Lịch sử thuốc gây mê

Cho đến nửa đầu thập niên 1840, những cuộc giải phẫu ở trên thế giới,

từ Á sang Âu và Bắc Mỹ ngoài người y sĩ giải phẫu, còn cần hai, ba

người lực lưỡng, để đè giữ người được giải phẫu. Người được giải

phẫu tỉnh táo, nghe tiếng cưa, dao cắt qua thịt, qua xương, và la hét rên

rĩ vì đau đớn.

Nhà giải phẫu phải rất nhanh tay, cưa chân chỉ mất có 25 đến 27 giây,

vì nếu làm lâu hơn, bịnh nhân có thể chết vì chịu không nỗi sự đau đớn.

Những tiếng la hét vì đau đớn có thể vang dôi đến độ người đi ngoài

đường cũng nghe được. Darwin còn phải nhìn nhận là các cuộc giải

phẩu rất ghê rợn và hai trường hợp giải phẫu mà ông đã chứng kiến khi

chưa có thuốc mê vẫn ám ảnh ông trong nhiều năm. (Darwin & Barlow,

1958)

1. Ether: (CH3CH2)2O

Ngày 16 tháng 10 năm 1846 được chính thức ghi nhận là Ngày ê te

(Ether Day), và tòa nhà có phòng giải phẫu đó được đặt tên lại là Vòm

ê te (Ether Dome). Ngày 17 đã có thêm một cuộc giải phẫu cắt bỏ một

cái bướu trên cánh tay của một phụ nữ. Theo đề nghị của bác sĩ

Warren, bác sĩ George Hayward đã nhờ nha sĩ Morton dùng ê te gây

mê cho bịnh nhân. Cuộc giải phẫu này kéo dài đến bảy phút, nhưng

nha sĩ Morton đã theo dõi và cho bịnh nhân hít ê te nhiều lần. Sau khi

mổ xong, bịnh nhân xác nhận là không hề cảm thấy đau đớn gì hết, và

đã vui vẻ kể chuyện về đứa con của bà, đang chờ đợi bà ở nhà. Giải

phẫu với thuốc gây mê ê te đã thành công, và mở đầu kỷ nguyên mới

cho ngành giải phẫu. Nhưng nếu nha sĩ Morton và các bác sĩ Warren và

Hayward là những người chính thức dùng ê te để gây mê trong các

cuộc giải phẫu thì đã có nhiều người khác đã biết đến ê te và những

thuốc gây mê tương tự. Chính Morton đã dùng ê te để gây tê ở trên mặt

và nhổ răng thật sự không đau vào ngày 30 tháng 9 năm 1846. Nhờ đó

mà bác sĩ Warren mới mời ông phụ giúp việc gây mê ngày 16 tháng 10

như đã nói ở trên.

2- Protoxyd nitơ: N2O

Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ thứ 18 (1773), Joseph Priestley, mục

sư Anh giáo ở Leeds và là một người mê say Hóa học đã cô lập được

thán khí (CO2, gaz carbonique), tách dưỡng khí trong không khí, và tạo

ra được oxyd ni tơ (oxyde d’azote) thuần chất. Ông lại tạo ra được

protoxyd ni tơ (protoxyde d’azote; N2O) mà sau đó được gọi là “khí

chọc cười”. Khí này có tác dụng làm cho người hít nó ở trong một

trạng thái phiêu diêu, lơ lửng, và cảm thấy vui vẻ, yêu đời, nhiều khi

cười cợt như điên. Ông mất năm 71 tuổi, mà chưa nhận thức được khả

năng làm dịu hay giảm bớt đau của chất “khí chọc cười”.

N2O (protoxyde d’azote, Nitrous Oxide)

Khối lượng phân tử: 44,01g

Nhiệt độ sôi: -88,5°C

Độ nóng chảy: -90,8°C

Mặc dù là chất khí không cháy, nhưng ở 650°c nó cháy nổ

N2O được điều chế từ sự khử nước của nitrat ammonium ở 250°C:

—- (250°C)—> NH4NO3 N2O -2H2O

Ngoài việc dùng làm thuốc tê để nhổ răng, N2O còn dùng làm chất

bán dẫn. Người ta cũng dùng N2O để tăng công suất cho xe hơi và hỗn

hợp 50% oxy và 50% N2O hít vô sẽ giảm đau và bớt stress..

3- Chloroform

Chloroform là một chất lỏng không màu, mùi dễ chịu và vị hơi hơi

ngọt. Ðược chế tạo cùng lúc vào năm 1831 ở hai nơi xa cách nhau, một

bởi Justus von Liebig ở nước Ðúc và một bởi Eugene Soubeiran ở nước

Pháp. Bác sĩ sản khoa James Y. Simpson đã dùng Chloroform làm

thuốc gây mê vào năm 1847 tại Edinburgh, Ecosse (Tô cách lan) trong

khi đỡ đẻ. Sau đó việc dùng chloroform như loại thuốc gây mê trong

các cuộc giải phẩu đã lan tràn ở Âu châu. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ

thứ 20, chloroform mới bắt đầu được sử dụng thay cho ê te ở Bắc Mỹ.

Nhưng trong các xứ mới bắt đầu mở mang, người ta vẫn còn dùng ê te,

vì dễ kiếm, rẻ tiền và tương đối an toàn. Chloroform đã không còn

được thông dụng vì có thể tạo ra chứng đứng tim đột ngột. Người ta

thay chloroform bằng Trichloroethylene một hydrocarbon cùng loại,

nhưng chất này cũng không được dùng lâu vì có thể tạo ra ung thư.

4- Ethylen H2C =CH2

Từ 1846, sau khi ê te được dùng làm thuốc gây mê, người ta đã thử hầu

hết các chất khí hoặc hơi có thể ngửi được để tìm ra những chất có thể

gây mê hay tê có tác dụng tốt hơn và có hậu quả nhẹ hơn ê te. Tháng 2

năm 1923, W. Easson Brown , làm việc trong phòng dược khoa của Ðại

học Toronto đã trình bày những “Thí nghiệm sơ khởi với ê ty len như

là loại thuốc gây mê tổng quát”. Qua tháng sau, Luckhartdt và Carter

bài “The physiologic effects of ethylene, a new gas anesthetic” (Tác

dụng bịnh lý của ethylen, một chất khí gây mê mới). Sau nhiều lần áp

dụng thử, ethylen trở thành chất gây mê tổng quát, thay thế ê te và

chloroform.

5- Cyclopropane

Ðến 1930, người ta bắt đầu thử cyclopropane như một chất gây mê

mới. Cyclopropane mạnh hơn ê te và nitrous oxide, nhưng đặc tính của

cyclopropane là chỉ cần chiếm 10 dến 15 phần trần trăm trong hỗn hợp

khí, do đó dưỡng khí được tăng lên đến 85 hay 90 phần trăm, giúp

người được gây mê dễ thở hơn. (Nitrous oxide cần đến 85 hoặc 90

phần trăm trong hỗn hợp khí, còn ê te cần đến 80 phần trăm). Do đó

cyclopropane nghiễm nhiên trở thành thuốc gây mê tổng quát được

dùng nhiều nhứt. Nhưng khi giải phẩu ở thân trên, người ta phải dùng

một liều lượng cao cyclopropane hay ê te. Ở liều lượng cao này, ê te và

nhất là cyclopropane lại làm cho sức ép của cơ tim giảm, làm khó thở,

và gan và trái cật không hoạt động bình thường được..Các nhà nghiên

cứu không dừng lại với cyclopropane được.

Howard Griffith đã áp dụng ê ty len lẫn cyclopropane trong việc gây

mê tổng quát ở bịnh viện Homoeopatic ở Montréal (sau này đổi tên lại

là bịnh viện Nữ Hoàng Elizabeth) Số bịnh nhân được gây mê bằng

cyclopropane tăng từ 350 người trong năm 1934 lên đến hơn 5000

người vào năm 1940. Nhưng cyclopropane ở số lương cao có thể gây

ra khó thở nơi người được gây mê.

6- Intocostrin

Năm 1940, Lewis H. Wright đại diện của công ty Squibb đã đề nghị

dùng Intocostrin, một dược chất trích từ độc dược Curaré để làm dịu

phản ứng của Metrazol trên những người bị bịnh thần kinh. Curaré là

thuốc độc mà thổ dân ở Ba Tây và Nam Mỹ tẫm vào đầu mũi tên. Chỉ

cần bị đầu mũi tên làm sướt da một chút là người bị thương có thể chết

sau khi các bắp thịt bị tê liệt. Curaré được chế từ một loại dây leo mọc

trên vòm cây khu rừng nhiệt đới của Nam Mỹ, và công ty Squibb đã lọc

được dược chất Intocostrin.

Dược sĩ McIntyre và bác sĩ tâm thần Bennett ở Omaha, Nebraska, đã

thử Intocostrin ở liều lượng thật nhỏ, để kềm bớt phản ứng của

Metrazol. Sự thành công bất ngờ của loại thuốc mới làm cả hai rất vui

mừng và đã tự động quảng cáo cho Intocostrin. Nhưng những bác sĩ ở

Hoa kỳ không may mắn khi thử với loại thuốc này. Bác sĩ Stuart

Cullen đã thận trọng thử thuốc trên các con chó, và tất cả đều bị phản

ứng khó thở gần giống như bị suyễn. Bác sĩ Cullen không dám thử trên

người, và để loại thuốc mới này qua một bên. Nhưng ở Montréal

Harold Griffith đưọc xem cuốn phim do bác sĩ Bennett thâu.

Vào ngày 23 tháng 1 năm 1942, Harold Griffith cùng với cô phụ tá

Enid Johnson đã thử dùng Intocostrin làm thuốc gây mê trên một bịnh

nhân cần mổ ruột dư. Intocostrin gây mê như cyclopropane, nhưng lại

hơn ở chỗ làm dịu các cơ và bắp thịt, khiến cho việc giải phẫu diễn tiến

một cách dễ dàng. Sau đó, bác sĩ Griffith và cô Johnson đã thu thập tài

liệu và công bố 25 trường hợp giải phẫu dùng Intocostrin làm thuốc gây

mê. Bản báo cáo được tiếp đón nồng nhiệt và Intocostrin trở thành loại

thuốc gây mê mới. Bác sĩ Cullen, khi đọc bản báo cáo, đã dậm chân la

trời và đã đem các mẫu Intocostrin ra dùng ngay.

7- Châm cứu

Thuốc gây mê có diễn tiến như trên trong y-khoa Âu Tây. Người Á

Ðông, nhất là người Trung hoa có một phương pháp khác để gây tê.

Ðó là châm cứu. Châm là dùng kim bằng kim loại (có khì dùng tre

chuốt thật nhọn, nếu gặp trường hợp không có kim) châm vào kinh

mạch hay các điểm đã được xác định trước trên thân thể con người.

Cứu là dùng ngải (cỏ, lá của những dược thảo) để hơ vào các huyệt.

Nhưng ngày nay châm cứu được hiểu như dùng kim bằng kim loại để

trị. Châm cứu đưọc xem như cách trị nhiều bệnh từ nhức đầu kinh niên

đến mất ngủ, đau bao tử hay đường ruột … Nhưng chủ yếu, châm cứu

rất công hiệu trong việc làm giảm đau nhức, và đã được dùng để gây tê

ở một phần thân thể.

**Châm cứu bằng kim

Nhiều nhà quan sát Tây phương đã được mục kích các cuộc giải

phẫu quan trọng ở Trung quốc, mà người gây tê cho bệnh nhân là một

châm cứu gia. (Encyclopedia Britanica, trang 74). Ðặc biệt là việc gây

tê thường được thực hiện ở phần thân thể xa cách nơi giải phẫu, như

châm sáu bảy kim vào cánh tay và bàn chân để gây tê ở vùng bụng, khi

mổ cắt ruột dư bị sưng. Người ta giải thích theo y khoa Tây Âu là các

mũi kim có thể đã tác dụng để cơ thể sản xuất ra các hóa chất trị đau

như endorphins hay enkephalins. Một thuyết khác cho rằng các kim

châm vào kinh mạch sẽ tạo ra những tín hiệu làm tràn ngập hệ thần

kinh, và loại bỏ các tín hiệu dẫn đưa sự đau đớn lên não bộ, thuyết thứ

ba cho là châm cứu chỉ là một cách tự kỷ ám thị, và nhờ đó mà bệnh

nhân không thấy đau.

** Châm cứu bằng ngón tay

Ngoài việc châm cứu bằng kim, người Ðông y sĩ có khi dùng

ngón tay hay móng tay đè lên các huyệt (giống như điễm huyệt trong

các chuyện chưởng). Áp lực của ngón tay cũng công hiệu như châm

kim. Khác với thuốc gây tê trong y khoa Tây phương, các huyệt

thường nằm xa chỗ cần gây tê nơi cơ thể của người bệnh nên việc châm

cứu không gây vướng bận cho việc giải phẫu. Và cũng nhờ đó mà

người bệnh không bị các hậu quả do thuốc tê gây ra. Hiện nay ở Bắc

Mỹ cũng như ở Anh quốc đã có những hiệp hội về châm cứu để kiểm

soát các Ðông y sĩ hành nghề này. Ở Việt Nam, ngay từ các năm 1950-

1960 đã có nhiều người học về châm cứu. Bác sĩ Y khoa Lê văn

Phụng trong thập niên đó đã có phòng mạch chuyên về châm cứu ở góc

đường Phan Thanh Giản và Ðinh Tiên Hoàng. Ông đã học thêm châm

cứu ở Ðài loan sau khi tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ. Nhưng cũng có

nhiều người theo y khoa Âu Tây còn hoài nghi châm cứu và cho là việc

châm cứu không có hiệu quả.

Loại thuốc gây mê mới này, tuy giúp các cơ, bắp thịt dịu lại mà

không co cứng, nhưng buộc các chuyên gia gây mê phải giúp bịnh nhân

thở điều hoà. Nghĩa là vẫn còn cơ hội để tìm tòi và nghiên cứu về thuốc

gây mê hay những cách gây tê không theo trường phái y khoa Âu Tây,

hầu tìm ra những dược chất mới, phương cách mới gây mê hay gây tê

một cách chính xác, không có những hậu quả khó chịu hay nặng nề,

mà vẫn giữ cho bịnh nhân được an toàn ở một mức tối ưu.

8- Châm cứu bằng tia laser hồng ngoại:

Ngày nay người ta đã có thể châm cứu mà không cần chạm vào

huyệt của người bịnh bằng kim hay bằng ngón, hoặc móng tay. Người

ta dùng tia laser để kích thích các huyệt cũng y hệt như châm cứu

bằng kim. Dùng tia laser ít hao tốn hơn và không nguy hiểm cho

người được chữa bịnh vì không có những hiệu ứng phụ bất lợi, và

không sợ bị nhiễm trùng. Châm bằng tia laser không đau, không để lại

dấu vết, mà lại kích thích được các huyệt ở đúng độ sâu nhạy nhất..

Người ta đã dùng tia laser hồng ngoại, phát sóng liên tục, 15 mW,

632.8 nm cho những huyệt nằm gần da và tia laser hồng ngoại, phát

sóng từng đợt (pulsed) 9.4W, 904 nm cho những huyệt nằm sâu hơn để

chữa cho những người bị đau nhức ở cườm tay. (CTS ). Sau khi chữa

trong vòng ba đến bốn tuần, những người bịnh CTS ở mức độ vừa phải

(không nặng quá), đã dùng bàn tay làm việc lại được và trong hai năm

sau không hề bị đau nhức nữa.