TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TRIỆT CĂN VÀ HÓA TRỊ BỔ TRỢ UNG THƯ BUỒNG TRỨNG GIAI ĐOẠN IC, II TẠI BỆNH VIỆN K

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC, II

bằng phẫu thuật kết hợp với hóa chất phác đồ Paclitaxel - Carboplatin tại bệnh viện K và một số yếu tố ảnh hưởng. Kết quả cho thấy thời gian theo dõi trung bình 22,9 ± 17,2 tháng, sống thêm toàn bộ trung bình là 56,3 ± 3,0 tháng, tại thời điểm 3 năm là 79,9%, 5 năm là 71,9%. Sống thêm không bệnh trung bình là 45,4 ± 3,4 tháng, tại thời điểm 3 năm là 62,8%, 5 năm là 41,2%. Bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng có nồng

độ CA125 > 600 U/ml và giai đoạn II có nguy cơ bệnh tái phát và tử vong cao hơn so với những bệnh nhân có CA125 ≤ 600 U/ml và giai đoạn IC. Kết luận: điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC-II bằng phẫu thuật triệt căn và hóa trị bổ trợ theo phác đồ Paclitaxel - Carboplatin đã đạt được kết quả tốt.

Nguyễn Trọng Diệp1, Nguyễn Tuyết Mai2 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện K

Từ khóa: ung thư biểu mô buồng trứng, giai đoạn IC - II, phẫu thuật triệt căn, phác đồ Paclitaxel - Carboplatin

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Minh năm 2004, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 4,4/100.000 dân, ở Hà Nội là 3,7/100.000 dân [3]. Về mô bệnh học, có tới 80 - 90% ung thư buồng trứng là loại biểu mô, 5 - 10% là ung thư tế bào mầm, và khoảng 5% ung thư có nguồn gốc mô đệm [1].

Ung thư buồng trứng là bệnh phổ biến trong các ung thư phụ khoa và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư phụ khoa ở Mỹ. Bệnh ung thư buồng trứng đứng thứ 7 trong các bệnh ung thư của phụ nữ trên toàn thế giới. Bệnh chủ yếu xuất hiện ở tuổi mãn kinh, có khoảng hơn một nửa xuất hiện sau tuổi 60 [1, 24].

Trên thế giới, tỷ lệ mắc cao ở phụ nữ da trắng (13 - 15/100.000 phụ nữ), tỷ lệ mắc thấp hơn ở Nhật Bản và các quốc gia đang phát triển (10/100.000 phụ nữ). Năm 2007, tại Mỹ ghi nhận 22.430 trường hợp mới mắc, 15.280 phụ nữ tử vong vì căn bệnh này, số phụ nữ tử vong vì ung thư buồng trứng bằng tổng số phụ nữ tử vong vì ung thư cổ tử cung và ung thư niêm mạc tử cung [2].

Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Tuyết Mai, Bệnh viện K Hà Nội Email: bacsimaia@gmail.com

Ngày nhận: 14/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013

Tại Việt Nam, bệnh phổ biến đứng hàng thứ ba trong các bệnh ung thư phụ khoa. Theo ghi nhận ung thư tại thành phố Hồ Chí

Trong đó ung thư biểu mô buồng trứng là bệnh khó chẩn đoán sớm, phần lớn được phát hiện ở giai đoạn muộn, khi bệnh đã lan tràn, gieo rắc vùng chậu và ổ bụng, ngay cả ở những nước tiên tiến vẫn có khoảng 70 - 80% bệnh nhân được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn tiến triển (III, IV). Vì vậy ung thư biểu mô buồng trứng là bệnh khó chữa khỏi, tỷ lệ tử vong cao. Về điều trị thì điều trị phẫu thuật đóng vai trò chủ đạo. Giai đoạn sớm, bệnh thường diễn biến âm thầm với triệu chứng không đặc hiệu hoặc không có triệu chứng. Tuy nhiên nếu phát hiện và điều trị bệnh kịp thời ở giai đoạn này tiên lượng tốt hơn nhiều so với giai đoạn tiến triển. Hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật được chỉ định ở tất cả các giai đoạn của ung thư buồng trứng. Theo các nghiên cứu nước ngoài tỷ lệ sống trên 5 năm lên tới 70 - 90% đối với giai đoạn I, 50 - 60%

90 TCNCYH 82 (2) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

3. Các bước tiến hành

đối với giai đoạn II, tỷ lệ này giảm xuống còn 15-20% đối với giai đoạn III và chỉ còn dưới 5% đối với giai đoạn IV [1, 2].

Bệnh nhân được khám lâm sàng, xác định kích thước u qua chẩn đoán hình ảnh và CA125 trước điều trị.

Các bệnh nhân có chỉ định sẽ được phẫu thuật triệt căn (cắt tử cung toàn bộ, 2 phần phụ và mạc nối lớn), sau đó được điều trị hóa chất theo phác đồ Paclitaxel - Carboplatin x 6 chu kỳ.

Tại Việt Nam, hiện nay các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn tiến triển, có rất ít nghiên cứu riêng về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng cũng như kết quả điều trị bệnh ở giai đoạn sớm. Vì vậy nghiên cứu được tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC - II bằng phẫu thuật kết hợp hóa chất phác đồ Paclitaxel - Carboplatin tại bệnh viện K.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Đối tượng

Theo dõi bệnh nhân sau điều trị: thời gian sống thêm toàn bộ được tính từ thời điểm phẫu thuật lần đầu đến khi bệnh nhân tử vong do bệnh. Thời gian sống thêm không bệnh được tính từ thời điểm phẫu thuật lần đầu đến khi có biểu hiện tái phát, di căn xa hoặc đến khi bệnh nhân tử vong mà không có biểu hiện tái phát và di căn bằng khám lâm sàng và các xét nghiệm (CA12.5 huyết thanh, siêu âm, Xquang, CT Scanner...). Phân tích thời gian sống thêm theo Kaplan - Meier. Bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC, II được điều trị phẫu thuật và hóa trị bổ trợ tại bệnh viện K từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 11 năm 2012.

3. Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu đã được thông qua tại Hội đồng Đạo đức Bệnh viện K.

III. KẾT QUẢ

Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học là ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC, II theo phân loại của FIGO năm 2008; được điều trị lần đầu bằng phẫu thuật triệt căn kết hợp hóa chất phác đồ Paclitaxel - Carboplatin; theo dõi được sau điều trị và tự nguyện tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh nhân không thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa chọn ở trên.

2. Phương pháp

Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên không đối chứng (Quasi- experimental study).

Đa số bệnh nhân đều ở độ tuổi ≤ 60 (chiếm tỷ lệ 73,3%), còn lại 26,7% bệnh nhân > 60 tuổi. Bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC chiếm tỷ lệ 53,3% và giai đoạn II chiếm 46,7%. Tỷ lệ bệnh nhân có kích thước khối u ≤ 10 cm và > 10 cm là tương đương nhau, lần lượt chiếm tỷ lệ 52,0% và 48,0%. Bệnh nhân có nồng độ CA125 huyết thanh ≤ 600U/ml là 80,0% và số bệnh nhân có nồng độ CA125 > 600U/ml là 15 (20%). Về kết quả mô bệnh học, đa số bệnh nhân ở thể ung thư biểu mô thanh dịch chiếm 52,0%. Tiếp đến là ung thư biểu mô thể nhày 28,0% và ung thư biểu mô khác 20,0%.

Kết quả cho thấy tất cả bệnh nhân đều được theo dõi sau điều trị đạt 100%. Thời gian Mẫu nghiên cứu: 75 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC, II được điều trị phẫu thuật triệt căn kết hợp hóa chất phác đồ Paclitaxel - Carboplatin tại bệnh viện K từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 11 năm 2012.

TCNCYH 82 (2) - 2013 91

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

theo dõi trung bình 22,9 ± 17,2 tháng, ngắn nhất là 5 tháng, dài nhất 65 tháng. Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu có 68 trường hợp còn sống chiếm tỷ lệ 90,7% và đã có 7 bệnh nhân tử vong chiếm 9,3%. Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng

Đặc điểm n %

Tuổi

≤ 60 tuổi > 60 tuổi 55 20 73,3 26,7

Kích thước u

≤ 10 cm > 10 cm 39 36 52,0 48,0

Giai đoạn ung thư biểu mô buồng trứng

Giai đoạn IC Giai đoạn II 40 35 53,3 46,7

CA125 trước điều trị

≤ 600 U/ml > 600 U/ml 60 15 80,0 20,0

Mô bệnh học

Ung thư biểu mô thanh dịch Ung thư biểu mô thể nhày Ung thư biểu mô khác 39 21 15 52,0 28,0 20,0

Bảng 2. Thời gian sống thêm toàn bộ và sống thêm không bệnh

Thời gian Trung bình (tháng) 3 năm (%) 5 năm (%)

Sống thêm toàn bộ 54,1 79,9 71,9

Sống thêm không bệnh 45,4 62,8 41,2

Kết quả cho thấy, thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 54,1 tháng; sống thêm toàn bộ tại thời điểm 3 năm là 79,9% và 5 năm là 71,9%. Thời gian sống thêm không bệnh trung bình là 45,4 tháng; sống thêm không bệnh tại thời điểm 3 năm là 62,8% và 5 năm là 41,2%.

Bảng 3 cho thấy, thời gian sống thêm toàn bộ trung bình của bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC là 54,0 ± 2,8 tháng, giai đoạn II (với 53,9 ± 4,0 tháng). Trong khi đó, sống thêm toàn bộ 3 năm ở nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC đạt 85,7%, cao hơn so với tỷ lệ bệnh nhân giai đoạn II sống thêm toàn bộ 3 năm (75,2%). Tuy nhiên, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Thời gian sống thêm không bệnh trung bình của bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC là 46,1 ± 3,0 tháng cao hơn so với giai đoạn II (với 40,4 ± 3,4 tháng). Đồng thời, sống thêm không bệnh 3 năm ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC đạt 72,2% cao

92 TCNCYH 82 (2) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

hơn so với 53,4% bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn II sống thêm không bệnh 3 năm, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Bảng 3. Mối liên quan giữa sống thêm toàn bộ và sống thêm không bệnh với giai đoạn bệnh

Thời gian sống thêm Giai đoạn IC Giai đoạn II p

Sống thêm toàn bộ

Sống thêm toàn bộ trung bình (tháng) 54,0 ± 2,8 53,9 ± 4,0 p > 0,05 Sống thêm toàn bộ 3 năm (%) 85,7 75,2

Sống thêm không bệnh

Sống thêm không bệnh trung bình (tháng) 46,1 ± 3,0 40,4 ± 3,4 p > 0,05 Sống thêm không bệnh 3 năm (%) 72,2 53,4

Bảng 4. Phân tích đa biến về một số yếu tố liên quan đến tử vong

Các yếu tố ảnh hưởng OR 95% CI

Tuổi (> 60 tuổi/≤ 60 tuổi) 0,7 0,78 - 6,42

Kích thước khối u (>10 cm/≤10 cm) 1,1 0,35 - 3,52

Nồng độ CA125 (> 600U/ml/≤ 600U/ml) 6,9 1,35 - 35,30

Thể giải phẫu bệnh (thanh dịch/thể khác) 1,3 0,28 - 6,41

1,02 - 70,73 Giai đoạn bệnh (IC, II) 8,1

Trên mô hình phân tích hồi quy đa biến cho thấy những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng có nồng độ CA125 > 600 U/ml và bệnh ở giai đoạn II có nguy cơ tử vong cao hơn so với những bệnh nhân có CA125 ≤ 600 U/ml và bệnh ở giai đoạn IC. Các yếu tố còn lại như tuổi, kích thước khối u và thể giải phẫu bệnh không có liên quan đến nguy cơ tử vong ở các bệnh nhân này.

Bảng 5. Phân tích đa biến về một số yếu tố liên quan đến tái phát bệnh

Các yếu tố ảnh hưởng OR 95% CI

Tuổi (> 60 tuổi/ ≤ 60 tuổi) 0,3 0,03 - 2,38

Kích thước khối u (> 10cm/ ≤ 10cm) 1,1 0,35 - 3,52

Nồng độ CA125 (> 600U/ml/≤ 600U/ml) 7,3 2,75 - 38,50

Thể giải phẫu bệnh (thanh dịch/thể khác) 1,1 0,35 - 3,65

Giai đoạn bệnh (IC, II) 5,7 1,43 - 23,38

TCNCYH 82 (2) - 2013 93

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Trên mô hình phân tích hồi quy đa biến cho thấy những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng có nồng độ CA125 > 600 U/ml và bệnh ở giai đoạn II có nguy cơ bệnh tái phát cao hơn so với những bệnh nhân có CA125 ≤ 600 U/ml và bệnh ở giai đoạn IC. Các yếu tố còn lại như tuổi, kích thước khối u và thể giải phẫu bệnh không có liên quan đến nguy cơ tái phát bệnh ở các bệnh nhân này.

IV. BÀN LUẬN

xác nên hiệu quả điều trị còn chưa cao. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho kết quả sống thêm toàn bộ và sống thêm không bệnh cao hơn nhiều so với một số nghiên cứu tại Việt Nam đã tiến hành trước đây như của tác giả Nguyễn Văn Lợi [6] và Lê Thị Vân [7] với thời gian sống thêm toàn bộ tại 3 năm 10,3% và 0% sau 5 năm. Nguyên nhân là do những nghiên cứu trước đây tại Việt Nam các đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm cả giai đoạn III, điều đó chứng tỏ giai đoạn bệnh có ảnh hưởng quyết định kết quả điều trị.

Giai đoạn IC, II có chỉ định điều trị hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật triệt căn với phác đồ Pa- clitaxel - Carboplatin giúp cải thiện thời gian sống thêm toàn bộ và thời gian sống thêm không bệnh, điều này được chứng minh trong 2 thử nghiệm lâm sàng ở châu Âu. Số lượng chu kỳ hóa trị vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, chưa có khẳng định rõ ràng, thử nghiệm pha III GOG so sánh hiệu quả điều trị 3 chu kỳ Paclitaxel-Carboplatin so với 6 chu kỳ trên 457 bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm nguy cơ cao, kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân nhận 6 chu kỳ có xu hướng làm giảm nguy cơ tái phát (20% so với 25%, p = 0,18) nhưng tương tự về thời gian sống thêm 5 năm (83% so với 81%, p > 0,05). Tuy nhiên độc tính trên hệ thần kinh, hệ tạo huyết là cao hơn ở nhóm nhận 3 chu kỳ [4]. Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân được điều trị 6 chu kỳ sau phẫu thuật triệt căn. Kết quả cho thấy thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 56,3 ± 3,0 tháng; sống thêm toàn bộ 3 năm là 79,9 %, 5 năm là 71,9%; sống thêm không bệnh trung bình là 45,4 ± 3,4 tháng, 3 năm là 62,8%, 5 năm là 41,2%. Theo tác giả Chan và cộng sự (2008) khi nghiên cứu 506 bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng cho thấy cả tỷ lệ sống thêm toàn bộ và sống thêm không bệnh tại 5 năm đều cao hơn nghiên cứu này với giá trị lần lượt là (81,7% so với 71,9%) và (75,5% so với 41,2%) [5]. Sự khác biệt này có thể được giải thích là do chất lượng điều trị ở nước ta còn gặp một số hạn chế hoặc do việc đánh giá giai đoạn bệnh chưa thật sự chính Đa số các bệnh nhân đều có nồng độ CA125 cao hơn bình thường. Khi tiến hành khảo sát bệnh nhân với ngưỡng CA125 huyết thanh > 600 U/ml tại thời điểm chẩn đoán nhận thấy có nguy cơ tái phát bệnh gấp 7,3 lần và nguy cơ tử vong gấp 6,9 lần so với bệnh nhân có nồng độ CA 125 huyết thanh ≤ 600 U/ml phù hợp với kết quả của nhiều tác giả trong nước và trên thế giới. Theo tác giả Crawford và cộng sự (2004) cho thấy nồng độ CA125 huyết thanh trước phẫu thuật phản ánh thể tích u nhưng không có ý nghĩa tiên lượng độc lập trong dự báo thời gian sống thêm và đến hiện nay quan điểm này vẫn còn nhiều tranh luận chưa thống nhất. Nồng độ CA125 huyết thanh sau phẫu thuật và đặc biệt nồng độ CA125 huyết thanh trong suốt quá trình và khi kết thúc điều trị hóa chất lần đầu đều có giá trị tiên lượng. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng nồng độ CA125 huyết thanh trở về bình thường sau 3 chu kỳ hóa chất đầu tiên và khi nồng độ này đạt được

94 TCNCYH 82 (2) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

mức ≤10 U/ml sau khi hoàn thành phác đồ điều trị là yếu tố tiên lượng quan trọng [4, 8].

cao hơn so với những bệnh nhân có CA125 ≤ 600 U/ml và giai đoạn IC. Cần tiếp tục nghiên cứu phác đồ điều trị này cho giai đoạn III và IV.

Lời cảm ơn

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp tại bệnh viện K đã tạo điều kiện và hỗ trợ trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. Đồng thời chúng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Ngô Văn Toàn, Trường Đại học Y Hà Nội về những đóng góp ý kiến quý báu giúp chúng tôi hoàn thành bài báo này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Bá Đức, Trần Văn Thuấn,

Nguyễn Tuyết Mai (2010). Ung thư buồng trứng. Điều trị nội khoa bệnh ung thư. Nhà

xuất bản Y học, Hà Nội, 189 - 199.

2. Crawford SM, Paul J, Reed NS et al

(2004). The prognostic significance of the CA 125 nadir in patients that achieve a CA 125

response. Proc Am Soc Clin Oncol; 23 - 448.

3. Nguyễn Bá Đức (2004). Ghi nhận ung thư Hà Nội. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh,

Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 7 - 12.

Khi phân tích đa biến tìm mối liên quan của giai đoạn bệnh với nguy cơ tái phát và tử vong, kết quả nghiên cứu cho thấy giai đoạn bệnh là yếu tố làm tăng cả nguy cơ tái phát và tử vong của bệnh. Nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn II có nguy cơ tái phát gấp 5,7 lần và nguy cơ tử vong gấp 8,1 lần so với nhóm bệnh nhân giai đoạn IC với giá trị OR lần lượt là OR = 5,7, 95% CI: 1,43 - 22,38) và OR = 8,1, 95% CI: 1,02 - 70,73). Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương tự với nhiều nghiên cứu trên thế giới. Theo một nghiên cứu trên thế giới tiến hành trên 5156 bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng trong giai đoạn từ 1999 - 2005 cho kết quả sống thêm toàn bộ 5 năm là 89% đối với giai đoạn I và 58% đối với giai đoạn II (cụ thể 92% cho giai đoạn IA, 85% cho giai đoạn IB, 83% cho giai đoạn IC, 67% cho giai đoạn IIA, 56% cho giai đoạn IIB, 51% cho giai đoạn IIC). Kết quả của Viện ung thư quốc tế dựa trên các phân tích ung thư của SEER (Surveillance, Epidemiology and End Results) cho kết quả tỷ lệ sống thêm toàn bộ 5 năm là 93,1% đối với giai đoạn I, 69% đối với giai đoạn II [9]. V. KẾT LUẬN 4. DeVita, Vincent T et al (2008). Princi- ples & Practice of Oncology, 8th Edition, Part

3 - Practice of Oncology, Chapter 42 - Gyne-

cologic Cancers, Section 5: Ovarian Cancer,

Fallopian Tube Carcinoma, and Peritoneal

Carcinoma.

5. Chan JK, Tian C, Monk BJ et al (2008). Prognostic factors for high-risk early-stage

epithelial ovarian cancer: a Gynecologic On-

cology Group study. Cancer; 112, 2202.

Điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IC, II bằng phẫu thuật triệt căn và hóa trị bổ trợ theo phác đồ Paclitaxel - Carboplatin đã đạt được kết quả tốt. Thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 56,3 ± 3,0 tháng với tỷ lệ sống thêm toàn bộ 3 năm là 79,9% và 5 năm là 71,9%. Thời gian sống thêm không bệnh trung bình là 45,4 ± 3,4 tháng với tỷ lệ sống thêm không bệnh 3 năm là 62,8% và 5 năm là 41,2%. Bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng có nồng độ CA125 > 600 U/ml và giai đoạn II có nguy cơ bệnh tái phát và tử vong 6. Nguyễn Văn Lợi (2005). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học và đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô buồng trứng

TCNCYH 82 (2) - 2013 95

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

giai đoạn III tại bệnh viện K từ 2000 - 2004. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú. Trường Đại học Y Hà Nội.

EA et al (2007). CA125 level as a predictor of progression-free survival and overall survival in ovarian cancer patients with surgically de- fined disease status prior to the initiation of intraperitoneal consolidation therapy. Gynecol

Oncol; 104; 176 - 180. 9. Robert Bristow

7. Lê Thị Vân (2011). Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IIIC bằng phương pháp phẫu thuật kết hợp với hóa chất tại bệnh viện K từ 2005 - 2010. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa cấp II. Trường Đại học Y Hà Nội.

8. Kolwijck F, Abu-Rustum NR, Poynor and Deborah (2010). Early diagnosis and Amstrong treatment of cancer: ovarian cancer. Saunders Elserier, Philadenphia.

Summary RADICAL SURGERY FOLLOWED BY ADJUVANT CHEMOTHERAPY FOR STAGE IC,II OVARIAN CARCINOMA AT K HOSPITAL

The aim of this study is to evaluate the results of radical surgery followed by adjuvant chemotherapy with palitaxel and carboplatin for ovarian carcinoma stage IC, II at K hospital, and to determine influence factors involved in treatment successes. Methods: Please describe briefly the radical surgical procedure, how many patients were involved in the studies, and method of evaluating the results? Results: The mean follow-up was 22.9 ± 17.2 months and the overall survival (OS) was 56.3 ± 3.0 months. The overall survival was still high with 79.9% of the patients survived after 3 years and 71.9% of the patients survived after 5 years of therapy. The other measurement of the effectiveness of cancer therapy was the measurement of Disease - Free Survival (DFS) rate. The average DFS for this study was 45.4 ± 3.4 months. After 3 years post-therapy, 63.8% of the patients were still disease-free. The DFS reduced to 41.2%. There were correlation between CA125 levels and cancer stages to cancer recurrence and mortality risk. Conclusions: These results suggest that the combination of radical surgical and adjuvant chemotherapy is an effective treatment regime in treating state IC-II ovarian carcinomas.

Keywords: ovarian carcinoma, stage IC, II, radical surgery, Paclitaxel- Carboplatin regiment

96 TCNCYH 82 (2) - 2013