intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ nhất các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề LĐCB để từ đó có những đánh giá, đề xuất giải pháp hoàn thiện hơn về chế định này sao cho phù hợp với tình hình hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------ NGUYỄN THI ̣HƢƠNG QUỲ NH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------ NGUYỄN THI ̣ HƢƠNG QUỲ NH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thi Hƣơng ̣ Quỳnh
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1 2.Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2 3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 4 6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 4 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC ............................................ 6 1.1. Khái quát chung về lao động cưỡng bức. .................................................. 6 1.1.1. Khái niệm lao động cưỡng bức. .............................................................. 6 1.1.2. Đặc điểm của lao động cưỡng bức ........................................................ 10 1.1.3. Phân loại lao động cưỡng bức ............................................................... 14 1.2. Điề u chỉnh pháp luâ ̣t về lao đô ̣ng cưỡng bức .......................................... 16 1.2.1. Sự cần thiết phải điề u chỉnh pháp luật về lao động cưỡng bức ............ 16 1.2.2. Nô ̣i dung pháp luâ ̣t về lao đô ̣ng cưỡng bức. ......................................... 19 1.3. Khái lược pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về lao động cưỡng bức và những kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................... 27 Kết luận chương 1 ........................................................................................... 34 CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ....... 35 2.1. Các quy định pháp luật liên quan đến nhóm hành vi ép buộc người lao động thực hiện công việc và thực tiễn áp dụng............................................... 35
  5. 2.2. Các quy định pháp luật liên quan đến lao động cưỡng bức trong hoạt động cho thuê lại lao động và thực tiễn áp dụng. ........................................... 52 2.3. Các quy định của pháp luật liên quan đến lao động cưỡng bức đối với lao động trẻ em và thực tiễn áp dụng. ................................................................... 57 2.4. Chế tài pháp lý trong việc sử dụng lao động cưỡng bức và thực tiễn áp dụng. ................................................................................................................ 62 2.4.1. Chế tài dân sự ........................................................................................ 62 2.4.2. Chế tài hành chính ................................................................................. 62 2.4.3. Chế tài hình sự....................................................................................... 64 Kết luận chương 2 ........................................................................................... 69 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC Ở VIỆT NAM ......................................... 70 3.1. Những yêu cầu đặt ra nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật trong việc xóa bỏ lao động cưỡng bức ở Việt Nam ........................................ 70 3.2. Một số kiến nghi nhằm hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nan với vấn đề lao động cưỡng bức .................................................................................... 76 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật trong việc xóa bỏ lao động cưỡng bức ở Việt Nam ........................................................................... 72 Kết luận chương 3 ........................................................................................... 79 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLLĐ : Bộ luật Lao động BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự ILO : International Labour Organization (Tổ chức lao động quốc tế) LĐCB : Lao động cưỡng bức NSDLĐ : Người sử dụng lao động NLĐ : Người lao động
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta nói chung và trong lĩnh vực lao động nói riêng. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra những thách thức nhất định đối với lĩnh vực lao động. Một trong những thách thức đó là lao động cưỡng bức (LĐCB), bởi lẽ, Tổ chức Lao động quốc tế - International Labour Organization, viết tắt là ILO đã thông qua Công ước số 29 về LĐCB năm 1930 (Công ước số 29) và Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước từ 05/3/2007. Có thể nói, LĐCB là một trong những mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, xâm phạm đến một trong những quyền cơ bản của con người. Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc năm 1948 đã khẳng định ngay tại Điều 1 và Điều 3 như sau: “mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng nhân phẩm và các quyền”,“mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”; “mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi" [18]. Như vậy, với các đặc điểm và tính chất của mình, LĐCB đã xâm phạm tới quyền tự do lựa chọn việc làm của người lao động, trong nhiều trường hợp trực tiếp xâm phạm đến nhân phẩm và các quyền tự do thân thể của người lao động… Thời gian gần đây, LĐCB đã có những sự phát triển nhanh chóng, diễn biến ngày càng phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi. Vì thế, việc nghiên cứu về LĐCB và xóa bỏ tình trạng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, đồng thời bảo vệ người lao động, hướng tới 1
  8. bảo vệ quyền con người của mỗi công dân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và trên thế giới. Với tư cách là thành viên của Công ước 29, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng trong công tác đấu tranh, phòng chống, tiến tới xóa bỏ LĐCB và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, pháp luật về LĐCB ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, việc vận dụng kinh nghiệm, chuyển hóa pháp luật quốc tế về LĐCB vào hệ thống pháp luật quốc gia còn tương đối thụ động, chưa thể hiện triệt để tinh thần của Công ước 29, do đó có nhiều quy định chưa phù hợp với Điều ước quốc tế cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về LĐCB, tìm hiểu các quy định của pháp luật quốc tế có liên quan và đánh giá quy định pháp luật Việt Nam hiện hành đối với các lĩnh vực sử dụng LĐCB là thực sự cần thiết. Với mong muốn nghiên cứu sâu sắc hơn về vấn đề này, học viên đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về vấn đề LĐCB, ở Việt Nam, trước đây cũng có một số bài viết nghiên cứu khá thành công khi nghiên cứu pháp luật về LĐCB. Đầu tiên phải kể đến là đề tài: “Những quy định cơ bản của Tổ chức lao động quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức (lao động bắt buộc) và các cam kết quốc tế của Việt Nam”, tác giả Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2012. Tác giả Phan Thị Thanh Huyền cũng có bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14/2011 về “Các kiến nghị sửa đổi Bộ luật Lao động 1994 từ việc thực hiện Công ước số 29 của ILO” và bài đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 01/2015 về “Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam hiện hành”. Tuy nhiên, với tình hình diễn biến 2
  9. ngày một phức tạp của LĐCB như hiện nay thì số lượng công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này chưa đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Do đó, việc tiếp cận vấn đề LĐCB ở nước ta cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức” nhằm làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về LĐCB và điều chỉnh pháp luật về LĐCB cũng như làm rõ hơn thực trạng pháp luật về LĐCB ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề ra những kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa về chế định này ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ nhất các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề LĐCB để từ đó có những đánh giá, đề xuất giải pháp hoàn thiện hơn về chế định này sao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Để thực hiện được mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ những vấn đề chung có tính chất lý luận về LĐCB và pháp luật Việt Nam về LĐCB. - Làm rõ thực trạng pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề LĐCB hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật về LĐCB trong thực tế đời sống, cũng như tiếp tục hoàn thiện, phát triển chế định này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, đề tài tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành và một số ngành luật có liên quan về LĐCB. Vấn đề LĐCB có một phạm vi nghiên cứu rất rộng, nhưng trong phạm vi luận văn thạc sĩ này, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về LĐCB trên phương diện trực tiếp, liên quan đến nhóm hành vi ép buộc người 3
  10. lao động thực hiện công việc, liên quan đến một số hoạt động đặc thù và đối tượng đặc thù của quan hệ lao động như hoạt động cho thuê lại lao động và lao động trẻ em. Trong đó, tác giả tập trung vào những nội dung cơ bản có dấu hiệu hoặc có khả năng của việc sử dụng LĐCB nhằm phân tích, đánh giá quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về LĐCB. Trên cơ sở đánh giá đó, tác giả mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về LĐCB, đảm bảo quyền lợi cho mỗi công dân trong xã hội nói chung và người lao động nói riêng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được viết trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về LĐCB nói riêng, đồng thời cũng dựa trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách kinh tế - xã hội, bảo vệ và phát triển con người. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp thống kê, liệt kê… nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu và đánh giá vấn đề một cách khách quan và toàn diện nhât. Trong đó, chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, chương 2 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, kết hợp lý luận và thực tiễn và chương 3 dùng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: 4
  11. Chương 1: Một số vấn đề lý luận và sự điều chỉnh của pháp luật về lao động cưỡng bức. Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam hiện hành với vấn đề lao động cưỡng bức. Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật trong việc xóa bỏ lao động cưỡng bức ở Việt Nam. 5
  12. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CƢỠNG BỨC 1.1. Khái quát chung về lao động cƣỡng bức. 1.1.1. Khái niệm lao động cưỡng bức. Ngày 28/6/1930, tại kỳ họp thứ 14, Tổ chức Lao động quốc tế - ILO đã thông qua Công ước số 29 về LĐCB (Công ước số 29), chính thức ghi nhận khái niệm LĐCB. Theo khoản 1 Điều 2 của Công ước này, “cụm từ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc có nghĩa là mọi cô ng vi ệc hoặc dịch vụ mà m ột người bị ép buộc phả i làm du ̛ới sự đe doạ của một hình phạ t nà o đó và ba ̉n thân người đó khô ng tự nguyện là m” [23]. Từ định nghĩa trên ta thấy, bất kỳ người nào đều có thể trở thành chủ thể của LĐCB khi họ thực hiện một công việc hay một dịch vụ nhất định, bất kể họ là nam giới hay nữ giới, trẻ nhỏ hay người già; họ có thể là người có hoặc không có trình độ chuyên môn đối với công việc, dịch vụ đó… Về phạm vi, khái niệm LĐCB mà Công ước số 29 đưa ra không bó hẹp dưới dạng các hành động cụ thể là “đánh đập, nhục mạ hoặc bị ép buộc”, mà nó thể hiện dưới dạng cả đe dọa và cả hành động liên quan tới bạo lực hay hạn chế thân thể hoặc tước đoạt quyền tự do và các đặc quyền khác của người lao động. Theo Công ước số 29, đối tượng của sự đe dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép buộc người lao động phải thực hiện những công việc mà họ không tự nguyện không chỉ đối với người lao động mà còn với nhân thân của họ. Về công việc sử dụng LĐCB, theo khái niệm của Công ước số 29 không chỉ bó hẹp là những việc làm hợp pháp trong hợp đồng lao động mà có thể là công việc bất hợp pháp và có thể không liên quan đến quan hệ lao động [20]. Nói cách khác, công việc hoặc dịch vụ được đề cập ở đây cần được hiểu là mọi loại hình công việc, dịch vụ bất kỳ, không phân biệt ngành nghề, lĩnh vực, 6
  13. hợp pháp hay bất hợp pháp, chính thức hay phi chính thức… Bên cạnh đó, về ý chí của chủ thể thực hiện, ta xác định bản thân họ không tự nguyện mà bị ép buộc. Sự ép buộc ở đây không bị bó buộc dưới các dạng hành động cụ thể, mà thể hiện dưới dạng cả đe dọa và cả hành động liên quan tới bạo lực hay hạn chế thân thể hoặc tước đoạt quyền tự do và các đặc quyền khác của người lao động. Ví dụ: sử dụng vũ lực chống lại người bị cưỡng bức lao động và thân nhân của họ; bắt, giam giữ người bị cưỡng bức lao động và thân nhân của họ; áp dụng các biện pháp trừng phạt tài chính đối với người bị cưỡng bức lao động và thân nhân của họ; sa thải hoặc phân biệt đối xử khi tuyển dụng đối với người bị cưỡng bức lao động hoặc thân nhân của người đó nếu người đó không thực hiện công việc hoặc dịch vụ được yêu cầu… Có thể coi, yếu tố ý chí của chủ thể là tiêu chí quan trọng để nhận diện một công việc, một dịch vụ có phải là LĐCB hay không. Như vậy, theo Công ước 29, một hoạt động lao động được coi là LĐCB khi thỏa mãn đồng thời các tiêu chí sau: Thứ nhất, một người thực hiện một công việc hoặc một dịch vụ cho người khác. Thứ hai, người đó không tự nguyện mà bị ép buộc phải làm công việc hoặc dịch vụ đó. Thứ ba, người thực hiện công việc hoặc dịch vụ đó bị đe dọa (bản thân họ hoặc nhân thân của họ) sẽ phải chịu một hình phạt nếu không thực hiện công việc hoặc dịch vụ đó. Bên cạnh đó, ta thấy một văn kiện nền tảng của ILO là Công ước số 105 năm 1957 quy định về xóa bỏ LĐCB cũng sử dụng một cách thống nhất định nghĩa về LĐCB theo tinh thần của Công ước số 29. Công ước này không thay đổi định nghĩa cơ bản trong pháp luật quốc tế về LĐCB mà quy định rõ những mục đích nhất định không được sử dụng lao động cưỡng bức [32]. 7
  14. Công ước số 105 không cho phép sử dụng bất kỳ hình thức nào của LĐCB như là một biện pháp cưỡng chế, giáo dục chính trị, kỷ luật lao động hay phân biệt đối xử về chủng tộc, tôn giáo… (Điều 1 Công ước số 105). Mọi nước thành viên của ILO phê chuẩn công ước này cam kết bãi bỏ LĐCB và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức nào của LĐCB. Điều này thể hiện hành động mạnh mẽ và dứt khoát hơn của cộng đồng quốc tế đối với việc xóa bỏ LĐCB. Xung quanh khái niệm về LĐCB, chúng ta vẫn cần phải làm rõ thêm một số nô ̣i dung liên quan sau: Thứ nhấ t, khái niệm LĐCB và thuật ngữ c ưỡng bức lao động . Hai thuâ ̣t ngữ này không hoàn toàn giố ng nhau . Về pha ̣m vi bao trùm, có thể nói cưỡng bức lao đô ̣ng là hành đô ̣ng còn LĐCB la ̣i là mô ̣t thực tra ̣ng , mô ̣t sự viê ̣c mà tại đó trực tiếp xâm phạm đến nhân phẩm , quyề n tự do thân thể của người lao đô ̣ng. Nhưng nhin ̀ chung thì LĐCB hay c ưỡng bức lao đô ̣ng cũng đề u là biể u hiê ̣n của sự bấ t công. Hay cu ̣ thể hơn là mô ̣t cá nhân bi ̣ép buô ̣c phải làm viê ̣c dưới sự cưỡng chế của mô ̣t cá nhân hoă ̣c mô ̣t tổ chức khác. Thứ hai, trên cơ sở luật pháp quốc tế, từ kinh ngh iệm thực tiễn của các quốc gia thì việc nhận diện về LĐCB, bên cạnh một khái niệm chung cũng cần thiết quy định cụ thể các ngoại lệ và những hình thức LĐCB bị cấm gắn với việc xác định nội hàm khái niệm chung đó. Cả hai Công ước quốc tế của ILO đã nhằm mục đích thiết lập một định nghĩa đủ rộng để bao quát tất cả các hoạt động lao động cưỡng bức hiện diện trong các vùng lãnh thổ khác nhau của thế giới, với các hình thức đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ yếu tố lịch sử, truyền thống, kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ lại có những hình thức LĐCB khác nhau. Điều đó dẫn đến Công ước số 29 cho phép các quốc gia thực hiện sự điều chỉnh của luật pháp quốc gia, từ khái niệm cho đến các hình thức nhận diện phù hợp với thực trạng LĐCB hiện có trên lãnh thổ của họ. Pháp luật quốc gia cần phân loại 8
  15. các hình thức LĐCB thực tế, có tính đến kinh tế, đặc điểm xã hội và văn hóa của bối cảnh dẫn đến hành vi này. Chỉ có điểm chung trong nghĩa vụ của các quốc gia là mục đích đảm bảo rằng thực tế LĐCB bị trừng phạt như một hành vi phạm tội, phù hợp với Điều 25 của Công ước số 29. Chính vì vậy, nếu luật pháp quốc gia sử dụng khái niệm LĐCB hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 sẽ quá rộng và dẫn đến việc nhận diện về LĐCB hoặc bắt buộc khó khăn hơn. Do vậy, cần phân biệt giữa LĐCB với lao động bắt buộc. “Cưỡng bức” được hiểu là “dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được” trong khi “bắt buộc” được hiểu là “buộc phải làm, phải chấp nhận”. Như vậy, cưỡng bức và bắt buộc nếu xét về ý nghĩa ngôn từ có điểm chung là một người phải thực hiện công việc hoặc dịch dụ trong điều kiện họ không tự nguyện và mong muốn thực hiện nó. Tuy nhiên, cưỡng bức gắn với việc dùng vũ lực, đe dọa dung vũ lực hoặc các thủ đoạn một cách trực tiếp của con người dồn người khác vào thế phải làm, dù không muốn cũng không được. Nhưng bắt buộc thì thường áp lực là gián tiếp do ngoại cảnh, chẳng hạn một người bắt buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế - xã hội tại địa phương hay do khả năng và điều kiện của bản thân mà không thể có công việc khác hoặc không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn dẫn đến họ phải thực hiện công việc. Tại Văn kiện của Hội Quốc Liên, Điều B và C và tại Điều 5 của Công ước năm 1926 về chế độ nô lệ cũng như được đề cập trong Công ước số 29 thì thuật ngữ "lao động cưỡng bức" thường gợi đến lao động bị cưỡng chế bởi các nhà chức trách hoặc tư nhân trong khi thuật ngữ "lao động bắt buộc" thường được dành riêng cho các dịch vụ có tính tập quán phục vụ mục đích công cộng địa phương nhiều hơn. Hành vi cưỡng bức lao động ở đây chủ yếu là được thực hiện trực tiếp như trói buộc người lao động bằng các khoản nợ do người sử dụng lao động tạo ra lợi dụng hoàn cảnh đói nghèo hay sự thiếu hiểu biết của người lao động tương 9
  16. đồng với lao động bị cưỡng bức ở mô ̣t số quố c gia như Pakistan hay ở Mỹ. Hoặc là gắn với việc giam cầm, dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, hay đe dọa kỷ luật lao động, giữ lương, bản gốc văn bằng, chứng chỉ hoặc yêu cầu người lao động đặt cọc một khoản tiền hoặc các tài sản khác để đẩy người lao động vào hoàn cảnh không thể có cơ hội rời bỏ việc làm. Nếu trong quan hệ lao động, trường hợp một người buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội tại địa phương hoặc do điều kiện bản thân của người lao động mà người lao động không thể có một sự lựa chọn nào khác thì không được coi là LĐCB. Từ mô ̣t số phân tić h trên , thiết nghĩ khái niê ̣m về LĐCB đươ ̣c đưa ra như sau: LĐCB là tin ̀ h tra ̣ng bi ̣người khác ép buô ̣c thực hiê ̣n công viê ̣c dưới sự đe do ̣a về hâ ̣u quả bấ t lơ ̣i có thể xảy ra đố i với bản thân hoă ̣c nhân thân người đó[31]. 1.1.2. Đặc điểm của Lao động cưỡng bức Thứ nhấ t , LĐCB là tình trạng cá nhân bị ép buộc , không tự nguyê ̣n thực hiê ̣n mô ̣t hay nhiề u công viê ̣c hoă ̣c dich ̣ vu ̣ nh ất định. Đặc điểm này cho thấy hoàn toàn không có sự thố ng nhấ t về mă ̣t ý chí chủ quan c ủa cá nhân người bị cưỡ ng bức và hành vi thực hiê ̣n của ho ̣ . Họ không có một sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tuân theo sự ép buộc phải làm công việc hoặc dịch vụ đó. Sự ép buộc phải xuất phát từ cá nhân nhân hoặc tổ chức cụ thể khác. Nế u mô ̣t người do điề u kiê ̣n về bản thân, trình độ chuyên môn quá thấp hoă ̣c không thể làm mô ̣t công viê ̣c nào khác ngoài công vi ệc đó thì chưa thể xác định đó là LĐCB . Ở đây , khi người sử dụng lao động (NSDLĐ) đã lơ ̣i dụng hoàn cảnh điều kiện khó k hăn của người lao động (NLĐ) để áp đặt thời gian làm viê ̣c quá nhiề u , NLĐ bi ̣lê ̣ thuô ̣c vào điề u kiê ̣n nhà ở , ăn uố ng... thì khi đó mới có thể phát sinh tình trạng LĐCB. 10
  17. Các tác động từ phía NSDLĐ có thể được coi là ng uyên nhân chiń h dẫn đến tình trạng LĐCB. Cụ thể như sau : - Dùng vũ lực sử dụng sức mạnh bạo lực thông qua các hành vi như đấm, đá, tát, đánh, đập tác động bằng ngoại lực vào cơ thể của nạn nhân. Hành vi dùng vũ lực có thể thể hiện dưới nhiều động tác khác nhau và mục đích chính khi sử dụng vũ lực là nhằm ép người khác phải lao động. Điều này để phân biệt với hành vi dùng vũ lực trong các tội khác như cố ý gây thương tích, cưỡng dâm, hiếp dâm… - Đe dọa dùng vũ lực: Là việc sử dụng bạo lực tinh thần thông qua các hành vi, hành động hoặc dưới hình thức không hành động nhằm làm cho người lao động NLĐ lo sợ rằng hành vi sử dụng bạo lực sẽ diễn ra, từ đó buộc họ phải thực hiện việc lao động mà người cưỡng bức lao động đã ép buộc họ tiến hành. - Thủ đoạn khác như việc sử dụng các thủ đoạn ngoài dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ví dụ như các biện pháp ép buộc về tinh thần, ràng buộc về các điều kiện vật chất, công việc khiến cho người lao động phải miễn cưỡng làm việc theo yêu cầu của người cưỡng bức lao động đặt ra. Về mặt chủ thể của LĐCB, theo Công ước số 29, bất kỳ một người nào đều có thể trở thành nạn nhân của LĐCB. Tuy nhiên trên thực tế, những người thiếu trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật pháp, có ít lựa chọn trong việc mưu sinh, thuộc về một nhóm dân tộc hoặc tôn giáo thiểu số, bị khuyết tật hoặc có những đặc tính khác mà vì đó họ bị cô lập khỏi cộng đồng dân cư là những người dễ rơi vào tình trạng bị lạm dụng và thường là nạn nhân của LĐCB. Thứ hai, đă ̣c điể m nổ i trô ̣i của tình tra ̣ng LĐCB đó là viê ̣c NLĐ luôn bi ̣ theo dõi, giám sát và chịu sự quản lý , đè nén nghiêm ngă ̣t của NSDLĐ. Theo dõi là việc theo sát từng hành động từng diễn biến để biết rõ và có sự ứng phó xử lý kịp thời. Giám sát là kiểm tra theo dõi xem có thực h iê ̣n đúng quy đinh ̣ 11
  18. hay không [30, tr 389,931]. Cần phân biệt rõ ràng việc theo dõi, giám sát của tình trạng LĐCB với việc theo dõi, giám sát trong hoạt động quản lý lao động cả về mục đích, nội dung và biện pháp: - Về mục đích, mục đích của quản lý lao động là nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong đơn vị sử dụng lao động để sử dụng sức lao động một cách hợp lý, hiệu quả. Mục đích của việc theo dõi, giám sát, quản lý hết sức chặt chẽ đối với người bị cưỡng bức lao động là nhằm cô lập, không cho họ có cơ hội được thoát khỏi tình trạng bị cưỡng bức hay rộng hơn là nhằm duy trì tình trạng lệ thuộc giữa người bị cưỡng bức với người cưỡng bức, người bị cưỡng bức phải tiếp tục thực hiện công việc theo sự ép buộc từ người cưỡng bức. - Về nội dung, quản lý lao động bao gồm các hoạt động của NSDLĐ theo quy định của pháp luật trong: tuyển dụng lao động, sắp xếp, bố trí lao động; tổ chức, điều hành các hoạt động lao động; ký kết hợp đồng lao động; ban hành nội quy, quy chế lao động; kiểm tra, giám sát quá trình lao động và khen thưởng, xử lý vi phạm...Trong khi đó, việc giám sát, theo dõi người bị cưỡng bức lao động trái với quy định của pháp luật được thực hiện trên nhiều nội dung khác nhau, từ ăn ở, sinh hoạt cá nhân đến việc thực hiện công việc của họ. Họ hầu như bị quản lý hoàn toàn, không được tự do làm việc, học tập, vui chơi hay giao tiếp với cộng đồng. Ha nói cách khác, NLĐ sẽ bị mất tự do và hạn chế về mọi mặt [31]. - Về biện pháp, để thực hiện quản lý lao động, NSDLĐ có thể thực hiện nhiều biện pháp khác nhau theo quy định của pháp luật. Tùy từng trường hợp cụ thể, NSDLĐ hoàn toàn được quyền chủ động lựa chọn một hoặc nhiều biện để áp dụng trong quá trình quản lý lao động [15; tr.34]. Trong hoạt động cưỡng bức lao động, để đạt được mục đích của mình, chủ thể cưỡng bức lao động chủ thể cưỡng bức lao động thường áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để giám sát, theo dõi và quản lý người bị cưỡng bức. Các biện pháp này trái 12
  19. với quy định của pháp luật, thường xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người của mỗi cá nhân, ví dụ: Bắt giữ, giam, nhốt NLĐ; tịch thu điện thoại hoặc các phương tiện liên lạc khác để không cho họ liên hệ với gia đình và tìm sự giúp đỡ; giữ giấy tờ tùy thân hoặc thậm chí ép buộc NLĐ sử dụng ma túy hoặc rượu để quản lý họ... Thứ ba , đă ̣c điể m về người bi ̣é p buô ̣c thực hiê ̣n công viê ̣c . Họ luôn trong tin ̀ h tra ̣ng bị đe dọa về những hậu quả bất lợi có thể xảy ra đối với bản thân hoă ̣c nhân thân của ho ̣ khi ho ̣ cố tiǹ h không thực hiê ̣n công viê ̣c theo yêu cầ u. Hâ ̣u quả xảy ra đối với bản thân hay thân nhân người bị hại đều có thể rấ t nghiêm tro ̣ng và đa da ̣ng. Có thể là việc mất đi một số những quyền và lợi ích cơ bản như vui chơi , giải trí, học tập, tham gia vào cô ̣ng đồ ng xã hô ̣i cho đế n bị tước đoạt về cả của cải tinh thần sức khỏe và tính mạng… Những yế u tố đe do ̣a về hâ ̣u quả bấ t lơ ̣i có th ể xảy ra đối với người bị cưỡng bức lao động hoă ̣c nhân thân của ho ̣ có thể xem là nguyên nhân trực tiế p dẫn đế n tin ̀ h tra ̣ng NLĐ thực hiê ̣n những công viê ̣ c mà ho ̣ không mong muố n. Có thể lấ y mô ̣t ví du ̣ cu ̣ thể như sau: Những người b ị kẻ môi giới lừa gạt, đưa vào thành phố làm việc cho một nhà máy hóa chất và bị ông chủ bóc lột sức lao động, buộc làm việc suốt ngày đêm, không trả lương, cấm ra ngoài và đánh đập thường xuyên, thâ ̣m chí cho sử du ̣ng ma túy , chấ t kích thích nhằ m khố ng chế … Và nếu như vẫn tiếp tục không thực hiện công việc bị ép buô ̣c thì vẫn sẽ tiế p tu ̣c đe do ̣a , đánh đâ ̣p và không trả lương hoă ̣c trả lương quá thấp. Cứ như vâ ̣y c á nhân NLĐ sẽ bị phụ thuộc quá nhiều vào NSDLĐ dẫn đế n viê ̣c ho ̣ phải thực hiê ̣n những công viê ̣c mà ho ̣ không mong muố n . Ngoài cá nhân người bị cưỡng bức lao động thì nhân thân của họ cũng có thể phải chịu những hậu quả bấ t lơ ̣i có thể xảy ra . Ví dụ như vi ệc ứng trước tiền lương hoặc tiền vay để trang trải cuô ̣c số ng cho gia điǹ h ho ặc cho các chi phí cấp thiết khác trong sinh hoạt thường ngày không chỉ cho bản thân mà cho 13
  20. người thân của họ. Khoản nợ có thể được nhân lên do việc sử dụng tài khoản đối với người không có trình độ văn hóa. Sau đó là tăng lãi su ất rồ i h ạ thấp kết quả công việc, tăng các chi phí ăn ở sinh hoạt đối với NLĐ... Đơn giản là nế u như người bi ̣cưỡng bức lao đô ̣ng không thực hiê ̣n c ông viê ̣c mà NSDLĐ đưa ra thì nhân thân của ho ̣ không chỉ bi ̣ảnh hưởng mà còn có thể phải gánh chịu nhiều hậu quả không mong muốn . Chính sự đe do ̣a về hâ ̣u quả đó đã tr ói buô ̣c NLĐ với công viê ̣c mà người cưỡng bức lao đô ̣ng đề ra cho họ. 1.1.3. Phân loa ̣i lao động cưỡng bức Theo chủ thể cưỡng bức lao động, LĐCB bao gồm: Thứ nh ất, LĐCB do NSDLĐ thực hiện. Đây là hình thức LĐCB phổ biến nhất. Trong đó, NSDLĐ trực tiếp thực hiện hành vi cưỡng bức lao động đối với NLĐ thông qua các thủ đoạn khác nhau như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay các thủ đoạn tinh vi hơn như lừa gạt, lợi dụng tình trạng khó khăn của NLĐ để ép buộc NLĐ phải thực hiện công việc. NSDLĐ ở đây có thể là một cá nhân hay một tổ chức sử dụng lao động. Thứ hai, LĐCB do những người có liên quan đến quan hệ lao động thực hiện. Trường hợp này, NSDLĐ không trực tiếp thực hiện hành vi cưỡng bức lao động mà thông qua những người khác có liên quan như người quản lý, người được chủ sử dụng lao động giao thực hiện các công việc tại cơ sở có sử dụng lao động hoặc giữa chính những người lao động với nhau. Ví dụ cho trường hợp phân loại theo chủ thể cưỡng bức lao động như sau: A là chủ sử dụng lao động, có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động thì sẽ rất rõ nếu đặt trong quan hệ lao động. Nhưng cũng có thể A chỉ là người quản lý (phó giám đốc, chủ phân xưởng, tổ trưởng, quản đốc…) mà có thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động thì vẫn có thể trở thành chủ thể của tội này. Ngoài ra, một người lao 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2