thống nhất
quản lý việc phát hành chứng khoán ra công chúng và quản lý các công ty đại chúng; áp
dụng quy định quản trị công ty đối với các công ty đại chúng.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện kế hoạch gắn kết cổ phần hoá các DN Nhà nước với
việc niêm yết trên TTCK; chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ
phần và niêm yết trên TTCK; bán bớt cổ phần Nhà nước không cần nắm giữ tại các công ty
niêm yết theo danh mục lĩnh vực, ngành nghề Chính phủ quy định.
Thứ ba, cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ theo hướng nâng cao tỷ
trọng đấu thầu, bảo lãnh phát hành theo các kỳ hạn khác nhau. Hoàn thiện khung pháp lý,
lựa chọn và hướng dẫn các chính quyền địa phương, các DN lớn để huy động vốn đầu tư.
Thứ tư, phát triển các hàng hoá khác trên TTCK bao gồm chứng chỉ quỹ ĐTCK, các
chứng khoán phái sinh.
3.2.2. Đối với thị trường giao dịch chứng khoán.
Một là, hướng dẫn, quản lý, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán chưa niêm yết
tại các CTCK.
Hai là, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TTGDCK Hà Nội theo mô hình thị
trường phi tập trung. Nằm trong kế hoạch phát triển TTCK, phương án quản lý tập trung
đối với thị trường OTC đang được gấp rút hoàn thành theo hướng chuyển thị trường OTC
thành thị trường đăng ký do HaSTC trực tiếp quản lý.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện thị trường giao dịch trái phiếu, trước hết là trái phiếu
Chính phủ.
3.2.3. Đối với các dịch vụ phụ trợ.
Thứ nhất, đối với Trung tâm lưu ký chứng khoán, nghiên cứu đề án chuyển đổi trung
tâm lưu ký chứng khoán thành mô hình công ty, trong đó có vốn sở hữu của Nhà nước, đa
dạng hoá nghiệp vụ của Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
Thứ hai, đối với các thành viên lưu ký, phát triển mạng lưới thành viên lưu ký cung
cấp dịch vụ lưu ký chứng khoán đảm bảo an toàn tài sản, thực hiện các quyền cho NĐT.
3.2.4. Đối với các NĐT
Phát triển tổ chức ĐTCK chuyên nghiệp, khuyến khích các tổ chức này thành lập các
công ty quản lý qũy và quỹ ĐTCK, phấn đấu tỷ trọng đầu tư vào TTCK của tổ chức ĐTCK
chuyên nghiệp đạt 20-25% tổng giá trị giao dịch TTCK niêm yết vào năm 2010
Phổ cập giáo dục đào tạo các kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng,
nâng cao hiểu biết của công chúng về vai trò, lợi ích, rủi ro của hình thức đầu tư qua quỹ
ĐTCK.
Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng và hướng dẫn các chuẩn mực
công nghệ thông tin áp dụng cho các tổ chức kinh doanh và dịch vụ chứng khoán đảm bảo
cung cấp dịch vụ và thông tin TTCK minh bạch và công bằng cho mọi đối tượng đầu tư.
Hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung phục vụ quản lý và điều hành thị trường;
tin học hoá việc trao đổi, cập nhật dữ liệu TTCK. Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học
trong công tác quản lý, điều hành và giám sát thị trường.
3.2.5. Hội nhập quốc tế về TTCK
Thực hiện chương trình hội nhập thị trường vốn ASEAN giai đoạn 2006-2010, bao
gồm các nội dung: thực hiện sáng kiến Quỹ trái phiếu Châu Á; hài hoà hoá tiêu chuẩn phát
hành, niêm yết, công bố thông tin trên TTCK; tiến tới hình thành thị trường thứ cấp chung
cho giao dịch trái phiếu các nước ASEAN; phấn đấu ngày càng có nhiều DN tham gia danh
sách 100 công ty niêm yết hàng đầu của các nước ASEAN.
Thực hiện mở cửa dịch vụ TTCK theo lộ trình đã cam kết tại các Hiệp định song
phương và đa phương. Ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác song phương với các Uỷ ban
chứng khoán các nước trong khu vực.
3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam
3.3.1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán
3.3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động ĐTCK
Cần phải hoàn thiện khung pháp lý các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK.
Việc hoàn thiện khung pháp lý này sẽ giúp cho TTCK nói chung phát triển và do đó giúp
cho hoạt động PTCB trong ĐTCK cũng phát triển theo.
Nhà nước phải đưa ra một quy chuẩn cho hoạt động PTCB, đặc biệt là hoạt động
phân tích công ty. Hiện nay, hoạt động PTCB được tiến hành tại các CTCK theo một quy
trình phân tích riêng của từng công ty mà không theo một khuôn mẫu nào, do đó các NĐT
tại các CTCK khác nhau có những đánh giá khác nhau về cùng một loại chứng khoán, vì
vậy tác động khá lớn đến quyết định đầu tư của các NĐT.
Ngoài ra, cần sớm đưa thị trường OTC vào vòng kiểm soát, theo nghĩa các doanh
nghiệp có cổ phần mua bán (dù không qua trung gian), giá cả và số lượng mua bán phải
đăng ký trên thị trường OTC dưới sự kiểm soát của UBCK, có như vậy mới quản lý được
TTCK một cách toàn diện và chặt chẽ, và do đó sẽ giảm thiểu rủi ro cho NĐT, khi đó NĐT
sẽ phải thận trọng xem xét, phân tích chứng khoán, trước khi đưa ra quyết định đầu tư.
Mặt khác, nhà nước cũng phải quy định các tiêu chuẩn cần có cho các nhân viên
phân tích. Hiện nay, các nhân viên phân tích chưa được quy định cụ thể là cần phải có
những điều kiện nào để hành nghề cho nên có những CTCK tuyển những nhân viên không
thực sự có những kiến thức sâu sắc về phân tích chứng khoán nói chung, và PTCB nói
riêng, điều này ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng hoạt động PTCB trong ĐTCK.
3.3.1.2. Xây dựng hệ thống kế toán vững mạnh, áp dụng chuẩn mực kế toán quốc gia và
quốc tế.
Nguyên tắc kế toán là những tuyên bố chung như các chuẩn mực và những hướng
dẫn để phục vụ cho việc lập các bản báo cáo tài chính đạt được mục tiêu dễ hiểu, đáng tin
cậy và dễ so sánh, qua đó làm tăng độ tin cậy của các chỉ tiêu tài chính DN trong hoạt động
PTCB. Nguyên tắc kế toán chuẩn quốc gia theo thông lệ quốc tế vừa giúp DN chủ động
hạch toán kế toán phù hợp tình hình thực tế ngành nghề hoạt động kinh doanh của mình
đồng thời giúp các công ty kiểm toán dễ dàng hơn trong việc thực hiện các hoạt động kiểm
toán.
Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán chung không chỉ giúp DN chủ động trong công
tác hạch toán kế toán và lập báo cáo tài chính mà nó còn là tiêu chuẩn để các NĐT dễ dàng
theo dõi, tìm hiểu tình hình tài chính của DN khi đã được kiểm toán.
3.3.1.3. Xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường
Nhà nước cần xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường,
của ngành, của các công ty niêm yết như: hệ số rủi ro (), P/E của toàn ngành…Ở các
TTCK phát triển, các hệ số này được tính toán và công bố thường xuyên, bởi điều này sẽ
tránh cho người PTCB khỏi những ước tính chủ quan, làm cho mỗi NĐT sẽ đưa ra một mức
ước tính khác nhau, điều này sẽ thể hiện thị trường chưa minh bạch và hàm chứa quá nhiều
yếu tố rủi ro.
Xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường còn là cơ sở
cho việc phát triển hệ thống định mức tín nhiệm trong ĐTCK ở Việt Nam, định mức tín
nhiệm sẽ đo lường và tính toán các thông số đó để cung cấp cho các đối tượng khác nhau
trên thị trường, NĐT cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đều có thể nhìn vào các
hệ số đánh giá chung về thị trường này để đưa ra một mức kỳ vọng hợp lý cho mình, qua đó
sẽ phát huy vai trò vốn có của PTCB trong hoạt động ĐTCK, thể hiện qua việc: làm cho thị
trường phát triển minh bạch hơn, giảm thiểu tối đa các hiện tượng như “bong bóng chứng
khoán”, sự bùng nổ quá mức của thị trường; thêm vào đó còn làm cho các NĐT có cơ sở để
đưa ra các quyết định đầu tư và kế hoạch đầu tư trong ngắn hạn, dài hạn.
3.3.1.4. Hoàn thiện chế độ công bố thông tin, nâng cao sự minh bạch của thị trường
Việc công bố thông tin là khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh doanh
chứng khoán và cung cấp dịch vụ cho NĐT của các CTCK. Để các công ty nắm bắt tốt các
thông tin và thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin cho khách hàng cần có sự phối hợp
giữa các bên liên quan.
Về phía UBCKNN, SGD chứng khoán, TTGDCK cần quy định rõ trách nhiệm và
nghĩa vụ cung cấp thông tin của các tổ chức phát hành và các bên tham gia thị trường một
cách công bằng và kịp thời, nâng cao hơn nữa sự minh bạch hoá thị trường, quy định hành
lang pháp lý chặt chẽ cho hoạt động công bố thông tin của các công ty niêm yết.
Theo thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông
tin định kỳ là điều bắt buộc đối với các công ty niêm yết nhưng hoạt động PTCB trong
ĐTCK không chỉ dừng lại ở các công ty niêm yết mà cả các công ty chưa niêm yết, do đó
bên cạnh luật chứng khoán thì các luật khác cũng phải có những kết hợp và hỗ trợ theo, như
luật DN.
Tăng cường thông tin về nền kinh tế vĩ mô, về các ngành kinh doanh cũng như về
TTCK để định hướng cho các NĐT, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc
gây nhiễu.
Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm việc công bố thông tin trên TTCK, công
khai các vi phạm và mức độ xử lý về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối
tượng khác có liên quan trên phương tiện thông tin đại chúng.
Có như vậy, mới đảm bảo cho các thành viên khác của thị trường đón nhận được một
luồng thông tin đầy đủ và chính xác, hỗ trợ cho việc PTCB trong hoạt động ĐTCK. Thị
trường minh bạch cũng tạo điều kiện cho việc ứng dụng các kỹ thuật PTCB. Khi đó, mỗi
PTCB sẽ như thước đo của thị trường tại thời điểm đó, bởi nó dựa trên những kỳ vọng của
thị trường của người làm phân tích, thị trường càng minh bạch, những phân tích dự báo của
các NĐT sẽ tiến gần đến nhau và tiến gần đến các đánh giá chính xác hơn.
Thực tế, trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam các PTCB không có tính ứng dụng cao,
nhiều khi kỳ vọng của NĐT vượt quá giá trị thực sự của các chứng khoán (đặc biệt trong
giai đoạn 2006 – 2007, khi mà TTCK Việt Nam phát triển quá nóng). NĐT còn chủ yếu đầu
tư theo cảm tính, theo phong trào hoặc bằng cách phân tích tâm lý thị trường, cung cầu thị
trường mà thiếu những PTCB. Mặt khác, những thông tin không cân xứng khiến cho giao
dịch nội gián tăng cao, chính vì thế, các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là UBCKNN
phải sát sao hơn nữa với thị trường nhằm kiểm soát những giao dịch vi phạm pháp luật,
những hiện tượng làm giảm tính minh bạch của thị trường. Từ đó, những PTCB mới có cơ
sở để phát triển và được NĐT tin tưởng.
3.3.2. Về phía các CTCK
3.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin và công nghệ hoá trong hoạt động PTCB.
Các CTCK cần phải đảm bảo cho mình có một hệ thống thông tin thực sự tốt, tức là
thông tin phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời, có như vậy thì chất lượng của các PTCB
mới đáng tin cậy.
Các CTCK phải xây dựng cho mình một cơ sở dữ liệu riêng để phục vụ cho hoạt
động PTCB. Cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời trước những biến
động của thị trường, qua đó những PTCB mới thực sự có giá trị đối với người sử dụng.
Bên cạnh đó, các CTCK cũng cần phải công nghệ hoá quá trình phân tích, bằng cách
xây dựng một cơ sở dữ liệu điện tử với những phần mềm tự động cập nhật và xử lý số liệu
một cách thường xuyên, theo ngày, theo tháng, theo quý, việc làm này cần đầu tư rất nhiều
công sức, thời gian, tiền bạc nhưng hiệu quả nó đem lại sẽ rất lớn, nó giúp người phân tích
rút bớt được thời gian cho quá trình xử lý số liệu, giúp cho các số liệu thống kê bớt đi các
biến nhiễu, các sai số ngẫu nhiên. Trên thế giới thì việc áp dụng các phần mềm chuyên
nghiệp trong phân tích là điều khá phổ biến và nó thực sự đem lại rất nhiều hiệu quả trong
hoạt động phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện
tại hầu hết người làm phân tích tại các CTCK (nhất là các CTCK nhỏ) vẫn phải cập nhật số
liệu một cách hết sức thủ công vào các form xử lý số liệu của công ty chứ chưa hề có phần
cập nhật số liệu tự động từ phía thị trường. Việc áp dụng công nghệ không những tiết kiệm
thời gian và công sức cho các chuyên gia phân tích, mà còn làm cho hoạt động PTCB có
tính chuyên nghiệp cao. Do đó, việc cải tiến áp dụng các thiết bị, công nghệ, phần mềm
chuyên dụng là điều cần thiết.
3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và quy trình PTCB
Trong hoạt động PTCB cần phải chú trọng phân tích một cách toàn diện tất cả các
nội dung. Xây dựng quy trình hoạt động PTCB ngoài việc xác định các bước tiến hành thì
cần xây dựng một thời gian biểu hợp lý cho từng bước. Việc tiến hành phân tích theo các
bước và theo thời gian biểu đã định sẵn sẽ nâng cao hiệu quả của việc phân tích. Trong quy
trình PTCB, công ty nên có công đoạn đánh giá sơ bộ và bổ sung những dữ liệu cần thiết
trước khi thực hiện phân tích.
- Nghiên cứu sơ bộ: sau khi việc thu thập thông tin hoàn tất, công ty tiến hành phân
tích đánh giá sơ bộ về đối tượng phân tích, nếu thấy nhu cầu thông tin là đúng và đủ thì tiến
hành phân tích, nếu thiếu công ty sẽ tiến hành bổ sung, tìm kiếm thêm thông tin, thường thì
công ty luôn phải bổ sung các thông tin mới tiến hành phân tích được.
- Bổ sung các thông tin cần thiết: là việc công ty tiến hành bổ sung thêm các thông
tin, cơ sở dữ liệu cần thiết liên quan tới PTCB. Trong quá trình phân tích, đánh giá sơ bộ,
những tài liệu còn thiếu liên quan tới đối tượng phân tích sẽ được tiếp tục bổ sung. Mặt
khác, thường thì hoạt động PTCB được chuẩn bị và tiến hành trong một khoảng thời gian
nhất định, trong khoảng thời gian đó nhiều thông tin mới được cập nhật, chẳng hạn như:
một chính sách, quy định mới của Nhà nước; một sự thay đổi trong chính sách xuất nhập
khẩu của một quốc gia khác ảnh hưởng đến một số lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước, hay các thông tin từ phía các công ty niêm yết… do đó, việc bổ
sung, chỉnh sửa thông tin là điều cần thiết.
- Sau khi hoàn thành việc PTCB và lưu hồ sơ phòng phân tích nên bổ sung thêm
công đoạn tiếp tục thu thập thông tin về đối tượng phân tích để phục vụ cho các khách hàng
tiếp theo
3.3.2.3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ phân tích
Những người tiến hành hoạt động PTCB đòi hỏi phải có một sự hiểu biết sâu rộng về
tất cả các lĩnh vực, cũng như sự hiểu biết về TTCK. Thực tế hiện nay, trong các CTCK ở
Việt Nam, số lượng cán bộ làm PTCB không thiếu, tuy nhiên chất lượng của đội ngũ này
còn nhiều yếu kém. Vì vậy, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ phân tích, đặc biệt chú
trọng tuyển mộ những chuyên viên phân tích có kinh nghiệm, trình độ cao, có khả năng xử
lý linh hoạt các tình huống phát sinh của thị trường là việc làm hết sức cần thiết. Do đó, cần
phải tổ chức đào tạo cho nhân viên phân tích về các kỹ năng phân tích, kỹ năng xử lý số
liệu, sử dụng các phương pháp PTCB một cách thành thạo, nâng cao hiệu quả quá trình xử
lý số liệu. Bên cạnh đó, các CTCK cũng nên xem xét chế độ giữ chân nguồn nhân lực có
chất lượng cao.
3.3.2.4. Kết hợp PTCB với các phân tích khác
Kết hợp PTCB với các phương pháp khác như phân tích kỹ thuật, hay các trường
phái phân tích khác để xây dựng danh mục đầu tư hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong
ĐTCK. Vận dụng PTCB trong ĐTCK chứ không phải chỉ ứng dụng PTCB, mà phải vận
dụng một cách linh hoạt - đặt trong bối cảnh thị trường lúc bấy giờ để đưa ra các quyết định
phù hợp.
3.3.3. Về phía các NĐT
NĐT trên TTCK Việt Nam bao gồm NĐT có tổ chức và NĐT cá nhân. NĐT có tổ
chức hay còn gọi là định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn
trên thị trường. Một số NĐT chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, công ty
bảo hiểm, quỹ lương hưu, quỹ bảo hiểm xã hội, các công ty tài chính, CTCK, và các ngân
hàng thương mại. Trên TTCK Việt Nam, các NĐT có tổ chức giữ vai trò vô cùng quan
trọng, các NĐT này không những là các NĐT lớn có tác động chi phối thị trường, động thái
của NĐT có tổ chức luôn được các NĐT cá nhân nhỏ lẻ quan tâm và tác động đến hành vi
của các NĐT này. Vì vậy, các NĐT có tổ chức là người hơn ai hết phải nâng cao vai trò của
PTCB, hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK, để TTCK Việt Nam phát triển vững
vàng, để ĐTCK thực sự trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, đem lại nhiều lợi
nhuận cho các NĐT hơn. Các giải pháp từ phía các NĐT có tổ chức trên TTCK Việt Nam
nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam cũng tương tự như các giải
pháp từ phía các CTCK đối với vấn đề này, do vậy tác giả xin phép không trình bày lại, mà
trong mục này chỉ xin trình bày các giải pháp từ phía các NĐT cá nhân
NĐT cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời,
tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nếu xét về nghề nghiệp hay
tầng lớp chúng ta có thể thấy sự đa dạng trong việc xuất thân của NĐT cá nhân Việt Nam.
Từ dân tài chính, nhân viên văn phòng làm ở các công ty có điều kiện sớm tiếp xúc với
TTCK, đến sự xuất hiện của anh nông dân, bà bán nước... trên các sàn giao dịch (đặc biệt là
vào giai đoạn TTCK Việt Nam phát triển nóng). Việc tham gia ĐTCK của họ đơn giản chỉ
là mua thấp bán cao để thu lời. Tuy nhiên cũng không loại trừ những NĐT làm ở các cơ
quan tài chính nhà nước, các CTCK, các định chế tài chính quốc tế... nhưng vẫn có những
hoạt động cho riêng mình. Xét kỹ hơn về những đối tượng tham gia vào giai đoạn này có
thể thấy đối với những người học tài chính, hay liên quan đến tài chính, có hiểu biết về tài
chính độ tuổi trẻ hơn, kinh nghiệm ít hơn và tham gia đúng vào thời điểm thị trường tăng
mạnh, nên ít có thời gian trau dồi kiến thức, do thành công có phần nào đó may mắn nên có
tâm lý chủ quan tự mãn, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến thành công của họ. Những
thành phần NĐT còn lại trong giai đoạn này, đa số chọn lựa mua bán chứng khoán theo cảm
tính và cảm hứng, hay “ai bảo gì mua nấy”. Họ dễ bị ảnh hưởng của các đối tượng bên
ngoài như các báo cáo của các tổ chức, các tin đồn… Vì vậy, họ không coi trọng hoạt động
phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng khi tham gia ĐTCK, và do vậy khi thị
trường không còn thuận lợi thì họ luôn là đối tượng dễ bị tổn thương và chịu thua thiệt đầu
tiên. Do đó, trong thời gian tới, các NĐT cá nhân cần phải nâng cao hơn nữa năng lực trong
hoạt động ĐTCK của mình, mà nhất là cần phải xem trọng hơn vai trò của PTCB và biết
vận dụng những kết luận, những phân tích và đánh giá của PTCB khi tham gia vào hoạt
động ĐTCK. Để làm được việc này, các NĐT cần thiết phải thực hiện một số những giải
pháp sau:
Một là, NĐT cá nhân cần phải vững vàng về hơn về tâm lý khi ĐTCK, một minh
chứng trong thời gian vừa qua cho thấy, nếu xét về những vấn đề kinh tế thì TTCK Việt
Nam không bị tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bởi lẽ TTCK Việt
Nam chưa có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với TTCK Mỹ, nhưng chỉ số VN-Index trên
TTCK Việt Nam cũng liên tục bị mất điểm, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng này đã tác
động đến TTCK Việt Nam thông qua tâm lý của các NĐT, đặc biệt là các NĐT cá nhân nhỏ
lẻ. Vì vậy, để TTCK phát triển, để tránh cho bản thân các NĐT cá nhân phải chịu những tổn
thất không đáng có, thì các NĐT cần vững vàng hơn về tâm lý, bình tĩnh đưa ra những nhận
định, những đánh giá, thực hiện những phân tích chứng khoán, PTCB khoa học và phù hợp
với tình hình thực tế. Qua đó, vai trò của PTCB cũng được nâng cao, có điều kiện để hoàn
thiện và do đó những kết luận từ PTCB cũng chính xác, khoa học và phục vụ đắc lực hơn
nữa cho NĐT cá nhân khi học thực hiện hoạt động ĐTCK.
Hai là, NĐT cá nhân nên cập nhật thông tin đa chiều một cách thường xuyên và liên
tục, các thông tin này không chỉ là các thông tin trực tiếp của TTCK mà còn là các thông tin
về tình hình kinh tế thế giới, diễn biến của kinh tế vĩ mô trong nước cũng như thông tin về
các ngành sản xuất kinh doanh, các DN. Tuy nhiên, NĐT cá nhân cũng nên chú trọng nguồn
thông tin chính thức được công bố bởi các cơ quan quản lý Nhà nước, các CTCK, các tổ
chức tài chính chuyên nghiệp…, sàng lọc các thông tin nhiễu, các tin đồn không có cơ sở, từ
đó sử dụng các thông tin đó một cách hiệu quả nhất cho hoạt động phân tích chứng khoán,
PTCB phục vụ cho việc ĐTCK đạt được kết quả cao hơn.
Ba là, các NĐT cá nhân phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ kiến thức của
mình đặc biệt là năng lực PTCB, qua đó các NĐT có thể tự mình đưa ra được những nhận
định về TTCK, các loại chứng khoán khi tham gia đầu tư trên TTCK để hạn chế rủi ro và
thu được lợi nhuận tối đa. Việc nâng cao trình độ của NĐT phải toàn diện từ việc nâng cao
kiến thức về PTCB đến việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm làm cho quá trình phân tích
được hiệu quả và tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí. Để làm được điều này, các NĐT có
thể tham gia các khoá đào tạo chính thức tại các trung tâm đào tạo về chứng khoán và
TTCK cũng như các lớp đào tạo về phân tích, đánh giá những tác động của các nhân tố kinh
tế vĩ mô, hoặc của các ngành kinh doanh, các lớp đào tạo tin học, hoặc học hỏi kinh nghiệm
đầu tư từ chính các NĐT khác, hoặc tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu kinh tế.
Bốn là, các NĐT cá nhân nên thiết lập cho mình mối liên hệ chặt chẽ với các CTCK,
hay các tổ chức tài chính chuyên nghiệp, từ đó NĐT sẽ có được lượng thông tin lớn với chất
lượng cao, đặc biệt là có thể vận dụng các đánh giá, các kết luận PTCB của các tổ chức đó
phục vụ cho quá trình ĐTCK của mình, làm cho hiệu quả thu được từ ĐTCK đạt được cao
hơn, hạn chế thua lỗ trong đầu tư.
3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam
3.4.1. Điều kiện về thông tin
TTCK là thị trường của thông tin cho nên việc công bố thông tin của các bên liên
quan đến chứng khoán là điều rất quan trọng. Thông tin được công bố trên TTCK có liên
quan đến nhiều bên bao gồm từ phía Chính phủ, các bộ ngành liên quan, UBCKNN và các
công ty tham gia TTCK. Khi tiến hành đầu tư thì các NĐT phải có thông tin từ những nguồn
khác nhau để nắm bắt được thực trạng nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,
kim ngạch xuất khẩu, cán cân thanh toán, cán cân ngân sách… cũng như nắm bắt được thực
trạng của các ngành và các công ty. Việc công bố thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời là
một trong những điều kiện quyết định hàng đầu dẫn đến thành công của hoạt động phân fích
cơ bản, nâng cao chất lượng của hoạt động PTCB trong ĐTCK.
3.4.2. Điều kiện về hành nghề phân tích
Muốn cho hoạt động PTCB có hiệu quả và các bản PTCB thực sự có giá trị đối với
các NĐT cũng như hỗ trợ cho hoạt động của CTCK thì phải có một văn bản pháp luật quy
định những người nào được tiến hành hoạt động phân tích, và bản phân tích của họ được
công bố dưới hình thức nào, và phải thông qua kiểm định. Vì nếu như bản phân tích không
phản ánh đúng tình hình hoạt động thực tế của các loại chứng khoán sẽ gây ra một tác động
xấu đến giá cả chứng khoán trên TTCK. Do đó, việc quy định rõ điều kiện để tiến hành hoạt
động PTCB và việc công bố thông tin phân tích ra công chúng là điều quan trọng.
3.4.3. Điều kiên về TTCK
3.4.3.1. TTCK phải có tính thanh khoản cao
Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với
NĐT, đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư, đây là một trong những
yếu tố giúp cho TTCK hoạt động tốt, năng động và hiệu quả hơn.
Nếu trong TTCK, các chứng khoán không có tính thanh khoản cao tức là khả năng
chuyển đổi thành tiền mặt kém thì TTCK không có sức hấp dẫn đối với các NĐT, vì các
NĐT cho rằng việc nắm giữ cổ phiếu mang lại cho mình nhiều rủi ro hơn là nắm giữ các tài
sản có giá khác và như vậy sẽ không có nhiều NĐT tham gia vào TTCK, hoạt động ĐTCK
sẽ không hấp dẫn và hoạt động PTCB cũng không thể phát triển được. Vì vậy, tính thanh
khoản trên TTCK là một điều kiện cần thiết để cho hoạt động PTCB phát triển và hoàn thiện
hơn
3.4.3.2. Chi phí tham gia vào TTCK phải thấp
Việc tham gia vào TTCK sẽ thu hút được nhiều NĐT hơn nếu như chi phí để tham
gia TTCK thấp hơn là tiến hành các hoạt động đầu tư khác. Khi tiến hành đầu tư vào một
lĩnh vực nào đó NĐT bao giờ cũng phải xem xét mình tốn một khoản chi phí là bao nhiêu
khi đầu tư vào lĩnh vực đó, hai khoản chi phí được các NĐT quan tâm nhiều nhất là phí giao
dịch và thuế đánh trên phần lợi nhuận mà họ được hưởng. Trong mỗi một lĩnh vực đầu tư
thì NĐT chịu một mức chi phí khác nhau, nếu như chi phí tham gia TTCK thấp hơn so với
đầu tư vào các thị trường khác thì TTCK sẽ thu hút được nhiều NĐT tham gia, làm cho hoạt
động của TTCK sẽ sôi động hơn, hoạt động ĐTCK sẽ nhộn nhịp hơn và do đó sẽ là điều
kiện rất tốt để cho hoạt động PTCB phát triển ngày một hoàn thiện và thực hiện được vai trò
tích cực của nó trong hoạt động ĐTCK hơn.
3.4.3.3. Các NĐT phải quan tâm đến rủi ro trong ĐTCK
Trong bất cứ một hoạt động nào thì mức sinh lợi và rủi ro luôn đi kèm với nhau và nó
đặc biệt được phản ánh rõ trong TTCK. Do đó, các NĐT khi tham gia vào TTCK phải có
một hiểu biết nhất định và đánh giá được các loại rủi ro có thể gặp phải để ra được những
quyết định đầu tư đúng đắn. Nếu NĐT không có một hiểu biết nhất định về rủi ro trong
ĐTCK thì họ sẽ không quan tâm đến các đánh giá, các kết luận của các chuyên gia phân
tích, và do đó các hoạt động phân tích nói chung, PTCB nói riêng cũng không có điều kiện
để phát triển.
Vì vậy, để TTCK phát triển một cách ổn định, cũng như hoạt động PTCB trong
ĐTCK có điều kiện ngày một hoàn thiện thì việc các NĐT quan tâm đến rủi ro trong đầu tư
là một nhân tố cần thiết.
3.4.3.4. Số lượng các NĐT và các hàng hoá trên TTCK phải nhiều
Một TTCK được coi là tốt nếu số lượng các NĐT tham gia TTCK đông và các hàng
hoá trên TTCK nhiều. Nếu như, TTCK có ít người tham gia thì khi đó thị trường sẽ không
phát triển theo đúng quy luật tự nhiên của nó mà sẽ bị chi phối bởi một số ít các NĐT, và
các quyết định của các NĐT này, điều đó sẽ gây ra những tác động không tốt đến thị trường,
bởi thị trường lên hay xuống chỉ do một số ít cá nhân quyết định, khi đó việc phân tích
chứng khoán nói chung và PTCB nói riêng trong hoạt động đầu tư sẽ bị xem nhẹ, và như
vậy sẽ không có cơ hội để phát triển và hoàn thiện.
Do đó, việc có đông các NĐT và nhiều loại hàng hoá, nhiều loại chứng khoán trên
TTCK cũng là một điều kiện quan trọng làm cho hoạt động PTCB trong ĐTCK phát triển.
3.4.3. Điều kiện về nguồn lực PTCB
Khi thực hiện bất kỳ hoạt động nào nói chung, hoạt động PTCB nói riêng thì nhân tố
con người luôn là nhân tố trung tâm, giữ vị trí vô cùng quan trọng. Vì vậy, để thực hiện tốt
hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam thì điều kiện cần thiết là phải có một đội ngũ
chuyên viên, đông về số lượng và đảm bảo về chất lượng trình độ chuyên môn, có hiểu biết
rộng rãi và sâu sắc về nhiều vấn đề của TTCK.
3.4.4. Điều kiện về công cụ phân tích
Khi tiến hành phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng thì các chuyên gia
phân tích phải sử dụng những công cụ hỗ trợ nhất định cho hoạt động phân tích. Các công
cụ này bao gồm cả những công cụ phần cứng cũng như phần mềm. Các công cụ phần cứng
có thể là hệ thống máy tính, hệ thống máy chiếu… còn các thiết bị phần mềm như các
chương trình được lập trình phục vụ cho hoạt động PTCB được hiệu quả hơn. Đặc trưng của
TTCK là có rất nhiều số liệu, đặc biệt là hoạt động PTCB, các chuyên gia PTCB phải thu
thập, xử lý và tính toán một khối lượng thông tin rất lớn, vì vậy nếu không có sự hỗ trợ từ
các công cụ phân tích thì các chuyên gia phân tích không thể hoàn thành được nhiệm vụ của
mình. Do đó, công cụ phân tích là một điều kiện không thể thiếu được để thực hiện hoạt
động PTCB trong quá trình ĐTCK.
KKẾẾTT LLUUẬẬNN
Quá trình hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam là tất yếu và lâu dài, TTCK
nước ta mới có thời gian hoạt động được 8 năm, còn rất non trẻ nên kinh nghiệm trong
ĐTCK còn thiếu. Bởi vậy, việc vận dụng các kết luận của PTCB kết hợp với các phân tích
khác là rất quan trọng. Đánh giá được thực trạng của hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt
Nam để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK tại Việt
Nam là một việc làm cần thiết và cần phải được quan tâm một cách thường xuyên và liên
tục.
Đề tài đã nêu những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, những vấn đề liên
quan đến hoạt động ĐTCK và PTCB nói chung, trên cơ sở đó đánh giá sơ bộ thực trạng
TTCK Việt Nam, những kết quả của hoạt động ĐTCK tại Việt Nam trải qua 8 năm hình
thành và phát triển, và đặc biệt là đã đánh giá một cách toàn diện về những kết quả đạt được
cũng như những mặt còn yếu kém hạn chế khi vận dụng phương pháp PTCB trong hoạt
động ĐTCK tại Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB
trong ĐTCK tại Việt Nam, qua đó phát huy tốt hơn nữa những kết luận, những đánh giá từ
PTCB làm cho hoạt động ĐTCK ở Việt Nam phát triển, thực sự trở thành một kênh đầu tư
quan trọng và hấp dẫn tại Việt Nam.
Các giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam đòi hỏi
phải được thực hiện đồng bộ và nhất quán cả từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước đến các
công ty chứng khoán và các NĐT, nếu một trong các giải pháp không được thực hiện hoặc
thực hiện không tốt cũng sẽ không thể phát huy tốt nhất vai trò của PTCB trong hoạt động
ĐTCK.
Tuy nhiên, đề tài là một cái nhìn, một cách tiếp cận từ chủ quan tác giả, vì vậy cũng
không tránh khỏi những thiếu sót, do đó để hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở
Việt Nam cần thiết đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc, với sự đầu tư kỹ
lưỡng hơn.
DDAANNHH MMỤỤCC TTÀÀII LLIIỆỆUU TTHHAAMM KKHHẢẢOO
1. Giáo trình TTCK, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Khoa học kỹ
thuật – 2005;
2. Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 2002;
3. Giáo trình phân tích và ĐTCK, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia – 2003;
4. Giáo trình phân tích và ĐTCK, Học viện tài chính, Nhà xuất bản Tài chính – 2006;
5. Báo ĐTCK, Bộ Kế hoạch đầu tư
6. Website: http://www.hsx.vn
7. Website: http://www.hastc.com.vn
8. Website: http://www.vcbs.com.vn
9. Website: http://www.phantichcophieu.vn
10. Website: http:// www.ssc.gov.vn
BBẢẢNNGG CCÁÁCC CCHHỮỮ VVIIẾẾTT TTẮẮTT
TTCK: Thị trường chứng khoán
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
SGD: Sở giao dịch
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
ĐTCK: Đầu tư chứng khoán
PTCB: Phân tích cơ bản
NĐT: Nhà đầu tư
DN: Doanh nghiệp