BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH __________________ Phạm Văn Diễn
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN KIM DUNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn này, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tổ chức và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp thuận và tạo điều kiện cho tôi thực hiện
luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Kim Dung, phó Viện trưởng
Viện nghiên cứu giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý Thầy, Cô đã giảng dạy và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Cà Mau,
Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, cán bộ quản lí và giáo viên các
trường tiểu học trong huyện đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến quý báu
để tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, dù đã rất cố gắng, song chắc chắn luận văn này vẫn còn
nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong các đồng
nghiệp, quý Thầy, Cô và Hội đồng chấm luận văn góp ý cho những thiếu sót
trong luận văn này.
Tôi chân thành cảm ơn !
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực, được nghiên cứu và thu thập
từ thực tiễn và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Phạm Văn Diễn
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL
: Cán bộ quản lí
CNH, HĐH
: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
GD&ĐT
: Giáo dục và Đào tạo
HS
: Học sinh
QTDH
: Quá trình dạy học
QLGD
: Quản lí giáo dục
THCS
:
Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chất lượng và hiệu quả trong giáo dục và đào tạo đã và đang là mối
quan tâm của toàn xã hội, nhất là nước ta đang trong tiến trình hội nhập toàn diện
vào nền kinh tế thế giới mà trong đó nổi lên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và
khốc liệt trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, trong đó có giáo dục
& đào tạo. Việc nâng cao chất lượng giáo dục & đào tạo là một nhu cầu bức thiết
cho các cơ sở giáo dục và đào tạo nói riêng và cho cả hệ thống giáo dục quốc dân
nói chung. Khi Việt Nam gia nhập WTO, sẽ phải mở cửa thị trường và nếu nhìn
nhận ở góc độ phát triển thì việc gia nhập này sẽ giúp Việt Nam phát huy tiềm năng
và thúc đẩy sức mạnh nguồn trí thức nội tại để có thể sánh vai ngang bằng với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, để sự nghiệp giáo dục thực sự là
quốc sách hàng đầu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có một nhiệm
vụ bức thiết đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam nói chung và các nhà quản lí giáo
dục Việt Nam nói riêng là phải tiếp tục nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về giáo
dục. Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực quản lý là phải
nâng cao chất lượng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo
viên.
Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có ý nghĩa cao cả
đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ trực tiếp
và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển
bền vững [28, tr. 270]
Nói về tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên trong bối cảnh giáo dục đi vào
thế kỷ XXI, Tiến sĩ Raja Roy Singh - nhà giáo dục nổi tiếng ở Ấn Độ, chuyên gia
giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có một lời
bình khá ấn tượng: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và
đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục . . .”; [28, tr. 270] . Từ lời bình này cho
thấy giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống giáo dục, là người chịu
trách nhiệm và quyết định đến chất lượng giáo dục của cấp học. Dù ở bất cứ cấp
học nào thì vai trò của giáo viên vẫn trong tư thế chủ đạo. Đặc biệt là cấp học đầu
tiên trong hệ thống giáo dục. Giáo dục tiểu học nằm trong hệ thống giáo dục quốc
dân và là nền tảng đầu tiên rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách cho con người. Vì vậy, chất lượng giảng dạy ở cấp tiểu học là nền tảng cho
chất lượng giảng dạy ở cấp Trung học cơ sở và trung học phổ thông và đại học.
Quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu
học là công tác chủ đạo, song cũng rất khó khăn của người hiệu trưởng. Vì chất
lượng giáo dục có được nâng lên tiến tới mục tiêu được hay không thì việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên phải được tổ chức, quản lý, chỉ đạo chặt chẽ và
khoa học ở ngay từ các trường tiểu học. Đồng thời công việc này không chỉ thực
hiện trong một giai đoạn nhất định, một thời điểm nhất định mà phải tiến hành thực
hiện trong suốt quá trình giáo dục. Vì chất lượng giáo dục không phải là cái bất biến
mà luôn có sự thay đổi biến động liên tục. Vì vậy, quản lý việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học là việc làm cần thiết và phải được tiến
hành một cách thường xuyên liên tục.
Trong thời gian qua, đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
từng bước phát triển mạnh về số lượng, chất lượng nhưng cũng còn những bất cập
về cơ cấu, trình độ, tuổi tác nên ít nhiều ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ giảng dạy. Công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đã đạt được kết quả đáng
kể, song nhìn chung chất lượng và hiệu quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu của chương trình tiểu học mới hiện nay [57,tr. 12]
Qua tham khảo các chuyên đề, đề tài về quản lý trường tiểu học, chúng tôi
nhận thấy đề tài: “Quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau” chưa có ai nghiên cứu, đặc biệt
trong tình hình đổi mới giáo dục tiểu học hiện nay. Mặt khác, chúng tôi đã có thời
gian trực tiếp chỉ đạo việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học. Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh
Cà Mau” nhằm đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học ở
địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau, phân tích nguyên nhân của thực trạng. Từ đó đề xuất các biện pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng về công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học và xác định được các biện pháp quản lí việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học có tính khoa học, khả
thi, có kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình phát triển giáo dục của huyện Phú
Tân và được tổ chức thực thi đồng bộ sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
của giáo viên các trường tiểu học ở huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý việc đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau, tìm ra những
nguyên nhân của thực trạng đó.
5.3. Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú
Tân, tỉnh Cà Mau.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và qui mô của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập
trung vào vấn đề nghiên cứu thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở 12 trường tiểu học tiêu biểu trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu được sử dụng nhằm xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn
cho việc xây dựng các biện pháp quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho các cấp quản lý giáo dục ở huyện Phú Tân,
tỉnh Cà Mau thấy được thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng của giáo viên ở
các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau để từ đó đưa ra các chủ trương,
giải pháp phù hợp.
8. Các phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo sách, báo, tài liệu, các bài
viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, các văn bản của Bộ, Sở,
Phòng Giáo dục & Đào tạo có liên quan đến đề tài
8.2.1. Phương pháp trao đổi - phỏng vấn : Nhằm thu thập thông tin qua
việc trao đổi trực tiếp với các cán bộ quản lí của trường, Phòng Giáo dục & Đào tạo
và một số giáo viên để làm rõ thực trạng công tác quản lí việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
8.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu : nhằm thu thập thông tin qua
phiếu hỏi ý kiến đội ngũ cán bộ quản lí và phiếu hỏi ý kiến giáo viên.
* Xây dựng bộ công cụ nghiên cứu
Bộ công cụ điều tra gồm 3 mẫu :
- Mẫu 1 : Phiếu điều tra dành cho cán bộ quản lí trường học ( 57 phiếu phát
ra, tỷ lệ phản hồi là 100%).
- Mẫu 2 : Phiếu điều tra dành cho các giáo viên ( 236 phiếu phát ra, tỷ lệ
phản hồi là 100%).
- Mẫu 3 : Phiếu điều tra dành cho cán bộ quản lí Phòng Giáo dục & Đào tạo
( 08 phiếu phát ra, tỷ lệ phản hồi là 100%).
Các phiếu điều tra tập trung nghiên cứu các vấn đề về quản lí việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau.
Xây dựng bộ câu hỏi trao đổi, phỏng vấn Ban giám hiệu, các giáo viên tiểu
học, cán bộ quản lí Phòng Giáo dục & Đào tạo, nội dung của bộ câu hỏi xoay quanh
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học. Lập
kế hoạch tham quan các trường học để quan sát các tài liệu, văn bản, phương tiện,
thiết bị . . . phục vụ cho việc quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy ở các
trường tiểu học nhằm nắm rõ hơn các vấn đề cần điều tra.
* Chọn mẫu nghiên cứu :
Chọn 12 trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
+ Bốn trường tiểu học xếp loại tốt :
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm 1
Trường tiểu học Phú Tân
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm 2
Trường tiểu học Việt Khái 1
+ Bốn trường tiểu học xếp loại khá :
Trường tiểu học Tân Hưng Tây B
Trường tiểu học Việt Thắng 1
Trường tiểu học Việt Khái 2
Trường tiểu học Tân Nghiệp A
+ Bốn trường tiểu học xếp loại trung bình :
Trường tiểu học Phú Hiệp.
Trường tiểu học Việt Thắng 2
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm 3
Trường tiểu học Phú Mỹ 2
* Tổ chức nghiên cứu :
- Tổ chức khảo sát bằng phiếu hỏi ý kiến.
- Khảo sát thực trạng các trường tiểu học thông qua nghiên cứu các hoạt
động quản lí, các tài liệu, các văn bản có liên quan của trường.
- Khảo sát thực trạng qua trao đổi trực tiếp với hiệu trưởng, giáo viên các
trường tiểu học, cán bộ quản lí của Phòng Giáo dục & Đào tạo.
- Khảo sát thực trạng qua quan sát một số hoạt động của hiệu trưởng.
- Khảo sát thực trạng qua quan sát các phòng học, phòng thiết bị, phòng thư
viện và một số phòng chức năng khác của trường tiểu học.
8.3. Phương pháp quan sát : nhằm thu thập thông tin qua việc quan sát các
hoạt động quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học.
8.4. Phương pháp thống kê toán học :
- Phương pháp thống kê toán học : xử lí kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh
giá thực trạng về định hướng nâng cao hiệu quả của công tác quản lí việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
- Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê toán học:
Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dùng phương pháp thống kê toán
học để tính:
Độ trung bình: X (Mean)
Tính tỷ lệ %
Các câu hỏi về các nội dung, quy trình, điều kiện đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên theo thang điểm từ 1 đến 2 (1: chưa tốt, 2: tốt).
Sau đó tính giá trị trung bình X của các mức độ trên để đánh giá.
Đồng thời qua tỷ lệ % theo các nhóm đánh giá để so sánh việc đánh giá
của từng nhóm về các nội dung và có nhận định tổng quát về thực trạng
quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên hoặc các biện
pháp do đề tài đề xuất.
- Viết văn bản của kết quả nghiên cứu : dựa trên các thông tin thu thập được
qua các hồ sơ sổ sách, việc xử lí phiếu thăm dò ý kiến, các thông tin về trao đổi -
phỏng vấn, quan sát.
9. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học
Chương 2. Thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
Chương 3. Một số biện pháp đổi mới quản lý việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
CỦA GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dạy học và quản lí dạy - học được hình thành và phát triển cùng với lịch sử
hình thành và phát triển các hình thái kinh tế - xã hội. Lúc đầu cơ sở lí luận về dạy
học chỉ thể hiện dưới dạng một số ý tưởng của những nhà triết học (đồng thời cũng
là các nhà giáo dục) sau đó dần dần phát triển và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, gần
đây người ta mới chú ý, bàn luận về quản lí nói chung và quản quản lí hoạt động
dạy học nói riêng. Nhưng hầu hết các ý tưởng và công trình nghiên cứu điều nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả công tác quản lí các hoạt động này. Thực tiễn dạy học
đã chứng minh rằng muốn hoàn thiện nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
(QTDH) thì không thể bỏ qua khâu kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên và kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Thông qua đó các nhà quản lý
giáo dục ( QLGD) và đội ngũ thầy, cô giáo có được những thông tin hai chiều quan
trọng để kịp thời phát hiện điều chỉnh quá trình dạy và học cho phù hợp với đối
tượng và thực tiễn giảng dạy.
Dạy học là hoạt động chủ yếu trong nhà trường, là trung tâm của hoạt động
QLGD. Vì vậy, việc kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy có vị trí vô cùng quan
trọng, có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục.
Vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh đã được nhiều tác giả
nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những thang đánh giá về kiến thức, kỹ năng và về thái
độ phù hợp.
Theo T.S. Vũ Thị Phương Anh và Th.S. Hoàng Thị Tuyết trong tài liệu đào
tạo giáo viên tiểu học “Đánh giá kết quả học tập ở tiểu học” thì “Kiểm tra là thuật
ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu
hiện kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ
kiện làm cơ sở cho việc đánh giá. Còn đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá
trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc chỉ phán đoán về trình
độ, phẩm chất của người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa
trên cơ sở những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm
tra”. Trong khuôn khổ các tài liệu trên, các tác giả cũng cho rằng đánh giá kết quả
học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học lực và hạnh kiểm thông qua quá trình
học tập các môn học cũng như các hoạt động khác trong phạm vi của nhà trường.
Trong đó giáo viên thông qua các phương tiện kiểm tra với nhiều hình thức khác
nhau để rút ra nhận định, kết luận về trình độ, kỹ năng, nhận thức của người học để
từ đó có được đánh giá đúng đắn về chất lượng thật của người học trong quá trình
học tập.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học và quản lí giáo dục đã xác
định vấn đề cải cách đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục là một trọng tâm cấp
bách cần được nghiên cứu thực hiện nghiêm túc, phải được bắt đầu từ khâu lý luận,
phương pháp luận. Công việc kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy ở các trường
phổ thông là một lĩnh vực khá rộng. Trước mắt, do điều kiện thời gian và kinh phí,
các đề tài được giới hạn ở việc xác định cơ sở lý luận của việc đánh giá trong dạy
học và bước đầu thử vận dụng để tạo ra sự định hướng và cách làm mới nhằm tập
trung vào việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Có rất ít đề tài nghiên cứu về
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học. Song vẫn có một số chuyên
đề, đề tài gần gũi với đề tài chúng tôi nghiên cứu như :
Th.S. Nguyễn Việt Bắc với chuyên đề : “Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên - một
giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tiểu học” nghiên cứu và bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ giáo viên tiểu học.
Th.S. Huỳnh Kim Trang với đề tài : “Thực trạng về công tác quản lý việc
dạy và học ở trường tiểu học của một số Phòng Giáo dục & Đào tạo quận (huyện)
tại Thành phố Hồ Chí Minh” nghiên cứu về quản lý dạy học của Phòng Giáo dục &
Đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Th.S. Lê Quang Dũng với đề tài : “ Thực trạng về công tác quản lý giảng
dạy của hiệu trưởng các trường tiểu học ở Thị xã Bến Tre” nghiên cứu về quản lý
giảng dạy của hiệu trưởng ở các trường tiểu học ở Thị xã Bến Tre.
Những công trình nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc
nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng và đưa ra các giải pháp chung
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường tiểu học. Tuy nhiên, cho đến nay,
theo chúng tôi thì chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý việc
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân -
tỉnh Cà Mau.
Theo các tác giả : Vũ Thị Phương Anh và Hoàng Thị Tuyết thì đánh giá có
những chức năng sau : Chức năng quản lý, chức năng kiểm soát và điều chỉnh, chức
năng giáo dục và phát triển. Nếu đánh giá đúng thực lực, đúng chất lượng, đảm bảo
tính công khai, công bằng, dân chủ, khách quan, kịp thời . . . sẽ có tác dụng tích cực
trong việc phát huy tính sáng tạo và nội lực của giáo viên. Đồng thời, đó cũng chính
là động lực thúc đẩy tinh thần đội ngũ giáo viên đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm để
nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Đáp ứng được yêu cầu của
ngành giáo dục và đào tạo và nhu cầu của xã hội đặt ra. Ngược lại, nếu đánh giá
không đúng lúc, không kịp thời, thiếu khách quan, công bằng thì sẽ mất lòng tin của
đội ngũ giáo viên, không khuyến khích được sự nỗ lực phấn đấu vươn lên và có
nhiều cồng hiến, đóng góp cho ngành.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
* Khái niệm quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm. Ngay từ buổi sơ khai,
để đương đầu với sức mạnh của tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người phải
hình thành các nhóm hợp tác lao động nhằm thực hiện những mục tiêu mà từng cá
nhân riêng lẻ không thể thực hiện được, điều này đòi hỏi phải có tổ chức, phải có sự
phân công và hợp tác trong lao động và từ đó xuất hiện sự quản lý.
Ngày nay, nhiều người thừa nhận rằng quản lý trở thành một nhân tố của sự
phát triển xã hội. C.Mác coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử
của đời sống xã hội. Ông viết : “ Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng
chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung
của cơ sở sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp
thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một
giàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [36, tr. 5]
Theo những cách tiếp cận khác nhau, khái niệm quản lý được các nhà khoa
học định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu.
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô 1977 thì “ Quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau, nó bảo toàn cấu trúc xác định
của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt
động” (Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân) [ 36, tr. 7]. Ngoài ra, có một số quan niệm
khác như “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản
lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt được mục
đích nhất định” (Nguyễn Ngọc Quang) [43, tr.7]. Cũng theo tác giả Nguyễn Kỳ,
Bùi Trọng Tuân đã thể hiện quan điểm của mình một cách chính xác khi cho rằng
quản lí là một “Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do
đó: quản lý được hiểu là được bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có
sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển động của hệ thống đến
trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới” (Theo Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân)
[36, tr. 8]
Cùng với các quan niệm trên các tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Bá Sơn
cũng có những nhìn nhận về khái niệm quản lí một cách toàn diện “Quản lý, là
nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến
thành những thành tựu của xã hội” [36, tr. 8]; “Quản lý là những tác động của chủ
thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.”
[36, tr. 8]; “Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người
– thành viên của họ - nhằm làm cho họ vận hành thuận lợi và đạt mục đích dự
kiến.” [43, tr. 8]; “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để
tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động.” (Nguyễn Bá Sơn)
[36, tr. 8]
Các khái niệm về quản lí vừa nêu tuy khác nhau, song chúng có chung
những nội dung cơ bản và những dấu hiệu chủ yếu sau đây : Đó là những tác động
có tính định hướng đích cụ thể, hoạt động dựa trên sự tác động, phối hợp của các cá
nhân trong việc xây dựng lập kế hoạch và thực hiện các mục tiêu nhất định. Cần
phải thấy rõ hoạt động quản lí thực hiện trên mối quan hệ biện chứng giữa những
quy luật khách quan xã hội và hoạt động tự giác của con người. Hoạt động quản lí là
sự biểu hiện tự nguyện tự giác của chủ thể quản lí muốn điều chỉnh và hướng dẫn
các quá trình và các hiện tượng xã hội theo sự nhìn nhận của chủ thể phù hợp với
quy luật khách quan. Tuy nhiên nhân tố tự giác không nên được tuyệt đối hoá, vì
như thế dễ dàng rơi vào quan điểm duy tâm về quản lí. Ngược lại, việc nhận thức
đúng đắn vai trò của yếu tố tự giác trong hoạt động xã hội sẽ cho phép xác định
đúng đắn những giới hạn, chức năng và ý nghĩa xã hội của việc quản lí các quá trình
xã hội. Nói một cách khác, các đặc trưng chủ yếu của quản lí là : tính tự giác, tính
mục đích và tính quần chúng trong quản lí, đây cũng được coi là cơ sở phương pháp
luận mác xít của hoạt động quản lí. Thực tế công tác quản lí hiện nay cho thấy vai
trò của quản lý được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế - xã hội : vốn,
nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản lý. Trong đó quản lý có
vai trò mang tính quyết định sự thành công.
Như vậy từ các định nghĩa về khái niệm quản lí vừa nêu trên có thể hiểu
khái niệm quản lí là : sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý, để chỉ huy, điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm
đạt tới mục đích. Đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp quy luật khách quan. Hoạt
động quản lý được minh họa qua sơ đồ sau :
Công cụ quản lý
Mục tiêu quản lý
Chủ thể quản lý
Khách thể quản lý
MÔI TR
ƯỜNG QUẢN LÝ
Phương pháp quản lý
Sơ đồ 1.1 : Mô hình quản lý [24, tr. 5]
Từ mô hình quản lí trên có thể thấy hoạt động quản lí là một hoạt động phức
tạp với sự tham gia của nhiều yếu tố : Chủ thể quản lí, công cụ quản lý, phương
pháp quản lí, khách thể quản lí, mục tiêu quản lí và bao trùm lên hoạt động này là
môi trường quản lí. Mỗi yếu tố này có vai trò riêng biệt góp phần tạo nên hoạt động
quản lí thành một hệ thống chặt chẽ. Chủ thể quản lí thông qua các công cụ quản lí
để tìm hiểu, xây dựng kế hoạch và đưa ra phương pháp quản lí phù hợp, tác động
lên khách thể quản lí nhằm đạt một mục tiêu nhất định. Các yếu tố trong hoạt động
quản lí có mối quan hệ đan xen lẫn nhau. Nếu thiếu một trong những yếu tố trên sẽ
dẫn đến hoạt động quản lí thiếu tính hiệu quả, khoa học. Vì mỗi yếu tố trên vừa
đóng vai trò là điều kiện cần vừa đóng vai trò là điều kiện đủ cho các yếu tố còn lại
phối hợp đan xen tạo nên một hoạt động quản lí phù hợp. Trong hoạt động quản lí
mục tiêu được coi như là cái cuối cùng mà hoạt động quản lí muốn đạt được. Để đạt
được mục tiêu đã định, quản lý phải thông qua các chức năng quản lý.
* Chức năng quản lý
Chức năng quản lí đó là một loại động quản lý đặc biệt, sản phẩm của quá
trình phân công lao động và chuyên môn hoá trong quản lí, tiêu biểu bởi tính chất
tương đối độc lập của những bộ phận của quản lí [36, tr. 78-79]. Thực chất, chức
năng quản lí là hình thức tồn tại của các tác động quản lí. Chức năng quản lí là hình
thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí.
Trong quản lí, chức năng quản lí là một phạm trù quan trọng, mang tính khách
quan, có tính độc lập tương đối. Chức năng quản lí nảy sinh và là kết quả của quá
trình phân công lao động, là bộ phận tạo thành hoạt động quản lí tổng thể, được tách
riêng có tính chuyên môn hoá cao. Đối với các chức năng quản lí hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến chưa thật đồng nhất về các chức năng của quản lý nhưng đa số các nhà
khoa học đều thống nhất đề cập đến 4 nhóm chức năng cơ bản của quản lý đó là :
chức năng lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng điều khiển (chỉ đạo thực
hiện); chức năng kiểm tra.
Mỗi chức năng đóng vai trò riêng biệt và có những đặc thù góp phần tạo
nên một hoạt động quản lí tổng thể. Chức năng kế hoạch hoá là chức năng trọng
tâm, kế hoạch được hiểu khái quát là một bản ghi nhận những mục tiêu cơ bản, là
một chương trình hành động cụ thể được hoạch định trước khi tiến hành thực hiện
những nội dung nào đó mà chủ thể quản lý đã đề ra. Chức năng tổ chức là việc sắp
xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những dạng hoạt
động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách
tối ưu. Chức năng điều khiển (chỉ đạo thực hiện) là huy động lực lượng để thực hiện
kế hoạch, là biến những mục tiêu trong dự kiến thành kết quả thực hiện. Phải giám
sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ đúng tiến trình, đúng kế hoạch.
Khi cần thiết phải điều chỉnh, sửa đổi, uốn nắn nhưng không làm thay đổi mục tiêu
hướng vận hành của hệ nhằm giữ vững mục tiêu chiến lược đề ra. Chức năng kiểm
tra là đánh giá trạng thái của hệ, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch
đã đạt được tới mức độ nào. Kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong
quá trình hoạt động, tìm ra nguyên nhân thành công, thất bại giúp cho chủ thể quản
lý rút ra những bài học kinh nghiệm. Đồng thời kiểm tra là giữ vai trò liên hệ
nghịch, là trái tim, mạch máu của hoạt động quản lý. Có kiểm tra mà không đánh
giá coi như không có kiểm tra, không có kiểm tra coi như không có hoạt động quản
lý. Các chức năng quản lý được thực hiện một cách có hiệu quả hay không là nhờ
có thông tin; thông tin vừa là điều kiện vừa là phương tiện thực hiện tổng hợp các
chức năng quản lý. Các chức năng quản lý vừa mang tính độc lập tương đối, vừa có
liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý, được biểu thị bằng sơ đồ
sau :
Lập kế hoạch
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
Chỉ đạo
Sơ đồ 1.2 : Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý [ 24, tr. 6]
Như vậy qua các định nghĩa trên, có thể thấy là chức năng quản lý được xem
là những nhiệm vụ có tính nghề nghiệp mà tất cả các nhà quản lý phải thực hiện
trong quá trình quản lý của mình. Các chức năng quản lý thể hiện bản chất của quá
trình quản lý, việc thực hiện các chức năng quản lý phải đảm bảo cho hoạt động
quản lý tồn tại và phát triển. Các chức năng quản lý có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Nó là cơ sở, điều kiện của nhau, nó đan xen vào nhau, tương tác với nhau
trong một quá trình quản lý đầy năng động, sáng tạo nhằm đưa tổ chức tiếp cận mục
tiêu đã xác định một cách có hiệu quả. Từ khái niệm quản lí và tìm hiểu các chức
năng quản lí nêu trên cho thấy rằng bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống xã hội khi có
hoạt động ít nhiều điều xuất hiện khái niệm quản lí có đầy đủ các yếu tố của khái
niệm này và các chức năng tiêu biểu của nó. Có khác chăng chính là mỗi lĩnh vực
có đặc thù riêng và có thêm những nét riêng biệt trong hoạt động quản lí. Quản lí
giáo dục cũng nằm trong quy định khách quan này.
1.2.2. Quản lí giáo dục
* Khái niệm quản lí giáo dục
Quản lý giáo dục là một khoa học quản lý chuyên ngành được nghiên cứu
trên nền tảng của khoa học quản lý nói chung. Cũng giống như quản lí, quản lý giáo
dục cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới khái
niệm giáo dục trong phạm vi quản lý một hệ thống giáo dục nói chung mà hạt nhân
của hệ thống là các cơ sở trường học.
Về khái niệm quản lý giáo dục các nhà nghiên cứu đã quan niệm như sau:
Theo P. V. Khuđôminxky, M. M Mecchiti Zade : “Quản lý giáo dục là tác động có
hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến trường
học) nhằm đảm bảo việc quản lý giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm
bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các
quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học
và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em”[2, tr.50]; “Quản lý giáo
dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch
hoá, tài chính, cung tiêu . . . ) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ
quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [2, tr.52]
Các nhà nghiên cứu về quản lí giáo dục Việt Nam như tác giả Trần Kiểm và
tác giả Phạm Minh Hạc cũng có những khái niệm tương tự về quản lí giáo dục:
“QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể
quản lí ở các cấp khác nhau nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho
thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội
cũng như các quy luật của QLGD, của sự phát triển tâm lí và thể lực của trẻ em”
[34, tr. 64] hoặc “ QLGD là quản lí trường học, thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh” [26, tr.26]
Những khái niệm trên tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng tựu chung thì
đặc trưng của quản lí giáo dục gồm có : chủ thể quản lí, đối tượng quản lí, khách thể
quản lí, mục tiêu quản lí. Nói một cách khác quản lí giáo dục được hiểu như sự tác
động có tính tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lí đến các đối tượng quản lí
nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Cụ thể hơn, QLGD bao gồm 2 cấp độ sau : [36, tr. 36]
Phải có chủ thể QLGD, ở cấp vĩ mô là quản lí của Nhà nước mà các cơ quan
trực tiếp quản lí Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục
và Đào tạo. Phải có hệ thống tác động quản lí theo nội dung, chương trình, kế hoạch
thống nhất từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục trong
mỗi giai đoạn cụ thể ở cấp vi mô là quản lý của hiệu trưởng các trường học. Phải có
một lực lượng những người làm công tác giáo dục với hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật tương ứng và đông đảo các em học sinh.
Mục tiêu quản lí
Khách thể quản lí
Chủ thể quản lí
Đối tượng quản lí
Dù ở cấp độ nào chúng ta cũng thấy rõ 4 yếu tố của QLGD, đó là: chủ thể
quản lí, đối tượng bị quản lí (nói tắt là đối tượng quản lí), khách thể quản lí và mục tiêu quản lí. Bốn yếu tố này tạo thành sơ đồ sau :
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ khái niệm quản lí [36, tr. 38]
Rõ ràng bốn yếu tố vừa nêu cũng nằm trong hệ thống lí luận chung về quản
lí nhưng cần chú ý ở đây là khách thể quản lí và mục tiêu quản lí ở đây là con
người, cụ thể hơn con người trong hoạt động giáo dục trong môi trường quản lí giáo
dục ( nhằm phân biệt với các lĩnh vực khác như : kinh tế, công nghiệp, dịch vụ). Vì
thế nó sẽ có những đặc điểm riêng biệt.
* Đặc điểm QLGD
Từ những khái niệm QLGD trên đây, chúng tôi rút ra các đặc điểm cơ bản của
QLGD như sau :
Thứ nhất : Quản lí giáo dục bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lí và đối
tượng bị quản lí. Đây là đặc điểm cơ bản của hoạt động quản lí nói chung và QLGD
nói riêng. QLGD là quản lí việc đào tạo con người, việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách, việc tái sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng quản lí ở đây là những
ai thực hiện hoặc chịu sự tác động của giáo dục & đào tạo.
Thứ hai : Quản lí giáo dục bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin
và đều có mối liên hệ hai chiều. Quản lí được diễn ra nhờ các dấu hiệu của mình.
Đó là thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới, được thu nhận, được hiểu và
được đánh giá là có ích cho các hoạt động quản lí (cho các chủ thể quản lí và đối
tượng bị quản lí).
Thứ ba: Quản lí giáo dục bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
Thứ tư: Quản lí giáo dục vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì quản lí giáo
dục phải được xây dựng chủ yếu trên cơ sở các sự kiện khoa học trong hoạt động
quản lí giáo dục. Những sự kiện này được quan sát và điều tra, sưu tầm, tổng kết,
thực nghiệm . . . phải được phân tích bằng những tri thức liên quan. Tính khoa học
còn thể hiện ở quan điểm và tư duy về hệ thống, tôn trọng các quy luật khách quan
tức là xuất phát từ tính quy luật của các quan hệ trong quá trình hoạt động của các
tổ chức bao gồm những quy luật kinh tế, xã hội, công nghệ . . . Tính nghệ thuật của
quản lí thể hiện ở chỗ là sự vận dụng các kiến thức khoa học một cách linh hoạt để quản lí một cách có hiệu quả.
Thứ năm: Quản lí giáo dục gắn liền với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
Người lãnh đạo có ưu thế quan trọng trong việc tổ chức, họ có khả năng điều khiển
người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người lãnh đạo còn là
người có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình thông qua
việc sử dụng người khác trong quá trình dẫn dắt, thu hút, lôi kéo họ nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức. Người lãnh đạo đồng thời dễ để lại danh tiếng cho người khác
và cộng đồng nếu sự lãnh đạo tổ chức của mình phát triển và đạt được mục tiêu của
tổ chức. Từ các đặc điểm này cho thấy rõ hơn sự khác biệt của hoạt động quản lí
giáo dục và đối tượng chủ yếu của hoạt động quản lí giáo dục chính là con người
nằm trong sự tác động của giáo dục & đào tạo. Chính điều này sẽ quy định đến bản
chất của quản lí giáo dục. Vì đặc điểm cơ bản của sự vật, hiện tượng sẽ quy định bản chất của sự vật hiện tượng tạo nên sự hài hoà trong một chỉnh thể thống nhất.
* Bản chất QLGD
Có thể hiểu “Bản chất là thực chất cơ bản, bên trong sự vật, hiện tượng”
[41,tr. 125] với ý nghĩa trên khi xem xét bản chất của QLGD là nghiên cứu tính chất
QLGD qua các mặt : nhận thức luận, tâm lí học, điều khiển học . . . nhìn nhận hiện
tượng trên nhiều mặt như vậy sẽ cho ta một biểu tượng hoàn chỉnh về nó, giúp
chúng ta nhận thức và giải quyết các vấn đề lý thuyết và thực tiễn QLGD, quản lí
nhà trường, quản lí quá trình giáo dục đúng đắn hơn. Kinh nghiệm thực tiễn cho
thấy, quản lí phải xuất phát từ việc nắm vững, thực hiện tốt các quy luật của vấn đề
đặt ra. Vấn đề gắn liền với thực trạng hiện thực của hệ thống, nó được ý thức đầy
đủ, đúng đắn qua đầu vào, các yếu tố nghiệp vụ quản lí gắn bó hữu cơ, hài hòa ăn
khớp với nhau từ mục tiêu, nguyên tắc, chức năng, phương pháp, cơ cấu tổ chức và
cán bộ. Bản chất của QLGD là sự tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản
lí đến các đối tượng quản lí nhằm làm cho ngành giáo dục & đào tạo thực hiện tốt
chức năng của mình. Nói đến QLGD chính là nói đến quản lí của nhà trường. Đó là
nơi triển khai và thực hiện các mục tiêu, nguyên lí giáo dục nhằm đảm bảo thực
hiện tốt việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho xã hội trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội tổng thể của một quốc gia, một địa phương mà giáo dục là yếu
tố then chốt trong kế hoạch tổng thể đó. Vì thế, tìm hiểu quản lí giáo dục cũng chính là tìm hiểu công tác quản lí nhà trường.
1.2.3. Quản lí nhà trường
Đối với công tác quản lí nhà trường được quy định rõ trong văn bản quy
phạm pháp luật cụ thể nhất là Luật Giáo dục (2005) quy định “Nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế
hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều
kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân”
[39, tr. 42]
Theo từ điển giáo dục học thì “Quản lí nhà trường là thực hiện hoạt động
quản lí giáo dục trong tổ chức nhà trường. Hoạt động quản lí của nhà trường do
chủ thể quản lí nhà trường thực hiện, bao gồm các hoạt động quản lí trong nhà
trường như : quản lí giáo viên, quản lí học sinh, quản lí quá trình dạy học, quản lí
cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, quản lí tài chính trường học, quản lí lớp học
như nhiệm vụ của giáo viên, quản lí mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng”
[47, tr. 31]
“Hoạt động quản lí nhà trường chịu sự tác động của những chủ thể quản lí
bên trên nhà trường (các cơ quan quản lí giáo dục cấp trên) nhằm hướng dẫn và
tạo điều kiện cho hoạt động của nhà trường và bên ngoài nhà trường, các thực thể
bên ngoài nhà trường, cộng đồng nhằm xây dựng những định hướng về sự phát
triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho nhà trường phát triển” [47, tr. 32]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [26, tr. 27]
Vậy, quản lí nhà trường cũng chính là quản lí giáo dục nhưng trong một
phạm vi xác định cụ thể của một đơn vị giáo dục nền tảng đó là nhà trường. Do vậy
quản lí nhà trường vận dụng tất cả các nguyên lí chung của quản lí giáo dục nhằm
đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. Nói như thế không có
nghĩa là quản lí trường học là sự sao chép một cách máy móc toàn bộ hệ thống lí
luận về quản lí giáo dục để vận dụng trong nhà trường. Nên biết rằng quản lí trường
học là cấp độ vi mô của hoạt động giáo dục. Trong khi đó quản lí giáo dục là một
khái niệm rộng dùng chung cho cả một hệ thống giáo dục. Ngay cả trong lĩnh vực
trường học cũng được chia nhiều cấp độ nhà trường khác nhau. Quản lí trường học
cấp trung học phổ thông khác với quản lí trường học cấp trung học cơ sở và càng
khác xa với quản lí trường học cấp tiểu học. Mỗi cấp học điều có những mục tiêu
giáo dục khác nhau, do đối tượng giáo dục khác nhau. Chính vì thế quản lí trường
học chính là sự vận dụng các nguyên lý quản lí giáo dục một cách linh hoạt đối với
từng cấp học.
* Quản lí trường tiểu học
Theo cách hiểu QLGD như đã nêu trên, thực chất QLGD suy cho cùng là hệ
thống những tác động có tính khoa học theo một quy trình và nguyên tắc nhất định
vào các hoạt động của nhà trường để các hoạt động này vận hành theo đúng mục
tiêu. Trường học là bộ phận cấu thành của các hệ thống giáo dục. Vì vậy để thành tố
này vận hành và phát triển thì bản thân nhà trường cũng cần phải quản lí. Quản lí
trường học cũng có thể hiểu như một bộ phận của QLGD nói chung. Như vậy quản
lí nhà trường cũng chính là QLGD nhưng trong một phạm vi xác định của một đơn
vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. Vì thế quản lí giáo dục tiểu học là vận dụng
tất cả các nguyên lí chung của QLGD nhằm đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường theo mục tiêu đào tạo của cấp tiểu học là : Giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung
học cơ sở [39, tr. 21]
Vị trí của cấp tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân được thể hiện tóm
tắt ở sơ đồ sau :
4. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC SAU ĐẠI HỌC
Đào tạo tiến sĩ ( 2-4 năm)
Cao học ( 1-2 năm)
Giáo dục thường xuyên
18 tuổi
Cao đẳng và cao đẳng nghề ( 2-3 năm)
Đại học (4- 6 năm)
2. GD PHỔ THÔNG
3.GD NGHỀ NGHIỆP
Trung học phổ thông ( 3 năm)
Trung cấp chuyên nghiệp ( 1- 4 năm)
Trung cấp nghề ( 1-3 năm)
Trung học cơ sở ( 4 năm)
Sơ cấp nghề ( < 1 năm)
Tiểu học ( 5 năm)
Mẫu giáo ( 3 năm)
18 tuổi 15 tuổi 15 tuổi 11 tuổi 11 tuổi 6 tuổi 6 tuổi 3 tuổi 3 tuổi 3-4 tháng
Nhà trẻ ( 3năm)
Sơ đồ số 1.4: Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam [ 28, tr. 154] ( Theo Luật Giáo dục năm 2005)
Quản lí trường tiểu học về bản chất là quản lí con người trong nhà trường,
đối tượng bị quản lí là tập thể giáo viên và tập thể học sinh, đối tượng quản lí là
lãnh đạo nhà trường. Có thể nói quản lí trường tiểu học chủ yếu tác động đến tập thể
giáo viên để tổ chức phối hợp hoạt động của học sinh trong quá trình giáo dục học
sinh. Mặt khác, cũng cần phối hợp chặt chẽ các lực khác trong và ngoài nhà trường
để huy động họ cùng hợp tác, phối hợp tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường,
nhằm đạt được mục tiêu cấp học. Trong hệ thống giáo dục quốc dân cấp giáo dục
tiểu học được xếp vào giáo dục phổ thông (gồm các cấp học là cấp tiểu học, cấp
trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông . . . ) và là cấp đầu tiên thực hiện mục
tiêu giáo dục phổ thông. Khi xác định rõ đối tượng quản lí trường tiểu học là lãnh
đạo nhà trường quản lí giáo viên và học sinh trong đơn vị trường học nhất định.
Trong phạm vi nhà trường có thể tạm thời phân chia lãnh đạo nhà trường quản lí hai
đối tượng giáo viên và học sinh ở hai cấp độ khác nhau. Quản lí học sinh là quản lí
mang tính chất gián tiếp ( giáo viên mới là người quản lí trực tiếp học sinh), quản lí
giáo viên là quản lí trực tiếp. Đối tượng quản lí trực tiếp này là người quyết định
đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Vì họ là người trực tiếp thực hiện hoạt
động dạy học với đối tượng là học sinh. Vì thế chất lượng giáo dục của nhà trường
phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng giảng dạy của giáo viên. Nếu chất lượng giảng
dạy của giáo viên tốt thì chất lượng giáo dục tốt và ngược lại. Vì vậy đối với lãnh
đạo nhà trường công tác quản lí chất lượng giảng dạy của giáo viên là một công tác
hết sức quan trọng đối với vấn đề chất lượng giáo dục của đơn vị trường học.
* Quản lí chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học
Trên nền tảng của khoa học quản lí giáo dục, quản lí nhà trường phổ thông,
thì quản lí chất lượng giảng dạy nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện nói
chung được các cấp lãnh đạo và dư luận xã hội rất quan tâm. Vấn đề là làm như thế
nào để việc giảng dạy có chất lượng ? Sản phẩm đào tạo ra phải đi vào cuộc sống
thực tiễn, đáp ứng được cho nhu cầu xã hội và xu thế thời đại, phục vụ đắc lực cho
công cuộc CNH, HĐH đất nước mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó, công
tác quản lí giáo dục nói chung, quản lí chất lượng giảng dạy nói riêng ở các trường
tiểu học là hết sức phức tạp và vô cùng khó khăn, bởi công tác đánh giá chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giáo viên có liên quan đến xúc cảm, tình cảm đồng nghiệp,
có khi còn liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ giáo viên. Nó
khác với đánh giá chất lượng sản phẩm do các công ty, doanh nghiệp làm ra. Vì thế
nhìn nhận vấn đề này có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết là chất lượng học tập của học sinh tăng dần qua các năm học đi
đôi với sự thu hút được học sinh đến trường, giảm được tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ
học. Tiếp đó là góc độ nhìn nhận về tập thể nhà trường đoàn kết giúp đỡ nhau trong
công tác và trong cuộc sống. Đặc biệt trong đó có nhiều cá nhân điển hình của
ngành, nhiều sáng kiến kinh nghiệm hay được đồng nghiệp áp dụng đạt kết quả. Đó
là những biểu hiện của công tác quản lí tốt chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Để có được những thành quả trên là cả một quá trình lao động sáng tạo của
các nhà quản lí. Vì vậy, đòi hỏi các nhà quản lí phải có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ tốt, có ý thức trách nhiệm cao về công việc của mình, có uy tín với đồng nghiệp
và cấp trên.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể nhìn nhận việc quản lí chất lượng
giảng dạy của giáo viên tiểu học là những tác động có tính hệ thống nhằm góp phần
duy trì và phát huy những hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh tiểu học .
1.2.4. Đánh giá
* Khái niệm đánh giá
Khái niệm đánh giá chung và đánh giá trong giáo dục & đào tạo nói riêng là
nằm trong cụm thuật ngữ kiểm tra – thanh tra – đánh giá. Đó là một trong những nội
dung và biện pháp quan trọng của quản lí nhà nước nói chung và quản lí giáo dục
nói riêng. Có thể nêu ra một số định nghĩa về đánh giá như sau :
Theo các tác giả Trần Kiều, Phạm Minh Hậu, Đặng Vũ Hoạt : “Đánh giá là
một hoạt động của con người nhằm phán xét về một hay nhiều đặc điểm của sự vật,
hiện tượng, con người mà mình quan tâm, theo những quan niệm và chuẩn mực mà
người đánh giá tuân theo (cũng có thể nói đến sự đánh giá của một nhóm, một cộng
đồng, thậm chí của toàn xã hội)” [35, tr. 1]; đánh giá được xem như toàn bộ quá
trình thu thập các số liệu và thông tin cần thiết về chương trình học cụ thể để cung
cấp bằng chứng, cơ sở cho các nhà hoạch định chương trình có những quyết định
liên quan đến chương trình [29, tr. 59]; đánh giá là quá trình thu thập, xử lí thông tin
để giúp quá trình lập kế hoạch hoặc ra quyết định của các nhà quản lí [32, tr. 61]
Cũng viết về nội dung đánh giá, tác giả Nguyễn Xuân Đàm có ý kiến về nội
dung đánh giá bao gồm một số vấn đề cơ bản sau : “Đánh giá là đưa ra nhận định
tổng hợp về các dữ kiện đã đo lường được qua sự theo dõi thường xuyên, qua các
cuộc kiểm tra, thanh tra, và kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu
chuẩn đã được xác định rõ ràng trong mục tiêu quản lí.”; “Đánh giá là quá trình
thu thập, xử lí thông tin để lượng định tình hình và kết quả công việc giúp quá trình
lập kế hoạch, ra quyết định và hành động có kết quả.”; “Đánh giá là một quá trình
của hoạt động quản lí mà qua đó nhà quản lí quy cho đối tượng quản lí một giá trị
nào đó.”; “Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng
về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ phát triển,
những kinh nghiệm được đúc kết ở thời điểm hiện tại đang xem xét so với mục tiêu
hay những chuẩn mực đã xác lập. Trên cơ sở đó nêu ra những biện pháp uốn nắn,
điều chỉnh và giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ” [24, tr. 34]
Từ những ý kiến trên chúng tôi có thể nêu khái quát định nghĩa đánh giá
trong giáo dục là quá trình thu thập và xử lí kịp thời, có hệ thống những thông tin về
hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ
vào mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo để đánh giá một hoạt động trong hệ thống
quản lí hoặc làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động giáo dục tiếp
theo. Hay nói cách khác, hoạt động quản lí chính là sự kiểm tra đánh giá một cách
có hệ thống các hoạt động trong phạm vi quản lí nhằm đưa ra những nhận định,
phán đoán hoặc làm cơ sở xây dựng, thiết lập kế hoạch để đối tượng quản bị quản lí
thực hiện đúng mục tiêu, yêu cầu đã đề ra. Từ khái niệm trên cho thấy đánh giá
chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động quản lí, đánh giá chính là khâu
mang tính quyết định đến kết quả cuối cùng của hoạt động quản lí. Đánh giá nhằm
kiểm định lại kế hoạch và khả năng thực hiện để đạt đến mục tiêu như kế hoạch đề
ra. Hoặc phải điều chỉnh để có những đề xuất kịp thời trong hoạt động quản lí.
Muốn đảm bảo sự đánh giá đúng đắn không phải chỉ dùng đơn thuần sự đánh giá
một vấn đề mà cần chú ý khái niệm đánh giá có nhắc đến “hệ thống” tức là trên quy
mô rộng hơn một vấn đề và cần có cách đánh giá toàn diện, bao quát chứ không
dừng lại ở một khía cạnh của vấn đề. Để làm được điều này đòi hỏi đánh giá cũng
phải có một hệ thống chức năng cơ bản đáp ứng được yêu cầu đánh giá hệ thống
hoạt động quản lí.
* Chức năng của đánh giá
Như đã nói ở trên, đánh giá được xem là một trong ba vấn đề cơ bản trong
hoạt động quản lí. Theo tác giả Nguyễn Xuân Đàm : Nội dung của đánh giá gồm
các chức năng cơ bản sau :
Thứ nhất là chức năng thông tin phản hồi : đánh giá có chức năng tạo lập
thông tin phản hồi một cách tổng hợp, toàn diện, cung cấp cho chủ thể quản lí một
bức tranh toàn cảnh những thông tin đáng tin cậy về thực trạng tình hình và kết quả
hoạt động của khách thể quản lí để chủ thể quản lí hoạt động có hiệu quả. Đây cũng
có thể coi là chức năng đầu tiên cần phải có trong hoạt động đánh giá. Thông tin
phản hồi ( hai chiều) chính là cơ sở để có những đánh giá bước đầu đảm bảo tính
chất khách quan, để từ đó chủ thể quản lí có những đánh giá đúng đắn sau khi thực
Mục tiêu giáo dục
Đầu ra
X
Quá trình GD & ĐT
X
Đầu vào
(Nhân cách người học)
(Người học)
Đánh giá – thông tin phản hồi
hiện thêm một số chức năng phối hợp khác.
Sơ đồ 1.5: Chức năng thông tin phản hồi ( đánh giá) trong Giáo dục và Đào tạo
[24, tr. 35]
Thứ hai là chức năng lượng định giá trị : xác định cho đối tượng quản lí
một giá trị nào đó so với mục tiêu. Chức năng này cho phép người quản lí xác định
vị trí giá trị của đối tượng trong hệ thống mục tiêu đặt ra để có sự đánh giá đúng
mức giá trị của đối tượng. Điều này góp phần đưa đến những đánh giá đúng đắn về
đối tượng trong hoạt động quản lí. Cần lưu ý đối với việc xác định giá trị của đối
tượng trong hệ thống mục tiêu phải cụ thể, rõ ràng và đúng thực chất, tránh trường
hợp đặt đối tượng ở mức giá trị quá cao hoặc quá thấp để đánh giá và cuối cùng bản
thân của đối tượng không đáp ứng được giá trị đó dẫn đến sự đánh giá thiếu căn cứ
khoa học. Thứ ba là chức năng hướng dẫn, điều chỉnh : dự báo giá trị của các hoạt
động giáo dục, chỉ ra mức độ đúng, độ sai lệch, chỉ dẫn, điều chỉnh cho người quản
lí cũng như người hoạt động giáo dục thực hiện đúng mục tiêu đề ra. Thứ tư là chức
năng kích thích : đánh giá đúng sẽ kích thích tinh thần trách nhiệm, hoàn thành
nhiệm vụ, nghĩa vụ phải khắc phục khó khăn; hình thành và phát triển tâm lí hứng
thú, phẩm chất tích cực, tinh thần tập thể, lòng tự trọng, yêu lao động, tính tích cực
xã hội . . . Thứ năm là chức năng giáo dục : đánh giá có tác động mạnh mẽ đến tâm
lý của đối tượng, tạo điều kiện để đối tượng phát triển phẩm chất, nhân cách, thói
quen tự phê bình, tự đánh giá đúng mình, tinh thần trách nhiệm, ý chí nỗ lực kiên
trì, lòng tự tin, ý thức tập thể, lòng trọng danh dự và quan hệ ứng xử văn hoá . . .
Thứ sáu là chức năng xã hội : xác định đúng giá trị chất lượng và số lượng của sản
phẩm được xem như là được sự công nhận của xã hội đối với đơn vị giáo dục. Nó
tạo ra uy tín xã hội của sản phẩm và của đơn vị đối tượng trong cộng đồng. Cuối
cùng là chức năng dự báo, củng cố và phát triển: xác định đúng giá trị thực của
hoạt động giáo dục, kết quả chất lượng sẽ cho phép dự đoán đúng đắn sự phát triển
trong tương lai.
Từ các chức năng trên, có thể thấy các chức năng đánh giá trên không mâu
thuẫn nhau, ngược lại chúng bổ sung cho nhau, tương tác gắn bó với nhau. Chức
năng đánh giá là một hoạt động quản lí đặc biệt, sản phẩm của quá trình phân công
lao động và chuyên môn hoá trong quản lí, tiêu biểu bởi tính chất tương đối độc lập
của những bộ phận của quản lí. Thực chất, chức năng đánh giá là hình thức tồn tại
của các tác động quản lí. Chức năng đánh giá là hình thái biểu hiện sự tác động có
mục đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí. Vì vậy, chức năng đánh giá đã
góp phần rất quan trọng vào việc quản lí hiệu quả quá trình dạy và học. Bất kì một
hoạt động quản lí dạy học nào cũng bao gồm cả đánh giá. Chúng ta không thể điều
hành một cách thích hợp hoạt động dạy học nếu chúng ta không thể theo dõi, thu
thập thông tin, nhận xét và ra quyết định. Do vậy, trong một nghĩa nào đó hiệu
trưởng là một nhà QLGD, một nhà đánh giá giáo dục. Cũng cần phải hiểu đánh giá
là dựa vào các yêu cầu mục tiêu đã được thiết lập trong hoạt động quản lí nhưng
không thể đánh giá cũng cần phải có những nguyên tắc nhất định là định hướng cho
công tác này, tức là những quy định cơ bản để thực hiện. Nếu không đánh giá sẽ
thiếu các cơ sở lí luận cần thiết làm nền tảng để đưa ra các kết luận đúng đắn.
* Các nguyên tắc đánh giá
Theo tác giả Nguyễn Xuân Đàm : nguyên tắc đánh giá là những tư tưởng
chỉ đạo, những luận điểm cơ bản quy định lĩnh vực lựa chọn nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức đánh giá, đưa công tác đánh giá đến thành công, được phân
chia thành hai nhóm cơ bản
Nhóm nguyên tắc thuộc tầm chỉ đạo: Trong đó nguyên tắc đảm bảo tính
toàn diện trong đánh giá bao gồm các tiêu chí như : số lượng, chất lượng, động cơ,
năng lực, lý thuyết - thực hành, chi phí, hiệu quả để đảm bảo thực hiện việc đánh
giá một cách toàn diện và khách quan. Tiếp đến các nguyên tắc kế tiếp được tác giả
nhắc đến trong nhóm nguyên tắc này là : Nguyên tắc đảm bảo tính lịch sử cụ thể,
nguyên tắc phát triển dự báo, nguyên tắc dân chủ và thống nhất. Nội dung chủ yếu
của các nguyên tắc này là đánh giá đối tượng đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
xuất phát điểm, đặc trưng môi trường, vùng miền . . . Đồng thời cũng là sự vật trong
sự phát triển biện chứng, trong quan điểm động, nhìn đến viễn cảnh và triển vọng
trong tương lai và đi đôi với thông cảm, đồng cảm, phát huy tinh thần dân chủ ở đối tượng kiểm tra, đấu tranh đi đến nhất trí với những kết luận đúng đắn.
Nhóm nguyên tắc thuộc tầm kỹ thuật : bao gồm các nguyên tắc khách
quan, tin cậy và ứng nghiệm, nguyên tắc phù hợp với đặc điểm đối tượng; nguyên
tắc thống nhất giữa đánh giá và tự đánh giá.
Hai nhóm nguyên tắc đánh giá trên đã bao hàm đầy đủ về nội dung và hình
thức của nguyên tắc đánh giá và là điều bắt buộc đối với hoạt động đánh giá. Bất kì
một hoạt động đánh giá nào cũng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trên trong
suốt quá trình đánh giá. Vì vậy, tuỳ từng đối tượng, tình huống, điều kiện mà vận
dụng, kết hợp các nguyên tắc đánh giá một cách linh hoạt trong điều kiện thực tiễn
là rất cần thiết nhằm đem lại một kết quả đánh giá chính xác và toàn cảnh về chất
lượng thật sự của giáo dục. Từ đây chúng ta có thể thấy đánh giá cần sự phân chia
mức độ đảm bảo tính toàn diện và hợp lí. Mức độ đánh giá bao gồm : Đánh giá toàn
diện, từng mặt, từng quá trình, từng bước, từng khâu, từng công đoạn, đánh giá
thường xuyên, đánh giá định kỳ. Từ sự phân chia mức độ đánh giá cho thấy đánh
giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa
vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu
chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng,
điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.
Như vậy, đánh giá không đơn thuần là sự ghi nhận thực trạng mà còn là đề
xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng. Vì thế, đánh giá được xem như là
một khâu rất quan trọng, đan xen với các khâu lập kế hoạch và triển khai công việc.
Trong thực tế hoạt động quản lí ba khâu này là nhân tố không thể thiếu đối với một
quá trình đánh giá. Trước hết đó là việc lập kế hoạch cho một hoạt động. Sau đó là
triển khai kế hoạch này đưa vào hoạt động thực tiễn.Và sau cùng là công tác đánh
giá về việc thực hiện đó. Quy trình này không phải là sự phân chia đơn lẻ mà là sự
liên quan mật thiết và có quan hệ qua lại với nhau. Kế hoạch xây dựng phải dựa trên
các cơ sở thực tiễn và không đảm bảo tính bất biến mà phải có sự điều chỉnh, thay
đổi trong quá trình triển khai. Đồng thời mức độ đánh giá cũng phải căn cứ từ việc
xây dựng kế hoạch và quá trình triển khai vào thực tiễn nhằm đem đến một sự đánh
giá chính xác. Nếu không có kế hoạch thì không có sự triển khai và đánh giá, cũng
như không có sự triển khai thì đánh giá không có cơ sở thực tiễn để thực hiện. Từ
sự phân tích về mối quan hệ trên chúng tôi đưa ra sơ đồ sau :
Đánh giá
Triển khai
Kế hoạch
Sơ đồ 1.6: Mối quan hệ giữa các khâu lập kế hoạch - triển khai công việc -
đánh giá
Các định nghĩa chung về đánh giá đã nói trên cũng được áp dụng vào trong
QLGD, vào việc đánh giá ở nhiều cấp độ khác nhau, trên những đối tượng khác
nhau, với những mục đích khác nhau : Đánh giá hệ thống giáo dục của một quốc
gia, một đơn vị giáo dục, giáo viên, học sinh . . . Trong đó học sinh là đối tượng, là
sản phẩm giáo dục đồng thời là chủ thể của quá trình giáo dục, do đó việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong đánh giá
giáo dục.
1.2.5. Đánh giá chất lượng giáo dục
* Khái niệm về chất lượng
Khái niệm chất lượng là khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa được
nhìn nhận từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Theo Hoàng Phê trong “ Từ điển
Tiếng Việt” : Chất lượng là “ cái tạo ra phẩm chất, giá trị của một con người, sự
vật, hiện tượng”. Định nghĩa này chỉ mới chỉ ra một mặt của chất lượng đó là cái
tạo nên giá trị và phẩm chất của đối tượng nhưng khi đánh giá thì phải xem xét góc
độ phẩm chất và giá trị đã được tạo ra có thực sự mang lại giá trị phù hợp. Có một
định nghĩa khác mang tính chất bổ sung và làm tương đối hoàn thiện định nghĩa trên
là : chất lượng là sự thực hiện được mục tiêu và thoả mãn được nhu cầu của khách
hàng. [28, tr. 257]
Ý nghĩa của định nghĩa trên nằm ở chỗ sự phù hợp giá trị mang lại đáp ứng
được các yêu cầu, mục tiêu tức là mang lại giá trị phù hợp. Mục tiêu ở đây cần hiểu
chính là các sứ mạng, mục đích, yêu cầu . . .
Từ những quan điểm về chất lượng vừa nêu, chúng tôi đưa ra cách hiểu cơ
bản về chất lượng : là cái tạo nên phẩm chất giá trị và đảm bảo được sự đáp ứng
mục tiêu cụ thể.
* Chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là một khái niệm trừu tượng, khái niệm động, nhiều
chiều, khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường. Theo chúng tôi có thể nêu một
số quan điểm của một số tác giả về cách hiểu khái niệm này. Theo Harvew và
Green, định nghĩa chất lượng giáo dục & đào tạo đề cập đến 5 khía cạnh : “sự vượt
trội, sự hoàn hảo, sự phù hợp với mục tiêu, sự đáng giá của đồng tiền đầu tư và sự
chuyển đổi giữa các trạng thái” [24, tr. 42]
Đối với nước ta, theo bài học kinh nghiệm của ngành, khái niệm của tác giả
Bùi Minh Hiền được trình bày ở trên là phù hợp hơn cả. Qua ba lần cải cách giáo
dục ( 1950, 1956, 1979) và công cuộc đổi mới giáo dục từ năm 1986 đến nay, mục
tiêu giáo dục ngày càng được xác định rõ hơn. Với quy định 305 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Thị Bình ký ngày 26/3/1986, về cơ bản kế hoạch dạy
học ở các trường phổ thông đã được xác định. Trên cơ sở đó, cuộc đổi mới giáo dục
hiện nay về nội dung, phương pháp đang được tiến hành tích cực để hướng đến một
chất lượng giáo dục hiện đại, đáp ứng được với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Trên
tinh thần ấy, ngày nay trong giáo dục, người ta càng nhận thấy chất lượng quyết
định sự thắng lợi hay thất bại của nhà trường. Rất nhiều chỉ số xác định chất lượng
trong trường học được đưa vào trong QLGD : cơ sở vật chất, thiết bị, giáo viên giỏi,
kết quả học tập của học sinh, lãnh đạo có năng lực vững vàng . . . Ý thức về tầm
quan trọng của chất lượng ngày nay các nhà QLGD ở các cấp đã không ngừng duy
trì và nâng cao chất lượng đào tạo của mình.
Chất lượng giáo dục là một vấn đề hàng đầu luôn được xã hội quan tâm vì
tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Là làm thế nào để đưa
nền giáo dục nước ta hội nhập một cách có hiệu quả và thiết thực, trong việc tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội và xu thế thời đại. Quá trình
đảm bảo chất lượng giáo dục được đặt ra trong hoạt động giáo dục. Đây là một chu
trình mở với sự tham gia của các lực lượng đánh giá : đánh giá trong (tự đánh giá
của cơ sở giáo dục), đánh giá ngoài (các cơ quan giáo dục cấp trên). Hai lực lượng
đánh giá này dựa trên cơ sở thông tin hai chiều (thông tin bên ngoài và thông tin
bên trong) làm các cơ sở để tiến hành đánh giá chất lượng giáo dục của cơ sở giáo
dục. Trong đó chất lượng giáo dục được thực hiện dựa trên sự tác động tích cực qua
lại giữa người học và người dạy và được đánh giá thông qua các lực lượng trên. Từ
Đánh giá
Cơ sở GD-ĐT
Học tập của hS
Giảng dạy
Đánh giá trong
Đánh giá ngoài
Nâng cao chất lượng
Thông tin đại chúng
phân tích trên, chúng tôi đưa ra sơ đồ về quy trình đảm bảo chất lượng sau :
Sơ đồ 1.7: Quá trình đảm bảo chất lượng giáo dục
Như vậy, chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục, là chất
lượng giáo dục của cơ sở giáo dục được thể hiện qua chất lượng của người học
được hình thành trên cơ sở tác động tích cực qua lại giữa các hoạt động giáo dục
theo những mục tiêu định trước.
* Đánh giá chất lượng giáo dục
Theo tác giả Nguyễn Xuân Đàm, “ Chất lượng là sự đáp ứng mục tiêu” thì
đánh giá chất lượng giáo dục là đánh giá các yêu cầu xã hội, giá trị xã hội của sản
phẩm giáo dục (người học) đạt được. Quá trình đánh giá chất lượng là quá trình xác
định mức độ thực hiện của mục tiêu giáo dục trên thực tế của việc dạy và học trong
nhà trường; là quá trình dựa vào mục tiêu giáo dục đã được cụ thể hoá bằng các tiêu
chí để đánh giá sự phát triển, sự tiến bộ của học sinh, đánh giá thành quả và giá trị
của việc thực hiện kế hoạch giáo dục. Đánh giá giáo dục không chỉ thực hiện bên
trong nhà trường, trong ngành giáo dục (đánh giá hiệu quả trong) mà còn phải được
thực hiện cả bên ngoài giáo dục, từ ở chủ thể sử dụng các sản phẩm giáo dục (đánh
giá hiệu quả bên ngoài).
Theo tài liệu “Nghiệp vụ thanh tra giáo dục Việt Nam” thì đánh giá chất
lượng giáo dục theo một số chuẩn sau : Đánh giá theo chuẩn, đánh giá theo tiêu chí,
đánh giá tổng kết, đánh giá trong quá trình đào tạo. Trong đó đánh giá tổng kết,
đánh giá trong quá trình đào tạo là đáng chú ý hơn cả.
Đánh giá tổng kết : là sự đánh giá mà qua đó người ta xây dựng một bảng
thống kê hay tổng kết về những năng lực đạt được sau một giai đoạn đào tạo dài hay
ngắn hạn. Đánh giá tổng kết chú trọng đến các kỹ năng (các sản phẩm được thực
hiện) được đánh giá theo những tiêu chí thành công. Cách làm này thiên về kiểm tra
hơn là đánh giá, tuy không loại trừ khía cạnh đánh giá.
Đánh giá trong quá trình đào tạo (thường gọi là đánh giá quá trình) : Là sự
đánh giá với mong muốn góp phần vào đào tạo. Nó ưu tiên cho sự điều chỉnh trong
quá trình đào tạo [13, tr. 2-3]
Nhìn chung đánh giá được hiểu là xem xét, phân tích, phán xét các hoạt
động nhất định trong một tổ chức, đơn vị đào tạo nào đó. Đánh giá là cơ sở để tiến
hành bất cứ hoạt động kiểm nhận nào khác. Đánh giá mang nặng tính đo đếm theo
đơn vị nhất định hơn là so sánh giữa hai đối tượng. Đánh giá trong quản lí chất
lượng có thể mang nhiều hình thức và phối hợp giữa các chỉ số thực hiện, tự đánh
giá và đánh giá đồng nghiệp. Đánh giá cũng có thể được chính cơ sở giáo dục tiến
hành, cũng có thể do các cơ quan bên ngoài tiến hành. Kết quả đánh giá có thể được
công khai. Có nhiều cuộc đánh giá chỉ dừng lại so sánh kết cục đạt được với sứ
mệnh, mục tiêu và các chuẩn mực được cơ sở giáo dục đặt ra.
Như vậy, công tác đánh giá chất lượng giáo dục (giảng dạy) là quá trình thu
thập và xử lý thông tin nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định về mục tiêu,
chương trình, phương pháp dạy học, về những hoạt động khác có liên quan của nhà
trường và ngành giáo dục. Như đã nói ở trên chất lượng giáo dục phụ thuộc vào
chất lượng giảng dạy của giáo viên. Đánh giá chất lượng giáo dục cũng chính là
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Từ việc đánh giá đúng chất lượng
giảng dạy của giáo viên cho phép chủ thể quản lí có những đánh giá và đưa ra các
kết luận và kiến nghị cần thiết về chất lượng giáo dục.
* Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên tiểu học
Chất lượng dạy học là một bộ phận hợp thành quan trọng của chất lượng về
mặt định tính và định lượng so với các mục tiêu bộ môn cũng như sự góp phần vào
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Khái niệm giảng dạy
được xác định thông qua mối quan hệ giữa thầy giáo với tri thức. Với giới hạn như
vậy, người quan sát có thể xác định được các yếu tố đặc trưng cho mối quan hệ này.
Có thể phát hiện ra các yếu tố đó hoặc bằng quan sát trực tiếp, hoặc là thông qua
các tư liệu, công cụ, dấu vết còn lại cụ thể là giá trị sản phẩm của mối quan hệ này.
Như vậy, ngay từ cấp độ đầu tiên, chúng ta thấy xuất hiện những đòn bẩy
nâng cao chất lượng của nhà trường lên cao hơn. Tất nhiên là những đòn bẩy này có
thể đặt trong khuôn khổ một lớp học, nhưng cũng có thể đặt trong phạm vi một môi
trường rộng lớn hơn. Tuy nhiên, nếu quan tâm đến học sinh, thầy giáo và tri thức
một cách tách biệt nhau sẽ dẫn đến coi nhẹ các mối quan hệ ba trục tác nhân đó; và
chính nhờ các mối quan hệ qua lại này mà có thể xem xét chúng một cách khách
quan nhất và tác động đến hứng thú của học sinh. Để làm rõ các mối quan hệ trên,
chúng tôi sử dụng một sơ đồ quen thuộc đối với các nhà quản lí giáo dục, đó là tam
giác dạy học. Với sơ đồ này, chúng ta có thể nắm bắt được những khía cạnh đa dạng
Tri thức
Giảng dạy
Học tập
Quan sát
Thầy giáo
Học sinh
Sư phạm
khi quan sát một lớp học.
Sơ đồ 1.8: Mối quan hệ giữa thầy giáo với tri thức [13, tr. 2]
Dưới góc độ của giáo dục học: Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng
cho bất cứ các loại hình nhà trường và xét lại quan điểm tổng thể, dạy học chính là
con đường giáo dục tiêu biểu nhất, hiệu quả nhất. Với nội dung và tính chất của nó,
dạy học luôn được xem là con đường hợp lý thuận lợi nhất, giúp cho học sinh với tư
cách là chủ thể nhận thức có thể lĩnh hội được một hệ thống tri thức và kỹ năng
hành động, chuyển thành phẩm chất, năng lực, trí tuệ của bản thân [31, tr. 172];
cá nhân người học vừa là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của quá trình đó
[33, tr. 111]
Ở góc độ xã hội học giáo dục: dạy học còn được xem như là một diễn tiến
vị thế xã hội của con người. Vì qua đó, con người luôn hoạt động và phát triển trong
sự tiếp thu, lĩnh hội và chuyển hoá theo mục tiêu xác định của giáo dục phù hợp với
sự phát triển của lứa tuổi và diễn ra trong suốt cuộc đời của mỗi người [31, tr. 172]
Giảng dạy theo nghĩa rộng là sự tác động có ý thức của giáo viên đối với
những người khác nhằm mục đích tạo ra ở họ một sự thay đổi về nhận thức và hành
vi. Theo nghĩa hẹp là xác định nội dung giảng dạy, vận dụng các phương pháp hoặc
chiến lược giảng dạy phù hợp và có hiệu quả, đặc biệt thông qua giờ học ở nhà
trường [42, tr. 26]
Mối quan tâm đến chất lượng giảng dạy của giáo viên phổ thông, không
phải chỉ mới xuất hiện thời gian gần đây. Vấn đề này đã được nhiều cấp lãnh đạo,
nhiều học giả đề cập khá lâu. Tuy nhiên để xác định thế nào là chất lượng giảng dạy
của giáo viên, thì còn có nhiều ý kiến tranh luận. Vấn đề đặt ra đòi hỏi các nhà
QLGD hằng ngày phải đương đầu là sự lựa chọn giữa chất lượng và số lượng, giữa
yêu cầu chất lượng và sự hạn hẹp về nguồn lực, tính hợp lí giữa chất lượng và hiệu
quả . . . Vấn đề là nếu không định nghĩa được chất lượng giảng dạy là gì thì không
thể xác định được chất lượng giảng dạy và nếu không xác định được chất lượng
giảng dạy, thì làm sao có thể đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy. Sau đây chúng
tôi đưa ra một số ý kiến cơ bản nói về chất lượng giảng dạy : là sự lôi cuốn mọi
người vào học tập, là sự vận dụng sáng tạo kiến thức lý thuyết vào thực tiễn cuộc
sống của thế hệ trẻ, sự tiến bộ của học sinh về kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi ...
Từ thực tiễn công tác quản lí cho thấy để đánh giá chất lượng giảng dạy của nhà
trường chú trọng đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố như : sự tích cực, chủ động của học sinh, truyền thống, tình cảm của
gia đình, bạn bè, người thân, môi trường xã hội, bẩm sinh di truyền . . . ảnh hưởng
đến chất lượng giảng dạy. Bởi vậy cùng một thầy dạy, cùng một sách giáo khoa và
sách tham khảo như nhau, nhưng kết quả học tập ở từng học sinh là rất khác nhau.
Hay cùng là một học sinh học tập, nhưng ở mỗi thầy dạy khác nhau thì kết quả học
tập của học sinh cũng khác nhau.
Như vậy, giảng dạy là một quá trình, trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ
chức, điều khiển, chỉ đạo) của thầy, học sinh tự giác, tích cực, tự điều khiển hoạt
động nhận thức, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giảng dạy để đạt được các mục
tiêu giảng dạy, người dạy và người học phải phát huy đầy đủ các yếu tố chủ quan
của cá nhân (phẩm chất và năng lực) để xác định nội dung và lựa chọn phương pháp
phù hợp với thực tiễn cấp học mình giảng dạy, tuân theo sự quản lí, điều hành của
cơ quan cấp trên, theo kế hoạch thống nhất, có sự tổ chức và được kiểm tra – đánh
giá. Nói cách khác, trong quá trình giảng dạy xuất hiện sự lao động chung của nhóm
: người quản lí, người dạy và người học. Mối quan hệ giữa các hoạt động dạy học là
mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời nhau, được tạo nên một chỉnh thể thống
nhất trong quá trình giảng dạy. Cũng cần nói thêm chất lượng giảng dạy của giáo
viên, cụ thể là giáo viên tiểu học được xác định trong toàn bộ hoạt động dạy học của
giáo viên nhưng nói như thế vẫn còn quá mơ hồ về chất lượng giảng dạy của giáo
viên. Sự cần thiết phải có những quy định, chuẩn mực về hoạt động giảng dạy đó là
cơ sở cho việc xác định chất lượng giảng dạy của giáo viên.
* Vấn đề xác định chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học
Trong thực tiễn thực hiện công tác quản lí chất lượng giảng dạy của giáo
viên tiểu học, nảy sinh nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến việc xác định chất lượng
cần được làm rõ như : Những chứng cứ nào hoặc những chỉ số nào được xem là
biểu hiện của chất lượng giảng dạy ? Những bằng chứng chất lượng nào cho phép
chúng ta đánh giá chất lượng giảng dạy cần phải sử dụng các chỉ số thực hiện. Theo
chúng tôi có thể đề xuất 3 chuẩn mực để xác định chất lượng giảng dạy : Các chuẩn
mực tiêu chuẩn nhờ đó có thể so sánh kết quả thực hiện với các chuẩn mực đã xác
định trước đó; Các chuẩn mực so sánh nhờ đó có thể so sánh kết quả thực hiện với
chỉ số thực hiện của một chương trình đào tạo, một cá nhân, hoặc nhóm khác;
Chuẩn mực chuyên gia, nhờ đó có thể so sánh kết quả thực hiện với những ý kiến
và giá trị của một số nhóm “trọng tài”.
Ngoài việc xác định các chỉ số đánh giá, một số câu hỏi có thể được đặt ra:
Ai sẽ là người đánh giá ? và quá trình đánh giá sẽ diễn ra như thế nào ? những câu
hỏi này chúng tôi sẽ phân tích và trình bày cụ thể trong phần thực trạng của vấn đề.
1.3. Vấn đề đổi mới quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
tiểu học
Nền giáo dục nào cũng cần phải tự nâng cao chất lượng của chính mình để
phục vụ cho nhu cầu xã hội đặt ra. Thực tế phát triển của thế giới đã ghi nhận những
thành tựu to lớn của một số nước phát triển về kinh tế - xã hội như : Hoa kỳ, Nhật
Bản, Hàn Quốc hiện nay đang có một nền kinh tế khoa học - kỹ thuật tiên tiến được
đảm bảo bằng hệ thống giáo dục hiện đại, tiến bộ. Khi nhìn lại thực trạng nền giáo
dục Việt Nam vẫn đang chịu nhiều ảnh hưởng của lịch sử để lại. Việt Nam là nước
chịu nhiều hậu quả của nhiều cuộc chiến tranh, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu.
Trong khi đó, với sự phát triển thần tốc của khoa học - kỹ thuật đòi hỏi giáo dục
Việt Nam cần có những chuyển biến tích cực mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu về
giáo dục. Trong đó vấn đề đổi mới quản lí được đặt ra hàng đầu. Bởi lẽ muốn có
một nền giáo dục phát triển bền vững cần có hệ thống quản lí thực sự khoa học,
đảm bảo đáp ứng được sự phát triển giáo dục một cách linh hoạt trong giai đoạn
mới. Để làm được điều này công tác đổi mới việc quản lí đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ. Bởi vì muốn có một nền giáo
dục phát triển bền vững đòi hỏi chất lượng giảng dạy tại các cơ sở trường học thực
sự có chất lượng. Trong đó khâu đánh giá và quản lí đánh giá là yêu cầu không thể
thiếu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Từ những nhìn nhận thực tế của nền
giáo dục Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy công tác quản lí đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên còn nhiều bất cập (sẽ được trình bày cụ thể ở chương
2). Cho nên đổi mới công tác quản lí giáo dục nói chung và công tác quản lí việc
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, đặc biệt là giáo viên tiểu học là vấn đề
cần thiết, là một tất yếu lịch sử, hợp với quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội mà bất
kỳ nền giáo dục nào cũng phải đi qua.
1.3.1. Khái niệm đổi mới
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội là nguyên nhân quyết định sự phát
triển giáo dục. Bởi vì cách thức sản xuất thay đổi thì nguồn nhân lực cũng phải
được đào tạo lại cho phù hợp. Lịch sử giáo dục thế giới thế kỷ XX đã chứng kiến ba
lần cải cách giáo dục lớn, đó là:
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu thế kỷ XX là nguyên nhân làm biến đổi
nền giáo dục truyền thống, lấy người thầy và tài liệu làm trung tâm, sang nền giáo
dục hiện đại gắn với đời sống thực tiễn.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai
hệ thống Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa đã thôi thúc cải cách giáo dục lần
hai. Đó thực chất là cuộc chạy đua về giáo dục để tăng chất lượng nguồn lực con
người, đã dẫn đến mở mang giáo dục phát triển mạnh về số lượng, chất lượng, đào
tạo nhân tài, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Nền giáo dục Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tự nhiên ấy, nếu
chúng ta không muốn nền giáo dục của mình là biệt lập. Qua ba lần cải cách giáo
dục (1950, 1956, 1979) và công cuộc đổi mới giáo dục từ năm 1986 đến nay, mục
tiêu giáo dục ngày càng được xác định rõ hơn. Với quy định 305 của Bộ trưởng Bộ
giáo dục Nguyễn Thị Bình ký ngày 23/03/1986, về cơ bản kế hoạch dạy học ở các
trường phổ thông đã được xác định. Trên cơ sở đó, cuộc đổi mới giáo dục hiện nay
về nội dung, phương pháp đang được tiến hành tích cực để hướng đến một chất
lượng giáo dục hiện đại, đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Trong quá
trình quản lí công tác giáo dục, chúng tôi tạm thời đưa ra những nhận xét về công
cuộc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay (thực chất mang nền tảng cơ bản của
cuộc cải cách năm 1979) vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả thiết thực tạo bước
chuyển biến lớn trong giáo dục Việt Nam. Vẫn còn đó những bất cập : Sự thiếu
đồng bộ trong nhận thức của đội ngũ những người làm công tác giáo dục, sự chênh
lệch chất lượng giáo dục vùng, miền chưa được khắc phục, công tác quản lí vẫn còn
mang nặng tính hành chính (dù hiện nay công tác cải cách hành chính vẫn đang
được đẩy mạnh), chất lượng học tập của học sinh không tăng đáng kể so với trước
đây, nội dung chương trình đổi mới giáo dục cụ thể là việc đổi mới sách giáo khoa
cũng vẫn chưa phù hợp với yêu cầu hiện nay khi tính hàn lâm và sự thiếu thống
nhất trong khâu biên soạn sách vẫn gây nhiều khó khăn cho người làm công tác giáo
dục. . .
Vì thế theo chúng tôi, cần phải có một sự đổi mới triệt để mới mong tạo nên
những chuyển biến thực sự cho bước đi của giáo dục Việt Nam. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay đất nước bước vào giai đoạn hội nhập, trong đó đòi hỏi phải có một
nền giáo dục linh hoạt. Bên cạnh đó, theo các tác giả tài liệu “ Giáo dục thế giới đi
vào thế kỷ XXI” thì bên cạnh các nền kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp, đã
có thêm nền kinh tế mới – kinh tế hậu công nghiệp – hay còn gọi là kinh tế tri thức [
25, tr. 19-20]. Nói đến đền kinh tế trí thức chính là nói đến vai trò giáo dục & đào
tạo trong việc tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao. Chính vì thế đổi mới giáo dục
hiện nay là một tất yếu và cần thiết.
Tìm hiểu khái niệm đổi mới sẽ thấy khái niệm này có nội hàm tương tự như
khái niệm cải cách giáo dục là quá trình sửa đổi cái cũ, cái hiện tại, để hình thành
cái mới, nhằm biến đổi thực trạng giáo dục theo hướng tiến bộ, phù hợp với yêu cầu
của nền kinh tế - xã hội bước vào thời kỳ CNH, HĐH.
Như vây, đổi mới là quá trình tạo ra sự thay đổi, làm nảy sinh sự việc mới,
diễn ra trong một thời gian ngắn với mức độ biến đổi triệt để.
1.3.2. Đổi mới quản lý giáo dục
Vấn đề đổi mới giáo dục như trình bày ở trên, trở thành một vấn đề cấp thiết
dành cho giáo dục Việt Nam. Nhưng thử xem xét vấn đề đổi quản lí giáo dục đang
diễn ra trong bối cảnh thế giới và Việt Nam như thế nào? Theo tác giả Trần Kiểm
xu thế giáo dục thế giới đang có nhiều chuyển biến đòi hỏi giáo dục phải thay đổi để
phù hợp với thời đại. Trong bối cảnh chung đó, UNESCO đã đề ra chiến lược giáo
dục toàn cầu gồm 21 điểm với tư tưởng chủ yếu là : sự linh hoạt trong giáo dục,
nâng cao vai trò của giáo viên, quan tâm đến trẻ em, quan tâm đến chính sách giáo
dục. Về cơ chế quản lí giáo dục trên thế giới được phân chia thành hai loại cơ chế :
cơ chế quản lí tập trung, kế hoạch hoá cao và cơ chế quản lí phi tập trung hoá và
định hướng thị trường ở các mức độ khác nhau. Ưu điểm của cơ chế thứ nhất là tạo
ra khả năng kiểm soát chặt chẽ cho toàn bộ các hoạt động giáo dục nhưng lại có hạn
chế về sự kém linh hoạt. Đối với cơ chế thứ hai có đặc điểm phân quyền mạnh với
quan niệm xem giáo dục như là một loại dịch vụ xã hội. Cơ chế này đang được các
quốc gia có nền giáo dục phát triển như : Hoa Kỳ, Canada, Đức . . . đã vận dụng.
Từ những vấn đề nêu trên xem xét lại công tác quản lí giáo dục Việt Nam,
theo các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đều có nhắc đến những yếu kém của công
tác quản lí giáo dục. Có thể tóm lại một số vấn đề sau : quản lí giáo dục kém hiệu
quả, chức năng một số nhiệm vụ của cơ quan quản lí chưa rõ, còn hiện tượng chồng
chéo, trình độ quản lí chưa thực sự đáp ứng theo kịp với thực tiễn, chậm đổi mới tư
duy và phương thức quản lí, chậm đề ra các các chiến lược và chính sách vĩ mô
đúng đắn để xử lí các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động giáo dục . . . và nhiều
vấn đề khác nữa.
Chính vì thực tế đó cần có sự đổi mới về quản lí giáo dục nhằm tháo gỡ
những khó khăn và tồn tại do công tác quản lí giáo dục yếu kém trong thời gian qua.
Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay khi tiến hành đổi mới công tác quản lí giáo
dục cũng cần thiết có sự đổi mới giáo dục. Thực tế khi đổi mới công tác quản lí giáo
dục không nhất thiết phải đổi mới giáo dục với điều kiện hệ thống hoạt động giáo
dục vẫn đáp ứng được nhu cầu xã hội mà công tác quản lí chưa đáp ứng được với
yêu cầu thực tiễn thì chỉ cần thay đổi, điều chỉnh công tác quản lí giáo dục. Xét thực
trạng giáo dục Việt Nam như trình bày ở phần trên còn rất nhiều bất cập không
riêng ở khâu quản lý. Bởi lẽ Công tác quản lí giáo dục chỉ là một bộ phận của quá
trình giáo dục. Chính vì thế, trong điều kiện giáo dục Việt Nam hiện nay đổi mới
giáo dục bao hàm cả đổi mới công tác quản lí giáo dục.
1.3.3. Đổi mới quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
tiểu học
Chất lượng giảng dạy ở tiểu học phụ thuộc rất lớn vào trình độ năng lực của
đội ngũ CBQL nhà trường và đội ngũ giáo viên. Vì thế đổi mới quản lý việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là đổi mới một bộ phận, một thành tố của
quá trình giáo dục.
Do vậy, vấn đề đổi mới việc quản lí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên tiểu học trước tiên cần phải đổi mới công tác quản lí chỉ đạo đặc biệt là cấp học
tiểu học được thể hiện ở các lĩnh vực sau :
Chỉ đạo nhà trường tiểu học chủ động, cụ thể hoá phân phối chương trình
học tập của học sinh phù hợp với từng lớp học cụ thể theo đúng mục tiêu yêu cầu
cấp học.
Chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường công tác tổ chức dự giờ rút kinh
nghiệm, đẩy mạnh sinh hoạt chuyên môn, duy trì tổ chức bồi dưỡng thường xuyên
và công tác tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên ở trường tiểu học.
Trong đó chú ý tập trung tăng cường quản lí việc thực hiện ngày giờ công, công tác
chủ nhiệm và công tác khác cũng như trong việc thực hiện viết sáng kiến kinh
nghiệm thì đòi hỏi người cán bộ quản lí giáo dục phải gần gũi với giáo viên, phải có
trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện để giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục và
giảng dạy đạt hiệu quả tốt. Trên cơ sở đó, đòi hỏi người cán bộ quản lí giáo dục
phải có năng lực thực tế cần thiết mới có thể thực hiện các hoạt động quản lí của
mình một cách hiệu quả nhất.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, dự giờ, thao giảng : tập trung vào mục
tiêu đổi mới phương pháp giảng dạy phát huy tính tích cực chủ động trong học tập
của học sinh. Đồng thời tập trung vào việc đánh giá hiệu quả thực chất của công tác
chỉ đạo, quản lí theo yêu cầu đổi mới giáo dục tiểu học.
Để thực hiện tốt việc quản lí chỉ đạo các cơ sở giáo dục vừa nêu trên cần
lưu ý các vấn đề quản lí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên mang tính chất
vĩ mô sau : Xây dựng và hoàn thiện sớm hệ thống đánh giá đảm bảo đúng yêu
cầu chất lượng cho các cấp học và các loại hình đào tạo. Đảm bảo thực hiện giáo
dục toàn diện cho người học; Trong quá trình quản lí toàn diện các hoạt động
giáo dục phải chú ý trọng tâm là quá trình quản lí việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên trên cơ sở phải gắn quá trình dạy học của cơ sở giáo dục với thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội; Xây dựng và hoàn thiện sớm bộ tiêu chí đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên của từng cấp học, loại hình đào tạo đảm bảo
theo yêu cầu phục vụ xã hội.
Phương hướng đổi mới quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên là nâng cao năng lực tự đánh giá, đảm bảo quá trình đánh giá theo tiêu chuẩn
công khai, dân chủ; là tuyên truyền nhận thức để điều chỉnh dư luận xã hội theo
hướng tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; là nâng
cao chất lượng hoạt động thanh tra giáo dục và chất lượng thanh tra viên để đảm
bảo quá trình đánh giá ngoài mang tính chất thẩm định và kiểm định đạt kết quả
mong muốn. Cuối cùng là đổi mới công tác thi cử làm cơ sở cho việc cấp văn bằng
chứng chỉ người học, đảm bảo thực hiện thắng lợi công tác xã hội hoá giáo dục, mọi
người đều có cơ hội bình đẳng về nhu cầu học tập và học suốt đời.
Thực chất của việc đổi mới quá trình giáo dục là đổi mới mô hình thiết kế,
cách thức thi công, đổi mới việc thẩm định chất lượng đào tạo. Thông qua công tác
quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy sát với thực tiễn. Theo quan niệm đó thì
đổi mới quá trình giáo dục cũng đồng thời là trọng tâm của đổi mới giáo dục. Trên
cơ sở đó có thể khẳng định, đổi mới quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên tiểu học thực chất là đổi mới công tác đánh giá chất lượng dạy và học.
Chất lượng giảng dạy bao giờ cũng gắn liền với chất lượng học. Đây là hai mặt
thống nhất biện chứng với nhau trong quá trình dạy học. Việc đổi mới giáo dục phải
gắn với đổi mới phương pháp đánh giá chất lượng giảng dạy. Như vậy mới đảm bảo
tính logic và tính đồng bộ giữa các thành tố của quá trình giáo dục. Nếu chúng ta
chỉ quan tâm đến đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy
học mà không quan tâm đến việc thực hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo, chính xác,
khoa học, công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên thì khó có thể mang
lại hiệu quả giáo dục như mong đợi.
1.4. Chuẩn đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học
1.4.1. Đánh giá giáo viên
Giáo viên, lực lượng quan trọng nhất (đông đảo nhất, có trình độ tư tưởng,
văn hoá, khoa học, kỹ thuật cao nhất, có uy tín xã hội cao nhất trong ngành), nên
khi đánh giá giáo viên các các cấp phải có thái độ hết sức cẩn trọng, đúng đắn, xây
dựng, thực sự cầu thị [24, tr. 37-38]
Các tiêu chí đánh giá người cán bộ quản lý cũng vận dụng cho người giáo
viên về: Lòng yêu nghề, mến trẻ; tất cả vì học sinh thân yêu; tấm gương sáng về lối
sống, đạo đức trong nhà trường và ngoài xã hội cho học sinh noi theo; có trình độ
văn hoá chuẩn, trên chuẩn; có nghiệp vụ sư phạm vững vàng, nhất là nắm vững
khoa học tâm lý và giáo dục học, vận dụng trong giáo dục, giảng dạy; khả năng và
hiệu quả thực tế giảng dạy, giáo dục học sinh đúng theo yêu cầu chương trình, nội
dung, phương pháp ngày càng đổi mới, tiên tiến, hiện đại; thực hiện tốt mục tiêu
đào tạo, người công dân, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của
đất nước; có tinh thần tự bồi dưỡng và nâng cao trình độ tay nghề thường xuyên,
suốt đời [24, tr. 38]
Như thế, việc đánh giá giáo viên nhằm mục đích làm rõ thêm năng lực,
trình độ, kết quả công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống làm căn cứ để các
cấp quản lí giáo dục bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế
độ chính sách đối với giáo viên.
1.4.2. Nội dung đánh giá giáo viên
Nội dung các vấn đề đánh giá giáo viên tập trung vào các vấn đề cơ bản :
Phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống bao gồm : nhận thức tư tưởng,
chính trị; chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc chấp hành quy chế
của ngành, quy định của cơ quan, đơn vị, đảm bảo số lượng, chất lượng ngày, giờ
công lao động; giữ gìn đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của
giáo viên; ý thức đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; sự tín nhiệm trong đồng
nghiệp, học sinh và nhân dân; tinh thần đoàn kết; tính trung thực trong công tác;
quan hệ đồng nghiệp; thái độ phục vụ nhân dân và học sinh.
Kết quả công tác được giao bao gồm: Khối lượng, chất lượng, hiệu quả
giảng dạy và công tác trong từng đơn vị, từng thời gian và từng điều kiện công tác
cụ thể; tinh thần học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong giảng dạy và công tác; tinh thần phê bình và tự
phê bình.
Khả năng phát triển (về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lí và hoạt
động xã hội . . . ) [15, tr. 2-3]
Như thế nội dung đánh giá giáo viên được căn cứ xây dựng trên cơ sở các
hoạt động thực tiễn của giáo viên được cụ thể hoá bằng các tiêu chí cụ thể. Chính vì
thế trong quá trình đánh giá phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, công khai,
công bằng, dân chủ, phản ánh đúng năng lực phẩm chất của giáo viên; phải làm rõ
những ưu khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống,
năng lực công tác và khả năng phát triển của giáo viên. Công tác này phải được
thực hiện thường xuyên nhằm thúc đẩy đội ngũ giáo viên không ngừng học tập để
từng bước hoàn thiện mình.
1.4.3. Các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học
Từ thực tế về công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên Bộ Giáo
dục & Đào tạo đã ban hành Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/4/2007
về việc ban hành Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.
* Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học Về phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị Bao gồm các tiêu chí sau : Nhận thức tư tưởng chính trị với trách nhiệm của
một công dân, một nhà giáo đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc; chấp
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước; chấp hành quy chế của ngành, quy định
của nhà trường, kỷ luật lao động; đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong
sáng của nhà giáo; tinh thần đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; ý thức phấn đấu
vươn lên trong nghề nghiệp, sự tín nhiệm của đồng nghiệp, học sinh và cộng đồng;
trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ đồng nghiệp, phục vụ nhân dân và
học sinh.
Về kiến thức
Bao gồm các tiêu chí sau : kiến thức cơ bản; kiến thức về tâm lí học sư
phạm và tâm lí học lứa tuổi, giáo dục học tiểu học; kiến thức về kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập, rèn luyện của học sinh; kiến thức phổ thông về chính trị, xã hội và
nhân văn, kiến thức liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ, tiếng
dân tộc; kiến thức địa phương về nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của
tỉnh, huyện, xã nơi giáo viên công tác.
Về kỹ năng sư phạm ( Kỹ năng giáo dục, dạy học, tổ chức)
Bao gồm các tiêu chí sau : lập được kế hoạch dạy học; biết soạn giáo án
theo hướng đổi mới; tổ chức và thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát huy
được tính năng động sáng tạo của học sinh; công tác chủ nhiệm lớp; tổ chức các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; thực hiện thông tin hai chiều trong quản lí
chất lượng giáo dục, hành vi trong giao tiếp, ứng xử có văn hoá và mang tính giáo
dục; xây dựng, bảo quản và sử dụng có hiệu quả hồ sơ giáo dục và giảng dạy.
Từ quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học vừa trình bày có thể
thấy toàn bộ quy định chuẩn nghề nghiệp này bao gồm 15 yêu cầu cơ bản thuộc 3
lĩnh vực. 15 yêu cầu này thể hiện được toàn bộ về hoạt động thực tiễn của giáo viên
tiểu học trong công cuộc đổi mới giáo dục tiểu học. Các yêu cầu đều sắp xếp và
tính đến vai trò, vị trí của giáo viên với tư cách là : nhà giáo dục, chuyên gia nhiều
môn học, người mẹ hiền biết chăm sóc và giáo dục trẻ, người tổ chức, người hoạt
động chính trị, xã hội, người nghiên cứu, nhà cải cách và các mối quan hệ của người
giáo viên trong công tác và trong cuộc sống đời thường. Mỗi yêu cầu thường có các
mức độ khác nhau (từ 1 – 5), mỗi mức độ đều có những dấu hiệu đặc trưng riêng để
được nhận dạng trong thực tế. Mức độ sau bao hàm mức độ trước và có thêm những
dấu hiệu, yêu cầu cao hơn để nhằm có cách nhìn, đánh giá xác thực hơn, cụ thể hơn.
Từ những điều trên chúng ta có thể kết luận chuẩn nghề nghiệp giáo viên
tiểu học được xem là bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu
học nhằm phục vụ đắc lực cho công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên tiểu học đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đổi mới giáo dục cấp học.
Kết luận chương 1
Trong quản lí nói chung và QLGD nói riêng thì kiểm tra – đánh giá là một
bộ phận hợp thành của chu trình quản lí, nó bắt đầu từ giai đoạn tiền kế hoạch cho
đến kết thúc chu kỳ quản lí, mọi nguyên nhân thành công hay thất bại đều bắt nguồn
từ quản lí.
Quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học là công
việc hết sức nhạy cảm và khó khăn, phức tạp đòi hỏi người cán bộ quản lí phải am
hiểu, quán xuyến công việc, biết dự kiến và lập kế hoạch cho công việc, có trình độ
kỹ năng nghiệp vụ để chỉ đạo hướng dẫn công việc cho các thành viên trong nhà
trường thực hiện đạt được mục tiêu giáo dục. Vì thế việc xây dựng và đưa ra một bộ
tiêu chí làm cơ sở cho công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên tiểu học là một cơ sở khoa học nhằm góp phần làm cho công tác đánh giá cũng
như việc quản lí công tác này đảm bảo có hiệu quả. Ngoài ra, còn phải đòi hỏi
những yếu tố chủ quan về chủ thể quản lí : nhận thức, nhân cách, năng lực phải đáp
ứng được yêu cầu về công tác này.
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÍ VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
2.1. Thực trạng tình hình Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân
Như chúng tôi đã trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu - phần mở
đầu, các kết quả nghiên cứu thực trạng dưới đây được thực hiện theo các phương
pháp nghiên cứu sau : phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp trao đổi -
phỏng vấn và hương pháp điều tra bằng phiếu, phương pháp quan sát, phương pháp
thống kê toán học nhằm thu thập thông tin qua xử lí các loại tài liệu, hồ sơ sổ sách,
quan sát trường lớp, xử lí phiếu thăm dò ý kiến, trao đổi - phỏng vấn các cán bộ
quản lí Phòng giáo dục & Đào tạo, hiệu trưởng và giáo viên các trường tiểu học
trong huyện, nhằm tìm hiểu thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên các trường tiểu học huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau.
Thực hiện tinh thần Nghị quyết TW 2 khóa VIII và Chỉ thị số 40 của Ban
Bí thư TW Đảng, chương trình hành động số 57 – CTr/TU của Tỉnh Ủy Cà Mau và
kế hoạch số 03-KH/HU của huyện Ủy Phú Tân về đổi mới và nâng cao chất lượng
cán bộ quản lí và chất lượng đội ngũ giáo viên; thông qua nghiên cứu các báo cáo
tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân và
của các trường trong huyện; quan sát trường lớp và trao đổi, trò chuyện với giáo
viên, hiệu trưởng các trường trong huyện có thể thấy rằng sự nghiệp giáo dục & đào
tạo huyện Phú Tân đã có những bước phát triển khá tốt. Số trường lớp, học sinh các
cấp học, ngành học tăng đáng kể, chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên rõ
rệt. Sau đây là một vài số liệu về thực trạng giáo dục & đào tạo của huyện được thể
hiện qua bảng 2.1 sau :
Bảng 2.1 : Thống kê số lượng học sinh, giáo viên, trường lớp các cấp học,
ngành học của huyện Phú Tân.
Cấp học
Số CBQL
STT
Số lớp
Số trường
1.870 79 429 10.421 5.250 133 1.506 36 131 5
Số Giáo viên Dưới Đạt chuẩn chuẩn 0 32 17 404 0 234 0 61 0 5
Hợp đồng 7 124 39 0 5
1 Mẫu giáo Tiểu học 2 THCS 3 THPT 4 TTGDTX 5
7 23 12 2 1
8 49 22 6 2
Số HS Trên chuẩn 2 23 41 0 0 Nguồn : Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Phú Tân.
Bảng trên cho thấy rằng hệ thống giáo dục huyện Phú Tân đã phát triển khá
đầy đủ từ mẫu giáo đến trung học phổ thông và giáo dục thường xuyên nhằm đảm
bảo yêu cầu giáo dục địa phương.
Qua báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào tạo
Phú Tân cho thấy mạng lưới trường lớp tiểu học đã được mở rộng khắp toàn huyện
đến tận các địa bàn vùng sâu, vùng xa, mỗi xã thị trấn đều có từ 2 – 4 trường tiểu
học. Toàn huyện có 23 trường tiểu học, năm học 2006 – 2007, cấp tiểu học huyện
Phú Tân có duy nhất một loại hình trường công lập. Số học sinh học 2 buổi/ngày
ngày càng cao hơn, điều đó chứng tỏ phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập
của con em nhiều hơn so với những năm mới tái lập huyện. Quy mô trường, lớp học
sinh cấp học tiểu học trong địa bàn toàn huyện khá ổn định.
TT
Nội dung
Số lượng
Số HS 2 buổi/ngày
Số lớp 2 buổi/ngày
Số lớp ghép
1 Tổng số trường 2 Tổng số lớp 3 Tổng số học sinh 4 Số trường có điểm trường 5 Số trường 2 buổi/ngày cho tất cả học sinh 6 Số trường có số lớp 2 buổi/ngày 7 Số trường có lớp ghép 8 Số trường đạt chuẩn quốc gia
886 725
26 22
45
Số học sinh lớp ghép 23 429 10421 77 02 05 1026 17 02 Nguồn : Thống kê của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân đến tháng 7 năm 2007.
Bảng 2.2: Thống kê quy mô, trường, lớp, học sinh tiểu học.
Bảng 2.3: Thống kê tình hình đội ngũ giáo viên tiểu học:
Trong đó
Tổng số Trên chuẩn Dưới chuẩn Chuẩn ( THSP)
17 304 CĐSP 224 ĐHSP 23
-203 +84 +104 +15 568 Tăng (+) hoặc giảm (-)
Nguồn : Thống kê của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân đến
tháng 7 năm 2007.
Qua báo cáo tổng kết năm học của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú
Tân trong những năm gần đây trình độ đội ngũ giáo viên đã được nâng lên từng
bước, do ý thức tự học, tự rèn luyện, yêu cầu về chuẩn hoá đội ngũ và được tham
gia các Dự án nên giáo viên đã tích cực tham gia các lớp Cao đẳng sư phạm liên
thông, Đại học từ xa, tại chức . . . Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên một số trường còn
nhiều bất cập về cơ cấu, thiếu giáo viên ở một số môn như : Nhạc, Họa, thể dục . . .
tỷ lệ giáo viên chưa biên chế còn khá cao. Một số xã ở xa trung tâm huyện như :
Việt Thắng, Phú Mỹ, Phú Thuận, Rạch Chèo có số giáo viên thuyên chuyển liên tục
trong các năm học do điều chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu và do nguyên nhân gia
đình . . . Do đó dẫn đến tình trạng giáo viên chưa an tâm công tác, làm ảnh hưởng
đến chất lượng giảng dạy cũng như công tác quản lí.
Bảng 2.4 : Thống kê tình hình đội ngũ cán bộ quản lí
Giới tính Trong đó Trình độ đào tạo
Tổng số Đảng viên Nam Nữ QLGD QLNN Đạt chuẩn Trên chuẩn Dưới 30 Cơ cấu theo độ tuổi Từ 50 trở lên Từ 40 – 49 Từ 30 – 39
49 49 42 07 12 37 31 04 09 21 15 4
Nguồn: Thống kê của phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân đến tháng
7 năm 2007.
Bảng trên cho thấy rằng : Đội ngũ cán bộ quản lí các trường tiểu học ở
huyện Phú Tân có tổng số 49 người, trong đó có 23 hiệu trưởng và 26 phó hiệu
trưởng. Qua nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo
dục & Đào tạo và của các trường tiểu học; quan sát trường lớp và trao đổi, trò
chuyện với cán bộ lãnh đạo Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện, cán bộ quản lí các
trường tiểu học đều cho rằng hiện nay đội ngũ cán bộ quản lí các trường tiểu học
trong huyện như thế là tạm đủ.
▪ Về giáo dục không chính quy
Công tác xóa mù chữ và sau xóa mù chữ được quan tâm chỉ đạo sâu sát ở
các xã, thị trấn trong toàn huyện, tỷ lệ người biết chữ trên 96%, bổ túc THCS và
THPT cho 401 học viên, toàn huyện có 9 Trung tâm học tập cộng đồng. Phú Tân là
huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học từ năm 1997, phổ cập THCS năm
2006 và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vào năm 2007. Có 4 trường đạt
chuẩn quốc gia, trong đó có xã Phú Tân đạt cả 3 cấp học ( Mẫu giáo, tiểu học và
THCS).
▪ Công tác xã hội hóa giáo dục
Nhận thức đầy đủ tinh thần chỉ đạo của Huyện Uỷ - Uỷ ban nhân dân huyện
về việc đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục và coi đó là một nhiệm vụ chiến
lược trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho địa
phương. Trên cơ sở đó, 100% các xã, thị trấn đều được thành lập Hội Khuyến học,
với mục tiêu động viên các tổ chức, cá nhân, các lực lượng trong xã hội ủng hộ mọi
nguồn lực cho phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm khuyến khích các em học sinh và
các thầy cô giáo có thành tích xuất sắc trong học tập và rèn luyện, tạo điều kiện cần
thiết để thầy và trò ngành giáo dục thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mình. Đồng
thời góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục huyện nhà phát triển, xây dựng phong
trào học tập sôi nổi trong xã hội, làm cho giáo dục và nhà trường thực sự của dân,
do dân, vì dân. Vượt qua những khó khăn, thách thức thực hiện thành công đổi mới
sự nghiệp giáo dục.
Nói tóm lại, quy mô phát triển trường lớp, lực lượng giáo viên, học sinh và
đội ngũ cán bộ quản lí trường tiểu học qua các bảng vừa nêu cho thấy các hoạt động
giáo dục của huyện Phú Tân phát triển đồng bộ về mặt hệ thống với các loại hình
giáo dục từ chính quy đến không chính quy, giáo dục phổ thông phát triển khá toàn
diện, đáp ứng được nhu cầu học tập cho cộng đồng địa phương. Đội ngũ cán bộ
quản lí trường học đủ về số lượng theo từng loại hình trường đảm bảo đáp ứng yêu
cầu về công tác quản lí hoạt động giáo dục trên toàn địa bàn. Ở đây chỉ mới xét đến
về mặt quy mô phát triển trường lớp, loại hình giáo dục có nghĩa là chỉ mới xét góc
độ giáo dục trên bình diện hình thức. Còn chất lượng giáo dục là chính là nội dung
bên trong của vấn đề. Triết học cơ bản thường nhắc đến sự phù hợp giữa hình thức
và nội dung. Hình thức đảm bảo thì nội dung sẽ đảm bảo và ngược lại. Nhưng trong
thực tế hoạt động giáo dục cho thấy quy mô phát triển giáo dục đảm bảo chưa thể
kết luận chất lượng giáo dục ổn định và phát triển. Thực tế cho thấy, quy mô trường
lớp có thể đảm bảo do yêu cầu cơ chế, do những quy định ràng buộc phải thực hiện
đầy đủ về quy mô loại hình giáo dục và con người thực hiện hoạt động giáo dục thì
phải đảm bảo về số lượng nhưng chưa chắc đã có chất lượng. Nhưng có thể khẳng
định quy mô phát triển trường lớp là điều kiện tiên quyết và yếu tố đầu tiên được
nhắc đến trong nội dung phát triển chất lượng giáo dục bền vững.
* Tình hình giáo dục tiểu học
Căn cứ Chỉ thị nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục & Đào tạo, kế hoạch
năm học của Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Cà Mau hướng dẫn, Phòng Giáo dục &
Đào tạo Phú Tân đã triển khai thực hiện và trực tiếp chỉ đạo các trường tiểu học
trong toàn huyện thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học 2006 – 2007. Kết quả đạt
được thể hiện qua bảng 2.5 sau:
Bảng 2.5 : Thống kê số lượng học sinh tiểu học của huyện Phú Tân
năm học 2006 – 2007
Đầu năm học Cuối năm học Ghi chú
Khối lớp 1 2 3 4 5 Tổng Số lớp 103 87 78 78 83 429 Số học sinh 2582 1961 1925 1949 2004 10421 Số học sinh 2618 1982 1949 1998 2104 10.651 Giảm 36 Giảm 21 Giảm 24 Giảm 49 Giảm 100 Giảm 230
Số lớp 103 87 78 78 83 429 Nguồn : Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Phú Tân.
Bảng trên cho thấy rằng : Căn cứ vào số lượng học sinh đầu năm, đối chiếu,
so sánh với số lượng cuối năm học, tổng số lớp không thay đổi, số học sinh giảm
230 em, trong đó chuyển đi nơi khác là 45 em, số học sinh bỏ học giữa chừng là
185 em, chiếm tỷ lệ 2,16%. Nhìn chung quy mô học sinh ổn định, ngành giáo dục
đã có nhiều biện pháp quản lí duy trì sĩ số học sinh, học sinh bỏ học giảm hơn so
với năm học trước 0.37%. Tuy nhiên với tỷ lệ học sinh bỏ học như vừa nêu cũng
cho thấy đây là vấn đề có tính tổng hợp được lí giải từ nhiều nguyên nhân khác
nhau: xã hội, gia đình, nhà trường, trong đó cũng cần kể đến vai trò quản lí của lực
lượng làm công tác giáo dục tại các cơ sở trường học trong việc duy trì và phát triển
trường lớp.
* Thực trạng đội ngũ CBQL và giáo viên tiểu học huyện Phú Tân:
Theo thống kê của Phòng Giáo dục & Đào tạo Phú Tân, đội ngũ CBQL,
giáo viên trong các trường học nhìn chung ổn định. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
được nâng cao dần so với trước đây. Công tác bồi dưỡng cán bộ, giáo viên được coi
trọng, số giáo viên đạt chuẩn là 92.95%, số giáo viên vượt chuẩn là 4.04%. Trước
đây đội ngũ giáo viên ở một số trường còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về cơ
cấu, một số bộ phận nhỏ giáo viên còn chưa đạt trình độ chuẩn đào tạo (17 giáo
viên, chiếm 2.99%), nhất là các xã vùng xa trung tâm huyện. Tuy nhiên, số giáo
viên đạt chuẩn một số ít vẫn còn những hạn chế trong việc cập nhật kiến thức,
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là chưa đáp đứng yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay. Về cơ cấu đội ngũ giáo viên tuy bước đầu đã được điều
chỉnh, song vẫn còn nhiều khó khăn trong việc giải quyết tình trạng thừa thiếu cục
bộ ở một số trường, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, sức khỏe và chất lượng
giảng dạy của giáo viên.
Bảng 2.6: Thống kê về đội ngũ CBQL và giáo viên tiểu học huyện Phú Tân
Giáo viên đứng lớp Năm học CBQL Ghi chú Tổng số Vượt chuẩn
Biên chế 501 455 444 615 606 617 47 48 49 2004-2005 2005-2006 2006-2007
Đạt Hợp chuẩn đồng 92.95% 2.64% 25 nhân viên 67 92.65% 3.40% 27 nhân viên 103 93.95% 4.04% 44 nhân viên 124 Nguồn : Báo cáo thống kê tình hình đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên tiểu
học của phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân từ năm 2004 – 2007.
Qua bảng trên cho thấy đội ngũ giáo viên các trường tiểu học huyện Phú
Tân ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. Cụ thể là
số giáo viên có trình độ vượt chuẩn ngày càng tăng trong các năm học, đã đáp ứng
được nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Trên bình diện chung tổng thể giáo viên
huyện Phú Tân, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và vượt chuẩn khá cao (97.99%). Đây
chính là những nhân tố chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
* Thực trạng công tác xây dựng cơ sở vật chất :
Tiếp tục thực hiện Đề án “ Xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp học” của Sở
Giáo dục & Đào tạo Cà Mau, Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, các
trường học trong huyện tích cực tham mưu với cấp Ủy Đảng, chính quyền địa
phương củng cố, bổ sung cơ sở vật chất cho trường học. Đến nay toàn huyện có 634
phòng học, trong đó có 212 phòng kiên cố, 338 phòng bán kiên cố. Đặc biệt, có 212
phòng học kiên cố được làm mới trị giá trên 33.339 tỷ đồng. Riêng cấp tiểu học có
110 phòng học kiên cố, 183 phòng học bán kiên cố. Dự kiến huyện sẽ xây dựng 100% phòng học kiên cố vào năm 2015. [56, tr. 13]
Qua thống kê toàn huyện có 12/23 trường tiểu học có phòng học bộ môn,
trong phòng học đã có tủ đựng thiết bị, đồ dùng dạy học. Cơ sở vật chất của huyện
theo thống kê nêu trên cho thấy sự chưa đồng bộ trong việc phát triển cơ sở vật chất
trường lớp đảm bảo về chất lượng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Vì cơ sở vật khi
đã được đảm bảo và trang bị đầy đủ các yêu cầu, phương tiện dạy học thì chất lượng
dạy học mới có điều kiện củng cố và phát triển. Đội ngũ giáo viên mới có thể phát
huy tối đa khả năng sư phạm trong dạy học theo tinh thần đổi mới. Lực lượng quản
lí cũng có những cơ sở khách quan đáng tín cậy trong việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên.
* Thực trạng công tác dạy và học :
Thực hiện các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học cũng như
các văn bản pháp quy của ngành, ngay từ đầu năm học, Phòng Giáo dục & Đào tạo
tổ chức các lớp tập huấn học tập chỉ thị nhiệm vụ của Bộ Giáo dục & Đào tạo, văn
bản hướng dẫn thực hiện kế hoạch năm học của Sở Giáo dục & Đào tạo Cà Mau và
tổ chức các chuyên đề tập huấn giáo viên dạy chương trình sách giáo khoa mới lớp
5: Cấp huyện có 573 lượt người tham gia học chuyên đề. Cấp trường có 617 lượt
người tham gia học các chuyên đề. Phòng Giáo dục & Đào tạo chỉ đạo các trường
học thực hiện nghiêm túc chương trình giảng dạy, thực hiện tốt mọi quy chế chuyên
môn, có kế hoạch công tác tuần, tháng, năm học. Đồng thời chỉ đạo sát việc xây
dựng nền nếp thăm lớp, dự giờ thường xuyên cho đội ngũ CBQL và giáo viên trong
các trường tiểu học. Bình quân mỗi giáo viên thăm lớp dự giờ đồng nghiệp được 25
đến 30 tiết/năm học, CBQL dự giờ từ 50 đến 60 tiết /năm học.
* Thực trạng công tác quản lí giáo dục :
Phòng Giáo dục & Đào tạo chỉ đạo thực hiện công tác cải tiến phương pháp
quản lí giáo dục :
Ngay từ đầu năm học, các trường tổ chức học tập, nghiên cứu Luật Giáo
dục và Điều lệ nhà trường. Lãnh đạo nhà trường phân công trách nhiệm từng thành
viên trong nhà trường, giao chỉ tiêu phấn đấu trong năm học cho tập thể, cá nhân lên
kế hoạch giảng dạy cho từng tuần, từng tháng. Hàng tuần có tổ chức giao ban. Tổ
chức kiểm tra định kỳ, thường xuyên, 100% giáo viên đều soạn giáo án. Cải tiến
việc chấm điểm, đánh giá xếp loại học sinh, bảo đảm chính xác, đúng quy chế. Tăng
cường công tác thanh tra trường học, kiểm tra chuyên môn, củng cố duy trì nền nếp,
kỷ cương – tình thương – trách nhiệm trong trường học. Tổ chức thi giáo viên giỏi,
học sinh giỏi từ cấp trường, cấp huyện tạo chất lượng mũi nhọn. Chất lượng giáo
dục, đặc biệt là chất lượng học sinh giỏi đã đạt được những kết quả sau : Cấp huyện
: thể dục thể thao 79 em, viết chữ đẹp 114 em. Cấp tỉnh : Toán, Tiếng việt 29 em,
viết chữ đẹp 19 em.
* Thực trạng chất lượng hai mặt giáo dục :
Bảng 2.7: Kết quả xếp loại hạnh kiểm
Tổng số H ạnh kiểm
Khối lớp Đạt Chưa đạt Lớp Học sinh
Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Tổng cộng % 95.00 96.18 96.20 96.25 97.75 96.20 2582 1961 1925 1949 2004 10421 % 5.00 3.82 3.79 3.75 2.25 3.79 SL 129 75 73 73 45 395 103 87 78 78 83 429
SL 2453 1886 1852 1876 1959 10026 Nguồn : Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Phú Tân.
Bảng 2.8 : Kết quả xếp loại học lực
* Xếp loại môn Tiếng Việt :
Tiếng Việt
Khối lớp Học sinh
Giỏi SL % 463 17.93 220 11.22 243 12.62 186 9.54 215 10.73 2582 1961 1925 1949 2004 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5
Tổng số Yếu TB Khá Lớp SL % SL % SL % 940 36.41 313 12.12 866 33.54 103 8.21 941 47.99 161 639 32.59 87 6.23 901 46.18 120 661 34.34 78 3.85 695 35.66 993 50.95 75 78 2.45 724 36.13 1016 50.70 49 83 6.89 429 10421 1327 12.73 3585 34.40 4791 45.97 718 Tổng cộng
* Xếp loại môn Toán
Toán
Khối lớp Học sinh
Giỏi SL % 728 28.20 408 20.81 299 15.53 251 12.88 242 12.08 2582 1961 1925 1949 2004
Tổng số Yếu TB Khá Lớp SL % SL % SL % 103 726 28.12 280 10.84 848 32.84 87 5.56 656 33.45 109 408 20.81 78 7.06 877 45.56 136 613 31.84 9.95 78 553 28.37 951 48.79 194 7.04 590 29.44 1031 51.45 141 83 8.25 429 10421 1928 18.50 3392 32.55 4241 40.70 860 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Tổng cộng
* Xếp loại môn khoa học
Khoa học
Khối lớp Học sinh
Giỏi SL % 1949 268 13.75 2004 360 17.96
Tổng số Khá Yếu TB Lớp SL % SL % SL % 78 684 35.09 931 47.77 66 3.39 789 39.37 24 1.20 831 41.47 83 161 3953 628 15.88 1515 38.32 1720 43.51 90 2.27
Lớp 4 Lớp 5 Tổng cộng
*Xếp loại môn Lịch sử - Địa lí :
Khoa học
Khối lớp Học sinh
Khá SL % 691 35.45 841 41.97
Lớp 4 Lớp 5 Tổng cộng Tổng số Lớp 78 83 161
Yếu TB Giỏi SL % SL % SL % 929 47.67 93 4.77 1949 236 12.11 859 42.86 25 1.25 2004 279 13.92 3953 515 13.02 1532 38.75 1788 45.23 118 2.98 Nguồn : Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Phú Tân.
Qua các bảng trên cho thấy :
* Về hạnh kiểm : Số học sinh xếp loại hạnh kiểm đạt ở các khối lớp
1,2,3,4,5 chiếm tỷ lệ tăng dần từ 95% trở lên. Số học sinh xếp loại hạnh kiểm chưa
đạt ở các khối lớp từ 1 đến 5 thì tỷ lệ % giảm dần.
* Về học lực : Số học sinh xếp loại giỏi ở môn Tiếng Việt và Toán ở các
khối lớp từ 1 đến 5 có tỷ lệ % chưa ổn định; tỷ lệ học sinh xếp loại yếu mặc dù có tỷ
lệ giảm dần, tuy nhiên vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao (môn Tiếng Việt 6.89%, môn
Toán 8.25%). Số học sinh xếp loại khá môn Tiếng Việt có tỷ lệ tăng dần từ khối lớp
1 đến lớp 5; loại khá môn Toán thì chưa ổn định. Số học sinh xếp loại giỏi, khá môn
khoa học môn Lịch sử - Địa lí ở khối lớp 4,5 thì có tỷ lệ % tăng dần. Tỷ lệ xếp loại
yếu giảm đáng kể (môn khoa học 2.27%; môn Sử - Địa 2.98%).
Nhìn chung, so với năm học trước, chất lượng hai mặt giáo dục đã được
nâng lên. Nguyên nhân là do có sự chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát của Sở Giáo dục & Đào
tạo Cà Mau và Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, chính quyền địa phương
cũng như sự cố gắng nỗ lực vươn lên của các trường. Với việc thực hiện như thế
hoạt động dạy và học của các đơn vị trường học huyện Phú Tân được thực hiện
đúng theo quy định các văn bản của ngành. Đồng thời cho thấy dấu ấn của công tác
quản lí được thể hiện khá rõ nhưng cũng cần nói thêm dấu ấn này chưa đủ cơ sở để
nói lên chất lượng của công tác quản lí tốt hay không tốt mà còn phải xem xét ở
nhiều khía cạnh của vấn đề, sẽ được tìm hiểu cụ thể ở các phần sau.
2.2. Thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu
học trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên tiểu học phần nào được phản
ánh qua trình độ đào tạo, tuổi đời, thâm niên giảng dạy, kết quả học tập của học sinh
cộng với sự nỗ lực phấn đấu nâng cao tay nghề của giáo viên được thể hiện ở danh
hiệu giáo viên giỏi mà họ đạt được.
Để tìm hiểu thực trạng về công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên huyện Phú Tân, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các báo cáo tổng
kết năm học của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân và của các trường tiểu
học; quan sát trường lớp và trò chuyện với giáo viên, cán bộ quản lí của các trường
tiểu học, cán bộ quản lí và chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo; sử dụng phiếu
hỏi dành cho hiệu trưởng, dành cho giáo viên, cán bộ quản lí và chuyên viên Phòng
Giáo dục & Đào tạo.
Qua khảo sát thực trạng công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở 12 trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân, cho thấy hầu hết các
trường đều đã thực hiện việc kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy của đội ngũ
giáo viên theo đúng quy chế của Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định. Căn cứ vào
hướng dẫn đánh giá xếp loại giáo viên của Sở Giáo dục & Đào tạo Cà Mau và
Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, các trường đã vận dụng cho phù hợp
với thực tiễn giảng dạy ở địa phương với tình hình đội ngũ giáo viên hiện có. Trong
những năm học gần đây các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân đều có
chuyển biến tích cực nhờ sự đầu tư thêm trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng
dạy, việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, phát huy tính tích cực của học
sinh theo quan điểm lấy người học làm trung tâm. Công tác quản lí cũng được chú
trọng và coi đó là khâu đột phá trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy
nhiên vẫn còn một số tồn tại về công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên, một trong những khâu quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Đó cũng là
nhận thức của các cán bộ quản lí ở nhà trường như hiệu trưởng, các phó hiệu
trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy về
vấn đề này.
Thực trạng việc quản lí việc đánh giá giảng dạy của giáo viên tiểu học trên
địa bàn huyện Phú Tân qua khảo sát 301 ý kiến của cán bộ quản lí và chuyên viên
của phòng Giáo dục & Đào tạo; hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên 12
trường tiểu học được thể hiện qua bảng 2.9 sau :
Bảng 2.9 : Kết quả khảo sát nhận thức của hiêu trưởng, tổ trưởng chuyên môn
và giáo viên các trường tiểu học về vai trò của việc kiểm tra đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên
Nhóm đánh giá Tỷ lệ STT Xếp loại Vai trò của đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
Rất quan trọng 1 1
Quan trọng 2 2
Phòng GD&ĐT Hiệu trưởng, tổ trưởng Giáo viên Trung bình cả ba nhóm Phòng GD&ĐT Hiệu trưởng, tổ trưởng Giáo viên Trung bình cả ba nhóm 100 84.2 75.4 86.5 0 14 24.6 12.9
3 Bình thường 3
4 Không quan trọng 4
Phòng GD&ĐT Hiệu trưởng, tổ trưởng Giáo viên Trung bình cả ba nhóm Phòng GD&ĐT Hiệu trưởng, tổ trưởng Giáo viên Trung bình cả ba nhóm 0 1.75 0 0.6 0 0 0 0
Qua kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các ý kiến của cán bộ Phòng Giáo dục
& Đào tạo, hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên đều cho rằng vai trò
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là rất quan trọng, quyết định chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở nhà trường hiện nay, chiếm tỷ lệ 86.5% (Xếp bậc 1). Số
còn lại cho rằng đây là yếu tố quan trọng, chiếm tỷ lệ 12.9% (Xếp bậc 2) và nó liên
quan đến nhiều yếu tố khác trong quá trình dạy học, tất cả các thành tố này đan xen,
phối hợp chặt chẽ với nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện mục tiêu giáo
dục. Không có ý kiến nào cho rằng đây là yếu tố không quan trọng.
2.2.1. Thực trạng về nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên tiểu học
Thực hiện nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của hiệu trưởng trong giai đoạn đổi mới giáo dục
hiện nay. Qua báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào
tạo và các trường tiểu học; quan sát trường lớp; các phiếu khảo sát và trao đổi, trò
chuyện với hiệu trưởng của 12 trường tiểu học ở huyện Phú Tân cho thấy hầu hết
các trường đều có kế hoạch năm học, có tiêu chí, tiêu chuẩn xếp loại thi đua ở các
tổ, khối một cách rõ ràng theo sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục & Đào tạo, gồm các
nội dung về công tác thanh kiểm tra và đánh giá toàn diện đơn vị trong đó bao gồm
: về đội ngũ cán bộ nhà giáo và nhân viên; về cơ sở vật chất kỹ thuật; việc thực hiện
kế hoạch giáo dục; công tác quản lí của hiệu trưởng. Trong quá trình thanh kiểm tra
đơn vị chú ý đến việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Có 2 hình thức
cơ bản đó là : đánh giá bên ngoài dựa và kết quả thanh tra - kiểm tra, ý kiến nhận
xét đánh giá của cơ quan cấp trên; đánh giá bên trong (tự đánh giá) của nhà trường
bao gồm đánh giá của Ban giám hiệu, tổ trưởng tổ chuyên môn và của đồng nghiệp
[42, tr. 1-2]
Thực trạng về nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu
học qua khảo sát 12 trường tiểu học được thể hiện qua bảng 2.10 sau :
Bảng 2.10 : Khảo sát thực trạng về việc triển khai các nội dung đánh giá chất
lượng giảng dạy ở 12 trường tiểu học ( ý kiến của hiệu trưởng và tổ trưởng
chuyên môn)
X
Kết quả thực hiện Tốt STT Nội dung đánh giá Tổng số phiếu % Chưa tốt % Số lượng Số lượng
57 57 100 0 2.0 0 1
57 56 98.2 1.8 1.98 1 2
57 52 91.2 8.8 1.91 5 3
57 51 89.5 10.5 1.89 6 4
57 55 96.5 3.5 1.96 2 5
Có kế hoạch ngay từ đầu năm học Được triển khai rõ ràng, công khai dân chủ Đảm bảo thường tính xuyên, liên tục trong năm học Đảm bảo tính thúc đẩy, phát triển và tư vấn Hiểu đúng, đủ nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy
Qua khảo sát ý kiến của 57 cán bộ quản lí trường tiểu học cho thấy các nội
dung đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên được các nhà trường triển khai
ngay từ đầu năm học, căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của năm học, căn cứ vào chỉ
tiêu và kế hoạch của Phòng Giáo dục & Đào tạo hướng dẫn và triển khai hầu hết các
nội dung đều đạt kết quả tốt từ 89.5% trở lên, đặc biệt nội dung có kế hoạch ngay từ
đầu năm học được các cán bộ quản lí đánh giá mức độ tốt với đạt tỷ lệ 100% và giá
trị trung bình là 2.0. Bên cạnh đó, qua trao đổi một số cán bộ quản lí và tổ trưởng
chuyên môn cho rằng vẫn còn một số trường chưa thực hiện đầy đủ nội dung đánh
giá một cách thường xuyên, liên tục và chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của nội
dung đánh giá nhằm đảm bảo tính thúc đẩy, phát triển và tư vấn. Điều đó đã làm
ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
2.2.2. Thực trạng về quy trình đánh giá
Quản lí việc kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là việc
làm thường xuyên của hiệu trưởng các trường tiểu học vào cuối năm học nhằm giúp
giáo viên biết được kết quả giảng dạy của mình trong năm học qua để phấn đấu tốt
hơn nữa.
Qua báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào tạo
Phú Tân, các trường tiểu học; quan sát trường lớp và trò chuyện với một số hiệu
trưởng các trường; sử dụng phiếu hỏi ý kiến dành cho hiệu trưởng cho thấy quy
trình đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên được tiến hành theo các bước và
dựa vào các căn cứ sau:
Bước 1. Căn cứ vào mục tiêu đánh giá của nhà trường nhằm : phát hiện
những tiên tiến, điển hình của nhà trường, xếp loại giáo viên, thúc đẩy, phát triển, tư
vấn.
Bước 2. Căn cứ vào mục tiêu của môn học, mục tiêu từng chương, từng bài
và từng tiết dạy.
Bước 3. Căn cứ vào kết quả các mặt hoạt động của giáo viên: công tác
giảng dạy, chủ nhiệm và công tác khác được giao.
Bước 4. Căn cứ vào kết quả thao giảng ở trường và kết quả các cuộc thi
giáo viên giỏi các cấp do Sở Giáo dục & Đào tạo và Phòng Giáo dục & Đào tạo tổ
chức hàng năm.
Bước 5. Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh, bởi vì chất lượng giảng
dạy bao giờ cũng gắn liền với chất lượng học tập của học sinh.
Bước 6. Lập hồ sơ thi đua cho từng thành viên trong nhà trường làm cơ sở
cho việc bình xét thi đua hàng năm và báo cáo cấp trên tình hình chất lượng đội ngũ
và các mặt hoạt động của nhà trường.
Thực trạng về quy trình đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên qua
khảo sát 12 trường tiểu học được thể hiện qua bảng 2.11 sau :
Bảng 2.11: Kết quả khảo sát thực tế về mức độ thực hiện các quy trình đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên theo quy định ở các trường tiểu học như sau:
X
Kết quả thực hiện Tốt Chưa tốt STT Quy trình đánh giá
% % Số lượng Số lượng Tổng số ý kiến khảo sát
1 57 52 91.2 5 8.8 1.91
57 55 96.5 2 3.5 1.96 2
57 55 96.5 2 3.5 1.96 3
57 44 77.2 13 22.8 1.77 4
5 57 49 86 8 14.0 1.85
6 57 44 77.2 13 22.8 1.77 Căn cứ vào mục tiêu đánh giá của trường Căn cứ vào mục tiêu của môn học, mục tiêu của từng chương, từng bài và từng tiết dạy Căn cứ vào kết quả các mặt hoạt động của giáo viên: Công tác giảng dạy, chủ nhiệm và công tác khác được giao Căn cứ vào kết quả thao giảng ở trường và kết quả các cuộc thi giáo viên giỏi các cấp do Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT tổ chức hàng năm Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh Căn cứ vào hồ sơ thi đua của từng thành viên trong nhà trường
Qua khảo sát 57 ý kiến của cán bộ quản lí và tổ trưởng chuyên môn cho
thấy rằng tỷ lệ các trường tiểu học đã thực hiện đúng quy trình đánh giá trên cơ sở
các bước nêu trên đạt mức độ tốt chỉ chiếm tỷ lệ từ 77.2% đến 96.5% và các giá trị
trung bình đều đạt mức độ từ ( 1.96 – 1.77). Còn lại các trường chưa thực hiện đúng
quy trình đánh giá trên cơ sở các bước nêu trên khá cao đạt mức độ chưa tốt, chiếm
tỷ lệ từ 3,5% đến 22.8%. Nguyên nhân là do Ban giám hiệu các nhà trường yếu về
năng lực quản lý và chuyên môn nên còn khoán trắng cho các tổ chuyên môn thực
hiện, sau đó lấy kết quả đó làm cơ sở cho việc bình xét thi đua. Hơn nữa, qua trao
đổi một số cán bộ quản lí, tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên cũng cho rằng việc
đánh giá ở một số trường tiểu học còn chung chung, nặng về tình cảm, hình thức,
các bước đánh giá chưa rõ ràng để mọi thành viên trong hội đồng sư phạm nắm bắt
và thực hiện. Đặc biệt có trường tiểu học vấn đề đánh giá chất lượng giảng dạy chỉ
là công việc nội bộ của Ban giám hiệu mà thôi, chứ giáo viên không cần chú ý và
quan tâm đến kết quả đánh giá. Như vậy, trên nền tảng lí luận về đánh giá, đánh giá
trong đã cho thấy tính thiếu khoa học cũng như chưa dựa vào cơ sở lí luận về quản
lí đánh giá trường học để thực hiện. Vì thế các chỉ số tổng kết của cơ sở trường học
chưa phản ánh đúng thực chất và khách quan chất lượng đánh giá.
2.2.3. Thực trạng về lực lượng tham gia đánh giá
* Đánh giá thuộc cơ quan cấp trên (đánh giá ngoài): gồm các cơ quan có
thẩm quyền là Sở Giáo dục & Đào tạo và Phòng Giáo dục & Đào tạo
Việc kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học là việc
làm thường xuyên và là nhiệm vụ quan trọng của các cấp quản lí giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn
hiện nay. Hơn nữa, thanh tra, kiểm tra và đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng là động
lực phát triển của ngành giáo dục, vì thực chất nếu không có thanh tra, kiểm tra và
đánh giá giáo dục thì trên thực tế không có quản lí giáo dục. Phòng Giáo dục & Đào
tạo huyện Phú Tân luôn tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra với nhiều hình thức
nhằm giúp cho giáo viên tiểu học sử dụng đa dạng phương pháp giảng dạy trong giờ
lên lớp, thực hiện tốt các quy định về chuyên môn, tự đánh giá kết quả giảng dạy
của mình để phấn đấu ngày càng tốt hơn. Hiệu trưởng nhà trường tự thấy được
những mặt mạnh và những mặt hạn chế trong công tác quản lí nhà trường của mình;
từ đó đề ra những biện pháp quản lí có hiệu quả nhằm phát huy những ưu điểm,
sớm khắc phục những nhược điểm trong công tác quản lí nhà trường nói chung và
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên nói riêng.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra và đánh giá các trường tiểu học,
Phòng giáo dục & đào huyện Phú Tân sẽ nắm được chất lượng và hiệu quả quản lí
của đội ngũ cán bộ quản lí các trường tiểu học để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
hay thay thế, luân chuyển nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động quản lí việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học. Do đó ngay từ đầu năm
học 2006 – 2007, các cấp quản lí giáo dục căn cứ vào thực trạng lực lượng tham gia
đánh giá và các văn bản pháp quy của ngành để tiến hành lập kế hoạch thực hiện
như sau :
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục & Đào tạo và hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở Giáo dục & Đào tạo; căn cứ vào quy chế thanh
tra, kiểm tra của ngành GD&ĐT và kế hoạch năm học của bộ phận chuyên môn tiểu
học của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện. Quy chế thanh tra quy định có 2 hình
thức : có báo trước, không báo trước (đột xuất).
* Tự đánh giá (đánh giá trong) thuộc về nhà trường
Đây là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, vì đây là hoạt động trung tâm của các nhà trường tiểu học.
Lực lượng tham gia đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên gồm: Ban giám
hiệu, tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy. Ở trường tiểu
học thì người chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục trước cấp trên đó là hiệu
trưởng. Hiệu trưởng phối hợp với phó hiệu trưởng, tổ trưởng các tổ chuyên môn
trong nhà trường: Công đoàn, thanh tra nhân dân, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên,
để tiến hành kiểm tra, đánh giá, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và quy chế dân
chủ ở cơ sở, giúp cho công tác quản lý chất lượng giảng dạy đạt mục tiêu đã định
trên cơ sở các tiêu chí đã được xây dựng trong phạm vi nhà trường và các văn bản
quy định của ngành. Công việc đánh giá này được thực hiện thường xuyên, liên tục,
chia theo các đợt thi đua của một năm học và cuối mỗi học kỳ thì tiến hành sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm cho các năm học tiếp theo.
2.2.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân
Qua quan sát trường lớp và trò chuyên với một số đồng chí cán bộ quản lí,
tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên về thực trạng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học cho thấy hầu hết các trường tiểu học trong huyện đều căn cứ vào
các tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định. Từ những
tiêu chí chung này các trường căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương mình và
tình hình đội ngũ giáo viên ở từng năm học để đề ra các tiêu chí đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên. Vì thế ở các trường tiểu học có những tiêu chí đánh giá xếp
loại chất lượng giảng dạy có khác nhau. Nhưng đều có những điểm thống nhất
chung gồm các tiêu chí cơ bản như sau: ngày giờ công; giáo án, sổ sách, công tác
chuẩn bị đồ dùng dạy học theo phương pháp mới; thao giảng tại trường, kết quả
thanh tra - kiểm tra của cấp trên (nếu có), kết quả thi giáo viên dạy giỏi các cấp do
nhà trường cử đi; chất lượng dạy học, được lấy kết quả học tập của học sinh học kỳ
I, học kỳ II và cả năm bộ môn hoặc lớp mình được phân công giảng dạy; chủ nhiệm
và công tác khác (các nhiệm vụ do Chi bộ, Ban Giám hiệu nhà trường phân công);
sáng kiến kinh nghiệm. Các tiêu chí này được xây dựng thông qua Hội nghị công
nhân viên chức. Mọi người được dân chủ bàn bạc, đóng góp ý kiến xây dựng thang
đo (cách tính điểm) cho mỗi tiêu chí, để phù hợp với điều kiện nhà trường. Các tiêu
chí này trở thành nghị quyết của hội đồng. Ngay từ đầu năm học, tất cả cán bộ, giáo
viên và công nhân viên trong nhà trường phải nắm bắt và thực hiện.
2.3. Thực trạng quản lý việc thực hiện các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân
Công tác quản lí việc thực hiện các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên là khâu then chốt nhất trong công tác quản lí nhà trường của người
hiệu trưởng. Hiệu trưởng các trường tiểu học cần sử dụng bốn chức năng quản lí và
bốn phương pháp quản lí để quản lí tốt việc thực hiện các tiêu chí đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Để tìm hiểu thực trạng quản lí việc thực hiện các tiêu chí đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm học của Phòng Giáo
dục & Đào tạo huyện Phú Tân và của các trường tiểu học; quan sát trường lớp và
trò chuyện với cán bộ quản lí, cán bộ chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo, cán
bộ quản lí và giáo viên trường tiểu học; sử dụng phiếu hỏi ý kiến dành cho cán bộ
quản lí và cán bộ chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo.
Thực trạng quản lí việc thực hiện các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân qua khảo sát 12 trường tiểu học
được thể hiện qua bảng 2.12 sau :
Bảng 2.12: Khảo sát về kết quả thực hiện các điều kiện đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học (ý kiến của lãnh đạo và cán bộ
chuyên môn Phòng Giáo dục & Đào tạo).
Kết quả thực hiện Tốt X STT Số ý kiến Các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học % %
1 Ngày giờ công 2 Giáo án, sổ sách 3 Thao giảng (dự giờ) 4 Chất lượng học tập của học Số lượng 7 6 7 4 87.5 75.5 87.5 50 Chưa tốt Số lượng 1 2 1 4 12.5 25 12.5 50 1.87 1.75 1.87 1.50 8 8 8 8 sinh
5 Chủ nhiệm và công tác khác Sáng kiến kinh nghiệm 6 4 3 50 37.50 4 5 50 62.50 1.50 1.37 8 8
2.3.1. Ngày giờ công
Qua quan sát chúng tôi thấy, ngay từ đầu năm học 2006 – 2007, 100% các
trường đều triển khai học tập các Nghị quyết cả Đảng, các quy định của Ngành giáo
dục & đào tạo, Điều lệ trường tiểu học cho từng cán bộ, giáo viên và công nhân
viên nắm bắt thực hiện. Trong đó những vấn đề về việc thực hiện ngày giờ công
được quan tâm hàng đầu, góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ nhà
giáo. Đây là tiêu chí mà các nhà quản lý, các cán bộ, giáo viên phải bám sát thực
hiện theo đúng quy định của ngành giáo dục & đào tạo, nên không có hiện tượng
giáo viên tự do nghỉ dạy, bỏ giờ, đổi tiết mà không báo cáo với Ban giám hiệu trừ
trường hợp đau ốm đột xuất . . . Vì thế kết quả thực hiện quy định ngày giờ công ở
các trường trong huyện được cán bộ quản lí Phòng Giáo dục & Đào tạo đánh giá
mức độ tốt đạt khá cao, trên 87.5% giáo viên đạt ngày giờ công A. Còn lại là xếp
loại ngày giờ công B (chưa tốt) là 12.5%, và giá trị trung bình là 1.87, không có
giáo viên nào ở trường tiểu học xếp loại ngày giờ công C.
2.3.2. Thực trạng về kết quả thao giảng, dự giờ ở các trường tiểu học trên
địa bàn huyện Phú Tân năm học 2006 – 2007
Dạy học là nhiệm vụ trọng tâm, chiếm hầu hết thời gian hoạt động của nhà
trường. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho các nhà quản lý nắm bắt chất lượng giảng
dạy của giáo viên trong nhà trường và đây cũng là tiêu chí được các cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên và các lực lượng ngoài giáo dục hết sức quan tâm. Vì thế, các
trường đều tập trung hầu như mọi nguồn lực cho hoạt động dạy và học. Hàng năm
các trường tiểu học trong huyện đều phát động 4 đợt thi đua để giáo viên dự giờ,
thao giảng. Đợt 1: Từ ngày 05-09 đến ngày 20-11. Đợt 2: Từ ngày 20-11 đến kết
thúc học kỳ I. Đợt 3: Từ đầu học kỳ II đến ngày 26-03. Đợt 4: Từ ngày 26-03 đến
kết thúc năm học. Sau mỗi đợt thi đua, Hội đồng nhà trường đều bình xét giáo viên
theo những tiêu chí được hội đồng thi đua nhà trường đưa ra ngay từ đầu năm học.
Căn cứ vào kết quả hoạt động trong các đợt thi đua để bình xét danh hiệu thi đua
cho từng cá nhân và tập thể.
Qua quan sát trường lớp và trao đổi với một số cán bộ quản lí, tổ trưởng
chuyên môn và giáo viên về việc thao giảng, dự giờ ở các trường tiểu học trên địa
bàn huyện Phú Tân, hầu hết các ý kiến đều cho rằng những năm học trước những
đợt thi đua, mỗi giáo viên phải thao giảng ít nhất một lần. Như vậy, mỗi giáo viên
phải thao giảng ít nhất là 4 lần trong một năm học. Nếu giáo viên nào được đoàn
thanh tra cấp trên kiểm tra, dự giờ thì sẽ lấy kết quả nhận xét đánh giá của đoàn
thanh tra đó làm cơ sở để bình xét thi đua. Nhưng do tình hình thực tế hiện nay,
giáo viên phải mất nhiều rất nhiều thời gian để đầu tư cho việc soạn bài, chấm, chữa
bài và chuẩn bị đồ dùng dạy học, để thực hiện tốt chủ trương đổi mới giáo dục hiện
nay. Cho nên hầu hết các trường tiểu học trong huyện chỉ tổ chức thao giảng 2 lần
trong năm học. Việc thao giảng được quy định : mỗi giáo viên có giờ trên thời khoá
biểu đều phải thao giảng ít nhất 2 lần trong một năm học. Việc xếp loại giờ thao
giảng ở trường được thực hiện theo phiếu đánh giá, xếp loại của cấp trên quy định
được trình bày ở phụ lục 5. Việc thao giảng của giáo viên do tổ trưởng tổ chuyên
môn cho giáo viên đăng ký, hoặc bốc thăm thao giảng theo từng tuần của mỗi học
kỳ. Sau đó tổ chuyên môn lên kế hoạch và báo cáo Ban giám hiệu. Vì thế có rất
nhiều bất cập xảy ra theo các hướng sau: giáo viên có thể tự chọn bài để thao giảng,
hoặc có thể dạy thử trước rồi mới đăng ký thao giảng hoặc bài đã thao giảng nhiều
năm . . . nên kết quả thao giảng và dự giờ thao giảng của giáo viên là rất khác nhau
trong khâu tự đánh giá và đánh giá bên ngoài. Song, các trường tiểu học đều thực
hiện khá tốt kế hoạch thao giảng đã đề ra chiếm tỷ lệ 87.5%, số trường còn lại thực
hiện chưa tốt kế hoạch đề ra là 12.5%. Nguyên nhân do Ban giám hiệu các trường
này yếu về năng lực quản lý và chuyên môn nên còn có tình trạng khoán trắng cho
tổ trưởng tổ chuyên môn thực hiện. Mặt khác, một số ít giáo viên chưa mặn mà đối
với tiêu chí này nên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch thao giảng đã đề ra
đối với một số trường tiểu học hiện nay. Đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến kết quả
chung của nhà trường.
* Kết quả tự đánh giá của trường tiểu học (đánh giá trong)
Quản lí việc kiểm tra đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên nói chung và
kết quả xếp loại các giờ thao giảng nói riêng là việc là thường xuyên của hiệu
trưởng các trường tiểu học nhằm giúp giáo viên biết được kết quả giảng dạy của
mình một cách khách quan, trung thực để có động lực phấn đấu tốt hơn nữa.
Để tìm hiểu thực trạng về quy trình xếp loại các giờ thao giảng của giáo
viên tiểu học ở huyện Phú Tân, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu hồ sơ sổ sách
giáo viên, các báo cáo tổng kết năm học của Phòng Giáo dục & Đào tạo, các trường
tiểu học; quan sát trường lớp và trò chuyên với giáo viên, cán bộ quản lí 12 trường
tiểu học ở huyện Phú Tân cho thấy quy trình xếp loại các giờ thao giảng diễn ra tại
các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân đã có nhiều chuyển biến theo hướng
tích cực, chủ động và khoa học hơn. Bắt đầu từ năm 2004 – 2005 trở đi, để tránh
hiện tượng giáo viên tự do chọn bài, chọn ngày thao giảng, vì việc này đã làm cho
Ban giám hiệu và tổ trưởng tổ chuyên môn rất khó khăn và thụ động trong việc bố
trí giáo viên dự giờ. Có ngày thì thao giảng 4 – 5 tiết, nhưng có ngày lại không có
giờ thao giảng nào, có giờ thì rất đông giáo viên dự giờ, nhưng có giờ thì chỉ 1 – 2
giáo viên tham gia dự giờ và đánh giá xếp loại giờ dạy . . . Vì vậy, lãnh đạo các nhà
trường đã triển khai kế hoạch thao giảng cho các tổ trưởng tổ chuyên môn, lập danh
sách các giáo viên đã bốc thăm các giờ thao giảng sắp xếp theo từng ngày, từng
tuần, theo môn để Ban giám hiệu và tổ trưởng tổ chuyên môn theo dõi cũng như bố
trí kế hoạch dự giờ. Khi dự giờ thao giảng xong thì tiến hành đánh giá giờ dạy và
rút kinh nghiệm ngay, trừ trường hợp đặc biệt. Chẳng hạn, những bộ môn năng
khiếu, thì tổ chức dưới dạng chuyên đề để giáo viên học tập và rút kinh nghiệm,
không cần xếp loại giờ dạy. Hoặc giờ thao giảng vào tiết cuối cùng trong ngày,
không còn thời gian nhận xét, đánh giá giờ dạy thì để sáng ngày hôm sau. Vì thế kết
quả thao giảng ở các trường tiểu học đạt kết quả rất cao, được thể hiện qua bảng
2.13 sau:
Bảng 2.13: Kết quả thao giảng tại các trường tiểu học (thành phần đánh giá bao
gồm BGH, tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên dự giờ)
Kết quả thao giảng
STT Tên trường Tốt Khá Đạt yêu cầu
Tân Hưng Tây B
1 2 Việt Khái 2 Phú Tân 3 4 Việt Thắng 2 5 Cái Đôi Vàm 2 Phú Mỹ 2 6 7 Việt Khái 1 8 Cái Đôi Vàm 3 9 Tân Nghiệp A 10 Việt Thắng 1 11 Cái Đôi Vàm 1 12 Phú Hiệp Tổng số giờ thao giảng trong một năm học 17 17 20 15 20 16 24 13 27 18 20 20 14 14 18 12 18 14 20 11 22 15 19 17 3 2 2 3 2 1 4 2 5 3 1 2 0 1 0 3 0 1 0 0 0 0 0 1
Chưa đạt yêu cầu 0 0 0 3 0 0 0 0 0 0 0 0 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của 12 trường tiểu học.
Qua báo cáo số liệu của 12 trường tiểu học trên địa bàn huyện cho thấy kết
quả các giờ thao giảng được xếp loại khá giỏi rất cao. Cụ thể là 9/12 trường có các
giờ thao giảng xếp loại khá và giỏi đạt tỷ lệ 100%. Chỉ có 3 trường, đó là trường TH
Việt Khái 2, trường TH Phú Mỹ 2 và trường TH Phú Hiệp có giờ xếp loại đạt yêu
cầu. Qua khảo sát thực tế cho thấy không có trường nào có giờ thao giảng xếp loại
không đạt yêu cầu. Các trường hợp giờ dạy đạt yêu cầu hầu hết rơi vào các trường
hợp giáo viên chưa vào biên chế và giáo viên mới ra trường còn ít kinh nghiệm
giảng dạy. Không có trường hợp nào là giáo viên từ 3 năm công tác trở lên, có giờ
dạy thao giảng đạt yêu cầu. Đặc biệt là những thầy cô đã có tuổi đời từ 35 trở lên
đều có giờ thao giảng ít nhất là xếp loại khá, còn lại phần nhiều là các giờ xếp loại
giỏi.
Để tìm câu trả lời cho vấn đề này là công việc rất khó khăn cho các nhà
quản lý và giáo viên trực tiếp giảng dạy. Vì sao kết quả giảng dạy tốt như vậy mà
tình hình thực tế lại có nhiều bất cập nảy sinh trong giáo dục, mà dư luận xã hội
hiện nay hết sức quan tâm và lo lắng, chất lượng học tập của con em họ lại chẳng
cải thiện được là bao nhiêu?
* Đánh giá ngoài thuộc thẩm quyền của cơ quan cấp trên (từ Phòng
Giáo dục & Đào tạo trở lên)
▪ Thanh tra, kiểm tra có báo trước
Qua trao đổi với chuyên viên chuyên trách công tác thanh tra của Phòng
Giáo dục & Đào tạo cho biết : đoàn thanh tra của Phòng Giáo dục & Đào tạo do ông
phó Trưởng phòng Giáo dục & Đào tạo làm trưởng đoàn, cùng với một số cán bộ,
chuyên viên của Phòng. Ngoài ra, Phòng Giáo dục & Đào tạo còn mời một số cán
bộ, giáo viên có kinh nghiệm, trình độ, năng lực, ý thức về công việc được giao
tham gia làm thành viên của đoàn. Đoàn thanh tra có trách nhiệm khảo sát toàn diện
các mặt giáo dục của nhà trường để nắm bắt tình hình thực hiện nhiệm vụ năm học
và báo cáo với cấp trên. Với nội dung thanh tra, kiểm tra về : đội ngũ cán bộ, nhà
giáo và nhân viên; cơ sở vật chất kỹ thuật; thực hiện kế hoạch giáo dục; công tác
quản lý của hiệu trưởng [42, tr. 1-2]. Riêng thanh tra về việc đội ngũ giáo viên thì
tiến hành ở các bộ môn theo quy định của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Mỗi giáo viên được thanh tra sẽ tiến hành giảng dạy 3 tiết cho đoàn dự (1
tiết toán, 1 tiết tiếng việt và 1 tiết tự chọn trong các môn học còn lại). Đồng thời
được đánh giá, xếp loại về chuyên môn - nghiệp vụ dựa trên các tiêu chuẩn cụ thể
như sau: Loại tốt: Kết quả 3 tiết dạy được khảo sát tối thiểu phải có 2 tiết đạt loại tốt
và 1 tiết đạt loại khá. Loại khá: Kết quả 3 tiết dạy được khảo sát tối thiểu phải có 2
tiết đạt loại khá trở lên là 1 tiết đạt yêu cầu. Loại đạt yêu cầu: Kết quả 3 tiết dạy
được khảo sát tối thiểu phải có 2 tiết dạy đạt yêu cầu trở lên. Loại chưa đạt yêu cầu:
không được xếp vào các loại từ đạt yêu cầu trở lên [7, tr. 4 - 5]
Phòng Giáo dục & Đào tạo lên kế hoạch kiểm tra đối với các trường tiểu
học trong địa bàn huyện, sau đó gửi danh sách kiểm tra đến các trường để các
trường nắm bắt được lịch kiểm tra của Phòng Giáo dục & Đào tạo mà có kế hoạch
chuẩn bị trước. Ưu điểm của hình thức này là hoạt động của đoàn kiểm tra xây dựng
và thực hiện theo đúng kế hoạch của các cấp. Hạn chế của hình thức kiểm tra này là
nhà trường đã biết trước kế hoạch kiểm tra nên đã có sự chuẩn bị trước nên việc
kiểm tra, đánh giá chưa phản ánh đúng và khách quan hoạt động sư phạm của nhà
trường.
Để có cơ sở nhận định thiên về hoạt động thao giảng, dự giờ ở các trường
tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân về hình thức kiểm tra này, chúng tôi đã nghiên
cứu các kết quả thanh tra chuyên đề của Sở, Phòng Giáo dục & Đào tạo và hồ sơ
của nhà trường như sau :
Kết quả thanh tra của phòng Giáo dục & Đào tạo (có báo trước):
Năm học 2006 – 2007, Phòng Giáo dục & Đào tạo đã tổ chức thanh tra 12
trường tiểu học về chuyên đề dự giờ. Kết quả thanh tra được thể hiện qua bảng 2.14
sau :
Bảng 2.14: Kết quả thanh tra, kiểm tra của Phòng Giáo dục & Đào tạo
(thanh tra, kiểm tra có báo trước)
Kết quả dự giờ
STT Tên trường Tổng số giờ dự Tốt Khá Đạt yêu cầu
Tân Hưng Tây B
Cái Đôi Vàm 2 Phú Mỹ 2
1 2 Việt Khái 2 3 Phú Tân 4 Việt Thắng 2 5 6 7 Việt Khái 1 Cái Đôi Vàm 3 8 9 Tân Nghiệp A 10 Việt Thắng 1 11 Cái Đôi Vàm 1 12 Phú Hiệp 7 8 10 6 9 7 12 6 14 9 16 9 1 1 0 1 0 1 2 1 2 1 0 1 1 2 1 1 2 2 2 2 4 3 1 4 Chưa đạt yêu cầu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
5 5 9 4 7 4 8 3 8 5 15 4 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm hoc 2006 – 2007 của phòng Giáo dục & Đào
tạo Phú Tân.
Qua bảng kết quả trên cho thấy kết quả thanh tra chất lượng giờ dạy của đội
ngũ giáo viên vẫn đạt khá cao. Có 90.3% các giờ dự đạt giờ khá và tốt, số giờ xếp
loại đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm tỷ lệ 9.7%. Kể cả những trường xếp loại
trung bình của huyện như: Phú Hiệp, Việt Thắng 2, Cái Đôi Vàm 3, Phú Mỹ 2, các
trường này tuy thiếu giáo viên: Âm nhạc, Mỹ thuật và Thể dục song cũng đạt kết
quả khá cao.
▪ Thanh tra, kiểm tra không báo trước (đột xuất)
Hình thức này do ông phó Trưởng phòng Giáo dục & Đào tạo phụ trách
chuyên môn lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra mà không cần báo trước cho các nhà
trường. Số cán bộ, giáo viên đi làm nhiệm vụ thanh tra này chỉ biết có công văn
triệu tập đi làm nhiệm vụ. Trước khi đi những cán bộ này không biết đi với ai ?
Thanh tra ở trường nào? . . . Đồng chí Trưởng đoàn thanh tra chỉ thông báo trước
cho những trường được thanh tra khoảng 30 phút khi đoàn đến. Về hình thức này có
được ưu điểm đảm bảo được tính khách quan, trung thực trong đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên, tạo cho cán bộ quản lý và giáo viên có thói quen chuẩn bị
tốt các điều kiện lên lớp một cách thường xuyên, liên tục trong một năm học. Tuy
nhiên hình thức này cũng có những nhược điểm nhất định : tạo bầu không khí căng
thẳng cho giáo viên và học sinh, làm cho giáo viên mất tự tin trong quá trình thanh
tra.
Kết quả thanh tra, kiểm tra của Phòng Giáo dục & Đào tạo ( không báo
trước) trong năm học 2006 – 2007 đối với 12 trường tiểu học về dự giờ kết quả
thanh tra, kiểm tra được thể hiện qua bảng 2.15 sau :
Bảng 2.15: Kết quả thanh tra, kiểm tra của Phòng Giáo dục & Đào tạo
(thanh tra không báo trước)
Kết quả dự giờ
STT Tên trường Tổng số giờ dự Tốt Khá Đạt yêu cầu
Tân Hưng Tây B
1 2 Việt Khái 2 Phú Tân 3 4 Việt Thắng 2 5 Cái Đôi Vàm 2 Phú Mỹ 2 6 7 Việt Khái 1 8 Cái Đôi Vàm 3 Tân Nghiệp A 9 10 Việt Thắng 1 11 Cái Đôi Vàm 1 12 Phú Hiệp 6 7 8 5 7 6 9 5 11 7 12 8 1 1 1 1 1 2 2 1 3 1 1 1 2 3 2 2 2 2 3 2 2 2 3 2 Chưa đạt yêu cầu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
3 3 5 2 4 2 4 2 6 4 8 5 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm hoc 2006 – 2007 của phòng Giáo dục & Đào
tạo Phú Tân.
Như vậy, nhìn vào kết quả thanh tra, kiểm tra đột xuất của Phòng Giáo dục
& Đào tạo về chất lượng giờ dạy của giáo viên cho thấy có sự chênh lệch về số các
giờ dạy xếp loại tốt với thanh tra, kiểm tra có báo trước. Tỷ lệ các giờ xếp loại tốt
chỉ chiếm tỷ lệ 48.5% (Thanh tra báo trước tỷ lệ 68.1%), còn lại là các giờ khá và
đạt yêu cầu tương đối cao chiếm tỷ lệ 51.5%. Đặc biệt, các giờ đạt yêu cầu chiếm tỷ
lệ đến 12.6%, thậm chí có trường TH Tân Nghiệp A dự 11 giờ thì có đến 3 giờ xếp
loại đạt yêu cầu. Qua trao đổi với một số cán bộ, giáo viên trong đoàn thanh tra của
Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân thì họ còn cho biết thêm : trong các giờ
xếp loại đạt yêu cầu ấy thì có giờ chưa đạt yêu cầu, vì giáo viên dạy kiến thức cơ
bản chưa đúng, không có trọng tâm bài dạy, có nhiều câu hỏi nêu vấn đề có tính vụn
vặt, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh, không hướng vào
người học, chưa sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học. Đặc biệt, có trường
hợp giáo viên lên lớp không có giáo án, không chuẩn bị đồ dùng dạy học, trong khi
nhà trường có đầy đủ thiết bị phục vụ cho dạy học ... Song, vì lý do “tế nhị” nên xếp
giờ dạy đạt yêu cầu để giáo viên có cơ hội tiếp tục sửa chữa và phấn đấu. Bởi nếu
theo quy định của các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân, giáo viên nào có
giờ dạy xếp loại không đạt yêu cầu thì phải đi bồi dưỡng lại trong hè do Phòng Giáo
dục & Đào tạo tổ chức.
Thực tế qua trao đổi với chuyên viên chuyên trách thanh tra phòng Giáo
dục & Đào tạo thì được biết thêm: kết quả của đoàn thanh tra của Sở Giáo dục &
Đào tạo Cà Mau, số giờ dự xếp loại tốt lại càng chênh lệch nhiều hơn đối với trường
TH Tân Nghiệp A năm học 2006 – 2007 như sau : Tổng số giáo viên được thanh tra
là 3, số giờ được dự là 9 giờ gồm các bộ môn: Toán, Tiếng việt, Khoa học, Lịch sử.
Kết quả chỉ có 1 giờ dạy xếp loại tốt, 5 giờ xếp loại khá và 3 giờ xếp loại đạt yêu
cầu.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến kết quả khác nhau giữa các khâu đánh giá
trong (tự đánh giá) và đánh giá ngoài, do cơ quan cấp trên kiểm tra đánh giá. Để đã
tìm hiểu thực trạng về công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các báo cáo tổng kết
năm học của Phòng Giáo dục & Đào tạo Phú Tân và báo cáo của các trường tiểu
học; quan sát trường lớp và trò chuyện với một số cán bộ quản lí, cán bộ chuyên
viên phòng giáo dục, cán bộ quản lí và giáo viên các trường tiểu học; sử dụng phiếu
hỏi ý kiến dành cho 57 hiệu trưởng và tổ trưởng chuyên môn, 8 cán bộ - chuyên
viên của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân và 236 giáo viên trực tiếp tham
gia giảng dạy ở 12 trường tiểu học được khảo sát. Kết quả khảo sát được thể hiện
qua bảng 2.16 sau:
Bảng 2.16: Những nguyên nhân tồn tại, yếu kém trong công tác đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
STT Các nguyên nhân tồn tại, yếu kém Xếp bậc
1 1 Điều kiện thực thi nhiệm vụ chưa đáp ứng được yêu cầu
2 3 Bản thân chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá một cách thường xuyên, liên tục
3 5 Đánh giá có liên quan đến tình cảm đồng nghiệp
4 4 Đánh giá còn chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục
5 2 Do hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
6 6
Thời gian và công việc quản lý vất vả, làm hạn chế việc tự học tập và cập nhật thông tin mới về giáo dục
7 7 Bộ máy quản lý chưa tương xứng với nhiệm vụ trong tình hình mới Nhóm đánh giá Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Phòng GD&ĐT CBQL Giáo viên TB cả 3 nhóm Tỷ lệ % đồng ý 100 75.4 75.4 83.6 87.5 52.6 76.3 72.1 87.5 42.1 44.5 58 62.5 71.9 79.7 71.4 75 75.4 81.8 77.4 75 35.1 48.7 52.9 50 49.1 57.6 52.2
Qua bảng kết quả trên cho thấy: Nguyên nhân thứ nhất chiếm tỷ lệ 83.6%
(xếp bậc 1). Nguyên nhân thứ hai chiếm tỷ lệ 77.4% (xếp bậc 3). Nguyên nhân thứ
ba chiếm tỷ lệ 72.1% (xếp bậc 5). Nguyên nhân thứ tư chiếm tỷ lệ 71.4% (xếp bậc
4). Nguyên nhân thứ năm chiếm tỷ lệ 58% (xếp bậc 2). Nguyên nhân thứ sáu chiếm
tỷ lệ 52.9% (xếp bậc 6). Nguyên nhân thứ bảy chiếm tỷ lệ 52.2% (xếp bậc 7). Số liệu ở bảng 2.16 cho thấy 7 nguyên nhân cơ bản trên làm hạn chế khả năng và kết
quả đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học. Trong đó có những
nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan. Theo đánh giá chung thì
các nguyên nhân khách quan chiếm tỷ lệ cao hơn những nguyên nhân chủ quan.
Điều kiện thực thi nhiệm vụ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu là nguyên
nhân cơ bản (83.6% ý kiến). Điều kiện đó là gì? Có 2 điều kiện cơ bản, đó là cơ sở
vật chất – trang thiết bị phục vụ giảng dạy và đội ngũ (bao gồm đội ngũ CBQL và
đội ngũ giáo viên). Hiện nay ở rất nhiều trường trên địa bàn huyện Phú Tân chưa
đáp ứng được yêu cầu này. Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy
và học còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu các phòng chức năng và phòng bộ môn, điều
đó đã làm cản trở việc thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo
chương trình mới hiện nay. Nhiều trường còn thiếu giáo viên ở các bộ môn Nhạc,
Mỹ thuật và Thể dục. Cho nên phải chọn những giáo viên nhiệt tình, có năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt để dạy kiêm những môn này làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Tỷ lệ giáo viên hợp đồng (chưa vào biên chế)
ở một số trường còn cao, chiếm từ 20% đến 25% trong số giáo viên trực tiếp giảng
dạy. Đây cũng chính là nguyên nhân lý giải cho việc có tới 75.4% ý kiến của hiệu
trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn cho rằng đội ngũ giáo viên còn hạn chế về năng
lực, trình độ chuyên môn làm hạn chế chất lượng giảng dạy của nhà trường. Nguyên
nhân thứ ba, là do công tác bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá chất lượng giảng dạy cho
đội ngũ CBQL các cấp và giáo viên chưa được quan tâm thực hiện nghiêm túc.
Theo chúng tôi đánh giá chất lượng giảng dạy có liên quan đến đời sống
tình cảm của đồng nghiệp. Vì vậy, ngoài việc thực hiện đúng quy chế chuyên môn
do ngành quy định, chúng ta cần chú ý đến tâm lý, xúc cảm của đồng nghiệp, nếu
người tham gia đánh giá thiếu kiến thức chuyên môn, tư tưởng đạo đức nghề nghiệp
kém, sẽ là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực. Vì đánh giá con người là công việc rất
phức tạp và khó khăn, phải nhìn nhận con người sau mỗi ngày mỗi khác (quan điểm
động). Việc đánh giá phải đảm bảo tính dân chủ, khách quan, công khai, để mọi
người biết, phải biến việc đánh giá bên ngoài trở thành nhu cầu tự đánh giá của giáo
viên. Đánh giá nhằm tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên là
chính chứ không phải để soi mói, bới móc khuyết điểm của đối tượng được đánh
giá, làm cho đối tượng bị xúc phạm, mặc cảm, xấu hổ với bản thân, đồng nghiệp . . .
Qua nghiên cứu các báo cáo tổng kết của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện
Phú Tân và các trường tiểu học; quan sát trường lớp và trò chuyện với cán bộ quản
lí, chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo, cán bộ quản lí và giáo viên các trường
tiểu học, thực tế hiện nay còn cho thấy các nguyên nhân tồn tại và yếu kém về công
tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là do một số hiệu trưởng và các tổ
trưởng tổ chuyên môn ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân rất ít được
đào tạo về kiến thức khoa học quản lý. Thường thì chỉ có một số hiệu trưởng và phó
hiệu trưởng được cử đi học qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý ngắn hạn ở
trường Cao đẳng sư phạm và họ chỉ được tập huấn một lần duy nhất trong thời gian
được làm quản lý giáo dục (chiếm tỷ lệ 63%).
Bản thân tuổi đời của các hiệu trưởng cũng cho thấy đa số có tuổi đời bình
quân là 40 tuổi. Họ chỉ mới đáp ứng được về mặt chuyên môn, song về mặt quản lý
họ chưa thật sự có kinh nghiệm thực tiễn cũng như nghiệp vụ quản lý. Vì thực tế
hầu hết các cán bộ quản lí trường tiểu học xuất phát từ giáo viên cốt cán có năng lực
chuyên môn trong ngành nhưng chưa được đào tạo bồi dưỡng trực tiếp từ các lớp
quản lí giáo dục . Từ đó chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục một cách toàn
diện như hiện nay.
Một số trường còn có hiện tượng buông lỏng quản lý, chưa tiến hành kiểm
tra, đánh giá một cách thường xuyên, liên tục chiếm tỷ lệ 28.6% là tương đối cao.
Vì thế, giáo viên không chủ động chuẩn bị tốt các điều kiện lên lớp, hiện tượng
“dạy chay” còn khá phổ biến. Theo ý kiến của lãnh đạo và chuyên viên Phòng Giáo
dục & Đào tạo thì có đến 25% giáo án chuẩn bị còn sơ sài, chưa quan tâm đến nhu
cầu và tâm sinh lý của học sinh. Cho nên khi có đoàn thanh tra cấp trên về họ rất lo
lắng và sợ bị cấp trên dự giờ, dẫn đến tình trạng thiếu tự tin vào chất lượng giảng
dạy của mình, làm cho tiết dạy trở nên khô khan và thiếu sáng tạo. Điều này trả lời
cho câu hỏi vì sao tỷ lệ các giờ dạy khá và tốt khi có đoàn thanh tra cấp trên đánh
giá lại thấp hơn các giờ dạy bình thường tại trường (tự đánh giá).
Một nguyên nhân nữa không thể bỏ qua đó chính là bộ máy quản lý chưa
tương xứng với nhiệm vụ trong tình hình mới chiếm tỷ lệ 52.2%. Một số trường
khuyết hẳn phó hiệu trưởng theo quy định hạng trường. Điều đó, đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác điều hành quản lý nói chung và công tác quản lý việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên nói riêng. Nguyên nhân là chưa có nguồn để
bổ nhiệm làm cán bộ quản lý, vì thế khi sắp kết thúc năm học mà cán bộ quản lý và
giáo viên chưa dự đủ số tiết theo quy định. Cho nên họ có thể chép hồ sơ dự giờ lẫn
nhau để đối phó với cấp trên. Mặt khác nhiều hiệu trưởng dự giờ của đồng nghiệp
chỉ cần cho đủ số tiết theo quy định, mà bỏ qua khâu đánh giá xếp loại giờ dạy. Do
đó giáo viên không biết được những ưu điểm, khuyết điểm của tiết dạy để có thể kịp
thời điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh và với
tình hình mới hiện nay.
2.3.3. Thực trạng về kết quả thực hiện tiêu chuẩn chất lượng ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân
Trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay, công tác giảng dạy của giáo
viên tiểu học trọng tâm là thực hiện tốt việc đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp dạy học ở tiểu học.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã chỉ ra : tiếp tục nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lí, nội dung,
phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn
hưng nền giáo dục Việt Nam [51, tr. 95]
Để tìm hiểu thực trạng về kết quả thực hiện tiêu chuẩn chất lượng ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các báo cáo tổng kết
năm học của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện và của các trường tiểu học; quan sát
trường lớp và trò chuyện với giáo viên, cán bộ quản lí của 12 trường tiểu học đều
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên phải gắn liền với chất lượng học của
học sinh. Không có tình trạng chất lượng các giờ dạy là tốt mà chất lượng học tập
của học sinh lại thấp. Bởi vì kết quả học tập của học sinh là sản phẩm của giáo dục
& đào tạo, là thước đo chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chất lượng học tập của
học sinh là vấn đề được rất nhiều tầng lớp trong xã hội quan tâm. Làm thế nào để
chất lượng giáo dục của nước ta ngày càng phát triển, theo kịp các nước trong khu
vực và trên thế giới. Nhà trường là đơn vị trực tiếp đào tạo phải làm gì để nâng cao
chất lượng dạy và học, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Nói tóm lại, đối với nhà trường và giáo viên, chu trình: dạy học rồi kiểm
tra, đánh giá nhằm kiểm soát việc dạy học. Sau đó ra quyết định điều chỉnh, cải tiến
dạy học là cơ chế đảm bảo cho việc phát triển chất lượng dạy học. Đối với học sinh
thông tin đánh giá nhận được (điểm số và đặc biệt là nhận xét) từ giáo viên và tự
đánh giá của bản thân giúp người học kiểm soát, điều chỉnh việc học của mình.
Thực trạng việc quản lí công tác giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu
học trên địa bàn huyện Phú Tân cho thấy các trường đều chủ động xây dựng tiêu
chuẩn chất lượng dựa trên những quy định chung của ngành giáo dục, bám sát chỉ
tiêu chất lượng do Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện hướng dẫn.
* Tiêu chuẩn chất lượng được quy định như sau:
. Xếp loại A:
Đối với giáo viên dạy các môn học đánh giá bằng điểm số gồm: Toán,
Tiếng việt, Khoa học, Lịch sử và Địa lý, Tiếng nước ngoài, Tin học và các nội dung
tự chọn kết quả học tập của học sinh phải đạt tỷ lệ như sau: loại giỏi: 10%; loại khá:
38%; loại trung bình: 47%; loại yếu: 5%.
Đối với giáo viên dạy các môn còn lại: ở các lớp 1, 2, 3: Đạo đức, Thể dục,
tự nhiên và Xã hội, Nghệ thuật; ở các lớp 4, 5: Đạo đức, Thể dục, Âm nhạc, Mỹ
thuật, Kỹ thuật. Kết quả học tập của học sinh phải đạt tỷ lệ như sau: loại hoàn thành tốt (A+): 35%; loại hoàn thành (A): 60%; loại chưa hoàn thành (B): 5%. Ngoài ra
nếu giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ được cộng thêm 1 điểm, có học
sinh giỏi cấp tỉnh được cộng 2 điểm (chỉ cộng mức điểm cao nhất).
Xếp loại B: Chất lượng các môn sau khi tổng kết học kỳ I, học kỳ II và
cả năm thấp hơn quy định từ 2% đến 3%.
Xếp loại C: Chất lượng các môn tổng kết có tỷ lệ học sinh yếu vượt quá
quy định, trên 10%.
Thực trạng việc quản lí chất lượng học tập của học sinh ở 12 trường tiểu
học trên địa bàn huyện Phú Tân được thể hiện qua bảng 2.17 sau:
Bảng 2.17: Kết quả học lực năm học 2006 – 2007
STT
Tên trường
Tân Hưng Tây B
Cái Đôi Vàm 2 Phú Mỹ 2
9
Kết quả học lực Khá SL % 161 40.75 154 32.7 235 38.97 143 42.05 149 34.57 171 38.86 155 26.09 33.86 86 158 28.37 184 43.39 358 43.44 214 39.07
29.5
Giỏi SL % 8.1 32 78 16.56 181 30.02 31 9.12 122 28.31 8.18 36 13.3 79 16.93 43 13.46 75 59 13.92 149 18.08 134 24.86 1019 17.35 2168 36.75 2400 41.50 285
Tổng số học sinh 395 471 603 340 431 440 594 254 557 424 824 539 5872
Yếu Trung bình SL % SL % 182 46.08 20 5.06 1 212 45.01 27 5.73 2 Việt Khái 2 163 27.03 24 3.8 3 Phú Tân 146 42.94 20 5.88 4 Việt Thắng 2 127 29.47 33 7.65 5 221 50.23 12 2.73 6 331 55.72 29 4.91 7 Việt Khái 1 3.54 116 45.67 Cái Đôi Vàm 3 8 305 54.76 19 3.41 9 Tân Nghiệp A 161 37.97 20 4.71 10 VIệt Thắng 1 277 33.62 40 4.85 11 Cái Đôi Vàm 1 32 5.93 159 12 Phú Hiệp Cộng 499 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào
tạo Phú Tân.
Qua bảng kết quả chất lượng học tập học sinh đã nêu trên, cho thấy so với
chỉ tiêu quy định của Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, thì hầu hết các nhà
trường đã vượt chỉ tiêu quy định, nếu chỉ nhìn vào chất lượng này thì chất lượng
giảng dạy của các trường tiểu học là khá tốt, không có vấn đề bất cập xảy ra đối với
ngành giáo dục huyện Phú Tân. Bởi tỷ lệ học sinh khá giỏi đạt tới trên 50%, trong
khi đó tỷ lệ học sinh yếu, kể cả các môn năng khiếu là dưới 5%. Kết quả này cho
thấy có sự mẫu thuẫn trong đánh giá. Trong khi kết quả đánh giá giáo viên (đánh
giá ngoài) cho thấy trình độ, năng lực của giáo viên còn nhiều hạn chế và sự chênh
lệch so với đánh giá trong là một khoảng cách khá xa. Theo nguyên tắc về chất
lượng giáo dục thì tỷ lệ giáo viên có chất lượng giảng dạy tốt sẽ đồng nghĩa với chất
lượng học sinh học tập tốt. Khi một trong hai yếu tố này không tương xứng nhau tất
nhiên sẽ dẫn đến việc thực hiện tiêu chuẩn chất lượng chưa đúng yêu cầu và đúng
thực tế.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến kết quả chất lượng như vậy, chúng tôi đã tiến
hành khảo sát giáo viên ở 12 trường tiểu học trong huyện Phú Tân với tổng số phiếu
là 236, chiếm tỷ lệ 41.55% trên tổng số giáo viên tiểu học đứng lớp trong toàn
huyện. Kết quả thu được thể hiện qua bảng 2.18 sau:
Bảng 2.18: Khảo sát về những yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập
của học sinh
STT Những yếu tố cơ bản
1 2 Số ý kiến 180/236 154/236 Tỷ lệ (%) 76.3 65.3
3 233/236 98.7
4 208/236 88.1
5 6 215/236 118/236 91.1 50
Chất lượng phụ thuộc vào yếu tố người thầy Chất lượng phụ thuộc cách thức quản lý của các cấp Chất lượng phụ thuộc vào sự quan tâm của gia đình, cộng đồng Chất lượng phụ thuộc vào phương pháp, hình thức kiểm ra, đánh giá của thầy Chất lượng phụ thuộc vào nhu cầu người học Chất lượng phụ thuộc vào truyền thống nhà trường
Tổng hợp từ bảng trên cho thấy đa số các ý kiến đều cho rằng những yếu tố
cơ bản nêu trên phần lớn đều rất quan trọng. Tuy nhiên, qua quan sát trường lớp và
trò chuyện với một số giáo viên, cán bộ quản lí các trường cũng như qua khảo sát
thực tế 236 giáo viên trực tiếp giảng dạy 12 trường tiểu học trong huyện thì số ý
kiến đều tập trung vào ba vấn đề cơ bản sau : Thứ nhất là vấn đề chất lượng phụ
thuộc vào yếu tố sự quan tâm của gia đình, cộng đồng là chủ yếu, chiếm 98.72%
các ý kiến. Thứ hai là phụ thuộc vào yếu tố nhu cầu người học, chiếm tỷ lệ 91.1%.
Thứ ba là phụ thuộc vào yếu tố phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá của giáo
viên. Bởi vì, theo sự chỉ đạo của Sở Giáo dục & Đào tạo và Phòng Giáo dục & Đào
tạo thì đề các bài kiểm tra định kỳ theo phân phối chương trình phải được Ban giám
hiệu duyệt trước một tuần. Số điểm trong mỗi bài kiểm tra được quy định như sau:
Trong một bài kiểm tra, phần tự luận chiếm tỷ lệ 60 – 70%, phần trắc
nghiệm khách quan chiếm 30 – 40%.
Thực tế cho thấy bài kiểm tra có kết cấu như trên sẽ tạo điều kiện cho học
sinh tiếp cận phương pháp học mới của các nước có nền giáo dục phát triển. Nhưng
vấn đề thực hiện nó thì còn nhiều vấn đề bất cập xảy ra như: Đề thi trắc nghiệm
khách quan có cấu trúc rất dài, nhưng không có kinh phí để giáo viên phôtô đề bài
cho học sinh, giáo viên phải chép lên bảng mất rất nhiều thời gian, gây trạng thái
mệt mỏi và căng thẳng. Khi giáo viên đang chép đề thì học sinh có điều kiện để trao
đổi, gà bài cho nhau, làm sai lệch kết quả đánh giá. Thêm một vấn đề nữa là đề thi
trắc nghiệm do giáo viên tự ra nhiều khi chưa đảm bảo tính khoa học, tính phát
triển, tính logic và tính hợp quy luật khách quan. Chủ yếu đề ra dưới hai dạng đó là
câu hỏi đúng – sai và câu hỏi nhiều lựa chọn. Chưa kết hợp các hình thức thi trắc
nghiệm khách quan một cách thống nhất và đa dạng để khai thác trí lực của mọi đối
tượng học sinh, có một số giáo viên không thể ra đề trắc nghiệm theo đúng nghĩa
của nó (mặc dù đã có văn bản hướng dẫn của Vụ tiểu học). Cách tính điểm cho mỗi
bài trắc nghiệm cũng chưa đảm bảo yêu cầu, điểm cho mỗi câu trả lời đúng có thể
quá cao hoặc quá thấp. Cả lớp chỉ dùng chung một đề thi, vì thế học sinh có thể
nhìn bài nhau để chép mà không cần suy nghĩ. Đề thi đôi khi quá dễ, hoặc có tính
đánh đố học sinh, không khai thác được trí tuệ của mọi đối tượng học sinh. Khâu
quản lý việc ra đề của một số Ban giám hiệu còn lỏng lẻo, chưa định hướng cho
giáo viên ra đề thi theo phương pháp mới. Mặt khác các ý kiến còn cho rằng chất
lượng phụ thuộc vào người thầy, chiếm tỷ lệ 76.3%. Một yếu tố không kém phần
quan trọng, các ý kiến đều cho rằng, chất lượng phụ thuộc vào yếu tố quản lý của
các cấp là không thể bỏ qua, chiếm tỷ lệ 76,3%. Vai trò của yếu tố này thể hiện ở
tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy dạy giáo viên gắn vào tỷ lệ học sinh trên
trung bình đã vô tình tạo nên sức ép cho giáo viên trong suốt quá trình giảng dạy. Vì
đây là là việc gắn liền với nghĩa vụ và quyền lợi của giáo viên. Nếu thực hiện tốt sẽ
xếp loại A, được tuyên dương, khen thưởng và ngược lại. Trong khi đó, tâm lí giáo
viên không muốn bị phê bình, thậm chí phải bồi dưỡng lại nghiệp vụ trong hè do
Phòng Giáo dục & Đào tạo tổ chức nên vấn đề nâng tỷ lệ học sinh cho đạt yêu cầu
là điều sẽ xảy ra và chất lượng “ ảo” là điều không tránh khỏi .
Vì những hạn chế nêu trên đã làm cho chất lượng học tập của học sinh chưa
phản ánh đúng thực trạng chất lượng giảng dạy của giáo viên nói riêng và chất
lượng giáo dục nói chung hiện nay.
2.3.4. Thực trạng về quản lý giáo án - sổ sách ở các trường tiểu học
huyện Phú Tân
Qua báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào tạo
Phú Tân, các trường tiểu học và trao đổi, trò chuyện với giáo viên, cán bộ quản lí ở
12 trường tiểu học trong huyện cho thấy việc chuẩn bị bài lên lớp là khâu rất quan
trọng góp phần quyết định chất lượng dạy học. Giáo viên cần xây dựng kế hoạch
giảng dạy cho cả năm học dựa trên sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương tiện,
đồ dùng dạy học hiện có và lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học thích hợp. Kế
hoạch trên phải thông qua tổ chuyên môn để bàn bạc thống nhất.
Việc soạn bài chuẩn bị giảng dạy phải theo đúng phân phối chương trình
của Bộ Giáo dục & Đào tạo, phải đúng theo mục tiêu chương trình giảng dạy, phải
thể hiện được những kiến thức trọng tâm và những kỹ năng cần thiết. Nói cách
khác, theo quy định của Điều lệ trường tiểu học thì giáo viên lên lớp phải có đầy đủ
giáo án, sổ sách theo quy định. Giáo án phải được trình bày sạch đẹp, khoa học, ghi
đầy đủ ngày tháng soạn, cấu trúc phải rõ ràng, đủ các nội dung, tiến trình bài giảng
theo phương pháp mới, các câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với bài giảng và đối
tượng học sinh. Hồ sơ chuyên môn thực hiện 3 khớp: Phiếu báo giảng, giáo án và sổ
gọi tên ghi điểm. Nộp các loại giáo án - sổ sách về nhà trường kiểm tra theo đúng
thời gian quy định.
Nếu thực hiện đủ các tiêu chí trên thì xếp loại A và được cộng 5 điểm. Nếu
vi phạm các tiêu chí trên, tức là giáo án soạn còn sơ sài, ít các câu hỏi phát huy trí
tuệ của mọi đối tượng học sinh, thì giáo viên sẽ bị xếp loại B (cộng 3 điểm) thấp
hơn nữa là xếp loại C (không được cộng điểm), thậm chí nếu quá cẩu thả, không
đạt yêu cầu thì bị trừ điểm. Sau khi nghiên cứu báo cáo tổng kết của 12 trường tiểu
học đã thu được kết quả thể hiện ở bảng 2.19 sau:
Bảng 2.19: Kết quả xếp loại giáo án ở một số trường tiểu học huyện Phú Tân
STT Tên Trường Số giáo viên
Tân Hưng Tây B
Cái Đôi Vàm 2 Phú Mỹ 2
1 2 Việt Khái 2 3 Phú Tân 4 Việt Thắng 2 5 6 7 Việt Khái 1 8 Cái Đôi Vàm 3 Tân Nghiệp A 9 10 VIệt Thắng 1 11 Cái Đôi Vàm 1 12 Phú Hiệp Loại A 16 16 20 13 20 14 22 12 23 16 28 17 Xếp loại Loại B 1 1 0 1 0 2 2 1 3 2 1 2 Loại C 0 0 0 1 0 0 0 0 1 0 0 1 17 17 20 15 20 16 24 13 27 18 29 20
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2006 - 2007 của 12 trường tiểu học
huyện Phú Tân.
Qua bảng trên cho thấy ở những trường thường xuyên kiểm tra giáo án, sổ
sách định kỳ 2 lần/1tháng thì giáo án có chất lượng hơn, giáo án soạn sạch sẽ, đúng
phân phối chương trình, chủ yếu được xếp loại A. Ngược lại một số trường ít kiểm
tra thường xuyên thì có các giáo án xếp loại B nhiều hơn. Ngoài nguyên nhân ít có
sự kiểm ra thường xuyên, còn có nguyên nhân khác nữa là do một số ít trường thiếu
giáo viên, giáo viên phải dạy thêm giờ, soạn nhiều giáo án, nên giáo án soạn không
tránh khỏi sơ sài, soạn không đảm bảo theo phương pháp mới, chưa sát với từng đối
tượng học sinh.
2.3.5. Thực trạng về công tác chủ nhiệm và công tác khác ở trường tiểu
học huyện Phú Tân
Quản lí về công tác chủ nhiệm và công tác khác ở trường tiểu học đòi hỏi
người hiệu trưởng phải nắm thật chắc năng lực đội ngũ giáo viên, hiểu rõ đặc điểm
tâm lí, đánh giá chính xác từng giáo viên để phân công nhiệm vụ hợp lí, khoa học.
Sự hiểu biết tinh tường kết hợp khả năng tiếp thu và xử lí nguồn thông tin sao cho
đảm bảo được chất lượng về công tác chủ nhiệm và công tác khác là việc làm vô
cùng quan trọng đối với người hiệu trưởng. Thực trạng về công tác chủ nhiệm và
công tác khác ở trường tiểu học huyện Phú Tân, qua trao đổi, trò chuyện với cán bộ
quản lí và chuyên viên phòng Giáo dục & Đào tạo, cán bộ huyện đoàn, giáo viên,
hiệu trưởng 12 trường tiểu học. Kết quả được thể hiện qua bảng 2.20 sau:
Bảng 2.20: Kết quả tự đánh giá của hiệu trưởng về công tác chủ nhiệm
và công tác khác
STT Các mức độ đánh giá 1 Mức độ 1 (đã làm tốt) 2 Mức độ 2 (đã làm khá) 3 Mức độ 3 (đạt yêu cầu) 4 Mức độ 4 (chưa đạt yêu cầu) Số ý kiến 6/12 4/12 2/12 0 Tỷ lệ (%) 50 33.3 16.7 0
Nguồn: báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của các trường tiểu học
huyện Phú Tân.
Qua kết quả ở bảng trên cho thấy, số hiệu trưởng có biện pháp quản lý tốt
công tác này là 50%. Kết quả này phù hợp với ý kiến đánh giá và xếp loại của
Phòng Giáo dục & Đào tạo và Huyện đoàn. Những trường nào có hiệu trưởng là
những người quản lý giỏi, có đội ngũ giáo viên giỏi, nhiệt tình và có chuyên môn về
công tác Đội thì chất lượng giáo viên chủ nhiệm sẽ cao hơn các trường khác.
2.3.6. Thực trạng về phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm ở các trường
tiểu học huyện Phú Tân
Quản lí việc viết sáng kiến kinh nghiệm ở trường tiểu học đòi hỏi người
hiệu trưởng nắm bắt thật chắc chất lượng đội ngũ giáo viên, hiểu rõ đặc điểm, năng
lực của từng giáo viên để có sự đánh giá chính xác và phân công giảng dạy hợp lí,
khoa học. Sự hiểu biết tinh tường kết hợp khả năng tiếp thu và xử lí nguồn thông tin
sao cho đảm bảo được chất lượng việc viết sáng kiến kinh nghiệm nhằm từng bước
nhân rộng, điển hình chất lượng giảng dạy là điều vô cùng quan trọng đối với người
hiệu trưởng. Qua nghiên cứu báo cáo tổng kết năm học của Phòng Giáo dục & Đào
tạo và của các trường tiểu học; quan sát trường lớp và trao đổi, trò chuyện với giáo
viên, hiệu trưởng các trường tiểu học, cán bộ quản lí và chuyên viên Phòng Giáo
dục & Đào tạo đều cho thấy : thực trạng năm học nào các trường tiểu học trong
toàn huyện cũng phát động phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm và đưa nó vào
tiêu chuẩn xếp loại giáo viên giỏi các cấp. Ngay từ những ngày đầu của năm học
giáo viên phải đăng ký về tổ và nhà trường về tên đề tài, nhưng phải đến cuối năm
học chuẩn bị bình xét danh hiệu giáo viên giỏi các cấp, giáo viên mới viết, thậm chí
không có cả đề cương nghiên cứu. Vì thế chất lượng các sáng kiện kinh nghiệm rất
hạn chế. Một số lãnh đạo nhà trường và giáo viên gần như không nắm được về
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học. Kết cấu trình tự và các
bước thực hiện một đề tài sáng kiến kinh nghiệm không được thống nhất chung, nên
việc xác định tên đề tài, lựa chọn mục đích, nội dung nghiên cứu và giới hạn của
một sáng kiến kinh nghiệm còn dừng lại ở mức độ thấp.
Hiện nay trên địa bàn huyện chưa có những chuyên đề cấp huyện về vấn đề
này để tìm ra những sáng kiến hay, những kinh nghiệm giỏi ở các trường để mọi
CBQL và giáo viên có thêm những thông tin bổ ích trong quá trình giảng dạy. Vì
thế đề tài sáng kiến kinh nghiệm viết xong, kể cả những đề tài cấp tỉnh chỉ để lưu
trữ, không được áp dụng và phổ biến rộng rãi trong các nhà trường.
Tuy nhiên, ngoài tiêu chuẩn chính đã nêu trên, thì ở mỗi trường tiểu học
cũng có đưa ra một số tiêu chí xếp loại giáo viên khác nhau, cho phù hợp với đặc
điểm riêng của trường mình. Từ những thực trạng nêu trên đòi hỏi cần phải có
những biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lí việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân. Muốn có
những biện pháp cần thiết thì đối tượng khảo sát ý kiến không thể bỏ qua đó là lực
lượng giáo viên tiểu học trên địa bàn huyện. Bởi vì lực lượng này chính là đối tượng
bị đánh giá của các nhà quản lí thông qua các tiêu chí đánh giá, việc đánh giá của
các nhà quản lí điều ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân của họ. Tính phù hợp, tính
thực tiễn các tiêu chí đánh giá sẽ được phản ánh một cách chính xác thông qua ý
kiến của đối tượng bị đánh giá. Vì thế việc khảo sát ý của của đối tượng này chính
là cơ sở để có những điều chỉnh, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá khách quan, phù hợp với lực lượng giáo viên tiểu học.
2.4. Khảo sát ý kiến của giáo viên về những biện pháp cần thiết để nâng cao
hiệu quả quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học huyện Phú Tân
Trong nhiều năm qua, lãnh đạo huyện và Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện
Phú Tân đã rất quan tâm đến việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiểu học
nhằm giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đổi mới giáo dục tiểu
học. Năm học 2006 – 2007, đội ngũ cán bộ , giáo viên, nhân viên công tác ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân là 661; giáo viên đứng lớp là 568 người. Tỷ lệ giáo
viên/lớp là 1.32 (tỷ lệ này không tính giáo viên Ngoại ngữ).
Theo báo cáo tổng kết năm học 2006 – 2007 của Phòng Giáo dục & Đào
tạo huyện Phú Tân thì số giáo viên tiểu học có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và
trên chuẩn khá cao, chiếm tỷ lệ 96.99%. Số giáo viên tiểu học có trình độ Cao đẳng
và Đại học chiếm tỷ lệ 63.7%, số giáo viên chưa đạt chuẩn còn lại không đáng kể
chiếm tỷ lệ 2.99% (những giáo viên này tuổi đời hầu hết đã trên 50). Trong đó, đội
ngũ giáo viên có trình độ Cao đẳng và Đại học khá cao, tuổi đời còn trẻ, họ chính là
những người trực tiếp đứng lớp và thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục. Họ có
trình độ nên tiếp thu nhanh những thông tin mới, có nhiều sáng tạo. Đồng thời sẽ là
lớp người kế cận đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và trở thành những giáo viên giỏi
trong tương lai không xa. Vì vậy, việc lấy ý kiến của giáo viên trực tiếp thực hiện
đổi mới giáo dục sẽ giúp cho chúng tôi nắm bắt thực trạng một cách chính xác và
hiệu quả nhất.
Để tìm hiểu thực trạng những biện pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học
huyện Phú Tân chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các báo cáo tổng kết của Phòng
Giáo dục & Đào tạo, của các trường tiểu học; qua quan sát trường lớp và trao đổi,
trò chuyện với giáo viên, cán bộ quản lí trường; sử dụng phiếu hỏi ý kiến dành cho
giáo viên. Có 236 giáo viên được khảo sát với nội dung là: “Theo đồng chí những
biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả của công tác đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở các trường tiểu học”. Kết quả phiếu khảo sát được thể hiện qua
bảng 2.21 sau :
Bảng 2.21: Kết quả ý kiến của giáo viên về những biện pháp cần thiết để nâng
cao hiệu quả của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân
Những biện pháp
STT 1 Số ý kiến Tỷ lệ (%) 223/236 94.49
2 228/236 96.61
3 231/236 97.98
4 222/236 94.06
5 227/236 96.18
6 232/236 98.30
7 220/236 93.22
8 227/236 96.18
9 225/236 95.33
10 Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục Bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho các nhà quản lý trường học Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy học theo phương pháp mới Tổ chức tham quan học tập mô hình của một số trường điểm trong và ngoài huyện Biên soạn chương trình sách giáo khoa, sách tham khảo tốt, để giáo viên có thể tiếp cận phương pháp mới một cách nhanh nhất Tăng cường tổ chức các chuyên đề về sử dụng đồ dùng dạy học, máy chiếu (công nghệ dạy học vào nhà trường) Kiểm tra đánh giá định kỳ theo kế hoạch để giáo viên chủ động trong việc chuẩn bị tốt các giờ lên lớp Có chế độ chính sách hợp lý với các cá nhân tiên tiến, điển hình để giáo viên yên tâm giảng dạy Có kế hoạch định kỳ trưng cầu ý kiến của giáo viên về đánh giá chất lượng giảng dạy Chỉ đạo cơ sở sát thực tế, kịp thời, chính xác 235/236 99.57
Qua ý kiến của đội ngũ giáo viên huyện Phú Tân cho thấy, phần lớn giáo
viên mong muốn các nhà quản lý trực tiếp họ phải tích cực chỉ đạo cơ sở sát thực tế,
kịp thời, chính xác hơn nhằm giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao nói chung
và nâng cao chất lượng giảng dạy nói riêng. Thực tế qua trao đổi với giáo viên thì
chúng tôi được biết là những điểm trường lẻ là cán bộ quản lý mỗi năm chỉ đến làm
việc một hai lần mà thôi. Hai là, phải tăng cường tổ chức các chuyên đề về sử dụng
đồ dùng dạy học. Vì thực tế những năm thay sách thì Sở Giáo dục & Đào tạo chỉ tổ
chức đại trà một lượt và rất qua loa nên việc sử dụng của giáo viên còn gặp rất
nhiều khó khăn. Cho nên dẫn đến tình trạng giáo viên rất ngại sử dụng đồ dùng dạy
học đúng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ Giáo dục & Đào tạo
đã phát động theo đúng nghĩa của nó. Thứ ba là phải tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất và thiết bị dạy học nhiều hơn nữa, đặc biệt là các điểm trường lẻ. Các điểm
trường lẻ hầu hết không có phòng thiết bị cũng như cơ sở vật chất rất nghèo nàn,
chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Với đặc thù là những
môn đổi mới phương pháp giảng dạy thì họ cũng rất mong muốn có nhiều sách
tham khảo, các tạp chí có tính giáo dục cao như: Thông tin sư phạm, Thế giới trong
ta, Tạp chí giáo dục tiểu học . . .
Mặt khác, họ cũng mong muốn các nhà quản lý trực tiếp họ là hiệu trưởng
và tổ trưởng chuyên môn phải thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, có
kiến thức chuyên môn giỏi và phải có nghiệp vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên. Tiếp sau đó là họ rất muốn các cấp có thẩm quyền phải có chế
độ, chính sách hợp lý đối với các cá nhân tiên tiến, điển hình để giáo viên yên tâm
giảng dạy.
Một điều cũng hết sức thú vị là họ muốn các nhà quản lý giáo dục phải
trưng cầu ý kiến thường xuyên về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
giảng dạy, để họ được bộc bạch tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ của mình về những
vấn đề giáo dục hiện nay. Từ đó phát huy sức mạnh tập thể của các nhà trường
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Thông qua việc trưng cầu các ý kiến trên, giúp cho chúng tôi nhận diện
được toàn cảnh về tình hình chất lượng giáo dục địa phương trong suốt thời gian
qua làm cơ sở cho việc tổng hợp và đánh giá một cách chính xác về thực trạng quản
lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa
bàn huyện.
2.5. Đánh giá chung về thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân
Căn cứ vào các báo cáo tổng kết trong những năm học vừa qua của Phòng
Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, các trường tiểu học; quan sát trường lớp và
trao đổi trò chuyện với giáo viên, trao đổi trò chuyện với cán bộ quản lí, chuyên
viện Phòng Giáo dục & Đào tạo; sử dụng phiếu hỏi ý kiến dành cho hiệu trưởng,
giáo viên, cán bộ quản lí và chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Phú Tân
và kết quả phân tích ở trên, có thể đưa ra một số kết luận chủ yếu về thực trạng công
tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú
Tân như sau:
2.5.1. Mặt mạnh
Hầu hết các trường đã có kế hoạch triển khai nội dung đánh giá xếp loại
giáo viên ngay từ đầu năm học, dựa trên cơ sở pháp lý chủ yếu như: Luật giáo dục,
Điều lệ trường tiểu học, Pháp lệnh cán bộ công chức, Phân phối chương trình, các
văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của các cấp, văn bản, chỉ thị liên
quan đến việc đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, kế hoạch bồi dưỡng giáo
viên để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
Phần đông các hiệu trưởng đều có nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm
của mình trong việc quản lý nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá
trình chỉ đạo hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy hiệu trưởng các trường tiểu
học đã giúp cho cán bộ, giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên và thấy được vai trò của người thầy là
nhân tố hàng đầu quyết định chất lượng dạy học. Các hiệu trưởng nhìn chung đã
nắm được nội dung của các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên. Một số hiệu trưởng các trường tiểu học đã qua các lớp bồi dưỡng công
tác quản lí, có kinh nghiệm, nỗ lực, năng động, sáng tạo trong công tác quản lí. Đội
ngũ giáo viên tiểu học phần nhiều an tâm công tác, tận tụy, nhiệt tình với nghề, ham
học hỏi để nâng cao trình độ giảng dạy, chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách
nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đã có lập kế hoạch quản lí chặt chẽ việc
đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên; quản lí hồ sơ của giáo viên, sổ điểm, sổ báo
giảng một cách nghiêm túc.
Tổ chức tốt việc dự giờ bốc thăm thao giảng ở trường, cụm trường và tổ
chức tốt các chuyên đề thay sách ở tại nhà trường, để mọi giáo viên, có những thông
tin quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng như học tập rút kinh
nghiệm lẫn nhau. Hiệu trưởng các trường tiểu học thực hiện đầy đủ các nội dung
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy. Việc phân công giảng dạy và bố trí công
tác phù hợp với điều kiện thực tế của trường, năng lực chuyên môn của cán bộ giáo
viên. Có nhiều hình thức, biện pháp kiểm tra, theo dõi quản lí các nội dung thực
hiện nhiệm vụ dạy học. Quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức chính trị cho cán bộ giáo viên.
Hiệu trưởng các trường tiểu học còn quan tâm đến việc trang bị về cơ sở vật
chất, phương tiện và thiết bị phuc vụ cho công tác dạy và học như : bàn, ghế mới
theo đúng quy cách, vi tính . . . ; xây dựng và sữa chữa phòng học, thư viện, trang bị
sách báo tham khảo phục vụ cho giáo viên và học sinh. Công tác xã hội hoá giáo
dục cũng được các trường tiểu học luôn quan tâm và thực hiện có hiệu quả nhằm hỗ
trợ cho trẻ em nghèo hiếu học hoặc có hoàn cảnh khó khăn, có nguy cơ bỏ học,
khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, hỗ trợ cho hoạt động dạy và học. Tổ
chức phong trào thi đua “hai tốt”, các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn trong
năm để kích thích hoạt động dạy học. Phối hợp các tổ chức đoàn thể nhằm để công
tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên đạt hiệu quả, góp phần thúc đẩy
chất lượng giảng dạy đạt kết quả cao hơn. Chất lượng giảng dạy nói chung có chiều
hướng phát triển.
2.5.2. Mặt yếu
Việc cụ thể hoá các chủ trương, điều luật quy định của ngành giáo dục &
đào tạo nói chung, thành các quy định cụ thể của nhà trường, trong hoạt động quản
lý công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên còn dừng lại ở mức độ thấp
và chưa đồng bộ. Một số hiệu trưởng các trường tiểu học chưa ý thức rõ trách
nhiệm quản lí. Trình độ nghiệp vụ quản lý còn hạn chế nên thiếu tầm nhìn chiến
lược, còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học. Còn
tình trạng quản lý theo kinh nghiệm, theo thói quen, nặng về tình cảm, ngại va
chạm, thiếu hẳn kiến thức khoa học quản lý. Việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục trong một năm học, đánh
giá còn mang nặng tính hình thức, chưa đúng đối tượng, vì vậy không phát huy
được những điểm mạnh của đội ngũ giáo viên mình quản lý.
Việc nâng cao chất lượng các giờ thao giảng cho đội ngũ giáo viên đã được
tiến hành, song chưa chú ý đến chất lượng chiều sâu và ý nghĩa của việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên. Nguồn tài chính chưa đầy đủ so với yêu cầu với
việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất các trang thiết bị cần thiết phục vụ dạy học
còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học; nhiều trường lớp
hiện đang xuống cấp, các trường học thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, đa
số các trường không có sân tập luyện thể dục thể thao, vui chơi giải trí. Việc đổi
mới cách kiểm tra, đánh giá giáo viên và thi cử đối với học sinh còn hạn chế. Tỷ lệ
giáo viên ở xa trường và chưa vào được biên chế còn nhiều làm ảnh hưởng đến chất
lượng giảng dạy của giáo viên. Công tác tham mưu với cấp uỷ chính quyền địa
phương còn nhiều bất cập, nên việc phối hợp thực hiện giữa các đoàn thể trong và
ngoài nhà trường thiếu hiệu quả.
Một số ít hiệu trưởng các trường tiểu học trong huyện Phú Tân còn tình
trạng buông lỏng quản lý, nên giáo viên có thể đối phó bằng cách gian lận trong quá
trình giảng dạy, làm ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng của ngành giáo dục. Một
số giáo viên chưa ý thức cao trong công tác, chưa được tác động tích cực từ các cấp
lãnh đạo, còn thụ động thờ ơ trong công tác; chuyên môn chưa vững vàng, tiếp thu
những cái mới còn chậm chạp, chưa theo kịp với sự đổi mới về nội dung, chương
trình và phương pháp giảng dạy, còn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, ít
quan tâm đến rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Hiệu trưởng các trường tiểu học ít
quan tâm chặt chẽ đến công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên; tổ chức các
buổi thao giảng, dự giờ, hội thảo nhằm giới thiệu những thành tựu mới của phương
pháp giảng dạy và đề xuất một số phương pháp giảng dạy thông qua các tiết dạy
còn ít.
Việc phối hợp với gia đình, địa phương trong công tác giáo dục học sinh
chưa đồng bộ. Đa số phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của học
sinh, còn khoán trắng việc giáo dục con em mình cho nhà trường.
2.5.3. Nguyên nhân của những tồn tại
Hệ thống đánh giá giáo dục của nước ta trong hơn một nửa thế kỷ qua đã
góp phần phát triển giáo dục & đào tạo thông qua việc đánh giá sản phẩm giáo dục
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên hệ thống đánh giá đó đến nay mặc
dù đã được bổ sung, chỉnh sửa nhiều lần, song vẫn chưa phù hợp với điều kiện mới,
chưa thật sự là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển giáo dục, khuyến khích mọi người say
mê giảng dạy, học tập, nhất là những người có năng lực, có tâm huyết với nghề hiện
nay.
Có thể nêu một số nhược điểm cơ bản sau: Nhận thức về vai trò và ý nghĩa
của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, còn phiến diện, chủ quan, dẫn đến việc chỉ đạo thực hiện không đảm bảo
được mục đích, yêu cầu của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng về trình độ quản lý, nghiệp vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng
giảng dạy của các cán bộ quản lý và giáo viên còn chưa được thường xuyên, do
chưa được quan tâm đúng mức. Ban giám hiệu và giáo viên không có điều kiện và
thời gian để tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm với các đơn vị bạn, đặc biệt là
những đơn vị điển hình, tiên tiến.
Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên không phản ánh đúng thực lực
của họ, làm cản trở tiến trình đổi mới giáo dục. Việc kết hợp các lực lượng tham gia
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên chưa đồng bộ, kém hiệu quả. Các tiêu
chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên chưa thật sự rõ ràng,
tường minh, quá dài dòng, khó nhớ, chưa thống nhất, nên chưa được các cấp, các
ngành quan tâm đúng mức. Số giáo viên chưa vào biên chế còn chiếm tỷ lệ khá cao
(từ 20% - 25 %), nhiều giáo viên hợp đồng kéo dài đến 3 năm, làm ảnh hưởng đến
tâm lý giảng dạy.
Sự mất cân đối giáo viên giữa các trường còn nhiều, đặc biệt là các giáo
viên dạy chuyên các môn năng khiếu nên chất lượng giảng dạy còn hạn chế. Một số
trường thiếu giáo viên, nên có giáo viên phải dạy 2 lớp, soạn 2 giáo án khác nhau.
Trong khi đó yêu cầu đổi mới của phương pháp hiện nay là mỗi giáo án phải thể
hiện đầy đủ các nội dung và các bước lên lớp. Vì vậy, giáo viên phải đối phó bằng
cách soạn sơ sài, cắt xén nội dung bài dạy. . . Công tác quản lý việc ra đề kiểm tra,
chấm bài còn lỏng lẻo, nên chất lượng các đề bài chưa phù hợp với các đối tượng
học sinh khác nhau. Chưa có những hội thảo, chuyên đề về công tác đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên. Vì thế, ở mỗi nhà trường đều vận dụng những
phương pháp đánh giá riêng, không thống nhất với nhau, mặc dù vẫn dựa vào các
văn bản hướng dẫn của các cấp thẩm quyền (Bộ nội vụ, Bộ Giáo dục & Đào tạo . .
.). Từ đó dẫn đến hệ quả, có trường đánh giá rất chặt chẽ, tiến hành thường xuyên,
liên tục trong một năm học. Nhưng có trường đánh giá quá dễ dãi, qua loa. Dẫn đến
tình trạng có trường có nhiều giáo viên giỏi, nhưng chất lượng tổng thể của nhà
trường thì lại không cao; có trường không có nhiều giáo viên giỏi, song chất lượng
cũng không đến nỗi nào, thậm chí không thua kém gì những trường có nhiều giáo
viên giỏi.
Một nguyên nhân nữa làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục hiện nay là
việc thực hiện chỉ tiêu “khoán chất lượng” của các cấp giáo dục, vì thế khi chưa đạt
chỉ tiêu chất lượng, giáo viên có thể tự do nâng điểm, sửa điểm cho học sinh một
cách tùy tiện để tránh bị trừ điểm thi đua . . .
Kết luận chương 2
Qua khảo sát thực trạng về công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở 12 trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân cho thấy: Các
nhà trường đều đã thực hiện đúng quy chế chuyên môn do Bộ Giáo dục & Đào tạo
quy định. Nhưng việc triển khai kiểm tra, đánh giá còn chưa thống nhất ở các
trường về tiêu chí nội dung, quy trình. Vì vậy, hiệu trưởng các trường gặp không ít
khó khăn trong việc đánh giá và xếp loại giáo viên, dẫn đến tình trạng đánh giá
chưa thực sự khách quan, toàn diện, chưa sát, đúng đối tượng, chưa phản ánh đúng
thực lực trình độ hiện có của giáo viên.
Một số hiệu trưởng các trường tiểu học chưa quan tâm chặt chẽ đến việc bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên; công tác quản lí việc đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học còn hạn chế; chưa phối hợp
đồng bộ giữa các lực lượng tham gia đánh giá; việc phối hợp giữa nhà trường, gia
đình và địa phương trong công tác xã hội hoá giáo dục và việc giáo dục học sinh
chưa đồng bộ và chặt chẽ. Mặt khác công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên chưa được các cấp quản lý giáo dục quan tâm chỉ đạo sát sao.
Năng lực và công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên chưa
được thống nhất trong toàn huyện, vì vậy không khuyến khích được những nhân tố
điển hình của các trường tiểu học trong huyện.
Từ những hạn chế trong công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở các trường tiểu học, chúng tôi đã phân tích và làm rõ nguyên nhân
của những tồn tại. Đây cơ sở thực tiễn quan trọng để dẫn đến việc đề xuất các biện
pháp đổi mới việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu
học huyện Phú Tân sẽ được trình bày cụ thể ở phần chương 3 .
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ
VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN
Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
3.1. Cơ sở của việc đề ra các biện pháp đổi mới quản lý việc đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học
3.1.1. Căn cứ vào quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo của Đảng
trong thời kỳ CNH, HĐH
Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX, tháng 4 năm 2001, đã xác
định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm tới là: “Đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc các cơ hội và
thách thức đối với dân tộc ta trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội,
về khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hoá. Đại hội tiếp tục khẳng định: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH,
HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Đồng thời văn kiện Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ: “Tạo sự chuyển biến cơ
bản, toàn diện trong phát triển giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học,
hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục . . .” [51, tr. 44]
3.1.2. Căn cứ vào thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo của tỉnh Cà
Mau và huyện Phú Tân
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XIII,
trong phần định hướng phát triển kinh tế, xã hội và các giải pháp chủ yếu của tỉnh
đã chỉ rõ: “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả Giáo dục & Đào tạo; làm
chuyển biến cơ bản, toàn diện ở tất cả các ngành học, bậc học; quy hoạch đào tạo
bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL, giáo viên đủ về số lượng, hợp lý
về cơ cấu và đạt chuẩn về chất lượng . . .”.
Đồng thời, trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú
Tân lần thứ XI, trong phần những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp của huyện về
giáo dục & đào tạo đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, xây dựng
cơ sở vật chất từng bước quy hoạch sắp xếp mạng lưới trường lớp theo hướng tập
trung, gắn chương trình kiên cố hoá trường, lớp học với chương trình xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia; nâng cao hiệu quả giáo dục ở các ngành học, bậc học;
đảm bảo 100% giáo viên các cấp đạt chuẩn, trên chuẩn đào tạo theo quy định . . .”
Để thực hiện mục tiêu trên, ngành giáo dục và đào tạo Cà Mau nói chung và
huyện Phú Tân nói riêng về cơ bản đã chỉ ra những mặt còn hạn chế, tồn tại của
ngành giáo dục trong những năm qua và đề ra phương pháp hoạt động như sau: tăng
cường công tác tham mưu với cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, từng bước xây
dựng cơ sở trường lớp theo hướng hiện đại hoá. Có cơ sở, chính sách ưu tiên và đầu
tư cho giáo dục một cách thiết thực và hiệu quả. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng
đội ngũ, cán bộ quản lý giáo dục các cấp và đội ngũ nhà giáo, cải tiến cách đánh giá
trong thi cử, hạn chế những tiêu cực trong việc cấp văn bằng, chứng chỉ ở các loại
hình đào tạo . . .
3.1.3. Căn cứ vào thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân
Như đã trình bày ở chương 2 của luận văn, công tác quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân trong
những năm học vừa qua, đã có những chuyển biến tích cực. Song trong thực tiễn,
các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo chất lượng giảng dạy của giáo viên còn chưa
thống nhất trong các nhà trường, nhiều trường CBQL còn đánh giá giáo viên theo
cảm tính, thiếu khách quan, dân chủ, công bằng, không có kế hoạch rõ ràng. Việc
triển khai kế hoạch đánh giá chưa được thường xuyên, liên tục trong suốt năm học.
Đó là kiểu quản lý theo kinh nghiệm chủ nghĩa, hành chính sự vụ, khoán trắng cho
cấp dưới, do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Xuất phát từ những quan điểm phát triển giáo dục & đào tạo của Đảng, Nhà
nước, mục tiêu phát triển của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Sở Giáo dục & Đào tạo Cà
Mau, Phòng Giáo dục & Đào tạo Phú Tân, cùng với việc nghiên cứu cơ sở lí luận
dạy học, lý luận giáo dục nói chung và quan trọng hơn hết là kết quả khảo sát thực
trạng của đề tài được trình bày ở chương 2 chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp
đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho đội
ngũ cán bộ quản lý nhà trường, nhằm thực hiện mục tiêu quản lý, góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện nói
chung, đáp ứng nhu cầu xã hội và xu thế thời đại.
3.2. Một số biện pháp đổi mới quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học
Để công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian sắp tới, khắc phục
được những hạn chế vừa nêu ở chương 2 cần có những biện pháp mang tính tổng
thể, chiến lược và phải được thực hiện một cách đồng bộ, không thể giải quyết tốt
vấn đề này trên bình diện một biện pháp. Vì đây là vấn đề mang tính hệ thống liên
quan đến toàn bộ hệ thống quản lí giáo dục nhà trường đã được trình bày ở phần cơ
sở lí luận. Chính vì thế chúng tôi đưa ra nhóm biện pháp giải quyết thực trạng vấn
đề này xuất phát từ cơ sở lí luận về công tác quản lí cũng như thực trạng về công tác
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học
huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau trong thời gian qua. Với mong muốn góp phần thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục của huyện Phú Tân từng bước đáp ứng được mục tiêu, yêu
cầu đổi mới giáo dục.
3.2.1. Nhóm biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, ý
nghĩa của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho đội ngũ cán bộ
quản lý nhà trường
Công tác quản lý giáo dục và đào tạo đóng một vai trò cực kỳ quan trọng,
đảm bảo cho sự hoạt động của hệ thống giáo dục theo những mục tiêu và phương
hướng đã định. Đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên là đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo hướng nâng cao
hiệu lực quản lý Nhà nước, phân cấp một cách mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ
động và tự chịu trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong nhà trường.
Đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
nhằm chống lại những biểu hiện tiêu cực, thiếu trật tự kỷ cương trong giáo dục hiện
nay; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giảng dạy, chất
lượng giáo dục đối với thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.
* Mục tiêu của biện pháp
Nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên cho đội ngũ quản lý nhà trường và tất cả giáo viên.
Khơi dậy tinh thần ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm với cấp trên, với đồng nghiệp
và với cộng đồng xã hội về chất lượng giáo dục.
* Nội dung của biện pháp
Nâng cao nhận thức, trọng tâm là nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý nhà
trường, tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên để không một thành viên nào trong
hội đồng sư phạm còn chưa hiểu, hay hiểu một cách mơ hồ về các tiêu chí, tiêu
chuẩn, thang đó cách đánh giá, xếp loại chất lượng giảng dạy của giáo viên. Từ đó
giúp cho nhà trường tự đánh giá, tự giải quyết vấn đề, tự điều chỉnh mục tiêu đánh
giá cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng trường mà không tách
rời các văn bản pháp quy của ngành đối với lĩnh vực nêu trên. Trên nền tảng ấy, để
mỗi giáo viên có ý thức phấn đấu trở thành nhà giáo, nhà sư phạm không vụ lợi,
không vì bệnh thành tích mà làm ảnh hưởng đến đổi mới sự nghiệp giáo dục.
Nói cách khác, khi đề cập đến nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường. Điểm
8, điều 58 Luật giáo dục 2005 nêu rõ: “Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự
kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng
giáo dục”. Mục đích của kiểm định chất lượng không chỉ đảm bảo cho nhà trường
có trách nhiệm với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động lực cải tiến và nâng
cao chất lượng toàn diện của nhà trường. Hơn nữa, kiểm định chất lượng mang lại
cho cộng đồng, đặc biệt là người học sự đảm bảo chắc chắn rằng nhà trường đã
chứng minh được đáp ứng các yêu cầu và tiêu chí đáng tin cậy và có đủ cơ sở để tin
rằng cơ sở giáo dục này sẽ tiếp tục đạt yêu cầu và tiêu chí đặt ra.
Tự đánh giá (self evalution) là khâu đầu tiên trong tổng thể các hoạt động
kiểm định chất lượng. “Tự đánh giá” có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó chứng tỏ nếu
nhà trường làm được việc này là nhà trường có ý thức và khả năng thực hiện tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của mình trong toàn bộ các hoạt động đào tạo, nghiên
cứu và dịch vụ xã hội theo chức năng mà cấp trên và xã hội giao cho nhà trường.
Mục đích của tự đánh giá là làm rõ thực trạng quy mô chất lượng và hiệu
quả các hoạt động của nhà trường. Xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm
định của Nhà nước đã công bố xem đạt đến mức nào. Xác định rõ tầm nhìn, các
điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ thách thức của nhà trường, đề xuất ra các chiến lược,
kế hoạch, biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng
chung. Đưa ra kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền để chỉ đạo
và cung cấp các nguồn lực, biện pháp hỗ trợ cho nhà trường thực hiện được sứ
mệnh đã đề ra. Đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng, nhận thức, thống nhất hành động
không tách rời sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp. Các nghị quyết
của Đảng, Hội đồng sư phạm là sợi dây thống nhất, là mệnh lệnh hành động. Nhận
thức của cấp chỉ đạo, thái độ với đổi mới giáo dục của nhà quản lý là điều phải hết
sức quan tâm.
Một quan niệm đúng được tiếp tục phát triển là điều bình thường, nhưng
việc thay đổi một quan niệm, một cách làm chưa đúng bằng một quan niệm đúng là
điều rất khó. Một quan niệm được củng cố hay mới hình thành cần một hành động
tương ứng chứng minh. Quan điểm về đổi mới giáo dục, đổi mới hoạt động đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, cần phải được làm thông suốt và triệt để
trong toàn đơn vị, trong ngành để hiểu cho thống nhất. Nếu chỉ hô hào và đòi hỏi
giáo viên phải nghiêm túc thực hiện thì cũng không giải quyết được vấn đề, ví như
muốn việc sử dụng thành thạo các thiết bị dạy học hiện đại vào nhà trường, thì phải
quan tâm bồi dưỡng trình độ sử dụng cho giáo viên.
Công tác tư tưởng thực hiện đổi mới hoạt động đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên, trước hết phải tạo ra phong trào ủng hộ đổi mới đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên; tin tưởng vào biện pháp tổ chức, thực hiện của nhà
trường và ngành giáo dục, cùng với nhà trường và toàn ngành nỗ lực thực hiện các
mục tiêu đổi mới. Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo một cách thực sự
công bằng, khách quan, khoa học. Chấp nhận sự thật, mặc dù chất lượng còn hạn
chế. Ủng hộ và khuyến khích các cá nhân tiên tiến, điển hình, giúp cho giáo viên
ngày càng nâng cao và hoàn thiện nghiệp vụ sư phạm của mình. Đồng thời xây
dựng nhận thức, quan niệm mới làm cơ sở cho đổi mới toàn diện giáo dục. Tạo ra
sức mạnh tổng hợp của tập thể sư phạm nhà trường và các lực lượng ngoài giáo dục,
cùng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
* Cách tiến hành
Chúng tôi tiến hành trao đổi ý kiến với lãnh đạo Phòng Giáo dục & Đào tạo
về mục đích, yêu cầu của luận văn và tính cần thiết cần được trao đổi, mạn đàm với
CBQL ở các trường tiểu học trong huyện và các giáo viên có kinh nghiệm để mở
một chuyên đề riêng về công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên cho tất cả đội ngũ CBQL, các tổ trưởng tổ chuyên môn của các nhà trường
trong huyện. Lựa chọn thời điểm và thời gian hợp lý, cụ thể là tiến hành trong tháng
7, 8 trước khi bước vào năm học mới để các trường thống nhất thực hiện. Trong quá
trình thực hiện chúng tôi nêu ra các nội dung cần trao đổi, đồng thời phát các phiếu
câu hỏi đã chuẩn bị từ trước sau đó hướng dẫn cách trả lời, rồi thu phiếu lại để phân
tích và xử lý số liệu. Đặc biệt, phải chú trọng bồi dưỡng cho họ về cơ sở ý luận của
việc đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, vấn
đề ai đánh giá ai? đánh giá như thế nào? kết quả đánh giá nhằm mục đích gì?
Phân tích các hiện trạng của công tác đánh giá hiện nay để làm cơ sở cho
việc đề ra các biện pháp đổi mới. Qua trao đổi, chúng tôi yêu cầu các cá nhân phát
biểu những suy nghĩ của mình về tầm quan trọng của công tác quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên. Cuối cùng là đưa ra các bài tập trắc nghiệm có
nội dung nhằm đổi mới nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
* Điều kiện thực hiện
Cần được sự ủng hộ mạnh mẽ của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo
Phòng Giáo dục & Đào tạo, đứng ra tổ chức các chương trình, kế hoạch và nội dung
trong các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm và các chuyên đề nhằm nâng cao nhận
thức về tầm quan trọng của việc đánh giá chất lượng giảng dạy.
Lãnh đạo Phòng Giáo dục & Đào tạo phải thường xuyên kiểm tra tính hiệu
quả, tính lý luận và tính thực tiễn, tính khả thi để có những giải pháp thiết thực hơn.
* Kết quả cần đạt
Lãnh đạo nhà trường cần có sự nhận thức đẩy đủ, chính xác về vai trò, ý
nghĩa của công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên trong
việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng và chất lượng giáo dục toàn
diện nói chung. Suy cho cùng, đội ngũ giáo viên (Teaching staff) có vai trò rất quan
trọng cho sự thành bại của sự nghiệp giáo dục. Sản phẩm của họ khác với sản phẩm
của các loại hình lao động khác ở chỗ: sản phẩm này tích hợp cả nhân tố tinh thần
và vật chất, đó là “Nhân cách - sức lao động”. Thành quả lao động của họ vừa tác
động vào hình thái ý thức xã hội (giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc, tình đoàn kết
đồng thuận của đất nước) vừa hình thành sức lao động kỹ thuật, thúc đẩy sự năng
động của đời sống thị trường, ở đây là thị trường sức lao động.
Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Theo tác giả Bùi
Minh Hiền thì: “Một ngày thiếu giáo dục đất nước không thể tồn tại được và giáo
dục không có người thầy không thể vận động được” .[28, tr. 270]
3.2.2. Nhóm biện pháp 2: kế hoạch hoá các hoạt động kiểm tra, đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên cho hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn
các nhà trường trên địa bàn huyện Phú Tân
Cũng như các nước trên thế giới, chất lượng giáo dục là một trong những
mối quan tâm của toàn xã hội và là vấn đề trọng yếu trong chính sách giáo dục của
Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định
rõ: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp giáo dục
phát triển ổn định, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn
nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Chiến lược phát triển giáo
dục Việt Nam 2001 – 2010 cũng khẳng định yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước
về giáo dục cần tập trung làm tốt ba nhiệm vụ chủ yếu: xây dựng chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản
lý nội dung và chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và thanh tra. Đặc biệt chú trọng
trong công tác thanh tra giáo dục và đảm bảo chất lượng giáo dục thông qua việc tổ
chức và chỉ đạo hệ thống kiểm định chất lượng. Báo cáo của Chính phủ về tình hình
giáo dục (10/2004) đặt ra nhiệm vụ “cải tiến công tác quản lý, điều hành, tập trung
vào chức năng quản lý Nhà nước, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng
tâm”. Nghị quyết số 37/2004/QH 11 cũng đặt ra yêu cầu: “Đổi mới toàn diện công
tác quản lý Nhà nước về giáo dục, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng
tâm”.
Xuất phát từ quan niệm về chất lượng đào tạo cũng như các định hướng nêu
trên vừa là các đặc trưng chủ yếu của việc vận dụng các chế độ chính sách giáo dục
& đào tạo vào công tác quản lý giáo dục vừa là những gợi ý cần thiết để người hiệu
trưởng tiểu học lập kế hoạch quản lý hoạt động dạy học và quản lý hoạt động kiểm
tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
* Mục tiêu của biện pháp
Duy trì trật tự, kỷ cương, nền nếp giảng dạy của giáo viên, thích ứng với
tình hình đổi mới giáo dục hiện nay. Thực hiện phân cấp quản lý một cách rõ ràng
cho từng thành viên trong Hội đồng sư phạm. Sử dụng các biện pháp thích hợp
nhằm huy động sức mạnh tập thể của các giáo viên, các tổ chức đoàn thể chính trị
trong nhà trường. Đồng thời đảm bảo tính khách quan, dân chủ, công khai trong
hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
* Nội dung của biện pháp
Hiệu trưởng nắm vững được các giai đoạn của quy trình quản lý hoạt động
kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên trong nhà trường, giai đoạn
chuẩn bị kế hoạch hoá, giai đoạn kế hoạch hoá, giai đoạn tổ chức, giai đoạn chỉ đạo
kiểm tra.
Giai đoạn chuẩn bị kế hoạch hoá hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên: Hiệu trưởng phải thấy rõ được tầm quan trọng của việc phân tích sư
phạm các thông tin ở trạng thái xuất phát. Nó là cơ sở để hiệu trưởng nêu ra hướng
phát triển cơ bản trong hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Giai đoạn kế hoạch hoá hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên giúp cho hiệu trưởng điều khiển hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng
dạy một cách toàn diện, thường xuyên, liên tục, có trọng tâm và đạt hiệu quả cao.
Các kế hoạch quản lý hoạt động đánh giá ở trường tiểu học bao gồm: kế hoạch theo
thời gian: kế hoạch năm học, kế hoạch từng học kỳ, từng tháng và từng tuần; kế
hoạch theo nội dung cấp bậc, các chức danh cá nhân, kế hoạch các tổ chuyên môn,
các đoàn thể chính trị trong nhà trường . . .
Giai đoạn tổ chức và chỉ đạo: căn cứ vào kết quả và thành tích của các năm
học trước, hiệu trưởng lập chương trình quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên một cách cụ thể. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi để
bổ sung và điều chỉnh kế hoạch cho sát với thực tế của nhà trường. Tiến hành chỉ
đạo điểm. Thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua thực hiện kế hoạch. Có
biễu mẫu để theo dõi kết quả hoạt động giảng dạy của từng giáo viên.
Giai đoạn kiểm tra: Kiểm tra đủ các nội dung và quy trình đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên. Xây dựng được các chuẩn đánh giá và thang đo cụ
thể cho các nội dung hoạt động đánh giá. Sử dụng nhiều hình thức kiểm tra khác
nhau và các phương pháp kiểm tra một cách linh hoạt mềm dẻo, sáng tạo, kịp thời,
đúng đối tượng. Thực hiện dân chủ khách quan trong đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên. Đảm bảo các nguyên tắc và yêu cầu của đánh giá, thực hiện theo kế
hoạch đề ra.
* Các thức tiến hành
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch quy định quản lý hoạt động đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên và tổ chức thực hiện quy định đó trong cả một năm
học. Kế hoạch tuần, tháng, học kỳ và cả năm được phân cấp quản lý một cách rõ
ràng cho từng thành viên trong hội đồng theo phương thức tự chịu trách nhiệm với
công việc được giao. Nội dung đánh giá, quy trình đánh giá, tiêu chuẩn và thang đo
được đưa ra bàn bạc dân chủ, công khai đóng góp ý kiến và thống nhất thực hiện,
từng tháng và từng đợt thi đua được tiến hành sơ kết, rút kinh nghiệm để kịp thời
phát hiện những khó khăn, mâu thuẫn trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Cuối năm
học thì có thể tiến hành trưng cầu ý kiến của tập thể sư phạm xem xét kết quả thực
hiện đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên như
vậy để đảm bảo chính xác, khách quan chưa? những mặt nào còn hạn chế để tìm ra
cách giải quyết và hoàn thiện dần trong những năm học tiếp theo.
Ban giám hiệu nhà trường hướng dẫn các tổ chuyên môn và giáo viên dựa
vào kế hoạch nhà trường để lập kế hoạch cho tổ mình và kế hoạch cá nhân trên cơ
sở bám sát thực trạng và năng lực hiện có của nhà trường và của đội ngũ giáo viên.
Đồng thời biết tập trung sức mạnh tập thể để giải quyết tốt những khâu cơ bản và
khâu yếu về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của giáo viên cũng như biết lựa chọn
các biện pháp tối ưu để thực hiện kế hoạch đã đề ra. Song song đó cần có sự sắp
xếp, lựa chọn giáo viên giảng dạy dựa trên năng lực cụ thể của từng giáo viên, nhằm
hoàn thành tốt các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Quản lý tốt nội dung, chương
trình và kế hoạch giảng dạy của giáo viên. Thường xuyên trao đổi với giáo viên về
kết quả dạy học các bộ môn, đặc biệt là các môn năng khiếu. Người cán bộ quản lí
trường học phải có những quyết định đúng đắn, đạt hiệu quả khi giải quyết các tình
huống quản lý. Giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện nhiệm vụ để điều chỉnh, uốn
nắn kịp thời những vi phạm về quy chế chuyên môn cũng như khen thưởng và động
viên kịp thời những cá nhân tiên tiến, điển hình của nhà trường, đồng thời có thái độ
cứng rắn với những cá nhân có tư tưởng bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới. Thường
xuyên cải tiến, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên, khuyến khích giáo viên tìm tòi, nghiên cứu và đổi
mới phương pháp dạy học. Nâng cao nhận thức của giáo viên, học sinh và cộng
đồng dân cư về việc quán triệt mục đích, nội dung về đổi mới phương pháp giảng
dạy. Biết phối hợp và huy động các lực lượng xã hội cùng chung sức thực hiện đổi
mới mục tiêu giáo dục đã đặt ra. Không ngừng nâng cao trách nhiệm của cán bộ
quản lí, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên để giám sát việc thi hành các biện pháp
quản lí hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Trọng tâm là quan
sát các khâu soạn bài, chuẩn bị đồ dùng lên lớp, chấm, chữa bài đúng thời gian,
đúng quy định; thao giảng theo kế hoạch và dự giờ đột xuất, quản lý tốt việc ra đề
kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của học sinh đối với từng bộ môn.
* Điều kiện thực hiện
Hiệu trưởng cần xây dựng một quy trình quản lý khoa học, nắm vững được
các giai đoạn của quy trình quản lý hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên trong nhà trường.
* Kết quả đạt được
Người hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn phải có đủ kiến thức, kỹ năng
và tâm thế tổ chức hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên trong nhà
trường một cách có hiệu quả, đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
3.2.3. Nhóm biện pháp 3: Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo
trong đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho cán bộ quản lý các
trường tiểu học huyện Phú Tân
Để nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, cần phải tiến hành đồng bộ
hệ thống các biện pháp từ quy hoạch mạng lưới trường, lớp học đến đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên, tăng cường các điều kiện phục vụ cho dạy học, đổi
mới phương pháp quản lý, phương pháp đánh giá . . . Ngoài ra, cần có sự tham gia
của nhiều cấp, nhiều ngành trong và ngoài giáo dục, mới đảm bảo thực hiện thắng
lợi mục tiêu giáo dục trong tình hình hiện nay. Vì thế việc xây dựng được các tiêu
chí, tiêu chuẩn và thang đo chất lượng giảng dạy của giáo viên là công việc rất quan
trọng giúp cho các nhà quản lý giáo dục nắm bắt được thực trạng đội ngũ giáo viên
một cách đẩy đủ và chính xác để có những giải pháp cải thiện chất lượng đội ngũ
giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo xu thế hội nhập hiện nay.
* Mục tiêu của biện pháp
Đưa ra được những căn cứ xác định chất lượng giảng dạy của giáo viên ở
các trường tiểu học. Đổi mới một số nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên, dựa trên cơ sở chuẩn đánh giá chung của Bộ Giáo dục & Đào tạo quy
định, nhằm khắc phục các hiện trạng đánh giá cũ không còn phù hợp với tình hình
giáo dục hiện nay. Tăng cường trang bị các kiến thức mang tính công cụ cho CBQL
và giáo viên các nhà trường về quy trình, cách thức đánh giá sao cho đồng bộ, phù
hợp với đặc trưng của trường tiểu học.
* Nội dung của biện pháp
Điều tra khảo sát công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân. Đối với huyện Phú Tân
hiện nay cơ bản đã đảm bảo về số lượng giáo viên đứng lớp, song còn chưa đồng bộ
về cơ cấu và trình độ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với huyện là chất lượng đội ngũ
CBQL và giáo viên. Vì vậy, điều tra khảo sát đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên
tiểu học là rất cần thiết để có cơ sở quy hoạch đội ngũ, xây dựng mạng lưới cốt cán
làm nồng cốt, đào tạo bồi dưỡng và đào tạo lại.
Trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước cũng đã có những Chỉ thị, Nghị
định liên quan đến phát triển giáo dục như : Chỉ thị 18/2001/TTg của Thủ tướng
Chính phủ; Nghị định 35/2001/NĐ-CP, Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư với ý nghĩa
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển giáo dục thời
kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó, việc điều tra, đánh giá chất lượng giảng dạy cần tiến
hành như sau: Nghiên cứu hồ sơ cá nhân. Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên thông qua kết quả cụ thể xếp loại hàng năm của trường, của Phòng Giáo dục &
Đào tạo. Đặc biệt thông qua các đợt thanh tra, kiểm tra chuyên đề, toàn diện, thanh
tra định kỳ của Sở Giáo dục & Đào tạo, Phòng Giáo dục & Đào tạo đối với nhà
trường. Tổng hợp kết quả khảo sát đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên của từng
trường về năng lực chuyên môn. Tổ chức các buổi tọa đàm, chuyên đề với cán bộ,
chuyên viên phòng GD&ĐT, một số hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên môn và một
số giáo viên có kinh nghiệm và uy tính trong ngành giáo dục của huyện để chúng tôi
đưa ra những cơ sở lý luận của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Đồng thời nêu lên những mặt mạnh, mặt còn hạn chế trong công tác quản lý việc
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trong huyện hiện
nay. Tập trung chú ý việc trưng cầu ý kiến của các hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên
môn và một số giáo viên có uy tín và kinh nghiệm ở các nhà trường về các tiêu chí,
tiêu chuẩn và thang đo mà chúng tôi dự định sẽ tiến hành trong năm học mới nhằm
đáp ứng sự đổi mới giáo dục hiện nay, các điều kiện về nguồn lực và điều kiện thực
thi nhiệm vụ hiện có của các trường tiểu học trong huyện.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Dựa trên những quy định chung của ngành giáo dục & đào tạo về các tiêu
chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, chúng tôi nhận thấy rằng, nếu tiến
hành đổi mới một số tiêu chí đánh giá trước đây đã áp dụng, sẽ giúp cho việc đánh
giá liên tục, xác thực tế và phù hợp hơn trong điều kiện tình hình hiện nay.
* Tiêu chí 1: Đổi mới phương thức đánh giá kết quả dạy học.
Trước hết là đổi mới việc tổ chức kiểm tra định kỳ ở các khâu ra đề kiểm tra,
coi kiểm tra trên lớp và chấm bài kiểm tra.
Trước đây, tất cả các đề kiểm tra theo phân phối chương trình đều do giáo
viên phụ trách khối lớp đó tự ra đề và được Ban giám hiệu ký duyệt, sau đó giáo
viên tự coi thi và chấm thi. Nhưng trong tình hình đổi mới giáo dục hiện nay, Sở
giáo dục & đào tạo tỉnh Cà Mau quy định đối với các bài kiểm tra ở tất cả các bộ
môn như sau: Trong một bài kiểm tra thì phần trắc nghiệm khách quan (test
objective) phải chiếm tỷ lệ từ 30 – 40%, còn lại phần tự luận. Do đó, nhiều lãnh đạo
và giáo viên các trường còn rất mơ hồ và lúng túng khi phải ra đề kiểm tra vừa tự
luận và trắc nghiệm khách quan. Từ cơ sở đó, chúng tôi xin đề xuất cách làm mới
như sau:
Công việc Cách làm truyền thống Cách làm mới
Ra đề kiểm tra Giáo viên tự ra đề, sau đó duyệt đề với Ban giám hiệu
Coi kiểm tra Giáo viên dạy lớp nào thì coi kiểm tra ở lớp đó
Chấm bài kiểm tra Giáo viên dạy lớp nào thì chấm bài lên điểm ở lớp đó Tất cả giáo viên tham gia giảng dạy ở các khối lớp đều phải ra đề kiểm tra, sau đó nộp về Phòng GD&ĐT, Phòng GD&ĐT mời các giáo viên có năng lực, kinh nghiệm chuyên môn vững vàng ở các khối lớp tập hợp thành “Ngân hàng đề kiểm tra” chung của toàn huyện, sau đó gửi lại cho các trường. Tại nhà trường, Ban giám hiệu có thể rút đề kiểm tra theo hình thức chẵn, lẽ rồi giao cho giáo viên thực hiện. Bố trí giáo viên coi kiểm tra chéo (giáo viên dạy lớp này coi kiểm tra ở lớp khác). Bố trí giáo viên chấm chéo (giáo viên dạy lớp này chấm bài ở lớp khác, theo thang điểm của từng đáp án đã cho trước).
Với cách làm này giúp cho lãnh đạo các trường và giáo viên có được nhiều
thông tin và sự lựa chọn câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo đúng nghĩa của nó.
Một giáo viên hay ở một trường không thể làm tốt được ngân hàng đề kiểm tra. Hơn
nữa, chất lượng các bài kiểm tra sẽ khách quan, công bằng, trung thực, chính xác
hơn trước, từng bước góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất
lượng giảng dạy của giáo viên nói riêng trong tình hình đổi mới giáo dục hiện nay.
* Tiêu chí 2: Đổi mới cách đánh giá, xếp loại giờ thao giảng (dự giờ) tại
nhà trường
Ở trường tiểu học thì thao giảng và dự giờ của giáo viên là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Nếu xếp loại
giờ dạy theo phiếu đánh giá, xếp loại giờ dạy như trước đây thì các yêu cầu của một
tiết dạy là rất chung chung, nên rất khó trong việc xác định nội dung và yêu cầu
đánh giá xếp loại giờ dạy. Vì thế đây là những cơ sở, căn cứ để chúng tôi đề xuất
phiếu đánh giá xếp loại giờ dạy mới giúp cho CBQL giáo dục và giáo viên dễ hiểu,
tiện lợi cho việc đánh giá, xếp loại giờ dạy đồng nghiệp và phù hợp với đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy hiện nay. Chúng tôi tiến hành hai giải pháp sau:
Thứ nhất, thay đổi phiếu đánh giá, xếp loại giờ dạy ( Phiếu đánh giá tiết dạy
ở cấp tiểu học đã thay đổi, được trình bày ở phụ lục 6).
Với phiếu đánh giá này giúp cho cán bộ quản lý và giáo viên trong nhà
trường khi tham gia dự giờ đồng nghiệp, có cái nhìn tổng quát hơn về mục tiêu,
phương pháp, phương tiện và cách thức tổ chức hoạt động dạy và học của thầy và
trò. Không cần phải cho nhận xét, đánh giá về thực hiện yêu cầu của tiết dạy;
phương pháp dạy học, hiệu quả của tiết dạy so với phiếu đánh giá tiết dạy trước
đây, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để ghi nhận xét đánh giá mang tính khái
quát rất cao. Vì là định tính nên giáo viên không đánh giá được những ưu khuyết
điểm cụ thể, chính xác ở các tiêu chí cho điểm mà chúng tôi đề xuất. Thứ hai, thay
đổi cách dự giờ và quy định thành phần dự giờ đảm bảo tính pháp lý và tính khách
quan cao hơn trước đây.
Trên cơ sở đó, Ban giám hiệu sẽ chọn thời điểm thích hợp để tiến hành dự
giờ của bất kỳ giáo viên nào, chỉ cần thông báo cho giáo viên biết trước một ngày,
sau đó thành lập tổ dự giờ. Thành phần gồm đại diện Ban giám hiệu, tổ trưởng tổ
chuyên môn và ít nhất một giáo viên trong tổ để việc đánh giá, xếp loại tiết dạy
khách quan hơn.
* Tiêu chí 3: Đổi mới cách đánh giá, xếp loại giáo án, hồ sơ, sổ sách.
Giáo án thể hiện sự chuẩn bị toàn bộ các hoạt động trên lớp của giáo viên:
tiến trình bài dạy, nội dung, phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học . . . Vì
vậy cách kiểm tra xếp loại giáo án, hồ sơ sổ sách của giáo viên giúp cho các nhà
quản lý có những thông tin quan trọng trong việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên một cách khách quan hơn, chính xác hơn và công bằng hơn. Do đó phải
kết hợp tốt giữa kiểm tra, đánh giá và xếp loại ở nhà trường, cần phải thực hiện
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong hội đồng nhà trường: hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn làm những công việc gì, thời
gian; cách thức tiến hành, kết quả của quá trình kiểm tra, đánh giá được công bố ra
sao để mọi thành viên trong hội đồng nắm bắt được tình hình của nhà trường. Từ đó
có những biện pháp khắc phục kịp thời những hạn chế và nhược điểm của lần kiểm
tra trước, khắc phục tình trạng kiểm tra mà không có đánh giá, hoặc chỉ đánh giá
qua loa, xong rồi đâu lại vào đó . . . Vì vậy, xây dựng tiêu chí đánh giá, xêp loại
giáo án, hồ sơ sổ sách là việc hết sức quan trọng của lãnh đạo các nhà trường trong
việc thống nhất thực hiện. Việc kiểm tra đánh giá được quy định như sau:
Phải đưa ra được yêu cầu chất lượng của một giáo án, của một tiết dạy. Phải
có ngày tháng soạn, số tiết theo phân phối chương trình, một giáo án/giờ dạy phải
thể hiện rõ các bước lên lớp, xây dựng đủ kiến thức và kỹ năng cơ bản, có liên hệ
với thực tế, nêu cụ thể công việc trên lớp của thầy và trò. Các loại sổ điểm phải có
đầy đủ số điểm theo quy định, sạch sẽ, không tẩy xoá, cấy điểm . . . Số lần kiểm tra,
đánh giá, xếp loại giáo án, hồ sơ sổ sách phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ
vào cuối mỗi tháng (1lần/tháng). Trên cơ sở đó cần tiến hành kiểm tra chéo giáo án
và sổ sách giữa các giáo viên trong cùng một tổ. Sau đó Ban giám hiệu mới tiến
hành kiểm tra, đánh giá xếp loại cuối cùng. Kết quả kiểm tra, đánh giá phải được
công bố ngay sau khi kiểm ra, đánh giá, có nhận xét ưu, khuyết điểm bằng văn bản.
Lập bảng theo dõi chất lượng giáo án, hồ sơ sổ sách của giáo viên do phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn của nhà trường quản lý, bảng này phải được treo công
khai tại phòng hội đồng sư phạm là nơi diễn ra các buổi sinh hoạt chuyên môn, để
mọi người biết và tham khảo.
* Tiêu chí 4: Quản lý việc đăng ký và thực hiện đề tài sáng kiến kinh
nghiệm.
Để tìm những kinh nghiệm hay được hình thành trong quá trình giảng dạy,
khắc phục việc viết sáng kiến kinh nghiệm chỉ để lấy lệ, cốt yếu là đủ các tiêu chuẩn
xếp loại giáo viên giỏi, còn viết như thế nào, nhằm mục đích gì thì không ai quan
tâm. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá và xếp loại sáng kiến kinh nghiệm như sau:
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm phải được đăng ký ngay từ đầu năm học, lựa
chọn tên đề tài phù hợp với đặc trưng bộ môn và điều kiện hực hiện, phải viết đề
cương nghiên cứu một cách nghiêm túc, để Ban giám hiệu theo dõi và kiểm tra việc
thực hiện đề tài và đề tài phải thực sự là nội dung mà giáo viên đã thực hiện trong
năm học. Yêu cầu đề tài phải đưa ra được những điểm mới, chưa có ai làm, mục
đích nghiên cứu rõ ràng, kết quả nghiên cứu phản ánh đúng thực trạng mà giáo viên
đã tiến hành. Cuối năm học thì thành lập hội đồng chấm, bình xét tính khả thi và
mức độ thực hiện của đề tài, sau đó công bố kết quả. Nếu đề tài được xếp loại cao
thì tiến hành thực nghiệm sư phạm để nhân rộng mô hình.
Tiêu chuẩn chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học được quy định
như sau: Có uy tính với đồng nghiệp và học sinh về chuyên môn. Thực hiện đầy
đủ, có chất lượng kế hoạch giảng dạy. Có sáng kiến kinh nghiệm giảng dạy được
tập thể sư phạm nhà trường xác nhận. Có số tiết lên lớp đầy đủ, có chất lượng, giờ
dạy đạt loại khá trở lên. Có kế hoạch tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
Chất lượng các môn phụ trách đạt chỉ tiêu quy định. Giáo viên giỏi chia
thành ba cấp độ: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp trường. Còn lại là hoàn thành nhiệm vụ
và không hoàn thành nhiệm vụ.
Thang đo (cách tính điểm cho mỗi tiêu chí)
Thang đo phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, dân chủ, công khai, liên
tục, hệ thống. Vì vậy, việc quy định thang điểm cho các tiêu chí như sau:
Tiêu chí 1: Ngày giờ công.
Ngày công A ( cộng 5 điểm) phải đạt các tiêu chí sau: Trong một đợt thi
đánh giá giáo viên không nghỉ buổi nào, không ra sớm, vào muộn quá 5 phút.
Ngày công B (cộng 3 điểm). Trong một đợt thi đua giáo viên nghỉ một
buổi không có lý do, không bàn giao chuyên môn cho tổ trưởng, hoặc giáo viên
nghỉ 3 ngày về việc riêng hay từ 3 ngày đến 7 ngày có giấy nghỉ bệnh của bệnh viện
từ tuyến huyện trở lên đề nghị.
Ngày công C ( 0 điểm) Trong một đợt thi đua giáo viên nghỉ quá 7 ngày,
kể có có giấy nghỉ bệnh của bệnh viện.
Tiêu chí 2: Giáo án-sổ sách.
Loại A (cộng 5 điểm) giáo án, sổ sách phải đạt các tiêu chí sau: Soạn
sạch sẽ, có đủ ngày tháng soạn. Nội dung giáo án phải thể hiện đầy đủ các yêu cầu
sau: Mục tiêu bài dạy phải rõ ràng, vừa sức, phù hợp với đặc trưng về kiến thức, kỹ
năng và thái độ, có đủ các bước lên lớp, sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Hệ
thống câu hỏi đặc ra phải phù hợp với mọi đối tượng học sinh; hệ thống câu hỏi
phải vận dụng kiến thức thực tiễn vào bài dạy làm cho nội dung bài dạy thêm phong
phú, kết hợp hài hoà các phương pháp giảng dạy. Các loại sổ ghi tên ghi điểm phải
sạch sẽ không tẩy xoá, có đủ số điểm theo phân phối chương trình.
Loại B (cộng 3 điểm) giáo án, sổ sách có đủ ngày tháng soạn, nhưng còn
sơ sài, hệ hống câu hỏi ít phong phú, không sát đối tượng học sinh.
Loại C (0 điểm) giáo án, sổ sách không có ngày tháng soạn, soạn thiếu
nội dung kiến thức, sơ sài, hệ thống câu hỏi có tính vụn vặt…
Tiêu chí 3: Thao giảng hoặc kết quả dự giờ của cơ quan cấp trên.
Kết quả thao giảng ở trường được quy định như sau: Giờ xếp loại tốt: cộng
5 điểm. Giờ xếp loại khá: cộng 3 điểm. Giờ xếp loại trung bình: cộng 1 điểm. Giờ
xếp loại kém: không điểm.
Kết quả dự giờ của cơ quan cấp trên: Giờ xếp loại tốt: cộng 7 điểm. Giờ xếp
loại khá: cộng 5 điểm. Giờ xếp loại trung bình: cộng 3 điểm. Giờ xếp loại kém:
không điểm. Nếu giáo viên được cử đi thi giáo viên giỏi cấp huyện đạt loại giỏi thì
được cộng 7 điểm, thi cấp tỉnh và đạt giải khuyếnh khích trở lên thì được cộng 10
điểm.
* Lưu ý: Trong một đợt thi đua mà giáo viên đạt nhiều nội dung trên thì chỉ
lấy số điểm cao nhất.
Tiêu chí 4: Chất lượng:
Lấy kết quả học lực của học sinh học kỳ 1, học kỳ 2 và cả năm.
Loại A: Cộng 5 điểm, đồng thời phải đạt các yêu cầu sau: Tỷ lệ học sinh
xếp loại học lực từ trung bình trở lên đạt 95% trở lên, trong đó: loại giỏi 15%, loại
khá 40%, loại trung bình 43%, loại yếu 2%.
Loại B: Cộng 3 điểm, tỷ lệ học sinh xếp loại học lực từ trung bình trở lên
chỉ đạt 90% trở lên.
Loại C: không điểm, tỷ lệ học sinh xếp loại học lực từ trung bình trở lên
đạt dưới 90% mà giáo viên không có biện pháp khắc phục kịp thời.
Tiêu chí 5: Chủ nhiệm và công tác khác
Loại A: cộng 5 điểm, giáo viên có những biện pháp hữu hiệu trong việc
nâng cao tinh thần đoàn kết của tập thể lớp, đưa phong trào thi đua của lớp đạt kết
quả cao so với ban đầu (đầu năm), chú ý đến việc giáo dục đối tượng học sinh chưa
ngoan. Có uy tính với đồng nghiệp và học sinh, luôn đi đầu trong việc chấp hành
mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của ngành quy
định.
Loại B: Cộng 3 điểm, giáo viên chỉ thực hiện các nội dung thi đua do nhà
trường đề ra, Liên đội phát động nhưng kết quả chưa cao.
Loại C: không điểm, giáo viên không tham gia các phong trào thi đua do
nhà trường phát động hoặc tham gia có tính chất đối phó.
* Nhằm đảm bảo thực hiện tốt quy chế dân chủ và sức mạnh của tập thể đội
ngũ giáo viên thì các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo chất lượng giảng dạy của giáo
viên phải được thông qua Hội nghị công nhân viên chức ngay từ đầu năm học,
nhằm để lấy ý kiến dân chủ về quy định thang điểm sẽ được áp dụng trong năm học,
giáo viên sẽ tự nhận xét đánh giá kết quả thực hiện các tiêu chí. Cuối cùng thông
qua Hội nghị liên tịch để thẩm định lại kết quả thực hiện của giáo viên.
* Lập bảng theo dõi thực hiện các tiêu chí chất lượng giảng dạy của giáo
viên như sau:
Bảng 3.1. Bảng theo dõi kết quả thực hiện các tiêu chí chất lượng giảng dạy
của giáo viên.
TT Tổng điểm Xếp loại Họ và tên giáo viên Chất lượng Thao giảng Giáo án, sổ sách Ngày giờ công Sáng kiến kinh nghiệm Kết quả thực hiện các tiêu chí Chủ nhiệm và công tác khác
Lưu ý: Số điểm của mỗi giáo viên phải được phân tích cụ thể về nguyên
nhân, lý do đạt các tiêu chí . . .
* Điều kiện thực hiện
Các tiêu chí, tiêu chuẩn và thang đo phải được thống nhất chung trong toàn
huyện để CBQL và giáo viên ở các trường tiểu học thực hiện, được lấy ý kiến dân
chủ, công khai của CBQL và giáo viên về hình thức, nội dung, quy trình đánh giá
và lực lượng tham gia đánh giá trong một năm học. Kết quả đánh giá, xếp loại giáo
viên phải được thực hiện công khai, rõ ràng. Đồng thời phải có chế độ khen thưởng
kịp thời các cá nhân điển hình, đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua dạy
tốt - học tốt.
* Kết quả cần đạt
Cán bộ quản lý và giáo viên các trường tiểu học cần hiểu rõ ý nghĩa quan
trọng của việc xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo đánh giá xếp loại giáo
viên. Thực sự coi các tiêu chí đó là sợi dây xuyên suốt trong việc thực hiện nâng
cao chất lượng dạy và học, góp phần cho công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay đạt
hiệu quả tốt nhất.
3.2.4. Nhóm biện pháp 4: Xây dựng quy trình đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên tiểu học
Đánh giá khách quan, toàn diện chất lượng hoạt động sư phạm của giáo viên
để tư vấn biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giảng dạy; đôn đốc việc tuân thủ
quy chế chuyên môn. Xác định một trong những căn cứ quan trọng để quyết định
việc bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng và đãi ngộ giáo viên một cách hợp lý.
Hoạt động đánh giá phải đạt hai yêu cầu về kiểm tra, đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên đối chiếu với quy định của chương trình, nội dung, phương
pháp và kế hoạch giảng dạy. Đồng thời xem xét hoạt động của giáo viên, phát hiện
tiềm năng, hạn chế yếu kém, giúp phát triển các khả năng, sở trường vốn có và khắc
phục hạn chế, thiếu sót.
* Mục tiêu của biện pháp :
Nhằm đưa ra được các bước đánh giá một cách khách quan. Đồng thời xác
định minh chứng tức là chỉ ra được các dấu hiệu có thể nhận biết hoặc quan sát,
hoặc đo đếm được qua một nhận thức hay một hoạt động giáo dục, giảng dạy mà
giáo viên đã thực hiện để đạt tiêu chí của chuẩn. Từ đó cho phép xác định mức độ
đạt được ở mỗi tiêu chí để tổng hợp thành kết quả của yêu cầu và lĩnh vực. Trong
trường hợp cụ thể cần có cách nhìn khái quát kết hợp phiếu đánh giá định lượng với
đánh giá định tính các dữ kiện, các sự kiện quan sát được để đưa ra quyết định đúng
góp phần giúp giáo viên nâng cao năng lực nghề nghiệp. Các thông tin thu được về :
trình độ nghiệp vụ sư phạm, việc thực hiện quy chế, quy định chuyên môn, kết quả
giảng dạy, việc thực hiện các nhiệm vụ khác. Trong đó, trình độ nghiệp vụ sư phạm
đòi hỏi: nắm yêu cầu của chương trình, nội dung giảng dạy, nắm kiến thức, kỹ năng
cần xây dựng cho học sinh, khả năng vận dụng phương pháp giảng dạy. Việc thực
hiện quy chế, quy định chuyên môn, thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy,
giáo dục. Việc soạn bài, chuẩn bị bài theo quy định. Việc kiểm tra và chấm bài theo
quy định. Tham gia sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn. Bảo đảm thực hành thí nghiệm.
Bảo đảm các hồ sơ chuyên môn. Tự bồi dưỡng và tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ.
Thực hiện quy định về dạy thêm, học thêm. Cùng với kết quả giảng dạy (lưu ý: có
môn học không cho điểm, chỉ đánh giá kết quả học tập bằng nhận xét) và việc thực
hiện các nhiệm vụ khác (nếu có).
* Nội dung của biện pháp
Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên bằng cách đối chiếu với các
văn bản pháp quy, có tính đến đối tượng giáo viên, đối tượng học sinh và bối cảnh
cụ thể. Việc đánh giá thiên về chất lượng hơn số lượng. Đánh giá ai hoặc cái gì là
đưa ra hay đề xuất một sự ước lượng hoặc đánh giá. Các hệ thống quy chiếu được
xây dựng dần dần ngay cả trong quá trình đánh giá. Vì vậy, những yếu tố quy chiếu
cũng không nằm ngoài mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, cũng không xuất
hiện trước như những tiêu chuẩn cần trong thao tác kiểm tra. Nghiên cứu các chuẩn
đánh giá và xác định tiêu chí. Nghiên cứu các hồ sơ thanh tra trước đó (chú ý đến
lần thanh tra gần nhất). Phân tích định tính và định lượng các dữ kiện, các sự kiện
quan sát được (không chỉ giới hạn ở giờ dạy), và các thông tin thu thập được về:
trình độ chuyên môn (nội dung giảng dạy, phương pháp, phong thái...). Thực hiện
quy chế chuyên môn (soạn giáo án, thực hiện chương trình, hồ sơ chuyên môn cá
nhân, kiểm tra và chấm điểm, thực hành thí nghiệm, bồi dưỡng...). Thực hiện nhiệm
vụ giáo dục khác và kết quả học tập của học sinh.
* Cách tiến hành
Xác định mục đích đánh giá. Lập một bản ghi nhận chính xác, thực tế, xuất
phát từ những thông tin đáng tin cậy và xác thực và đối chiếu với khung chuẩn, nêu
bật các ưu điểm, nhược điểm và các vấn đề tồn tại, để đánh giá các nguy cơ nảy
sinh từ các vấn đề được ghi nhận. Đồng thời chuẩn đoán những nguyên nhân gây
rối loạn chức năng thông qua các sự kiện (phương pháp quy nạp) và nêu những đề
xuất và kiến nghị cho những người thực hiện để tránh hoàn toàn hay một phần
những vấn đề và nguy cơ có thể nảy sinh. Cuối cùng là tổng hợp kết quả và các đề
xuất và theo dõi hiệu quả của việc thực hiện các đề xuất, phân tích và xử lý thông
tin, hình thành các nhận định. Từ cơ sở đó, làm báo cáo kết quả đánh giá. Bản báo
cáo cần tổng hợp thông tin, không sa vào các chi tiết. Chọn các yếu tố chủ yếu làm
căn cứ cho việc đánh giá và cơ sở cho các kiến nghị.
* Điều kiện thực hiện
Các cán bộ quản lý ở các trường phải có kế hoạch chi tiết cụ thể từng tháng,
từng học kỳ. Khuyến khích giáo viên tự đánh giá là chính, xây dựng một môi
trường thân thiện, dân chủ và thật sự tôn trọng lẫn nhau trong quá trình đánh giá.
Đặc biệt quy trình đánh giá phải được thực hiện đúng từng bước, từng khâu trong
quá trình thực hiện, không chủ quan mà bỏ qua bất kỳ một bước nào trong quá trình
đánh giá.
* Kết quả cần đạt
Ban lãnh đạo nhà trường (gồm Ban giám hiệu, Chi bộ Đảng, Công đoàn,
Đoàn thanh niên, Tổ trưởng, Tổng phụ trách) tổ chức đánh giá với mục tiêu để giúp
đỡ mỗi thành viên trong tập thể sư phạm phấn đấu tốt hơn ở các lĩnh vực của chuẩn
đề ra. Cả giáo viên cũng như Ban lãnh đạo cần đưa ra những minh chứng về những
việc làm tốt cũng như chưa tốt của giáo viên ở một yêu cầu hoặc một tiêu chí. Việc
làm này nhằm đánh giá đúng đối tượng, đúng thực lực đội ngũ hiện có của nhà
trường để báo cáo cấp trên, công khai kết quả đánh giá. Phải tôn trọng sự thật, dù
chất chất lượng đội ngũ còn yếu kém, bất cấp.
3.2.5. Nhóm biện pháp 5: Xây dựng lực lượng đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên
Lực lượng tham gia đánh giá quyết định đến chất lượng đánh giá, vấn đề ai
đánh giá? Đánh giá như thế nào? nhằm mục đích gì? phải được nhận thức đầy đủ về
ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Nếu những người tham gia đánh giá có uy tính,
có chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cao, có lương tâm và trách nhiệm với công việc
thì hiệu quả đánh giá sẽ cao, sẽ thúc đẩy được sự phát triển của nhà trường. Ngược
lại lực lượng tham gia đánh giá quá mỏng, yếu về phẩm chất và năng lực chuyên
môn thì hiệu quả đánh giá sẽ thấp và phản tác dụng.
* Mục tiêu của biện pháp
Xây dựng lực lượng đánh giá đồng bộ về cơ cấu đảm bảo về chất lượng, số
lượng người tham gia đánh giá, sẽ đem lại kết quả đánh giá có độ tin cậy cao. Từ đó
hình thành những thẩm định về chất lượng đội ngũ giáo viên, tư vấn cho các nhà
quản lý hoạch định chính sách bồi dưỡng, luân chuyển, đào tạo và đào tạo lại, có
chính sách, chế độ đãi ngộ thõa đáng cho đội ngũ lực lượng đánh giá.
* Nội dung của biện pháp
Xây dựng thành phần tham gia đánh giá, xếp loại giờ dạy của giáo viên tiểu
học. Chú trọng việc khai thác và xử lý thông tin trong quá trình đánh giá, để đem lại
kết quả cao hơn. Đồng thời đưa ra được những mục đích, yêu cầu của mỗi cấp độ
đánh giá. Trách nhiệm của mỗi thành viên tham gia đánh giá.
* Cách thức tiến hành
Việc xây dựng lực lượng tham gia đánh giá phải phù hợp với từng loại hình
đánh giá: đánh giá trong hay đánh giá ngoài.
Đối với đánh giá ngoài: Sự trợ giúp bên ngoài sẽ không có hiệu quả nếu chỉ
dừng lại ở việc cung cấp tài liệu không thôi. Việc cử các đoàn thẩm định đánh giá
đồng nghiệp xuống trường là phần công việc của đảm bảo chất lượng. Đoàn kiểm
tra, thanh tra không chỉ trao đổi với các nhà quản lý mà còn gặp gỡ giáo viên và học
sinh của nhà trường. Hoạt động kiểm tra, thanh tra sẽ đạt kết quả hơn nếu tạo được
bầu không khí cởi mở, trong quá trình làm việc, báo cáo tự đánh giá của nhà trường
sẽ được so sánh và phân tích bằng sự kiện và ý kiến cụ thể. Đánh giá ngoài kết thúc
bằng những kết luận công khai kết quả thanh tra toàn diện, thanh tra từng mặt giáo
dục và đặc biệt là kết quả đánh giá, xếp loại giờ dạy của giáo viên.
Đối với đánh giá trong (tự đánh giá): Thành phần tham gia phải có ít nhất
một đại diện của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn và giáo viên trong tổ (ba thành
phần) thì việc đánh giá mới đảm bảo tính khách quan và công bằng. Không nên giao
khoán cho tổ chuyên môn tất cả, bởi nếu chỉ có 1 – 2 giáo viên dự giờ họ dễ thông
cảm với nhau về các lỗi trong tiết dạy, đặc biệt là họ chỉ đánh giá qua loa, nên kết
quả xếp loại giờ dạy thiếu khách quan và công bằng.
Ngoài hai hình thức đánh giá trên cũng cần khuyến khích tự đánh giá. Bởi vì
chất lượng chỉ được đảm bảo một cách chắc chắn nhất bởi các hoạt động của chính
các trường tiểu học. Cơ sở quan trọng của các hoạt động đó là tự đánh giá, vì tự
đánh giá sẽ giúp nhà tường tự tin và mạnh dạn trình bày ý kiến, quan điểm cũng như
những minh chứng về sự phấn đấu của họ. Thanh tra và kiểm soát chất lượng áp đặt
từ bên ngoài không có tác dụng trong đảm bảo chất lượng. Thế nhưng nếu thiếu ba
sự hỗ trợ từ bên ngoài thì quá trình tự đánh giá không thể tiến hành tốt được. Sự hỗ
trợ thứ nhất là các cơ quan kiểm định, thẩm định, thanh tra tạo ra sự cam kết để nhà
trường tự phê phán và nghiêm túc tự đánh giá hoạt động của mình. Sự hỗ trợ thứ
hai là đào tạo, tập huấn để cán bộ nhà trường biết cách tự đánh giá. Sự hỗ trợ thứ ba
là cung cấp các thông tin trong nước và quốc tế về các chỉ số thực hiện. Các kinh
nghiệm đổi mới trong dạy - học, đánh giá nói chung cũng như đánh giá với mục
đích chuyên biệt. Việc cung cấp những thông tin này cần đến kinh phí, nhưng đó là
khoản kinh phí cần thiết nên các cơ quan tài trợ ưu tiên đáp ứng. Việc trợ giúp từ
bên ngoài có thể còn tạo điều kiện cho các nhà trường nhận được thông tin phản hồi
từ công đồng xã hội.
* Điều kiện thực hiện
Đội ngũ những người tham gia đánh giá phải thực sự có năng lực chuyên
môn và nghiệp vụ sư phạm cao, có uy tính trong ngành giáo dục, tôn trọng đồng
nghiệp và công việc được phân công, phải có kiến thức khoa học về kiểm tra, đánh
giá, có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên. Khi thực hiện công việc đánh giá phải chính xác, khách
quan, công bằng (thái độ tỷ mỷ, thận trọng . . . trong công việc). Đồng thời lực
lượng này phải có định hướng và khuyến khích làm cơ sở cho những tiến bộ của
giáo viên, tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ tư vấn, thúc đẩy và phát triển. Bên
cạnh đó để điều kiện thực hiện công tác này đảm bảo chất lượng đòi hỏi phải có sự
hợp tác của giáo viên và lãnh đạo nhà trường .
* Kết quả cần đạt
Xây dựng được lực lượng tham gia đánh giá đủ về số lượng, mạnh mẽ về
chất lượng, để đem lại kết quả đánh giá có độ tin cậy cao. Giúp cho giáo viên tin
tưởng vào kết quả đánh giá của cấp trên, của đồng nghiệp để nắm bắt được ưu điểm
và hạn chế trong công tác giảng dạy của mình. Từ đó có kế hoạch tự bồi dưỡng
nhằm nâng cao năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục trong
tình hình hiện nay.
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp
Tất cả các nhóm biện pháp trên đều có quan hệ thống nhất, biện chứng với
nhau trong quá trình đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên các trường tiểu
học. Mỗi nhóm biện pháp đều làm cơ sở, tiền đề cho nhóm biện pháp khác nhằm
đem lại những thông tin quan trọng và cần thiết cho các nhà QLGD và các nhà
hoạch định chính sách pháp luật giáo dục. Để từng bước nâng cao chất lượng và
hiệu quả của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, đòi hỏi các
nhóm biện pháp phải được nghiên cứu trong mối quan hệ tổng thể trên cơ sở vận
dụng, khai thác thế mạnh riêng của mỗi nhóm biện pháp cho phù hợp với điều kiện
thực tế của nhà trường và khả năng đáp ứng của địa phương. Những nhóm biện
pháp đưa ra qua nghiên cứu thực tế sẽ góp phần khai thông, khắc phục những hạn
chế trong công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu
học huyện Phú Tân hiện nay. Tuy nhiên, người quản lý phải biết dựa vào đặc điểm,
điều kiện cụ thể của địa phương, của nhà trường, mà đặc biệt là đội ngũ giáo viên để
tham khảo và tìm ra những biện pháp quản lý bổ ích, sát với điều kiện thực tế về
nguồn lực của mỗi nhà trường.
Để đổi mới và nâng cao được hiệu quả của công tác đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên, người hiệu trưởng phải có một hệ thống các biện pháp
đồng bộ. Các nhóm biện pháp này không xếp theo thứ tự ưu tiên từ một đến năm
mà các nhóm biện pháp này có mối quan hệ tác động hỗ trợ, phụ thuộc lẫn nhau.
Nói cách khác, là không có biện pháp nào là vạn năng, song người hiệu trưởng phải
biết vận dụng, phối hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ giữa các biện pháp thì sẽ làm cho
biện pháp quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên đạt kết quả cao
hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là sau khi đánh giá xếp loại, giáo viên biết mình
cần phải làm gì cho tốt hơn ở một yêu cầu hoặc một lĩnh vực của chuẩn. Không tạo
nên sự căng thẳng cũng như không gây áp lực cho cả phía quản lý và giáo viên.
Có thể mô tả mối quan hệ giữa các nhóm biện pháp đổi mới công tác quản
lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên bằng một hình đa giác đều mà
trong đó đỉnh của mỗi hình đa giác là một nhóm biện pháp và trọng tâm của đa giác
là chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học.
Sơ đồ 3.1. Mối quan hệ giữa các nhóm biện pháp đổi mới công tác quản lý
việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện
Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Nhóm
Nhóm BP5 BP2
CL GD
Nhóm BP1
Nhóm BP3 Nhóm BP4
3.4. Kết quả kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của các nhóm biện pháp
đã nêu trên
Trong khuôn khổ thời gian thực hiện luận văn, chúng tôi không có điều kiện
để tiến hành thực nghiệm sư phạm các biện pháp nêu trên, nên chỉ tiến hành xác
định mức độ cần thiết và tính khả thi của các nhóm biện pháp thông qua các phiếu
trưng cầu ý kiến đánh giá của 08 cán bộ quản lý và chuyên viên Phòng Giáo dục &
Đào tạo; 12 hiệu trưởng, 45 tổ trưởng tổ chuyên môn và 236 giáo viên ở 12 trường
tiểu học tiêu biểu trong địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Kết quả khảo sát thu
được qua bảng 3.2 sau:
Bảng 3.2 kết quả đánh giá tính cần thiết và tính khả thi của các nhóm biện pháp.
Ý kiến đánh giá (%)
Tính khả thi TT Các biện pháp
Khả thi Ít khả thi Cần thiết Không khả thi Tính cần thiết Không cần thiết Rất cần thiết
88.4 12 0 96.3 3.32 0.3 1
56.5 42 1.3 85.4 14 1 2
74.1 25 0.66 92.4 7.64 0 3
trình 4 65.4 33 1.3 90.4 9.3 0.3
5 56.1 39 4.65 83.1 14.6 2.3 Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên Kế hoạch hoá hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn các trường trên địa bàn huyện Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo trong đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên Xây dựng quy đánh giá Xây dựng lực lượng đánh giá
Qua khảo sát ý kiến của 301 người, cho thấy các biện pháp có tính cần thiết
trở lên đạt tỷ lệ khá cao (96.58%) và có trên 89% ý kiến cho rằng các nhóm biện
pháp đưa ra khả thi là phù hợp với thực tiễn các trường tiểu học trên địa bàn huyện
Phú Tân. Nếu các nhóm biện pháp này được áp dụng một cách nghiêm túc, với tinh
thần trách nhiệm cao của lãnh đạo các nhà trường, nó sẽ thực sự là đòn bẩy nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện. Có
trên 56% các ý kiến đều thống nhất cho rằng các nhóm biện pháp đưa ra đều có tính
rất cần thiết và khả thi với các nhà trường hiện nay. Biện pháp 1 có tỷ lệ tính cần
thiết và khả thi cao nhất 88.4%; 96.3%. Biện pháp 5 được 56.1% và 83.1% so với ý
kiến đánh giá là rất cần thiết và khả thi là có tỷ lệ thấp nhất.
Trong khi đó qua trao đổi trực tiếp với một số cán bộ quản lí của Phòng Giáo
dục & Đào tạo, hiệu trưởng các trường tiểu học thì biện pháp xây dựng lực lượng
đánh giá được đa số ý kiến đều cho rằng tuỳ thuộc vào quyết định của các cấp quản
lý. Căn cứ vào ý kiến qua phiếu khảo sát, các biện pháp đề xuất được xếp theo thứ
tự từ cao xuống thấp, có 5 bước: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa
của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Việc xây dựng các tiêu chí,
tiêu chuẩn, thang đo trong đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Xây dựng
quy trình đánh giá. Kế hoạch hoá hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên cho hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn các trường trên địa bàn
huyện. Xây dựng lực lượng đánh giá.
Như chúng ta đã biết trong tình hình đổi mới giáo dục hiện nay, việc đưa ra
các nhóm biện pháp đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên là hết sức cần thiết, nhằm khắc phục những hạn chế và những bất cập
của công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy trước đây, góp phần vào
việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường tiểu học. Với kết quả thu
được qua phiếu khảo sát chứng tỏ hệ thống các nhóm biện pháp mà chúng tôi đề
xuất là phù hợp và có khả năng thực hiện cao, đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục
hiện nay. Tuy nhiên để nhóm các biện pháp đó thực sự là những cách làm mới có
hiệu quả đối với quản lý viêc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học,
cần phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các cơ quan hữu
quan, tạo nên sự đồng bộ và thống nhất trong quá trình thực hiện các nhóm biện
pháp, trong đó Phòng Giáo dục & Đào tạo chịu trách nhiệm chính. Mặt khác, hiệu
trưởng các nhà trường phải biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với
tình hình đội ngũ hiện có và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy được
tiềm năng và thế mạnh của tập thể sư phạm nhà trường, nhằm thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu quản lý.
Kết luận chương 3
Đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau được thực hiện bằng một hệ
thống các biện pháp tác động vào các nhân tố chi phối hiệu quả đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên. Đây thực chất là quá trình chuẩn bị tâm thế và các điều
kiện cần thiết cho đội ngũ cán bộ QLGD và các giáo viên ở các nhà trường tiểu học
một cách đồng bộ các khâu, các thành tố của quá trình giáo dục, đáp ứng sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước của Đảng ta.
Các nhóm biện pháp trên có vị trí và vai trò không ngang bằng nhau, nhưng
có mối quan hệ thống nhất và chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện cho
nhau phát huy kết quả của nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Do đó phải tiến
hành đồng bộ các nhóm biện pháp, không coi thường hay xem nhẹ bất kỳ một biện
pháp nào trong quá trình đánh giá. Tuy nhiên ở mỗi địa phương, mỗi nhà trường có
các điều kiện về cơ sở vật chất và đội ngũ khác nhau, nên việc nghiên cứu, vận
dụng các nhóm biện pháp phải mềm dẻo, linh hoạt để mang lại hiệu quả quản lý
một cách cao nhất, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ dạy học của các trường tiểu
học trong thời kỳ mới hiện nay. Qua việc trưng cầu các ý kiến của cán bộ, chuyên
viên Phòng giáo dục đào tạo, hiệu trưởng các nhà trường, các tổ trưởng tổ chuyên
môn và một số giáo viên trực tiếp tham gia công tác đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện phần nào đã chứng minh
được tính khả thi và tính cần thiết của các nhóm biện pháp mà chúng tôi đưa ra
nhằm khuyến khích năng lực tự đánh giá của lãnh đạo và giáo viên các nhà trường,
góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng và chất lượng
giáo dục nói chung.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài được trình bày trong ba chương, về cơ
bản luận văn đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1.1. Về lý luận
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có
nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của
trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con
người. Vì vậy, công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở
các trường tiểu học huyện Phú Tân nhằm nâng cao chất lượng đào tạo có vai trò rất
quan trọng, nhất là trong thời kỳ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên cơ sở kế thừa, hệ thống hoá các nghiên cứu về lý luận, luận văn đã
nghiên cứu một cách có hệ thống các khái niệm cơ bản về khoa học quản lý, về
quản lý giáo dục nói chung và các khái niệm về kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên. Luận văn đã vận dụng các khái niệm cơ bản đó vào nghiên cứu
quá trình quản lý trường tiểu học, xác định cơ sở lý luận của các biện pháp đổi mới
công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học huyện Phú Tân.
Chính những lý luận này đã định hướng và xác lập nên một cơ sở vững chắc giúp
cho chúng tôi nghiên cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp.
1.2. Về thực tiễn
Thông qua việc khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục & đào tạo và công tác
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học huyện Phú Tân, luận văn đã
nêu lên một cách khái quát về tình hình giáo dục chung của huyện, tình hình đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện.
Đặc biệt, luận văn đã chỉ ra đúng thực trạng vấn đề kiểm tra, đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên tiểu học. Qua các kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng,
biện pháp quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
huyện Phú Tân. Tuy đã có những chuyển biến tích cực, những cải tiến đáng kể,
song trong thực tiễn vẫn còn một bộ phận không nhỏ lãnh đạo các nhà trường do
năng lực còn hạn chế, nên có tình trạng buông lỏng quản lý, còn xem nhẹ vai trò
của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên dẫn đến tình trạng đánh
giá giáo viên thiếu dân chủ, công khai, không đảm bảo tính khách quan. Việc đánh
giá còn nặng về tình cảm, do ngại va chạm và nặng về báo cáo thành tích nên chất
lượng toàn diện không đồng đều giữa các trường. Điều này cho thấy vấn đề quản lý
chất lượng giảng dạy của giáo viên cần trở nên cần thiết hơn bao giờ hết trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục.
Với các biện pháp đổi mới công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân được nêu trong luận văn,
chúng tôi muốn góp một phần nhỏ của mình vào việc tăng cường, đổi mới một cách
toàn diện giáo dục tiểu học, biến những quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng về
mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng được cụ thể hoá vào hoạt
động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở mỗi trường tiểu học
trên địa bàn huyện.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, luận văn đã đề xuất 5 nhóm
biện pháp cơ bản nhằm quản lý tốt công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên là:
- Nhóm biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
- Nhóm biện pháp 2: Kế hoạch hoá các hoạt động kiểm tra, đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên cho hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn các nhà
trường trên địa bàn huyện.
- Nhóm biện pháp 3: Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo trong đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên.
- Nhóm biện pháp 4: Xây dựng quy trình đánh giá.
- Nhóm biện pháp 5: Xây dựng lực lượng đánh giá.
Những biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất là kết quả của một quá trình
nghiên cứu nghiêm túc. Các kết quả điều tra, khảo sát, trưng cầu ý kiến của các cán
bộ quản lý, chuyên viên Phòng Giáo dục & Đào tạo và những ý kiến đóng góp trực
tiếp của hiệu trưởng, tổ trưởng tổ chuyên môn cũng như giáo viên trực tiếp giảng
dạy ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân, đã xác nhận tính khả thi và
tính cần thiết của các biện pháp này. Đồng thời cũng cho thấy nội dung luận văn đã
đáp ứng được mục đích nghiên cứu và đã giải quyết được những nhiệm vụ nghiên
cứu mà đề tài đã đề ra.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý được trình bày trong luận văn
chưa phải là những điều mới, những giải pháp đưa ra chưa phải là giải pháp tối ưu
nhất, nhưng với việc hệ thống hoá các biện pháp quản lý cho phù hợp với tình hình
thực tiễn giáo dục ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tân, hy vọng sẽ
đóng góp ít nhiều cho công tác quản lý giáo dục nói chung và quản lý giáo dục tiểu
học nói riêng.
Tuy nhiên, các nhóm biện pháp trên chỉ bổ sung cho các biện pháp mà hiệu
trưởng các trường tiểu học đã làm trong quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên nhằm khắc phục những tồn tại, góp phần thúc đẩy công tác quản lý
việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học tiến bộ hơn.
Các nhóm biện pháp nêu trên tồn tại trong mối quan hệ biện chứng có ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau và có tính thực tiễn cao, các nhóm biện pháp đã được khảo sát qua
ý kiến của đội ngũ CBQL và giáo viên các trường tiểu học. Trong thực tế, cần áp
dụng các nhóm biện pháp một cách đồng bộ để nâng cao hiệu quả quản lý việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Có sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao và định hướng cho các địa phương làm tốt
khâu quy hoạch đội ngũ cán bộ QLGD. Cần coi trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo,
đào tạo lại giáo viên để giáo viên được cập nhật thông tin về giáo dục một cách
nhanh nhất. Bộ cần có những giải pháp tuyển chọn từ khâu đầu vào – quy trình đào
tạo và đầu ra ở mạng lưới các trường sư phạm độc lập thực sự có chất lượng. Tiến
hành thành lập các viện nghiên cứu giáo dục đặc biệt là giáo dục học tại các trường
sư phạm để nắm bắt thực trạng giáo dục của nước ta và các nước trên thế giới, từ đó
tham mưu với Chính phủ về chiến lược phát triển giáo dục Việt trong thời kỳ hội
nhập của thế kỷ XXI. Trong thời đại thông tin đa chiều như hiện nay, Bộ cũng cần
kịp thời có các văn bản pháp quy hướng dẫn cụ thể, cũng như các tài liệu khoa học
để tổ chức chỉ đạo việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và
phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Đối với
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra cho lãnh
đạo các nhà trường cần chú ý hơn đến quy trình nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm,
kịp thời phát huy những nhân tố mới trong công tác này và trong công tác quản lý
trường tiểu học nói chung, biết cách hướng dẫn cho giáo viên học tập nghiên cứu về
lý luận đổi mới nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức và
rút kinh nghiệm sư phạm. Kiến thức khoa học QLGD cần được cập nhật, đa dạng,
liên thông không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường mà phải trên diện rộng và
nhiều vùng khác nhau.
2.2. Đối với UBND tỉnh Cà Mau
Cần có những chế độ, chính sách ưu đãi giáo viên thoả đáng phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương theo tinh thần khuyến khích cho giáo viên
giỏi thường xuyên nâng cao trình độ, phẩm chất về mọi mặt. Thực hiện phân cấp
quản lý một cách mạnh mẽ, cụ thể, nhằm nâng cao tinh thần tự giác, tự chịu trách
nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, tránh tình trạng người dùng người thì lại
không được tuyển người, dẫn đến tình trạng nơi thiếu, nơi thừa giáo viên một cách
cục bộ như hiện nay. Cho nên cần rà soát đội ngũ giáo viên để tuyển chọn giáo viên
có trình độ cao, nghiệp vụ giỏi vào biên chế. Có chính sách thu hút giáo sinh ở các
trường sư phạm đạt học lực giỏi về địa phương công tác để nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên. Đồng thời sớm có chủ trương cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để nhà trường chủ động quy hoạch xây trường theo hướng đạt chuẩn quốc
gia. Đồng thời tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị cho các trường
học theo hướng từng bước hiện đại hoá.
2.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau và Phòng Giáo dục & Đào
tạo huyện Phú Tân
Phối hợp chặt chẽ với các huyện, thành phố chỉ đạo cho Phòng Giáo dục và
Đào tạo xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ QLGD, phát hiện, tuyển chọn
và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện các chức năng quản lý ở các trường tiểu học để nắm bắt thực trạng chất
lượng giảng dạy ở các nhà trường, từ đó có chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên đúng đối tượng. Có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ
hiệu trưởng các nhà trường, thường xuyên, liên tục để cập nhật thông tin. Động viên
khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân tiên tiến trong ngành để nhân rộng điển
hình.
Từ hoạt động thực tiễn đó tiến hành tham mưu với UBND tỉnh, huyện tuyển
dụng thêm giáo viên ở một số môn năng khiếu như: nhạc, hoạ, tin học . . . đặc biệt
là có chính sách trợ cấp cho giáo viên ở vùng sâu, vùng xa và có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn để yên tâm công tác. Đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý, các chuyên viên công nghệ thông tin của Sở và Phòng Giáo dục &
Đào tạo nghiên cứu, biên soạn các phần mềm về quản lý hồ sơ giáo viên, học sinh,
thời khoá biểu, tài chính, cơ sở vật chất và quản lý thi cử. . .
2.4. Đối với trường tiểu học
2.4.1. Với Ban giám hiệu và tổ trưởng tổ chuyên môn
Phải tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong
việc triển khai nhiệm vụ năm học và các mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm nâng cao
năng lực tự đánh giá trong nhà trường, phát huy cơ chế dân chủ cơ sở cũng như sức
mạnh tập thể của nhà trường. Cần phải lập bảng theo dõi thi đua của từng năm học
một cách chi tiết cụ thể. Lên kế hoạch kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên một cách chính xác, công khai, dân chủ để mọi thành viên trong Hội đồng
sư phạm nắm bắt và thực hiện. Đồng thời có chế độ khen thưởng kịp thời đối với
giáo viên đạt kết quả tốt trong giảng dạy và tham gia các cuộc thi . . .
Đặc biệt hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn phải luôn luôn là tấm
gương tích cực tự học, tự bồi dưỡng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm và nhân cách của nhà quản lý để chỉ đạo hoạt động đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học tốt hơn nữa.
2.4.2. Đối với giáo viên
Thường xuyên học tập, tu dưỡng đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức giác ngộ
cách mạng của giáo viên nhân dân. Tích cực tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng tình hình đối mới giáo dục hiện
nay. Thực hiện tốt mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quy định của Ngành Giáo dục & Đào tạo, hết mình vì sự nghiệp giáo dục. Có ý chí
say mê nghiên cứu khoa học, tự tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy đối với học sinh và cộng đồng dân
cư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Ân, “Giáo dục tiểu học: thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học (3/2002).
2. Đặng Quốc Bảo (1997), Một số khái niệm về Quản lý giáo dục, trường Cán
bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Điều lệ trường tiểu học, ban hành kèm
theo quyết định số 22/2000/QĐ-BGD và ĐT ngày 11/7/2000.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đánh giá kết quả học tập ở tiểu học, Dự án
phát triển giáo viên tiểu học, Nxb Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Cán bộ quản lý giáo dục – Đào tạo II, “ttài
liệu thanh tra”, TP. Hồ Chí Minh – 1994.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), “Các vấn đề đánh giá Giáo dục”, Dự án Việt -
Bỉ hỗ trợ từ xa…
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Hướng dẫn một số điều trong “Quy chế đánh
giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông công lập”.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Thông tư “hướng dẫn thanh tra toàn diện nhà
trường, cơ sở giáo dục khác và thanh tra hoạt động sư phạm của nhà
giáo”.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Dự án phát triển giáo viên tiểu học, “Đánh giá
kết quả học tập” (Tài liệu bồi dưỡng giáo viên), Nxb Giáo dục.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), “Hướng dẫn sử dụng chuẩn nghề nghiệp giáo
viên tiểu học trong quá trình đánh giá xếp loại”.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định ban hành về chuẩn nghề nghiệp
giáo viên tiểu học.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện Nghị quyết TW2
( khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb Giáo dục, Hà
Nội năm 2000.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thanh tra giáo dục, “Nghiệp vụ thanh tra giáo dục
Việt Nam – Văn bản pháp quy, Công cụ đào tạo”.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển giáo viên tiểu học (2004), Chuẩn giáo
viên tiểu học.
15. Bộ Nội vụ (2006), Quy chế đánh giá, Xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên
phổ thông công lập.
16. Nguyễn Hữu Châu (1999), Định hướng chiến lược giáo dục đầu thể kỷ XXI của
một số nước trên thế giới, Viện Khoa học giáo dục, Hà Nội.
17. Đỗ Minh Cương (1995), Vai trò con người trong quản lí, Nxb Chính trị Quốc
gia.
18. Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
19. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 ban hành kèm theo quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội 2001.
20. Chương trình hành động số 57/CTr/TƯ ngày 22/9/2005 của Tỉnh uỷ Cà Mau về
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
21. Nguyễn Kim Dung (dịch), Jon Wiles và Joseeph Bondi, 2005, “Xây dựng
chương trình học - Hướng dẫn thực hành”, Nxb.Giáo dục, TP. Hồ Chí
Minh.
22. Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương, Phùng kỳ Sơn (1996), “Học thuyết quản
lý”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Ngọc Đại (1997), “Tâm lý học dạy học”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Xuân Đàm, “Thanh tra, kiểm tra, đánh giá trong quản lí giáo dục”, Đề
cương bài giảng, Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
25. Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lâm, Nghiêm Đình Vì (2002), Giáo dục
thế giới đi vào thế kỷ XXI”, Nxb chính trị quốc gia.
26. Phạm Minh Hạc(1986), “ Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục”, Nxb
giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Trung Hàm (1997), “Quản lý các ngành học ở Phòng giáo dục & đào
tạo”, Tài liệu trường Cán bộ quản lý giáo dục & đào tạo II, TP. Hồ Chí
Minh.
28. Bùi Minh Hiền (2006), “Quản lý giáo dục”, Nxb Đại học Sư phạm.
29. Phạm Minh Hậu (1990), “Thanh tra giáo dục - Đặc trưng và giải pháp thực
hiện”, Viện KHGD Việt Nam.
30. Trần Minh Hằng (1998), “cải tiến việc kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng
dạy học ở trường sư phạm”, tạp chí nghiên cứu giáo dục, Hà
Nội (Tr 26, 28).
31. Nguyễn Sinh Huy - Nguyễn Văn Lê (1999), “Giáo dục học đại cương”, Nxb Giáo
dục Hà Nội.
32. Đặng Vũ Hoạt, “Một số vấn đề kiểm tra, đánh giá tri thức học sinh” (giáo trình
Cimina về lí luận dạy học), tập 2 trường ĐHSP Hà Nội.
33. Nguyễn Kỳ (1966), Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm, Trường
CBQLGD Hà Nội.
34. Trần Kiểm (1997), Quản lý giáo dục và trường học, Viện khoa học giáo dục,
Hà Nội.
35. Trần Kiều, “Chất lượng giáo dục: Thuật ngữ, quan niệm”, Tạp chí giáo dục
số71-11/2003 (tr 1-4,6.).
36. Trần Kiểm (2004), “Khoa học quản lý giáo dục - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Nxb Giáo dục.
37. Kế hoạch số 03-KH/HU ngày 24/10/2005 về việc thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
38. Kỷ yếu hội thảo khoa học ( 1995), “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
hoạt động hoá người học”, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
39. Luật giáo dục 2005(2006), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hài Nội.
40. Vũ Đức Minh (1975), “Những cơ sở lý luận của kiểm tra, đánh giá học
sinh,”Tạp chí NCGD số 36 tr 6-10.
41. Phạm Thành Nghị (2000), “Quản lí chất lượng giáo dục Đại học”, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
42. Nghiệp vụ thanh tra giáo dục Việt Nam (2005), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo
dục, trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
44. Huỳnh Quyến (1995), Đề cương bài giảng: Một số vấn đề lý luận thanh tra
giáo dục và kiểm tra nội bộ trường học, Tài liệu lưu hành nội bộ, TP.
Hồ Chí Minh.
45. Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 16/01/2006, Quyết định về việc thành lập
Ban chỉ đạo thực hiện Đề án “ Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Cà Mau giai đoạn 2005 –
2010”, tháng 01/2006.
46. Quyết định số 22/QĐ-BGD & ĐT ngày 12/5/2006, Quyết định ban hành quy
định về việc bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo chưa đạt trình độ chuẩn.
47. Từ điển giáo dục học(2001), Nxb Từ điển bách khoa.
48. Dương Thiệu Tống, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý, Nxb
Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
49. Trường cán bộ quản lý Giáo dục – Đào tạo II, Đề cương bài giảng: Đánh giá
trong giáo dục (Dùng cho lớp bồi dưỡng thanh tra viên tiểu học tháng
04/2000).
50. Trường cán bộ quản lý Giáo dục – Đào tạo II, Đề cương: Trao đổi một số vấn
đề về thanh tra đánh giá trường tiểu học và công tác quản lý của Hiệu
trưởng.
51. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam khoá IX. Nxb Chính trị
Quốc gia.
52. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam khoá X. Nxb Chính trị
Quốc gia.
53. Phạm Viết Vượng (chủ biên), Quản lý hành chính Nhà nước và quản lý ngành
giáo dục & đào tạo, Nxb Đại học Sư phạm.
54. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính
trị quốc gia, 1997, Hà Nội.
56. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện huyện Phú Tân lần thứ XI, 2005.
57. Văn bản tổng kết năm học 2006 -0 2007 của Phòng giáo dục & đào tạo huyện Phú
55. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XIII, 2005.
Tân.
Phụ lục số 1:
PHIẾU HỎI Ý KIẾN (Dành cho Hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn trường Tiểu học)
Nhằm giúp cho công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học trong huyện, xin đồng chí vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau: 1. Theo đồng chí Hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn có vai trò như thế nào trong việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học (Đánh dầu X vào ô phù hợp với ý kiến của mình) a. - Rất quan trọng b. - Quan trọng c. - Bình thường d. - Không quan trọng
2. Xin đồng chí cho biết ý kiến về kết quả thực hiện các nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
TT Nội dung đánh giá
Kết quả thực hiện Tốt Chưa tốt
01 Có kế hoạch ngay từ đầu năm học 02 Được triển khai rõ ràng, công khai, dân chủ 03 Đảm bảo tính thường xuyên, liên tục trong năm học 04 Đảm bảo tính thúc đẩy, phát triển và tư vấn 05 Hiểu đúng, đủ nội dung đánh giá chất lượng giảng dạy 3. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về mức độ thực hiện quy trình đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
TT Quy trình đánh giá
01 Căn cứ vào mục tiêu đánh giá của trường
Chưa đúng quy trình
Mức độ thực hiện Đúng quy trình 02
03 Căn cứ vào mục tiêu của môn học, mục tiêu từng chương, từng bài và từng tiết dạy Căn cứ vào kết quả các mặt hoạt động của giáo viên: công tác giảng dạy, chủ nhiệm và công tác khác được
04 giao Căn cứ vào kết quả thao giảng ở trường và kết quả các cuộc thi giáo viên giỏi các cấp do Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT tổ chức hàng năm
05 Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh
06 Căn cứ vào hồ sơ thi đua của từng thành viên trong nhà trường
4. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về những nguyên nhân tồn tại, yếu kém trong công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
Đánh giá TT Nguyên nhân tồn tại, yếu kém Đồng ý Không đồng ý
01
02 Điều kiện thực thi nhiệm vụ chưa đáp ứng được yêu cầu Bản thân chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá một cách thường xuyên, liên tục
03 Đánh giá có liên quan đến tình cảm đồng nghiệp
04
05
06
07 Đánh giá còn chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục Do hạn chế về năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm Thời gian và công việc quản lý vất vả, làm hạn chế việc tự học tập và cập nhật thông tin mới về giáo dục Bộ máy quản lý chưa tương xứng với nhiệm vụ trong tình hình mới
Ngoài các nguyên nhân trên, theo đồng chí còn có những nguyên nhân nào nữa? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. 5. Xin đồng chí cho biết đã được đi học các lớp nghiệp vụ quản lý giáo dục dưới hình thức nào? (Đánh dấu X vào ô phù hợp). - Bồi dưỡng ngắn hạn - Bồi dưỡng dài hạn
- Bồi dưỡng phục vụ các vụ việc cụ thể Nếu được học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ QLGD đồng chí muốn được bồi dưỡng những nội dung gì? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. 6. Theo đồng chí, Cán bộ quản lý trường Tiểu học cần phải đạt trình độ đào tạo gì? (Đánh dấu X vào ô phù hợp). - THSP - CĐSP - ĐHSP 7. Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: - Họ và tên: ......................................... - Năm sinh: ....................................... - Giới tính : nam , nữ - Nơi công tác:...................................................................................................................... - Chức vụ: ............................................................................................................................ - Trình độ chuyên môn:........................................................................................................ - Thời gian công tác: ............................................................................................................ - Thời gian quản lý:.............................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn về sự hợp tác của đồng chí !
Phụ lục số 2:
PHIẾU HỎI Ý KIẾN (Dành cho Giáo viên trường Tiểu học)
Nhằm giúp cho công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học trong huyện, xin đồng chí vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau: 1. Theo đồng chí Hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn có vai trò như thế nào trong việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học (Đánh dấu X vào ô phù hợp với ý kiến của mình) - Rất quan trọng
a. b. - Quan trọng c. - Bình thường
d. - Không quan trọng
2. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về những nguyên nhân tồn tại, yếu kém trong công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở trường Tiểu học bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
TT Nguyên nhân tồn tại, yếu kém Không đồng ý
Đánh giá Đồng ý 01
02 Điều kiện thực thi nhiệm vụ chưa đáp ứng được yêu cầu Bản thân chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá một cách thường xuyên, liên tục
03 Đánh giá có liên quan đến tình cảm đồng nghiệp
04
05
06
07 Đánh giá còn chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục Do hạn chế về năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm Thời gian và công việc quản lý vất vả, làm hạn chế việc tự học tập và cập nhật thông tin mới về giáo dục Bộ máy quản lý chưa tương xứng với nhiệm vụ trong tình hình mới
Ngoài các nguyên nhân trên, theo đồng chí còn có những nguyên nhân nào nữa? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. ..............................................................................................................................................
3. Theo đồng chí những yếu tố nào làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
TT Những yếu tố cơ bản
01 Chất lượng phụ thuộc vào yếu tố người thầy Không đồng ý
Đánh giá Đồng ý 02
03
04 Chất lượng phụ thuộc cách thức quản lý của các cấp. Chất lượng phụ thuộc vào sư quan tâm của gia đình, cộng đồng. Chất lượng phụ thuộc vào phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá của thầy.
05 Chất lượng phụ thuộc vào nhu cầu người học. 06 Chất lượng phụ thuộc vào truyền thống nhà trường. Ngoài những yếu tố trên, theo đồng chí còn có những yếu tố nào nữa? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. 4. Theo đồng chí những biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
Mức độ thực hiện
TT Những biện pháp cần Cần thiết
Không thiết 01 Bồi dưỡng nghiệp vụ QLGD
02
03
04
05 Bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho các nhà quản lý trường học. Tăng cường CSVC và thiết bị dạy học theo phương pháp mới. Tổ chức tham quan học tập mô hình của một số trường điểm trong và ngoài huyện. Biên soạn chương trình, SGK, sách tham khảo tốt, để giáo viên có thể tiếp cận PP mới một cách nhanh nhất.
06
07
08
09
Tăng cường tổ chức các chuyên đề về sử dụng đồ dùng dạy học, máy chiếu (công nghệ dạy học vào nhà trường) Kiểm tra, đánh giá định kỳ theo kế hoạch để giáo viên chủ động trong việc chuẩn bị tốt các giờ lên lớp. Có chế độ, chính sách hợp lý với các cá nhân tiên tiến, điển hình để giáo viên yên tâm giảng dạy. Có kế hoạch định kỳ trưng cầu ý kiến của giáo viên về đánh giá chất lượng giảng dạy. 10 Chỉ đạo cơ sở sát thực tế, kịp thời, chính xác. Ngoài những biện pháp trên, theo đồng chí còn có những biện pháp nào nữa? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. 5. Theo đồng chí, CBQL trường Tiểu học cần phải đạt trình độ đào tạo gì? (Đánh dấu X vào ô phù hợp). - THSP - CĐSP - ĐHSP 6. Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: - Họ và tên: .................................................. Năm sinh: ....................................... - Giới tính: nam , nữ - Nơi công tác: ......................................................................................................... - Thâm niên công tác:........................................................................................................... - Trình độ đào tạo: + THSP 9 + 1 ; 9 + 2 ; 9 + 3 + CĐSP 12 + 1 ; 12 + 2 ; 12 + 3 + ĐHSP Xin chân thành cảm ơn về sự hợp tác của đồng chí !
Phụ lục số 3:
PHIẾU HỎI Ý KIẾN (Dành cho Lãnh đạo, cán bộ phòng Giáo dục và Đào tạo)
Nhằm giúp cho công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học trong huyện, xin đồng chí vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau: 1. Theo đồng chí Hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn có vai trò như thế nào trong việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường Tiểu học (Đánh dầu X vào ô phù hợp với ý kiến của mình) a. - Rất quan trọng b. - Quan trọng c. - Bình thường
d. - Không quan trọng
2. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về những nguyên nhân tồn tại, yếu kém trong công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
Đánh giá TT Nguyên nhân tồn tại, yếu kém Đồng ý Không đồng ý
01 Điều kiện thực thi nhiệm vụ chưa đáp ứng được yêu cầu
02 Bản thân chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá một cách thường xuyên, liên tục.
03 Đánh giá có liên quan đến tình cảm đồng nghiệp. 04 Đánh giá còn chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục.
05 Do hạn chế về năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm.
06 Thời gian và công việc quản lý vất vả, làm hạn chế việc tự học tập và cập nhật thông tin mới về giáo dục.
07 Bộ máy quản lý chưa tương xứng với nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngoài các nguyên nhân trên, theo đồng chí còn có những nguyên nhân nào nữa? .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. 3. Đồng chí đánh giá như thế nào về kết quả thực hiện các điều kiện đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học, bằng cách đánh dấu (X) vào cột hàng tương ứng:
TT Các tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên Tiểu học
Mức độ thực hiện Tốt Chưa tốt
01 Ngày giờ công 02 Giáo án, sổ sách 03 Thảo giảng (dự giờ) 04 Chất lượng học tập của học sinh 05 Chủ nhiệm và công tác khác 06 Sáng kiến kinh nghiệm 4. Theo đồng chí, Cán bộ quản lý trường Tiểu học cần phải đạt trình độ đào tạo gì? (Đánh dấu X vào ô phù hợp). - THSP - CĐSP - ĐHSP 5. Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: - Họ và tên: ......................................... - Năm sinh: ....................................... - Giới tính: nam , nữ - Trình độ chuyên môn:........................................................................................................ - Nơi công tác:...................................................................................................................... - Thời gian công tác: ............................................................................................................ - Thời gian quản lý:.............................................................................................................. Xin chân thành cảm ơn về sự hợp tác của đồng chí !
Phụ lục số 4
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho Lãnh đạo và Cán bộ phòng Giáo dục và Đào tạo, Hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn; Giáo viên trường Tiểu học)
Để giúp cho công tác nghiên cứu, góp phần tìm ra các biện pháp đổi mới công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở huyện Phú Tân cho đội ngũ Hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn các trường Tiểu học. Xin đồng chí vui lòng cho biết mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp dưới đây, bằng cách đánh dấu (x) vào các ô cột phù hợp với ý kiến của đồng chí theo mức độ giá trị như sau:
Những biện pháp Tính khả thi Khả thi Ít khả thi Không khả thi Cần thiết
Các mức độ Rất cần thiết Không cần thiết
1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên 1. Kế hoạch hóa các hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cho Hiệu trưởng và tổ trưởng tổ chuyên môn các trường trên địa bàn huyện. 3. Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, thang đo trong đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên 4. Xây dựng quy trình đánh giá. 5. Xây dựng lực lượng đánh giá.
Ngoài những biện pháp nêu trên, còn biện pháp nào khác xin đồng chí hãy vui lòng cho biết (Xin kể tên biện pháp đó và cho biết tính cấp thiết và mức độ khả thi của biện pháp đó). .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................. Xin đồng chi vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân. - Họ và tên: ........................................................ Năm sinh ................................................ - Giới tính: nam , nữ - Chức vụ đảm nhiệm:.......................................................................................................... - Nơi công tác:...................................................................................................................... - Trình độ chuyên môn:........................................................................................................ - Số năm công tác trong ngành giáo dục: ............................................................................ - Thời gian quản lý:..............................................................................................................
Phụ lục số 5
PHIẾU ĐÁNH GIÁ TIẾT DẠY TIỂU HỌC
lượng khảo bình (nếu chất sinh học sát
- Họ và tên người dự giờ:……………… Chức vụ:……………………………….. - Họ và tên người dạy…………………… Trường:………………………………… - Dạy bài:…………………… Tiết (theo PPCT):…………………………………… - Môn dạy:………………….. lớp:………….. ngày dạy:…………………………… I. Nhận xét, đánh giá về thực hiện yêu cầu của tiết dạy: ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... II. Nhận xét, đánh giá về phương pháp dạy học: ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... III. Nhận xét, đánh giá về hiệu quả của tiết dạy: ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... * Kết luận, đánh giá tiết dạy: trung - Điểm có):………………………............. - Xếp loại tiết dạy:......................................................................................................... Ngày…… tháng …… năm 200 …. Ý kiến và chữ ký của giáo viên dạy: Người dự Ghi chú: - Trong mỗi phần ghi nhận xét tổng quát, có nêu tóm tắt những dẫn chứng ưu hoặc khuyết nổi bật.
Phụ lục 6
PHIẾU ĐÁNH GIÁ TIẾT DẠY Ở CẤP TIỂU HỌC
Họ, tên người dạy:…………………………………………………………………… Tên bài dạy:………………………………………Môn ……………………………. Lớp:….. Trường Tiểu học:………… Quận, huyện:……. Tỉnh, TP…………………
Tiêu chí Điểm tối đa Các lĩnh vực Điểm đánh giá
1.1. Xác định được vị trí, mục tiêu, chuẩn kiến thức và kĩ năng, nội dung cơ bản, trọng tâm của bài này.
1.2. Giảng dạy kiến thức cơ bản chính xác, có hệ thống.
1.3. Nội dung dạy học đảm bảo giáo dục toàn diện (về thái độ, tình cảm, thẩm mĩ)
I.KIẾN THỨC (5điểm) 1.4. Khai thác nội dung dạy học nhằm phát triển năng lực học tập của học sinh.
1 1 0.5 1 1 0.5
1.5. Nội dung dạy học phù hợp tâm lí lứa tuổi, tác động tới các đối tượng, kể cả học sinh khuyết tật, học sinh lớp ghép (nếu có).
1.6. Nội dung dạy học cập nhật những vấn đề xã hội, nhân văn gắn với thực tế, đời sống xung quanh của học sinh.
2.1. Dạy học đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài (lý thuyết, luyện tập, thực hành, ôn tập . . .)
KĨ
2.2. Vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng theo hướng phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh.
1 2 1
0.5
II. NĂNG SƯ PHẠM (7 điểm) 2.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học và theo hướng đổi mới.
2.4. Xử lý các tình huống sư phạm phù hợp đối tượng và có tác dụng giáo dục.
2.5. Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, kể cả ĐDDH tự làm thiết thực, có hiệu quả.
1 0.5 1
2.6. Lời giảng mạch lạc, truyền cảm, chữ viết đúng, đẹp, trình bày bảng hợp lí.
1
1
1
2.7. Phân bố thời gian đảm bảo tiến trình tiết dạy, đạt mục tiêu của bài dạy và phù hợp với thực tế của lớp học.
1
1
III. THÁI ĐỘ SƯ PHẠM (3 điểm)
3
IV. HIỆU QUẢ (5 điểm)
Cộng:
20
.. /20
3.1. Tác phong sư phạm chuẩn mực, gần gũi, ân cần với học sinh. 3.2. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh. 3.3. Kịp thời giúp đỡ học sinh có khó khăn trong học tập, động viên để mỗi học sinh đều được phát triển năng lực học tập. 4.1. Tiến trình tiết dạy hợp lý,nhẹ nhàng; các hoạt động học tập diễn ra tự nhiên, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm của học sinh tiểu học. 4.2. Học sinh tích cực chủ động tiếp thu bài học, có tình cảm, thái độ đúng. 4.3. Học sinh nắm được kiến thức, kĩ năng cơ bản của bài học và biết vận dụng vào các bài luyện tập, thực hành sau tiết dạy.
Điểm tiết dạy Xếp loại
XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Loại tốt: 18 20 (các tiêu chí 1.2, 2.1, 3.2 và 4.3 không bị điểm O) Loại khá: 14 17,5 (các tiêu chí 1.2, 2.1, 3.2 và 4.3 không bị điểm O) Loại trung bình: 10 13.5 (các tiêu chí 1.2, 2.1, 3.2 và 4.3 không bị điểm O) Loại chưa đạt: dưới 10 (Hoặc một trong các tiêu chí: 1.2, 2.1, 3.2, 4.3 bị điểm O)
Ghi chú: - Thang điểm của từng tiêu chí là: 0; 0.5; 1 (Riêng tiêu chí 2.2 là 0; 0.5; 1; 1.5; 2, tiêu chí 4.3 là: 0;1; 2; 3) - Điểm về hiệu quả tiết dạy (tiêu chí 4.3) có thể thay bằng kết quả khảo sát sau tiết dạy: Đạt yêu cầu từ 90% trở lên (3 điểm); Đạt yêu cầu từ 70% trở lên (2 điểm)
Đạt yêu cầu từ 50% trở lên (1 điểm); Đạt yêu cầu dưới 50% trở lên (0 điểm) - Khi chấm điểm cần căn cứ vào đặc thù của từng bộ môn và từng bài dạy cụ thể để cho điểm các tiêu chí một cách linh hoạt, tránh máy móc, cứng nhắc. Mỗi lĩnh vực vẫn có thể đạt điểm tối đa mặc dù có tiêu chí trong lĩnh vực đó không cho điểm. Khi đó cần giải thích rõ và điểm của tiêu chí này được cộng tiêu chí xuất sắc trong cùng lĩnh vực.
GHI CHÉP HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC GHI CHÚ
CHỦ YẾU THEO TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY
Nhận xét chung về tiết dạy (ưu điểm, khuyết điểm chính): Họ tên người dự giờ:……………………. (kí ghi rõ họ tên) Chức vụ:………………………………… Đơn vị công tác:…………………………
…………, ngày …….. tháng …… năm …

