TIỂU LUẬN:

Hoàn thiện phương pháp phân tích

cơ bản trong đầu tư chứng khóan

ở Việt Nam

MMỞỞ ĐĐẦẦUU

1. Tính cấp thiết của đề tài

TTCK Việt Nam với lịch sử ra đời và phát triển 8 năm có thể nói là một thị trường

còn khá non trẻ. Tuy nhiên, với tuổi đời non trẻ như vậy nhưng TTCK Việt Nam đã có

những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao (đặc biệt là trong giai đoạn 2006 – 2007), và

ĐTCK đã thực sự trở thành một trong những kênh đầu tư quan trọng và hấp dẫn đối với các

nhà đầu tư. Ngày nay, thuật ngữ chứng khoán và TTCK đã trở nên gần gũi đối với nhiều

người dân Việt Nam, từ nhân viên văn phòng cho đến những người buôn bán nhỏ. Điều này

là một thành quả rất đáng tự hào, là một điểm nhấn tốt đẹp đóng góp vào quá trình phát triển

kinh tế chung của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động ĐTCK ở Việt Nam tồn tại rất nhiều hạn chế cần

phải khắc phục, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, và bị chi phối bởi yếu tố tâm lý đám đông, hay

nói một cách khác việc vận dụng những kết luận từ hoạt động phân tích chứng khoán nói

chung, PTCB nói riêng trong ĐTCK ở Việt Nam chưa được coi trọng, chính vì vậy công tác

PTCB chứng khoán ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, và do vậy nó có tác động ngược trở lại

làm cho những kết luận mà PTCB đưa ra chưa thực sự khách quan và khoa học, do vậy

chưa hỗ trợ cho hoạt động ĐTCK hiệu quả hơn.

Xuất phát từ thực tế đó, tác giả cho rằng việc hoàn thiện phương pháp PTCB, làm

cho PTCB là một công cụ nhằm giúp cho hoạt động ĐTCK trở nên hiệu quả hơn là việc làm

cần thiết, qua đó ĐTCK sẽ ngày càng trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn, TTCK Việt Nam

sẽ ngày càng phát triển.

Do đó, đề tài: “Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam” được

chọn để nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm đối với phương

pháp phân tích cơ bản trong ĐTCK ở Việt Nam.

2. Mục đích nghiên cứu

- Trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương pháp

PTCB trong ĐTCK.

- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt

Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam

- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam giai

đoạn 2000 - 2008

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học logic để nghiên cứu.

- Phương pháp diễn giải, phân tích.

5. Những đóng góp của luận văn

- Về lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về ĐTCK và phương pháp PTCB

trong ĐTCK

- Về thực tiễn: phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động PTCB trong ĐTCK ở

Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB

trong ĐTCK ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và bảng các chữ viết tắt, luận văn

được kết cấu gồm ba chương:

- Chương 1: Lý luận chung về PTCB trong ĐTCK

- Chương 2: Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam.

- Chương 3: Hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam

CCHHƯƯƠƠNNGG 11:: LLÝÝ LLUUẬẬNN CCHHUUNNGG VVỀỀ PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG ĐĐẦẦUU TTƯƯ

CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN

1.1. Tổng quan về chứng khoán và TTCK

1.1.1. Chứng khoán

Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại

thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị

trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, nhưng tựu chung lại, người ta thường

phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các công cụ chuyển

đổi và các công cụ phái sinh.

1.1.1.1. Cổ phiếu

Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán

ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản

hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn. Theo tính chất

của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu

phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.

1.1.1.2. Trái phiếu

Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người

vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định,

thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi

nó đáo hạn.

1.1.1.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư

Quỹ ĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào các chứng

khoán. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của NĐT đối với

một phần vốn góp của quỹ đại chúng.

1.1.1.4. Chứng khoán có thể chuyển đồi

Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó,

tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán

khác

1.1.1.5. Các chứng khoán phái sinh

- Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành cho

các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một

đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong

công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một

thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.

- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua

một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức

giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các

công ty, hoặc khi công ty nhằm mục tiêu khuyến khích các NĐT tiềm năng mua các trái

phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều

kiện đó, NĐT có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.

- Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp

thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với một khối lượng xác định, tại một thời điểm xác

định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.

- Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc

bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định

trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ

hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất

lợi.

- Quyền lựa chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là

quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng

hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có

thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay

hợp đồng tương lai.

1.1.2. Những vấn đề chung của TTCK

1.1.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển TTCK

Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố

trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các

thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá.

Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp

đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ

XV, khu chợ riêng đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác

định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất

bắt buộc đối với các thành viên tham gia.

Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành

phố Bruges (Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da

tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng hoá; Thị trường ngoại tệ và

TTCK động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi

buôn bán chứng khoán”. Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa

biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố, bị cát biển lấp mất.

Đến năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị

trường này phát triển nhanh chóng. Đến thế kỷ XVIII, một thị trường như vậy cũng được

thành lập ở London (Anh) và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, Ý, một số nước

Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã

chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị

trường hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và

phát triển thành thị trường hối đoái. TTCK động sản trở thành TTCK. Như vậy, TTCK được

hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.

Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi

nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị

sụp đổ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và ngày 19/10/1987. Nhưng cuối cùng, TTCK lại

được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được

trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.

Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ

khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc tăng cường vai trò

của TTCK đối với đời sống kinh tế, TTCK đã được tạo mọi điều kiện phát triển. Các chính

sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của TTCK.

1.1.2.2. Khái niệm và bản chất của TTCK

Theo quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện

nay, thì TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng

khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có

quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền

yêu cầu này có sự khác giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các

quan hệ mua bán, trao đổi trên TTCK làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như

vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư

bản kinh doanh.

Hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại

hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, bản chất của TTCK là thị trường

thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán

chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển

bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Qua đó có thể thấy, TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, huy động

vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, đánh giá hoạt động của

DN, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.

Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có: chủ thể phát hành (bao gồm Chính phủ, các

DN, và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian…); NĐT (là

những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi

nhuận, bao gồm NĐT cá nhân và NĐT có tổ chức) các tổ chức có liên quan đến TTCK (như

cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK, SGD chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh

doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ,

các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm).

TTCK hoạt động dựa trên một số các nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc công khai

(nguyên tắc này phải thoả mãn yêu cầu về thông tin chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận), nguyên

tắc trung gian (trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian là

các CTCK), nguyên tắc đấu giá (mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động

trên nguyên tắc đấu giá, và do mối cung cầu trên thị trường quyết định).

1.1.2.3. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính

TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của TTCK trong tổng thể thị

trường tài chính thể hiện:

Một là: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn

Thị trường tiền tệ

TTCK

…Thị trường vốn…….. ………………………………………… …………………………… ………………………………………… ……………………………

Thời gian đáo hạn 1 năm t

Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị

trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.

Hai là, TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra quá trình

phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu)

Thị trường vốn cổ phần

TTCK

Thị trường nợ ………... ……………………… ……………………… ……………………… ……………………… ……………………… ………………………

1.1.2.4. Cấu trúc của TTCK

Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại theo nhiều

tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ba cách thức cơ bản để phân loại TTCK đó

là: phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại

theo quá trình luân chuyển vốn.

- Phân loại theo hàng hoá: theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường,

người ta có thể phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các

công cụ chứng khoán phái sinh.

Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm

cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát

hành, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu công ty.

Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi

bán lại các chứng khoán phái sinh đã phát hành như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp

đồng quyền chọn…

- Theo quá trình luân chuyển vốn: TTCK được phân thành thị trường sơ cấp và thị

trường thứ cấp.

Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị

trường này, vốn từ NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc NĐT mua các

chứng khoán mới phát hành.

Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ

cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.

- Theo hình thức tổ chức của thị trường, TTCK được phân thành: thị trường tập trung

(SGD chứng khoán) và thị trường phi tập trung (thị trường OTC).

Tại SGD chứng khoán, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp

nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. SGD

chứng khoán được quản lý chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự

điều chỉnh của Luật chứng khoán và TTCK.

Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) là thị

trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một danh mục

chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các NĐT khi

những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch

chính thức mà có thể diễn ra ở tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua

điện thoại hay mạng máy tính diện rộng.

Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường

tự do dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung

và thị trường OTC. Ngoải ra, người ta còn phân loại TTCK thành thị trường đàm phán và

thị trường mở, thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn.

1.2. Đầu tư chứng khoán

1.2.1. Khái quát chung về đầu tư

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động

nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để

đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết

quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến

hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động

và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền

vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ

văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm

việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Căn cứ vào bản chất và phạm

vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư thành đầu tư thương mại, đầu tư tài

sản vật chất và sức lao động, và đầu tư tài chính.

Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá

và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.

Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành

các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh

doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời

sống của mọi người dân trong xã hội, đó chính là việc xâ;y dựng, sửa chữa nhà cửa và các

kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo

nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài

sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho

nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.

Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền

ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua

trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty

phát hành (mua cổ phiếu). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế

(nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài

chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Với sự hoạt

động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có

thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cố phiếu, trái phiếu cho

người khác), điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.

1.2.2. Khái niệm và mục đích của ĐTCK

Chứng khoán là các tài sản tài chính, vì vậy ĐTCK là một loại hình đầu tư tài chính.

Trong hoạt động này, các NĐT mua các chứng khoán theo một danh mục đầu tư rất đa

dạng, bao gồm cả các công cụ trên thị trường tiền tệ và các công cụ trên thị trường vốn.

Mục đích của ĐTCK trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đầu tư đã bỏ ra.

Tiếp đến mục đích của ĐTCK là để phân tán rủi ro có thể gặp trong tương lai nhờ đa dạng

hoá các hình thức đầu tư, và để thực hiện quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị DN với tư

cách người nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định

của từng NĐT, song cũng có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ

thể.

1.2.3. Phân loại ĐTCK

Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động ĐTCK có thể được phân loại theo nhiều cách

khác nhau.

Căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư trái phiếu Chính

phủ, đầu tư trái phiếu DN và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này có thể giúp các nhà quản

lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp, trên cơ sở đó, dễ dàng thay đổi kết

cấu danh mục đầu tư.

Nếu phân loại theo mục đích đầu tư, có thể phân loại ĐTCK thành đầu tư nhằm

hưởng lợi tức và đầu tư nhằm nắm quyền quản lý, kiểm soát tổ chức phát hành. Trong hoạt

động đầu tư nhằm hưởng lợi tức, NĐT có thể mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu và cổ

phiếu do DN phát hành. Khi ĐTCK với mục đích nắm quyền sở hữu, NĐT có thể vừa đa

dạng hoá tài sản, vừa phát triển lĩnh vực kinh doanh mới thông qua thâu tóm và sáp nhập.

Việc phân loại này giúp nhà quản lý có thể kiểm soát được hoạt động đầu tư theo các mục

đích đã được xác định.

Căn cứ theo phương thức đầu tư, ĐTCK được phân thành đầu tư trực tiếp và đầu tư

gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức NĐT trực tiếp mua chứng khoán cho mình thông qua

các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Đầu tư gián tiếp là hình thức các NĐT chứng

khoán thông qua các định chế, tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ ĐTCK, Quỹ tín thác

đầu tư…để thực hiện hoạt động đầu tư cho mình.

1.2.4. Mức sinh lời và rủi ro trong ĐTCK

Giống như các hình thức đầu tư khác, ĐTCK cũng gắn liền với rủi ro. Lý luận và

thực tiễn ĐTCK cũng chỉ ra rằng khả năng sinh lời trong ĐTCK luôn gắn liền với những rủi

ro mà NĐT chứng khoán có thể gặp phải, thông thường kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì khả

năng gặp phải rủi ro càng lớn, và ngược lại.

1.2.4.1. Mức sinh lời trong ĐTCK

Mức sinh lời trong ĐTCK phản ánh khả năng đem lại lợi nhuận cho NĐT chứng

khoán trong một khoảng thời gian nhất định từ số vốn gốc đã bỏ ra ban đầu. Mức sinh lời

trong ĐTCK có thể đo bằng số tuyệt đối hoặc tương đối.

Mức sinh lời tuyệt đối là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập từ ĐTCK (bao gồm số

lợi tức chứng khoán cộng mức lãi hoặc lỗ về vốn) với số tiền đầu tư ban đầu (vốn gốc).

Theo số tương đối, mức sinh lời chứng khoán là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu

được từ ĐTCK so với vốn gốc.

1.2.4.2. Rủi ro trong ĐTCK

Rủi ro trong ĐTCK được hiểu là khả năng xảy ra những kết quả không mong đợi

trong tương lai. Điều đó có thể là sự sụt giảm, thua lỗ hoặc những biến động thất thường về

mức sinh lợi trong hoạt động ĐTCK. Rủi ro trong ĐTCK có nhiều loại, có thể phân thành

hai loại chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.

- Rủi ro hệ thống: là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các loại chứng

khoán đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống thường là các

tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như: tình trạng lạm phát

hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị

trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của nền kinh tế…Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu

bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro sức mua, rủi ro tỷ giá.

Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Trong thực tế,

giá cả của chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường, lãi suất thị

trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán sụt giảm và ngược lại. Vì thế sự biến

động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập nhận được từ ĐTCK ở các

thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, do đó ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của

ĐTCK.

Rủi ro thị trường: là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị trường.

Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu của các loại chứng khoán

trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng khoán thường rất phức tạp,

có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô hình, cả những yếu tố bên trong hoặc ngoài DN.

Sự đánh giá khác nhau của các NĐT về mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được

giao dịch trên thị trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng Đôminô) đối

với giá cả của các loại chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói

chung bị sụt giảm.

Rủi ro sức mua (rủi ro lạm phát): là loại rủi ro do giảm sút sức mua của đồng tiền.

NĐT nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được lợi nhuận trong tương lai nhưng

họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá, dịch vụ trong thời hạn nắm giữ chứng

khoán. Nếu trong khoảng thời gian đó giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát,

họ sẽ mất đi một phần sức mua từ số thu nhập có được trong tương lai. Giá trị phần sức mua

bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro sức mua của NĐT chứng khoán.

Rủi ro tỷ giá: là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi NĐT cho

rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì NĐT đó sẽ quyết định không đầu tư

vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá

trị chứng khoán sẽ bị sụt giảm.

- Rủi ro không hệ thống: là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một công ty

hoặc một ngành kinh doanh cụ thể mà không gắn liền với toàn bộ thị trường. Ảnh hưởng

của các rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong phạm vi một công ty, một ngành hay

một số loại chứng khoán nhất định. Rủi ro không hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi

ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro quản lý…trong hoạt động của một công ty hoặc một

ngành kinh doanh nhất định.

Rủi ro kinh doanh: là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu hàng hoá hay

dịch vụ của DN hay là sự thay đổi bất lợi môi trường kinh doanh của DN.

Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán trái tức, cổ tức và hoàn vốn cho

người sở hữu chứng khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân đối giữa doanh thu,

chi phí và các khoản nợ của DN.

Rủi ro quản lý: là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không hợp lý từ các

nhà quản trị DN.

1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK

Để đi đến quyết định ĐTCK NĐT thường phải xem xét, cân nhắc nhiều nhân tố. Các

nhân tố cơ bản thường bao gồm:

- Khả năng sinh lời từ khoản ĐTCK trong tương lai. Mục đích trước hết của ĐTCK

là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi của khoản ĐTCK là

nhân tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lợi của chứng khoán lại chịu

ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, chính sách kinh tế

của nhà nước, khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường…Vì thế để tối đa hoá lợi nhuận,

NĐT cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời

nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.

- Mức độ rủi ro có thể gặp phải của loại chứng khoán đầu tư. Để có thể thu được lợi

nhuận tối đa trong ĐTCK NĐT phải biết cách tối thiểu hoá các rủi ro có thế gặp phải. Việc

đánh giá mức độ rủi ro trong ĐTCK không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà

còn đối với toàn bộ danh mục ĐTCK nhằm hạn chế và phân tán rủi ro.

- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: Tính thanh khoản (hay tính lỏng)

của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông

thường, khi có số tiền mặt nhàn rỗi NĐT thường ĐTCK để thu lợi nhuận, song khi cần tiền

mặt để đáp ứng các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng

chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu các chứng khoán mà họ đang sở hữu có khả

năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không khác gì việc giữ tiền

mặt thì sẽ khuyến khích họ ĐTCK và ngược lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán

cũng là một yếu tố quan trọng để các NĐT xem xét, lựa chọn.

- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN. Đôi khi mức độ và khả

năng kiểm soát, chi phối hoạt động của DN cũng là một nhân tố được xét đến khi lựa chọn

quyết định ĐTCK. Quyền hạn và lợi ích của NĐT chứng khoán thường được tăng thêm theo

mức độ nắm giữ cổ phần của DN. Vì vậy, khi ĐTCK họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư

sao cho có thể đạt được mục đích kiểm soát, chi phối hoạt động của DN, hỗ trợ cho việc

thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.

1.2.6. Quy trình ĐTCK

Quy trình ĐTCK sẽ có những sự khác biệt nhất định nếu NĐT chứng khoán lựa chọn

các phương thức ĐTCK khác nhau, về cơ bản bao gồm các bước sau:

- Phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK: Việc ĐTCK thường bắt đầu bằng việc

phân tích và lựa chọn danh mục ĐTCK tối ưu sao cho vừa có thể đem lại tỷ suất sinh lời

cao, đồng thời hạn chế tối đa các rủi ro đầu tư có thể gặp phải. Nội dung phân tích sẽ xem

xét, đánh giá mức độ sinh lời và khả năng rủi ro có thể gặp phải trong ĐTCK sẽ lựa chọn.

Do các chứng khoán có mức sinh lời cao thường gắn với độ rủi ro cao, vì thế đa dạng hoá

danh mục ĐTCK là cách mà các NĐT hay lựa chọn để phân tán rủi ro và tối đa hoá thu

nhập ĐTCK. Hình thức đa dạng hoá ĐTCK có thể là đầu tư vào chứng khoán của nhiều DN

trong các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau, kết hợp giữa đầu tư cổ phiếu và đầu

tư trái phiếu với những kỳ hạn thanh toán đa dạng để tăng khả năng thanh khoản của chứng

khoán. Việc lựa chọn một danh mục ĐTCK cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào chiến lược ĐTCK của

từng NĐT riêng biệt.

- Quản lý danh mục ĐTCK: Hoạt động ĐTCK không chỉ dừng lại ở chỗ lựa chọn

được danh mục ĐTCK mà còn ở chỗ quản lý, điều chỉnh danh mục đầu tư trong suốt thời

gian nắm giữ chứng khoán phù hợp với những diễn biến cụ thể của thị trường. Người ta

thường phân biệt thành hai phương pháp quản lý chủ yếu là quản lý thu động và quản lý chủ

động.

Đặc trưng cơ bản của phương pháp quản lý thụ động là việc NĐT chọn mua và nắm

giữ các chứng khoán cho đến khi đáo hạn mà không quá chú trọng đến việc phân tích, dự

báo những ảnh hưởng của sự biến động của lãi suất thị trường. Theo đó, danh mục ĐTCK

tốt nhất sẽ là danh mục đầu tư có thể đem lại mức thu nhập ngang bằng với mức doanh lợi

đầu tư trung bình trên thị trường. Phương pháp quản lý thụ động vì vậy chỉ có tác dụng

phòng tránh các rủi ro không hệ thống mà không có khả năng phòng tránh những rủi ro hệ

thống trên thị trường.

Phương pháp quản lý danh mục đầu tư chủ động đòi hỏi việc mua và nắm giữ các

chứng khoán phải trên cơ sở phân tích, dự báo các ảnh hưởng của sự biến động thị trường

để đạt mức sinh lợi cao hơn mức doanh lợi trung bình của thị trường với một mức độ rủi ro

có thể chấp nhận được. Các yếu tố có thể gây nên những biến động thị trường cần được

phân tích và dự báo trong quản lý danh mục đầu tư chủ động là sự biến động của lãi suất thị

trường, sự thay đổi của cơ cấu kỳ hạn lãi suất hoặc sự thay đổi mức chênh lệch lãi suất giữa

các loại chứng khoán khác nhau…Dựa trên kết quả phân tích dự báo đó, các NĐT sẽ hướng

vào việc lựa chọn danh mục ĐTCK có thể đem lại mức thu nhập cao hơn mức doanh lợi

trung bình trên thị trường.

1.3. PTCB trong ĐTCK

Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định

đầu tư. Phân tích chứng khoán là bước khởi đầu cho hoạt động ĐTCK. Mục tiêu của phân

tích chứng khoán là giúp cho NĐT chứng khoán lựa chọn được các quyết định ĐTCK có

hiệu quả nhất, mang lại lợi nhuận tối đa với rủi ro tối thiểu. Kết quả phân tích chứng khoán

phải làm rõ được các căn cứ cho sự lựa chọn quyết định đầu tư. Nó phải trả lời được các câu

hỏi cơ bản: khi nào thì nên đầu tư, nên đầu tư vào loại chứng khoán nào và với giá cả ra sao,

khi nào thì nên rút khỏi thị trường…Để đạt được kết quả đó, việc phân tích chứng khoán

cần được tiến hành theo một quy trình cụ thể và khoa học.

Phân tích chứng khoán có thể tiến hành theo quy trình từ trên xuống hoặc từ dưới lên.

Theo phương pháp phân tích từ trên xuống, người ta thường bắt đầu từ những phân tích khái

quát về tình hình kinh tế vĩ mô cả trong nước và quốc tế, xem xét những ảnh hưởng, tác

động của nó đến hoạt động của các DN và TTCK, sau đó mới đi đến phân tích tình hình của

ngành kinh doanh và cuối cùng là hoạt động của từng DN, công ty riêng biệt. Phương pháp

phân tích chứng khoán từ dưới lên bắt đầu từ phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của

một công ty cụ thể và đặt nó trong mối liên hệ tương quan giữa hoạt động của công ty với

môi trường kinh doanh bên ngoài là tình hình hoạt động của ngành hoặc nền kinh tế.

Trong hoạt động ĐTCK có hai phương pháp phân tích chủ yếu được sử dụng là

phương pháp PTCB (phân tích tài chính) và phân tích kỹ thuật. PTCB giúp cho NĐT có thể

lựa chọn kết cấu danh mục đầu tư phù hợp. Phân tích kỹ thuật giúp cho các nhà quản lý có

thể lựa chọn được thời điểm và chiến lược mua bán chứng khoán tuỳ theo diễn biến của thị

trường.

1.3.1.Khái niệm và mục tiêu của PTCB

PTCB là phương pháp nghiên cứu các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, tình hình

kinh doanh của ngành, các thông tin tài chính công ty như cổ tức, lợi nhuận, báo cáo thu

nhập, bảng cân đối kế toán...nhằm xác định một giá trị hợp lý của một loại chứng khoán

hoặc các chứng khoán trên thị trường.

Khi người đầu tư mua một loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp hay thị trường thứ

cấp với ý định nắm giữ lâu dài đều muốn biết rằng giá chứng khoán mà người ta chào bán

cho mình có hợp lý hay không, tức là có phù hợp với giá trị của công ty phát hành ra chứng

khoán đó hay không. Muốn vậy, phải tiến hành PTCB để tìm ra giá trị nội tại của chứng

khoán.

1.3.2. Nội dung phương pháp PTCB

1.3.2.1. Phân tích kinh tế vĩ mô

Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của TTCK và hiệu

quả hoạt động của DN, vì thế trước phân tích các yếu tố thuộc bản thân DN, cần đánh giá

đúng các ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài đến hiệu quả hoạt động của TTCK và giá cả

chứng khoán của DN như thế nào. Việc phân tích kinh tế vĩ mô nhằm mục đích đánh giá

đúng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tác động của nó đến sự phát triển

của TTCK, từ đó có các giải pháp phù hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường.

- Phân tích tình hình kinh tế - chính trị - xã hội quốc tế:

Ngày nay hợp tác, mở cửa, và hội nhập kinh tế đã trở thành một xu thế tất yếu trong

phát triển kinh tế của mỗi nước, do đó nền kinh tế quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình

hình sản xuất kinh doanh của DN và của quốc gia, có những tác động trực tiếp đến hoạt

động của TTCK, vì vậy yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình phân tích ĐTCK.

Các vấn đế có tính quốc tế cần lưu ý trong quá trình phân tích chứng khoán là mức

tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ, chính sách tự do hoá

tài chính, chính sách tiền tệ...

- Phân tích môi trường chính trị - xã hội của đất nước:

Môi trường chính trị, xã hội của mỗi quốc gia thể hiện ở hệ thống các yếu tố về thể

chế quản lý xã hội (như hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy của cơ quan hành

chính), cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy quản lý hành chính nhà nước các cấp, các

tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo, sắc tộc, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy

hành chính nhà nước.

Thực tế đã chứng minh sự ổn định của môi trường chính trị - xã hội của đất nước là

yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, DN và TTCK. Sự

mất ổn định chính trị - xã hội của đất nước, bất kể vì lý do gì cũng gây tổn hại, thậm chí làm

gián đoạn hoạt động của TTCK và hiệu quả của các DN. Bởi lẽ, sự thay đổi về thể chế chính

trị thường kéo theo những thay đổi về chính sách kinh tế - xã hội, chính sách chi tiêu ngân

sách, chính sách ngoại giao và an ninh quốc phòng... của Chính phủ. Thực tế cho thấy yếu

tố chính trị ngày càng có mối liên hệ và ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế của đất nước.

- Phân tích ảnh hưởng của môi trường pháp luật:

Ngày nay hầu hết các nước đều quản lý đất nước theo chế độ pháp quyền, vì thế môi

trường pháp luật cũng có tác động quan trọng đến hoạt động của DN và TTCK. Các cơ quan

của Chính phủ tác động đền TTCK bằng Luật và các văn bản dưới Luật. Chẳng hạn Luật

DN thống nhất, Luật chống độc quyền sẽ tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các DN

thuộc mọi thành phần kinh tế, và làm giảm giá chứng khoán của các DN thuộc đối tượng

điều chỉnh của Luật chống độc quyền. Luật thâu tóm, sáp nhập công ty có thể tác động tiêu

cực hay tích cực đến một nhóm các công ty. Các chính sách tài chính - tiền tệ trực tiếp gây

tác động lớn tới thị trường...

Tóm lại môi trường pháp lý có tác động mạnh mẽ, là điều kiện để nâng cao hiệu quả

hoạt động của DN và sự phát triển của TTCK. Việc phân tích môi trường pháp lý cần được

xem xét trên các mặt như: tính hệ thống, đồng bộ, ổn định, minh bạch, khả thi và hiệu quả

của hệ thống pháp luật cũng như tính quốc tế của hệ thống pháp luật.

- Phân tích và dự đoán về xu hướng thị trường:

Môi trường kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng, quyết định xu thế chung của TTCK.

Thông thường, khi nền kinh tế đang ở giai đoạn tăng trưởng và thịnh vượng thì TTCK phát

triển và ngược lại khi nền kinh tế ở giai đoạn suy giảm, suy thoái và khủng hoảng thì thị

trường sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế thì ta

có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh

đặc biệt, diễn biến chung của TTCK với tình hình kinh tế không phải lúc nào cũng diễn ra

cùng chiều.

Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các

NĐT luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế

và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi TTCK.

- Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô:

Các điều kiện kinh tế vĩ mô của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của

DN và TTCK do có liên quan trực tiếp đến mức rủi ro hệ thống trên thị trường. Các yếu tố

vĩ mô cần quan tâm trong phân tích chứng khoán là: tổng sản phẩm quốc nội; tỷ lệ thất

nghiệp; tỷ lệ lạm phát; lãi suất; cân đối thu chi ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, ba nhân tố

vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoàn đó là: tỷ

giá hối đoái, lãi suất và tỷ lệ lạm phát.

1.3.2.2. Phân tích ngành

Mục đích của phân tích ngành là nhằm giúp cho NĐT thấy rõ những lợi ích hoặc rủi

ro có thể gặp khi quyết định đầu tư vào chứng khoán của một DN hoạt động trong một

ngành kinh doanh cụ thể. Những nội dung cần thực hiện trong phân tích ngành bao gồm:

phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành, đánh giá mức độ rủi ro của ngành.

- Phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành:

Mỗi ngành kinh doanh cũng có những chu kỳ phát triển nhất định. Giữa chu kỳ phát

triển của nền kinh tế và của ngành có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau

nhưng không phải bao giờ cũng có sự biến động cùng chiều, đồng điệu với nhau. Mỗi ngành

có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi trong chu kỳ phát triển của nền kinh tế.

Có thể trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển song có ngành phát đạt có

ngành lại gặp nhiều khó khăn. Các ngành kinh doanh các sản phẩm không phải là sản phẩm

thiết yếu (ô tô, đồ xa xỉ...), sẽ có lợi hơn trong giai đoạn nền kinh tế có sự tăng trưởng,

nhưng cũng gặp khó khăn trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái. Ngược lại, các ngành kinh

doanh các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng thiết yếu (lương thực, thực phẩm...) sẽ không bị

ảnh hưởng nhiều ngay cả khi nền kinh tế suy thoái.

Nhìn chung, triển vọng và chu kỳ kinh doanh của ngành có ảnh hưởng rất lớn đến

hiệu quả kinh doanh của các DN trong ngành. Nếu một công ty hoạt động kinh doanh trong

một ngành còn kém phát triển thì cũng khó có triển vọng đầu tư đem lại hiệu quả cao. Vào

cùng một thời điểm nhất định, các DN kinh doanh trong các ngành khác nhau sẽ có mức

doanh lợi thu được khác nhau, mức rủi ro khác nhau. Do đó, cần có sự phân tích đánh giá

ngành kinh doanh để chọn ngành có mức doanh lợi cao, mức độ rủi ro thấp để đầu tư. Mặc

khác, cũng cần có sự theo dõi, phân tích ngành để lựa chọn thời điểm quyết định đầu tư hay

rút khỏi đầu tư cho phù hợp.

- Đánh giá mức độ rủi ro của ngành kinh doanh:

Mỗi ngành kinh doanh khác nhau cũng có mức độ rủi ro khác nhau. Việc xác định

mức độ rủi ro của ngành giúp cho NĐT lựa chọn được ngành đầu tư có hiệu quả với độ rủi

ro tối thiểu hoặc có thể chấp nhận được. Qui trình phân tích, đánh giá rủi ro của ngành được

tiến hành theo trình tự sau:

+ Xác định hệ số rủi ro () của ngành, từ đó tính toán được mức lợi suất đòi hỏi dựa

theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác định như sau:

E(R) = Rf +  (Rm + Rf)

Trong đó: E(R): Mức lợi suất đòi hỏi

Rf : Mức lợi suất phi rủi ro

Rm: Mức lợi suất bình quân của thị trường

: Hệ số rủi ro ngành

+ Phân tích hệ số P/E của ngành: xem xét mối quan hệ của P/E ngành với P/E tổng

thể của thị trường; xem xét các nhân tố cơ bản của ngành gây tác động trực tiếp tới P/E

ngành như hệ số trả cổ tức, mức sinh lợi (lợi suất) yêu cầu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức.

+ Ước tính thu nhập trên một cổ phiếu (EPS): được xác định theo một số phương

pháp chủ yếu như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào - đầu ra, phân tích mối

quan hệ giữa ngành và nền kinh tế.

+ Ước tính mức lợi suất đạt được (r): Giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng hệ số

P/E cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập trên một cổ phiếu. Sau đó só sánh giá trị

cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để ước tính lợi suất đạt được (r) theo công thức:

(Giá trị chỉ số cuối kỳ - Giá trị đầu kỳ + Cổ tức nhận trong kỳ) r = Giá trị đầu kỳ

+ Lựa chọn quyết định đầu tư hay không: So sánh mức lợi suất đạt được r với mức

doanh lợi đòi hỏi E(R), nếu r > E(R) thì nên đầu tư vào ngành này, ngược lại thì nên rút khỏi

đầu tư vào ngành này.

1.3.2.3. Phân tích công ty

- Phân tích báo cáo tài chính công ty: Hệ thống báo cáo tài chính của công ty là

những thông tin cực kỳ quan trọng, phản ánh tổng hợp về tình hình tài chính của công ty

trong một thời gian cụ thể. Những thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính trước hết

phục vụ cho những người có quyền lợi trực tiếp (cổ đông, đối tác đầu tư, khách hàng, người

cho vay...), sau nữa là những người lãnh đạo điều hành DN (Hội đồng quản trị, ban giám

đốc...) và cuối cùng là những người có quyền lợi gián tiếp (thuế vụ, tài chính, thống kê...).

Phân tích báo cáo tài chính nhằm đạt được các mục tiêu đó là: đánh giá khả năng sinh lợi

của tổ chức phát hành; khả năng thanh khoản, tức là khả năng chi trả các khoản nợ, đặc biệt

là nợ ngắn hạn; tiềm năng phát triển trong tương lai.

Việc phân tích báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả chiều dọc và chiều

ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là tính toán các tỷ lệ của DN và so

sánh trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng, giảm. Phân tích theo chiều

ngang là phân tích cần có sự so sánh giữa DN phân tích với các DN ngang hàng nhau trong

cùng một ngành. Phương tiện cơ bản của các báo cáo tài chính công ty là báo cáo thường

niên bao gồm ba loại báo cáo chính đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động

kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các hệ số tài chính được sử dụng khi phân tích,

đánh giá tình hình tài chính của công ty bao gồm: Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh

toán, nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả

năng hoạt động, và nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận.

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán: xét về mặt thời gian thì DN có các

khoản nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các NĐT, các chủ

nợ là liệu số vốn họ bỏ ra đầu tư có thu hồi lại được không, mức độ rủi ro là bao nhiêu. Các

chỉ tiêu thường được dùng gồm các chỉ tiêu sau:

Tổng tài sản Hệ số thanh toán tổng quát = Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn

Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện hành = Tổng nợ ngắn hạn

TSLĐ & đầu tư ngắn hạn - Vật tư hàng hoá tồn kho Hệ số thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản:

Tổng số nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản

Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số tự tài trợ = Tổng nguồn vốn

Hệ số tự tài trợ = 1 - Hệ số nợ

Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Cơ cấu tài sản = Tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động: hiệu quả sử dụng vốn luôn gắn liền

với sự tồn tại và phát triển của DN. Do đó, thông qua phân tích các chỉ tiêu phản ánh khả

năng hoạt động cho biết trình độ sử dụng các nguồn lực đạt kết quả cao nhất với chi phí bỏ

ra thấp nhất.

Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho bình quân trong kỳ

Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Số dư bình quân các khoản phải thu

Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân

Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân

Doanh thu thuần Vòng quay toàn bộ vốn = Tổng vốn bình quân

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận: với các NĐT

thì đây là một nhóm chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng vì nó gắn liền với lợi ích kinh tế của

họ, nó là cơ sở để đánh giá kết quả kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định và là căn

cứ để các nhà quản lý đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai.

Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế

Doanh thu thuần

Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi tổng tài sản = Tổng giá trị tài sản

Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu

Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức cổ phiếu ưu đãi Thu nhập trên mỗi cổ phiếu = Số lượng cổ phiếu thường đang lưu hành

Thị giá một cổ phiếu Tỷ lệ giá thị trường trên thu nhập = Thu nhập một cổ phiếu

- Phân tích rủi ro của công ty: Khi tiến hành phân tích rủi ro tức là chúng ta tiến

hành xem xét sự bất ổn của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Mức độ biến động của

các dòng thu nhập càng cao có nghĩa rủi ro phải đối diện càng lớn. Rủi ro công ty thường

bao gồm hai loại là: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.

+ Rủi ro kinh doanh: là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ bản của nó lại xuất

phát từ lĩnh vực ngành mà công ty đó trực thuộc. Sự bất ổn này là kết quả của sự thay đổi

doanh số bán hàng của công ty, mà doanh số bán hàng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

các khách hàng, loại hàng hoá, chất lượng hay cách thức sản xuất hàng hoá…Rủi ro kinh

doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản

xuất kinh doanh của công ty.

Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động Rủi ro kinh doanh = Thu nhập hoạt động bình quân

Bên cạnh việc tính mức độ rủi ro kinh doanh chung, chúng ta cũng cần xem xét hai

yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới sự biến động thu nhập hoạt động của công ty,

đó là sự biến động doanh số bán hàng và đòn bẩy hoạt động.

+ Rủi ro tài chính: là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông khi DN vay nợ. Để

xác định rủi ro tài chính, các nhà phân tích thường sử dụng hai loại hệ số. Loại thứ nhất là

các hệ số trên bảng cân đối kế toán, những hệ số này cho biết tỷ lệ vốn nợ so với vốn cổ

phần, nợ dài hạn so với tổng vốn, và loại thứ hai là nhóm các hệ số về các dòng thu nhập

hoặc dòng tiền sẵn có để thanh toán các chi phí tài chính cố định. Việc tính toán và phân

tích các hệ số này sẽ đem lại một đánh giá khái quát về hai vấn đề cơ bản: khả năng thanh

toán nợ ngắn hạn, cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn.

- Phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng của công ty: Việc phân tích tiềm

năng tăng trưởng của một DN có ý nghĩa quan trọng đối với cả người cho vay lẫn chủ sở

hữu của DN đó. Đối tượng của việc phân tích khả năng tăng trưởng lâu dài là các hệ số, các

hệ số này sẽ cho chúng ta biết một DN sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh như thế nào. Giống

như bất kỳ một chủ thể kinh tế nào trong nền kinh tế nói chung, sự tăng trưởng của một DN

phụ thuộc vào: giá trị những nguồn lực được giữ lại và tái đầu tư vào DN, và tỷ lệ lợi nhuận

thu được từ các nguồn lực được giữ lại. DN tái đầu tư càng nhiều thì tiềm năng tăng trưởng

càng lớn, mặt khác, với một mức tái đầu tư nhất định, DN sẽ tăng trưởng nhanh hơn nếu

mức sinh lời từ tái đầu tư cao hơn. Căn cứ vào những cơ hội đầu tư mà DN có được, hội

đồng quản trị sẽ quyết định tỷ lệ thu nhập giữ lại là bao nhiêu. Về mặt lý thuyết, chứng nào

mà mức sinh lời ước tính đạt được còn vượt quá chi phí vốn của DN thì DN vẫn nên giữ lại

và tái đầu tư một phần thu nhập.

1.3.3. Một số phương pháp ĐTCK thông dụng theo PTCB

1.3.3.1. Phương pháp đầu tư theo Warren Buffett

Warren Buffett - Người được coi là NĐT tài chính thành công nhất thế giới từ trước

cho tới nay. Ông nổi tiếng bởi sự thành công dựa trên thuyết “đầu tư giá trị”. Ông đã đặt ra

các nguyên tắc và nghiêm chỉnh thực hiện theo các nguyên tắc, đó là: đầu tư vào công ty

chứ không đầu tư vào cổ phiếu (tờ giấy); đầu tư theo giá trị thực; và chọn thời điểm mua và

bán

- Đầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếu: Warren Buffett quan niệm rằng

cổ phiếu chỉ là tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty đó. Ông

không đầu tư vào cổ phiếu, mà đầu tư vào công ty, thực chất đây là quan điểm phản ánh ông

hoàn toàn không quan tâm đến việc mua đi bán lại cổ phiếu trong thời gian ngắn (thực hiện

chiến lược đầu tư dài hạn), thay vào đó, ông áp dụng chiến lược “buy and hold” - mua và

giữ - nghĩa là ông sẽ giữ cổ phiếu trong thời gian dài, rất dài và đôi khi giữ luôn nếu đó là

những công ty ông xác định vẫn còn ưu thế để tăng trưởng hoặc độc quyền .

- Đầu tư theo giá trị đích thực: Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết

định chọn công ty để đầu tư: Công ty có phát triển tốt không, có lợi thế cạnh tranh không?

(Warren Buffett chỉ muốn mua cổ phiếu của công ty có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc là công

ty dẫn đầu thị trường của ngành kinh doanh chính của nó; hoặc là có thương hiệu được

khách hàng đánh giá cao. Ông không muốn đầu tư vào những công ty không có lợi thế cạnh

tranh và chỉ có thể cạnh tranh bằng cách giảm giá bán. Ông còn xét xem công ty mà ông sắp

đầu tư có nguy cơ bị công ty lớn mạnh khác nhảy vào cạnh tranh hay không. Ông là người

sáng chế ra từ “economic moat” ngụ ý công ty đó có lợi thế cạnh tranh và tạo ra “hàng rào”

ngăn cản sự cạnh tranh của các công ty khác); Công ty đó có mô hình kinh doanh đơn giản

không? (Warren Buffett chỉ đầu tư vào các công ty có mô hình đơn giản, dễ hiểu, không quá

phức tạp. Ông chỉ đầu tư vào những ngành mà ông biết rất rõ. Thậm chí ông còn có ý tưởng

: “Hàng ngày ông hay dùng đồ dùng (vật phẩm) gì, thì ông sẽ mua cổ phiếu của công ty sản

xuất ra đồ dùng (vật phẩm) đó); Lợi nhuận công ty tốt, tăng trưởng ổn định không? (Tốc độ

tăng trưởng hàng năm của công ty); Tỷ số nợ trên vốn có thấp không? Tỷ số lợi nhuận trên

nợ có cao không? Giả sử lợi nhuận không đạt được mức kỳ vọng, công ty có khả năng trả

được những món nợ đến hạn không? Tỷ lệ hàng tồn kho có cao không? (Warren Buffett

thường rất “dị ứng” với các công ty có hệ số hàng tồn kho cao. Ông luôn sợ các rủi ro mang

lại từ hàng tồn kho); Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư có tốt không? (Đây là một trong những

chỉ số mà Buffett đặc biệt quan tâm. Ông chỉ đầu tư vào những công ty tạo ra mức lợi nhuận

tốt ); Chi phí vận hành của công ty có ở mức chấp nhận được hay không? Dòng tiền mặt để

đầu tư có đủ lớn để tạo ra lợi nhuận và sự tăng trưởng? Công ty có giữ lại lợi nhuận để tái

đầu tư hay không? Warren Buffett rất muốn công ty giữ lại phần lớn lợi nhuận và không

chia cổ tức để tái đầu tư phát triển kinh doanh – Quy luật lãi mẹ đẻ lãi con...); Ban lãnh đạo

có giỏi, có tầm nhìn, có bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức không?

(Buffett chỉ đầu tư vào những công ty mà ông tin rằng ban lãnh đạo có năng lực).

- Thời điểm mua của Warren Buffett: Ông không bao giờ vội vã mua những cổ phiếu

có biên độ an toàn không rõ ràng. Thường thì ông sẽ đợi khi thị trường vào giai đoạn điều

chỉnh hoặc khi thị trường đang thời kỳ giảm giá mạnh. Khi đó ông sẽ mua được cổ phiếu

của công ty với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó. Phương pháp đầu tư đơn giản này đã giúp

ông thành công lớn và trở thành một trong những người có tài sản lớn nhất thế giới. Nó

cũng giúp ông thoát được tổn thất trong những giai đoạn mà hầu hết mọi người đều bị thiệt

hại, ví dụ như giai đoạn cổ phiếu các công ty Internet bùng nổ và sụp đổ. Tuy vậy, ông bị

một số người phê bình là quá thận trọng và vì thế đã bỏ qua những cơ hội lớn.

- Thời điểm bán của Warren Buffett: Ông thường có câu “ Bán khi cảm nhận thấy

chẳng có gì đáng để mua”. Thực ra bản chất câu này phản ánh Warren Buffett sẽ bán các cổ

phiếu của mình khi nó bị định giá quá cao so với “giá trị đích thực” mà ông đã tính.

1.3.3.2. Phương pháp đầu tư theo Benjamin Graham

Benjamin Graham là một NĐT thành công, được xem như “ông thầy của Wall

Street” và cũng là người đi đầu trong chiến lược đầu tư theo giá trị. Warren Buffett coi

Benjamin Graham là người thầy vĩ đại. Ba chỉ tiêu chính của Benjamin Graham: Chỉ tiêu lợi

nhuận; Doanh thu; Chỉ tiêu lợi nhuận/Doanh thu.

- Chỉ tiêu lợi nhuận: Thu nhập ròng hay lợi nhuận sau thuế có thể được xem xét bằng

tổng lợi nhuận hoặc lợi nhuận tính trên một cổ phiếu (EPS). Một công ty có sự gia tăng về

tốc độ tăng trưởng thu nhập khi tốc độ tăng trưởng thu nhập của quý sau cao hơn quý trước.

Một công ty tốt có tốc độ gia tăng về tăng trưởng thu nhập cao hơn so với 3 hay 4 quý trước

liền kề. Tăng trưởng của chỉ số thu nhập ít nhất là 25% so với cùng quý của năm trước.

EPS hàng năm của cổ phiếu tốt ít nhất phải tăng trưởng 25% so với 3 năm trước đó. Theo

cách nghĩ thông thường thì nên chọn mua những cổ phiếu có chỉ số P/E thấp và ông cho

rằng những cổ phiếu có chỉ số P/E cao là đắt và không nên mua.

Tổng hợp một số tiêu chí chọn lựa CP căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuân bao gồm :

Dựa vào thực hiện thu nhập quan trọng hơn thu nhập dự kiến; Lựa chọn những công ty có

tốc độ tăng trưởng thu nhập ít nhất 25% ở quý gần nhất; Lựa chọn công ty có sự gia tăng về

tốc độ tăng trưởng thu nhập ở 3 hay 4 quý gần nhất; Lựa chọn công ty có thu nhập hàng

năm tăng trưởng ít nhất 25% so với mỗi năm của 3 năm trước

- Chỉ tiêu doanh thu: Lượng hàng bán là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường một

công ty có sức mạnh hay không và là nhân tố chính của tăng trưởng. Khi chọn lựa cổ phiếu

tốt hãy tìm công ty có tốc độ bán hàng mạnh để làm tiền đề cho tăng trưởng thu nhập. Một

số biểu hiện có thể xem xét khi một công ty gia tăng lượng hàng bán như nhiều khách hàng

hơn, khách hàng tăng lượng mua, công ty giới thiệu sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào thị

trường mới, công ty cải thiện sản phẩm cũ. Tiêu chí để xác định công ty có tăng trưởng bán

hàng tốt nếu 3 quý gần nhất có sự tăng lượng hàng bán lớn hơn hoặc bằng 25% so với quý

gần nhất trước đó. Cần xem xét kỹ chỉ tiêu doanh thu vì đôi khi lượng hàng bán vẫn ẩn chứa

những vấn đề như công ty có thể quá phụ thuộc vào một số khách hàng, phụ thuộc quá

nhiều vào một số mặt hàng hay quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Cũng cần lưu ý đến

việc công ty thêm vào lượng hàng bán được mà thực tế nó chưa xảy ra, hay các đơn đặt

hàng mà không được chuyển đi hay chưa thu được tiền bán đã được hạch toán làm gia tăng

lượng hàng bán.

- Chỉ tiêu Lợi nhuận/Doanh thu: Lợi nhuận đánh giá tỷ lệ chuyển doanh thu thành

thu nhập. Trên quan điểm của NĐT, nên tìm những công ty có sự tăng về tỷ lệ lợi

nhuận/doanh thu. Con số này càng lớn thì công ty có sự tốt lên về quản lý và có sự tốt lên

trong các hoạt động. Lợi nhuận có thể là đầu mối chủ yếu tìm cổ phiếu để mua và nên so

sánh chỉ số này giữa các công ty có ngành nghề tương đồng. Tiêu chí để xác định cho chỉ

tiêu này là lợi nhuận trước thuế ít nhất đạt 18% doanh thu. Yêu cầu lợi nhuận sau thuế luôn

đạt 10% trở lên. Tuy nhiên, cũng cần phải xét cả những chỉ tiêu cơ bản khác như tăng

truởng thu nhập. Mức tăng về lợi nhuận sẽ ít đi nếu doanh thu giảm, ngoại trừ có sự thay đổi

về chiến lược của công ty (giả sử như khi cắt giảm những dây chuyền sản xuất không hiệu

quả).

1.3.3.3. Phương pháp đầu tư theo William J.O’Neil (CANSLIM)

William J.O’Neil là một hình mẫu NĐT chứng khoán thành công tại Mỹ. Trước đó,

ông làm nghề kế toán và rồi với những công thức đầu tư của riêng mình, ông đã trở thành

một nhà “phù thuỷ chân chính” tại Wall Street khi thu về hàng triệu USD lợi nhuận mỗi

năm từ TTCK.

Bảy tiêu chuẩn ( CANSLIM ):

- C: Current Quaterly Earnings Per Share (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của quý gần

nhất). William nhận định rằng, hầu hết các cổ phiếu tốt đều có sự gia tăng lợi nhuận so với

cùng quý năm trước đó và tỷ lệ tăng càng cao thì chứng tỏ cổ phiếu càng có nhiều triển

vọng. Theo ông, các NĐT trước khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu cần xem xét tới sự gia tăng

mạnh mẽ lợi nhuận của cổ phiếu đó, cụ thể là mức tăng trưởng của lãi ròng trên mỗi cổ

phiếu trong 3 tháng gần nhất. Nhưng phải tìm hiểu sự gia tăng lợi nhuận này ở đâu và như

thế nào? William cho rằng NĐT có thể nghiên cứu các báo cáo tài chính có kiểm toán của

công ty niêm yết, cùng với việc thăm dò các các kênh thông tin khác như báo chí, người

quen... Điều quan trọng là các NĐT cần coi trọng độ tin cậy và tính đồng nhất của thông tin,

chẳng hạn có thể có điều gì đó không đúng, nếu doanh thu của công ty tăng 20%, trong khi

lãi ròng chỉ tăng 5%.

- A: Annual Earnings Increases (sự gia tăng lợi nhuận hàng năm). Theo ONeil, cổ

phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm trước đó. Các

NĐT cần đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và đạt

trên 25%, tuy nhiên nên chú ý tới chu kỳ kinh doanh của từng ngành, từng công ty. Theo

ONeil, tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khoảng 80% các cổ phiếu tồi. Để có được sự

chính xác về mức gia tăng lợi nhuận, NĐT cần nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến

công ty mà họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm lịch sử và đặc điểm của công ty,

tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành cổ phiếu và tổ chức bảo lãnh phát hành cổ

phiếu. NĐT có thể tìm các thông tin này trong Bản thông cáo phát hành, trong Báo cáo tài

chính của công ty hoặc từ các công ty dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định đầu tư chỉ nên

đưa ra khi bạn đã có đủ cơ sở thông tin về cổ phiếu cũng như về mức tăng trưởng lãi ròng

hàng năm.

- N: New Products, New Management, New Highs (sản phẩm mới, sự quản lý mới,

giá cổ phiếu đạt mức giá cao mới). Những nghiên cứu của William chỉ ra rằng giá cổ phiếu

tăng sẽ bắt nguồn từ một số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản phẩm

mới của công ty, ban giám đốc mới, phương thức quản lý mới hay mức giá trần mới của cổ

phiếu trên TTCK. Do vậy, sẽ không bao giờ thừa nếu các NĐT quan tâm đến những nhân tố

nội tại này. Nếu xét thấy những nhân tố này có sự ổn định, không có biểu hiện đột biến theo

chiều hướng xấu, thì đó sẽ là một cổ phiếu có nhiều triển vọng tăng trưởng trên TTCK

- S: Supply and Demand (tình hình cung và cầu). Trong kinh doanh, quy luật cung

cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, và ĐTCK cũng không phải là một

ngoại lệ. Giá cổ phiếu cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William cho rằng cổ phiếu

của các công ty đại chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng

đáng để mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít nên

giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của cổ phiếu cũng

như rất khó sinh lợi nhuận lớn. Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị

trường mới có nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số

lượng lưu hành lớn. Từ đó suy ra, cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ

lớn thường là những cổ phiếu có độ an toàn cao. William đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu

được công ty mua lại và cổ phiếu của các công ty có tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn tự có vừa

phải, bởi theo ông thì tỷ lệ này càng cao bao nhiêu công ty sẽ càng phải đương đầu với áp

lực trả lãi trong tương lai nhiều bấy nhiêu. Các NĐT nên so sánh tỷ số này ở công ty mình

dự định đầu tư với tỷ số nợ bình quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích

thêm khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty.

- L: Leader and Laggard (cổ phiếu dẫn đầu và cổ phiếu tụt hậu). Theo O’Neil, NĐT

trên thị trường chỉ nên mua 2 hay 3 cổ phiếu tốt nhất trong nhóm những cổ phiếu đầu bảng

hiện tại, còn lại nên dành tiền cho những cổ phiếu có khả năng sinh lời trong tương lai. Ðặc

biệt, các NĐT cần tránh mua những cổ phiếu có mức tăng trưởng cao nhưng không bền

vững, chẳng hạn như cổ phiếu lên giá theo trào lưu, theo sự kiện nổi bật… bởi vì các cổ

phiếu này được đánh giá là những cổ phiếu tụt hậu, không sớm thì muộn cũng mất giá.

- I: Institutional Sponsorship (sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư). Định

chế tài chính đầu tư ở đây thường là các cơ quan chức năng, các cơ quan chính phủ chuyên

về tài chính đầu tư. Các cơ quan này có thể nắm giữ một số lượng cổ phiếu nhất định của

các công ty nào đó, nhờ vậy mà công ty sẽ có sự ủng hộ và trợ giúp mạnh mẽ từ những cơ

quan này, một điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, khiến giá cổ phiếu

tăng mạnh. Tuy nhiên, một số lượng quá lớn các định chế tài chính đầu tư nắm giữ cổ phiếu

lại trở thành yếu tố bất lợi, vì điều đó đồng nghĩa với việc nguồn cung sẽ hạn chế bởi các cơ

quan ít khi muốn bán từng phần cổ phiếu của mình, đẩy tính thanh khoản của cổ phiếu

xuống thấp.

- M: Market Direction (định hướng thị trường). Cho dù bạn có hoàn toàn chính xác

khi nhận định về cả 6 tiêu chí kể trên, nhưng đến tiêu chí định hướng thị trường mà bạn mắc

phải sai lầm thì sẽ có đến 5 trong số 7 cổ phiếu bạn mua sẽ mất giá và khiến bạn thua lỗ.

Yếu tố thị trường là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá cổ phiếu. Khi hàng

loạt các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của công ty mà bạn

lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu của các công ty này

tăng theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu bạn mua vào cũng được “ăn theo” những

chỉ số tích cực đó. Do đó, William nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu các

đồ thị biến động giá chứng khoán theo ngày, theo tuần và theo tháng trước mỗi quyết định

đầu tư cổ phiếu (Sự cần thiết phải dùng phân tích kỹ thuật)...

1.3.3.4. Một số phương pháp đầu tư khác

- Phương pháp 1: Chỉ số P/E < Hệ số tăng thu nhập bình quân 3 năm. Ba năm liền có

lãi liên tục. Giá giao dịch hiện tại < Giá cao nhất 52 tuần.

- Phương pháp 2: Chỉ số P/E < ½ Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại, Doanh

thu, Thu nhập tăng dần đều.

- Phương pháp 3: Hệ số tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận tăng gấp đôi hệ số tăng giá

chỉ số bình quân thị trường (VN Index, HASTC Index ). Hệ số nợ thấp hơn so với hệ số nợ

bình quân ngành. Giá bắt đầu vào kỳ bullish.

- Phương pháp 4: Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng EPS (ước tính). Lợi nhuận các quý

tăng dần. Doanh thu tăng dần.

- Phương pháp 5: Chỉ số P/E < Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận năm hiện tại. Chỉ số sức

mạnh tương đối giá (RS) ở mức < 20. Tỷ lệ nợ/Tài sản < 50%.

- Phương pháp 6: Ba năm liền có lãi, Tăng trưởng lợi nhuận bình quân năm >10%.

Ban lãnh đạo công ty chiếm giữ > 15% số cổ phiếu phát hành.

1.3.4. Mối quan hệ giữa PTCB và phân tích kỹ thuật trong ĐTCK

Nếu như PTCB tập trung vào xu hướng kinh tế nói chung, tình hình kinh doanh hiện

tại của một ngành kinh doanh hoặc chất lượng cổ phiếu của một công ty cụ thể. Ngược lại,

phân tích kỹ thuật lại quan tâm đến việc dự báo ngắn hạn về xu hướng thị trường và giá cả

chứng khoán hơn là tập trung nghiên cứu một công ty nào đó. Đối với một nhà phân tích kỹ

thuật, quyết định mua hoặc bán chứng khoán dựa trên hoạt động của thị trường và sự thay

đổi xu hướng thị trường.

Một số học giả cho rằng, PTCB nghiên cứu các nguyên nhân dẫn tới biến động giá cổ

phiếu trên thị trường để trả lời câu hỏi “tại sao xảy ra và xảy ra điều gì trong giá cổ phiếu”,

còn phân tích kỹ thuật nghiên cứu các hiệu ứng của nó để trả lời câu hỏi “khi nào thay đổi

giá cổ phiếu sẽ bắt đầu và khi nào kết thúc”. Nói cách khác, nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần

biết hiệu ứng là gì mà không cần quan tâm tới nguyên nhân tại sao lại dẫn tới tình hình đó;

còn nhà PTCB phải luôn cần phải biết nguyên nhân tại sao. Các nhà phân tích TTCK sử

dụng đồng thời cả hai phương pháp PTCB và kỹ thuật để đưa ra quyết định đầu tư. Họ dùng

phương pháp PTCB để xác định loại giao dịch nào nên thực hiện và dùng phương pháp kỹ

thuật để chọn thời điểm mua bán thích hợp nhất. Đôi khi người ta nói rằng PTCB được dùng

để trả lời câu hỏi “Mua, bán cái gì”, và phân tích kỹ thuật được dùng để trả lời câu hỏi “Khi

nào nên mua, bán”.

Dưới góc độ đầu tư, việc kết hợp cả hai phương pháp PTCB và phân tích kỹ thuật

dường như có thể đem lại những kết quả phối hợp tốt nhất. Điều đó đòi hỏi thời gian, sự am

hiểu và trình độ phân tích đáng kể của NĐT và đó là một công việc không thực sự dễ dàng.

Cả hai phương pháp phân tích này đều đóng vai trò thiết yếu trong ĐTCK, bởi vì nếu

NĐT có khả năng xác định được các loại chứng khoán đang giao dịch không đúng với giá

trị thực thông qua PTCB, đồng thời cũng có thể xác định được thời điểm thích hợp để mua

hoặc bán thông qua phân tích kỹ thuật. Có nghĩa rằng NĐT đã có trong tay công cụ phân

tích kết hợp rất hiệu quả.

Với sự phổ biến của máy tính cá nhân và các phần mềm phân tích kỹ thuật cũng như

khả năng truy cập dữ liệu từ xa hiện nay, NĐT cá nhân có thể dễ dàng có được các thông tin

cần thiết về giá và khối lượng giao dịch để phục vụ mục đích phân tích kỹ thuật cho riêng

mình. Tuy nhiên, số lượng NĐT sử dụng PTCB vẫn lớn hơn nhiều so với những người sử

dụng phân tích kỹ thuật.

CCHHƯƯƠƠNNGG 22:: TTHHỰỰCC TTRRẠẠNNGG HHOOẠẠTT ĐĐỘỘNNGG PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG

ĐĐẦẦUU TTƯƯ CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

2.1. Khái quát về TTCK Việt Nam

2.1.1. TTCK một số nước trên thế giới

2.1.1.1. TTCK Mỹ

TTCK Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trình độ cao về mọi mặt, từ hệ

thống luật chứng khoán đến hệ thống giao dịch chứng khoán và đặc biệt đã xây dựng được

cơ quan quản lý nhà nước mạnh. Chính vì vậy, mô hình TTCK Mỹ đã được nhiều nước học

tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp với thực trạng, điều kiện kinh tế của từng nước. TTCK

Mỹ xuất hiện từ năm 1792 và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời SGD chứng khoán đầu tiên,

tiếp theo đó là hàng loạt các SGD chứng khoán được hình thành trên khắp nước Mỹ.

SGD chứng khoán New York (NYSE) là SGD lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ.

Năm 2000, hệ thống giao dịch của Sở được hoàn thiện hơn bằng sự thay đổi của cách yết

giá (yết giá dạng thập phân thay cho dạng phân số).

SGD chứng khoán Mỹ (AMEX) là TTCK tập trung lớn thứ hai ở Mỹ và hiện có hơn

1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị trường này. Cũng tương tự như SGD

chứng khoán New York, AMEX hoạt động theo hệ thống đấu giá mở và các chuyên gia trên

thị trường đóng vai trò quan trọng.

Bên cạnh các TTCK tập trung là các SGD (hiện có khoảng 14 SGD chứng khoán

khác nhau), tại Mỹ còn có TTCK phi tập trung (OTC) rất phát triển mà tiêu biểu là thị

trường Nasdaq. Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971, là

bộ phận lớn nhất của thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng khoán giao dịch trên thị

trường với trên 15000 chứng khoán, chứng khoán giao dịch trên thị trường này chiếm đa số

là của các công ty thuộc ngành công nghệ thông tin và các công ty vừa và nhỏ. Thị trường

được vận hành bởi một hệ thống các nhà tạo lập thị trường và các nhà môi giới, có khoảng

600 nhà tạo lập thị trường hoạt động tích cực trên Nasdaq và trung bình mỗi nhà tạo lập thị

trường đảm nhiệm 8 loại cổ phiếu. Thị trường Nasdaq hiện nay đã được nối mạng toàn cầu

với nhiều thị trường OTC khác trên thế giới.

2.1.1.2. TTCK Nhật Bản

Ở Nhật Bản, TTCK đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu hút vốn dài hạn

cho Chính phủ và các công ty. Nói đến TTCK Nhật Bản, trước hết phải kể đến SGD chứng

khoán Tokyo (TSE), đây là thị trường ra đời sớm nhất và là thị trường lớn nhất tại Nhật Bản

về số lượng chứng khoán đang lưu hành, là SGD lớn thứ hai trên thế giới về doanh số bán,

chỉ sau NYSE. SGD chứng khoán Tokyo được hình thành vào cuối năm 1878, những năm

1943 – 1945, SGD này bị đóng cửa do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1948,

Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán được ban hành và SGD chứng khoán Tokyo

được mở cửa hoạt động trở lại vào năm 1949. Đến nay, SGD chứng khoán Tokyo đã trở

thành một định chế tài chính quan trọng trong hệ thống kinh tế của Nhật Bản. Sau khi đưa

hệ thống giao dịch bằng máy tính chính thức đi vào hoạt động (ngày 18/03/1991). Hiện nay,

các cổ phiếu trên TSE vẫn được giao dịch theo hai phương thức khác nhau: giao dịch tại sàn

và thông qua hệ thống máy tính. Trên TSE, hầu hết các giao dịch mua bán chứng khoán

được thanh toán vào ngày làm việc thứ ba sau ngày giao dịch (T+3).

Hiện nay, Nhật Bản có 8 SGD chứng khoán, bên cạnh các SGD chứng khoán là các

TTCK phi tập trung (OTC), tiêu biểu là thị trường Jasdaq và thị trường J – net.

Thị trường Jasdaq, hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC

truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963. Thị trường J – net mới được đưa vào hoạt động từ

tháng 5/2000, chịu sự quản lý trực tiếp của SGD chứng khoán Osaka, được tổ chức dành

cho các chứng khoán không được niêm yết trên SGD nhằm đáp ứng yêu cầu tiết kiệm thời

gian và chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường, hoạt động theo phương thức thương

lượng giá. Thành viên của SGD Osaka, người đầu tư và trung tâm quản lý được trực tiếp nối

mạng với nhau thông qua một mạng điện tử đa tầng, tạo điều kiện chia sẻ thông tin thị

trường một cách dễ dàng.

2.1.1.3. TTCK Thái Lan

TTCK Thái Lan là một trong những TTCK phát triển nhanh nhất ở khu vực châu Á.

TTCK Thái Lan ban đầu được các công ty tư nhân thành lập (tháng 7/1962), đến năm 1992,

Uỷ ban chứng khoán, cơ quan quản lý trực tiếp TTCK Thái Lan mới được thành lập. Tại

Thái Lan, các CTCK muốn trở thành thành viên của SGD chứng khoán thì phải được Bộ tài

chính đồng ý. Các thành viên phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng thực hiện

các giao dịch chứng khoán và có kinh nghiệm trong các hoạt động giao dịch đó. TTCK Thái

Lan cũng là nơi điển hình của việc sử dụng hệ thống vi tính hoàn toàn tự động. Với hệ thống

giao dịch tự động này, SGD chứng khoán Thái Lan cho phép các CTCK thông qua hệ thống

vi tính thực hiện các giao dịch ngay tại văn phòng của họ mà không cần trực tiếp đến Sở.

2.1.2. TTCK Việt Nam

Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, duy trì nhịp độ tăng

trưởng kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu

quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Vì vậy, việc xây

dựng TTCK ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các

nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế thông qua

chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Thêm vào đó, việc cổ phần hóa các DN nhà nước với

sự hình thành và phát triển của TTCK sẽ tạo môi trường ngày càng công khai và lành mạnh

hơn. Ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về

Chứng khoán và TTCK cùng với Quyết định thành lập hai (02) TTGDCK tại Hà Nội và

thành phố Hồ Chí Minh.

Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành TTGDCK

tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào

ngày 28/07/2000, với 02 loại cổ phiếu niêm yết

2.1.2.1. Các chủ thể tham gia trên TTCK Việt Nam

- UBCKNN:

UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/1/1996 của Chính phủ.

Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về

chứng khoán và TTCK, quản lý việc cấp phép, đăng ký phát hành và kinh doanh chứng

khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát các hoạt động giao dịch, mua bán chứng

khoán… để đảm bảo thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch.

- SGD chứng khoán:

Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tiền thân là TTGDCK thành phố

Hồ Chí Minh, được chuyển đổi theo Quyết định 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 của Thủ

tướng Chính phủ. Ngày 08/08/2007, Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã

chính thức được khai trương. SGD Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là pháp nhân

thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên, hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật DN, Điều lệ của SGD chứng khoán và các

quy định khác của pháp luật có liên quan.

Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có quyền hạn và nghĩa vụ như

sau:

+ Quyền hạn: Ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng

khoán, công bố thông tin và thành viên giao dịch sau khi được UBCKNN chấp thuận; Tổ

chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại SGD chứng khoán; Tạm ngừng,

đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng khoán của SGD

chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ NĐT; Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết

chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm

yết tại SGD chứng khoán; Chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; Giám sát hoạt

động giao dịch chứng khoán của các thành viên giao dịch; Giám sát hoạt động công bố

thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại SGD chứng; Cung cấp thông tin

thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết; Thu phí theo quy định của

Bộ Tài chính; Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh

tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán

+ Nghĩa vụ: Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến

hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả; Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống

kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; Thực hiện công bố thông tin về giao dịch

chứng khoán, thông tin về tổ chức niêm yết tại SGD chứng khoán, thông tin về CTCK, công

ty quản lý quỹ, quỹ ĐTCK, công ty ĐTCK và thông tin giám sát hoạt động của thị trường;

Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác

điều tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK; Phối hợp

thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho NĐT;

Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp SGD chứng khoán gây thiệt

hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.

- TTGDCK Hà Nội:

Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành

lập hai TTGDCK trực thuộc UBCKNN. Theo đó, TTGDCK Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có

thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân

sách Nhà nước cấp. Biên chế của TTGDCK Hà Nội thuộc biên chế của UBCKNN.

TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau:

1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán;

2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán;

3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng

khoán;

4. Thực hiện đăng ký chứng khoán.

Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho TTGDCK Hà Nội có ý nghĩa rất quan

trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy

mô và lộ trình phát triển TTCK Việt Nam. Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê

duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao

dịch cổ phiếu của các DN vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển

thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra

Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng

thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng TTGDCK Hà

Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó,

TTGDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực

hiện đấu giá cổ phiếu DN nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời

tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch. Giai đoạn sau

2007 - Phát triển TTGDCK Hà Nội thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát

triển của TTCK Việt NamMô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ

thể hoá. Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế

tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở

pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập. Theo đó, có thể khái

quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau

1. Tổ chức đấu giá cổ phần cho các DN: TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để

thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các DN nhà nước cổ phần hoá, theo tinh

thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng

dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP. Trong đó quy định các DN khi cổ phần hoá phải

bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp DN cổ phần hóa

có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để

thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK

2. Tổ chức đấu thầu trái phiếu: TTGDCKHN tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm

các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa

phương, trái phiếu công trình…

3. Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch

Ngày 08/03/2005, TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một

bước phát triển mới của TTCK Việt Nam. Ngày 14/07/2005, TTGDCK Hà Nội khai trương

Sàn Giao dịch chứng khoán thứ cấp

- Các CTCK

Trên TTCK Việt Nam, các CTCK được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty

cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp

nhân, có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh

mà một công ty có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi

giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư.

Tính đến hết tháng 09/2008, Việt Nam có 98 CTCK đi vào hoạt động

- Các tổ chức phát hành chứng khoán

Các tổ chức được phép phát hành chứng khoán ở Việt Nam bao gồm:

+ Chính phủ: phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư.

+ Chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu tài trợ cho các dự án và nhu cầu chi

tiêu của chính quyền địa phương.

+ Các công ty cổ phần: phát hành cổ phiếu và trái phiếu DN

+ Các DN nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn: phát hành trái phiếu DN

+ Các quỹ ĐTCK và công ty quản lý quỹ: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.

- Các NĐT chứng khoán

Các NĐT trên TTCK Việt Nam bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các qũy

đầu tư, các DN, các công ty bảo hiểm…

- Các tổ chức phụ trợ khác

Các tổ chức phụ trợ trên TTCK Việt Nam gồm: các tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ,

các tổ chức kiểm toán…

2.1.2.2. Thực trạng phát triển của TTCK Việt Nam

- Giai đoạn 2000 – 2005:

Đến cuối năm 2005, trên TTCK Việt Nam đã có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với

tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát

triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng,

đã có tổng cộng 73 loại chửng khoán với tổng mức vốn hóa khoảng 6.6oo tỷ đồng, gần l,6%

GDP.

Hơn 14.000 tài khoản giao dịch được mở tại các CTCK, trong đó có hơn 100 NĐT tổ

chức, chiếm 0,8%, và 45 NĐT nước ngoài. Cùng với sự phát triển của TTCK, khung pháp

lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ.

Diễn biến chính của giá cổ phiếu và chỉ số Vn-lndex trong năm năm qua được thể

hiện qua đồ thị sau: Trong thời gian đầu, các NĐT còn đang mong chờ có những điều kỳ

diệu xảy ra như những gì họ dã được học, được biết đến. Tâm lý này làm cho số lượng NĐT

rất cao và nhu cầu mua cổ phiếu rất lớn, chỉ số Vn - lndex tăng mạnh, giá các loại cố phiếu

tăng liên tục trong nhiều tháng liền.

Tuy nhiên, thời gian này, lượng cố phiếu bán ra thị trường lại rất ít có 2 loại, sau đó

là 4 loại. Giá cổ phiếu tăng và vượt quá xa giá trị thực của nó. Hiện tượng "bong bóng tài

chính" đã xuất hiện. Vì vậy để bảo vệ các NĐT, UBCKNN đã dưa ra một loạt các biện

pháp, trong đó đáng kể nhất là tăng cung chứng khoán, giảm biên độ giao dịch, quy định

khối lượng giao dịch tối đa cho một loại chứng khoán...

Những tác động đó đã làm cho giá cổ phiếu giảm dần, sau đó giảm mạnh. UBCKNN

và nhiều bộ, ngành có liên quan đã đưa ngay ra nhiều biện pháp, chính sách ưu đãi nhưng kể

từ đó, thị trường không thể hồi sinh. Giá cổ phiếu đã giam xuống mức thấp nhất vào giữa

năm 2003 chỉ số VN- lndex dao động dưới mức 150.

Chức năng quan trọng nhất của TTCK là huy động vốn cho nền kinh tế, tuy nhiên,

trong giai đoạn này số vốn các DN huy động được qua TTCK còn quá nhỏ. Năm 2000 và

2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh

với dư nợ cho vay trung và dài hạn đã là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay

của cả hệ thống ngân hàng thì con số này là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường

sơ cấp rất mờ nhạt. Ví dụ như: trong hai năm đầu thị trường đi vào hoạt động, có duy nhất

Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương

dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraft.

Như vậy, TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền

kinh tế.

Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản là: Những vướng mắc từ cơ

chế chính sách của Nhà nước…; So với mặt bằng lãi suất ngân hàng, huy động vốn trên

TTCK là "khá đắt" và khó thực hiện; Để huy động vốn trên TTCK các DN phải thực hiện

những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn,

các DN phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hoá tài chính, phương án kinh doanh...

hơn nữa, nhiều DN không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh

nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên TTCK; Thị trường thứ cấp hoạt động

trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa

dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong giai đoạn này. Nguyên nhân là do

việc công bố thông tin của các DN niêm yết trong một số trường hợp không trung thực,

đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty

đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các NĐT trên

TTCK không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn

không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2002...

- Giai đoạn 2006 – 2007:

Tuy có những lúc thị trường đi xuống nhưng có thể nói, đây là giai đoạn phát triển

nóng của TTCK Việt Nam. Chỉ số chứng khoán VN-index tăng gần 144% trong năm 2006,

và chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng đầu năm 2007, tăng 44%. Chỉ số này vào 28/2/2007 là

1136 như vậy là đã tăng 11 lần kể từ ngày mở sàn buôn bán ngày 28 tháng 7 năm 2000. Số

trương mục đăng ký giao dịch chứng khoán tăng 4 lần, từ 32 ngàn lên 120 ngàn.

Đấy là TTCK chính thức. Còn một thị trường khác, rất tự do kiểu kinh tế miền Viễn

tây nước Mỹ trước đây, hoạt động trên internet hoặc vỉa hè, buôn bán cổ phần các công ty

chưa được phép bán trên thị trường chính thức ở thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội. Số

người giao dịch trên thị trường này có thể lên tới 500 ngàn, 5 lần cao hơn thị trường có kiểm

soát.

Sự nổi dậy của TTCK ở Việt Nam có hai mặt. Mặt cơ bản và quan trọng nhất là dân

chúng đã biết thêm một cửa ngõ dùng tiền dư, thay vì chỉ bỏ tiền vào ngân hàng hay mua

trái phiếu (bonds) để nhận một lãi suất nhiều khi thấp hơn cả lạm phát; họ có thể tham gia

gián tiếp vào đầu tư, làm chủ DN bằng cách bỏ vốn mua cổ phiếu, lời ăn lỗ chịu mà không

phải tự đứng lập DN. Về mặt cơ bản này, thị trường cổ phiếu tạo thêm một kênh quan trọng

nhằm thu hút vốn trong nền kinh tế. Không những thế kênh này còn quan trọng hơn cả kênh

ngân hàng vì nó tạo cơ hội cho các nhà DN có ý tưởng mới hợp tác với những người sẵn

sàng bỏ vốn trên cơ sở rủi ro cao đi liền với lợi nhuận cao. Nhưng cần phải thấy đóng góp

của TTCK vào phát triển kinh tế chính là số vốn mới thu hút được hàng năm qua phát hành

cổ phiếu mới IPOs (initial public offerings).

TTCK đã nổ bùng sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế

giới (WTO), với kỳ vọng doanh nghịêp nước ngoài tăng cường đổ vốn vào thị trường Việt

Nam. Chỉ có điều nó nổ bùng một cách đầy rủi ro. Vấn đề phát triển nằm ở chỗ số cung

chứng khoán mới trên thị trường ngày càng cao và nguồn vốn cung cho thị trường cũng

ngày càng cao. Điều này chưa xảy ra ở Việt Nam bởi vì số cung chứng khoán quá hạn chế.

Giá trị cổ phiếu tăng vọt ở Việt Nam trong giai đoạn này không phải do sự phát triển của thị

trường cổ phiếu mà do đầu cơ và tâm lý đánh bạc vì cầu tăng mạnh chạy đuổi mua số lượng

chứng khoán hạn chế, sự thụt giá bất cứ lúc nào sẽ khó tránh khỏi. Có thể nó là điều cần

thiết để thị trường tự điều chỉnh.

- 09 tháng đầu năm 2008:

TTCK Việt Nam trong 09 tháng đầu năm 2008 luôn trong tình trạng giảm đỏ sàn, chỉ

số VN-Index từ 921,07 điểm ngày 02/01/2008 xuống còn 456,7 điểm ngày 30/09/2008, các

NĐT lớn nhỏ đứng ngồi không yên. Sự suy đoán của nhiều nhà chuyên môn: VN-Index đã

chạm đáy. Thế nhưng đáy VN-Index vẫn lần lượt bị phá và nhiều người hoài nghi về điểm

đáy của chỉ số này?

Sau khi thông tin SCIC cứu chứng khoán được đăng đàn, điều mà các NĐT chờ đợi

đã xảy ra: VN-Index tăng liên tục một tuần, tiếp theo là sự dập dình trồi sụt của TTCK Việt

Nam.

Bên cạnh đó, tác động của kinh tế thế giới: giá dầu giảm, vàng tuột xuống khỏi mốc

1.000 USD/oz, FED điều chỉnh lãi suất... Quan trọng hơn cả là do nền kinh tế của chúng ta

đang đứng trước thử thách rất lớn: lãi suất tăng, lạm phát, xuất khẩu kêu cứu, nhập siêu tăng

cao... Tâm lý các NĐT quá sức chịu đựng. Các NĐT liên tục đặt các lệnh bán tháo để cắt

giảm sự thua lỗ.

Ngày 25/3/2008 khi Thủ tướng Chính phủ "bật đèn xanh", một loạt các biện pháp

được đưa ra và dường như có tác dụng ngay tức thì, trong đó, có tác động mạnh mẽ và như

một cú hích phải kể tới quyết định thu hẹp biên độ giao động tại cả hai sàn HoSE và

HaSTC. Ngay phiên giao dịch ngày 26/3, VN-Index tạm ngừng rơi và tăng 8,05 điểm tương

đương 1,61%...

Biên độ dao động điều chỉnh giảm xuống có tác dụng nhất thời, nhưng coi chừng đó

có thể là nguyên nhân "nghẽn cổ chai" nếu không có thêm sự hỗ trợ khác nữa.

TTCK nhiều lần trồi sụt như vừa qua, chắc chắn các NĐT sẽ học thêm nhiều kinh

nghiệm, TTCK: VN-Index không có đáy!? Đáy là do chúng ta tạo ra? Niềm tin là điều mà ai

cũng thừa nhận phải có của các NĐT, nhưng quan trọng là họ tin vào cơ sở nào? Nếu các

chính sách vĩ mô không nhanh chóng thay đổi cho phù hợp với nền kinh tế, thì niềm tin của

NĐT thực sự chưa có cơ sở vững chắc.

2.2. Thực trạng hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những kết quả đạt được

TTCK Việt Nam được ghi nhận có lịch sử phát triển gần tám năm, khoảng thời gian

này so với lịch sử phát triển hàng trăm năm của TTCK các nước trên thế giới thì có thể nói

TTCK Việt Nam là một thị trường còn rất non trẻ, tuy nhiên với lịch sử ra đời non trẻ như

vậy nhưng TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, đặc biệt hoạt

động ĐTCK đã ngày càng trở nên chuyên nghiệp, hạn chế rủi ro cho các NĐT, việc đầu tư

theo phong trào và bị ảnh hưởng mạnh mẽ của tâm lý bầy đàn đã bị hạn chế, thay vào đó

việc sử dụng các phương pháp phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng nhằm có

một cái nhìn khách quan, khoa học đối với TTCK, và các loại chứng khoán trên thị trường

đã ngày càng trở nên phổ biến. Hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam ghi nhận những

kết quả đạt được sau đây:

Một là, Luật chứng khoán của Việt Nam đã được Quốc hội ban hành vào năm 2006

cùng các Thông tư, Nghị định, Quyết định liên quan đã góp phần tạo một sân chơi lành

mạnh và quy củ cho TTCK Việt Nam, cùng với đó các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt

động phân tích chứng khoán, PTCB cũng được ban hành như một quy chuẩn chung cho hoạt

động PTCB nhờ đó chất lượng của hoạt động PTCB trong ĐTCK được nâng lên một bước.

Hai là, lượng thông tin phục vụ cho hoạt động phân tích chứng khoán nói chung,

PTCB nói riêng ngày càng dồi dào về số lượng và chính xác về chất lượng. Ngày nay, các

thông tin về diễn biến của tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước nói chung, của các

TTCK các nước trên thế giới và TTCK Việt Nam nói riêng được các cơ quan có chức năng

có trách nhiệm quan tâm, mặt khác các thông tin này cũng đầy ắp trên các báo cả báo giấy

lẫn báo mạng. Mặt khác, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi, báo, đài

cũng góp phần đưa những kiến thức chứng khoán cũng như những kết luận của PTCB từ

các chuyên gia đến mọi tầng lớp quan tâm trong xã hội, hiện nay hầu như các đài truyền

hình lớn trên cả nước hàng ngày đều có chương trình đưa tin về hoạt động của TTCK, cùng

với đó là các đánh giá, phân tích của các chuyên gia, điều này đã giúp cho vai trò của PTCB

được nâng cao, hoạt động PTCB được cải thiện

Ba là, quy trình PTCB đã được xây dựng ở nhiều công ty chứng khoán và các tổ

chức ĐTCK chuyên nghiệp và đã được kiểm nghiệm về tính ứng dụng của nó, điều này đã

làm cho hoạt động PTCB trở thành một hoạt động chuyên nghiệp và thường xuyên trong

các tổ chức này, và do đó hoạt động PTCB ngày càng được hoàn thiện về mặt nội dung và

phương pháp, ngày càng làm cho hoạt động đầu tư của các NĐT chứng khoán trở nên hiệu

quả hơn, ít rủi ro hơn, vai trò của PTCB ngày càng được nâng cao.

Bốn là, năng lực PTCB của NĐT trên TTCK Việt Nam ngày càng được cải thiện và

nâng cao, để có được kết quả này là do bản thân các NĐT đã tích luỹ cho mình một tâm lý

vững vàng và bình tĩnh xem xét vấn đề hơn trước những biến động của thị trường, cả những

vấn đề kinh tế vĩ mô trong nước cũng như ngoài nước, cả những yếu tố tác động lên toàn bộ

ngành kinh doanh cũng như các yếu tố tác động lên một doanh nghiệp cụ thể cũng được

xem xét một cách cẩn trọng. Mặt khác, trải qua những thăng trầm của hoạt động đầu tư trên

TTCK, các NĐT cũng đã tích luỹ cho mình những kinh nghiệm đầu tư quý báu, qua đó họ

đã có cách đánh giá khách quan, khoa học và hợp với logic của PTCB hơn.

Bên cạnh đó, kiến thức về phân tích chứng khoán, PTCB của các NĐT và của toàn

xã hội đã được nâng lên một bước. Trong năm 2007, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã cho

phép năm trường Đại học có uy tín về đào tạo kinh tế và có đội ngũ giáo viên giỏi chuyên

môn và có kiến thức phong phú về chứng khoán được phép đào tạo về chứng khoán và các

học viên tại các cơ sở này nếu đạt điều kiện trong kỳ thi cấp chứng chỉ sẽ được cấp chứng

chỉ của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, điều mà trước đó chỉ do trung tâm đào tạo chứng

khoán của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đảm nhiệm, dẫn đến tình trạng bão hoà, quá tải

tại trung tâm đặc biệt là trong giai đoạn TTCK Việt Nam phát triển nóng, nhiều người có

nhu cầu học mà không được đáp ứng, dẫn đến kiến thức về chứng khoán, TTCK, phân tích

chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng bị hạn chế. Vì vậy, việc cho phép năm trường đại

học có uy tín được phép đào tạo về chứng khoán đã góp phần đáng kể giảm tải cho Trung

tâm đào tạo chứng khoán, và điều quan trọng hơn là đã đưa kiến thức về chứng khoán,

TTCK đến mọi đối tượng có nhu cầu góp phần làm cho sự hiểu biết của các NĐT chứng

khoán nói riêng, toàn xã hội nói chung được nâng lên một bước. Thông qua đó hoạt động

PTCB cũng được chú trọng và đánh giá nghiêm túc hơn, nâng cao vai trò, vị thế của hoạt

động này trong ĐTCK tại Việt Nam, nhờ đó mà hoạt động PTCB ngày càng được hoàn

thiện.

Thêm vào đó, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của các NĐT cũng ngày càng

được cải thiện, đây là đóng góp không nhỏ của quá trình xã hội hoá tin học đã bắt đầu diễn

ra ở Việt Nam từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước.

Năm là, hoạt động PTCB không những được coi trọng hơn mà đã được nhìn nhận,

phân tích một cách toàn diện hơn, không chỉ chú trọng vào việc phân tích công ty mà các

yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới, các yếu tố tác động đến ngành kinh doanh cũng

đã được xem xét và đánh giá một cách thận trọng.

2.2.2. Những mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động PTCB ở Việt Nam còn tồn tại những

hạn chế to lớn. Những hạn chế đó là:

Một là, Cơ sở dữ liệu làm căn cứ cho các PTCB vẫn chưa thực sự đầy đủ và hoàn

thiện. Đối với thông tin về nền kinh tế và với các ngành kinh doanh, đặc biệt là với các

ngành kinh doanh còn rất thiếu, và yếu, các số liệu thống kê chính thức được cập nhật theo

hàng tháng, hàng quý và hàng năm, trong khi đó nhu cầu thực hiện các PTCB đòi hỏi các

thông tin cần thiết phải cập nhật hàng ngày, và ngay cả khi đã có các số liệu thống kê của

các cơ quan có trách nhiệm thì một thực trạng không thể phủ nhận ở Việt Nam là chất lượng

của các con số cũng chưa được đảm bảo. Vì vậy, hiện tại các hoạt động PTCB trong ĐTCK

xảy ra hàng ngày các chuyên gia PTCB thường dựa vào kiến thức, kinh nghiệm của mình để

đánh giá về nền kinh tế, các ngành kinh doanh nói chung. Mặt khác, đối với việc thu thập

thông tin về công ty cũng khá khó khăn, đối với các công ty niêm yết thường xảy ra tình

trạng công bố thông tin chưa đầy đủ và chậm trễ, thông tin công bố không theo một form

chuẩn nên thông tin không thể sử dụng ngay được mà phải qua một công đoạn xử lý số liệu

phức tạp và mất nhiều thời gian. Đối với thông tin về các công ty niêm yết đã vậy, thông tin

về các công ty chưa niêm yết còn gặp nhiều khó khăn hơn.

Mặt khác, mặc dù việc phân tích tài chính DN là việc làm quan trọng nhất khi xem

xét, đánh giá một DN nhưng trên thực tế bản thân các DN vẫn còn rất coi nhẹ việc này. Tỷ

lệ DN thường xuyên tham gia công tác phân tích tài chính còn chưa nhiều, chỉ thường tập

trung ở những công ty lớn, công ty nhà nước hoặc những công ty có vốn đầu tư nước ngoài.

Số còn lại hầu như không tham gia công tác này. Mặt khác, hầu hết DN thường dùng chính

các nhân viên Phòng Tài chính - Kế toán để kiêm nhiệm thực hiện công tác phân tích tài

chính, mà chưa có nhân sự chuyên trách cho công tác này. Điều đó làm cho ảnh hưởng lớn

đến chất lượng của công tác phân tích tài chính làm cho tính chuyên nghiệp trong phân tích

tài chính chưa cao, dẫn đến chất lượng phân tích thấp; Kết quả và báo cáo phân tích tài

chính không mang tính khách quan, vì các thông tin chủ yếu dùng trong phân tích tài chính

là các thông tin kế toán; Không phát hiện ra các sai phạm trong thông tin, dẫn đến kết quả

phân tích không chính xác... và như vậy sẽ trực tiếp tác động đến chất lượng của công tác

PTCB (nội dung phân tích công ty) trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam.

Hai là, hiện nay hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam đã được chú trọng hơn rất

nhiều, tuy nhiên hoạt động này diễn ra không đồng bộ, việc phân tích nền kinh tế và phân

tích ngành thường không được coi trọng đúng mức, ngay cả việc phân tích công ty cũng còn

rất nhiều bất cập, chỉ chú trọng chủ yếu vào việc phân tích tình hình hoạt động tài chính của

công ty, còn các nội dung khác chưa đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu cần có, như việc phân tích

bộ máy tổ chức của công ty, chưa chú trọng đến trình độ, năng lực của các thành viên trong

công ty.

Ba là, trình độ nhân lực thực hiện hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam còn

nhiều hạn chế. Mặc dù có nhiều trường đại học kinh tế, nước ta hiện vẫn đang rất thiếu đội

ngũ chuyên gia phân tích kinh tế - nguồn nhân lực rất cần thiết trong bối cảnh hội nhập tổ

chức thương mại thế giới (WTO). Thị trường lao động hiện nay đang rất thiếu nguồn nhân

lực chất lượng cao, trong đó rất thiếu các chuyên gia phân tích kinh tế, tức là lực lượng đảm

nhiệm việc phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô, các chính sách kinh tế, các ngành kinh doanh,

và tài chính công ty… Chẳng hạn như, đối với việc phân tích ngành, nhân lực thực hiện

phân tích còn gặp phải một số sai lầm, chưa vượt qua được tư duy quản lý theo kiểu cảm

tính và tùy tiện, trong phân tích chuỗi cạnh tranh của ngành, người ta thường có xu hướng

dựa trên những yếu tố, những khái niệm đã được thừa nhận để nhận diện và đánh giá các

nhân tố tạo ra giá trị (ví dụ trước đây người ta không coi trọng yếu tố thương hiệu, nhưng

nay nó lại trở thành câu cửa miệng khi nói về sức cạnh tranh), mà không phát hiện và thừa

nhận kịp thời các xu hướng hoặc nhân tố mới (ví dụ sự tăng trưởng nhanh chóng của nhóm

khách hàng tuổi teen). Trong phân tích cạnh tranh ngành, thường có xu hướng đưa ra các

yếu tố mà mình ưa thích để so sánh, bỏ qua các yếu tố không ưa thích (vì cho rằng nó không

chính yếu).

Mặt khác, một đặc điểm nổi bật trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam là các NĐT

thường đầu tư theo phong trào và phương thức đầu tư của phần đông các NĐT là khi chỉ số

giá chứng khoán tăng thì ào ào mua vào, khi chỉ số chứng khoán xuống thì lại có phong trào

“bán tháo” để cắt lỗ, bên cạnh đó tâm lý và hành vi của các NĐT trên TTCK Việt Nam còn

phụ thuộc rất nhiều vào động thái của các NĐT nước ngoài và các NĐT lớn, NĐT nước

ngoài gần như đã trở thành người điều khiển giá trên TTCK hiện nay. Vì vậy, hoạt động

phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng thường không được xem trọng.

Bốn là, đặc trưng của PTCB là dựa trên rất nhiều ý kiến chủ quan, những ước lượng,

dự đoán (chẳng hạn như những đánh giá về ngành kinh doanh, những giả định về tình trạng

hoạt động của công ty) nên những PTCB cũng mang khá nhiều tính chủ quan – đây là hạn

chế lớn nhất của PTCB. Trong khi đó, tính kết hợp của PTCB với các phương pháp phân

tích khác chưa cao, vì vậy chưa làm giảm được tính chủ quan của PTCB, làm cho việc sử

dụng phương pháp này trở nên hiệu quả hơn, đưa ra được các quyết định đúng đắn hơn

trong ĐTCK tại Việt Nam.

Năm là, các thiết bị công nghệ phần cứng cũng như phần mềm phục vụ cho hoạt

động PTCB còn nhiều hạn chế, chưa hỗ trợ tốt cho hoạt động này, điều đó cũng làm cho

chất lượng và tính kịp thời của hoạt động PTCB bị hạn chế, ngay cả ở các CTCK cũng chưa

có phần mềm tự động cập nhật số liệu phục vụ hoạt động PTCB, nhân viên PTCB phải mất

rất nhiều thời gian cho việc cập nhật và xử lý số liệu, khiến cho chất lượng của PTCB bị ảnh

hưởng.

CCHHƯƯƠƠNNGG 33:: HHOOÀÀNN TTHHIIỆỆNN PPHHƯƯƠƠNNGG PPHHÁÁPP PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN TTRROONNGG

ĐĐẦẦUU TTƯƯ CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

3.1. Những tác động từ môi trường vĩ mô đến TTCK Việt Nam

3.1.1. Những tác động từ nền kinh tế trong nước

3.1.1.1. Những thành tựu của nền kinh tế

Trong nh÷ng th¸ng ®Çu n¨m nay, nÒn kinh tÕ n-íc ta liªn tiÕp ph¶i ®èi mÆt víi

nhiÒu khã kh¨n th¸ch thøc ë c¶ trong n-íc vµ ngoµi n-íc, song víi sù chØ ®¹o s¸t sao, quyÕt

liÖt cña ChÝnh phñ, sù phÊn ®Êu cao cña c¸c ngµnh, c¸c cÊp vµ c¸c doanh nghiÖp, ®Õn

nay, mÆc dï cßn nhiÒu khã kh¨n, song t×nh h×nh kinh tÕ vÜ m« (tiÒn tÖ, tû gi¸, l¹m

ph¸t...) trong c¸c th¸ng gÇn ®©y cã nhiÒu chuyÓn biÕn tÝch cùc. ChØ sè gi¸ ®· t¨ng

chËm l¹i vµ th¸ng sau thÊp h¬n th¸ng tr-íc; tû gi¸ gi÷a ®ång ViÖt Nam víi ®« la Mü æn

®Þnh h¬n; mét sè chØ tiªu ®¹t kh¸ so víi cïng kú, nhiÒu mÆt ho¹t ®éng x· héi cã tiÕn bé.

Nh÷ng kÕt qu¶ næi bËt trong 9 th¸ng ®Çu n¨m nh- sau:

Mét lµ, tèc ®é t¨ng tr-ëng kinh tÕ 9 th¸ng ®¹t kho¶ng 6,52% (quý I t¨ng 7,4%; quý II

t¨ng 5,82%, quý III t¨ng 6,55%), tuy cßn thÊp h¬n tèc ®é t¨ng GDP cña cïng kú n¨m 2007

nh-ng trong bèi c¶nh t×nh h×nh kinh tÕ vÜ m« cã nhiÒu khã kh¨n th× ®©y lµ mét kÕt qu¶

kh¶ quan, phï hîp víi c¸c biÖn ph¸p kiÒm chÕ l¹m ph¸t, æn ®Þnh kinh tÕ vÜ m« cña

ChÝnh phñ; nhÊt lµ tèc ®é t¨ng GDP cña quý III ®· cao h¬n GDP cu¶ quý II.

Hai lµ, c¸c ngµnh dÞch vô ®¹t kÕt qu¶ kh¸ tèt, ®· gãp phÇn n©ng møc t¨ng tr-ëng

chung cña nÒn kinh tÕ. Gi¸ trÞ gia t¨ng cña ngµnh dÞch vô 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng 7,23%,

cao h¬n møc t¨ng GDP; c¸c ngµnh dÞch vô cã gi¸ trÞ cao (vËn t¶i, b-u ®iÖn, du lÞch, y tÕ,

gi¸o dôc...) ®-îc khai th¸c vµ ®¸p øng tèt h¬n yªu cÇu cña s¶n xuÊt vµ ®êi sèng nh©n d©n.

Ba lµ, trong ®iÒu kiÖn c¹nh tranh gay g¾t vÒ thÞ tr-êng vµ gi¸ c¶ nh-ng kim ng¹ch xuÊt

khÈu vÉn duy tr× ®-îc tèc ®é t¨ng tr-ëng cao, t¨ng 39% so víi cïng kú; nhËp siªu gi¶m dÇn.

Bèn lµ, thu hót vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ®¹t ®-îc nhiÒu kÕt qu¶ tèt. So víi 9

th¸ng ®Çu n¨m tr-íc, sè vèn ®Çu t- trùc tiÕp n-íc ngoµi thùc hiÖn t¨ng 37%; vèn

®¨ng ký cÊp míi vµ t¨ng thªm t¨ng gÊp 5 lÇn

N¨m lµ, mét sè lÜnh vùc x· héi nh- v¨n hãa, gi¸o dôc, y tÕ, b¶o trî x· héi... cã nhiÒu

tiÕn bé

C¸c chØ tiªu chñ yÕu trong 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008 ®¹t ®­îc nh­ sau:

C¸c chØ tiªu chñ yÕu 9 th¸ng n¨m 2007 9 th¸ng n¨m 2008

Tèc ®é t¨ng tr-ëng GDP (%) 8,16 6,52

Kim ng¹ch xuÊt khÈu (tû USD) 34,9 48,6

Kim ng¹ch nhËp khÈu (tû USD) 43,4 64,4

Vèn FDI thùc hiÖn (triÖu USD) 5.900 8.100

Vèn FDI cÊp míi vµ t¨ng thªm (triÖu USD) 9.607 57.124

ChØ sè gi¸ tiªu dïng vµ dÞch vô (%) 7,3 21,8

Nguồn: Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và đầu tư

Trong lÜnh vùc tµi chÝnh, tiÒn tÖ, gi¸ c¶ cã chuyÓn biÕn tÝch cùc. Tæng thu

ng©n s¸ch nhµ n-íc tõ ®Çu n¨m ®Õn hÕt 15/9 ®¹t 292,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 90,5% dù

to¸n n¨m; trong ®ã thu néi ®Þa ®¹t 160,5 ngh×n tû ®ång, b»ng 84,8% dù to¸n n¨m, thu tõ

dÇu th« ®¹t 56,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 86,0% dù to¸n, thu tõ ho¹t ®éng xuÊt nhËp khÈu ®¹t

71,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 111,0% dù to¸n. Trong thu néi ®Þa, thu tõ khu vùc kinh tÕ quèc

doanh ®¹t 52,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 83,0% dù to¸n n¨m; thu tõ khu vùc doanh nghiÖp cã

vèn ®Çu t- n-íc ngoµi ®¹t 30,1 ngh×n tû ®ång, b»ng 75,0% dù to¸n n¨m; thu thuÕ c«ng

th-¬ng nghiÖp ngoµi quèc doanh ®¹t 29,8 ngh×n tû ®ång, b»ng 77,7% dù to¸n n¨m; thu tõ

thuÕ thu nhËp ®èi víi ng-êi cã thu nhËp cao ®¹t 8,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 105,6% dù to¸n

n¨m; thu phÝ x¨ng dÇu ®¹t 3,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 68,3% dù to¸n n¨m; thu phÝ, lÖ

phÝ ®¹t 3,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 72,8% dù to¸n n¨m.

Tæng chi ng©n s¸ch nhµ n-íc tõ ®Çu n¨m ®Õn 15/9 -íc ®¹t 311,2 ngh×n tû ®ång,

b»ng 78% dù to¸n n¨m, trong ®ã chi ®Çu t- ph¸t triÓn ®¹t 68,4 ngh×n tû ®ång, b»ng 68,6%

dù to¸n n¨m (riªng chi ®Çu t- x©y dùng c¬ b¶n ®¹t 62,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 64,8% dù

to¸n n¨m); chi th-êng xuyªn ®¹t 184,2 ngh×n tû ®ång, b»ng 77,7% dù to¸n n¨m; chi tr¶ nî vµ

viÖn trî ®¹t 38,8 ngh×n tû ®ång, b»ng 75,8% dù to¸n n¨m.

Trong th¸ng 9 t×nh h×nh tiÒn tÖ dÇn ®i vµo æn ®Þnh, nhiÒu ng©n hµng th-¬ng

m¹i ®· h¹ møc l·i suÊt huy ®éng vµ cho vay. Tæng ph-¬ng tiÖn thanh to¸n ®Õn 30 th¸ng 9

t¨ng 1,34% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 6,54% so víi 31/12/2007. TiÒn mÆt l-u th«ng ngoµi

hÖ thèng ng©n hµng t¨ng 2,15% so víi th¸ng 8/2008 vµ t¨ng 13,7% so víi cuèi n¨m 2007.

Nguån vèn huy ®éng ®Õn 30 th¸ng 9 t¨ng 1,2% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 11% so víi

31/12/2007; trong ®ã tiÒn göi b»ng VN§ t¨ng 6,3%, b»ng ngo¹i tÖ t¨ng 27,0%. D- nî cho

vay toµn nÒn kinh tÕ ®Õn 30/9 t¨ng 1,06% so víi 31 th¸ng 8 vµ t¨ng 19,25% so víi

31/12/2007.

Gi¸ tiªu dïng: ChØ sè gi¸ tiªu dïng th¸ng 9 so víi th¸ng 8 t¨ng 0,18%, lµ møc t¨ng thÊp

nhÊt so víi nhiÒu th¸ng gÇn ®©y. ChØ sè gi¸ vµng vµ ®« la Mü cïng gi¶m víi møc gi¶m

t-¬ng øng lµ 6,36% vµ 0,75%. ChØ sè gi¸ th¸ng 9 t¨ng thÊp tr-íc hÕt lµ do kÕt qu¶ cña hµng

lo¹t biÖn ph¸p kiÒm chÕ l¹m ph¸t ®ång bé vµ quyÕt liÖt cña ChÝnh phñ, ®Æc biÖt

chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®· ph¸t huy t¸c dông; bªn c¹nh ®ã lµ t×nh h×nh gi¸ c¶ quèc

tÕ ®· thuËn lîi h¬n, nh- gi¸ dÇu, gi¸ l-¬ng thùc, gi¸ mét sè lo¹i nguyªn liÖu gi¶m so víi tr-íc.

Thùc hiÖn vèn ®Çu t- tõ Ng©n s¸ch Nhµ n-íc 9 th¸ng ®¹t 71.440 ngh×n tû ®ång, b»ng

71,6% kÕ ho¹ch n¨m.

Vèn tÝn dông ®Çu t-: TÝnh ®Õn hÕt th¸ng 9 n¨m 2008 nguån vèn tÝn dông ®Çu t-

thùc hiÖn ®¹t 25,6 ngh×n tû ®ång, b»ng 59,7% kÕ ho¹ch n¨m, trong ®ã nguån vèn trong

n-íc cho vay theo kÕ ho¹ch chØ ®¹t 9,6 ngh×n tû ®ång b»ng 35,7% kÕ ho¹ch n¨m. Nguån

vèn ODA cho vay l¹i ®¹t 5 ngh×n tû ®ång, b»ng 55,6% kÕ ho¹ch n¨m, riªng d- nî b×nh

qu©n hç trî xuÊt khÈu ®¹t 9,3 ngh×n tû ®ång, b»ng 116,2% kÕ ho¹ch n¨m.

Thu hót vèn ODA: Tõ ®Çu n¨m ®Õn ngµy 23/9/2008, nguån vèn ODA ®-îc hîp thøc

ho¸ th«ng qua c¸c hiÖp ®Þnh ký kÕt víi c¸c nhµ tµi trî ®¹t tæng gi¸ trÞ 1.826 triÖu USD,

trong ®ã vèn vay ®¹t 1.642 triÖu USD vµ vèn viÖn trî kh«ng hoµn l¹i ®¹t 184 triÖu USD.

TÝnh chung 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008, gi¸ trÞ gi¶i ng©n ODA ®¹t 1.415 triÖu USD, b»ng

74,5% kÕ ho¹ch gi¶i ng©n n¨m 2008, trong ®ã vèn vay ®¹t 1.227 triÖu USD, vèn viÖn trî

®¹t 188 triÖu USD.

Vèn ®Çu t- trùc tiÕp n-íc ngoµi thùc hiÖn trong th¸ng 9 ®¹t 1.100 triÖu USD,

n©ng tæng sè vèn ®Çu t- thùc hiÖn 9 th¸ng lªn gÇn 8.100 triÖu USD, trong ®ã vèn

®Çu t- cña n-íc ngoµi thùc hiÖn ®¹t 6,5 tû USD, t¨ng 37,3% so víi cïng kú.

Tæng vèn cña dù ¸n cÊp phÐp míi vµ vèn ®¨ng ký t¨ng thªm cña c¸c dù ¸n ®ang ho¹t

®éng trong th¸ng 9 ®¹t 9.966 triÖu USD (vèn cÊp phÐp míi lµ 9.944 triÖu USD; vèn t¨ng thªm

lµ 22 triÖu USD). TÝnh chung 9 th¸ng n¨m 2008, sè vèn cÊp phÐp míi vµ t¨ng thªm ®¹t

57.124 triÖu USD, t¨ng 398,5% so víi cïng kú; trong ®ã vèn ®Çu t- cÊp phÐp míi lµ 56.268

triÖu USD víi 885 dù ¸n, t¨ng 472% vÒ vèn vµ gi¶m 20% vÒ sè dù ¸n so víi cïng kú n¨m

tr-íc; vèn t¨ng thªm ®¹t 855,7 triÖu USD víi 225 l-ît dù ¸n.

3.1.1.2. Những khó khăn của nền kinh tế

MÆc dï nÒn kinh tÕ b-íc ®Çu ®· v-ît qua ®-îc khã kh¨n, tèc ®é t¨ng GDP cña Quý

III cao h¬n quý II nh-ng tèc ®é t¨ng tr-ëng GDP cña 9 th¸ng ®Çu n¨m míi ®¹t 6,52%, ch-a

®¹t môc tiªu cña kÕ ho¹ch Quèc héi ®· ®iÒu chØnh xuèng lµ 7%.

Gi¸ c¶ ®Çu vµo cña c¸c ngµnh s¶n xuÊt kinh doanh t¨ng cao g©y ¶nh h-ëng ®Õn

hiÖu qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh. Gi¸ trÞ s¶n xuÊt c«ng nghiÖp 9 th¸ng ®Çu n¨m 2008 t¨ng

16,0% nh-ng tèc ®é t¨ng gi¸ trÞ gia t¨ng chØ ®¹t 8,9% (tû lÖ t-¬ng øng cña n¨m 2007 lµ

17,1% vµ 10,05%).

Thùc hiÖn chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®· ph¸t huy t¸c dông trong viÖc kiÒm

chÕ l¹m ph¸t, tuy nhiªn còng t¸c ®éng ®Õn kh¶ n¨ng t¨ng tr-ëng cña nÒn kinh tÕ. C¸c

ngµnh s¶n xuÊt kinh doanh ®ang ph¶i ®èi mÆt víi nhiÒu khã kh¨n th¸ch thøc do thiÕu

vèn, l·i suÊt vay ng©n hµng cao, gi¸ nguyªn liÖu s¶n xuÊt ®øng ë møc cao lµm t¨ng chi

phÝ s¶n xuÊt, gi¶m hiÖu qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh vµ søc c¹nh tranh cña s¶n phÈm. Do

vËy, cïng víi viÖc tiÕp tôc thùc hiÖn chÝnh s¸ch th¾t chÆt tiÒn tÖ ®Ó kiÒm chÕ l¹m

ph¸t, cÇn cã sù ®iÒu chØnh linh ho¹t ®Ó hç trî doanh nghiÖp trong ®iÒu kiÖn l¹m ph¸t

®ang ®-îc kiÓm so¸t.

ChØ sè gi¸ tiªu dïng 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng cao víi møc 21,87%, trong khi 3 th¸ng

cuèi n¨m thÞ tr-êng trong n-íc cßn tiÒm Èn nh÷ng yÕu tè g©y biÕn ®éng gi¸ do nguyªn vËt

liÖu trªn thÞ tr-êng thÕ giíi, nhÊt lµ gi¸ x¨ng dÇu vµ nh÷ng vËt t- ®Çu vµo chñ yÕu vÉn

diÔn biÕn phøc t¹p sÏ t¹o søc Ðp t¨ng gi¸, ¶nh h-ëng ®Õn s¶n xuÊt vµ ®êi sèng nh©n d©n.

ViÖc gi¶i ng©n vèn ®Çu t-, nhÊt lµ vèn tr¸i phiÕu ChÝnh phñ ®¹t thÊp. Tæng vèn

®Çu t- gi¶i ng©n tõ ng©n s¸ch nhµ n-íc cña c¸c bé, ngµnh ®Þa ph-¬ng trong 8 th¸ng ®Çu

n¨m míi ®¹t 40.479 tû ®ång, b»ng 47% kÕ ho¹ch; 9 th¸ng ®Çu n¨m gi¶i ng©n -íc ®¹t

46,657 tû ®ång, b»ng 54,2% kÕ ho¹ch.

§èi víi vèn tr¸i phiÕu ChÝnh phñ, theo b¸o c¸o cña Kho b¹c Nhµ n-íc, sè vèn gi¶i

ng©n tr¸i phiÕu ChÝnh phñ hÕt th¸ng 8 n¨m 2008 ®¹t 10.402,5 tû ®ång, b»ng 36% kÕ

ho¹ch.

Gi¸ tiªu dïng b×nh qu©n 9 th¸ng ®Çu n¨m t¨ng ®Õn 22,76% nªn søc mua thùc tÕ cña

d©n c- gi¶m râ rÖt (tæng møc l-u chuyÓn hµng hãa b¸n lÎ 9 th¸ng t¨ng 30,1% nh-ng nÕu trõ

yÕu tè gi¸ th× chØ t¨ng trªn 6%).

3.1.1.3. Những tác động của nền kinh tế trong nước đến TTCK Việt Nam

MÆc dï cã nh÷ng khã kh¨n nhÊt ®Þnh nh-ng nh×n chung trong giai ®o¹n võa qua

nÒn kinh tÕ ViÖt Nam vÉn ®¹t ®-îc tèc ®é t¨ng tr-ëng cao, vµ høa hÑn trong thêi gian tíi

xu h-íng t¨ng tr-ëng vÉn lµ xu h-íng chñ ®¹o cña nÒn kinh tÕ ViÖt Nam bÊt chÊp nh÷ng

trë ng¹i trong qu¸ tr×nh ph¸t triÓn do nÒn kinh tÕ thÕ giíi ®-a l¹i. Víi nhËn ®Þnh ®ã, ng-êi

viÕt bµi cho r»ng trong thêi gian tíi mÆc dï TTCK ViÖt Nam sÏ khã cã thÓ ®¹t ®-îc tèc

®é t¨ng tr-ëng cao vµ ho¹t ®éng nhén nhÞp nh- giai ®o¹n 2006 – 2007, nh-ng sÏ vÉn lµ mét

kªnh ®Çu t- ®-îc c¸c N§T quan t©m vµ do ®ã TTCK ViÖt Nam vÉn sÏ tiÕp tôc xu h-íng

®i lªn. Tuy nhiªn trong tõng giai ®o¹n ng¾n TTCK ViÖt Nam sÏ cã nh÷ng ®iÒu chØnh

nhÊt ®Þnh, nh÷ng ®iÒu chØnh nµy lµ cÇn thiÕt vµ lµ tÊt yÕu kh¸ch quan ®èi víi bÊt cø

mét qu¸ tr×nh ph¸t triÓn nµo, nh-ng tr¶i qua nh÷ng ®iÒu chØnh ®ã TTCK ViÖt Nam sÏ

ph¸t triÓn bÒn v÷ng h¬n víi hÖ thèng v¨n b¶n ph¸p luËt hoµn thiÖn h¬n, víi chÊt l-îng

hµng ho¸ tèt h¬n, víi dÞch vô phôc vô cho c¸c N§T chuyªn nghiÖp h¬n, vµ víi mét thÕ hÖ

N§T míi cã tiÒm lùc m¹nh mÏ h¬n, n¨ng lùc ®Çu t- cao h¬n …

3.1.2. Những tác động từ nền kinh tế thế giới đến TTCK Việt Nam

“Cuộc khủng hoảng thế kỷ” của nền kinh tế Mỹ rõ ràng đã và đang tác động mạnh

mẽ đến nền kinh tế trên thế giới, kéo theo đó là các cuộc khủng hoảng với quy mô rộng trên

TTCK, bất động sản, tài chính, tín dụng... đang có nguy cơ bùng nổ. Tuy nhiên, cuộc khủng

hoảng mới chỉ tác động ở một mức độ chậm chưa đủ mức có thể làm “khuynh đảo” đối với

nền kinh tế Việt Nam.

Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), do ảnh hưởng của quá trình khủng hoảng tài chính

và suy thoái kinh tế Mỹ kinh tế toàn cầu đã dự báo tăng trưởng chậm lại từ 5% (2007)

xuống còn còn 4,1% (2008) và 3,9% (2009), trong đó Mỹ dự báo tăng trưởng 1,3% năm

2008 và khoảng 0,8% vào năm 2009. Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ, thêm vào đó, giá dầu

và giá của các loại hàng hóa toàn cầu tăng đã dẫn tới giá tiêu dùng tại nhiều quốc gia tăng

theo. Ngoài việc ảnh hưởng trực tiếp lên chỉ số giá tiêu dùng, giá dầu đã tạo ra sự tăng giá

thất thường của nhiều hàng hóa và dịch vụ khác.

Ngày 15/9, khi Ngân hàng Lehman Brothers chính thức nộp đơn phá sản, TTCK toàn

cầu đồng loạt tuột dốc, nhưng TTCK Việt Nam gần như đứng ngoài cuộc, thậm chí, trong

phiên giao dịch sáng 15/9, chỉ số Vn-Index vẫn tăng 0,76 điểm với khối lượng giao dịch

toàn thị trường đạt 1.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong phiên giao dịch này là

các NĐT nước ngoài ào ạt bán ra gần 4,9 triệu cổ phiếu, trong khi lượng mua chỉ khoảng

gần 2,9 triệu cổ phiếu tại sàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phiên giao dịch ngày 16/9, khi tin

tức về vụ phá sản của ngân hàng Lehman Brothers lan rộng thì cũng giống như tất cả các chỉ

số chứng khoán chủ chốt tại châu Á đã đồng loạt giảm mạnh nhất trong 6 tháng qua, VN-

Index có một phiên tụt giảm mất 20,81 điểm, tương đương với 4,36%, khối lượng giao dịch

toàn thị trường sụt giảm hơn một nửa so với phiên trước đó. Trong phiên giao dịch này, rất

nhiều NĐT muốn bán cổ phiếu cũng không thể bán được bởi lượng mua không nhiều.

Xu hướng giảm giá chung trên TTCK thế giới, bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng cho

vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ mà hiện đang dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất

trong vòng gần 80 năm qua.

Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ đến Việt Nam có tính gián

tiếp vì ngoài những khó khăn, thách thức, chúng ta cũng có những cơ hội để phát triển. Với

TTCK, chúng tác động gián tiếp thông qua ảnh hưởng về mặt tâm lý. Tất nhiên, ảnh hưởng

của thị trường tài chính Mỹ đối với thế giới là rõ rệt nhưng với thị trường Việt Nam thì

không nhiều. Điều này thể hiện qua mấy điểm: Việt Nam hiện chưa có công ty nào niêm yết

trên TTCK Mỹ như các công ty của Nga; tỷ lệ sở hữu của NĐT Mỹ trong DN Việt Nam

không nhiều; dòng tiền NĐT nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt từ thị trường Mỹ cũng

không nhiều (giá trị danh mục đầu tư của NĐT nước ngoài hiện có khoảng 7-8 tỷ USD) nếu

so với vốn tiền trên thị trường tài chính Mỹ thì rất nhỏ. Tuy nhiên, sự đổ vỡ trên thị trường

tài chính Mỹ là rất nghiêm trọng. Điều đó tác động đến hầu hết các thị trường ở châu Âu,

châu Á và các thị trường tên tuổi. Tại Việt Nam, TTCK bị ảnh hưởng do hiệu ứng tâm lý là

chính (do nhiều NĐT không có nhiều kiến thức chuyên môn). Đối với các DN niêm yết

trên TTCK Việt Nam, điều chi phối chính là yếu tố kinh tế vĩ mô.

Những ảnh hưởng trên thế giới đến Việt Nam có tính gián tiếp như: đến hoạt động

xuất khẩu, một số nhóm mặt hàng và có ảnh hướng nhất định tới giải ngân nguồn vốn đầu tư

trực tiếp. Trên TTCK chúng tác động gián tiếp thông qua ảnh hưởng về mặt tâm lý. Ngoài

ra, do giá trị tài sản và cổ phiếu trên thế giới giảm làm mất đi lợi thế so sánh với cổ phiếu

trên thị trường, đồng thời các tổ chức quốc tế có thể tái cấu trúc về danh mục, củng cố lại

luồng vốn đầu tư của họ làm luồng vốn đầu tư gián tiếp của họ không tăng và có thể có điều

chỉnh nhất định. Có thể nói, TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn tích luỹ để phát triển bền

vững.

3.2. Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010

3.2.1. Đối với hàng hoá cho TTCK

Thứ nhất, Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách đảm bảo Nhà nước thống nhất

quản lý việc phát hành chứng khoán ra công chúng và quản lý các công ty đại chúng; áp

dụng quy định quản trị công ty đối với các công ty đại chúng.

Thứ hai, xây dựng và thực hiện kế hoạch gắn kết cổ phần hoá các DN Nhà nước với

việc niêm yết trên TTCK; chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ

phần và niêm yết trên TTCK; bán bớt cổ phần Nhà nước không cần nắm giữ tại các công ty

niêm yết theo danh mục lĩnh vực, ngành nghề Chính phủ quy định.

Thứ ba, cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ theo hướng nâng cao tỷ

trọng đấu thầu, bảo lãnh phát hành theo các kỳ hạn khác nhau. Hoàn thiện khung pháp lý,

lựa chọn và hướng dẫn các chính quyền địa phương, các DN lớn để huy động vốn đầu tư.

Thứ tư, phát triển các hàng hoá khác trên TTCK bao gồm chứng chỉ quỹ ĐTCK, các

chứng khoán phái sinh.

3.2.2. Đối với thị trường giao dịch chứng khoán.

Một là, hướng dẫn, quản lý, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán chưa niêm yết

tại các CTCK.

Hai là, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TTGDCK Hà Nội theo mô hình thị

trường phi tập trung. Nằm trong kế hoạch phát triển TTCK, phương án quản lý tập trung

đối với thị trường OTC đang được gấp rút hoàn thành theo hướng chuyển thị trường OTC

thành thị trường đăng ký do HaSTC trực tiếp quản lý.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện thị trường giao dịch trái phiếu, trước hết là trái phiếu

Chính phủ.

3.2.3. Đối với các dịch vụ phụ trợ.

Thứ nhất, đối với Trung tâm lưu ký chứng khoán, nghiên cứu đề án chuyển đổi trung

tâm lưu ký chứng khoán thành mô hình công ty, trong đó có vốn sở hữu của Nhà nước, đa

dạng hoá nghiệp vụ của Trung tâm Lưu ký chứng khoán.

Thứ hai, đối với các thành viên lưu ký, phát triển mạng lưới thành viên lưu ký cung

cấp dịch vụ lưu ký chứng khoán đảm bảo an toàn tài sản, thực hiện các quyền cho NĐT.

3.2.4. Đối với các NĐT

Phát triển tổ chức ĐTCK chuyên nghiệp, khuyến khích các tổ chức này thành lập các

công ty quản lý qũy và quỹ ĐTCK, phấn đấu tỷ trọng đầu tư vào TTCK của tổ chức ĐTCK

chuyên nghiệp đạt 20-25% tổng giá trị giao dịch TTCK niêm yết vào năm 2010

Phổ cập giáo dục đào tạo các kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng,

nâng cao hiểu biết của công chúng về vai trò, lợi ích, rủi ro của hình thức đầu tư qua quỹ

ĐTCK.

Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng và hướng dẫn các chuẩn mực

công nghệ thông tin áp dụng cho các tổ chức kinh doanh và dịch vụ chứng khoán đảm bảo

cung cấp dịch vụ và thông tin TTCK minh bạch và công bằng cho mọi đối tượng đầu tư.

Hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung phục vụ quản lý và điều hành thị trường;

tin học hoá việc trao đổi, cập nhật dữ liệu TTCK. Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học

trong công tác quản lý, điều hành và giám sát thị trường.

3.2.5. Hội nhập quốc tế về TTCK

Thực hiện chương trình hội nhập thị trường vốn ASEAN giai đoạn 2006-2010, bao

gồm các nội dung: thực hiện sáng kiến Quỹ trái phiếu Châu Á; hài hoà hoá tiêu chuẩn phát

hành, niêm yết, công bố thông tin trên TTCK; tiến tới hình thành thị trường thứ cấp chung

cho giao dịch trái phiếu các nước ASEAN; phấn đấu ngày càng có nhiều DN tham gia danh

sách 100 công ty niêm yết hàng đầu của các nước ASEAN.

Thực hiện mở cửa dịch vụ TTCK theo lộ trình đã cam kết tại các Hiệp định song

phương và đa phương. Ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác song phương với các Uỷ ban

chứng khoán các nước trong khu vực.

3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt

Nam

3.3.1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán

3.3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động ĐTCK

Cần phải hoàn thiện khung pháp lý các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK.

Việc hoàn thiện khung pháp lý này sẽ giúp cho TTCK nói chung phát triển và do đó giúp

cho hoạt động PTCB trong ĐTCK cũng phát triển theo.

Nhà nước phải đưa ra một quy chuẩn cho hoạt động PTCB, đặc biệt là hoạt động

phân tích công ty. Hiện nay, hoạt động PTCB được tiến hành tại các CTCK theo một quy

trình phân tích riêng của từng công ty mà không theo một khuôn mẫu nào, do đó các NĐT

tại các CTCK khác nhau có những đánh giá khác nhau về cùng một loại chứng khoán, vì

vậy tác động khá lớn đến quyết định đầu tư của các NĐT.

Ngoài ra, cần sớm đưa thị trường OTC vào vòng kiểm soát, theo nghĩa các doanh

nghiệp có cổ phần mua bán (dù không qua trung gian), giá cả và số lượng mua bán phải

đăng ký trên thị trường OTC dưới sự kiểm soát của UBCK, có như vậy mới quản lý được

TTCK một cách toàn diện và chặt chẽ, và do đó sẽ giảm thiểu rủi ro cho NĐT, khi đó NĐT

sẽ phải thận trọng xem xét, phân tích chứng khoán, trước khi đưa ra quyết định đầu tư.

Mặt khác, nhà nước cũng phải quy định các tiêu chuẩn cần có cho các nhân viên

phân tích. Hiện nay, các nhân viên phân tích chưa được quy định cụ thể là cần phải có

những điều kiện nào để hành nghề cho nên có những CTCK tuyển những nhân viên không

thực sự có những kiến thức sâu sắc về phân tích chứng khoán nói chung, và PTCB nói

riêng, điều này ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng hoạt động PTCB trong ĐTCK.

3.3.1.2. Xây dựng hệ thống kế toán vững mạnh, áp dụng chuẩn mực kế toán quốc gia và

quốc tế.

Nguyên tắc kế toán là những tuyên bố chung như các chuẩn mực và những hướng

dẫn để phục vụ cho việc lập các bản báo cáo tài chính đạt được mục tiêu dễ hiểu, đáng tin

cậy và dễ so sánh, qua đó làm tăng độ tin cậy của các chỉ tiêu tài chính DN trong hoạt động

PTCB. Nguyên tắc kế toán chuẩn quốc gia theo thông lệ quốc tế vừa giúp DN chủ động

hạch toán kế toán phù hợp tình hình thực tế ngành nghề hoạt động kinh doanh của mình

đồng thời giúp các công ty kiểm toán dễ dàng hơn trong việc thực hiện các hoạt động kiểm

toán.

Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán chung không chỉ giúp DN chủ động trong công

tác hạch toán kế toán và lập báo cáo tài chính mà nó còn là tiêu chuẩn để các NĐT dễ dàng

theo dõi, tìm hiểu tình hình tài chính của DN khi đã được kiểm toán.

3.3.1.3. Xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường

Nhà nước cần xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường,

của ngành, của các công ty niêm yết như: hệ số rủi ro (), P/E của toàn ngành…Ở các

TTCK phát triển, các hệ số này được tính toán và công bố thường xuyên, bởi điều này sẽ

tránh cho người PTCB khỏi những ước tính chủ quan, làm cho mỗi NĐT sẽ đưa ra một mức

ước tính khác nhau, điều này sẽ thể hiện thị trường chưa minh bạch và hàm chứa quá nhiều

yếu tố rủi ro.

Xây dựng một định chế đo lường và tính toán các hệ số của thị trường còn là cơ sở

cho việc phát triển hệ thống định mức tín nhiệm trong ĐTCK ở Việt Nam, định mức tín

nhiệm sẽ đo lường và tính toán các thông số đó để cung cấp cho các đối tượng khác nhau

trên thị trường, NĐT cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đều có thể nhìn vào các

hệ số đánh giá chung về thị trường này để đưa ra một mức kỳ vọng hợp lý cho mình, qua đó

sẽ phát huy vai trò vốn có của PTCB trong hoạt động ĐTCK, thể hiện qua việc: làm cho thị

trường phát triển minh bạch hơn, giảm thiểu tối đa các hiện tượng như “bong bóng chứng

khoán”, sự bùng nổ quá mức của thị trường; thêm vào đó còn làm cho các NĐT có cơ sở để

đưa ra các quyết định đầu tư và kế hoạch đầu tư trong ngắn hạn, dài hạn.

3.3.1.4. Hoàn thiện chế độ công bố thông tin, nâng cao sự minh bạch của thị trường

Việc công bố thông tin là khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động kinh doanh

chứng khoán và cung cấp dịch vụ cho NĐT của các CTCK. Để các công ty nắm bắt tốt các

thông tin và thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin cho khách hàng cần có sự phối hợp

giữa các bên liên quan.

Về phía UBCKNN, SGD chứng khoán, TTGDCK cần quy định rõ trách nhiệm và

nghĩa vụ cung cấp thông tin của các tổ chức phát hành và các bên tham gia thị trường một

cách công bằng và kịp thời, nâng cao hơn nữa sự minh bạch hoá thị trường, quy định hành

lang pháp lý chặt chẽ cho hoạt động công bố thông tin của các công ty niêm yết.

Theo thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông

tin định kỳ là điều bắt buộc đối với các công ty niêm yết nhưng hoạt động PTCB trong

ĐTCK không chỉ dừng lại ở các công ty niêm yết mà cả các công ty chưa niêm yết, do đó

bên cạnh luật chứng khoán thì các luật khác cũng phải có những kết hợp và hỗ trợ theo, như

luật DN.

Tăng cường thông tin về nền kinh tế vĩ mô, về các ngành kinh doanh cũng như về

TTCK để định hướng cho các NĐT, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc

gây nhiễu.

Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm việc công bố thông tin trên TTCK, công

khai các vi phạm và mức độ xử lý về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối

tượng khác có liên quan trên phương tiện thông tin đại chúng.

Có như vậy, mới đảm bảo cho các thành viên khác của thị trường đón nhận được một

luồng thông tin đầy đủ và chính xác, hỗ trợ cho việc PTCB trong hoạt động ĐTCK. Thị

trường minh bạch cũng tạo điều kiện cho việc ứng dụng các kỹ thuật PTCB. Khi đó, mỗi

PTCB sẽ như thước đo của thị trường tại thời điểm đó, bởi nó dựa trên những kỳ vọng của

thị trường của người làm phân tích, thị trường càng minh bạch, những phân tích dự báo của

các NĐT sẽ tiến gần đến nhau và tiến gần đến các đánh giá chính xác hơn.

Thực tế, trong hoạt động ĐTCK ở Việt Nam các PTCB không có tính ứng dụng cao,

nhiều khi kỳ vọng của NĐT vượt quá giá trị thực sự của các chứng khoán (đặc biệt trong

giai đoạn 2006 – 2007, khi mà TTCK Việt Nam phát triển quá nóng). NĐT còn chủ yếu đầu

tư theo cảm tính, theo phong trào hoặc bằng cách phân tích tâm lý thị trường, cung cầu thị

trường mà thiếu những PTCB. Mặt khác, những thông tin không cân xứng khiến cho giao

dịch nội gián tăng cao, chính vì thế, các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là UBCKNN

phải sát sao hơn nữa với thị trường nhằm kiểm soát những giao dịch vi phạm pháp luật,

những hiện tượng làm giảm tính minh bạch của thị trường. Từ đó, những PTCB mới có cơ

sở để phát triển và được NĐT tin tưởng.

3.3.2. Về phía các CTCK

3.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin và công nghệ hoá trong hoạt động PTCB.

Các CTCK cần phải đảm bảo cho mình có một hệ thống thông tin thực sự tốt, tức là

thông tin phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời, có như vậy thì chất lượng của các PTCB

mới đáng tin cậy.

Các CTCK phải xây dựng cho mình một cơ sở dữ liệu riêng để phục vụ cho hoạt

động PTCB. Cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo tính chính xác và kịp thời trước những biến

động của thị trường, qua đó những PTCB mới thực sự có giá trị đối với người sử dụng.

Bên cạnh đó, các CTCK cũng cần phải công nghệ hoá quá trình phân tích, bằng cách

xây dựng một cơ sở dữ liệu điện tử với những phần mềm tự động cập nhật và xử lý số liệu

một cách thường xuyên, theo ngày, theo tháng, theo quý, việc làm này cần đầu tư rất nhiều

công sức, thời gian, tiền bạc nhưng hiệu quả nó đem lại sẽ rất lớn, nó giúp người phân tích

rút bớt được thời gian cho quá trình xử lý số liệu, giúp cho các số liệu thống kê bớt đi các

biến nhiễu, các sai số ngẫu nhiên. Trên thế giới thì việc áp dụng các phần mềm chuyên

nghiệp trong phân tích là điều khá phổ biến và nó thực sự đem lại rất nhiều hiệu quả trong

hoạt động phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện

tại hầu hết người làm phân tích tại các CTCK (nhất là các CTCK nhỏ) vẫn phải cập nhật số

liệu một cách hết sức thủ công vào các form xử lý số liệu của công ty chứ chưa hề có phần

cập nhật số liệu tự động từ phía thị trường. Việc áp dụng công nghệ không những tiết kiệm

thời gian và công sức cho các chuyên gia phân tích, mà còn làm cho hoạt động PTCB có

tính chuyên nghiệp cao. Do đó, việc cải tiến áp dụng các thiết bị, công nghệ, phần mềm

chuyên dụng là điều cần thiết.

3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và quy trình PTCB

Trong hoạt động PTCB cần phải chú trọng phân tích một cách toàn diện tất cả các

nội dung. Xây dựng quy trình hoạt động PTCB ngoài việc xác định các bước tiến hành thì

cần xây dựng một thời gian biểu hợp lý cho từng bước. Việc tiến hành phân tích theo các

bước và theo thời gian biểu đã định sẵn sẽ nâng cao hiệu quả của việc phân tích. Trong quy

trình PTCB, công ty nên có công đoạn đánh giá sơ bộ và bổ sung những dữ liệu cần thiết

trước khi thực hiện phân tích.

- Nghiên cứu sơ bộ: sau khi việc thu thập thông tin hoàn tất, công ty tiến hành phân

tích đánh giá sơ bộ về đối tượng phân tích, nếu thấy nhu cầu thông tin là đúng và đủ thì tiến

hành phân tích, nếu thiếu công ty sẽ tiến hành bổ sung, tìm kiếm thêm thông tin, thường thì

công ty luôn phải bổ sung các thông tin mới tiến hành phân tích được.

- Bổ sung các thông tin cần thiết: là việc công ty tiến hành bổ sung thêm các thông

tin, cơ sở dữ liệu cần thiết liên quan tới PTCB. Trong quá trình phân tích, đánh giá sơ bộ,

những tài liệu còn thiếu liên quan tới đối tượng phân tích sẽ được tiếp tục bổ sung. Mặt

khác, thường thì hoạt động PTCB được chuẩn bị và tiến hành trong một khoảng thời gian

nhất định, trong khoảng thời gian đó nhiều thông tin mới được cập nhật, chẳng hạn như:

một chính sách, quy định mới của Nhà nước; một sự thay đổi trong chính sách xuất nhập

khẩu của một quốc gia khác ảnh hưởng đến một số lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất

kinh doanh trong nước, hay các thông tin từ phía các công ty niêm yết… do đó, việc bổ

sung, chỉnh sửa thông tin là điều cần thiết.

- Sau khi hoàn thành việc PTCB và lưu hồ sơ phòng phân tích nên bổ sung thêm

công đoạn tiếp tục thu thập thông tin về đối tượng phân tích để phục vụ cho các khách hàng

tiếp theo

3.3.2.3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ phân tích

Những người tiến hành hoạt động PTCB đòi hỏi phải có một sự hiểu biết sâu rộng về

tất cả các lĩnh vực, cũng như sự hiểu biết về TTCK. Thực tế hiện nay, trong các CTCK ở

Việt Nam, số lượng cán bộ làm PTCB không thiếu, tuy nhiên chất lượng của đội ngũ này

còn nhiều yếu kém. Vì vậy, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ phân tích, đặc biệt chú

trọng tuyển mộ những chuyên viên phân tích có kinh nghiệm, trình độ cao, có khả năng xử

lý linh hoạt các tình huống phát sinh của thị trường là việc làm hết sức cần thiết. Do đó, cần

phải tổ chức đào tạo cho nhân viên phân tích về các kỹ năng phân tích, kỹ năng xử lý số

liệu, sử dụng các phương pháp PTCB một cách thành thạo, nâng cao hiệu quả quá trình xử

lý số liệu. Bên cạnh đó, các CTCK cũng nên xem xét chế độ giữ chân nguồn nhân lực có

chất lượng cao.

3.3.2.4. Kết hợp PTCB với các phân tích khác

Kết hợp PTCB với các phương pháp khác như phân tích kỹ thuật, hay các trường

phái phân tích khác để xây dựng danh mục đầu tư hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong

ĐTCK. Vận dụng PTCB trong ĐTCK chứ không phải chỉ ứng dụng PTCB, mà phải vận

dụng một cách linh hoạt - đặt trong bối cảnh thị trường lúc bấy giờ để đưa ra các quyết định

phù hợp.

3.3.3. Về phía các NĐT

NĐT trên TTCK Việt Nam bao gồm NĐT có tổ chức và NĐT cá nhân. NĐT có tổ

chức hay còn gọi là định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn

trên thị trường. Một số NĐT chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, công ty

bảo hiểm, quỹ lương hưu, quỹ bảo hiểm xã hội, các công ty tài chính, CTCK, và các ngân

hàng thương mại. Trên TTCK Việt Nam, các NĐT có tổ chức giữ vai trò vô cùng quan

trọng, các NĐT này không những là các NĐT lớn có tác động chi phối thị trường, động thái

của NĐT có tổ chức luôn được các NĐT cá nhân nhỏ lẻ quan tâm và tác động đến hành vi

của các NĐT này. Vì vậy, các NĐT có tổ chức là người hơn ai hết phải nâng cao vai trò của

PTCB, hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK, để TTCK Việt Nam phát triển vững

vàng, để ĐTCK thực sự trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, đem lại nhiều lợi

nhuận cho các NĐT hơn. Các giải pháp từ phía các NĐT có tổ chức trên TTCK Việt Nam

nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam cũng tương tự như các giải

pháp từ phía các CTCK đối với vấn đề này, do vậy tác giả xin phép không trình bày lại, mà

trong mục này chỉ xin trình bày các giải pháp từ phía các NĐT cá nhân

NĐT cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời,

tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nếu xét về nghề nghiệp hay

tầng lớp chúng ta có thể thấy sự đa dạng trong việc xuất thân của NĐT cá nhân Việt Nam.

Từ dân tài chính, nhân viên văn phòng làm ở các công ty có điều kiện sớm tiếp xúc với

TTCK, đến sự xuất hiện của anh nông dân, bà bán nước... trên các sàn giao dịch (đặc biệt là

vào giai đoạn TTCK Việt Nam phát triển nóng). Việc tham gia ĐTCK của họ đơn giản chỉ

là mua thấp bán cao để thu lời. Tuy nhiên cũng không loại trừ những NĐT làm ở các cơ

quan tài chính nhà nước, các CTCK, các định chế tài chính quốc tế... nhưng vẫn có những

hoạt động cho riêng mình. Xét kỹ hơn về những đối tượng tham gia vào giai đoạn này có

thể thấy đối với những người học tài chính, hay liên quan đến tài chính, có hiểu biết về tài

chính độ tuổi trẻ hơn, kinh nghiệm ít hơn và tham gia đúng vào thời điểm thị trường tăng

mạnh, nên ít có thời gian trau dồi kiến thức, do thành công có phần nào đó may mắn nên có

tâm lý chủ quan tự mãn, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến thành công của họ. Những

thành phần NĐT còn lại trong giai đoạn này, đa số chọn lựa mua bán chứng khoán theo cảm

tính và cảm hứng, hay “ai bảo gì mua nấy”. Họ dễ bị ảnh hưởng của các đối tượng bên

ngoài như các báo cáo của các tổ chức, các tin đồn… Vì vậy, họ không coi trọng hoạt động

phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng khi tham gia ĐTCK, và do vậy khi thị

trường không còn thuận lợi thì họ luôn là đối tượng dễ bị tổn thương và chịu thua thiệt đầu

tiên. Do đó, trong thời gian tới, các NĐT cá nhân cần phải nâng cao hơn nữa năng lực trong

hoạt động ĐTCK của mình, mà nhất là cần phải xem trọng hơn vai trò của PTCB và biết

vận dụng những kết luận, những phân tích và đánh giá của PTCB khi tham gia vào hoạt

động ĐTCK. Để làm được việc này, các NĐT cần thiết phải thực hiện một số những giải

pháp sau:

Một là, NĐT cá nhân cần phải vững vàng về hơn về tâm lý khi ĐTCK, một minh

chứng trong thời gian vừa qua cho thấy, nếu xét về những vấn đề kinh tế thì TTCK Việt

Nam không bị tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bởi lẽ TTCK Việt

Nam chưa có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với TTCK Mỹ, nhưng chỉ số VN-Index trên

TTCK Việt Nam cũng liên tục bị mất điểm, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng này đã tác

động đến TTCK Việt Nam thông qua tâm lý của các NĐT, đặc biệt là các NĐT cá nhân nhỏ

lẻ. Vì vậy, để TTCK phát triển, để tránh cho bản thân các NĐT cá nhân phải chịu những tổn

thất không đáng có, thì các NĐT cần vững vàng hơn về tâm lý, bình tĩnh đưa ra những nhận

định, những đánh giá, thực hiện những phân tích chứng khoán, PTCB khoa học và phù hợp

với tình hình thực tế. Qua đó, vai trò của PTCB cũng được nâng cao, có điều kiện để hoàn

thiện và do đó những kết luận từ PTCB cũng chính xác, khoa học và phục vụ đắc lực hơn

nữa cho NĐT cá nhân khi học thực hiện hoạt động ĐTCK.

Hai là, NĐT cá nhân nên cập nhật thông tin đa chiều một cách thường xuyên và liên

tục, các thông tin này không chỉ là các thông tin trực tiếp của TTCK mà còn là các thông tin

về tình hình kinh tế thế giới, diễn biến của kinh tế vĩ mô trong nước cũng như thông tin về

các ngành sản xuất kinh doanh, các DN. Tuy nhiên, NĐT cá nhân cũng nên chú trọng nguồn

thông tin chính thức được công bố bởi các cơ quan quản lý Nhà nước, các CTCK, các tổ

chức tài chính chuyên nghiệp…, sàng lọc các thông tin nhiễu, các tin đồn không có cơ sở, từ

đó sử dụng các thông tin đó một cách hiệu quả nhất cho hoạt động phân tích chứng khoán,

PTCB phục vụ cho việc ĐTCK đạt được kết quả cao hơn.

Ba là, các NĐT cá nhân phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ kiến thức của

mình đặc biệt là năng lực PTCB, qua đó các NĐT có thể tự mình đưa ra được những nhận

định về TTCK, các loại chứng khoán khi tham gia đầu tư trên TTCK để hạn chế rủi ro và

thu được lợi nhuận tối đa. Việc nâng cao trình độ của NĐT phải toàn diện từ việc nâng cao

kiến thức về PTCB đến việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm làm cho quá trình phân tích

được hiệu quả và tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí. Để làm được điều này, các NĐT có

thể tham gia các khoá đào tạo chính thức tại các trung tâm đào tạo về chứng khoán và

TTCK cũng như các lớp đào tạo về phân tích, đánh giá những tác động của các nhân tố kinh

tế vĩ mô, hoặc của các ngành kinh doanh, các lớp đào tạo tin học, hoặc học hỏi kinh nghiệm

đầu tư từ chính các NĐT khác, hoặc tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu kinh tế.

Bốn là, các NĐT cá nhân nên thiết lập cho mình mối liên hệ chặt chẽ với các CTCK,

hay các tổ chức tài chính chuyên nghiệp, từ đó NĐT sẽ có được lượng thông tin lớn với chất

lượng cao, đặc biệt là có thể vận dụng các đánh giá, các kết luận PTCB của các tổ chức đó

phục vụ cho quá trình ĐTCK của mình, làm cho hiệu quả thu được từ ĐTCK đạt được cao

hơn, hạn chế thua lỗ trong đầu tư.

3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt

Nam

3.4.1. Điều kiện về thông tin

TTCK là thị trường của thông tin cho nên việc công bố thông tin của các bên liên

quan đến chứng khoán là điều rất quan trọng. Thông tin được công bố trên TTCK có liên

quan đến nhiều bên bao gồm từ phía Chính phủ, các bộ ngành liên quan, UBCKNN và các

công ty tham gia TTCK. Khi tiến hành đầu tư thì các NĐT phải có thông tin từ những nguồn

khác nhau để nắm bắt được thực trạng nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,

kim ngạch xuất khẩu, cán cân thanh toán, cán cân ngân sách… cũng như nắm bắt được thực

trạng của các ngành và các công ty. Việc công bố thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời là

một trong những điều kiện quyết định hàng đầu dẫn đến thành công của hoạt động phân fích

cơ bản, nâng cao chất lượng của hoạt động PTCB trong ĐTCK.

3.4.2. Điều kiện về hành nghề phân tích

Muốn cho hoạt động PTCB có hiệu quả và các bản PTCB thực sự có giá trị đối với

các NĐT cũng như hỗ trợ cho hoạt động của CTCK thì phải có một văn bản pháp luật quy

định những người nào được tiến hành hoạt động phân tích, và bản phân tích của họ được

công bố dưới hình thức nào, và phải thông qua kiểm định. Vì nếu như bản phân tích không

phản ánh đúng tình hình hoạt động thực tế của các loại chứng khoán sẽ gây ra một tác động

xấu đến giá cả chứng khoán trên TTCK. Do đó, việc quy định rõ điều kiện để tiến hành hoạt

động PTCB và việc công bố thông tin phân tích ra công chúng là điều quan trọng.

3.4.3. Điều kiên về TTCK

3.4.3.1. TTCK phải có tính thanh khoản cao

Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với

NĐT, đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư, đây là một trong những

yếu tố giúp cho TTCK hoạt động tốt, năng động và hiệu quả hơn.

Nếu trong TTCK, các chứng khoán không có tính thanh khoản cao tức là khả năng

chuyển đổi thành tiền mặt kém thì TTCK không có sức hấp dẫn đối với các NĐT, vì các

NĐT cho rằng việc nắm giữ cổ phiếu mang lại cho mình nhiều rủi ro hơn là nắm giữ các tài

sản có giá khác và như vậy sẽ không có nhiều NĐT tham gia vào TTCK, hoạt động ĐTCK

sẽ không hấp dẫn và hoạt động PTCB cũng không thể phát triển được. Vì vậy, tính thanh

khoản trên TTCK là một điều kiện cần thiết để cho hoạt động PTCB phát triển và hoàn thiện

hơn

3.4.3.2. Chi phí tham gia vào TTCK phải thấp

Việc tham gia vào TTCK sẽ thu hút được nhiều NĐT hơn nếu như chi phí để tham

gia TTCK thấp hơn là tiến hành các hoạt động đầu tư khác. Khi tiến hành đầu tư vào một

lĩnh vực nào đó NĐT bao giờ cũng phải xem xét mình tốn một khoản chi phí là bao nhiêu

khi đầu tư vào lĩnh vực đó, hai khoản chi phí được các NĐT quan tâm nhiều nhất là phí giao

dịch và thuế đánh trên phần lợi nhuận mà họ được hưởng. Trong mỗi một lĩnh vực đầu tư

thì NĐT chịu một mức chi phí khác nhau, nếu như chi phí tham gia TTCK thấp hơn so với

đầu tư vào các thị trường khác thì TTCK sẽ thu hút được nhiều NĐT tham gia, làm cho hoạt

động của TTCK sẽ sôi động hơn, hoạt động ĐTCK sẽ nhộn nhịp hơn và do đó sẽ là điều

kiện rất tốt để cho hoạt động PTCB phát triển ngày một hoàn thiện và thực hiện được vai trò

tích cực của nó trong hoạt động ĐTCK hơn.

3.4.3.3. Các NĐT phải quan tâm đến rủi ro trong ĐTCK

Trong bất cứ một hoạt động nào thì mức sinh lợi và rủi ro luôn đi kèm với nhau và nó

đặc biệt được phản ánh rõ trong TTCK. Do đó, các NĐT khi tham gia vào TTCK phải có

một hiểu biết nhất định và đánh giá được các loại rủi ro có thể gặp phải để ra được những

quyết định đầu tư đúng đắn. Nếu NĐT không có một hiểu biết nhất định về rủi ro trong

ĐTCK thì họ sẽ không quan tâm đến các đánh giá, các kết luận của các chuyên gia phân

tích, và do đó các hoạt động phân tích nói chung, PTCB nói riêng cũng không có điều kiện

để phát triển.

Vì vậy, để TTCK phát triển một cách ổn định, cũng như hoạt động PTCB trong

ĐTCK có điều kiện ngày một hoàn thiện thì việc các NĐT quan tâm đến rủi ro trong đầu tư

là một nhân tố cần thiết.

3.4.3.4. Số lượng các NĐT và các hàng hoá trên TTCK phải nhiều

Một TTCK được coi là tốt nếu số lượng các NĐT tham gia TTCK đông và các hàng

hoá trên TTCK nhiều. Nếu như, TTCK có ít người tham gia thì khi đó thị trường sẽ không

phát triển theo đúng quy luật tự nhiên của nó mà sẽ bị chi phối bởi một số ít các NĐT, và

các quyết định của các NĐT này, điều đó sẽ gây ra những tác động không tốt đến thị trường,

bởi thị trường lên hay xuống chỉ do một số ít cá nhân quyết định, khi đó việc phân tích

chứng khoán nói chung và PTCB nói riêng trong hoạt động đầu tư sẽ bị xem nhẹ, và như

vậy sẽ không có cơ hội để phát triển và hoàn thiện.

Do đó, việc có đông các NĐT và nhiều loại hàng hoá, nhiều loại chứng khoán trên

TTCK cũng là một điều kiện quan trọng làm cho hoạt động PTCB trong ĐTCK phát triển.

3.4.3. Điều kiện về nguồn lực PTCB

Khi thực hiện bất kỳ hoạt động nào nói chung, hoạt động PTCB nói riêng thì nhân tố

con người luôn là nhân tố trung tâm, giữ vị trí vô cùng quan trọng. Vì vậy, để thực hiện tốt

hoạt động PTCB trong ĐTCK tại Việt Nam thì điều kiện cần thiết là phải có một đội ngũ

chuyên viên, đông về số lượng và đảm bảo về chất lượng trình độ chuyên môn, có hiểu biết

rộng rãi và sâu sắc về nhiều vấn đề của TTCK.

3.4.4. Điều kiện về công cụ phân tích

Khi tiến hành phân tích chứng khoán nói chung, PTCB nói riêng thì các chuyên gia

phân tích phải sử dụng những công cụ hỗ trợ nhất định cho hoạt động phân tích. Các công

cụ này bao gồm cả những công cụ phần cứng cũng như phần mềm. Các công cụ phần cứng

có thể là hệ thống máy tính, hệ thống máy chiếu… còn các thiết bị phần mềm như các

chương trình được lập trình phục vụ cho hoạt động PTCB được hiệu quả hơn. Đặc trưng của

TTCK là có rất nhiều số liệu, đặc biệt là hoạt động PTCB, các chuyên gia PTCB phải thu

thập, xử lý và tính toán một khối lượng thông tin rất lớn, vì vậy nếu không có sự hỗ trợ từ

các công cụ phân tích thì các chuyên gia phân tích không thể hoàn thành được nhiệm vụ của

mình. Do đó, công cụ phân tích là một điều kiện không thể thiếu được để thực hiện hoạt

động PTCB trong quá trình ĐTCK.

KKẾẾTT LLUUẬẬNN

Quá trình hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam là tất yếu và lâu dài, TTCK

nước ta mới có thời gian hoạt động được 8 năm, còn rất non trẻ nên kinh nghiệm trong

ĐTCK còn thiếu. Bởi vậy, việc vận dụng các kết luận của PTCB kết hợp với các phân tích

khác là rất quan trọng. Đánh giá được thực trạng của hoạt động PTCB trong ĐTCK ở Việt

Nam để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK tại Việt

Nam là một việc làm cần thiết và cần phải được quan tâm một cách thường xuyên và liên

tục.

Đề tài đã nêu những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, những vấn đề liên

quan đến hoạt động ĐTCK và PTCB nói chung, trên cơ sở đó đánh giá sơ bộ thực trạng

TTCK Việt Nam, những kết quả của hoạt động ĐTCK tại Việt Nam trải qua 8 năm hình

thành và phát triển, và đặc biệt là đã đánh giá một cách toàn diện về những kết quả đạt được

cũng như những mặt còn yếu kém hạn chế khi vận dụng phương pháp PTCB trong hoạt

động ĐTCK tại Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB

trong ĐTCK tại Việt Nam, qua đó phát huy tốt hơn nữa những kết luận, những đánh giá từ

PTCB làm cho hoạt động ĐTCK ở Việt Nam phát triển, thực sự trở thành một kênh đầu tư

quan trọng và hấp dẫn tại Việt Nam.

Các giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở Việt Nam đòi hỏi

phải được thực hiện đồng bộ và nhất quán cả từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước đến các

công ty chứng khoán và các NĐT, nếu một trong các giải pháp không được thực hiện hoặc

thực hiện không tốt cũng sẽ không thể phát huy tốt nhất vai trò của PTCB trong hoạt động

ĐTCK.

Tuy nhiên, đề tài là một cái nhìn, một cách tiếp cận từ chủ quan tác giả, vì vậy cũng

không tránh khỏi những thiếu sót, do đó để hoàn thiện phương pháp PTCB trong ĐTCK ở

Việt Nam cần thiết đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc, với sự đầu tư kỹ

lưỡng hơn.

DDAANNHH MMỤỤCC TTÀÀII LLIIỆỆUU TTHHAAMM KKHHẢẢOO

1. Giáo trình TTCK, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Khoa học kỹ

thuật – 2005;

2. Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Uỷ ban chứng khoán Nhà

nước, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 2002;

3. Giáo trình phân tích và ĐTCK, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Nhà xuất bản chính

trị quốc gia – 2003;

4. Giáo trình phân tích và ĐTCK, Học viện tài chính, Nhà xuất bản Tài chính – 2006;

5. Báo ĐTCK, Bộ Kế hoạch đầu tư

6. Website: http://www.hsx.vn

7. Website: http://www.hastc.com.vn

8. Website: http://www.vcbs.com.vn

9. Website: http://www.phantichcophieu.vn

10. Website: http:// www.ssc.gov.vn

BBẢẢNNGG CCÁÁCC CCHHỮỮ VVIIẾẾTT TTẮẮTT

TTCK: Thị trường chứng khoán

UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

SGD: Sở giao dịch

TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán

CTCK: Công ty chứng khoán

ĐTCK: Đầu tư chứng khoán

PTCB: Phân tích cơ bản

NĐT: Nhà đầu tư

DN: Doanh nghiệp