TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA VẬT LÝ

NGUYỄN TUẤN ANH

SỨC CĂNG MẶT PHÂN CÁCH CỦA NGƯNGTỤ BOSE –EINSTEIN HAI THÀNH PHẦN BỊ GIỚI HẠN BỞI HAI TƯỜNG CỨNG Chuyên ngành: Vật lý lý thuyết

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI,2017

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên,em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo

Th.S Hoàng Văn Quyết người đã tận tình và nghiêm khắc hướng dẫn

để em có thể hoàn thành khóa luận này.

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến những thầy cô giáo đã giảng

dạy em trong bốn năm qua, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Vật lý Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã giảng dạy và trang bị cho em những kiến thức

cơ bản trong học tập, nghiên cứu khoá luận cũng như trong công việc sau

này.

Trong quá trình nghiên cứu vì thời gian có hạn và bước đầu làm quen

với phương pháp nghiên cứu khoa học nên đề tài không tránh khỏi những

thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp của các quý thầy cô

và các bạn để đề tài này được hoàn thiệnhơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 04 năm2017

Sinhviên

Nguyễn Tuấn Anh

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp “Sức căng mặt phân cách của ngưng tụ Bose-

Einstein hai thành phần bị giới hạn bởi hai tường cứng” được hoàn thành

dưới sự hướng dẫn tận tình và nghiêm khắc của thầy giáo Th.S Hoàng Văn

Quyết.

Tôi xin cam đoan đề tài này là kết quả nghiên cứu của tôi và không

trùng với bất kì kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác.

Hà Nội, tháng 04 năm2017

Sinhviên

Nguyễn Tuấn Anh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2

5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 2

6. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 2

NỘI DUNG ....................................................................................................... 3

Chương 1.TỔNG QUAN VỀ NGƯNG TỤ BOSE-EINSTEIN .................. 3

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ............................................................ 3

1.2. Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về ngưng tụ Bose - Einstein

Condensates ................................................................................................... 10

1.2.1. Loại ánh sáng mới tạo đột phá về vật lý .............................................. 10

1.2.2. Kỹ thuật lưu trữ và khôi phục ánh sáng ............................................. 12

1.3. Tổng quan các nghiên cứu lý thuyết của ngưng tụ Bose-Einstein có

liên quan đến khóa luận ................................................................................ 15

1.3.1. Thống kê Bose – Einstein .................................................................... 15

1.3.2. Toán tử Hamilton .................................................................................. 24

1.3.3. Phương trình Gross-Pitaevskii ............................................................ 25

1.3.3.1. Hệ riêng biệt ..................................................................................... 26

1.3.3.2. Hệ hai thành phần ............................................................................ 28

1.3.3.2.1. Phương trìnhGross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian ..................... 28

1.3.3.2.2. Phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào thờigian 30

1.4. Sơ lược về phương pháp gần đúng Parabol kép ................................. 33

CHƯƠNG 2. SUẤT CĂNG MẶT PHÂN CÁCH ...................................... 35

2.1 Trạng thái cơ bản của hệ ngưng tụ Bose-Einstein hai thành phần bị

giới hạn bởi hai tường cứng ......................................................................... 35

2.2 Suất căng mặt phân cách của ngưng tụ Bose-Einstenin hai thành

phần bị giới hạn bởi hai tường cứng ........................................................... 38

2.2.1. Khái niệm về sức căng mặt ngoài ........................................................ 38

2.2.2. Suất căng mặt phân cách của ngưng tụ Bose-Einstenin hai thành

phần bị giới hạn bởi hai tường cứng ............................................................ 41

KẾT LUẬN .................................................................................................... 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 46

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ý tưởng ngưng tụ Bose-Einstein Condensates (BEC) là của Satyendra

Nath Bose (Ấn Độ) và Albert Einstein (Mỹ) tiên đoán từnăm1924. Nhưng mãi

tới năm 1980 kỹ thuật laze phát triển đủ để làm siêu lạnh các nguyên tử đến

nhiệt độ rất thấp thì BEC mới thực hiện được và đến năm 1995 mới quan sát

được bằng thực nghiệm. BEC là trạng thái vật chất hết sức quan trọng trong

phòng thí nghiệm để quan sát nhiều hiệu ứng vật lý mà các vật chất khác

không có, nhất là đối với các hiệu ứng lượng tử. Trong một thập niên qua, nhờ

sự phát triển hết sức tuyệt vời của các kỹ thuật dùng trong thực nghiệm để tạo

ra khí siêu lạnh người ta đã tạo ra được trên thực nghiệm các BEC hai thành

phần từ phân tử khí gồm hai thành phần khí khác nhau và điều quan trọng là

có thể điều khiển được cường độ tương tác giữa hai thành phần này để sinh ra

một trạng thái bất kì theo ý muốn. Đây chính là một môi trường lý tưởng để

kiểm chứng trong phòng thí nghiệm nhiều hiện tượng lượng tử khác nhau,

chẳng hạn sự hình thành các xoáy Abrikosov, các vách ngăn giữa hai thành

phần, các trạng thái soliton, các trạng thái ripplon, các đơn cực...

Ở Việt Nam BEC vẫn còn là một vấn đề mới mẻ, nhất là đối với học sinh và

sinh viên. Vì vậy việc tìm hiểu BEC đối với sinh viên là hết sức cần thiết. Do

điều kiện nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam đối với sinh viên còn gặp

nhiều khó khăn (thiết bị, kinh phí,…) nên để tìm hiểu về BEC chúng ta chỉ

mới có thể tìm hiểu trên phương diện lí thuyết. Vì thời gian và kiến thức hạn

hẹp nên đối với sinh viên chúng em chỉ có thể tìm hiểu về một khía cạnh nhỏ

của BEC. Vì vậy em chọn và nghiên cứu đề tài: “SỨC CĂNG MẶT PHÂN

CÁCH CỦA NGƯNG TỤ BOSE –EINSTEIN HAI THÀNH PHẦN BỊ

GIỚI HẠN BỞI HAI TƯỜNG CỨNG” làm đề tài nghiên cứu của mình.

1

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý thuyết về ngưng tụ Bose-Einstein nghiên cứu sức căng mặt

ngoài của ngưng tụ Bose-Einstein hai thành phần bị giới hạn bởi một

tường cứng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: các tính chất ở bề mặt tiếp giáp, tính nhiệt động, tính thống kê của

hệ BCE hai thành phần

Phạm vi: chỉ nghiên cứu trường hợp hai chất lỏng không trộn lẫn nhau

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trình bày tổng quan được các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về BCE

Trình bày hệ phương trình Gross-Pitaevskii

Trình bày về phương pháp gần đúng Parabol kép

Áp dụng phương pháp gần đúng Parabol kép để nghiên cứu sức căng mặt

phân cách của ngưng tụ Bose –Einstein hai thành phần bị giới hạn bởi hai

tường cứng

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong khuôn khổ lý thuyết Gross-Pitaevskii áp dụng phương pháp gần đúng

Parabol kép

6. Đóng góp của đề tài

Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên.

2

NỘI DUNG

Chương 1.TỔNG QUAN VỀ NGƯNG TỤ BOSE-EINSTEIN

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Albert Einstein (1897-1955) là một nhà vật lí lý thuyết sinh ra ở Đức.

Khi bước vào sự nghiệp của mình, Eisntein đã nhận ra cơ học Newton không

còn có thể thống nhất các định luật của cơ học cổ diển với các định luật của

trường điện từ. Từ đó ông phát triển thuyết tương đối đặc biệt, với các bài

báo đăng trong năm 1905. Tuy nhiên, ông thấy nguyên lý tương đối có thể

mở rộng cho cả trường hấp dẫn, và đến năm 1916 ông đã xuất bản một bài

báo cáo về thuyết tương đối tổng quát. Ông cũng là người đặt cơ sở cho lý

thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1917, Einstein sử dụng thuyết tương đối tổng

quát để miêu tả mô hình cấu trúc của toàn thể vũ trụ...

Một trong những thành tựu khoa học của ông đó là ý tưởng về ngưng tụ

Bose-Einstein Condensates bắt đầu từ năm 1924 khi nhà lý thuyết Ấn Độ

Satyendra Nath Bose suy ra định luật Planck cho bức xạ vật đen lúc xem

photon như một chất khí của nhiều hạt đồng nhất. Satyendra Nath Bose chia

sẻ ý tưởng của mình với Einstein và hai nhà khoa học đã tổng quát hóa lý

thuyết của Bose cho một khí lý tưởng các nguyên tử và tiên đoán rằng nếu

các nguyên tử bị làm đủ lạnh, bước sóng của chúng trở thành lớn đến mức

chồng lên nhau. Các nguyên tử mất nhận dạng các nhân và tạo nên một trạng

thái lượng tử vĩ mô hay nói cách khác mộtsiêu nguyên tử - tức là một BEC

Về mặt lý thuyết các hạt trong vật lý được chia làm hai lớp cơ bản: lớp

các boson và lớp các fermion. Boson là những hạt có ''spin nguyên''

(0,1,2,...), fermion là những hạt có spin ''bán nguyên'' (1/2,3/2...). Các hạt

boson tuân theo thống kê Bose- Einstein, còn các hạt fermion tuân theo

thống kê Fecmi- Dirac. Ngoài ra các hạt fermion còn tuân theo nguyên lý

3

ngoại trù Pauli, ''hai hạt fermion không thể cùng tồn tại trên cùng một trạng

thái lượngtử''.

Ở nhiệt độ phòng, boson và fermion đều phản ứng rất giống nhau, giống

hạt cổ điển tuân theo gần đúng thống kê Mắcxoen- Bônxơman (bởi cả thống

kê Bose-Einstein và thống kê Fecmi- Dirac đều tiệm cận đến thống kê

Mắcxoen- Bônxơman ở nhiệt độ phòng). Có thể khẳng định rằng ở nhiệt độ

thấp khí Bose có tính chất khác hẳn khí Fermion (chẳng hạn như khí điện tử

tự do trong kim loại). Thật vậy vì các hạt Boson không chịu sự chi phối của

nguyên lý cấm Pauli nên ở nhiệt độ không tuyệt đối tất cả đều có năng

lượng  = 0, do đó trang thái cơ bản của tất cả chất khí là trạng thái có E = 0.

Còn đối với khí fermion thì khác, ở nhiệt độ T = 00K các hạt lần lượt chiếm

các trạng thái có năng lượng từ 0 đến mức fermion, do đó năng lượng của cả

hệ khác không (E #0).

Xét việc áp dụng thống kê Bose-Einstein vào hệ hạt có spin nguyên hay

spin bằng không (ví dụ như các photon, các mezon, các nguyên tử trong đó

các electron và nucleon là chẵn,...) được gọi là các hạt Boson hay khí Bose.

Khi nhiệt độ hạ xuống thấp Tc nào đó thì theo nguyên lý bất định

1 2⁄ do

Heisenberg các hạt boson có bước sóng Đơbrơi là 𝜆𝐵 = (2𝜋ħ2 mkBT) đó 𝜆𝐵tăng lên khi nhiệt độ giảm. Khi 𝜆𝐵có thể so sánh được với kích thước

không gian giữa các nguyên tử thì các sóng Đơbrơi này sẽ chồng chất lên

nhau tạo thành bó sóng và khi đó các hạt đều có cùng một trạng thái lượng tử

ta gọi là trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein (BEC ).

Sự chuyển pha dẫn đến ngưng tụ Bose Einstein xuất hiện khi nhiệt độ

của hệ ở dưới nhiệt độ giới hạn, đối với khí phân bố đều 3 chiều của hệ hạt

không tương tác mà không có bậc tự do nội tại trong nó, được cho bởi công

thức:

4

𝑛

Ϛ(3/2)

2/3 2πћ2 ) 𝑚𝑘𝐵

ћ2𝑛2/3 𝑚𝑘𝐵

≈ 3.3125 Tc= (

Tc là nhiệt độ giới hạn

n là mật độ hạt

m là khối lượng của từng boson

ћ là hằng số Plăng thu gọn

kB là hằng số Boltzmann

ς là hàm Zeta Riemann; ς(3/2)≈ 2.6124

Về thực nghiệm các chất khí lượng tử siêu lạnh có những tính chất đặc

biệt mang lại một hệ lí tưởng để nghiên cứu những hiện tượng vật lý cơ bản.

Với việc chọn erbium, đội nghiêm cứu đứng đầu là Frencesca Ferlaino thuộc

Viện Vật lí Thựcnghiệm,ĐạihọcInnsbruck,đãchọnmộtnguyêntốrấtlạ,đólàvì

những tính chất đặc biệt của nó mang lại những khả năng mới và hấp dẫn để

nghiên cứu những câu hỏi cơ bản trong lĩnh vực vật lí lượng tử.

"Erbium tương đối nặng và có từ tính mạnh. Những tính chất này dẫn

tới một trạng thái lưỡng cực cực độ của các hệ lượng tử", Ferlaino cho biết.

Cùng với nhóm nghiên cứu của mình, bà đã tìm ra một phương pháp

đơn giản đến bất ngờ để làm lạnh nguyên tố phức tạp này bằng phương tiện

laser và kĩ thuật làm lạnh bay hơi. Ở những độ gần độ không tuyệt đối, một

đám mây gồm khoảng 70.000 nguyên tử erbium tạo ra một ngưng tụ Bose-

Einstein từ tính. Trong một ngưng tụ, các hạt mất đi tính chất cá lẻ của chúng

và đồng bộ hóa thành trạng thái của chúng. " Những thí nghiệm với erbium

cho phép chúng tôi thu được kết quả sâu sắc mới về những quá trình tương

tác phức tạp của những hệ tương quan mạnh và đặc biệt, chúng ta mang lại

những điểm xuất phát mới để nghiên cứu từ tính lượng tử với những nguyên

tử lạnh", Franlainonói.

Cesium, strontium và erbium là ba nguyên tố hóa học mà các nhà vật lí

5

ở Innsbbruck đã cho ngưng tụ thành công trong vài năm trở lại đây. Một đột

phá quan trọng đã được thực hiện bởi Rudolf Grimm và nhóm nghiên cứu

của ông hồi năm 2002 khi họ thu được sự ngưng tụ của cesium, dẫn tới vô số

những kết quả khoa học trong những năm sau đó. Một người nhận tài trợ

START khác, Florian Schreck, một thành viên thuộc nhóm nghiên cứu của

Rudolf Grimm, là người đầu tiên hiện thực hóa một ngưng tụ của strontium

hồi năm 2009. Và nay Francesca Ferlaino lập tiếp kì công này với nguyên tố

erbium.

Cho đến nay, trên khắp thế giới có tổng cộng 13 nguyên tố đã được làm

cho ngưng tụ. Mười trong số những ngưng tụ này đã được tạo ra bởi mười

nhóm nghiên cứu quốc tế khácnhau.

Năm 1938, Fritz London đề xuất trạng thái BEC như là một cơ chế giải

thích cho tính siêu chảy của Heli-4 cũng như tính siêu dẫn ở nhiệt độ thấp

của một số vật liệu.

Năm 1995, khí ngưng tụ đầu tiên đã được tạo ra bởi nhóm của Eric

Cornell và Carl Wieman ở phòng thí nghiệm JILA thuộc Viện Công nghệ

Tiêu chuẩn Quốc gia (NIST) tại Đại học Colorada ở Boulder, khi họ làm lạnh

khí nguyên tử Rubidi đến nhiệt độ 170 nanokelvin (nk). Cũng trong thời gian

này, Wolfgang Ketterle ở Học viện Công nghệ Massachusetts tạo ra được

ngưng tụ Bose- Einstein đối với nguyên tử Natri và duy trì được hệ 2000

nguyên tử này trong thời gian lâu cho phép nghiên cứu những tính chất của

hệ. Vì vậy mà Cornell, Wieman, Ketterle được nhận giải Nobel Vật lý

năm2001.

6

Hình 1.1: Trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein của các boson, trong

trường hợp này là các nguyên tử Rubidi. Hình vẽ là phân bố tốc độ chuyển

động của các nguyên tử theo từng vị trí. Màu đỏ chỉ nguyên tử chuyển động

nhanh, màu xanh và trắng chỉ nguyên tử chuyển động chậm. Bên trái là trước

khi xuất hiện ngưng tụ Bose-Einstein. Ở giữa là ngay sau khi ngưng tụ. Bên

phải là trạng thái ngưng tụ xuất hiện rõ hơn. Ở trạng thái ngưng tụ, rất nhiều

nguyên tử có cùng vận tốc và vị trí (cùng trạng thái lượng tử) nằm ở đỉnh màu

trắng

Các nhà vật lý Mỹ nói rằng họ chứng kiến một sự kết hợp độc đáo của

một trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein trong một hệ các giả hạt được làm lạnh

được gọi là "polariton". Mặc dù những khăng định tương tự đã từng được

công bố trước đó, nhưng các nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực này vẫn hoài

nghi rằng sự kết hợp này là một hiệu ứng của trùm laser được dùng để tạo ra

các polariton, có nghĩa là hệ không chắc chắn là ngưng tụ. Thí nghiệm mới

này đã hoàn toàn loại bỏ những nghi ngờ bằng cách tích lũy polariton từ

cácchùm.

Tuy nhiên, các polariton - các boson bao gồm một cặp điện tử - lỗ trống

và một photon lại nhẹ hơn hàng ngàn lần so với nguyên tử rubidi, do đó có

7

thể tạo ra trạng thái BEC ở tại nhiệt độ cao hơn nhiều. Khẳng định đầu tiên

về sự ngưng tụ này được công bố vào năm 2006 khi mà Jacek Kasprzak (Đại

học Tổng hợp Joseph Fourier, Grenoble, Pháp) cùng với các đồng nghiệp

Thụy Sĩ và Anh sử dụng một chùm laser tăng một cách đều đặn mật độ của

các polariton trong một vi cầu chất bán dẫn được giữ ở nhiệt đô khá cao 19k.

Họ quan sát thấy ở trên một mật độ tới hạn, các polarition bắt đầu biểu

hiện thuộc tính kết hợp của trạng thái BEC. Một số nhà nghiên cứu khác

trong lĩnh vực này lại nghi nghờ rằng các polarition dù ở trạng thái BEC thật,

nhưng bởi vì thuộc tính này chỉ có thể quan sát thấy trong một vùng được

kích thích bởi chùm laser mà vốn tự nó đã kết hợprồi.

Hình 1.2: Sơ đồ bố trí của hệ bẫy các polariton (Science 316,1007)

Và để giải quyết rắc rối này, nhóm của David Snoke ở Đại học Tổng

hợp Pittsburgh và các cộng sự ở phòng thí nghiệm Bell (Mỹ) tạo ra một hệ

tượng tự mà trong đó các polarition được tạo bởi các tia laser sau đó di

chuyển khỏi vung kích thích của laser. Điều này được thực hiện nhờ một

ghim nhỏ chiều ngang 50 micron, để tạo ra một ứng suất bất đồng trên vi

cầu, có nghĩa là tạo ra như một cái bẫy để tích lũy các polariton. Và ở hệ

này, trạng thái BEC vẫn chỉ đạt được ở nhiệt độ thấp tới 4,2K.

8

Mặc dù nhiệt độ này thấp hơn nhiều so với nhiệt độ 19 K mà nhóm của

Kasprzak đã công bố, nhưng Snoke đã nói trên Physics Web rằng sau khi

xuất bản công trình này nhóm đã tạo ra hiện tượng này ở nhiệt độ cao tới 32

K.

Hơn nữa, các vi cầu ( hay vi hốc-microcavity) được tạo ra bởi vật liệu

bán dẫn phổ thông GaAs trong hệ bẫy tượng tự từng được dùng trong các khí

nguyên tử mà có thể dễ dàng chế tạo cho các nhóm nghiên cứu khác.

Hình 1.3: Phân bố xung lượng của các polariton (Science 316,1007)

Tuy nhiên, cũng vẫn còn một số nghi ngờ là liệu có phải hệ của nhóm

Snoke là trạng thái BEC trong các xu hướng truyền thống hay không vì các

polariton có thời gian sống khá ngắn đến nỗi các hệ chỉ có thể đạt được trạng

thái chuẩn cân bằng. "Một số người muốn hạn chế việc sử dụng khái niệm

BEC cho một hệ ở trong trạng thái cân bằng thực sự" - Snoke nói - "Mặt

9

khác, lại có một số người khác muốn tổng quát hóa chung trong một loại hệ

hỗn hợp bao gồm cả laser. Thực ra đó là một câu hỏi mang tính chất thuật

ngữ thì đúng hơn".

1.2. Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về ngưng tụ Bose -

Einstein Condensates

1.2.1. Loại ánh sáng mới tạo đột phá về vật lý

Các nhà khoa học Đức đã tạo ra bước đột phá trong lĩnh vực vật lý khi

cho ra đời một loại ánh sáng mới bằng cách làm lạnh các phân tử photon

sang trạng thái đốm màu.

Hình 1.4: Một "siêu photton" được tạo ra khi các hạt photon bị làm lạnh tới

một trạng thái vật chất được gọi tên là "trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein"

Cũng giống như các chất rắn, lỏng và khí, khám phá mới thể hiện một

trạng thái của vật chất. Với tên gọi "trạng thái ngưng tụ Bose- Einstein", nó

từng được tạo ra vào năm 1995 thông qua các nguyên tử siêu lạnh của một

chất khí, nhưng các nhà khoa học từng nghĩ không thể tạo ra nó bằng các hạt

10

vì việc vừa làm lạnh ánh sáng vừa ngưng tụ cùng lúc điều bất khả thi. Do

photon là các hạt không có khối lượng, chỉ mang năng lượng nên chúng đơn

giản dễ bị hấp thụ vào môi trường xung quanh và biến mất, đặc biệt là khi

chúng bị làm lạnh.

Bốn nhà vật lý Đức cuối cùng đã tìm được cách làm lạnh các hạt photon

mà không làm giảm số lượng của chúng. Để duy trì số lượng hạt photon,

những nhà nghiên cứu này đã sáng chế ra một thùng chứa làm bằng những

tấm gương đặt vô cùng sát nhau và chỉ cách nhau khoảng 1 micromet. Giữa

các gương, nhóm nghiên cứu đặt các phân tử "thuốc nhuộm" (về cơ bản chỉ

có một lượng nhỏ chất nhuộm màu). Khi các photon va chạm với những

phân tử này, chúng bị hấp thụ và sau đó được tái tạo. Các tấm gương đã

"tóm" các photon bằng cách giữ cho chúng nhảy tiến - lui trong một trạng

thái bị giới hạn. Trong quá trình đó, các hạt photon trao đổi nhiệt lượng mỗi

khi chúng va chạm với một phân tử thuốc nhuộm. Và cuối cùng, chúng bị

làm lạnh tới mức nhiệt độ phòng. Mặc dù không thể đạt độ không tuyệt đối

nhưng nhiệt độ phòng thôi, cũng đã đủ lạnh để các photon kết lại thành một

hạt khổng lồ, hay trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein.

Trong bài viết mới đây trên tạp chí Nature, nhà vật lý James Anglin

thuộc trường Đại học Kỹ thuật Kaiserslautern (Đức) đánh giá thử nghiệm

trên là "một thành tựu mang tính bước ngoặt".

Ứng dụng phát kiến này vào thực tế, chúng ta có thể tạo các loại laser

mới có bước sóng cực ngắn, trong dải tia cực tím, hoặc tia X.

Ví dụ ứng dụng quan trọng của laze nguyên tử : Là in hôlôgraf (“in ba

chiều”). Giống như hôlôgraf quang học nhưng nó có thể phân giải mịn gấp

70 ngàn lần ánh sáng.

11

Làm các gia tốc kế siêu nhạy.

Làm chip: Bằng cách rọi một chùm laze nguyên tử qua nột mặt nạ

hôlôgraf các nhà sản xuất có thể xây dựng các mạch với các đường dẫn mảnh

đúng bằng nguyên tử. Tương tự, kĩ thuật hôlôgraf có thể dùng vào việc chế

tạo ra các chi tiết linh kiện nano khác.

Du hành: Các con quay dùng dùng laze nguyên tử có thể gắn vào các hệ

thống dẫn đường quán tính, hoặc tương tự. Có thể dùng cho máy bay, tầu

ngầm và các loại tầu thuyền khác với tính năng định vị chính xác mà không

cần tham chiếu bất kỳ trạm bên ngoài nào, không như các hệ định vị vệ tinh

GPS thường làm.

Đo lường và phát hiện: Các giao thoa kế dùng các laze nguyên tử sẽ đủ

nhạy để phát hiện được cả những biến đổi nhỏ của trường hấp dẫn đến từ các

trầm tích dầu mỏ, các đường hầm hoặc các mắcma sâu trong lòng đất

1.2.2. Kỹ thuật lưu trữ và khôi phục ánh sáng

Các nhà vật lý Mỹ giờ đây đã có thể ghi một xung ánh sáng đồng bộ vào

một tập hợp các nguyên tử siêu lạnh - và sau đó khôi phục lại nguyên dạng

xung sáng đó từ một tập hợp các nguyên tử thứ hai ở cách đó một khoảng cách

nào đó.

Thí nghiệm đã chứng tỏ rằng các hạt vĩ mô là khó có thể phân biệt một

cách rạch ròi như cơ học lượng tử đã nói mặc dù chúng có thể tách biệt về

mặt vật lý. Thí nghiệm được tiến hành bằng cách sử dụng các nguyên tử

ngưng tụ Bose Einstein được làm lạnh tới nhiệt độ mà tất cả chúng ở cùng

một trạng thái lượng tử (Theo bài báo đăng trên tạp chí Nature).

Để bắt ánh sáng "nhảy" từ chỗ này sang chỗ khác, Lene Hau và các

đồng nghiệp ở Đại học Harvard đã khai thác một kỹ thuật được họ phát triển

từ năm 2001 để giữ các xung ánh sáng trong trạng thái ngưng tụ Bose-

Einstein, có thể làm cho ánh sáng laser đi chậm đến mức gần như đứng

12

lại. Kỹ thuật này bao gồm việc chiếu một xung từ một đầu phát laser vào các

nguyên tử Na ở trạng thái BEC, làm cảm ứng đến việc phân bố các dao động

nhỏ của điện tích trong nguyên tử.

Nhà vật lý Lene Vestergaard Hau sử dụng những tia laser và các đám

mây cực nhỏ để che nguyên tử siêu lạnh làm cho ánh sáng đi chậm đến mức

gần như đứng lại. Thông thường các lưỡng cực sẽ phát xạ và nhanh tróng bị

phân rã, nhưng khi chiếu một chùm laser có điều khiển vào các chuyên tử,

chúng sẽ chuyển các dao động trong điện tử thành các dao động của spin mà

dao động này ổn định hơn. Vì thế, khi mà xung laser này tắt đi, thông tin của

đầu phát laser sẽ được ghi lại trên dao động của lưỡng cực spin của nguyên

tử. Đảo tia laser điều khiển để giải phóng ánh sáng, cho phép các nguyên tử

bức xạ lại kết hợp (ví dụ như đồng pha với xung dò ban đầu).

Điểm khác biệt trong kỹ thuật mới là xung được làm chậm để tái hiện

lại tại vị trí BEC cách đó khoảng 1,6 mm. "Thủ đoạn đánh lừa" ở đây là hàm

sóng của lưỡng cực spin thực ra là một sự chồng chập của các nguyên tử

trong trạng thái cơ bản và trong trạng thái kích thích spin. Nhờ có nguyên lý

bảo toàn xung lượng mà các nguyên tử ở trạng thái kích thích spin sẽ di

chuyển khỏi BCE ban đầu khi nguyên tử hấp thụ photon từ xung laser, trong

khi nguyên tử ở trạng thái cơ bản thì đứng yên tại vị trí đó.

Nội dung thông tin của xung đầu dò đã được "in dấu" trên dao động

quay tròn các lưỡng cực của nguyên tử BEC đầu tiên (trên). Trong thí

nghiệm mới này xung cản trở được làm để xuất hiện BEC thứ 2 cách xa

khoảng 160 µm (dưới) .

13

Một điểm sáng tạo là nhóm ở Harvard đã quyết định đợi cho đến khi

nguyên tử kích thích spin đi đến vị trí ngưng tụ thứ hai trước khi tác dụng lại

các laser điều khiển. Và họ nhận ra rằng tập hợp các nguyên tử tách biệt một

cách vật lý này sau đó có thể phát xạ lại ánh sáng ban đầu. Xung ánh sáng

được khôi phục này lan truyền một cách chậm rãi khỏi vị trí BEC thứ hai

trước khi đạt vận tốc 300000 km/s như vốn có của ánh sáng.

Vì hai vị trí BEC được tạo ra hoàn toàn độc lập, nên ta có thể hy vọng

sự gửi đi các bó sóng từ vị trí đầu tiên đến một vị trí xa lạ BEC thứ hai. Thực

tế không hẳn là hàm sóng ở trạng thái cơ bản có một thành phần trên cả hai

vị trí BEC trong cùng một thời điểm để có thể tổ hợp với thành phần bị kích

thích spin khi nó đến vị trí thứ hai.

Thí nghiệm là một minh chứng hùng hồn của việc không phân biệt

lượng tử. "Bằng cách thao tác cho vật chất sao chép lại nguyên bản ánh

sáng ban đầu, chúng ta có thể sử dụng trong việc xử lý thông tin quang" -

14

Hau phát biểu. Bà phát biểu trên Physics Web rằng thí nghiệm này có thể sẽ

đưa đến kỹ thuật xử lý thông tin quang trong viễn thông quang và mạng

thông tin lượng tử. Một ứng dụng khác có thể là cảm biến quay siêu nhạy

hoặc detetor trọng trường.

Ngoài vài ứng dụng đã kể trên thì còn rất nhiều ứng dụng khác nữa và

khả năng tiềm tàng của BEC còn rất lớn và đang tiếp tục được khám phá.

1.3. Tổng quan các nghiên cứu lý thuyết của ngưng tụ Bose-Einstein

có liên quan đến khóa luận

1.3.1. Thống kê Bose – Einstein

Trong mục này chúng ta cần chỉ ra rằng khi nhiệt độ xuống thấp hơn

nhiệt độ Tc nào đó thì xuất hiện một số hạt nằm ở cùng một mức năng lượng

thấp nhất hay còn gọi là cùng trạng thái lượng tử.

Đối với các hệ hạt đồng nhất, chúng ta không cần biết cụ thể hạt nào ở

trạng thái nào mà chỉ cần biết trong mỗi trạng thái đơn hạt có bao nhiêu hạt.

Xuất phát từ công thức chính tắc lượng tử :

(1.1)

Trong đó gk là độ suy biến.

Nếu hệ gồm các hoạt động tương tác thì ta có

∞ 𝐸𝑘 = ∑ 𝑛𝑙𝜀𝑙 . 𝑙=0

(1.2)

Ở đây là năng lượng của một hạt riêng lẻ của hệ, là số chưa đầy tức

là số có cùng năng lượng .

Số hạt trong hệ có thể nhận các giá trị từ với xác suất khác nhau.

Độ suy biến trong (1.1) sẽ tìm được bằng cách tính số các trạng thái khác

nhau về phương diện Vật lý ứng với cùng một giá trị đó chính là số mới vì

15

số hạt trong hệ không phải là bất biến nên tương tự như trường hợp thống kê

cố điển thay thế cho phân số chính tắc lượng tử ta có thể áp dụng phân số

chính tắc lớn lượng tử hay phân bố Gibbs suy rộng.

1

Phân bố chính tắc lượng tử có dạng

∞ 𝑙=0

𝑁!

𝑒𝑥𝑝{𝛺 + 𝜇𝑁 − ∑ 𝑛𝑙𝜀𝑙 }𝑔𝑘.

𝑊(𝑛0, 𝑛1, … ) = (1.3)

Trong đó , là thế nhiệt động lớn, là thế hóa.

Sở dĩ có thừa số xuất hiện trong công thức (1.3) là vì có kể đến tính

đồng nhất của các hạt và tính không phân biệt cuả các trạng thái mà ta thu

được do hoán vị các hạt.

Ta kí hiệu

. (1.4)

Khi đó (1.3) được viết lại như sau:

. (1.5)

Từ đây ta có hai nhận xét về công thức (1.5) như sau

Một là vế phải của (1.5) có thể coi là hàm của các nên ta có thể đón

nhận công thức đó như là xác suất để cho có hạt nằm trên mức hạt

nằm trên mức , nghĩa là, đó là xác suất chứa đầy. Do dó nhờ công thức này

ta có thể tìm được số hạt trung bình nằm trên các mức năng lượng

16

. (1.6)

Hai là đại lượng xuất hiện vì ta kể đến khả năng xuất hiện

các trạng thái Vật lý mới hoán vị (về tọa độ) các hạt. Đối với hệ bonson và hệ

fermion, tức là hệ được mô tả bằng hàm sóng đối xứng và phản đối xứng, thì

các phép hoán vị đều không đưa đến một trạng thái Vật lý mới nào cả, bởi vì

khi đó hàn sóng của hệ sẽ chỉ hoặc không đổi dấu, hoặc dổi dấu nhĩa là diễn tả

cùng một trạng thái lượng tử. Do đó đối với các hạt boson và hạt fermion ta

.

(1.7)

Trong phân số Maxwell – Boltzmann tất cả các phép hoán vị khả dĩ của

tọa độ của các hạt có cùng một năng lượng . Do đó số tổng cộng các trạng

thái khác nhau về phương diện vật lý sẽ bằng số hoán vị tổng cộng chia

cho số hoán vị trong các nhóm có cùng năng lượng tức là chia cho

Khi đó

, (1.8)

thay giá trị của vào (1.4) ta được (1.7). Để tính trị trung bình của các số

chưa đầy (số hạt trung bình nằm trên mức năng lượng khác nhau) ta gắn cho

dại lượng trong công thức (1.5) chỉ số , tức là ta sẽ coi hệ ta xét hình như

không phải chỉ có một thế hóa học mà ta có cả một tập hợp thể hóa học .

Và cuối phép tính ta cho .

17

Tiến hành phép thay thế như trên ta có thể viết điều kiện chuẩn hóa như

sau

, (1.9)

với , (1.10)

nghĩa là . (1.11)

Khi đó đạo hàm của theo dựa vào (1.10) và (1.11)

. (1.12)

Nếu trong biểu thức (1.12) ta đặt thì theo (1.6) vế phải của công

thức (1.12) có nghĩa là giá trị trung bình của số chứa đầy tức là ta thu được

. (1.13)

Đối với hệ hạt boson, số hạt trên các mức có thể có trị số bất kì (từ

) và do đó theo (1.9) ta có

, (1.14)

khi đó

18

. (1.15)

Theo (1.13) ta tìm được phân bố của các số chứa đầy trung bình

, (1.16)

ta có (1.16) là công thức của thống kê Bose – Einstein. Thể hóa học

trong công thức (1.16) được xác định từ điều kiện

∞ ∑ 𝑛̅𝑙 = 𝑁 𝑙=0

. (1.17)

Đối với khí lí tưởng, theo công thức của thống kê Bose – Einstein, số

hạt trung bình có năng lượng trong khoảng từ bằng

, (1.18)

trong đó là số các mức năng lượng trong khoảng

Theo quan điểm lượng tử, các hạt boson chứa trong thể tích V có thể

xem như các sóng dừng Broglie. Vì vậy có thể xác định bằng cách áp

dụng công thức

. (1.19)

Theo hệ thức de Broglie giữa xung lượng p và véctơ sóng k

(1.20) , 𝑃⃗ = ћ𝑘⃗

khi đó (1.19) có thể được viết dưới dạng

. (1.21)

19

𝑝2 2𝑚

suy ra Đối với các hạt phi tương đối tính tức là hạt có vân tốc v≪c thì ɛ=

𝑝2𝑑𝑝 = √2𝑚3ɛdɛ.

Do đó (1.21) có dạng

.

Vì các hạt có thể có xác định hướng spin khác nhau nên số trạng thái khả

dĩ ứng với cùng một giá trị của spin s của hạt g = 2s+1. Do đó, số các mức

năng lượng trong khoảng là

. (1.22)

Theo (1.18) số hạt trung bình có năng lượng trong khoảng là

. (1.23)

Vì số hạt toàn phần là N nên ta có phương trình sau

. (1.24)

Phương trình này về nguyên tắc cho ta xác định thể hóa học . Ta xét

một số tính chất tổng quát của thể hóa học đối với khí bose lí tưởng. Đầu

tiên là chúng ta chứng minh rằng

. (1.25)

Thật vậy, số hạt trung bình chỉ có thể là một số dương, trong đó,

theo (1.23), điều kiện đó chỉ thỏa mãn khi mẫu số ở (1.23) luân luôn dương

20

(nghĩa là khi , để cho luôn luôn lớn hơn 1 với mọi giá trị của

).

Tiếp theo chúng ta có thể chứng minh rằng, giảm dần khi nhiệt độ

tăng lên. Thực vậy, áp dụng quy tắc lấy đạo hàm các hàm ẩn vào (1.24) ta có:

(1.26)

Nhưng do (1.24) nên , do đó biểu thức dưới dấu tích phân ở vế

phải (1.26) luôn luôn dương với mọi giá trị của , vì vậy . Từ các tính

chất và của hàm ta thấy khi nhiệt độ giảm thì tăng (từ giá

trị âm tăng lên đến giá trị lớn hơn “nhưng vẫn là âm”) và tới nhiệt độ nào

đó sẽ đạt giá trị cực đại bằng không ( ).

Xác định nhiệt độ

Chọn và . Khi đó phương trình

21

Trở thành

. (1.27)

Mà ta đã biết , nên từ (1.27) và , ta được

. (1.28)

Đối với tất cả các khí bose quen thuộc thì nhiệt độ đó là rất nhỏ. Chẳng

hạn như đối với , ngay cả với khối lượng riêng của chất lỏng Hêli vào cỡ

ta được . Tuy nhiên, sự tồn tại nhiệt độ có ý

nghĩa rất quan trọng. Để hiểu ý nghĩa của nó ta xét khoảng nhiệt độ 0

22

thì thể hóa học tăng tới giá trị , mà nên không thể giản

nữa, do đó trong khoảng nhiệt độ 0

Với nhiệt độ T

. (1.29)

3

So sánh (1.27) và (1.29) ta thấy

2.

𝑁′ 𝑁

𝑇 𝑇0

hay = ( )

Vì số hạt toàn phần trong hệ không đổi, nên kết quả trên phải được đoán

nhận Vật lý một cách đặc biệt. Khi T < T0thì N <𝑁′chỉ ra rằngsố hạt toàn

phần N chỉ có một phần số hạt N' có thể phân bố theo các mức năng lượng một

cách tương ứng với công thức (1.18), tức là:

.(1.30)

Các hạt N< N’ còn lại cần phải được phân bố như thế nào đó khác đi,

chẳng hạn như tất cả số đó nằm trên mức năng lượng thấp nhất, nghĩa là

chúng hình như nằm ở một pha khác mà người ta quy ước gọi là pha ngưng

tụ.

Như vậy ở các nhiệt độ thấp hơn T0một phần của các hạt khí bose sẽ nằm

ở mức năng lượng thấp nhất (năng lương không) và các hạt còn lại sẽ được

phân bố trên các mức khác theo định luật , hiện tượng mà ta vừa mô tả,

trong đó một số hạt khí bose chuyển xuống mức “năng lượng không” và hai

23

phần của khi bose phân bố khác nhau theo năng lượng được gọi là sự ngưng

tụ Bose-Einstein. Ở nhiệt độ tuyệt đối T=0 Tất cả các hạt bose sẽ nằm ở mức

không.

1.3.2. Toán tử Hamilton

Dựa vào hệ tiên đề của cơ học lượng tử ta thấy, để nghiên cứu năng

lượng của hệ chúng ta cần phải biết toán tử Hamilton, toán tử Hamilton

tương ứng với hàm Hamilton trong cổđiển.

Hàm Hamilton là hàm tọa độ suy rộng và thời gian.

Qua một số biến đổi ta được các phương trình củaHamilton:

𝜕𝐻 𝜕𝑞𝑘

𝜕𝐻 𝜕𝑝𝑘

(1.31) 𝑝𝑘̇ = - , 𝑞𝑘̇ =

Cơ học cổ điển bị hạn chế, có những hiện tượng mà không giải thích

được bằng lý thuyết cổ điển. Do đó dẫn đến hình thành môn cơ học lượng tử.

Trong cơ học lượng tử người ta dùng toán tử để mô tả biến số độnglực.

Toán tử Hamilton là toán tử quan trọng vào bậc nhất của cơ học lượng

tử. Trong hệ tọa độ Descartes, toán tử Hamilton của một hạt gồm toán tử động

năng và hàm lực

Hˆ=Kˆ+Uˆ . (1.32)

Ở đây toán tử động năng

𝑝̂2 2𝑚

ћ2 2𝑚

𝐾̂= 𝛻2. (1.33) = −

Còn hàmlực Û= U(𝑟 , t) phụ thuộc vào tọa độ r và thời gian t, thànhthử

ћ2 2𝑚

Ĥ= − 𝛻2 + Û(𝑟 , t). (1.34)

Nếu không phụ thuộc vào t, thì Û(𝑟 ) được gọi là thế năng. Trong

24

trường hợp ấy:

ћ2 2𝑚

Ĥ= − 𝛻2 + Û(𝑟 ) . (1.35)

Trường hợp tổng quát, nết hạt chuyển động trong trường lực phụ thuộc

vào vận tốc, gia tốc...,thì:

ћ2 2𝑚

Ĥ= − 𝛻2 + Ŵ . (1.36)

Ở đây Ŵ là thành phần mô tả cho chuyển động trong trường lực tổng quát.

2)

Đối với hệ n hạt thì dạng tổng quát của toán tử Hamiltonlà:

𝑛 𝐻̂ = ∑(− 𝑘=1

+ Ŵ 𝛻𝑘 ћ2 2𝑚 (1.37)

Trongđó Ŵ là thành phần viết cho trường lực tổng quát nào đó mô tả

tương tác của các hạt trong hệ và là hàm của vận tốc các hạt và thời gian...

1.3.3. Phương trình Gross-Pitaevskii

Ở trạng thái ngưng tụ tính chất hạt của vật chất cổ điển không còn thể

hiện rõ nữa mà thể hiện chủ yếu của nó là tính chất sóng như tính chất các

photon vì vậy các phương trình động học cổ điển không dùng được nữa khi

nghiên cứu chuyển đông của nó. Vì vậy nghiên cứu chuyển động của nó ta

cần phải dùng những phương trình chuyển động cho cơ học lượng tử. Một

trong những phương trình quan trọng kinh điển đó là phương trình Gross-

Pitaevskii. Sau đây ta tìm hiểu về nó cho hệ riêng biệt và hệ hai thành phần

ngưng tụ.

25

1.3.3.1. Hệ riêng biệt

Chúng ta đã biết rằng sự tương tác hiệu dụng giữa hai hạt ở năng lượng

thấp là một hằng số trong biểu diễn động lượng . Trong biểu diễn

, trong tọa độ, năng lượng tương ứng tới một tương tác tiếp xúc U0δ

đó và là bán kính véctơ xác định vị trí của hai hạt. Trong trạng thái

ngưng tụ hoàn toàn, tất cả các hạt bose có trạng thái như nhau, hàm sóng của

1 hạt là và do đó chúng ta có thể viết hàm sóng của hệ N hạt như sau:

= (1.38)

Hàm sóng của một hạt là hàm sóng chuẩn hóa theo cách thông

thường

(1.39)

Hàm Hamiltonian cho hệ N hạt có thể được viết là:

(1.40)

Với là thế bên ngoài tác dụng lên hạt thứ i. Năng lượng của hệ các

hạt có hàm Hamiltonian (1.40) được xác định bằng:

d𝑟 . (1.41)

Trong đó là số hạng năng lượng tương tác, là

năng lượng tương tác của hai hạt với hàm sóng .

26

Xét hệ gồm rất lớn số hạt Boson ở nhiệt độ rất thấp, khi này động năng

có thể bỏ qua. Xét hệ không tương tác với bên ngoài ( =0). Năng lượng

𝑁(𝑁−1)

1

tương ứng của hệ là:

2

2

E = 𝑈0 = 𝑉𝑛2𝑈0 . (1.42)

Với là mật độ các hạt của hệ.

Quy ước đưa vào khái niệm hàm sóng của không gian ngưng tụ

định nghĩa bởi:

(1.43) .

Mật độ các hạt lúc này được cho bởi:

(1.44) .

Bỏ qua số hạng của bậc , năng lượng của hệ có thể được tìm thấy từ

1

việc thay (1.43) vào (1.41) ta được:

2

ћ2 2𝑚

|∇𝜓(𝑟 )|2 + 𝑉(𝑟 )|𝜓(𝑟 )|2 + 𝐸(𝜓) = ∫ [ 𝑈0|𝜓(𝑟 )|4] 𝑑𝑟 . (1.45)

Tìm trạng thái cơ bản của hàm sóng bằng cách cực tiểu hóa năng

lượng (1.45) với biến phân độc lập tương ứng của và liên hợp phức của

nó với điều kiện là tổng số hạt

. (1.46)

là không đổi.

Ta có phương trình cực tiểu năng lượng Lagrange

27

, (1.47)

với thế hóa học là hằng số tùy ý. Phương pháp này là tương đương với việc

cực tiểu hóa năng lượng khi cố định . Tương đương với biến phân

không của tương ứng tới bằng cách thế (1.45) và (1.46) vào

(1.47) ta được:

(1.48)

Phương trình (1.48) là phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc

thời gian.

Xét một hệ khí bose đồng nhất ở trạng thái ngưng tụ có ,

phương trình Gross-Pitaevskii (1.48) tương ứng là

(1.49)

Với là thế hóa học từ năng lượng của trạng thái đồng nhất.

1.3.3.2. Hệ hai thành phần

1.3.3.2.1. Phương trìnhGross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian

Chúng ta coi hai thành phần BEC của các nguyên tử với khối lượng mj

thế năng Vj chỉ số j = 1, 2 chỉ thành phần 1 hoặc thành phần2.

Xét một hỗn hợp của hai nguyên tử boson khác nhau. Ta có hàm sóng

Hartree hai thành phần, ký hiệu là 1 và hai tương ứng với N1và N2 hạtlà:

′. . . 𝑟𝑁2

𝑁1 ′ ) = ∏ 𝜑1 𝑖=1

𝑁2 (𝑟𝑖) ∏ 𝜑2 𝑗=1

(𝑟𝑗′). 𝜓(𝑟1, . . . , 𝑟𝑁1; 𝑟1 (1.50)

28

Ở đây trạng thái 1 được biểu diễn bởi 𝑟𝑖 và trạng thái 2 biểu thị bởi 𝑟𝑗

Các hàm sóng đơn tương ứng là và đối với hệ đồng nhất năng

lượng cho bởi phương trình tổng quát

𝑁1(𝑁1−1)𝑔11 2𝑉

𝑁1𝑁2𝑔12 𝑉

𝑁2(𝑁2−1)𝑔22 2𝑉

E= + +

(1.51)

1/2𝜑2

Nếu đưa vào hàm sóng ngưng tụ hai thành phần với

1/2𝜑1và ψ2=𝑁2

ψ1=𝑁1

Thì năng lượng tương ứng cho hệ hai thành phần là nhưsau:

𝐸 = ∫( |𝛻𝜓12|2 ћ2 2𝑚1 ћ2 2𝑚2 (1.52)

+ 1 2

|𝛻𝜓1|2 + 𝑉1|𝜓1|2 + + 𝑉2|𝜓2|2 1 𝑔22|𝜓2|4 𝑔11|𝜓1|4 + 2 + 𝑔12|𝜓1|2|𝜓2 |2). 𝑑𝑟

Tại đó bỏ qua ảnh hưởng của 1/N1 và 1/N2, hai giá trị này nhỏ nếu N1 và

N2 lớn. mi là khối lượng của hạt thứ i, Vi là thế năng bên ngoài. Các hằng số

g11, g22, g12 = g21 được xác định bởi độ dài tán xạ a11, a22, a12 = a21, với

𝑔𝑖𝑗 = 2𝜋ħ𝑎𝑖𝑗/𝑚𝑖𝑗 , (𝑖, 𝑗 = 1,2) và 𝑚𝑖𝑗 = 𝑚𝑖𝑚𝑗/(𝑚𝑖 + 𝑚𝑗)là khối lượng rút

gọn của nguyên tử i và nguyên tử j.

Từ (1.51) và (1.52) ta thu được phương trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc

và thời gian như sau:

(1.53) iћ = (− ∇2 + 𝑉1 + 𝑔11|𝜓1|2 + 𝑔12|𝜓2|2)𝜓1

𝜕𝜓1 𝜕𝑡 𝜕𝜓2 𝜕𝑡

ћ2 2𝑚1 ћ2 2𝑚2

iћ = (− ∇2 + 𝑉2 + 𝑔22|𝜓2|2 + 𝑔12|𝜓1|2)𝜓2 (1.54)

Như vậy, ta đã thu được phương trình Gross-Pitaevskii hai thành phần

theo hình thức luận Hamilton.

29

2 > 𝑔11. 𝑔22 𝑔12

Chúng ta giả định rằng các hằng số tương tác thỏa mãn:

tức là hai thành phần không thể trộn lẫn. Sự tiến triển của hệ theo thời

gian có thể xác định bằng cách giải số các phương trình (1.53) và (1.54) theo

phương pháp giải phổ với các điều kiện biên xácđịnh.

1.3.3.2.2. Phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào

thờigian

Để tìm phương trình Gross-Pitaevskii không phụ thuộc vào thời gian ta

đặt:

(1.55) 𝜓1 = 𝜓10(𝑟)𝑒−𝑖𝜇1𝑡/ћ, 𝜓2 = 𝜓20(𝑟)𝑒−𝑖𝜇2𝑡/ћ. trongđó ψ10 và ψ20 là hàm sóng ở trạng thái cơ bản của các thànhphần.

Thay lần lượt (1.55) vào (1.53) tađược

2

𝑖ћ 𝜕(𝜓10(𝑟)𝑒−𝑖𝜇1𝑡/ћ ) 𝜕𝑡

= (− ∇2 + 𝑉1 + 𝑔11|𝜓10(𝑟)𝑒−𝑖𝜇1𝑡/ћ| ћ2 2𝑚1

+ 𝑔12|𝜓20(𝑟)𝑒−𝑖𝜇2𝑡/ћ|2)𝜓10(𝑟)𝑒−𝑖𝜇1𝑡/ћ

2

𝑖ћ 𝜕(𝜓20(𝑟)𝑒−𝑖𝜇2𝑡/ћ ) 𝜕𝑡

= (− ∇2 + 𝑉2 + 𝑔22|𝜓20(𝑟)𝑒−𝑖𝜇2𝑡/ћ| ћ2 2𝑚2

+ 𝑔12|𝜓10(𝑟)𝑒−𝑖𝜇1𝑡/ћ|2)𝜓20(𝑟)𝑒−𝑖𝜇2𝑡/ћ

Thực hiện phép lấy đạo hàm theo thời gian thuđược

(1.56) − ∇2𝜓1 − 𝜇1𝜓1 + 𝑉1𝜓1 + 𝑔11|𝜓1|2𝜓1 + 𝑔12|𝜓1|2𝜓2 = 0, ћ2 2𝑚1

− .(1.57) ∇2𝜓2 − 𝜇2𝜓2 + 𝑉2𝜓2 + 𝑔22|𝜓2|2𝜓2 + 𝑔12|𝜓2|2𝜓1 = 0 ћ2 2𝑚2

30

Phương trình (1.56) và (1.57) được gọi là phương trình Gross-Pitaevskii

không phụ thuộc vào thời gian.

Như vậy thế tương tác trong lý thuyết Gross-Pitaevskii có dạng

(1.58)

Sử dụng chiều dài tương quan

(1.59)

Và mật độ của hạt thứ là và đưa vào đại lượng không thứ

nguyên

(1.60)

Thì ta có

(1.61)

Do đó

Thay biểu thức của vào biểu thức trên ta được

31

(1.62)

Ta có:

(1.63)

Thay (1.62) và (1.63) vào (1.56) ta được:

(1.64)

Ta có

(1.65)

Thay biểu thức của vào biểu thức trên ta được

(1.66)

Ta có

(1.67)

Thay (1.66) và (1.67) vào (1.57) ta được

(1.68)

32

Lưu ý ở đây ta chỉ xét hệ trong trạng thái cân bằng pha nên áp suất của 2

thành phần bằng nhau, tức là ,

Trong đó

1.4. Sơ lược về phương pháp gần đúng Parabol kép

Để hiểu về phép gần đúng parabol kép ta đi xét ngưng tụ Bose-Einstein

một thành phần. Thế tương tác trong phương trình Gross-Pitaevskii

theo (1.68) có dạng

. (1.69)

Bằng cách đưa vào các đại lượng không thứ nguyên như ở (1.60), thế

tương tác (1.69) có thể được viết dưới dạng

. (1.70)

Ở gần mặt phân cách tham số trật tự giảm dần từ 1 nên ta đặt

(1.71)

với là số thực và nhỏ.

Thay (1.70) vào (1.71) ta được

Khai triển giữ đến gần đúng bậc 2 ta được

(1.72)

Trong đó là thế gần đúng trong parabol kép

33

Ta có đồ thị của hai thế và như sau

Đường màu xanh là đồ thị của thế , đường màu đỏ là đồ thị của thế

. Ta thấy có hai cực tiểu như hình vẽ và khi thay vào phương trình

Gross-Pitaevskii thì ta không giải trực tiếp được phương trình. Do đó ta thay

thế là hai parabol ghép với nhau và được gọi là parabol kép. Khi thay thế

vào phương trình Gross-Pitaevskii ta có thể giải được phương trình.

34

CHƯƠNG 2. SUẤT CĂNG MẶT NGOÀI

2.1 Trạng thái cơ bản của hệ ngưng tụ Bose-Einstein hai thành

phần bị giới hạn bởi hai tường cứng

Với sự có mặt của hai tường cứng tai và .

Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng DPA để tìm trạng thái cơ bản của hệ.

Giả sử rằng mặt phân cách của hệ nằm tại vị trí , khi đó điều kiện

biên cho các thành phần có dạng như sau

Với

(2.1)

Với

(2.2)

Ta khai triển tham số trật tự quanh giá trị được chuẩn hóa theo mật độ khối tức là

khi khi và và là

. Cần chú ý rằng Với các số thực, nhỏ và ta đã bỏ qua thừa số pha trong các khi triển này.

• Ở miền ( là vị trí biên) ta đặt

(2.3)

Thay vào (1.65) và (1.71) và chú ý chỉ giữ lại bậc 1 của a và b ta được hệ phương trình

(2.4)

ta được phương

Thay (2.3) vào (2.4) và đặt trình Gross-Pitaevskii trong PDA

35

(2.5)

• Ở miền ta đặt

(2.6)

Thay vào (1.65) và (1.71) và chú ý chỉ giữ lại bậc 1 của a và b ta được hệ phương trình

(2.7)

Do đó (2.8)

Trong miền nghiệm của hệ phương trình (2.5) có dạng

(2.9)

Trong miền nghiệm của hệ phương trình (2.8) có dạng

(2.10)

Với là các hằng số tích phân.

Trong DPA, yêu cầu là hàm sóng và đạo hàm bậc nhất của hàm sóng phải liên tục tại

và , (2.11)

và .

Thay (2.9), (2.10) vào (2.11) ta được

36

,

,

(2.12)

.

Hình 2.1 biểu diễn sự phụ thuộc của tham số trật tự theo tại

Đường màu đỏ và màu xanh ứng với thành phần 1 và thành phần 2

37

2.2 Suất căng mặt ngoài của ngưng tụ Bose-Einstenin hai thành

phần bị giới hạn bởi hai tường cứng

2.2.1. Khái niệm về sức căng mặt ngoài

Trước tiên ta xét khái niệm sức căng mặt ngoài của chất lỏng.

Ta tưởng tượng tách riêng được một phần tử A nào đó trong khối chất

lỏng và nghiên cứu tác dụng của tất cả các phần tử khác lên nó. Ta hãy vẽ một

hình cầu bán kính r có tâm là tâm phân tử A. Ta chỉ cần nghiên cứu tất cả các

phân tử có tâm nằm trong hình cầu bán kính r lên phân tử A. Khoảng cách r

gọi là bán kính tác dụng phân tử .

Phân tử A nằm trong lòng khối chất lỏng nên lực hút giữa các phân tử

trong hình cầu tác dụng của phân tử A lên phân tử A hướng theo mọi phía và

tính trung bình thì chúng cân bằng nhau (hình 3.1), do đó lực tương tác tổng

hợp của các phân tử chất lỏng lên phân tử A bằng 0

Hình 2.1

Đối với phân tử nằm gần mặt thoáng thì lại khác. Ta hãy xét phân tử B

(hình 3.1) nằm cách mặt thoáng một khoảng nhỏ hơn r. Một phần của hình

cầu bán kính r nằm ngoài khối chất lỏng.

38

Giả sử phần trên của khối chất lỏng là thể khí, ( ví dụ hơi của chất lỏng

đó). Vì số phân tử ở pha hơi nằm trong hình cầu tác dụng của phân tử B là ít

lên tác dụng của chúng lên B là rất nhỏ ta không cần chú ý tới. Ta chỉ cần chú

ý tới tác dụng của các phân tử thuộc khối chất lỏng nằm trong hình cầu. Rõ

ràng là các lực hỗ trợ tác dụng lên B theo mọi hướng không thể cân bằng nhau

và phân tử B chịu tác dụng của một hợp lực hướng vào trong khối lỏng .

Độ lớn của lực này càng tăng lên khi phân tử B càng gần mặt giới hạn (mặt

thoáng).

Tuy nhiên cần chú ý rằng tuy có lực tác dụng lên nhưng phân tử B

không chuyển động vào trong lòng chất lỏng mà vẫn thực hiện dao động nhiệt

xung quanh vị trí cân bằng đó. Đó là vì khi phân tử B dưới tác dụng của lực

tiến theo hướng đi vào trong lòng chất lỏng để lại gần các phân tử khác

hơn thì sẽ xuất hiện lực đẩy chống lại lực . Đối với các phân tử khcs nằm

trong lớp mặt ngoài có chiều dày cũng chịu tác dụng của những lực

hướng vào trong khối chất lỏng tương tự như phân tử B. Hình ảnh chuyển

động nhiệt của các phân tử nằm ở lớp mặt ngoài cũng như đối với các phân tử

ở trong lòng chất lỏng nghĩa là dao động hỗn loạn chung quanh các vị trí cân

bằng một thời gian nào đó và sau đó do sự tương tác với các phân tử chung

quanh thỉnh thoảng lại thay đổi vị trí cân bằng. Nói cách khác nếu bỏ qua dao

động nhiệt thì tuy chịu tác dụng của lự nhưng phân tử nằm ở lớp ngoài vẫn

được coi như nằm tại vị trí cân bằng.

Ta biết, hợp lực vuông góc với mặt thoáng chất lỏng không dịch

chuyển phân tử B theo phương vuông góc cũng như phương nằm ngang đối

với mặ thoáng. Bây giờ, chúng ta chú ý đến các thành phần theo phương nằm

ngang (tức theo phương tiếp tuyến với mặt thoáng) của lực tương tác của

phân tử chất lỏng lên phân tử B. Dĩ nhiên các thành phần này của lực theo hai

39

chiều ngược nhau phải có độ lớn bằng nhau = (hình 3.1) vì vậy chúng

cân bằng nhau. Khác với trường hợp của lực đac nhận xét ở trên, độ lớn

của lực hoặc sẽ càng giảm khi phân tử B càng đến gần mặt giới hạn (mặt

thoáng).

Nếu giả sử vì một lý do nào đó một phía của phân tử B không có chất

lỏng nữa thì dưới tác dụng của lực thành phần theo phương tiếp tuyến với mặt

thoáng ( hoặc ) phân tử B sẽ chuyển động ngang. Ta tưởng tượng các

phân tử nằm trong lớp mặt ngoài tạo thành một đoạn cong nguyên tố thì

tổng hợp tất cả các lực thành phần lên phân tử này theo phương tiếp tuyến với

mặt phân cách và ở về một phía xác định của đoạn cong được gọi là lực

căng mặ ngoài kí hiệu là . Vì đủ nhỏ lên có thể coi lực căng mặt ngoài

vuông góc với .

Vậy rõ ràng dưới tác dụng của lực căng mặt ngoài , lớp mặt ngoài

luôn luôn muốn co về diện tích nhỏ nhất. Tính chất này làm cho lớp mặt ngoài

của chất lỏng gần giống như một màng căng ( chẳng hạn màng cao su), vì vậy

hiện tượng mà ta đang xét được gọi là hiện tượng căng mặt ngoài.

Ta cần chú ý sự khác nhau căn bản giữa lớp mặt ngoài chất lỏng với

màng cao su. Lớp mặt ngoài khối chất lỏng tăng diện tích là do có những

phân tử đi từ trong lòng khối chất lỏng ra mặt ngoài và do đó bề dày của nó

không đổi , còn đối với màng cao su thì sự tăng diện tích là nhờ có sự

giảm bề dày của màng.

Việc di chuyển phân tử trong lòng chất lỏng ra lớp mặt ngoài đòi hỏi

phải tiêu thụ một công để thắng lực cản nói trên. Trong trường hợp khối lỏng

không trao đổi năng lượng với ngoại vật thì công này được thực hiện do sự

giảm động năng của phân tử đó mà thế năng phân tử sẽ tăng lên, tương tự như

40

trường hợp công được thực hiện khi một vật được chuyển động trong trọng

trường từ dưới lên trên( động năng của vật giảm, thế năng của vật tăng).

Ngược lại khi phân tử đi từ lớp mặt ngoài vào trong lòng chất lỏng, nó sẽ thực

hiện một công do sự giảm thế năng của phân tử. Vậy mỗi phân tử ở lớp mặt

ngoài khác với phân tử ở trong lòng ở trong lòng khối lỏng là một thế năng

phụ.

Tổng thế năng phụ của các phân tử ở lớp mặt ngoài được gọi là năng

lượng tự do. Năng lượng tự do chính là một phần nội năng của khối lỏng.

Khi có nhiều phân tử di chuyển từ trong lòng chất lỏng ra lớp mặt ngoài

( tức diện tích mặt ngoài khối lỏng tăng ) thì năng lượng tự do tăng.

Sự tăng năng lượng này hoặc do sự giảm động năng của các phân tử

hoặc do công của ngoại vật thực hiện lên chất lỏng hoặc do cả hai nguyên

nhân vừa nêu. Ngược lại khi chất lỏng giảm diện tích mặt ngoài, năng lượng

tự do giảm đi làm cho chất lỏng hoặc sẽ nóng lên hoặc sẽ sinh công cho ngoại

vật hoặc sẽ đồng thời xảy ra cả hai hiện tượng vừa kể.

Và người ta định nghĩa:

“ Độ tăng năng lượng tự do mặt ngoài trên một đơn vị diện tích là sức

căng mặt ngoài”

(2.13)

Trong đó: là năng lượng tự do mặt ngoài, là diện tích mặt phân

cách

2.2.2. Suất căng mặt phân cách của ngưng tụ Bose-Einstenin hai

thành phần bị giới hạn bởi hai tường cứng

Chúng ta xét hệ BEC trong trường hợp số hạt của hệ xác định

41

. (2.14)

Năng lượng trên bề mặt ngưng tụ được thiết lập bởi P. Ao và S.T. Chiu [11]

.

(2.15)

Từ đây xác định được sức căng mặt phân các giữa hai ngưng tụ dưới dạng

không thứ nguyên

(2.16)

Trong đó là diện tích mặt phân cách, là áp suất bên trong

ngưng tụ

Để thuận lợi cho những tính toán về sau công thức (2.16) được viết lại dưới

dạng

(2.17)

.(2.18)

Với , , , .

42

Ta tính được

43

Sử dụng (2.18) chúng ta có thể khảo sát sự phụ thuộc của sức căng mặt

ngoài vào các thông số của hệ như hằng số tương tác và tỉ lệ các độ dài đặc

trưng .

Hình 2.2 biểu diễn sự phụ thuộc của sức căng mặt ngoài khác vào giá trị

Kết quả cho thấy khi thì là nhỏ tại

nhất.Với

Hình 2.2 Sự phụ thuộc của sức căng mặt ngoài vào các giá trị (trong đó ).

44

KẾT LUẬN

Khóa luận “Sức căng mặt ngoài của ngưng tụ Bose-Einstein hai thành

phần bị giới hạn bởi hai tường cứng” hoàn thành đã thu được các kết quả sau

- Tổng quan về ngưng tụ Bose-Einstein: xây dựng thống kê Bose-

Einstein cho hệ hạt đồng nhất, từ đó đưa ra ngưng tụ Bose-Einstein cho hệ hạt

đồng nhất, từ đó đưa ra ngưng tụ Bose-Einstein đối với khí lý tưởng.

- Phương trình Gross-Pitaevskii phụ thuộc thời gian và không phụ thuộc

thời gian.

- Trạng thái cơ bản của ngưng tụ Bose-Einstein hai thành phần trong gần

đúng parabol kép.

- Tính giá trị của sức căng mặt ngoài của ngưng tụ Bose-Einstein hai

thành phần trong trường hợp số hạt không đổi.

Do mới làm quen với công việc nghiên cứu nên khi hoàn thành khóa

luận em không tránh khỏi những thiếu sót rất mong các thầy, cô và các bạn

sinh viên góp ý để em hoàn thiện khóa luận và vốn kiến thức của bản thân.

Em chân thành cảm ơn!

45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1] Trần Thái Hoa (1993), Bài giảng cơ học lượng tử, NXB ĐHSP Hà Nội 2.

[2] Vũ Thanh Khiết (1988), Vật lý thống kê, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[3] Lê Văn (1978), Vật lý phân tử và nhiệt học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Tiếng Anh

[4] A.L. Fetter and J.D. Walecka, Quantum Theory of Many-particles Systems

(McGraw-Hill,Boston,1971).

[5] B.V Schaeybroeck, Phys. Rev. A 78, 023624 (2008)

[6] B. Van Schaeybroeck and J.O. Indekeu, Phys. Rev. A 91, 013626 (2015)

[7] C.J. Pethick, H. Smith (2008), Bose-Einstein condensate in dilute gases,

Cambridge University Press, New York.

[8] I.E. Mazets, Phys. Pev. A 65, 033618 (2002)

[9] J.O. Indekeu, C.Y.Lin, N. V. Thu, B. V. Schaeybroeck,T. H. Phat

(2015), Static interfacial properties of Bose-Einstein condensate mixtures,

Phys. Rev. A 91, 033615.

[10] L. Pitaevskii, S. Stringari (2003), Bose-Einstein condensate,

Clarendon Press. Oxford, New York.

[11] P. Ao and S. T. Chiu, Phys. Rev. A 58, 4836 (1998).

[12] R. A. Brarankov, Phys. Rev. A 66, 013612 (2002).

[13] N. V. Thu, Physics Letters A 380, 2920–2924 (2016).

46