T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA NÔNG NGHIỆP NĂM 2016

Tống Lê Văn*; Hoàng Hải**

TÓM TẮT

Mục tiêu: mô tả thực trạng kiến thức, thái độ về bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 của bệnh nhân (BN) tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp năm 2016. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang; phỏng vấn trực tiếp BN bằng phiếu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả: 94% BN hiểu đúng về khái niệm bệnh; 82,3% biết ít nhất 1 biến chứng; 22,6% cho rằng bệnh không phòng được; 99,8% đồng ý ĐTĐ là bệnh nguy hiểm đối với sức khỏe và cuộc sống; 87,2% cảm thấy lo sợ nếu bị chẩn đoán mắc ĐTĐ; 89,7% thấy phòng chống bệnh ĐTĐ là trách nhiệm của toàn cộng đồng. Kết luận: đa số (> 80%) có kiến thức, thái độ đúng về bệnh ĐTĐ. Tuy nhiên, gần 23% cho rằng bệnh không phòng được.

* Từ khóa: Đái tháo đường týp 2; Kiến thức; Thái độ.

Knowledge, Attitude about Diabetes of Patients with Type 2

Diabetes at Agriculture General Hospital in 2006

Summary

Objectives: To describe the current status of knowledge, attitude about type 2 diabetic patients at Agriculture General Hospital in 2016. Methods: Cross-sectional descriptive study, direct interviews with patients by pre-designed questionnaire. Results: 94% of patients understood the concept of disease; 82.3% knew at least one complication; 22.6% said that diabetes was unpreventable; 99.8% agreed that diabetes was a serious disease for the health and life; 87.2% felt scared if being diagnosed as diabetes; 89.7% thought that diabetic prevention was the responsibility of the entire community. Conclusion: The majority of patients (over 80%) have the knowledge, the right attitude about diabetes. However, nearly 23% say that the disease can not prevent.

* Keywords: Type 2 diabetes; Knowledge; Attitudes.

ĐẶT VẤN ĐỀ

của Liên đoàn ĐTĐ Thế giới (2015), tỷ lệ bệnh ĐTĐ tăng nhanh trong thế kỷ 21, nếu như những năm đầu thập kỷ, số người mắc là 387 triệu, đến năm 2035 sẽ có 592 triệu người mắc bệnh [9].

Đái tháo đường týp 2 là bệnh mạn tính không lây, liên quan đến dinh dưỡng và lối sống, có tốc độ phát triển rất nhanh ở nhiều nước trên thế giới. Theo ước tính

* Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp ** Học viện Quân y Người phản hồi (Corresponding): Tống Lê Văn (vanbvnn@yahoo.com) Ngày nhận bài: 06/06/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 22/08/2017 Ngày bài báo được đăng: 18/09/2017

33

điều trị ngoại trú, không tham gia Câu lạc bộ và không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2. Phương pháp nghiên cứu.

Mô tả cắt ngang. Phỏng vấn trực tiếp

BN bằng phiếu hỏi thiết kế sẵn.

* Cỡ mẫu và chọn mẫu:

Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện; trong 2 tháng (tháng 10 đến 12 - 2016) đã chọn được 602 BN tham gia nghiên cứu.

* Nội dung và các chỉ số nghiên cứu:

- Một số đặc điểm của đối tượng

nghiên cứu: giới, tuổi, trình độ học vấn.

- Kiến thức về bệnh ĐTĐ: khái niệm về bệnh; mức độ nguy hiểm của bệnh; biến chứng; khả năng điều trị khỏi; phương pháp điều trị, phương pháp dùng thuốc; phương pháp dự phòng, dinh dưỡng, chế độ luyện tập.

- Thái độ về mức độ nguy hiểm, biến chứng của bệnh, chấp nhận thay đổi lối sống, chấp hành chế độ luyện tập, dự phòng biến chứng...

* Xử lý và phân tích số liệu:

Làm sạch và nhập số liệu vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 12.0.

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017 Việc điều trị thường gặp khó khăn và phức tạp, vì ngoài việc dùng thuốc, người bệnh cần phải thay đổi lối sống bao gồm luyện tập thể lực đều đặn và ăn uống tiết chế đúng cách. Trong công tác khám chữa bệnh hàng ngày thầy thuốc thường ít chú trọng đến việc giáo dục BN mà thường chú trọng đến việc kê đơn và kết quả điều trị sau mỗi lần tái khám. Do đó, trong thực tế lâm sàng chúng tôi ghi nhận phần lớn BN có nhận thức, thái độ thực hành không đúng làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị như uống thuốc không đều hoặc bỏ trị, ăn đường hấp thu nhanh hoặc không chịu vận động vì cho rằng chỉ cần dùng thuốc hạ đường huyết có thể kiểm soát được bệnh [1]. Một số thói quen xấu khác như ngâm chân vào nước nóng do tê buốt bàn chân hoặc khi bàn chân bị nhiễm trùng làm gia tăng nguy cơ đoạn chi. Tất cả thái độ thực hành và nhận thức không đúng trên đã góp phần làm gia tăng sự xuất hiện các biến chứng, chi phí điều trị, tỷ lệ tàn tật và tử vong [2]. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ về bệnh ĐTĐ của BN ĐTĐ týp 2 tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp năm 2016.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

1. Đặc điểm chung của đối tượng

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

nghiên cứu.

1. Đối tượng nghiên cứu.

* Phân bố BN theo giới:

Kết quả nghiên cứu trên 602 BN ĐTĐ týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nam và nữ tương đương: 50,2% nam và 49,8% nữ. Kết quả này khác với nhiều nghiên cứu trong nước trước đây, tỷ lệ BN nữ mắc bệnh thường nhiều hơn BN nam [3, 4, 5].

Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đã được chẩn đoán xác định và đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp, tham gia Câu lạc bộ Giáo dục Người bệnh ĐTĐ của Bệnh viện và đồng ý tham gia nghiên cứu. Loại đối tượng ra khỏi nghiên cứu nếu có một trong những tiêu chuẩn sau: không phải là người bệnh ĐTĐ týp 2 đang

34

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017

450

418

400

350

300

250

200

152

150

100

32

50

0

< 50 tuổi

50 - 59 tuổi

≥ 70 tuổi

Biểu đồ 1: Phân bố BN theo nhóm tuổi.

Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 64,5 ± 8,9. Nhóm đối tượng từ 50 - 69 tuổi

chiếm tỷ lệ cao nhất (69,4%), nhóm đối tượng < 50 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (5,4%).

Biểu đồ 2: Phân bố BN theo trình độ học vấn.

Địa điểm nghiên cứu là tại 1 bệnh viện ngoại thành Hà Nội, trình độ văn hóa của đối tượng tương đối thấp: 14,5% đối tượng có trình độ tiểu học, 28,9% có trình độ trung học cơ sở, 25,4% tốt nghiệp trung học phổ thông và 31,2% đối tượng có trình độ trên trung học phổ thông. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự của Phan Hướng Dương (2016) [6].

35

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017

2. Kiến thức về bệnh, điều trị và phòng chống bệnh.

Bảng 1: Kiến thức chung của đối tượng nghiên cứu về bệnh ĐTĐ (n = 602).

Kiến thức chung về bệnh ĐTĐ n %

Khái niệm bệnh Hiểu đúng 566 94,0

Hiểu sai 36 6,0

Có thể gây chết người 68 1,1 Mức độ nguy hiểm của bệnh Gây nhiều biến chứng, tàn phế 587 97,5

Không nguy hiểm 10 1,7

Không biết 1 0,2

Biến chứng của bệnh Thần kinh 198 32,9

Mắt 314 52,2

Tim mạch 357 59,3

Thận 205 34,1

Hoại tử chi 178 29,6

Không gây biến chứng nào 2 0,3

Qua nghiên cứu, kiến thức về bệnh, điều trị và phòng chống bệnh khá cao.

Hầu hết đối tượng nghiên cứu đã hiểu đúng khái niệm bệnh (94%), biết mức độ

nguy hiểm của bệnh gây nhiều biến chứng (97,5%), 82,3% biết ít nhất 1 biến chứng.

Bảng 2: Kiến thức về điều trị và phòng chống ĐTĐ (n = 602).

Không biết 105 17,4

Kiến thức điều trị và phòng chống ĐTĐ n %

Khả năng điều trị khỏi của bệnh Có 11 1,8

Không 589 97,8

Không biết 2 0,3

Bằng thuốc Phương pháp điều trị 594 98,7

Dinh dưỡng hợp lý 491 81,6

Luyện tập thể lực 346 57,5

Không biết 5 0,8

Phương pháp dự phòng Dinh dưỡng hợp lý 390 64,8

Luyện tập thể lực hợp lý 252 41,9

Khám sức khỏe định kỳ 431 71,6

36

Không phòng được 136 22,6

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017

thấp. Hoàng Kim Ước

Phần lớn BN biết cách phòng bệnh, tuy nhiên 22,6% cho rằng bệnh không phòng được. Trong một số nghiên cứu về bệnh ĐTĐ ở nước ta trước đây, tỷ lệ người bệnh biết về những kiến thức này còn (2007) nghiên cứu một số vùng của Việt Nam và Kiên Giang, 85,8% người dân không biết các triệu chứng sớm của bệnh ĐTĐ; 78,8% đối tượng không hiểu biết về yếu tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ [7]. Theo Lê Phong, Trần Văn Dũng, Hoàng

Tiến Đoàn, Linh Quang Hòa (2012) điều tra kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống bệnh ở Cao Bằng (2011) thấy tỷ lệ có kiến thức chung rất kém (94%); tỷ lệ người có kiến thức loại kém về yếu tố nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ cao (98,7%); kiến thức loại kém về phòng và điều trị bệnh ĐTĐ 86,2% [8]. Có thể thấy, càng ngày kiến thức của người dân càng tốt, tuy nhiên vẫn còn những người bệnh thiếu hoặc chưa có kiến thức về bệnh.

Bảng 3: Kiến thức về điều trị ĐTĐ bằng thuốc, dinh dưỡng và luyện tập thể lực của

đối tượng nghiên cứu.

Cách điều trị n %

Bằng thuốc Tiêm insulin 209 34,7

Thuốc viên 585 97,2

Thuốc đông y 168 27,9

Dinh dưỡng hợp lý Hạn chế thức ăn nhiều đường 481 79,9

Hạn chế thức ăn giàu chất béo 281 46,7

Ăn nhiều thức ăn giàu chất xơ 224 37,2

Ăn nhiều bữa, chia nhỏ bữa ăn 181 30,1

Hạn chế uống rượu bia 280 46,5

298 49,5 Luyện tập thể lực Tích cực hoạt động thể lực

Thường xuyên tập thể dục 179 29,7

Thể dục theo chỉ dẫn của bác sỹ 54 9,0

Tránh lối sống tĩnh tại 52 8,6

3. Thái độ của đối tượng nghiên cứu với bệnh ĐTĐ týp 2 và biến chứng của bệnh.

* Tỷ lệ BN ĐTĐ týp 2 có thái độ đúng về bệnh ĐTĐ và biến chứng của bệnh (n = 602):

97,2% BN biết cách điều trị bằng thuốc viên, 34,7% biết cách tiêm insulin. Điều trị bằng dinh dưỡng hợp lý, 79,9% cho rằng nên hạn chế thức ăn nhiều đường. BN biết điều trị bằng luyện tập thể lực như tích cực hoạt động thể lực (49,5%), thường xuyên luyện tập thể dục thể thao (29,7%).

ĐTĐ là bệnh nguy hiểm đối với sức khỏe và cuộc sống: 601 BN (99,8%); cảm

37

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lã Ngọc Quang, Nguyễn Trọng Hà, Nguyễn Quốc Việt. Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống ĐTĐ của người dân tại Thái Bình, năm 2011. Tạp chí Y học Thực hành. 2011, 834 (7), tr.131-136.

2. Trần Hữu Dàng. Leptin và chất tiết ra từ mô mỡ - nguồn gốc bệnh tật do béo phì. Tạp chí Y học Thực hành. 2006, 548, tr.338-345.

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017 thấy lo sợ nếu bị chẩn đoán mắc ĐTĐ: 525 BN (87,2%); điều trị bệnh ĐTĐ và biến chứng của bệnh là cần thiết: 597 BN (99,2%); điều trị ĐTĐ quan trọng nhất là dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sỹ: 599 BN (99,5%); thay đổi lối sống và chế độ ăn có tác dụng điều trị và phòng chống bệnh: 586 BN (97,3%); phòng chống bệnh ĐTĐ là trách nhiệm của toàn cộng đồng: 540 BN (89,7%).

3. Diệp Thị Thanh Bình. Dịch tễ học điều tra cơ bản về bệnh ĐTĐ ở nội thành, TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học TP. HCM. Chuyên đề Nội tiết. 1994, số 1, tr.26-27.

4. Đỗ Thị Tính, Lưu Thị Dương Trang. Tình hình bệnh ĐTĐ điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng trong 5 năm từ 1997 - 2001. Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần 2. NXB Y học. 2003, tr.49-51.

5. Phạm Đình Tuấn, Nguyễn Thy Khuê. Khảo sát tỷ lệ ĐTĐ trong cộng đồng dân cư TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. Chuyên đề Nội tiết. 2003, tập 7, số 1, tr.17.

Đa số BN có thái độ đúng mực với tình trạng bệnh. Như vậy, toàn bộ đối tượng trong nghiên cứu đồng ý với quan điểm cho rằng bệnh nguy hiểm với sức khỏe và cuộc sống. Hơn 90% đồng tình với nhận định cần phải tuân thủ theo hướng dẫn của bác sỹ trong quá trình điều trị bệnh. Ngoài ra, gần 90% đồng tình với vấn đề cả cộng đồng cần cùng có trách nhiệm trong phòng chống căn bệnh này. Tuy nhiên, còn một số cho rằng điều trị ĐTĐ và biến chứng của bệnh là không cần thiết và việc thay đổi lối sống, chế độ ăn không có tác dụng điều trị và phòng chống bệnh.

6. Phan Hướng Dương. Thực trạng tiền ĐTĐ và hiệu quả can thiệp có bổ sung metformin ở người có BMI ≥ 23 kg/m2 tại TP. Hải Phòng năm 2012 - 2014. Luận án Tiến sỹ Y học. Viện Vệ sinh Dịch tế Trung ương. 2016.

KẾT LUẬN

7. Hoàng Kim Ước và CS. Điều tra dịch tễ học bệnh ĐTĐ và yếu tố nguy cơ ở tỉnh Kiên Giang năm 2004. Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học. Hội nghị Khoa học ngành Nội tiết và Chuyển hóa Việt Nam lần III. NXB Y học. 2007, tr.704-705.

8. Lê Phong và CS. Chiến lược quốc gia phòng chống ĐTĐ giai đoạn 2013 - 2020 và tầm nhìn đến năm 1930. Hội nghị Tổng kết Chương trình. Bệnh viện Nội tiết TW. 2012, tr.76-118.

Đa số BN (> 80%) có kiến thức, thái độ đúng về bệnh ĐTĐ: 94% BN hiểu đúng về khái niệm bệnh; 97,3% BN cho rằng việc thay đổi lối sống và chế độ ăn có tác dụng điều trị và phòng chống bệnh. Tuy nhiên, gần 23% cho rằng bệnh không phòng được, 10,3% BN cho rằng phòng chống bệnh không phải là trách nhiệm của toàn cộng đồng.

9. IDF. IDF Diabetes Atlas. 2014.

38