BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Lệ
NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Lệ
NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 602201
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ TRẦN HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Hoàng đã tận tình hướng
dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân đến các thầy cô, gia đình và bạn bè tôi đã ủng hộ,
động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2011
Nguyễn Thị Lệ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trên bất
kỳ công trình nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2011
Nguyễn Thị Lệ
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................. 4
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 7
4. Đóng góp của đề tài .............................................................................................................. 8
5. Nguồn ngữ liệu và phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 8
6. Bố cục của luận văn ............................................................................................................. 9
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm án văn ............................................................................................................. 11
1.2. Án văn trong hệ thống văn bản pháp luật ....................................................................... 11
1.3. Những đặc trưng pháp lý của án văn ............................................................................... 13
1.4. Khái niệm ngôn ngữ án văn ............................................................................................ 14
1.5. Vị trí của ngôn ngữ án văn trong hệ thống ngôn ngữ pháp luật ...................................... 14
1.6. Hoàn cảnh giao tiếp và mục đích giao tiếp của án văn ................................................... 16
1.7. Những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến ngôn ngữ án văn ........ 17
1.8. Tiểu kết ............................................................................................................................ 21
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................. 11
2.1. Đặc điểm tổ chức văn bản trong án văn .......................................................................... 24
2.1.1. Cấu trúc của án văn .................................................................................................. 24
2.1.1.1. Cấu trúc thể loại tiềm năng của án văn....................................................................... 25
2.1.1.2. Cấu trúc phát triển nhận thức của án văn ................................................................... 28
2.1.2. Các phương tiện liên kết trong án văn ..................................................................... 29
2.1.2.1. Phép lặp ....................................................................................................................... 30
2.1.2.2. Phép nối ....................................................................................................................... 34
2.1.2.3. Phép tuyến tính ............................................................................................................ 37
2.1.3. Phương pháp trình bày nội dung án văn .................................................................. 37
2.1.3.1. Phương pháp đưa thông tin ......................................................................................... 38
2.1.3.2. Phương pháp sử dụng lập luận ................................................................................... 41
2.1.3.3. Phương pháp mệnh lệnh .............................................................................................. 45
2.2. Đặc điểm từ vựng trong án văn ....................................................................................... 45
CHƯƠNG 2 - ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT ....................... 24
2.2.1. Hệ thuật ngữ trong án văn ........................................................................................ 45
2.2.1.1. Hệ thuật ngữ xét về mặt cấu tạo .................................................................................. 46
2.2.1.2. Thuật ngữ xét về tần số xuất hiện và phạm vi phân bố ............................................... 48
2.2.2. Từ biểu thị ý phủ định, khẳng định .......................................................................... 50
2.3. Đặc điểm cú pháp trong án văn ....................................................................................... 52
2.3.1. Hiện tượng tách biệt cú pháp ................................................................................... 52
2.3.2. Câu tỉnh lược chủ ngữ .............................................................................................. 56
2.3.3. Thành phần phụ trạng ngữ và phần phụ chú ............................................................ 58
2.3.3.1. Thành phần phụ trạng ngữ .......................................................................................... 58
2.3.3.2. Phần phụ chú ............................................................................................................... 64
2.4. Đặc điểm ngữ dụng trong án văn .................................................................................... 68
2.4.1. Câu ngôn hành và động từ ngôn hành trong án văn ................................................ 68
2.4.2. Tình thái trong án văn .............................................................................................. 72
2.4.2.1. Phân loại tình thái trong án văn .................................................................................. 73
2.4.2.2. Các phương tiện biểu hiện tình thái đạo nghĩa trong án văn ...................................... 78
2.5. Tiểu kết ............................................................................................................................ 83
3.1. Căn cứ nhận diện và phân loại lỗi ngôn ngữ trong án văn .............................................. 86
3.2. Thực trạng và giải pháp về từ ngữ trong án văn ............................................................. 87
3.2.1. Về xưng – hô ............................................................................................................ 87
3.2.2. Về phong cách chức năng ngôn ngữ ........................................................................ 94
3.2.2.1. Dùng từ ngữ địa phương ............................................................................................. 95
3.2.2.2. Dùng từ ngữ khẩu ngữ ................................................................................................. 99
3.2.2.3. Dùng từ ngữ chung chung, mơ hồ ............................................................................. 100
3.2.3. Về ngữ nghĩa của từ trong phát ngôn ..................................................................... 103
3.2.3.1. Dùng thừa từ ngữ....................................................................................................... 103
3.2.3.2. Dùng sai nghĩa của từ ngữ ........................................................................................ 106
3.3. Thực trạng và giải pháp về ngữ pháp trong án văn ....................................................... 108
3.3.1. Về sử dụng dấu câu ................................................................................................ 108
3.3.1.1. Sử dụng dấu câu sai chức năng ................................................................................. 109
3.3.1.2. Sử dụng thừa dấu câu ................................................................................................ 112
3.3.1.3. Thiếu dấu câu ............................................................................................................ 115
3.3.2. Về tách câu ............................................................................................................. 118
3.3.3. Về thành phần chủ ngữ của câu ............................................................................. 120
3.4. Thực trạng và giải pháp về tổ chức văn bản trong án văn ............................................ 121
CHƯƠNG 3 - NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .......................................................................................... 86
3.4.1. Không thống nhất ở cấu trúc văn bản .................................................................... 121
3.4.2. Không hợp lý trong việc chia tách đoạn văn ......................................................... 124
3.5. Tiểu kết .......................................................................................................................... 127
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 132
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 135
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bản án là văn bản pháp luật ghi nhận quyết định của tòa án, đánh dấu sự kết
thúc của quá trình tố tụng và có thể làm phát sinh một quá trình tố tụng khác. Bản án
có tính quyết định đến số phận, tính mạng, tài sản của cá nhân và pháp nhân.
Cùng với xu thế phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới, việc công khai
bản án trên các phương tiện truyền thông và xây dựng án lệ đang được ngành tòa án
nghiên cứu thực hiện. Có thể trong tương lai, bản án và quyết định của tòa án không
còn bị bó hẹp trong phạm vi ngành nữa mà sẽ được phổ biến rộng rãi tới cán bộ, công
chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị tư pháp, lập pháp, hành pháp, nghiên cứu
pháp luật và nhân dân.
Tuy nhiên, sự tồn tại và hành chức của vô số bản án, quyết định của Tòa án
chưa được các nhà ngôn ngữ học quan tâm vì nhiều lý do khác nhau. Với tư cách là
một sản phẩm ngôn ngữ; các bản án, quyết định của tòa án có những đặc trưng gì? Có
thể tiến hành chuẩn hóa ngôn ngữ bản án hay không? Đấy là những vấn đề từ lâu đã
được đặt ra và nay càng có ý nghĩa cấp thiết. Những vấn đề này được giải quyết sẽ
góp phần xác lập cơ sở khoa học để tạo bản án đúng chuẩn mực, đúng với yêu cầu
khắt khe của lý luận và thực tiễn.
Từ nhận thức trên, chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu với tên đầy đủ là
“Ngôn ngữ án văn tiếng Việt”. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn bước đầu chỉ ra
những đặc trưng ngôn ngữ của bản án, quyết định của tòa án - một loại văn bản pháp
luật rất điển hình của hoạt động tư pháp. Ngoài ra, chúng tôi cũng dành một phần của
luận văn để tìm hiểu thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong án văn tiếng Việt hiện nay,
bước đầu đề xuất giải pháp khắc phục những vấn đề ngôn ngữ còn tồn tại để góp
phần xác lập bản án chuẩn về mặt ngôn ngữ.
2. Lịch sử vấn đề
Ngôn ngữ án văn vẫn còn là một địa hạt mới mẻ đối với những nhà ngôn ngữ
học. Cho tới nay, ngành Việt ngữ học chưa có một công trình nào trực tiếp nghiên
cứu ngôn ngữ trong các bản án. Ngôn ngữ án văn là một bộ phận của ngôn ngữ luật
pháp, được sử dụng trong ngành tòa án. Ở Việt Nam, ngôn ngữ luật pháp cũng được
quan tâm tìm hiểu trong những năm gần đây. Đáng chú ý nhất là luận án tiến sĩ Ngữ
văn của Lê Hùng Tiến (1999): Một số đặc điểm của ngôn ngữ luật pháp tiếng Việt
(có so sánh đối chiếu với tiếng Anh và ứng dụng trong dịch Việt – Anh). Tác giả chỉ
ra những đặc điểm chính về từ ngữ, ngữ pháp, văn bản của ngôn ngữ luật pháp tiếng
Việt trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Lê Hùng Tiến coi văn bản quy phạm pháp luật là một dạng diễn ngôn và
phân tích văn bản dưới góc độ của phân tích diễn ngôn. Từ đó, tác giả chỉ ra những
đặc điểm ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp độ: Từ
ngữ, ngữ pháp và tổ chức văn bản. Ở cấp độ từ ngữ, tác giả quan tâm đến phương
diện chức năng liên nhân của văn bản luật pháp tiếng Việt thể hiện ở phương tiện
ngôn ngữ là động từ ngữ vi, câu ngữ vi và tình thái. Những phương tiện này góp phần
tạo tính hành thực cho văn bản pháp luật, biến văn bản thành quy phạm pháp luật và
là phương tiện ngôn ngữ quan trọng góp phần tạo lập quyền và nghĩa vụ trong văn
bản luật pháp tiếng Việt. Ở cấp độ từ ngữ, tác giả còn tìm hiểu phương diện chức
năng quan niệm thông qua hệ thống thuật ngữ luật pháp và đặc điểm của từ Hán Việt
sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật. Ở cấp độ ngữ pháp, tác giả Lê Hùng Tiến
chú ý đến hiện tượng danh hóa như một phương tiện ngôn ngữ góp phần tạo nên tính
chính xác và bao trùm của văn bản luật pháp, chú ý đến độ dài bất thường của câu
trong văn bản và chỉ ra nguyên nhân của vấn đề đó. Ở cấp độ văn bản, tác giả phân
tích cấu trúc của văn bản quy phạm pháp luật dưới hai khía cạnh: Cấu trúc phát triển
nhận thức và cấu trúc tiềm năng, chỉ ra những phương tiện liên kết đặc thù mà văn
bản pháp luật sử dụng.
Văn bản quy phạm pháp luật và án văn có mục đích giao tiếp rất khác nhau.
Văn bản quy phạm pháp luật có mục đích giao tiếp là chỉ dẫn, đặt ra nghĩa vụ, ban
phát quyền hành và hình phạt. Người phát là Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước, người nhận là đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy văn bản quy
phạm pháp luật chỉ có một dạng thức duy nhất. Còn án văn là văn bản thuộc dạng thủ
tục pháp lý, mục đích của nó là giải quyết những vấn đề cụ thể, với những đối tượng
cụ thể. Người phát là cán bộ ngành tòa án và người nhận là những đối tượng liên
quan trong vụ án. Án văn có rất nhiều biến thể. Chính vì vậy mà cách thức tổ chức
văn bản và sử dụng ngôn từ của hai loại này cũng rất khác biệt. Tuy nhiên, những
nghiên cứu của Lê Hùng Tiến là những gợi ý rất hữu ích cho chúng tôi và cùng với
tác giả, chúng tôi bổ sung thêm một khía cạnh khác nữa về ngôn ngữ pháp luật.
Nếu như án văn là một địa hạt mới mẻ đối với những nhà ngôn ngữ học thì với
những nhà luật học, án văn lại được quan tâm và nhắc đến khá nhiều trong các tạp chí
chuyên ngành, báo in và báo điện tử pháp luật. Vì giới hạn của ngành, mặc dù quan
tâm đến ngôn ngữ án văn nhưng các nhà luật học mới chỉ xem xét nó ở mức độ đề
xuất nghiên cứu với những nhận xét khái quát mà chưa có công trình nào nghiên cứu
rõ ràng, tỉ mỉ. Đáng kể nhất là các bài viết của Phan Trung Hoài [25], Nguyễn Thu
[36], Anh Thư [37], Nguyễn Xuân Tùng [43].
Trong bài viết “Bàn về khái niệm và các tiêu chí của bản án điển hình” (Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 5/2002), thạc sĩ Luật học Phan Trung Hoài chỉ ra những đặc
trưng cơ bản của bản án và quyết định của tòa án, xác định khái niệm cho bản án điển
hình và các tiêu chí để xác định bản án điển hình. Ông cho rằng “văn phong bản án
thể hiện ngôn ngữ pháp lý chặt chẽ, khúc chiết, rõ ràng”, ngôn ngữ án văn “phải là
ngôn ngữ thể hiện quyền lực Nhà nước, mang tính pháp lý chặt chẽ, rõ ràng, khúc
chiết và hiểu đơn nghĩa”. Phan Trung Hoài coi văn phong bản án với những đặc điểm
như trên là một tiêu chí bắt buộc của một bản án điển hình: “Khi xây dựng cơ sở dữ
liệu bản án điển hình, một việc nên làm là nên tuyển chọn những bản án có văn
phong sắc sảo, nhận định rõ ràng, sử dụng ngôn từ thuyết phục, ngắn gọn, có tác
dụng giáo dục và truyền bá tốt.”. Ông cũng đưa ra một nhận định khá sắc sảo về vấn
đề chuẩn hóa văn phong bản án như sau: “Vấn đề hiện nay là pháp luật chưa quy
định rõ và Tòa án Nhân dân Tối cao chưa hướng dẫn cụ thể về cái gọi là “văn phong
bản án”. Thật ra, quy chuẩn hóa văn phong bản án theo một mẫu chung thống nhất
không phải là giải pháp đúng, vì bản án là sản phẩm của nhận thức chủ quan và
chính sắc thái đa dạng trong nhận định tình huống, chứng cứ và những lập luận chặt
chẽ, sắc sảo của mỗi bản án lại là một điều nên làm.”. Cụ thể hơn, trong bài viết
“Một số suy nghĩ về kỹ năng viết bản án sơ thẩm hình sự”, Nguyễn Xuân Tùng trình
bày ý kiến của mình về bản án mẫu và cách viết một bản án sơ thẩm hình sự. Trên cơ
sở xem xét và đối chiếu bản án mẫu với bản án thực tế, tác giả chỉ ra những điểm hợp
lý và những điểm chưa hợp lý về tổ chức văn bản, sử dụng ngôn từ của bản án mẫu
và bản án thực tế. Ví dụ như tác giả đề nghị thay cụm từ “Trình độ văn hoá” trong
phần lý lịch bị cáo của mẫu bản án bằng cụm từ “Trình độ học vấn” để bản án chính
xác hơn. Vì tác giả cho rằng “Nói đến văn hoá là nói đến tính sáng tạo, là nói đến
khả năng tạo ra cái mới và văn hoá là một khái niệm rộng lớn phản ánh trình độ văn
minh của con người qua các thời kỳ phát triển của xã hội […]. Còn trình độ học vấn
của một con người là nói đến khả năng học tập (khả năng tiếp thu) của một cá nhân,
phản ánh cá nhân đó đã học được đến lớp mấy rồi”. Ngoài ra, tác giả Anh Thư [37],
Nguyễn Thu [36, tr.4] cũng đề cập đến những vấn đề bất cập trong việc viết bản án
như: Bản án chưa có sự thống nhất, viết bản án còn tuỳ tiện, trong bản án còn có
nhiều lỗi sai về sử dụng từ ngữ, ngữ pháp.
Những nghiên cứu của những người đi trước sẽ là gợi ý rất hữu ích cho chúng
tôi tìm hiểu đặc trưng của ngôn ngữ án văn tiếng Việt và thực trạng sử dụng ngôn
ngữ án văn tiếng Việt hiện nay.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu đối tượng thuộc về ngôn ngữ luật
pháp ở dạng viết: Bản án và các quyết định của Toà án có giá trị như một bản án.
Cần phải nói thêm rằng, trong quá trình thụ lý và giải quyết một vụ án, Toà án
nhân dân các cấp có thể ban hành nhiều loại quyết định khác nhau như: Quyết định
đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà, quyết định thay đổi thẩm phán, hội
thẩm hay thư ký…Sự phân biệt các quyết định nằm ở ranh giới giữa quyết định về
nội dung hay quyết định về tố tụng và chỉ có những quyết định về nội dung, có giá trị
như một bản án mới là đối tượng của luận văn. Vì vậy, chúng tôi không tách bản án
và các quyết định của Tòa án có giá trị như một bản án thành hai đối tượng riêng biệt
mà coi chúng thuộc cùng một loại để nghiên cứu.
Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu ngôn ngữ án văn dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học đồng đại và bỏ qua góc nhìn lịch đại về sự phát triển trong nội bộ ngôn
ngữ. Nói như vậy có nghĩa là đối tượng cụ thể của luận văn là ngôn ngữ án văn
tiếng Việt hiện đại.
Nghiên cứu ngôn ngữ án văn, chúng tôi nhằm đến mục đích là tìm hiểu thực
tiễn sử dụng ngôn ngữ của bộ phận cán bộ ngành Toà án trong quá trình xét xử vụ án,
tìm hiểu những yếu tố chi phối quá trình sử dụng ngôn ngữ đó. Từ đó, chúng tôi xác
định những đặc trưng ngôn ngữ của án văn, giúp phân biệt án văn với các văn bản
pháp luật gần gũi khác. Ngoài ra, luận văn còn dành một chương để khảo sát những
lỗi ở các cấp độ ngôn ngữ, đề ra giải pháp nhằm hướng tới quy chuẩn ngôn ngữ án
văn.
4. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học: Đề tài mà luận văn nghiên cứu thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học
ứng dụng. Vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp cho lý luận ngôn ngữ
một số cứ liệu về đặc điểm ngôn ngữ án văn – một dạng cơ bản của ngôn ngữ luật
pháp. Đồng thời, luận văn còn cung cấp những cứ liệu cho thấy sự phong phú, đa
dạng và phức tạp của ngôn ngữ tiếng Việt trong hoạt động hành chức.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đóng góp gián tiếp vào việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án. Kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ cung cấp ít nhiều thông tin hữu ích cho việc sử dụng ngôn ngữ có hiệu quả
trong lĩnh vực pháp luật, góp phần phát triển ngôn ngữ án văn tiếng Việt nói riêng
và ngôn ngữ luật pháp nói chung.
5. Nguồn ngữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Về nguồn ngữ liệu: Ngữ liệu của luận văn là những bản án của các cấp sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm ở các lĩnh vực: Dân sự, hình sự, hành chính, lao
động và thương mại; những quyết định có giá trị như một bản án như: Quyết định
giám đốc thẩm, quyết định kháng nghị... Trong đó những bản án dân sự chiếm đa số
với nhiều tiểu loại như: về việc ly hôn và tranh chấp tài sản, về việc tranh chấp quyền
sử dụng đất, về việc tranh chấp thừa kế, về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại…Xét
các ngữ liệu ở nhiều loại như vậy sẽ giúp người nghiên cứu bao quát được ngôn ngữ
án văn ở diện rộng và có cơ sở để so sánh, đối chiếu khi cần thiết. Tổng số ngữ liệu
khảo sát là 74 bản án gồm 561 trang. Phạm vi ngữ liệu: bản án và quyết định của toà
án nhân dân các cấp tại các tỉnh phía Nam Việt Nam như: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Thuận, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Hậu Giang, Long An, Ninh
Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long.
Về phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng
phối hợp các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích diễn ngôn: Đây là phương pháp dùng để xem xét án
văn dưới góc độ chức năng và dụng học. Cụ thể là xem xét hoàn cảnh giao tiếp để tìm
ra các mục đích giao tiếp của văn bản, từ đó tìm hiểu cơ chế hoạt động của từ vựng,
ngữ pháp, các phương tiện liên kết văn bản, cấu trúc ngầm ẩn quy định sự sắp xếp, bố
trí các đơn vị từ vựng, ngữ pháp trong án văn.
Phương pháp miêu tả: Luận văn sử dụng phương pháp này để miêu tả ngữ
nghĩa, cấu tạo của một số đơn vị ngôn ngữ đặc trưng trong án văn như thuật ngữ,
trạng ngữ, các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện tình thái…; miêu tả cách thức sử dụng
những đơn vị từ vựng, ngữ pháp để xác định lỗi sử dụng ngôn ngữ trong án văn.
Phương pháp thống kê: Để thực hiện có hiệu quả đề tài, chúng tôi sử dụng
phương pháp thống kê ngôn ngữ khi cần biết tần số xuất hiện của một đơn vị ngôn
ngữ cụ thể, như: thuật ngữ, trạng ngữ để xác định đơn vị ngôn ngữ chiếm ưu thế và
hiệu quả tác động của nó đối với mục đích giao tiếp của án văn.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này chúng tôi dùng khi cần phải so sánh
các loại và các tiểu loại án văn theo phạm vi vụ việc, so sánh các hiện tượng ngôn
ngữ bên trong và bên ngoài án văn để xác định đặc trưng cho án văn hay chỉ ra những
lỗi ngôn ngữ thường thấy trong án văn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm có ba chương.
Chương một có tên gọi “Những vấn đề chung”. Trong chương này, chúng tôi
trình bày những vấn đề lý thuyết cần phải lưu ý khi xét đặc điểm ngôn ngữ án văn.
Bảy đề mục của chương sẽ lần lượt giải quyết những vấn đề xoay xung quanh án
văn và ngôn ngữ án văn, như: khái niệm, tên gọi, đặc trưng pháp lý của án văn, hoàn
cảnh và mục đích giao tiếp của án văn, phân biệt án văn với những văn bản gần gũi
khác, những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan tới ngôn ngữ án
văn.
Chương hai “Đặc điểm ngôn ngữ án văn tiếng Việt” là trọng tâm nghiên cứu
của luận văn. Trong chương này, chúng tôi chỉ ra những đặc điểm cơ bản của ngôn
ngữ án văn giúp phân biệt nó với những văn bản hành chính khác. Những đặc trưng
của ngôn ngữ án văn tiếng Việt sẽ được làm rõ ở các cấp độ và bình diện ngôn ngữ:
từ ngữ, ngữ pháp, ngữ dụng và tổ chức văn bản.
Chương ba “Ngôn ngữ án văn tiếng Việt hiện nay: thực trạng và giải pháp” chỉ
ra những vấn đề ngôn ngữ còn xuất hiện trong án văn ở ba khía cạnh: từ, câu, văn
bản. Từ thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong án văn, chúng tôi bước đầu đề xuất một
số giải pháp nhằm hướng tới việc xây dựng chuẩn ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt.
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm án văn
Từ điển Luật học (1999) đã định nghĩa về án văn như sau: Án văn là văn bản
phản ánh kết quả xét xử của tòa án về một vụ án cụ thể (án hình sự, dân sự, kinh tế,
lao động, hành chính), trong đó nêu rõ: ngày tháng mở phiên tòa, thành phần hội
đồng xét xử, các bên tham gia tố tụng, nội dung sự việc, nhận định của tòa án và
quyết định của tòa.[41, tr.18].
Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2004) không có từ “án văn”
nhưng án văn được gọi dưới một tên khác là bản án và được định nghĩa như sau:
“Quyết định bằng văn bản của tòa án sau khi xét xử vụ án.” [31, tr.30], là án với
nghĩa “Quyết định của tòa án xử một vụ án” [31, tr. 6].
Như vậy về tên gọi của đối tượng nghiên cứu, án văn là tên gọi mang tính chuyên
môn trong ngành Luật, ngoài ra án văn còn có những tên gọi thông thường và thông
dụng hơn là bản án, gọi tắt là án. Trong luận văn, chúng tôi sử dụng cả ba tên gọi
này. Án văn khác với quyết định, nhưng như đã nói, không phải quyết định nào cũng
là đối tượng của luận văn mà chỉ có những quyết định về nội dung tố tụng mới là đối
tượng nghiên cứu. Những quyết định này có giá trị như một bản án, vì vậy chúng tôi
sử dụng tên gọi án văn để gọi chung cho cả hai loại đối tượng.
1.2. Án văn trong hệ thống văn bản pháp luật
Án văn là một văn bản pháp luật. Văn bản pháp luật có ba loại khác nhau: văn
bản cá biệt, văn bản quy phạm pháp luật và văn bản mang tính chất chủ đạo. Cần
phân biệt ba loại văn bản này để xác định vị trí của án văn trong hệ thống văn bản
pháp luật. Ba loại văn bản này được hiểu (dẫn theo Lê Minh Toàn [38, tr.81]) như
sau:
Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được nhà
nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, ví dụ: hiến pháp, bộ luật…
Văn bản có tính chất chủ đạo: là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm thực hiện các chủ trương lớn, các đường lối, nhiệm vụ lớn, đề
cập đến các vấn đề có tính chất chính trị, pháp lý của Quốc gia, địa phương (ví dụ:
lời tuyên bố, hiệu triệu…) động viên nhân dân thực hiện. Các chính sách đó tuy
mang tính pháp lý song không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
Văn bản cá biệt: là loại văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ
vào quy phạm pháp luật ban hành để giải quyết các vụ việc cụ thể, hiệu lực chỉ một
lần và chỉ có quan hệ với những cá nhân, tổ chức chỉ ra trong chính văn bản, ví dụ:
bản án, quyết định của tòa án, quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ công chức…
Điểm giống nhau giữa ba loại văn bản trên là chúng đều do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành, vì vậy đều có tính pháp lý. Nhưng điểm khác nhau cơ
bản giữa ba loại văn bản này là nội dung, phạm vi hiệu lực và mục đích giao tiếp. Có
thể thấy rõ sự khác biệt của chúng trong Bảng 1.1.
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa ba loại văn bản: Văn bản quy phạm pháp
luật, Văn bản có tính chất chủ đạo, Văn bản cá biệt
Văn bản quy Văn bản có tính Văn bản cá biệt
phạm pháp luật chất chủ đạo
Quy định về quy Tuyên truyền cổ Xử lý những vụ việc cụ Nội dung
tắc xử sự chung động nhân dân thực thể liên quan đến những
cho toàn xã hội hiện một chủ trương, con người cụ thể
chính sách của nhà
nước
Có hiệu lực đối Có thể là tất cả công Có hiệu lực đối với Hiệu lực
với tất cả công dân của một nước những đối tượng cụ thể
mà văn bản chỉ ra và chỉ dân của một nước hoặc chỉ của một địa
trong thời gian phương nào đó trong có hiệu lực một lần
không xác định một khoảng thời gian
nhất định
Điều chỉnh các Động viên nhân dân Dựa vào văn bản quy Mục đích
quan hệ xã hội thực hiện chủ trương, phạm pháp luật để giải giao tiếp
theo một định chính sách mà văn quyết những vụ việc cụ
hướng cụ thể bản nêu ra thể
Như vậy, có thể thấy án văn thuộc dạng văn bản cá biệt do cơ quan có thẩm
quyền là tòa án các cấp ban hành, xử lý các hành vi hoặc quan hệ pháp luật phát sinh
từ một vụ việc cụ thể về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan hệ
đó.
1.3. Những đặc trưng pháp lý của án văn
Những đặc trưng được trình bày ở đây là những đặc trưng pháp lý ảnh hưởng
đến sự lựa chọn và tổ chức ngôn ngữ của án văn.
Đặc trưng thứ nhất: Án văn luôn nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Các bản án, quyết định của tòa án là sự biểu hiện ra bên ngoài của quyền
lực nhà nước, trong sự phân công của bộ máy tư pháp. Chính đặc trưng này khiến
cho ngôn ngữ án văn mang tính pháp lý cao, thể hiện ở hàng loạt những thuật ngữ
pháp luật, những từ mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc. Điều 10 Bộ Luật Tố tụng
hình sự quy định: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt nếu chưa
có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy về bản chất, khi
được công bố, bản án thực hiện một hành vi xã hội cụ thể là hành vi phân xử và kết
tội. Điều này khiến cho ngôn ngữ án văn mang tính chất của một hành động ngôn
trung, sử dụng những câu ngôn hành và động từ ngôn hành.
Đặc trưng thứ hai: Bản án do hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại phòng
nghị án và tuyên án công khai tại phòng xử án. Đặc trưng này khiến bản án trở thành
một loại văn bản cá biệt. Nó là sản phẩm của một tập người (từ 3 người trở lên) và có
người đại diện ghi lại thành biên bản. Nó được đọc (tuyên án) công khai tại phòng xử
án. Tuy nhiên, thực tế Hội đồng xét xử chỉ thảo luận và thông qua tại phòng nghị án
về nội dung của bản án và quyết định cuối cùng của tòa án. Còn ngôn ngữ bản án lại
là do một cá nhân cụ thể viết, mang dấu ấn nhất định của cá nhân đó. Vì vậy, mỗi bản
án có thể coi là những biến thể của cùng một dạng văn bản. Bản án chỉ có hiệu lực
khi được công khai tại phòng xử án. Như vậy bản án là dạng viết ra để nói nhưng nói
ở đây thực chất lại là một hình thức đọc lại văn bản đã được soạn thảo. Vì thế ngôn
ngữ án văn vẫn là dạng ngôn ngữ viết, theo những chuẩn mực của ngôn ngữ viết và
nó không chịu tác động của những yếu tố ngữ âm như ngữ điệu. Ngữ điệu đọc hoàn
toàn phụ thuộc vào cấu trúc và nội dung của văn bản.
Đặc trưng thứ ba: Án phải viết thành văn bản và giao án theo đúng quy định
của pháp luật. Pháp luật về tố tụng ở các lĩnh vực khác nhau đều quy định: trong một
thời gian nhất định (15 ngày trong vụ án hình sự, dân sự; 7 ngày trong vụ án kinh tế,
lao động, hành chính) sau khi tuyên án, tòa án phải giao bản sao bản án cho bị cáo,
đương sự, Viện Kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, gửi bản sao bản án cho những
người vắng mặt và thông báo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi bị cáo, đương sự cư trú hoặc làm việc. Pháp luật cũng quy định trong
trường hợp xử vắng mặt bị cáo, đương sự, trong thời hạn nói trên, bản sao bản án
phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi
làm việc cuối cùng của bị cáo, đương sự. Như vậy, bản án không phải là dạng tài
liệu bí mật của riêng ngành tòa án mà nó có tính đại chúng. Vì vậy ngôn ngữ án văn
có ảnh hưởng nhất định đến quy chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt, tác động đến việc sử
dụng ngôn ngữ của nhân dân. Cho nên ngôn ngữ án văn đòi hỏi sự chính xác trong
cách dùng từ, đặt câu, phù hợp với văn phong của một văn bản hành chính.
Đặc trưng thứ tư: Bản án, quyết định đã được tuyên bố thì không được sửa đổi,
bổ sung, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu vì tính toán sai hoặc do lỗi chính
tả. Việc sửa đổi, bổ sung bản án là một việc làm phức tạp và tốn nhiều thời gian. Vì
thế, ngôn ngữ án văn lại càng cần phải chính xác, mẫu mực để tránh những sai sót
trong việc diễn đạt dẫn đến việc hiểu sai nội dung cần thông báo.
1.4. Khái niệm ngôn ngữ án văn
Hiểu một cách đơn giản nhất, ngôn ngữ án văn tiếng Việt là hình thức văn tự
tiếng Việt được sử dụng trong án văn, bao gồm việc sử dụng ngôn từ và tạo lập ngôn
bản để thể hiện nội dung của án văn.
1.5. Vị trí của ngôn ngữ án văn trong hệ thống ngôn ngữ pháp luật
Bản án nằm trong hệ thống văn bản pháp luật vì vậy ngôn ngữ án văn thuộc về
ngôn ngữ luật pháp. Ngôn ngữ luật pháp tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau như
ngôn ngữ luật pháp ở dạng nói và ngôn ngữ luật pháp ở dạng viết. Ở dạng viết, ngôn
ngữ luật pháp lại chia ra thành nhiều tiểu loại khác nhau tùy thuộc vào tính chất, nội
dung và mục đích của văn bản. Có thể nhận diện ngôn ngữ án văn trong hệ thống
ngôn ngữ luật pháp trong Bảng 1.2.
Bảng 1.2. Các tiểu loại của ngôn ngữ luật pháp
(Nguồn:dẫn theo Lê Hùng Tiến [39])
Ngôn ngữ luật pháp
Viết
Nói
Sư phạm
Học thuật
Nghề nghiệp
Thuyết trình Tòa thực tập
Tham vấn Thẩm vấn Luật sư – khách hàng Luật sư – nhân chứng
Chỉ dẫn của hội đồng thẩm xét
Giao tiếp giữa các nhà chuyên môn
Thủ tục pháp lý
Học thuật
Hồ sơ vụ án
Luật pháp Bản án
Khuôn mẫu Thể chế chính thức
Bộ luật
Hợp đồng Hiệp định…
Quy định Luật lệ .v.v
Giáo trình Tạp chí
Như vậy, trong hệ thống ngôn ngữ luật pháp thì bản án được xếp vào loại thủ
tục pháp lý, nó khác với những văn bản thuộc thể chế chính thức như các Bộ Luật,
Hiến pháp….
1.6. Hoàn cảnh giao tiếp và mục đích giao tiếp của án văn
Hoàn cảnh giao tiếp của án văn: Ngôn ngữ án văn là ngôn ngữ trong hành
chức, xử lý mối quan hệ pháp luật với nhiều vai giao tiếp khác nhau.
Người tạo lập nội dung văn bản là một tập người và một người ghi lại theo sự
thống nhất chung. Tập người này đại diện cho luật pháp, đại diện cho quyền lực của
nhà nước vì vậy vai giao tiếp của họ trong án văn là vai quyền lực hay vai tác động.
Đối tượng tiếp nhận văn bản trực tiếp là cá nhân hay pháp nhân có quan hệ với nhau
về mặt pháp luật, có những xung đột quyền lợi nhất định được chỉ ra trong chính văn
bản. Những hành vi và quan hệ pháp luật của họ được vai quyền lực/vai tác động
phân xử theo hướng hợp pháp hay không hợp pháp. Vai giao tiếp của những cá nhân
hay pháp nhân đó là vai chịu sự tác động. Ngoài đối tượng tiếp nhận trực tiếp là
những công dân bình thường, án văn còn có đối tượng tiếp nhận gián tiếp. Đó là
những thẩm tra viên, thẩm phán ở những cấp cao hơn hoặc là những luật sư. Họ là
những người có chuyên môn trong lĩnh vực luật pháp. Vì vậy, ngôn ngữ án văn phải
đảm bảo được hai tiêu chí: vừa đơn giản, dễ hiểu lại vừa mang tính chuyên môn cao
để hướng tới sự tiếp nhận văn bản của cả hai đối tượng trên.
Mục đích giao tiếp: Án văn không chỉ viết ra để cho người khác đọc mà chính
người soạn thảo văn bản đại diện đọc trước Tòa. Khi bản án được đọc lên ngay lập
tức nó thực hiện một hành động xã hội. Nó làm thay đổi hiện thực ngoài văn bản;
kết thúc một quá trình xét xử, phân định tính hợp pháp – không hợp pháp của hành
vi hoặc quan hệ xã hội; chỉ ra quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của những cá nhân
hay tổ chức được chỉ ra trong chính văn bản và buộc họ phải thi hành theo. Vì thế
ngôn ngữ án văn phải có tính chính xác, minh bạch, tính khách quan và phải có tính
thuyết phục cao.
1.7. Những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến ngôn ngữ án văn
Những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến ngôn ngữ án văn theo
hai hướng: liên quan trực tiếp và liên quan gián tiếp.
Những văn bản liên quan trực tiếp tới án văn là những văn bản có những quy
định trực tiếp về ngôn ngữ án văn, như: các Bộ Luật Tố tụng và các Nghị định quy
định về hình thức và nội dung của án văn.
Các Bộ Luật tố tụng quy định cụ thể về nội dung và bố cục của án văn ở từng
cấp khác nhau. Ví dụ như, Điều 224 Bộ Luật Tố tụng hình sự quy định về Bản án:
1. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Trong bản án cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm mở phiên
tòa; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án; họ tên của Kiểm
sát viên, họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn
hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam;
họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị
cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ.
3. Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội
hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ Luật
hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý
thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị
cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của tòa án và quyền
kháng cáo đối với bản án.
Điều Luật trong Bộ Luật Tố tụng hình sự mới chỉ chú ý tới nội dung của bản
án. Điều 238 Bộ Luật Tố tụng dân sự có thêm quy định về bố cục của bản án như sau:
“2. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của tòa án, phần
quyết định.”.
Bản án phúc thẩm còn có thêm nội dung về quá trình giải quyết vụ án, quyết
định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Ngoài các Bộ Luật Tố tụng, còn phải kể đến một văn bản khác có liên quan
trực tiếp đến án văn. Đó là Nghị quyết 04/2004/HĐ-TP, ngày 5 tháng 11 năm 2004
của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (sau đây sẽ gọi tắt là Nghị quyết
04), hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ
Luật Tố tụng hình sự 2003 và Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm
2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (sau đây sẽ gọi tắt là Nghị
quyết 01). Nghị quyết 04 có quy định cụ thể về bố cục của một bản án hình sự sơ
thẩm như sau:
2. Về Điều 224 của Bộ Luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
2.1. Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản án phải có ba phần như sau:
a. Phần mở đầu. Trong phần này phải ghi đầy đủ các vấn đề theo quy định tại
khoản 2 Điều 224 của BLTTHS.
b. Phần nội dung. Trong phần này có hai phần nhỏ như sau:
- Phần thứ nhất là phần “nhận thấy”, trong đó phải trình bày các hành vi phạm
tội của bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố; số của cáo trạng; ngày, tháng, năm ra cáo
trạng; tên Viện Kiểm sát truy tố bị cáo; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ Luật Hình
sự và mức hình phạt mà Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Cuối cùng của
phần này ghi: “Sau khi xem xét, kiểm tra những tài liệu, chứng cứ tại phiên toà, qua
việc xét hỏi và tranh luận tại phiên toà” và chuyển sang phần thứ hai.
- Phần thứ hai là phần “xét thấy”, trong đó phân tích những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định không có tội đối với các hành vi mà Viện Kiểm sát
đã truy tố đối với bị cáo; nếu xác định bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo Điểm,
Khoản, Điều Luật nào của Bộ Luật Hình sự; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và hướng xử lý. Nếu bị cáo không phạm tội thì phải
ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không phạm tội và giải quyết việc khôi phục
danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
c. Phần quyết định. Trong phần này ghi những quyết định của Toà án. Nếu bị
cáo phạm tội thì ghi tuyên bố bị cáo phạm tội gì; áp dụng điểm, khoản, điều luật của
Bộ Luật Hình sự để xử phạt bị cáo và hình phạt cụ thể; các biện pháp tư pháp; án phí
hình sự và án phí dân sự sơ thẩm. Cuối cùng là ghi quyền kháng cáo đối với bản án.
Ngoài nội dung ghi trên liên quan đến ngôn ngữ án văn, Nghị quyết còn có
thêm một mẫu bản án hình sự sơ thẩm kèm theo. Mẫu bản án này quy định một cách
chi tiết hơn về tổ chức văn bản của bản án, những khuôn mẫu cố định dùng chung
cho tất cả các bản án hình sự sơ thẩm. Ví dụ quy định về thể thức từ phần “Nhận
thấy” đến “Xét thấy” như sau:
NHẬN THẤY
- Bị cáo (các bị cáo) bị Viện kiểm sát........................... truy tố về hành vi
(các hành vi) phạm tội như sau:
(Trình bày việc phạm tội, các hành vi phạm tội của bị cáo (các bị cáo) mà Viện
kiểm sát truy tố theo nội dung của cáo trạng).
- Tại bản cáo trạng số..... ngày..... tháng..... năm..... Viện kiểm sát.............
đã truy tố.
(Ghi phần quyết định truy tố của cáo trạng đối với từng bị cáo về tội danh và
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng).
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,
ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa (nếu có) và những người tham gia
tố tụng khác,
XÉT THẤY
Nghị quyết 01 cũng kèm theo một mẫu bản án dân sự sơ thẩm sử dụng cho tất
cả các tòa án xét xử sơ thẩm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động. Trong đó còn có thêm phần hướng dẫn chi tiết về việc
sử dụng mẫu bản án sơ thẩm theo từng đề mục.
Như vậy các Bộ Luật tố tụng và Nghị định không quy định cụ thể, rõ ràng về
việc sử dụng ngôn ngữ trong án văn mà chỉ đưa ra những quy định về cấu trúc và nội
dung của án văn. Nhưng chính cấu trúc và những nội dung này lại quy định cách thức
sử dụng ngôn ngữ và tổ chức ngôn bản của án văn nói chung và của từng bộ phận
trong án văn nói riêng.
Bên cạnh những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp tới ngôn
ngữ án văn còn có những văn bản liên quan gián tiếp. Đó là Thông tư 55/2005/TTLT-
BNV-VPCP ngày 6 tháng 5 năm 2005 của Liên tịch Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính
phủ hướng dẫn về thể thức và trình bày văn bản (gọi tắt là Thông tư 55). Phạm vi và
đối tượng áp dụng Thông tư 55 là những văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành
chính và bản sao văn bản; được áp dụng đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và đơn vị vũ trang nhân dân. Như
vậy án văn cũng thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư 55. Nội dung Thông tư 55
quy định cách thức và kỹ thuật trình bày văn bản rất chi tiết, cụ thể về cỡ chữ, kiểu
chữ, khổ giấy, vị trí trình bày các thể thức…Đặc biệt, Thông tư 55 có quy định về
việc sử dụng ngôn ngữ trong văn bản, như:
- Sử dụng ngôn ngữ viết, cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu;
- Dùng từ ngữ phổ thông; không dùng từ ngữ địa phương và từ ngữ nước ngoài
nếu không thực sự cần thiết. Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung
thì phải được giải thích trong văn bản;
- Không viết tắt những từ, cụm từ không thông dụng. Đối với những từ, cụm từ
được sử dụng nhiều lần trong văn bản thì có thể viết tắt nhưng các chữ viết tắt lần
đầu của từ, cụm từ phải được đặt trong ngoặc đơn ngay sau từ, cụm từ đó;
- Việc viết hoa được thực hiện theo quy tắc chính tả tiếng Việt;
- Khi viện dẫn lần đầu văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại, trích yếu
nội dung văn bản; số, ký hiệu văn bản; ngày, tháng, năm ban hành văn bản và tên cơ
quan, tổ chức ban hành văn bản (trừ trường hợp đối với luật và pháp lệnh); trong
các lần viện dẫn tiếp theo, có thể ghi tên loại và số, ký hiệu của văn bản đó.
Như vậy, Thông tư 55 quy định về chuẩn ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản
quy phạm pháp luật và văn bản hành chính tiếng Việt.
Thông tư 01/2011/TT-BNV, ngày 19 tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính (gọi tắt là Thông tư 01) là văn
bản pháp luật mới nhất hiện nay có liên quan gián tiếp tới ngôn ngữ án văn. Thông tư
01 chủ yếu đề cập đến kĩ thuật trình bày văn bản hành chính, bao gồm khổ giấy, kiểu
trình bày văn bản, định lề trang văn bản, vị trí trình bày các thành phần thể thức…
Ví dụ quy định về thể thức và kĩ thuật trình bày Quốc hiệu trong Thông tư 01
như sau:
Điều 6. Quốc hiệu
1. Thể thức
Quốc hiệu ghi trên văn bản gồm 2 dòng chữ: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM” và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.
2. Kĩ thuật trình bày
Quốc hiệu được trình bày ở ô số 1; chiếm khoảng ½ trang giấy theo chiều
ngang, ở phía trên, bên phải.
Dòng thứ nhất: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được trình
bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm;
Dòng thứ hai: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” được trình bày bằng chữ in
thường, cỡ chữ 13 hoặc 14 […].
Điều 11. Nội dung văn bản của Thông tư 01 có những quy định về việc sử
dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính như: Dùng từ ngữ tiếng Việt Nam phổ thông
(không dùng từ ngữ địa phương và từ ngữ nước ngoài nếu không thực sự cần thiết).
Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung thì phải được giải thích
trong văn bản; chỉ được viết tắt những từ, cụm từ thông dụng, những từ thuộc ngôn
ngữ tiếng Việt dễ hiểu…
Những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới án văn sẽ là những tư liệu
cần thiết để người nghiên cứu tham khảo, lấy căn cứ xác định tính chất, mức độ
chuẩn của án văn.
1.8. Tiểu kết
Những vấn đề chung được trình bày trong chương một là những vấn đề về án
văn và ngôn ngữ án văn. Về khái niệm và tên gọi, chúng tôi dựa vào hai nguồn tư liệu
đáng tin cậy là Từ điển Luật học và Từ điển tiếng Việt để xác định chính xác đối
tượng nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi lựa chọn án văn làm tên gọi chung cho đối
tượng, bao gồm cả các quyết định có giá trị như một bản án.
Đặc điểm cần lưu ý thứ hai khi nghiên cứu ngôn ngữ án văn là phải xác định vị
trí của án văn trong hệ thống văn bản pháp luật. Chúng tôi đã so sánh đối chiếu ba
dạng cơ bản của văn bản pháp luật là văn bản cá biệt, văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản có tính chất chủ đạo ở ba khía cạnh: nội dung, hiệu lực và mục đích giao tiếp
của văn bản. Từ đó, chúng tôi xác định án văn thuộc dạng văn bản cá biệt với những
đặc thù như: Án văn phải do cơ quan có thẩm quyền là tòa án các cấp ban hành, xử lý
các hành vi hoặc quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ việc cụ thể về tính hợp pháp
hay không hợp pháp của các hành vi hay quan hệ đó.
Ngoài ra, chúng tôi cũng chỉ ra bốn đặc trưng pháp lý tiêu biểu của án văn: Án
văn luôn nhân danh nhà nước; án văn được một Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua
và tuyên án công khai tại phòng xử án; án văn được viết thành văn bản và giao án
theo đúng quy định; án văn đã được tuyên bố thì không được sửa đổi, bổ sung trừ
trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu và chính tả. Bốn đặc trưng này ảnh hưởng đến
sự lựa chọn ngôn từ và tổ chức văn bản của án văn, khiến cho ngôn ngữ án văn mang
những nét riêng.
Bên cạnh việc xác định vị trí của án văn trong hệ thống văn bản pháp luật,
chúng tôi cũng xác định vị trí của ngôn ngữ án văn trong hệ thống ngôn ngữ luật
pháp. Ngôn ngữ án văn thuộc dạng ngôn ngữ viết (phân biệt với dạng nói), nằm trong
hệ thống ngôn ngữ thủ tục pháp luật và phân biệt với ngôn ngữ của các tài liệu trong
hồ sơ vụ án.
Ngôn ngữ án văn có những nét riêng về hoàn cảnh và mục đích giao tiếp. Về
hoàn cảnh giao tiếp, ngôn ngữ án văn xử lý mối quan hệ pháp luật với nhiều vai giao
tiếp khác nhau. Trong đó, vai quyền lực/vai tác động là vai của người phát – người
đại diện cho luật pháp, đại diện cho quyền lực của nhà nước và vai chịu sự tác động
là vai của người nhận – những cá nhân hay pháp nhân có quan hệ pháp luật trực tiếp
được gọi ra trong bản án. Về mục đích giao tiếp, khi được công bố, án văn thực hiện
một hành động xã hội. Hành động đó làm thay đổi hiện thực ngoài văn bản, kết thúc
một quá trình xét xử và có thể làm phát sinh một quá trình xét xử khác. Chính những
đặc trưng về hoàn cảnh và mục đích giao tiếp như vậy mà ngôn ngữ án văn phải vừa
đơn giản, dễ hiểu lại vừa mang tính chuyên môn cao; phải có tính chính xác, khách
quan và có tính thuyết phục.
Cuối cùng, trong chương này chúng tôi cũng đề cập đến những văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới ngôn ngữ án văn.
Đó là những Bộ Luật Tố tụng, Nghị định 04, Nghị định 01, Thông tư 55, Thông tư 01
có những quy định về tổ chức văn bản và sử dụng ngôn từ trong án văn. Những quy
định này giúp chúng tôi xác định tiêu chuẩn để tìm hiểu những vấn đề ngôn ngữ còn
xuất hiện trong án văn.
Chúng tôi đã điểm lại những nội dung chính được trình bày trong chương một.
Sau đây chúng tôi đi vào nội dung cụ thể là những kết quả trong quá trình nghiên cứu
về ngôn ngữ án văn tiếng Việt.
CHƯƠNG 2 - ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT
Chương hai có nhiệm vụ chỉ ra đặc điểm sử dụng ngôn từ và tổ chức ngôn bản
trong án văn tiếng Việt. Án văn tiếng Việt có một cấu trúc khá đặc biệt và chính cấu
trúc này quy định sự lựa chọn sử dụng các phương tiện ngôn ngữ phù hợp với tính
chất, mục đích giao tiếp của từng bộ phận trong cấu trúc. Vì vậy chúng tôi không sắp
xếp các đề mục của chương theo một trật tự thông thường (tức là sắp xếp theo các
cấp độ ngôn ngữ: từ, ngữ pháp, văn bản) mà có sự thay đổi nhỏ để tiện cho việc
nghiên cứu và theo dõi. Chúng tôi sẽ đưa đề mục nghiên cứu về tổ chức văn bản của
án văn lên đầu tiên và sau đó là thứ tự các đề mục sắp xếp theo cấp độ và bình diện
ngôn ngữ.
Trong chương này, chúng tôi không chủ trương chỉ ra toàn bộ những phương
tiện ngôn ngữ được sử dụng trong án văn. Chúng tôi chỉ tìm hiểu và phân tích những
nét đặc biệt trong việc lựa chọn và ưu tiên sử dụng loại phương tiện từ ngữ, ngữ pháp
nào đấy để phục vụ cho mục đích giao tiếp của án văn và vai trò của nó trong việc
đảm bảo những đặc trưng của án văn như: tính khách quan, minh bạch, tính thuyết
phục, tính đơn nghĩa, tính chặt chẽ…Những phương tiện ngôn ngữ mà chúng tôi
nhắm tới là những phương tiện có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thành công của
án văn. Chúng tôi cũng không có ý định đi sâu vào lĩnh vực lý thuyết của những vấn
đề được nêu ra mà chỉ khái quát những nội dung chính mà chúng tôi đã chọn lựa để
làm cơ sở cho việc triển khai vấn đề. Vì vậy những vấn đề lý thuyết nêu ra không
được tách riêng thành một mục mà sẽ được trình bày gộp trong phần triển khai nội
dung.
2.1. Đặc điểm tổ chức văn bản trong án văn
2.1.1. Cấu trúc của án văn
Cấu trúc thể loại văn bản là những cấu trúc ngầm ẩn mà theo đó nó quyết định
việc triển khai các đơn vị từ vựng, ngữ pháp trên bề mặt văn bản để phục vụ cho các
mục đích giao tiếp riêng mà văn bản phải hoàn thành. Có hai loại cấu trúc nằm trong
cấu trúc của thể loại văn bản là cấu trúc hóa nhận thức, hay còn gọi là cấu trúc phát
triển nhận thức, quyết định việc triển khai ý nghĩa chính của văn bản và cấu trúc thể
loại tiềm năng quyết định triển khai toàn bộ văn bản. Án văn có đầy đủ hai loại cấu
trúc trên.
2.1.1.1. Cấu trúc thể loại tiềm năng của án văn
Các văn bản đều được phát triển dựa trên những cấu trúc tương tự có thể quy
nạp lại thành một dạng chung điển hình cho thể loại văn bản đó. Cấu trúc như vậy
được gọi là cấu trúc thể loại tiềm năng. Cấu trúc thể loại tiềm năng quyết định đến
việc triển khai toàn bộ văn bản.
Cấu trúc thể loại tiềm năng trong án văn được quy định một cách rõ ràng trong
các Bộ Luật. Điều 238, Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định về Bản án sơ thẩm:
1.[…]
2. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án và nhận định của tòa án,
phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phải ghi rõ tên tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý
vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, thư ký
tòa án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện,
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối
tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử
công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
4. Trong phần nội dung vụ án và nhận định của tòa án phải ghi yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu phản tố của bị
đơn; đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhận định
của tòa án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà tòa án căn
cứ để giải quyết vụ án.
Trong nhận định của tòa án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
5. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của tòa án về từng vấn đề
phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp
có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.
Dựa vào quy định trong các Bộ Luật Tố tụng và dựa vào những bản án trong
thực tế xét xử, chúng tôi thấy có thể phân chia và định danh lại cho từng bộ phận
trong cấu trúc thể loại tiềm năng của án văn một cách chi tiết như sau:
- Bộ phận tiền văn bản, gồm: Quốc hiệu; tên cơ quan xét xử và định danh bản
án (số hiệu bản án, ngày/tháng/năm xét xử, vụ việc).
Ví dụ1 (1):
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản số 2121/2009/HN-PT Ngày 27/10/2009 Về việc Ly hôn và tranh chấp tài sản
(Ngữ liệu B372, tr.1)
- Phần mở đầu văn bản: Đây là phần thể hiện tính pháp lý và hiệu lực pháp luật
của bản án; xác định bối cảnh, khuôn khổ mà vụ án diễn ra, mô tả về danh phận của
những người tham gia tố tụng, bao gồm:
Cơ sở pháp luật: Nhân danh nhà nước, cơ quan đại diện cho nhà nước và thành
phần đại diện cơ quan.
Ví dụ (2):
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1 Từ đây trong những trường hợp không cần thiết, trong những ví dụ mà chúng tôi đưa ra, chúng tôi sẽ viết tắt danh từ riêng (chỉ viết chữ cái đầu của danh từ riêng), chẳng hạn: Bà Nguyễn Thị Hai viết tắt là bà N. T. H. Để tiện theo dõi, nếu ví dụ là một câu, một chuỗi câu quá dài chúng tôi sẽ lược bớt phần nội dung không liên quan đến vấn đề đang được đề cập tới. Phần lược bớt sẽ được đặt trong dấu […], chẳng hạn: Xét kháng cáo của nguyên đơn thấy rằng […] . Trong những ví dụ đưa ra, có những ví dụ có sai sót về chính tả, chúng tôi sẽ sửa lại những lỗi chính tả đó (chủ yếu là những lỗi viết hoa) ngoại trừ trường hợp đó là những ví dụ minh họa cho lỗi sử dụng từ ngữ không chuẩn theo chính tả. 2 Ngữ liệu được đánh dấu số thứ tự trong phần Phụ lục.
Với hội đồng xét xử gồm có:
Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Luật
Chức vụ: Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao
Và các Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao:
1. Bà Nguyễn Thị Minh Tuấn
2. Bà Vũ Thị Minh Thủy
Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thanh Thủy
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao: Bà Trịnh Thị Hồng Bốn,
Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
(Ngữ liệu H69, tr.1)
Cơ sở thực tiễn: Cơ sở thực tiễn của án văn nêu lý do và căn cứ đưa vụ án ra xét
xử, tính chất và cấp độ của việc xét xử và những người tham gia tố tụng.
Ví dụ (3):
Vào các ngày 23, 27 tháng 10 năm 2009, tại phòng xử án, Tòa án Nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2009/HN-
PT ngày 08/10/2009, về việc “Ly hôn và tranh chấp tài sản”.
Do bản án hôn nhân gia đình số 40/2009/HNGĐ-ST ngày 14/8/2009 của Tòa án
Nhân dân quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 743/2009/QĐ-PT ngày 20/10/2009 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: […]
Bị đơn:[…]
[…]
(Ngữ liệu B37, tr.1)
- Phần nội dung: Nội dung của án văn được chia thành ba phần nhỏ là phần
Nhận thấy (trình bày tóm tắt nội dung của vụ án), Xét thấy (lập luận, phân tích, đánh
giá của cơ quan đại diện), Quyết định (đưa ra phán xét phân xử vụ án)
- Phần kết thúc: Đây là phần nêu quyền kháng cáo của đương sự, hiệu lực thi
hành của bản án, người có thẩm quyền ký tên đóng dấu và nơi nhận bản án.
Từ những nhận xét nêu trên, chúng tôi khái quát lại sơ đồ bố trí các thành phần
thể thức của án văn như trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí các thành phần thể thức của án văn
Tên cơ quan ban hành Quốc hiệu
Định danh văn bản
Cơ sở pháp luật và đại diện
Cơ sở thực tiễn, căn cứ và thành phần tham dự
Nhận thấy
Xét thấy
Quyết định
Quyền kháng cáo và hiệu lực thi hành
Nơi nhận Ký tên, đóng dấu
2.1.1.2. Cấu trúc phát triển nhận thức của án văn
Cấu trúc phát triển nhận thức là cấu trúc biểu hiện cách thức khai triển tư duy
mà văn bản dựa vào đó để khai triển ý. Nó là cấu trúc đã được quy ước hóa giữa các
thành viên của một cộng đồng chuyên môn nào đó và được thường xuyên sử dụng để
khai triển văn bản dưới một số biến dạng khác nhau. Như vậy nó là cấu trúc trình bày
với tư cách là cơ chế ngầm điều tiết việc bố trí các đơn vị từ vựng, ngữ pháp trong
văn bản.
Bản án thể hiện quá trình tư duy của cơ quan đại diện pháp luật, căn cứ vào thực
tiễn, căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho mục đích sau cùng là đưa
ra những phán xét công bằng, hợp lý vừa có tính thuyết phục cao, vừa thể hiện được
tính quyền lực. Vì vậy phần nội dung chính của văn bản được trình bày theo cấu trúc
phát triển nhận thức.
Cấu trúc phát triển nhận thức của bản án qua hai bước theo đúng như quá trình
nhận thức thông thường “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, “từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn”:
Bước 1: Từ Nhận thấy -> Xét thấy.
Phần “Nhận thấy” ghi lại một cách khách quan nội dung của vụ án, bao gồm
diễn biến của vụ án trước khi Tòa xét xử và tiến trình xét xử vụ án. Những nội dung
khách quan trình bày trong phần “Nhận thấy” được xem xét kỹ lưỡng và kết hợp với
những quy định của pháp luật; tòa án sẽ đưa ra kết luận cho từng phần, từng nội dung
cụ thể. Quá trình tư duy này được thể hiện rõ trong phần “Xét thấy”. Như vậy từ
“Nhận thấy” đến “Xét thấy” thể hiện bước một của quá trình nhận thức vấn đề.
Những điều nêu trong phần “Nhận thấy” là những điều mà tòa án nhận biết được
bằng trực quan, và những điều nêu trong “Xét thấy” là kết quả của quá trình tư duy.
Bước 2: Từ Xét thấy -> Quyết định.
Từ những nhận định, kết luận thể hiện trong phần “Xét thấy”, dựa trên cơ sở thực
tiễn và quy định của pháp luật, tòa án đưa ra những phán quyết cuối cùng kết thúc
một quá trình xét xử. Những phán quyết ấy được thể hiện trong phần “Quyết định” có
giá trị như một hành động, một mệnh lệnh buộc phải thi hành.
Như vậy, cấu trúc phát triển nhận thức trong án văn giúp cho nội dung bản án
trở nên minh xác, chặt chẽ và có tính thuyết phục cao.
2.1.2. Các phương tiện liên kết trong án văn
Văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần giữa các câu mà giữa các câu
trong văn bản phải có những sợi dây liên hệ chặt chẽ. Sợi dây liên kết ấy tạo nên
tính liên kết cho văn bản. Tính liên kết của văn bản thể hiện ở hai mặt: liên kết hình
thức và liên kết nội dung. Hai mặt này có mối liên hệ mật thiết với nhau: liên kết nội
dung được thể hiện bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên
kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung.
Trong luận văn này chúng tôi tạm gác lại mặt thứ hai của tính liên kết trong án
văn và đi vào tìm hiểu mặt liên kết hình thức với những phương thức liên kết được
biểu hiện bằng những phương tiện ngôn ngữ cụ thể. Theo khảo sát của chúng tôi, án
văn sử dụng nhiều phương thức liên kết khác nhau như: phép lặp, phép tuyến tính,
phép nối. Mỗi phương thức liên kết này lại có những phương tiện liên kết cụ thể thể
hiện vai trò khác nhau trong án văn.
2.1.2.1. Phép lặp
Phép lặp là phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những
yếu tố đã có trong chủ ngôn. Phương tiện ngôn ngữ thể hiện sự liên kết trong
phương thức lặp được gọi là lặp tố. Tùy thuộc vào tính chất của lặp tố mà phương
thức lặp chia làm ba dạng: lặp từ vựng, lặp ngữ pháp và lặp ngữ âm. Trong án văn,
dạng thức lặp ngữ âm không xuất hiện hoặc không được sử dụng như một phương
tiện liên kết mà chỉ có dạng thức lặp từ vựng và lặp ngữ pháp.
- Phép lặp từ vựng: Đây là một dạng thức của phương thức lặp mà ở đó chủ tố
và lặp tố là những yếu tố từ vựng (từ, cụm từ).
Lặp từ vựng là phương tiện liên kết quan trọng nhất góp phần vào việc làm cho
án văn rõ ràng, tránh mơ hồ và sai quy chiếu. Phương tiện liên kết này có ở tất cả các
bản án, trải dài trên toàn văn bản và còn có mặt nhiều lần trong một cặp phát ngôn.
Từ vựng được lặp lại nhiều nhất trong án văn là danh từ hay cụm danh từ. Trong đó,
danh từ/cụm danh từ được lặp lại nhiều hơn cả là danh từ/cụm danh từ chỉ người hay
cơ quan, tổ chức. Án văn là kết quả xét xử một vụ việc cụ thể liên quan đến những cá
nhân hay tổ chức cụ thể. Do đó, án văn thường lặp lại đích danh tên người, tên tổ
chức liên quan. Tuy nhiên, để cho việc diễn đạt đỡ rườm rà, trong án văn có sử dụng
phép lặp bộ phận, tức là lặp tố chỉ là một bộ phận chính của chủ tố. Ví dụ như trường
hợp của danh từ riêng. Danh từ riêng chỉ tên người trong án văn thường đi kèm với
danh từ chỉ đơn vị như ông/bà, anh/chị hoặc trong án hình sự danh từ riêng của bị cáo
không có danh từ chỉ đơn vị đi kèm thì khi lặp lại danh từ riêng, lặp tố chỉ còn danh
từ chỉ đơn vị + tên, tên hoặc danh từ chỉ đơn vị, họ và tên đệm được lược bỏ (ký hiệu
Φ đánh dấu vị trí của yếu tố được lược bỏ).
Ví dụ:
(4) Dương Minh Chính có quan hệ yêu thương với Phạm Thị Ủy từ năm 2002,
nhưng bị Phạm Thành Thái là chú của Φ Ủy cương quyết ngăn cản. Φ Thái đã
nhiều lần hăm dọa đòi giết Φ Chính. Vì vậy giữa Φ Thái và Φ Chính phát sinh mâu
thuẫn.
(Ngữ liệu A11, tr.3)
(5) Anh Lê Anh Huy và chị Lê Thị Mỹ Duyên quen biết từ năm 2006 qua mạng
Internet. Trong thời gian quen biết, anh Φ Huy có nhiều lần gởi tiền cho chị Φ
Duyên. Theo anh Φ Huy, chị Φ Duyên đã hứa kết hôn với anh Φ, lợi dụng tình cảm
hỏi mượn tiền, anh Φ mới gởi về cho chị Φ Duyên nhiều lần với tổng số tiền là
11.320,38 Bảng Anh.
(Ngữ liệu C41, tr.3)
(6) Đại diện công ty TNHH Trường Sanh trình bày: Công ty Trường Sanh đăng
ký kinh doanh ngày 01/8/2001 với ngành nghề sản xuất, gia công mộc mỹ nghệ và
dân dụng; mua bán máy móc thiết bị ngành lâm nghiệp, xây dựng, công nghiệp; dịch
vụ tang lễ. Công ty Trường Sanh là chủ sở hữu kiểu dáng áo quan và bà T.H.Đ là tác
giả thiết kế. Công ty Trường Sanh và công ty Ý Thiên đều là những công ty gia đình.
Tiền thân của công ty Trường Sanh là cơ sở sản xuất gia đình có từ trước năm 1975
với ngành nghề kinh doanh là dịch vụ tang lễ, sản xuất và bán áo quan. Do vậy, công
ty Trường Sanh là bên nắm bí quyết kĩ thuật, nhân lực về thiết kế kiểu dáng áo quan.
Trên thực tế, công ty Trường Sanh đã sản xuất áo quan và bán trên thị trường từ
trước khi liên doanh với ông Kou Chi Sheng để thành lập công ty Nhã Quán.
(Ngữ liệu D63, tr.3)
Phép lặp danh từ thay cho việc dùng đại từ luôn là một phương tiện liên kết ưa
dùng trong án văn nhằm tăng tính chính xác và chặt chẽ, tránh những nhầm lẫn có thể
có nếu như dùng đại từ thay thế khi quy chiếu. Bảng 2.23 dưới đây cho thấy danh từ
riêng có dày đặc trong án văn.
Bảng 2.2. Thống kê số lượt xuất hiện của danh từ riêng/số câu
trong án văn
Ngữ liệu4 H69 D63 B37
48 85 107 Số câu
Ông Nguyễn Văn 27 Công ty liên 70 Ông 69 Danh từ Số
Khóm doanh Nhã Nguyễn lượt
Quán Đức
Thông
Công ty Bảo 21 Công ty 51 Bà Phan 42
Hiểm An Giang Trường Sanh Thị Thanh
Thu
Tuy nhiên, tần số lặp lại của các danh từ/cụm danh từ dày đặc và việc thiếu
vắng các đại từ thay thế khiến cho án văn rườm rà, đơn điệu.
- Phép lặp cấu trúc cú pháp (phép lặp ngữ pháp): Đây là một dạng thức của
phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể
lặp lại cả một số hư từ mà chủ ngôn đã sử dụng.
Trong án văn, phép lặp cấu trúc cú pháp chủ yếu được sử dụng để liên kết các
đoạn văn với nhau. Lặp cấu trúc cú pháp ở đầu mỗi đoạn, xác định phạm vi nội dung
được trình bày trong đoạn tiếp theo có quan hệ tương liên với đoạn trước. Có các
kiểu cấu trúc lặp như sau:
(Theo) X trình bày/ cho rằng: (X: danh ngữ chỉ người)
Xét A thấy rằng: (A: nội dung một vụ việc cụ thể)
Về B,(B: danh ngữ chỉ đối tượng)
3 Bảng 2. 2, chúng tôi chỉ thống kê số lượt danh từ riêng trong phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” của bản án. 4 Những ngữ liệu dùng để thống kê có trong phần Phụ lục 2. Xin xem thêm phần Phụ lục.
Ví dụ:
(7) Người làm chứng trình bày:
Ông N.V.M trình bày: Thửa đất nêu trên ông chuyển nhượng cho bà T.T.K.C.
Khoảng năm 2004, […]
Ông N.M.H trình bày: Có chứng kiến việc thỏa thuận giữa bà K.C và bà T.C
và việc hai bà cãi nhau về số tiền 10 triệu đồng.
Bà P.T.L trình bày: Bà có nghe bà K.C nói là cho bà N.T.C ở nhờ đất
Bà H.T.Ch trình bày: Bà có cho bà N.T.C vay số tiền 30 triệu để chuyển
nhượng đất của bà K.C, khi đến giao tiền hai bên không có làm biên nhận […].
(Ngữ liệu B19, tr.2) (8) Xét kháng cáo của ông Th, bà K thấy rằng: 128 m2 đất nêu trên có căn cứ
chứng minh là tài sản chung của ông S, bà T, ông Th bà K cho rằng đã cho bà T, ông
S mượn tiền vàng, án sơ thẩm đã buộc hai đương sự trả lại cho ông bà là phù hợp
[…].
Xét kháng cáo của bà T thấy rằng: ông S tự nguyện góp phí tổn nuôi cháu
K.N 500.000 đ/tháng, đây là khoản tiền nuôi cháu N không thể buộc ông S đóng góp
một lần khi ông S không có khả năng và không đồng ý […].
(Ngữ liệu B21, tr.4)
(9) - Về quan hệ vợ chồng: Công nhận ông N.Đ.Th và bà Ph.T.Th.Th thuận tình
ly hôn.
- Về con chung: Ghi nhận việc ông Th và bà Th thỏa thuận về việc giao trẻ
N.Ph.Th.T sinh ngày 16/07/1999 và N.Đ.T sinh ngày 05/11/2002 cho bà Th trực tiếp
nuôi dưỡng.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Th và ông Th cùng thỏa thuận mức cấp dưỡng
nuôi con mà ông Th cấp dưỡng hàng tháng […].
(Ngữ liệu B37, tr.5)
Lặp cấu trúc cú pháp có tác dụng duy trì chủ đề, tạo tính rõ ràng minh bạch, giới
hạn nội dung cho phần trình bày. Nhờ phép lặp này mà nội dung của vụ việc được
tách bạch khiến người đọc, người nghe dễ theo dõi. Nó không chỉ có tác dụng nhấn
mạnh đến phạm vi nội dung trong đoạn mà còn tạo ra cái nền để làm rõ sự khác biệt
giữa các phần khác nhau của chủ đề.
2.1.2.2. Phép nối
Sau phép lặp, phép nối có vai trò quan trọng trong việc liên kết nội dung của án
văn. Phương tiện ngôn ngữ liên kết câu thuộc phép nối là những kết tố. Trong án văn,
những phương tiện của phép nối rất đa dạng nhưng chủ yếu vẫn là các từ và cụm từ
làm thành phần chuyển tiếp, có thể là chuyển tiếp giữa các câu, hoặc chuyển tiếp giữa
các phần, các đoạn khác nhau của văn bản.
Thành phần chuyển tiếp có thể là những tổ hợp/quan hệ từ biểu thị ý nguyên
nhân – sự kiện, sự kiện – kết quả. Nhóm từ ngữ tiêu biểu của nhóm này là : Vì, bởi
vì/bởi lẽ/bởi vậy, do đó, cho nên, như vậy. Nhóm quan hệ từ này xuất hiện chủ yếu
trong phần “Xét thấy”. Nguyên nhân là do đặc trưng lập luận của án văn, vừa phải
đưa ra kết luận, nhận định và vừa giải thích cho những kết luận, nhận định đó mới tạo
được sự thuyết phục và mới có cơ sở để “Quyết định”. Có thể nói rằng hầu như bất cứ
kết luận nào mà Hội đồng đưa ra đều kèm theo nó là quan hệ từ chỉ nguyên nhân, kết
quả. Nó không chỉ có tác dụng liên kết các phát ngôn lại với nhau mà còn giúp người
đọc nhận thức sâu hơn về nội dung, ví dụ:
(10) Nay ông T và chị B.T không đồng ý trả đất theo yêu cầu của ông Ng mà đề
nghị tòa án căn cứ vào trụ đá phía sau đất và hàng rào do phía ông T làm hiện nay
để xác định ranh đất cho hai bên là không có cơ sở. Bởi vì, ngoài việc ông T cho
rằng đã tìm thấy 01 trụ đá ranh cũ ở phía sau hậu đất thì không có chứng cứ gì khác
để chứng minh là ranh đất của ông nằm theo trụ đá mà ông tìm được.
(Ngữ liệu C45, tr.5)
(11) Vì nếu coi đây là hợp đồng lao động thì cả hai bên đã ký kết vi phạm các
quy định về hình thức và cả nội dung của hợp đồng lao động. Do đó hợp đồng lao
động nêu trên là hợp đồng vô hiệu.
(Ngữ liệu G68, tr.7)
(12) Thời gian gần đây đã liên tiếp xảy ra nhiều vụ án giết người với những
mâu thuẫn nhỏ, không lớn trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, cần xử lý bị cáo nghiêm
khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.
(Ngữ liệu A17, tr.5)
(13) Do đó, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ độc quyền kiểu dáng
công nghiệp cho Công ty Trường Sanh đối với 14 hồ sơ đăng ký kiểu dáng công
nghiệp do Công ty Nhã Quán đã nộp là phù hợp với chính sự thỏa thuận của các
đương sự. Cho nên, dù các kiểu dáng công nghiệp này do ai sáng tạo ra, nhưng Công
ty Nhã Quán đã thỏa thuận chuyển nhượng cho Công ty Trường Sanh đăng ký bảo hộ
độc quyền thì quyền sở hữu đối với các kiểu dáng công nghiệp này thuộc về Công ty
Trường Sanh.
(Ngữ liệu D63, tr.8)
Thành phần chuyển tiếp có thể là những tổ hợp/quan hệ từ có quan hệ bổ sung,
như: ngoài ra, hơn nữa, mặt khác, vả lại.
Ví dụ:
(14) Hơn nữa phía ông Ng cũng không thừa nhận đây là trụ đá ranh. Diện tích đất ông T được cấp là 4.000m2 nhưng thực tế diện tích chỉ có 2.228m2. Căn cứ vào
công văn số 800/PTNMT-NC ngày 27/10/2008 của Phòng tài nguyên và môi trường
huyện Cao Lãnh ghi nhận: “[…]”. Mặt khác, vào năm 1990, khi ông Ng tiến hành
làm hàng rào và trồng cây ăn trái thì ông T cũng không tranh chấp mà để ông Ng sử
dụng.
(Ngữ liệu C45, tr.5)
(15) Ngoài ra bà D đã nhận lãi tính đến ngày 24/01/2008 là 29.000.000đ.
(Ngữ liệu B32, tr.4)
(16) Vả lại, trong cách xử xự của người bị hại không tế nhị nên phần nào cũng
ảnh hưởng đến nhận thức và hành động của bị cáo.
(Ngữ liệu A17, tr.5)
Thành phần chuyển tiếp có thể là cụm từ có cấu tạo của một quán ngữ, như: Vì
các lẽ trên, Bởi các lẽ trên, Từ những nhận định trên…Đây là những cụm từ xuất
hiện như một khuôn mẫu có tác dụng liên kết hai phần của nội dung là “Xét thấy” và
“Quyết định”, ví dụ:
(17) Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 537/2008/DSPT ngày 30/9/2008 của
Tòa án Nhân dân tỉnh Bến Tre về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa
nguyên đơn là bà N.T.L với bị đơn là chị Ph.T.T.
(Ngữ liệu H71, tr.3)
Thành phần chuyển tiếp có thể là quan hệ từ có ý nghĩa tương phản như tuy
nhiên để kết nối hai hay nhiều nội dung đối lập nhau. Nhờ đó Hội đồng xét xử có cơ
sở đưa ra những nhận định, kết luận có tính thuyết phục hơn. Ví dụ:
(18) Như vậy, với quy định trên thì việc đặt tên cơ sở Hưng Thịnh không vi
phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, việc đặt tên cơ sở Hưng Thịnh lại dẫn đến việc vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ về tên thương mại và không đảm bảo các điều kiện bảo hộ về tên thương mại
được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ, là văn bản Luật chuyên ngành bảo vệ các
quyền sở hữu trí tuệ. […].
(Ngữ liệu D62, tr.5)
(19) Tuy nhiên trong quá trình xét xử của tòa án bà T đã tự động chuyển quyền
sử dụng đất từ tên bà sang qua cho ông Th tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
[…] khi không có ý kiến của ông S là không phù hợp. Vì thế cấp phúc thẩm có điều
chỉnh một phần trong nội dung quyết định, ông Th, ông S liên hệ cơ quan chức năng
để chuyển quyền sử dụng đất từ ông Th sang qua ông S.
( Ngữ liệu B20, tr.4)
Những từ và cụm từ làm thành phần chuyển tiếp này giúp cho án văn trở nên
mạch lạc, lập luận chặt chẽ và có tính thuyết phục hơn.
Với đặc trưng vừa đưa ra thông tin vừa phải có những đánh giá, nhận định và
kết luận về từng nội dung cụ thể, lại vừa đưa ra những quyết định mang tính chất
mệnh lệnh, người viết án nhất thiết phải làm công việc nối kết các sự việc lại với
nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Đặc biệt việc lập luận và đưa ra kết luận cần
phải có sự liên kết chặt chẽ với nội dung sự việc. Vì vậy nếu không có sự góp mặt
của phép nối với những tổ hợp/quan hệ từ làm thành phần chuyển tiếp thì án văn
không những rời rạc, khó tiếp nhận mà còn giảm đi tính thuyết phục, tính chặt chẽ và
rõ ràng.
2.1.2.3. Phép tuyến tính
Phép tuyến tính không sử dụng yếu tố liên kết, quan hệ ngữ nghĩa giữa các phát
ngôn nằm ở dạng tiềm ẩn. Phép tuyến tính là phương thức sử dụng trật tự tuyến tính
của các phát ngôn vào việc liên kết các phát ngôn có quan hệ chặt chẽ với nhau về
mặt nội dung. Nếu như phép nối là phương thức liên kết không thể thiếu trong phần
“Xét thấy” của bản án thì phép tuyến tính có vai trò quan trọng đối với phần “Nhận
thấy”.
Trong án văn, phép tuyến tính được thể hiện dưới dạng liên kết tuyến tính theo
trật tự thời gian. Nó được bộc lộ tập trung ở các trạng ngữ chỉ thời gian, đặc biệt
trong án hình sự. Phép tuyến tính theo thời gian có tác dụng lớn đối với việc liên kết
ở phần “Nhận thấy” của bản án khi cần phải trình bày lại nội dung vụ việc.
Ví dụ:
(20) Khoảng 15 giờ ngày 21/4/2008 N.V.T điện thoại gọi C.X.V đến gặp Th để
bàn chuyện làm ăn. Đến 16 giờ Th tiếp tục gọi điện cho B tới. Khi gặp B, Thịnh rủ
“Đi theo xe khách xách giỏ của người khác”. Bắc đồng ý. Khoảng 18 giờ, Th bảo B
đi vòng theo các điểm bán vé trong bến xe Miền Đông xem ai có đeo nhiều nữ trang
thì quay lại báo cho Th biết. […]. Đến khoảng 19 giờ 30 phút, xe ô tô khách biển số
78K – 5319 khởi hành từ TP. Hồ Chí Minh đi Tuy Hòa – Phú Yên. […].
Khoảng 22 giờ, xe dừng lại ăn cơm tại quán Thanh Tuyền thuộc tỉnh đồng nai.
Th, B và V ngồi cùng bàn với vợ chồng anh M. Trong lúc bới cơm, Th, B đã lén bỏ
“thuốc ngủ” vào trong cơm của hai người. Sau khi ăn cơm xong, xe tiếp tục đi. Khi
xe chạy được 30 phút thì vợ chồng anh M ngủ mê man.
(Ngữ liệu A10, tr.3)
2.1.3. Phương pháp trình bày nội dung án văn
Để trình bày nội dung phù hợp với mục đích giao tiếp, án văn sử dụng nhiều
phương pháp trình bày khác nhau và sử dụng kết hợp các phương pháp đó. Tuy
nhiên nội dung của án văn lại được chia thành nhiều phần, mỗi phần có vai trò riêng
vì vậy việc sử dụng các phương pháp trình bày nội dung cũng tương ứng với mục
đích giao tiếp của mỗi phần.
2.1.3.1. Phương pháp đưa thông tin
Phương pháp đưa thông tin được hiểu là phương pháp trình bày nội dung theo
kiểu đưa thông tin một cách khách quan, trung thực mà không bày tỏ bất cứ ý kiến
đánh giá nào, không bao hàm một thái độ nào. Trong án văn, phương pháp đưa thông
tin được sử dụng cho phần mở đầu văn bản và phần “Nhận thấy”.
Thông tin đưa ra trong phần mở đầu là những thông tin nền cho một vụ án, gồm
có: tên cơ quan và hội đồng xét xử, thông tin về người tham gia tố tụng như: tên họ,
năm sinh, địa chỉ.., địa điểm xét xử, ngày giờ xét xử vụ án, lý do đưa vụ án ra xét
xử. Trong án hình sự, thông tin về người tham gia tố tụng đầy đủ hơn so với án dân
sự, kinh tế hay lao động. Án dân sự chỉ cần những thông tin cơ bản về đương sự
như: Họ tên, năm sinh và nơi cư trú. Án hình sự, bị cáo cần phải có đầy đủ những
thông tin về nhân thân như: Họ tên khai sinh, tên họ khác, ngày tháng năm sinh, địa
chỉ thường trú, tạm trú, cha mẹ, tình trạng kết hôn, trình độ học vấn, tiền án, tiền sự.
Ví dụ (21):
1. H.V.T ( T đen, M đen) – sinh năm 1985.
HKTT: khu phố 4, phường Đức Long, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Nghề nghiệp: không
Trình độ học vấn: 10/12
Tiền án: không
Tiền sự: Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận có quyết định số 34/QĐ-UB(NC)
ngày 19/7/2004 đưa vào cơ sở giáo dục Huy Nghiêm ngày 10/11/2004 đến ngày
10/11/2006 chấp hành xong về địa phương.
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận có quyết định số 30/QĐ-UB(NC) ngày
20/11/2007 “về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục Huy Nghiêm”,
H.V.T bỏ trốn chưa bắt được.
Cha: H.V.D – sinh năm 1941; mẹ: N.T.H – sinh năm 1944
Bị cáo chưa có vợ, con.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/01/2008. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam
Công an tỉnh Bình Thuận. Có mặt tại phiên tòa.
(Ngữ liệu A1, tr.1)
Những thông tin trong phần mở đầu được trình bày theo kiểu liệt kê, và ở đầu
mỗi bộ phận liệt kê thường có chữ số (1, 2, 3, 4…) hoặc dấu ngang để phân định.
Các thông tin được tách riêng thành từng dòng hoặc được tách biệt với nhau bằng
dấu chấm câu để tạo sự rõ ràng, tránh nhầm lẫn.
Ví dụ (22):
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
- Các thẩm phán: 1/ Ông Võ Minh Lương
2/ Ông Trương Hoài Bình
- Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Dư Tuyết Lạnh – Cán bộ Tòa án Nhân dân
Thành phố Cần Thơ.
(Ngữ liệu B21, tr.1)
Trong phần mở đầu, những thông tin được đưa ra có xu hướng định danh hơn là
miêu tả. Điều này được thể hiện ở chỗ các danh ngữ được sử dụng với tần số cao
(chiếm khoảng 90 %) và sau đó là những giới ngữ có giới từ làm trung tâm như: với,
do, theo, tại, trong.
Thông tin trong phần “Nhận thấy” là những thông tin về nội dung vụ án được
trình bày dưới dạng tóm tắt nội dung chính và là lời gián tiếp.
Án dân sự là những thông tin về lời khai, lời trình bày hay yêu cầu của người
tham gia tố tụng. Những thông tin này được trình bày dưới dạng thuật lại nên có
những cấu trúc lặp ở đầu mỗi đoạn văn, kiểu như:
Nguyên đơn bà N.T.T trình bày: …
Bị đơn ông N.V.S trình bày:…
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông N.V.T và bà L.T.K trình bày:…
Theo lời trình bày của ông N.T.N:…
Theo đơn khởi kiện/bản tự khai và lời trình bày trước tòa của ông N.M.Đ:…
Về tài sản chung, ông cho rằng:…
Về con chung, bà cho rằng:…
Án hình sự có các cấu trúc lặp lại như:
Quan điểm của vị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: […]
Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Đ.T.C:[…]
Ở đầu phần “Nhận thấy” của các bản án hình sự thường có khuôn mẫu:
Bị cáo… bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh…truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Và tiếp theo sau khuôn mẫu đó là diễn biến của vụ án được tường thuật lại theo một
trình tự nhất định, thường là trình tự thời gian. Vì thế, trong phần “Nhận thấy” của
các bản án có khá nhiều biểu thức chỉ thời gian (giờ, ngày, tháng, năm) và địa điểm.
Những biểu thức chỉ thời gian và địa điểm này thường làm thành phần trạng ngữ của
câu.
Ví dụ (23): Khoảng 13 giờ ngày 13/10/2007, C thấy L.V.T đi xe mô tô vào thôn
Lạc Nghiệp nên C đuổi đánh T.
(Ngữ liệu A11, tr.3)
Thông tin được đưa ra chủ yếu ở dạng câu trần thuật, khẳng định với những
động từ trần thuật như “trình bày”, “cho (rằng)”, “khai nhận”, “khai (là)”. Mặc dù
trong phần “Nhận thấy” có những động từ cầu khiến như “đề nghị”, “yêu cầu” nhưng
nó không được sử dụng ở dạng nguyên cấp, tức là không được sử dụng trong cầu
khiến mà ở dạng thứ cấp trong câu trần thuật với ngôi thứ ba.
Ví dụ:
(24) Bà N.K.L, mẹ của nạn nhân P.C.T yêu cầu bồi thường chi phí tiền mai
táng là 30.720.000đ, tiền tổn thất tinh thần cho vợ chồng chị là 200.000.000đ.
(Ngữ liệu A7, tr.3)
(25) Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu của bà H.
(Ngữ liệu B32, tr.3)
Đối với án ở cấp phúc thẩm, Quyết định giám đốc thẩm và Quyết định kháng
nghị, phần “Nhận thấy” còn có thêm thông tin về quá trình xét xử ở cấp thấp hơn (cấp
sơ thẩm đối với án phúc thẩm, cấp sơ thẩm và phúc thẩm đối với Quyết định giám
đốc thẩm, Quyết định kháng nghị). Thông tin về quá trình xét xử trong bản án thường
được sao chép lại nguyên văn phần nội dung tuyên xử/tuyên án của tòa án cấp dưới,
sau khuôn mẫu:
“Tại bản án dân sự sơ thẩm số…, ngày…của Tòa án Nhân dân …đã quyết
định: […]”
Tại bản án dân sự phúc thẩm số…ngày…của Tòa án Nhân dân …đã quyết
định:
[…]”
Vì vậy mặc dù cú pháp trong phần thông tin này không có gì khác biệt so với
phần “Quyết định” của bản án nhưng nó không được coi là câu cầu khiến hay câu
mệnh lệnh mà chỉ là câu tường thuật thông thường.
2.1.3.2. Phương pháp sử dụng lập luận
Phương pháp sử dụng lập luận là phương pháp dùng lý lẽ, bằng chứng để
chứng minh cho nhận định nào đó hoặc đưa ra kết luận mới dựa trên những gì đã có.
Phương pháp này được sử dụng trong phần “Xét thấy”. Trên cơ sở nắm bắt lời
khai, yêu cầu của đương sự, quá trình xét xử ở cấp dưới trong phần “Nhận thấy”,
nghiên cứu tài liệu chứng cứ được đưa ra, thẩm tra lại chứng cứ tại phiên tòa và căn
cứ vào quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử lập luận để phủ định, bác bỏ hoặc
khẳng định một kết luận, nhận định nào đó hoặc đưa ra một kết luận, nhận định mới.
Phương pháp này được sử dụng với mục đích thuyết phục người nghe/người đọc tin
và chấp nhận những điều mà tòa án phán quyết, giúp đương sự hiểu luật và đồng
thời để những người có chuyên môn xem xét, thẩm tra lại.
Trước hết, cơ sở pháp luật để lập luận và đưa ra kết luận của Hội đồng xét xử
luôn được nhắc đến đầu tiên trước hoặc sau cụm từ “Xét thấy” (theo quy định tại
Nghị định 4/2004/HĐ-TP trong án hình sự sơ thẩm nội dung này phải được trình
bày trước phần “Xét thấy”) theo một khuôn mẫu chung, như:
“Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,
ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
[…]”
Những khuôn mẫu này có tác dụng khẳng định những kết luận được đưa ra sau
đó là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, khách quan của Hội đồng xét
xử, tạo niềm tin cho người nghe về tính nghiêm minh của pháp luật.
Luận cứ cho những lập luận của tòa án là những lời trình bày của nguyên đơn/bị
đơn hay lời khai nhận của bị cáo, lời bào chữa của luật sư.
Kết luận của lập luận trong án văn theo hai hướng hoặc là khẳng định hoặc là
phủ định và thường được diễn đạt bằng những biểu thức ngôn ngữ như:
Theo hướng khẳng định: có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, được
xem là, chấp nhận, là phù hợp…
Ví dụ:
(26) Xét bản án sơ thẩm xử là có căn cứ phù hợp với pháp luật, nên giữ nguyên
bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 275 Bộ Luật Tố tụng dân sự.
(Ngữ liệu B26 , tr.4)
(27) Thỏa thuận này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 539 Bộ Luật dân sự
(Hợp đồng vận chuyển tài sản có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản)..
(Ngữ liệu H69, tr.3)
(28) Vì vậy cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo theo Khoản 2 Điều 93 Bộ
Luật hình sự là phù hợp”.
(Ngữ liệu A14, tr.6)
Theo hướng phủ định: không đúng với các quy định của pháp luật, không có
căn cứ, không thể chấp nhận, chưa đủ căn cứ.
Ví dụ:
(29) Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ nội dung đơn xin khiếu kiện này để xác
định bên bán đã nhận 170.000.000 đồng của bên mua để giải quyết hậu quả hợp
đồng vô hiệu buộc bên bán trả lại bên mua 170.000.000 đồng đã nhận là chưa đủ
căn cứ.
(Ngữ liệu H70, tr.2)
(30) Vì vậy, Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng.
(Ngữ liệu H69, tr.4)
(31) Xét việc triệu tập bà L với tư cách là người làm chứng là không đúng quy
định của pháp luật.
(Ngữ liệu B34, tr.5)
Như vậy, phương pháp lập luận trong án văn là phương pháp lập luận logic, cơ
sở của những lập luận này là giá trị đúng – sai cho một kiểu phán đoán nhất định.
Lập luận trong án văn chỉ thông qua một kiểu câu là câu trần thuật với các dạng lập
luận theo những quan hệ sau:
Dạng lập luận theo quan hệ nhân quả: A B.
Dạng thức ngôn ngữ tiêu biểu: Vì A cho nên [+B]
Và những biến thể kiểu như:
A nên B/-B
B bởi vì A
(A là phần nêu nguyên nhân – luận cứ, B là phần nêu kết quả)
Cặp liên từ Vì…nên là tác tử lập luận (là những yếu tố tác động vào một phát
ngôn sẽ tạo ra một định hướng làm thay đổi tiềm năng lập luận của phát ngôn).
Ví dụ:
(32) Việc chuyển nhượng đất giữa ông M, anh K với ông Ngh là trái pháp luật
vì đất đó đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H nên thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của ông H.
(Ngữ liệu C42 , tr.4)
(33) Xét thấy, ngày 15/7/2009, bà Ph.T.T.H là người đại diện theo ủy quyền của
công ty Fafilm Việt Nam, kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm hủy quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án của Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm
theo yêu cầu phản tố của công ty Fafilm đối với nguyên đơn Công ty TNHH TM-DV
Quảng Cáo Ảnh Vương là không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ ngày 10/6/2009 phía
nguyên đơn có rút đơn khởi kiện, ngày 18/6/2009 Công ty Fafilm Việt Nam có đơn
phản tố và đơn được chuyển phát nhanh đến Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh […].
(Ngữ liệu H74, tr.2)
Dạng lập luận theo quan hệ nghịch nhân quả có cấu trúc: Tuy/mặc dù/dù A
nhưng [+B]
Cặp liên từ tuy…nhưng, mặc dù/dù…nhưng là những kết tử lập luận.
Ví dụ:
(34) Cho nên, dù các kiểu dáng công nghiệp này do ai sáng tạo ra, nhưng Công
ty Nhã Quán đã thỏa thuận chuyển nhượng cho Công Ty Trường Sanh đăng ký bảo
hộ độc quyền thì quyền sở hữu đối với các kiểu dáng công nghiệp này thuộc về Công
ty Trường Sanh.
(Ngữ liệu D63, tr.8)
(35) Trong quá trình giải quyết tranh chấp quan hệ tín dụng nói trên mặc dù đã
được tòa án đã triệu tập nhiều lần để hòa giải nhưng người đại diện của Công ty trà
giống Cao Nguyên vẫn không có mặt và cũng không xuất trình được văn bản nào của
Ngân hàng Trung ương cho phép xóa nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi […].
(Ngữ liệu E65, tr.6)
Trong án văn không chỉ có câu trần thuật thể hiện lập luận mà để tạo tính thuyết
phục và cũng bởi tính chất lập luận của án văn cần phải có nhiều bằng chứng, lý lẽ
xét từ nhiều phương diện khác nhau, án văn còn sử dụng chuỗi lập luận. Chuỗi lập
luận gồm có nhiều câu trần thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau nhờ những kết tử như:
tuy nhiên, đồng thời, ngoài ra, hơn nữa. Trong chuỗi lập luận có tầng tầng, lớp lớp
lập luận mà mỗi lập luận này là nền tảng cho lập luận khác, kết đề của lập luận trước
sẽ trở thành tiền đề cho lập luận sau.
Ví dụ:
(36) Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng đất giữa
ông M và ông Ngh vô hiệu, buộc bà Ngh, chị H trả lại đất cho ông H là đúng. Tuy
nhiên tòa án cấp phúc thẩm lại không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là
sai.
(Ngữ liệu H72, tr.2)
(37) Đối với trường hợp của ông Kh thì ông Kh không cố ý để xảy ra thiệt hại.
Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ
trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu (Mục B) thì không có thỏa thuận nào
về việc Bảo Việt được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy,
Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Mặt khác Điều 549 Bộ luật
dân sự vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó,
thỏa thuận giữa ông Kh và ông Đ, ông Tr là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng
buộc cả An Giang.
(Ngữ liệu H69, tr. 4)
Phương pháp lập luận nếu được sử dụng một cách hợp lý sẽ tạo ra hiệu quả giao
tiếp cao cho án văn, giúp án văn thực hiện tốt chức năng xã hội của mình.
2.1.3.3. Phương pháp mệnh lệnh
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng trong phần “Quyết định”. Tòa tuyên án
bằng những câu có tính chất mệnh lệnh thể hiện hiệu lực của bản án, quyết định của
tòa án; buộc mọi cá nhân, tổ chức phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án; đồng thời phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc chấp hành đó. Thông thường, để nhận diện câu mệnh lệnh, người ta
thường chú ý đến phương tiện hình thức như: dấu câu trong câu mệnh lệnh thường là
dấu chấm than (!), trong câu mệnh lệnh có tiểu từ tình thái là hãy, đừng, chớ, đi…Thế
nhưng trong án văn, mặc dù những câu trong phần “Quyết định” là những câu có
hành động ngôn trung là hành động mệnh lệnh nhưng nó không được đánh dấu bằng
những phương tiện hình thức như đã nói. Những mệnh lệnh trong án văn được thể
hiện qua những động từ ngôn hành và những phương tiện biểu thị tình thái (chúng tôi
sẽ quay trở lại vấn đề này ở mục 2.4). Phương pháp mệnh lệnh giúp hiện thực hóa
bản án, biến nó từ một văn bản pháp luật trở thành một bản án.
2.2. Đặc điểm từ vựng trong án văn
2.2.1. Hệ thuật ngữ trong án văn
Theo cách hiểu thông thường, thuật ngữ là những từ hoặc nhóm từ dùng để
biểu đạt những khái niệm khoa học mang dung lượng thông tin logic lớn. Thuật ngữ
nằm trong hệ thống từ vựng chung của ngôn ngữ nhưng chỉ tồn tại trong một hệ
thống thuật ngữ cụ thể, có nghĩa là nó chỉ được dùng trong ngôn ngữ chuyên môn.
Mỗi một lĩnh vực chuyên môn trong xã hội đều có một hệ thống thuật ngữ
riêng. Hệ thống thuật ngữ đó giúp cho những người hoạt động trong lĩnh vực đó đễ
dàng nắm bắt các khái niệm và thông tin. Ví dụ thuật ngữ trong ngành văn học: thi
pháp, nghệ thuật, tác gia, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, …thuật ngữ
trong ngành ngôn ngữ học như âm vị, hình vị, âm tiết, nguyên âm, phụ âm, sở chỉ,
chủ ngữ, vị ngữ…thuật ngữ trong ngành sinh vật học: mô, tế bào, nhiễm sắc thể, gien,
ADN…
Nét đặc trưng nhất của thuật ngữ là: thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn
toàn với sự vật, hiện tượng…có trong thực tế, đối tượng của ngành khoa học và kỹ
thuật tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự
vật, hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy. Nói cách khác, thuật ngữ có
một ý nghĩa đặc biệt, nó biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc từng
ngành khoa học, kỹ thuật, chính trị, ngoại giao, nghệ thuật…Vì vậy, thuật ngữ là
những từ, tổ hợp từ đơn nghĩa và không có sắc thái tình cảm.
Hệ thuật ngữ trong án văn là hệ thuật ngữ luật pháp. Chính nhờ hệ thuật ngữ
luật pháp này mà án văn mang sắc thái trang trọng, tính chất đơn nghĩa được bộc lộ
rõ nét. Do chỉ có một nội dung xác định không thay đổi theo ngữ cảnh nên hệ thuật
ngữ luật pháp làm tăng tính nghiêm ngặt, bất biến, tăng tính uy nghiêm, trang trọng
cho án văn. Hệ thuật ngữ luật pháp được sử dụng trong án văn có phạm vi rất rộng:
không chỉ có những thuật ngữ chỉ những sự vật, sự việc thuộc riêng ngành tòa án mà
còn có những thuật ngữ liên quan đến những lĩnh vực luật pháp khác nhau trong từng
phạm vi vụ việc mà tòa án giải quyết như: Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Kinh tế,
Luật Đất đai, Luật Hôn nhân Gia đình…Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày những nét
khái quát về hệ thuật ngữ được sử dụng trong án văn.
2.2.1.1. Hệ thuật ngữ xét về mặt cấu tạo
Xét về mặt cấu tạo, hệ thuật ngữ luật pháp sử dụng trong án văn có cấu tạo đa
dạng và khá phức tạp.
Có những thuật ngữ cấu tạo chỉ bằng một âm tiết như: Điểm, Khoản, Điều…
Có những thuật ngữ có cấu tạo bằng hai âm tiết như: án phí, bản án, bị cáo, bị
đơn, bị hại, chứng cứ, đương sự, hòa giải, kháng cáo, khiếu nại, lời khai, luật sư,
nghị định, nghĩa vụ, nguyên đơn, nhân chứng, thẩm phán, thẩm tra, thụ lý, tiền án,
tiền sự, tố tụng, tòa án, truy tố, tuyên án, vật chứng, vụ án…
Có những thuật ngữ cấu tạo bằng nhiều âm tiết (lớn hơn hai) như: án dân sự
phúc thẩm, án dân sự sơ thẩm, bản tự khai, biên bản định giá, biên bản phiên tòa,
biện pháp tư pháp, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng dân sự, Bộ
Luật Tố tụng hình sự, chủ tọa phiên tòa, hành vi phạm tội, hiệu lực pháp luật, hình
phạt bổ sung, Hội đồng định giá, Hội thẩm nhân dân, người giám hộ, người đại diện
theo ủy quyền, quyền kháng cáo theo luật định, Quyết định giám đốc thẩm, Quyết
định hoãn phiên tòa, Quyết định kháng nghị, Quyết định xử lý vật chứng, thi hành án,
thi hành án dân sự, thi hành án hình sự, thời hạn luật định, thư ký tòa án, tình tiết
tăng nặng, Tòa án Nhân dân , Tòa án Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao
tại phía Nam, trách nhiệm dân sự, vụ án dân sự, vụ án hình sự…
Trong số những cấu tạo trên, có thể thấy thuật ngữ có cấu tạo chỉ bằng một âm
tiết chiếm số lượng ít nhất. Tuy nhiên, những thuật ngữ này bản thân nó không đứng
một mình mà luôn có định ngữ đi kèm, như: Điểm p, Khoản 1, Điều 46…
Những thuật ngữ có cấu tạo bằng hai âm tiết chủ yếu là những thuật ngữ chỉ
người: bao gồm người đại diện cho pháp luật với những chức vị khác nhau trong
ngành tòa án (như: thẩm phán, thư ký, hội thẩm) và những công dân tham gia tố tụng
có vai trò khác nhau trong một vụ án được gọi bằng những thuật ngữ khác nhau để
phân biệt, như: trong án hình sự người tham gia tố tụng chính là bị cáo, bị hại; trong
án dân sự thì đó là nguyên đơn, bị đơn và hai đối tượng này được gọi chung là đương
sự. Ngoài ra còn có luật sư, nhân chứng…
Những thuật ngữ có cấu tạo bằng nhiều âm tiết chiếm tỷ lệ cao nhất trong số
những thuật ngữ được sử dụng. Những thuật ngữ này là những ngữ danh từ có cấu tạo
gồm một danh từ trung tâm và một hoặc nhiều định ngữ. Thuật ngữ là một danh ngữ
trong án văn thường có tối đa là ba định ngữ.
Ví dụ (38):
Tòa án/ nhân dân/ Tối cao/ tại phía Nam
(1) (2) (3) (4)
(1) là danh từ trung tâm
(2) định ngữ chỉ tính chất
(3) định ngữ chỉ tính chất
(4) định ngữ chỉ nơi chốn
Thuật ngữ có nhiều âm tiết nhất là thuật ngữ Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn/bị đơn/bị cáo/bị hại.
Định ngữ cho danh từ trung tâm có cấu tạo khác nhau: có thể là một danh ngữ,
hoặc là một động ngữ. Trong đó, định ngữ có cấu tạo là ngữ động từ chiếm ưu thế,
như: Hội đồng xét xử, đơn khởi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn/bị đơn/bị cáo, người làm chứng,
tình tiết giảm nhẹ,… Bản thân danh từ trung tâm hoặc những định ngữ có cấu tạo là
danh ngữ có khi đã là một thuật ngữ. Sự kết hợp của nhiều thuật ngữ giúp xác định
chính xác sự việc được nêu và thường để phân biệt nó với những thuật ngữ gần gũi về
nghĩa.
Ví dụ (39):
Bản án sơ thẩm - bản án phúc thẩm
Án phí dân sự sơ thẩm – án phí dân sự phúc thẩm – án phí hình sự sơ thẩm
Nhờ có cấu tạo như vậy mà thuật ngữ trong án văn có độ giãn nhất định về
nghĩa, tức là nó không quá đậm đặc và trừu tượng. Điều đó khiến cho thuật ngữ trong
án văn trở nên quen thuộc và dễ tiếp nhận hơn đối với những người không thuộc
phạm vi ngành Luật.
2.2.1.2. Thuật ngữ xét về tần số xuất hiện và phạm vi phân bố
Nếu như ở những ngành khoa học khác hoặc trong những văn bản pháp luật
khác, những thuật ngữ được sử dụng có tần số xuất hiện và phạm vi phân bố khá đều
đặn thì thuật ngữ trong án văn có tần số và phạm vi phân bố rất khác nhau.
Có những thuật ngữ chỉ xuất hiện duy nhất một lần và có vị trí cố định trong
tất cả các bản án, như những thuật ngữ: thư ký tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân
chỉ xuất hiện một lần duy nhất là ở phần mở đầu của bản án. Từ đó về sau, những
thuật ngữ này không xuất hiện nữa. Lý do là những thuật ngữ này được thay thế bằng
một thuật ngữ có tính bao quát hơn là thuật ngữ Hội đồng xét xử.
Trong một số bản án, thuật ngữ nguyên đơn, bị đơn, bị cáo chỉ đối tượng tham
gia vụ án xuất hiện khá đậm đặc, được lặp lại rất nhiều lần trong suốt chiều dài bản
án. Những thuật ngữ này có khi đi một mình, có khi kết hợp với danh từ riêng là họ
tên/tên của đối tượng. Sự xuất hiện như vậy khiến cho đối tượng được xác định rõ về
vai trò trong vụ án và không thể nhầm lẫn về sở chỉ.
Chúng tôi tiến hành thống kê số lượt xuất hiện của những thuật ngữ này trong
bốn bản án, kết quả như sau:
Bảng 2.3. Thống kê số lượt xuất hiện của thuật ngữ (nguyên đơn, bị đơn
hoặc bị cáo)/bản án
Ngữ liệu E66 B37 A16 A10
Nguyên 21 Nguyên 3 Bị cáo 171 Bị 18 Thuật Số
đơn đơn cáo ngữ lượt
Bị đơn 23 Bị đơn 2
Ví dụ (40):
Tại văn bản tự khai ngày 15/9/2008 và các lời trình bày tiếp theo của bị đơn là
bà Huỳnh Thị Dung trong quá trình hòa giải đã xác nhận có ký kết hợp đồng tín dụng
về việc vay nợ và còn thiếu như nguyên đơn trình bày, nay hoàn cảnh khó khăn đề
nghị cho thanh toán trong vòng 6 tháng, nếu không trả được sẽ đồng ý phát mãi tài
sản thế chấp.
Ngày 15/9/2008, nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận việc giải quyết vụ án với nội
dung như sau: Bị đơn xác nhận và cam kết trả nợ cho nguyên đơn gồm nợ gốc là
[…].
(Ngữ liệu E66, tr.2)
Bên cạnh đó là những thuật ngữ có tần số xuất hiện cao nhưng phạm vi lại bị
giới hạn. Những thuật ngữ như: Điểm, Khoản, Điều, Bộ Luật Tố tụng dân sự, Bộ Luật
Tố tụng hình sự… xuất hiện trong phần “Xét thấy” và “Quyết định” của bản án với
vai trò làm cơ sở cho Tòa luận tội, kết tội hoặc phân xử, phán quyết.
Ví dụ (41):
Bởi các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực từ ngày
01/01/2005.
- Căn cứ Điều 6, Điều 86, Điều 134 và Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ, có hiệu
lực từ ngày 01/07/2006.
- Căn cứ Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí
tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty liên doanh Nhã Quán, giữ nguyên
bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 11-6-2008 của
Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương.
(Ngữ liệu D63, tr.9)
Sự phân bố và tần số xuất hiện không đồng đều như vậy cho phép phân biệt
rạch ròi giữa các bộ phận khác nhau của bản án, giúp mỗi bộ phận thực hiện tốt chức
năng của mình.
2.2.2. Từ biểu thị ý phủ định, khẳng định
Kết hợp không + vị ngữ là hình thức phủ định vị ngữ, có + vị ngữ là hình thức
khẳng định vị ngữ. Hai hình thức này có thêm trợ từ là phía trước, như: là + không +
vị ngữ nhấn mạnh ý khẳng định sự phủ định nội dung thể hiện trong vị ngữ, là + có +
vị ngữ nhấn mạnh thêm ý khẳng định sự khẳng định nội dung thể hiện trong vị ngữ
của câu. Là kết hợp trực tiếp với vị từ cũng là một hình thức khẳng định vị ngữ.
Trong những hình thức kết hợp này, nếu bỏ là thì nội dung thông báo vẫn không thay
đổi nhưng nếu thêm là vào thì ý khẳng định được nhấn mạnh hơn. Điều đó cho thấy
từ là có tác dụng đẩy sự phủ định hoặc khẳng định đến cực cấp.
Lập luận và những kết luận trong án văn luôn được đặt trong mối quan hệ:
hoặc là phủ định hoặc là khẳng định tính chất [+ đúng], [+ phù hợp], [+ trái pháp
luật], [+ có căn cứ], ... Chính thế đối lập như vậy khiến cho án văn có tính rõ ràng và
giúp cho án văn thực hiện được hành động phán quyết một cách dứt khoát. Phó từ
phủ định “không”, khẳng định “có” và trợ từ biểu thị ý nhấn mạnh sắc thái khẳng
định “là” có tầm quan trọng đặc biệt để tạo ra thế đối lập như vậy.
Xét các ví dụ:
(42) Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Ng và
giữ y bản án sơ thẩm.
(Ngữ liệu B25, tr.3)
(43) Đối với trường hợp của ông Kh thì ông Kh không cố ý để xảy ra thiệt hại.
Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ
trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu (Mục B) thì không có thỏa thuận nào
về việc Bảo Việt được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy,
Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Mặt khác Điều 549 Bộ luật
dân sự vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó,
thỏa thuận giữa ông Kh và ông Đ, ông Tr là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng
buộc cả An Giang.
(Ngữ liệu H69, tr.4)
(44) Ngân hàng đã chuyển nợ quá hạn đối với hai khế ước này là đúng theo
quy định tại Điều 2 của Khế ước vay và mức lãi suất Ngân hàng áp dụng đối với hai
khế ước vay trên theo từng thời điểm.
(Ngữ liệu E66, tr.5)
(45) Hơn nữa Ngân hàng Việt Hoa là Ngân hàng thương mại cổ phần, nguồn
vốn của Ngân hàng cổ phần chủ yếu là vốn vay từ các khoản tiền gởi của khách hàng
và vẫn phải trả lãi vay cho khách hàng, cho nên ngoài việc tính lãi suất cho vay trong
hạn được ghi trong Khế ước vay thì việc tính lãi suất quá hạn đối với các khoản nợ
đã được chuyển sang nợ quá hạn là hoàn toàn phù hợp.
(Ngữ liệu E66, tr.6)
(46) Xét, về thời gian trả nợ phía nguyên đơn đề nghị thu hồi toàn bộ số nợ
trên ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ và phù hợp pháp luật
(Ngữ liệu E66, tr.3)
(47) Xét, ý kiến của nguyên đơn đề nghị trong trường hợp bị đơn không còn
khả năng thanh toán nợ trên thì yêu cầu phát mãi căn nhà số […] thuộc quyền sở hữu
riêng của bị đơn để thu hồi nợ số nợ còn thiếu là có cơ sở chấp nhận […]
(Ngữ liệu E66, tr.3)
(48) Vì vậy việc anh kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét yêu cầu
này là vượt phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
(Ngữ liệu B33, tr.5)
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy Hội đồng xét xử khi đưa ra kết luận chỉ theo
hướng hoặc là phủ định hoặc là khẳng định nhưng những kết hợp “là + không + vị
từ” và kết hợp “là + có + vị từ” được sử dụng nhiều hơn so với kết hợp “không + vị
từ”, “có + vị từ” (chiếm 7/11 kết hợp) và do đó nội dung thông báo cũng có hiệu lực
cao hơn, tạo thế đối lập rõ ràng hơn.
2.3. Đặc điểm cú pháp trong án văn
2.3.1. Hiện tượng tách biệt cú pháp
Hiện tượng tách biệt cú pháp là hiện tượng tách các bộ phận của một câu ra
thành nhiều bộ phận nhỏ. Mỗi bộ phận ấy được sắp xếp lại thành một dòng riêng biệt,
được viết hoa chữ cái đầu và kết thúc bằng dấu chấm. Hiện tượng tách biệt cú pháp là
hiện tượng thường thấy trong các văn bản pháp luật. Nó giúp cho diễn đạt được rõ
ràng, rành mạch.
Án văn cũng có hiện tượng tách biệt cú pháp. Hiện tượng này được thể hiện ở
toàn văn bản nhưng tập trung nhất vẫn là phần mở đầu văn bản. Phần mở đầu của án
văn mặc dù có nhiều nội dung thông báo nhưng thực chất toàn bộ nội dung ấy là một
câu phức với nhiều thành phần khác nhau.
Khảo sát ví dụ (49) sau ta sẽ thấy rõ điều đó: NHÂN DANH(1) NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM(2) TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO(3) Với hội đồng xét xử gồm có: (4)
Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Luật(5)
Chức vụ: Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao(6)
và các Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao:(7)
3. Bà Nguyễn Thị Minh Tuấn(8) 4. Bà Vũ Thị Minh Thủy(9)
Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thanh Thủy(10) Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tối cao: Bà Trịnh Thị Hồng Bốn(11) Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao(12)
Họp phiên tòa ngày 30-5-2003 tại trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao để xét xử
giám đốc thẩm vụ án dân sự giữa:(13)
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Khóm(14) Tổ 23, ấp Bình Quới, Bình Thạnh Đông, Phú Tân, An Giang(15) Bị đơn: Công ty Bảo hiểm tỉnh An Giang(16) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:(17) 1. Ông Lê Văn Điền(18)
Tổ 51, ấp Kiến Bình, Kiến An, Chợ Mới, An Giang(19)
2. Ông Trần Văn Trinh(20)
Tổ 10, ấp Phú Thành, Phú Hữu, An Phú, An Giang.(21)
Theo kháng nghị số 05 ngày 11-2-2003 của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối
cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 74 ngày 29-2-2000 của Tòa án Nhân dân tỉnh An Giang.(22)
(Ngữ liệu H69, tr.1)
Ví dụ trên gồm có 22 phần của một câu phức (số lượng có thể nhiều hơn nếu đó là vụ án có nhiều đối tượng tham gia). Dòng (1) và dòng (2) là thành phần trạng ngữ chỉ tình huống của câu có cấu tạo là một động ngữ gồm động từ ở dòng (1) và bổ ngữ ở dòng (2). Động ngữ này được tách ra thành một dòng riêng có tác dụng nhấn mạnh
về tính quyền lực thực thi nhiệm vụ của tòa án, phù hợp với yêu cầu “Tòa án ra bản
án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 224 Bộ Luật Tố tụng Hình sự). Dòng (3) là chủ ngữ của câu. Từ dòng thứ (4) đến dòng (12) là trạng ngữ chỉ
đối tượng liên hệ có cấu tạo là một giới ngữ. Những danh ngữ chỉ đối tượng liên hệ
trong phần trạng ngữ này lại được tách ra thành những dòng riêng biệt theo hướng liệt kê. Dòng (13) đến dòng (22) là vị ngữ của câu. Trong đó, các bộ phận của vị ngữ lại
được tách biệt thành nhiều dòng. Như vậy nòng cốt thu gọn lại của câu chỉ có “Tòa
Dân sự Tòa án Nhân dân Tối cao…họp phiên tòa…để xét xử giám đốc thẩm vụ án
dân sự…”. Việc tách câu như vậy khiến cho nội dung được sáng rõ và người đọc dễ
nhận diện đối tượng, dễ tiếp nhận nội dung hơn.
Xét thêm ví dụ (50) sau:
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
[…]
Vào các ngày 15/10/2009 và 22/10/2009 tại Hội trường Tòa án Nhân dân
tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2009/TLPT-DS
ngày 15/7/2009 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản (tiền)”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 31/2009/DSST ngày 27/3/2009 của Tòa án
Nhân dân huyện Tháp Mười bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2009/QĐXX-PT ngày
05/10/2009 giữa các đương sự: Nguyên đơn: […]
Bị đơn: […]
(Ngữ liệu B32, tr.1)
Phần mở đầu trên cũng là một câu với nhiều bộ phận được tách ra thành từng
dòng riêng biệt. Trong câu có sáu trạng ngữ được đặt ở những vị trí tách biệt nhau:
trạng ngữ chỉ tình huống “Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
được đặt ở vị trí đầu câu; trạng ngữ chỉ đối tượng liên hệ “Với thành phần Hội đồng
xét xử phúc thẩm gồm có: […]”, trạng ngữ chỉ thời gian “Vào các ngày 15/10/2009
và 22/10/2009” và trạng ngữ chỉ nơi chốn “tại Hội trường Tòa án Nhân dân tỉnh
Đồng Tháp” được đặt ở vị trí giữa chủ ngữ và vị ngữ; trạng ngữ chỉ nguyên nhân “Do
bản án dân sự sơ thẩm số: 31/2009/DSST ngày 27/3/2009 của Tòa án Nhân dân
huyện Tháp Mười bị kháng cáo.” được tách thành một dòng riêng và đặt trước trạng
ngữ chỉ nguồn “Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2009/QĐXX-PT ngày
05/10/2009 giữa các đương sự:[…]”. Như vậy, hiện tượng tách biệt cú pháp trong
phần mở đầu còn kèm theo cách thức sắp xếp các bộ phận của câu theo một trình tự
nhất định để việc khai triển thông tin được rõ ràng. Phần thông tin có nhiều nội dung
hơn và phải tách ra thành nhiều dòng hơn được chuyển xuống phía dưới thông tin
ngắn gọn hơn. Đa số các bản án có phần mở đầu theo trật tự như ví dụ trên.
Hiện tượng tách biệt cú pháp còn được thể hiện trong chính nội dung của án
văn. Nó giúp cho ranh giới của các bộ phận trong án văn được rõ ràng mà vẫn đảm
bảo được tính liên kết chặt chẽ cho toàn văn bản.
Ví dụ (51):
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
(Ngữ liệu A17, tr.3)
Ví dụ (52):
Vì các lẽ trên,
Hội đồng xét xử
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Bộ Luật Tố tụng dân sự tại Khoản 2 và 3 Điều 275.
Bộ Luật Dân sự tại Điều 255 và 256.
Luật Đất đai tại Khoản 1 Điều 136.
(Ngữ liệu B20, tr.5)
Động từ làm vị ngữ của câu đã được tách hẳn thành một dòng và có kỹ thuật
trình bày khác hẳn những phần trên (in hoa, canh giữa dòng) khiến cho nó trở thành
tên gọi của một bộ phận khác trong cấu trúc văn bản mà nhờ đó nội dung trình bày
trong mỗi phần có sự thay đổi rõ rệt, phụ thuộc vào nội dung ngữ nghĩa của tên gọi
đó.
Có thể nói rằng hiện tượng tách biệt cú pháp trong án văn cũng là một phương
tiện liên kết văn bản hiệu quả, giúp người viết chuyển từ nội dung này sang nội dung
khác một cách uyển chuyển mà vẫn đảm bảo được sự thống nhất cho kết cấu của văn
bản.
2.3.2. Câu tỉnh lược chủ ngữ
“Tỉnh lược (hay rút gọn) là một biện pháp thường dùng trong giao tiếp thể
hiện ở việc lược bỏ các yếu tố ngôn ngữ trong những điều kiện cho phép. Biện pháp
này diễn ra ở mọi đơn vị ngôn ngữ, nhất là ở các phát ngôn (câu).” (theo Phan Mậu
Cảnh [8]).
Như vậy, câu tỉnh lược là loại câu không hoàn chỉnh về cấu trúc, chỉ có một
thành phần và thành phần đã bị tỉnh lược có khả năng được khôi phục lại dựa vào ngữ
cảnh. Câu tỉnh lược có sự phụ thuộc hoặc liên đới nhất định trong ngữ cảnh, muốn
hiểu được đầy đủ thì phải đặt chúng trong chính bối cảnh hay văn cảnh xuất hiện của
phát ngôn.
Mặc dù án văn là loại văn bản hành chính – công vụ đòi hỏi phải mẫu mực
trong sử dụng từ ngữ và cấu tạo ngữ pháp nhưng do tính chất đặc thù mà án văn có sử
dụng khá nhiều câu tỉnh lược. Thành phần bị tỉnh lược trong câu là thành phần chủ
ngữ. Tuy nhiên, không phải loại chủ ngữ chỉ đối tượng nào trong án văn cũng có thể
bị tỉnh lược mà chỉ có chủ ngữ chỉ người phát mới có khả năng bị tỉnh lược. Người
phát trong án văn là Hội đồng xét xử của phiên Tòa, cũng là những người tạo lập văn
bản và có đại diện đọc văn bản trước Tòa để thực hiện hành động phán quyết. Người
phát của án văn đã được giới thiệu ngay từ phần mở đầu của văn bản và sau đó có thể
xuất hiện trong phần nội dung nhưng với tần số rất thấp (không quá ba lần/văn bản),
thậm chí không xuất hiện lại trong phần nội dung nhưng người nghe vẫn có thể hiểu
được, nhận diện được chủ thể của động từ trong câu tỉnh lược là ai. Cấu trúc của câu
tỉnh lược trong án văn chỉ có dạng duy nhất là: Vị từ + bổ ngữ. Dạng cấu trúc này có
kiểu ý nghĩa là bộc lộ hành động.
Kiểu ý nghĩa bộc lộ hành động có ở trong phần “Xét thấy” của án văn thể hiện
qua dạng thức: Xét P: / Xét P thấy rằng: (P là bổ ngữ chỉ đối tượng).
Ví dụ (53):
Xét lời trình bày của nguyên đơn/bị đơn…
Xét nội dung kháng cáo của…
Xét nội dung quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số…
Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở…
Cấu trúc này xuất hiện nhiều lần trong văn bản và vị trí cố định của nó là ở đầu
của mỗi đoạn lập luận, có tác dụng giới hạn nội dung sự việc cho lập luận. Và chủ thể
của “xét” trong văn cảnh chỉ có thể là “Hội đồng xét xử” vì chỉ có “Hội đồng xét xử”
mới đủ thẩm quyền để tìm hiểu, đánh giá và đưa ra kết luận về phạm vi nội dung
được đưa ra.
Kiểu ý nghĩa bộc lộ hành động có trong phần “Quyết định”, được bắt đầu bằng
những động từ ngôn hành hoặc cấu trúc tình thái “Buộc A phải/có trách nhiệm/…” (A
là danh từ riêng chỉ người).
Ví dụ (54):
- Chấp nhận đơn kháng cáo của ông N.V.T và bà V.T.H.Đ.
- Buộc ông N.V.N có trách nhiệm hoàn trả cho vợ chồng ông N.V.T và bà
V.T.H.Đ số vàng đã nhận là 3,5 chỉ vàng 24k (98%) và tiền chênh lệch giá là
37.368.000 đồng.
(Ngữ liệu B20, tr.5)
Phần “Quyết định” là phần quan trọng nhất trong án văn, nội dung quyết định
được đưa ra một cách cụ thể, chi tiết nhưng chủ thể của những quyết định ấy được
lược bỏ. Bởi vì nội dung thông tin quan trọng nhất là ở vị ngữ và các thành phần phụ
bổ sung cho nó. Ẩn chủ ngữ khiến nội dung thông tin nổi bật và được người nghe tiếp
nhận rõ hơn.
Trong phần “Nhận thấy” không xuất hiện câu tỉnh lược chủ ngữ, do phần nội
dung này có tác dụng đưa thông tin một cách khách quan từ nhiều phương diện khác
nhau. Thông tin đưa ra cần chính xác và có quy chiếu cụ thể. Vai trò của người phát
trong phần này hết sức mờ nhạt.
Như vậy, tỉnh lược chủ ngữ trong câu của án văn là một biện pháp sử dụng
ngôn ngữ có ý thức, hợp chuẩn mực, có tác dụng làm nổi bật thông tin trong phần vị
ngữ và tránh được sự lặp lại của các câu có sự đồng nhất về chủ thể. Tuy nhiên, cần
phải lưu ý phân biệt câu tỉnh lược chủ ngữ trong án văn với những câu sai ngữ pháp.
Câu tỉnh lược chủ ngữ như đã nêu trên là một đặc trưng của án văn, còn những câu
sai ngữ pháp là những câu người viết không nắm rõ quy tắc tách câu hoặc do nhầm
lẫn giữa thành phần trạng ngữ với chủ ngữ. Mặc dù những câu thiếu chủ ngữ vì
những lý do đã nêu vẫn có thể khôi phục lại chủ ngữ trong văn cảnh nhưng đó là
những câu mà sự lược bỏ chủ ngữ không có dụng ý và không có tác dụng tích cực,
thậm chí còn có tác dụng tiêu cực đến khả năng nắm bắt thông tin của người đọc, đến
mạch lạc của văn bản (chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này trong chương ba của luận
văn).
Trong án văn, câu dù được phân theo bất cứ tiêu chí nào cũng đa dạng không
kém các văn bản pháp luật khác. Nhưng chúng tôi chỉ xét tới loại câu tỉnh lược chủ
ngữ như một đặc trưng của án văn mà những loại văn bản pháp luật khác ít có.
2.3.3. Thành phần phụ trạng ngữ và phần phụ chú
Án văn có nhiều thành phần phụ khác nhau của câu. Nhưng trong luận văn này,
chúng tôi chỉ chú ý đến thành phần phụ có ảnh hưởng lớn đến nội dung và hiệu quả
giao tiếp của án văn. Đó là thành phần phụ trạng ngữ và phần phụ chú. Hai thành
phần này góp phần làm cho nội dung án văn thêm minh xác, rõ ràng, chặt chẽ và vì
vậy nó làm tăng tính thuyết phục cho bản án. Ngoài ra, trạng ngữ và phần phụ chú
còn tạo ra khả năng có thể kiểm chứng lại nội dung vụ án trong trường hợp cần thiết.
Ví dụ như Tòa phúc thẩm có thể căn cứ vào trạng ngữ chỉ thời gian, nơi chốn; căn cứ
vào phần phụ chú bổ sung thêm thông tin về địa chỉ của đối tượng liên quan để xác
minh lại diễn biến vụ án, lời khai của nhân chứng,…đã được trình bày trong bản án
sơ thẩm khi bản án này bị kháng cáo. Chính vì tầm quan trọng đặc biệt như vậy nên
chúng tôi tách hai thành phần này thành một mục riêng để nghiên cứu.
2.3.3.1. Thành phần phụ trạng ngữ
Thông thường, trạng ngữ được hiểu là loại thành phần phụ bổ sung ý
nghĩa về địa điểm, thời gian, cách thức, phương tiện, phương diện, tình hình, nguyên
nhân, mục đích,…cho sự tình được đề cập trong câu. Thuật ngữ trạng ngữ rất quen
thuộc trong nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt. Tuy nhiên xung quanh thành phần
trạng ngữ trong câu tiếng Việt vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau. Ở đây, để tiện
làm việc, chúng tôi nhận diện trạng ngữ theo quan niệm của sách giáo khoa hiện hành
đang được giảng dạy tại trường phổ thông.
Trạng ngữ trong án văn có sự phân bố không đồng đều giữa các bộ phận.
Trong phần mở đầu của hầu hết các bản án, trạng ngữ xuất hiện ở dạng tách biệt cú
pháp, ví dụ:
(55)
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
[…]
Vào các ngày 15/10/2009 và 22/10/2009 tại Hội trường Tòa án Nhân dân
tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2009/TLPT-DS
ngày 15/7/2009 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản (tiền)”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 31/2009/DSST ngày 27/3/2009 của Tòa án
Nhân dân huyện Tháp Mười bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2009/QĐXX-PT ngày
05/10/2009 giữa các đương sự: Nguyên đơn: […] Bị đơn: […]
(Ngữ liệu B32, tr.1)
Phần mở đầu của án văn thường gồm có một trạng ngữ chỉ tình huống “Nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, một trạng ngữ chỉ đối tượng liên
hệ “Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: […]”, một trạng ngữ chỉ thời
gian “Vào các ngày 15/10/2009 và 22/10/2009”, một trạng ngữ chỉ nơi chốn “tại Hội
trường Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp”, một trạng ngữ chỉ nguyên nhân “Do bản
án dân sự sơ thẩm số: 31/2009/DSST ngày 27/3/2009 của Tòa án Nhân dân huyện
Tháp Mười bị kháng cáo.”, một trạng ngữ chỉ nguồn “Theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 312/2009/QĐXX-PT ngày 05/10/2009 giữa các đương sự:[…]”. Các trạng
ngữ này xuất hiện như một khuôn mẫu cố định để tạo sự liên kết chặt chẽ và xác định
cho việc hợp thức hóa một bản án.
Phần “Quyết định” và phần kết thúc bản án cũng tương tự như vậy, tức là trạng
ngữ xuất hiện trong cấu trúc có tính khuôn mẫu “Kể từ…”, như:
(56) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông T, bà Đ có đơn yêu cầu thi
hành án nếu ông N.V.N không trả đủ số tiền trên thì còn phải chịu thêm một khoản
tiền lãi suất theo mức lãi suất quá hạn của Nhà nước công bố tại thời điểm trả nợ
tương ứng số tiền thiếu nợ.
(Ngữ liệu B20, tr.6)
(57) Bản án có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
(Ngữ liệu B20, tr.6)
Để xác định rõ hơn về vị trí, cấu tạo và nội dung biểu hiện của trạng ngữ trong
hai phần “Nhận thấy” và “Xét thấy”, có thể xét các ngữ liệu sau:
(58) Khoảng 15 giờ ngày 21/4/2008 N.V.Th điện thoại gọi C.X.V đến bàn
chuyện làm ăn. Đến 16 giờ, Th tiếp tục gọi điện cho B tới.
(Ngữ liệu A10, tr.3)
(59) Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại trại giam - Công an tỉnh Ninh Thuận.
(Ngữ liệu A11, tr.1)
(60) Nay công ty Nhã Quán kháng cáo cho rằng công ty Trường Sanh đã thỏa
thuận cho công ty Nhã Quán sử dụng các kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký, nhưng
công ty Trường Sanh chuyển nhượng cho công ty Ý Thiên mà không có sự thỏa thuận
với công ty Nhã Quán nên công ty Nhã Quán vẫn tiếp tục sử dụng là lỗi của công ty
Trường Sanh.
(Ngữ liệu D63, tr.9)
(61) Về thân nhân, bị cáo Th có 1 tiền án (tái phạm) theo Điểm g Khoản 1
Điều 48 BLHS.
(Ngữ liệu A10, tr.5)
(62) Theo “hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp” số 06/HĐ-
CN ngày 19-7-2007 (Bl.374), “Phụ kiện hợp đồng chuyển nhượng các quyền sở hữu
kiểu dáng công nghiệp” ngày 23-7-2007 (Bl.378) được ký kết giữa công ty Trường
Sanh với công ty Ý Thiên và “Giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sở hữu công nghiệp” số 916/QĐ-SHTT ngày 07-8-2007 của cục sở hữu trí tuệ
(Bl.380), Công ty Trường Sanh đã chuyển nhượng cho công ty Ý Thiên toàn bô quyền
sở hữu đối với 33 kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo 33 Bằng độc quyền kiểu
dáng công nghiệp tương ứng mà Cục sở hữu trí tuệ đã cấp cho công ty Trường Sanh.
(Ngữ liệu D63, tr.8)
(63) Qua lời khai của các đương sự, qua các tài liệu chứng cứ đã được nêu, xét
thấy biên bản số 76/VB-UB ngày 09/5/1998 của Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi là
biên bản hòa giải tranh chấp đất giữa bà R với ông R, không thể xem biên bản nêu
trên mang tính mệnh lệnh được thực thi như một Quyết định hành chính theo quan
điểm của vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà R được.
(Ngữ liệu B35, tr.7)
(64) Vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu
giữ một số tài sản của các bị cáo và hiện tại chuyển sang phòng Thi hành án dân sự
tỉnh Ninh Thuận […].
(Ngữ liệu A10, tr.7)
(65) Trong quá trình vận chuyển do gặp mưa bão, gió mạnh nước chảy xiết
nên tàu bị chìm tại vị trí gần cầu Hữu Nghị thuộc xã Xuân Tô, huyện Tịnh Biên.
(Ngữ liệu H69, tr.2)
(66) Tại bản án phúc thẩm số 74 ngày 29-2-2000 Tòa án Nhân dân tỉnh An
Giang đã xử: [..]
(Ngữ liệu H69, tr.3)
(67) Với tư cách là người chủ sở hữu hợp pháp các bằng độc quyền kiểu dáng
công nghiệp, Công ty Ý Thiên đã thông báo yêu cầu công ty Nhã Quán […].
(Ngữ liệu D63, tr.4)
(68) Lợi dụng lúc 2 người ngủ, B đã lấy 02 cái lắc vàng, một dây chuyền vàng,
một nhẫn vàng và một đồng hồ hiệu ra-đô.
(Ngữ liệu A10, tr.3)
(69) Thấy sự việc bị bại lộ mà không thể xuống xe được, Th đi đến giường A10
nơi V nằm lấy toàn bộ số tiền đô la Úc để trong chiếc nón màu đen đội trên đầu đưa
cho V cất.
(Ngữ liệu A10, tr.3)
Về vị trí: Ta có thể thấy vị trí chủ đạo của các trạng ngữ trong án văn là nằm ở
đầu câu, nhưng cũng có trường hợp trạng ngữ nằm ở vị trí giữa hay cuối câu như ở ví
dụ số (59), (64), (65).
Về cấu tạo: Trạng ngữ có cấu tạo đa dạng: có thể là những danh ngữ, như ví
dụ (58), (59), (60), động ngữ như ví dụ (68), (69) hoặc giới ngữ (những ví dụ còn lại).
Trong đó trạng ngữ có cấu tạo là giới ngữ chiếm ưu thế hơn cả. Những giới từ thường
dùng trong trạng ngữ là: theo, về, đối với, với, tại, trong.
Về nội dung biểu hiện: Trạng ngữ trong án văn chủ yếu biểu hiện các nội
dung: chỉ thời gian; chỉ nơi chốn; hạn định về đối tượng, phạm vi mà sự tình của câu
có hiệu lực. Ngoài ra trạng ngữ trong án văn còn biểu hiện một số nội dung khác như:
chỉ nguyên nhân, chỉ tình huống. Xét bảng thống kê tần số xuất hiện của trạng ngữ
xét về nội dung biểu hiện trong hai phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” của bốn bản án
sau:
Bảng 2.4. Thống kê số lượt xuất hiện của trạng ngữ/câu
trong phần “Nhận thấy” và “xét thấy” của án văn
Ngữ liệu H69 A10 D63 B37
Loại Nhận Xét Nhận Xét Nhận Xét Nhận Xét
trạng ngữ thấy thấy thấy thấy thấy thấy thấy thấy
9 4 16 7 16 2 41 3 Chỉ thời gian
1 0 7 1 1 0 Chỉ nơi chốn
3 7 13 7 2 5 8 3 Hạn định về đối
tượng, phạm vi
1 2 1 Nội dung khác
13/26
12/22
21/28
36/57
15/68 7/18
50/97
6/10
Tổng số lượt xuất
160/326 hiện/câu
Từ những ví dụ và bảng thống kê trên, ta có thể rút ra một số nhận xét về trạng
ngữ trong phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” của án văn như sau:
Trạng ngữ chỉ thời gian xuất hiện nhiều nhất trong phần “Nhận thấy”, đặc biệt
là trong án hình sự. Thời gian trong án hình sự được biểu đạt khá chi tiết
(giờ/ngày/tháng/năm) và có sự tăng tiến theo tiến trình vụ việc xảy ra, ví dụ: Khoảng
15 giờ ngày 21/4/2008…Đến 16 giờ….Khoảng 18 giờ….Đến khoảng 19 giờ 30
phút….Khoảng 22 giờ…Khi xe chạy được 30 phút…Khoảng 3 giờ ngày
22/4/2008…Việc sử dụng trạng ngữ như vậy khiến cho án văn có sự mạch lạc và liên
kết cao, giúp diễn đạt nội dung sự việc một cách chi tiết và xác định, củng cố được
lòng tin nơi người nghe.
Trạng ngữ hạn định về phạm vi và đối tượng xuất hiện chủ yếu trong phần “Xét
thấy” nhằm mục đích giới hạn từng nội dung cụ thể cho việc lập luận; đồng thời nó
cũng giới hạn căn cứ cho việc đưa ra kết luận. Trạng ngữ hạn định về phạm vi, đối
tượng trong án văn có kết cấu khá dài, thậm chí dài hơn cả nòng cốt của câu (xem ví
dụ 62). Nguyên nhân là do sau giới từ, đối tượng hạn định có thể là một hoặc nhiều
đối tượng, và mỗi đối tượng được biểu thị bằng một danh ngữ có nhiều định ngữ đi
kèm. Điều này cho thấy tầm quan trọng của trạng ngữ chỉ đối tượng trong lập luận,
nó giúp xác định một cách chính xác và rõ ràng đối tượng có quan hệ trực tiếp với
điều được nói đến trong nòng cốt của câu.
Trạng ngữ chỉ nơi chốn có số lượng ít hơn so với hai loại trên, do trạng ngữ chỉ
nơi chốn chỉ ra không gian, địa điểm mà sự việc trong vụ án xảy ra. Vì thế nó chỉ
được nêu một hoặc vài lần trong những đoạn mở đầu. Tuy nhiên, dù có tần số xuất
hiện thấp nhưng trạng ngữ chỉ nơi chốn vẫn có ảnh hưởng lớn đến tính xác định, rõ
ràng cho nội dung bản án bản án.
Sự xuất hiện của trạng ngữ với tần số cao như vậy là phù hợp với chức năng
của từng phần. Trạng ngữ giúp cho việc trình bày nội dung bản án, việc lập luận và
đưa ra kết luận của Hội đồng xét xử được rõ ràng, chặt chẽ và tạo được sự thuyết
phục. Trạng ngữ trong án văn có thể coi là một tác tử lập luận hiệu quả và đơn giản
nhất.
2.3.3.2. Phần phụ chú
Bên cạnh thành phần trạng ngữ, phần phụ chú có vai trò không kém quan trọng
trong việc tạo tính rõ ràng, minh xác cho án văn. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên
cứu, phụ chú là một bộ phận không tham gia vào cấu trúc cú pháp của câu với tư cách
thành phần câu như: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…, nó là thành phần biệt lập, chêm xen
trong câu. Dấu hiệu hình thức nhận diện phần phụ chú là phần phụ chú thường được
đặt giữa hai dấu phẩy hoặc dấu ngang hoặc đặt trong dấu ngoặc đơn, sau dấu hai
chấm.
Phần phụ chú trong tiếng Việt rất đa dạng về phương diện quan hệ nghĩa với
phần văn bản hữu quan và đối tượng được chú thích, nhưng trong án văn nó chỉ xuất
hiện ở những dạng cơ bản nhất. Chúng tôi sẽ xem xét thành phần phụ chú trong án
văn xét về mặt đối tượng được chú thích và xác định loại quan hệ nghĩa giữa thành phần chú thích với đối tượng được chú thích.5
Đối tượng được chú thích nhiều nhất trong án văn là danh từ riêng. Danh từ
riêng là danh từ chỉ người, như:
(70) Ông S (bị đơn), bà T (nguyên đơn) được cơ quan thẩm quyền chứng nhận
đăng ký kết hôn, xem đây là hôn nhân hợp pháp, nay đương sự xin ly hôn, quan hệ
pháp luật được xác định xin ly hôn.
(Ngữ liệu B21, tr.4)
(71) Tại các biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải, bị đơn ông N.A.T (ông
T còn đại diện theo ủy quyền của bà C) và bà L.Th.Đ.Ph đều xác nhận đúng như
nguyên đơn trình bày.
(Ngữ liệu E64, tr.3)
(72) Đến quán gặp nhóm thanh niên kia, chưa hỏi rõ thế nào mà lại dùng dao
đâm vào đùi N.Th.S – là người của nhóm kia, chưa dừng lại mà còn đâm thêm nhát
nữa làm anh S tử vong trên đường đi cấp cứu.
5 Trong những ví dụ mà chúng tôi dẫn ra ở nội dung này có những ví dụ mà người viết sử dụng sai dấu câu, ví dụ như phần chú thích chỉ được phân biệt với thành phần câu bằng một dấu phẩy hoặc bằng một dấu ngang; có trường hợp thành phần chú thích được đặt giữa dấu ngang và dấu phẩy. Chúng tôi giữ nguyên hiện trạng đó và vẫn xác định nó là thành phần phụ chú dựa trên tiêu chí về ngữ nghĩa và quan hệ với phát ngôn. Thành phần phụ chú sẽ được gạch dưới để xác định ranh giới với thành phần câu.
(Ngữ liệu A16, tr.9-10)
(73) Tại phiên tòa hôm nay, ông N.Th.Th và bà Tr.Th.L – người đại diện hợp
pháp của người bị hại N.T.S trình bày: […]
(Ngữ liệu A16, tr.12)
(74) Trên đường đi Tâm (Trùm) hỏi Ph “có mang theo đồ không?” (nghĩa là
có mang theo dao không).
(Ngữ liệu A16, tr.5)
(75) Lúc này có Ph và H (bạn của H, không xác định được họ tên và địa chỉ)
đến báo tin cho H: “vụ đánh ở phường 8 có người chết”.
(Ngữ liệu A16, tr.5)
(76) Ngày 12/02/2008, H mang dao trả cho H nhưng không gặp nên đưa dao
cho Đ. Đ giữ rồi đưa cho L.T.T – sinh ngày 22/02/1992, trú tại: 286/2B, khóm 1,
phường 9, T.p Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long giữ.
(Ngữ liệu A16, tr.6)
(77) Người bị hại: Nguyễn Thanh Sang, 29 tuổi (chết)
(Ngữ liệu A16, tr.3)
(78) Đối với số tiền 5.000.000 đồng, bà N.T.L – mẹ bị cáo Đ.P đưa trước cho
đại diện hợp pháp của bị cáo N.Th.S sẽ được xem xét trong quá trình thi hành án.
(Ngữ liệu A16, tr.13)
(79) Đến ngày 18/8/2009, Ph cùng với ông H.V.D, H.V.Tr, H.V.Th thị xã Bạc
Liêu, tỉnh Bạc Liêu (là công nhân làm chung) về nhà anh D chơi.
(Ngữ liệu A16, tr.7)
Phần phụ chú cho danh từ chỉ người bổ sung thêm thông tin về đối tượng đã
được nhắc đến như: thông tin về vai trò của đối tượng trong vụ án (ví dụ 70, 71, 72,
73), thông tin về nhân thân (ví dụ 74, 75, 76), thông tin giải thích cho đối tượng theo
quan hệ bên ngoài vụ án (những ví dụ còn lại).
Ngoài ra, đối tượng được chú thích còn là tên cơ quan, tổ chức, như:
(80) Nguyên đơn do ông P.Đ.L đại diện trình bày: Công ty TNHH sản xuất
nước mắm Hưng Thịnh (sau đây gọi tắt là công ty Hưng Thịnh) là chủ sở hữu nhãn
hiệu “Hưng Thịnh” theo GCN đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 38648 do cục SHTT
cấp ngày 22/10/2001 cho các sản phẩm nước mắm và mắm nêm.
(Ngữ liệu D62, tr.2)
(81) Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
(Ngữ liệu E64, tr.1)
(82) Xét, cơ sở Hưng Thịnh (Bình Dương) do ông Tr.N.Th làm chủ, được Ủy
ban nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh với hình thức hộ kinh doanh cá thể vào ngày 20/3/2006.
(Ngữ liệu D62, tr.4)
Quan hệ ngữ nghĩa thường gặp giữa phần phụ chú với tên cơ quan, tổ chức là
quan hệ bổ sung ý quy ước về cách gọi tắt trong những lần nhắc lại về sau (ví dụ 80),
tên tắt của cơ quan, tổ chức (ví dụ 81), và địa chỉ của cơ quan, tổ chức (ví dụ 82).
Bên cạnh danh từ riêng, đối tượng chú thích trong án văn thường gặp là số từ.
Số từ trong án văn thường có thêm phần chú thích xác nhận lại số lượng bằng một
cụm từ tương ứng, như:
(83) Xử phạt bị cáo L.H.P.C 14 (mười bốn) năm tù.
(Ngữ liệu A16, tr.14)
(84) Chi phí giám định, định giá: Bà T phải chịu 940.000đ (chín trăm bốn chục
nghìn đồng), ông S phải chịu 1.000.000đ (một triệu đồng)
(Ngữ liệu B21, tr.6)
Đối tượng chú thích còn là cụm danh từ, như:
(85) Tuy nhiên, việc đặt tên cơ sở Hưng Thịnh lại dẫn đến việc vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ về tên thương mại và không đảm bảo các điều kiện bảo hộ về tên
thương mại được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ, là văn bản pháp luật chuyên ngành
bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ.
(Ngữ liệu D62, tr.5)
(86) Tại phiên tòa sơ thẩm, ABC yêu cầu ông T, bà P phải thanh toán cho ABC
số tiền gốc là 450.000.000đ, tiền lãi còn thiếu tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(30/9/2008) là 5.011.667đ.
(Ngữ liệu E64, tr.2)
(87) Trong quá trình hòa giải và xét xử ở cấp sơ thẩm cũng như tại phiên tòa
hôm nay, chị V.T.N không đồng ý chuyển nhượng cho anh C, chị H phần đất diện tích
143,6 m2 làm lối đi thẳng theo biên bản thẩm định tại chỗ và sơ đồ đo đạc ngày
11/3/2009 (bút lục số 86) mà chỉ đồng ý giao cho anh C, chị H phần đất lối đi đường
vòng theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và sơ đồ đo đạc ngày 11/3/2009 (bút
lục số 85) nhưng anh C, chị H không đồng ý.
(Ngữ liệu B33, tr.4)
Từ những ví dụ trên, ta có thể thấy quan hệ ngữ nghĩa trong những ví dụ (85),
(86) là quan hệ giải thích. Ở ví dụ (87), phần phụ chú là cụm danh từ bút lục số…(bút
lục là một thuật ngữ chỉ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tài liệu trong hồ sơ được sắp
xếp và đánh số thứ tự liên tục), quan hệ ngữ nghĩa là quan hệ chỉ dẫn, người viết chỉ
dẫn nguồn có thể kiểm tra lại những loại giấy tờ, tài liệu đã được nêu ra.
Đối tượng chú thích trong án văn còn là một cấu tạo có quan hệ bổ sung nghĩa
cho phần văn bản hữu quan.
Ví dụ:
(88) Người đại diện theo ủy quyền là bà P.T.T.H (Giấy ủy quyền ngày
01/6/2009).
(Ngữ liệu H74, tr.2)
(89) Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty Fafilm Việt Nam phải chịu 200.000
đồng (được khấu trừ vào 200.000 đồng án phí phúc thẩm tạm nộp tại biên lai thu số
012798 ngày 24/8/2009 của Cơ quan Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
(Ngữ liệu H74, tr.3)
(90) Hiện số tiền này đã nộp vào Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận (ngày
12/11/2008, biên lai thu tiền số 000269).
(Ngữ liệu A8 , tr.3)
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy đối tượng được chú thích trong án văn khá
đa dạng. Nhờ thành phần chú thích mà nội dung biểu đạt của phát ngôn được cụ thể
hơn.
2.4. Đặc điểm ngữ dụng trong án văn
2.4.1. Câu ngôn hành và động từ ngôn hành trong án văn
Để hoàn thành mục đích giao tiếp do chức năng của nó quy định, các phát ngôn
trong án văn phải mang bản chất của một hành động ngôn ngữ (speech act). Câu ngôn
hành và vị từ ngôn hành (động từ ngôn hành) chính là một phương tiện ngôn ngữ
quan trọng tạo tính hành thực cho án văn.
Theo Cao Xuân Hạo [22, tr.416], “câu ngôn hành là một loại câu trần thuật tự
biểu thị” nhưng nó biểu thị “chính cái hành động được thực hiện trong khi nói nó ra
và chính bằng cách nói nó ra”. Điều kiện để một câu trở thành câu ngôn hành là: phải
có một vị từ ngôn hành, chủ thể của vị từ ngôn hành phải ở ngôi thứ nhất và thời gian
của sự tình phải ở hiện tại. Nội dung câu ngôn hành không có một giá trị chân ngụy,
tức là không thể nói nội dung đó là đúng hay là sai mà chỉ có thể nói nó “bất ổn” do
không đáp ứng được điều kiện hữu hiệu. Ví dụ:
Tôi tuyên bố hai người là vợ chồng.
Vị từ ngôn hành trong câu trên là “tuyên bố”.
Chủ thể của vị từ ở ngôi thứ nhất “tôi”.
Thời gian của sự tình ở hiện tại.
Điều kiện hữu hiệu của sự tình này là: “tôi” phải là một vị linh mục đang thực
hiện phép cưới.
Câu ngôn hành là câu có chức năng thực hiện hành động, hành động đó được
vị từ của nó gọi tên. Vị từ trong câu ngôn hành gọi là “vị từ ngôn hành”. Cao Xuân
Hạo (đã dẫn) định nghĩa “Vị từ ngôn hành là một vị từ mà khi được dùng trong một
điều kiện nhất định thì ngay việc sử dụng nó cũng chính là cái hành động được nó
biểu hiện”. Vị từ ngôn hành có thể được chia làm hai loại: Vị từ ngôn hành cần có
một bổ ngữ chỉ nội dung mới làm thành một phát ngôn ngôn hành được, như: công
nhận, bác, cấm, cam đoan…và loại vị từ ngôn hành không cần có bổ ngữ chỉ nội
dung đi kèm, như: chào, xin lỗi, cảm ơn… Không có khái niệm vị từ ngôn hành nếu
xét theo phương diện từ loại vì tính chất ngôn hành chỉ xuất hiện trong những ngữ
huống phát ngôn là câu ngôn hành. Trong câu không phải là ngôn hành thì đó chỉ là
vị từ bình thường. Xét hai ví dụ sau:
(a) Tôi xin lỗi anh.
(b) Tôi xin lỗi anh rồi mà.
Cả hai câu đều chứa vị từ “xin lỗi” nhưng câu (a) là câu ngôn hành còn câu (b)
chỉ là câu trần thuật.
Không phải vị từ nào cũng làm hạt nhân cho câu ngôn hành được: Đó phải là
những vị từ biểu thị hành động có thể thực hiện bằng ngôn từ. Nhưng không phải vị
từ nào chỉ những hành động được thực hiện bằng ngôn từ cũng là vị từ ngôn hành, ví
dụ không thể nói “Tôi (xin) nịnh anh.” dù nịnh là một vị từ có thể thực hiện bằng
ngôn từ.
Kết quả khảo sát câu ngôn hành và động từ ngôn hành có trong án văn được
thể hiện cụ thể qua bảng sau (trong cột Câu ngôn hành chúng tôi chỉ trình bày một
ví dụ tiêu biểu):
Bảng 2.5. Bảng kê động từ ngôn hành và câu ngôn hành
thường được sử dụng trong án văn
Stt Câu ngôn hành
1 Động từ ngôn hành Bác
- Bác đơn khởi kiện của L.A.H đối với chị L.T.M.D đòi 6.320.38 bảng Anh.
(Ngữ liệu C41, tr.5)
2 Báo
- Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án phúc thẩm tỉnh Đồng Tháp xét xử lại phúc thẩm.
(Ngữ liệu C46 , tr.5)
3 Cấm
- Cấm ông T.N.T, chủ cơ sở H.T có địa chỉ […] sử dụng tên thương mại có thành phần tên gọi riêng “Hưng Thịnh” để xưng danh trong hoạt động kinh doanh.
(Ngữ liệu D62, tr.6)
4 Chấp nhận - Chấp nhận một phần kháng cáo của bà T.T.K.C
(Ngữ liệu B20, tr.5)
5 Công nhận
- Về quan hệ vợ chồng: Công nhận ông N.Đ.T và bà P.T.T.T thuận tình ly hôn.
(Ngữ liệu B37, tr.8)
6 Đề nghị
- Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Lai Vung thu hồi diện tích 520m2, thuộc […] do bà N.T.T được cấp quyền sử dụng đất (theo sơ đồ và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
22/9/2008) để cấp lại cho hộ bà N.
(Ngữ liệu B25, tr.4)
7 Đình chỉ
- Đình chỉ giải quyết tranh chấp “Hợp đồng vay” giữa bà N.T.H, bà N.T.K, bà V.T.L, bà N.T.C với bà N.T.A phần đất diện tích […].
(Ngữ liệu C51 , tr.14)
8 Ghi nhận
- Về con chung: Ghi nhận việc ông T và bà T thỏa thuận về việc giao trẻ N.P.T.T sinh ngày 16/07/1999 và N.Đ.T sinh ngày 05/11/2002 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.
(Ngữ liệu B37, tr.8)
9 Giữ nguyên - Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
(Ngữ liệu B33 , tr.5)
10 Hủy
- Hủy bản án sơ thẩm số 03 ngày 24-12-1999 của Tòa án Nhân dân thành phố Long Xuyên và bản án phúc thẩm số 74 ngày 29-2-2000 của Tòa án Nhân dân tỉnh An Giang.
(Ngữ liệu H73, tr.3)
11 Sửa - Sửa bản án sơ thẩm.
(Ngữ liệu B30, tr.7)
12 Tạm giữ
- Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu LXD mã số […] (có 1 pin và 1 sim) của bị cáo ĐP để đảm bảo thi hành án.
(Ngữ liệu A16, tr.14)
13
Áp dụng Khoản 1 Điều 275 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Tuyên xử:
Tuyên án/Tuyên xử/Xử
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của N.Đ.Th - Giữ y bản án sơ thẩm số […].
(Ngữ liệu B37, tr.8)
14 Tuyên bố
- Tuyên bố các bị cáo V.Đ.N, L.M.N, V.T.Đ, P.V.T cùng phạm tội “Giết người”.
(Ngữ liệu A3, tr.7)
15 Xử phạt - Xử phạt bị cáo L.H.P.C 14 (mười bốn) năm tù.
(Ngữ liệu A16, tr.14)
Từ những cơ sở lý thuyết đã nêu và kết quả khảo sát, chúng tôi có một số nhận
xét về việc sử dụng câu ngôn hành và động từ ngôn hành trong án văn như sau:
Thứ nhất, án văn chỉ có hiệu lực pháp luật khi được đọc trước Tòa và sau đó
được gửi cho những người liên quan. Viết ra để đọc trước Tòa, cho nên trong án văn
câu ngôn hành đều ở dạng thức viết và đảm bảo được điều kiện là: động từ ngôn hành
dùng ở thì hiện tại; chủ thể phát của câu ngôn hành trong án văn không phải là một cá
nhân mà là một tập thể đại diện cho tòa án, nhân danh Nhà nước vì vậy chủ thể vẫn
được coi là ở ngôi thứ nhất. Vì chủ thể đã được nhắc đến ở trên nên câu ngôn hành
trong án văn là những câu tỉnh lược chủ ngữ. Đối tượng tiếp nhận là những cá nhân
xác định nên động từ ngôn hành luôn có một bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận hành
động được biểu thị và một bổ ngữ chỉ nội dung đi kèm. Vì vậy mà ý nghĩa ngôn hành
của câu ngôn hành trong án văn rất minh bạch.
Thứ hai, sự khác biệt trong việc sử dụng câu ngôn hành và động từ ngôn hành
trong án hình sự và dân sự: án dân sự sử dụng nhiều loại câu ngôn hành và động từ
ngôn hành hơn là án hình sự. Trong bảng khảo sát trên, án hình sự chủ yếu sử dụng
những vị từ ngôn hành như: tuyên bố, xử phạt. Còn lại là những vị từ ngôn hành được
sử dụng trong án dân sự. Lý do của sự khác biệt trên là mối quan hệ trong bản án hình
sự là mối quan hệ giữa luật pháp và đối tượng cụ thể là các bị cáo vì vậy đối tượng
tiếp nhận những hành động ngôn trung là bị cáo. Còn trong án dân sự mối quan hệ đó
phức tạp hơn, chủ thể tiếp nhận là hai bên đương sự có quyền lợi, nghĩa vụ xung đột
với nhau.
Thứ ba, trong án dân sự thường có những động từ ngôn hành như: Tuyên án,
tuyên xử, xử được tách thành một dòng và sau nó là dấu hai chấm báo hiệu những câu
tiếp theo là nội dung bổ sung cho nó (xem ví dụ 91). Như vậy có thể thấy hành động
ngôn trung trong án dân sự có hai tầng bậc với hai kiểu chức năng khác nhau.
Bậc thứ nhất là hành động ngôn trung Tòa tuyên án/tuyên xử/xử. Hành động
ngôn trung này ứng với hành động Tuyên bố, là hành động nói làm thay đổi thế giới
thông qua việc nói ra chúng. Hành động Tuyên bố hướng vào người phát là tòa án,
thể hiện vai trò chuyên biệt do chế định của tòa án, trong một ngữ cảnh riêng là tại
phòng xử án và thực hiện sự tuyên bố thích hợp về việc xét xử một vụ án.
Bậc thứ hai là hành động điều khiển có những nội dung hành động cụ thể
hướng tới đối tượng tiếp nhận. Nó có tính chất mệnh lệnh buộc đối tượng nói đến
phải thực thi hành động. Vì vậy, ở bậc thứ hai bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận hành
động được xác định rất rõ ràng.
Thứ tư, trong án văn có những câu sử dụng từ phủ định “không” trước động từ
ngôn hành, như “không chấp nhận”. Ví dụ:
(91) Áp dụng Khoản 1 Điều 275 Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của N.Đ.Th
- Giữ y bản án sơ thẩm số […].
(Ngữ liệu B37, tr.8)
Ta có thể thấy, trong bản án có sử dụng nhiều câu ngôn hành với vị từ ngôn
hành là “chấp nhận”, ví dụ (như trong bảng khảo sát trên), hành động ngôn trung
trong câu ngôn hành này là đồng ý với điều mà người khác yêu cầu. Hành động ngôn
trung trong câu ngôn hành có kết hợp “không chấp nhận” trái ngược với hành động
ngôn trung trên, và kết hợp “không chấp nhận” tương đương với vị từ ngôn hành
“bác”, có thể thay thế bằng vị từ bác mà lực ngôn trung không thay đổi, ví dụ (91’):
Áp dụng Khoản 1 Điều 275 Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
- Bác yêu cầu kháng cáo của N.Đ.Th
- Giữ y bản án sơ thẩm số […].
Vì vậy, những câu như ví dụ (91) vẫn duy trì được tính ngôn hành và có thể coi
là một câu ngôn hành trong ngữ cảnh này.
2.4.2. Tình thái trong án văn
Tình thái là một phạm trù vô cùng phức tạp mà cho đến nay những nghiên cứu
về nó vẫn chưa đạt được đến sự hoàn chỉnh và thống nhất. Trong luận văn này, chúng
tôi không có tham vọng đi vào nghiên cứu lý thuyết về tình thái mà căn cứ vào những
tài liệu tham khảo có được, chúng tôi dựa vào một khung lý thuyết nhất định như sẽ
trình bày sau đây để làm cơ sở cho việc nghiên cứu tình thái được sử dụng trong án
văn và tác dụng của nó đối với hiệu quả giao tiếp trong án văn. Trong mục này,
chúng tôi triển khai hai nội dung. Thứ nhất là phân loại tình thái có trong án văn. Để
có cơ sở phân loại, chúng tôi sẽ trình bày một cách khái quát những vấn đề cơ bản về
tình thái như: khái niệm về tình thái, phân biệt tình thái với ngôn liệu, các loại tình
thái trong ngôn ngữ. Từ đó chúng tôi xác định loại tình thái được sử dụng trong án
văn và cách thức sử dụng chúng. Thứ hai, chúng tôi chỉ ra những phương tiện ngôn
ngữ biểu hiện tình thái trong án văn, phân tích và khái quát tác dụng của nó đối với
hiệu quả giao tiếp.
2.4.2.1. Phân loại tình thái trong án văn
Trong ngôn ngữ học hiện nay, khái niệm tình thái được các tác giả dùng để chỉ
một phạm trù ngữ nghĩa rộng lớn xoay quanh mối quan hệ giữa người nói, nội dung
miêu tả trong phát ngôn và thực tế. Có nhiều khái niệm khác nhau về tình thái, nhưng
để hiểu tình thái một cách rõ ràng nhất, các tác giả thường đối lập nó với một khái
niệm gần gũi khác là “ngôn liệu”.
Cao Xuân Hạo khái quát sự phân biệt giữa ngôn liệu và tình thái như sau:
“Trong lô-gích học, nội dung của một mệnh đề được chia làm hai phần. Phần thứ
nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum), tức cái tập hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lô-
gích) và các tham tố của nó được xét như một mối liên hệ tiềm năng, và phần thứ hai
gọi là tình thái (modalité), là cách thực hiện mối liên hệ ấy, cho biết mối liên hệ ấy là
có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi nó là phi hiện thực), là tất yếu
hay không tất yếu, là có thể có được hay không thể có được.” [22, tr.96]. Cũng với
cách nhìn nhận như vậy nhưng Nguyễn Văn Hiệp diễn đạt đơn giản hơn: “Ngôn liệu
thực chất là thông tin miêu tả ở dạng tiềm năng, còn tình thái là phần định tính cho
thông tin miêu tả ấy.” [23, tr.85]. Như vậy, có thể coi ngôn liệu và tình thái là hai mặt
khác nhau xuất hiện trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn mà cái này làm cơ sở cho sự
xuất hiện của cái kia và ngược lại. Sự phân biệt giữa ngôn liệu và tình thái như vậy
cho phép chúng ta đi đến một cách hiểu cụ thể về tình thái. Tình thái bao gồm các
tham tố cơ bản như: các tham tố về tính tất yếu, tính khả năng và tính hiện thực.
Những tham tố này dựa trên cơ sở nhận thức hay đạo nghĩa dưới góc độ khách quan
hay chủ quan. Từ những tham tố cơ bản như vậy, ý nghĩa tình thái trong ngôn ngữ
học được phân chia thành nhiều kiểu khác nhau như:
- Các ý nghĩa khác nhau thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường của người nói
đối với nội dung thông báo: người nói đánh giá nội dung thông báo về độ tin cậy, tính
hợp pháp của hành động, xem đó là điều tích cực hay tiêu cực, là bất ngờ ngoài chờ
đợi hay bình thường,…
- Các ý nghĩa đối lập giữa khẳng định và phủ định đối với sự xuất hiện của sự
tình.
- Những đặc trưng liên quan đến sự diễn tiến của sự tình, liên quan đến khung
ngữ nghĩa ngữ pháp của vị từ cũng như mối quan hệ giữa chủ thể được nói đến trong
câu và vị từ (ý nghĩa về thời, thể và các ý nghĩa được thể hiện bằng vị từ tình thái,
cho biết chủ thể có ý định, có khả năng, mong muốn thực hiện hành động…).
- Các ý nghĩa khác phản ánh các đặc trưng khác của phát ngôn và hành động phát
ngôn có liên quan đến ngữ cảnh, xét theo quan điểm đánh giá của người nói.
- Các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn của người nói, thể hiện sự tác động
qua lại giữa người nói và người nghe.
Hiểu về tình thái như vậy, chúng tôi nhận thấy rằng trong án văn tình thái xuất
hiện ở ba tham tố: tính tất yếu, tính khả năng và tính hiện thực trên cơ sở nhận thức
và đạo nghĩa dưới góc độ chủ quan. Do đặc trưng của văn bản pháp luật đòi hỏi sự
minh bạch, khách quan và tính thuyết phục cao nên trong án văn không xuất hiện
kiểu ý nghĩa tình thái chỉ mức độ của tính tất yếu hay khả năng mà tình thái trong án
văn luôn ở dạng cực cấp. Các kiểu ý nghĩa tình thái biểu hiện trong án văn là:
- Thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường của người nói đối với điều được nói
tới
- Các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn của người nói, thể hiện sự tác động
qua lại giữa người nói và người nghe.
Phân loại tình thái trong án văn, chúng tôi thấy rằng tình thái trong án văn có
thể quy về hai loại: tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa (tất nhiên, sự phân loại
này chỉ mang tính chất tương đối). Tình thái đạo nghĩa và tình thái nhận thức có
những kiểu ý nghĩa khác nhau mà chúng có thể có trong án văn hoặc không.
Tình thái nhận thức được hiểu là tình thái chỉ ra vị thế hiểu biết của người nói,
bao gồm cả sự xác nhận cũng như đảm bảo cá nhân của người nói đối với điều anh ta
nói ra. Tình thái nhận thức không chỉ liên quan tới tính tất yếu, tính khả năng mà còn
liên quan đến mức độ cam kết của người nói đối với điều được nói ra trong câu.
Xét ví dụ sau (dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp):
Mai mưa.
Mai chắc chắn mưa.
Mai chắc mưa.
Ba câu này xét về mức độ cam kết mà người nói thể hiện, có thể nêu ra một
thang độ như sau:
Mai mưa > Mai chắc chắn mưa > Mai chắc mưa.
Câu thứ nhất không có yếu tố đánh dấu tình thái là người nói đã xác nhận hoàn
toàn tính chân thật của điều được nói ra. Hai trường hợp sau có đánh dấu về tình thái
là trường hợp người nói thể hiện những mức độ cam kết thấp hơn.
Trong án văn không xuất hiện những yếu tố đánh dấu tình thái nhận thức thể
hiện các mức độ cam kết của người nói về tính chân thực của điều được nói ra như:
có thể, có lẽ, hình như, chắc chắn, chắc hẳn, chắc…để đảm bảo tính đơn nghĩa cho
nội dung thông báo. Tuy nhiên, phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” có tình thái nhận
thức thể hiện kiểu ý nghĩa bộc lộ thái độ, lập trường của người nói (người nói ở đây
là một tập thể đại diện cho quyền lực của nhà nước): người nói không cam kết hay
xác nhận tính chân thực của điều được nói ra. Theo đó, người nói trình bày điều được
nói ra với tư cách là điều mà người nói được thông báo qua một người thứ ba, dưới
dạng thức:
Theo X:
X nói là/ trình bày/ cho là/khai nhận/khai báo/…
Những dạng thức này cho phép người đọc/người nghe hiểu rằng những nội
dung thông báo phía sau chỉ là những thông tin mà người nói nhận được. Và chúng
có thể được coi như là những quán ngữ biểu thị tình thái giống như: nghe đâu, nghe
nói, nghe đồn, người ta nói là… Người nói không đảm bảo tính đúng, sai của những
thông tin đó. Những dạng thức như vậy đảm bảo được tính khách quan mà án văn cần
phải có.
Ví dụ:
(92) Đơn khởi kiện ngày 20/12/2006 của ông V.P.X, V.K.L, V.K.A, V.P.T,
V.K.C và V.K.N trình bày: Phần đất tranh chấp ranh có nguồn gốc của cha mẹ các
nguyên đơn […].
(Ngữ liệu B29, tr.2)
(93) Ông Đ, bà T xác định từ năm 1962 cho đến nay vẫn sử dụng đúng với diện
tích được cấp quyền sử dụng đất chứ không lấn chiếm phần đất của các nguyên đơn.
(Ngữ liệu B29 , tr.3)
(94) Chị V.T.N trình bày: chị có cho vợ chồng anh M. chị T một phần đất chiều
ngang 02m, dài khoảng 25,5m […].
(Ngữ liệu B33, tr.3)
(95) Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng phần
đất đang tranh chấp có nguồn gốc của cha mẹ bà R, bà H, ông R để lại […].
(Ngữ liệu B35, tr.5)
Ngoài ra, tình thái nhận thức trong phần “Xét thấy” còn thể hiện kiểu ý nghĩa
bộc lộ thái độ, lập trường của người nói nhưng với mức độ cam kết, xác nhận hoàn
toàn tính chân thực của điều được nói ra dựa trên những bằng chứng có hiệu lực
mạnh hoặc những cơ sở suy luận mà người nói có được. Điều này tạo nên tính thuyết
phục của án văn đối với người đọc, người nghe. Người nói trình bày điều được nói ra
với tư cách là: điều mà người nói suy luận được dựa trên những bằng chứng đã được
kiểm định, những căn cứ pháp luật. Trong án văn, cách nói này thường được thể hiện
bằng việc nêu lý do, căn cứ, nguyên nhân trước rồi đưa kết luận sau hoặc kết luận
trước và đưa các bằng chứng sau:
A có căn cứ để chấp nhận/phù hợp với quy định của pháp luật, bởi vì: […]
A không có căn cứ để chấp nhận/không phù hợp với quy định của pháp luật,
bởi lẽ: […]
(A là một nội dung cụ thể đã được nêu trong phần “Nhận thấy”)
Căn cứ vào…., do…, nên ….
Ví dụ:
(96) Từ những căn cứ trên cho thấy phía bị đơn không lấn đất của các nguyên
đơn nên Hội đồng xét xử phúc phẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, không
buộc bị đơn phải trả tiền giá trị đất cho các nguyên đơn là có căn cứ pháp luật.
(Ngữ liệu B29, tr.5)
(97) Xét lời trình bày của ông T cho rằng sau khi bà N sang nhượng nền tái
định cư cho bà H, ông K thì ông và vợ đã mua lại căn nhà này của bà H, ông K
nhưng ông T không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh cho thấy có việc mua bán
nhà giữa ông và bà H.
Án sơ thẩm đã xử không chấp nhận yêu cầu của ông T đòi sở hữu ½ căn nhà số
[…] là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.
Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T và giữ
y bản án sơ thẩm.
(Ngữ liệu B37, tr.8)
(98) Căn cứ nội dung hợp đồng vay tiền thế chấp nhà ngày 31/10/2008 lập tại
Phòng công chứng Số 5 Tp. Hồ Chí Minh có đủ cơ sở xác định giữa ông Đ.H.H và
ông T.V.H đã phát sinh quan hệ dân sự vay tài sản số tiền 3.220.000.000 (ba tỷ hai
trăm hai mươi triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 1,5% tháng.
(Ngữ liệu 34, tr.4-5)
(99) Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã thu thập tại hồ
sơ vụ án, phù hợp với các lời khai nhân chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường,
biên bản khám nghiệm tử thi cũng như kết luận giám định. Có cơ sở kết luận các bị
cáo C, T, Th, T đều phạm tội “Giết người” theo Khoản 2 Điều 93 và phạm tội “Cố ý
gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 104 Bộ Luật hình sự mà Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Ninh Thuận đã truy tố là có căn cứ.
(Ngữ liệu A11, tr.5-6)
Kiểu ý nghĩa tình thái thứ hai xuất hiện trong án văn thuộc về tình thái đạo
nghĩa. Tình thái đạo nghĩa được hiểu là loại tình thái có liên quan đến nhân tố ý chí
của người nói. Nếu như tình thái nhận thức chỉ ra vị thế hiểu biết của người nói, bao
gồm cả sự xác nhận cũng như những đảm bảo cá nhân của người nói đối với điều anh
ta nói ra thì tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo đức hay các
chuẩn mực xã hội khác đối với hành động do một người nào đó hay chính người nói
thực hiện.
Trong án văn, tình thái đạo nghĩa thể hiện rõ nhất ở phần “Quyết định” với
kiểu ý nghĩa tình thái thể hiện kiểu mục đích tại lời mà người nói thực hiện xét ở bình
diện liên nhân. Người nói cho rằng điều được nói tới là bắt buộc, là được phép hay
được miễn trừ từ đó xác lập quyền và nghĩa vụ cho đối tượng được nhắc đến. Trong
án văn, tình thái đạo nghĩa được thể hiện với ba kiểu ý nghĩa chính: sự bắt buộc, sự
cho phép, sự cấm đoán.
Trong mục này, chúng tôi đã làm rõ vấn đề tình thái trong án văn ở mức độ
phân loại. Tóm lại, trong án văn có hai loại tình thái cơ bản: tình thái nhận thức và
tình thái đạo nghĩa. Tùy vào chức năng biểu thị ý nghĩa của mình mà mỗi loại tình
thái chiếm ưu thế ở các phần khác nhau trong cấu trúc nội dung của án văn. Tình thái
nhận thức xuất hiện chủ yếu ở phần “Nhận thấy” và “Xét thấy” với ý nghĩa không
cam kết, xác nhận hoàn toàn hoặc cam kết, xác nhận hoàn toàn tính chân thực của nội
dung thông báo. Tình thái nhận thức trong án văn được biểu thị bằng một vài dạng
thức ngôn ngữ cơ bản. Những dạng thức ngôn ngữ này góp phần tạo tính khách quan
và tính thuyết phục cho án văn. Tình thái đạo nghĩa xuất hiện chủ yếu trong phần
“Quyết định” có giá trị ngôn trung, với ba loại ý nghĩa chính: tình thái bắt buộc, tình
thái cho phép và tình thái cấm đoán. Những phương tiện ngôn ngữ biểu hiện tình thái
đạo nghĩa góp phần tạo lập quyền và nghĩa vụ cho người nghe - là những đối tượng
tham gia tố tụng. Tình thái đạo nghĩa trong án văn được biểu hiện qua nhiều phương
tiện ngôn ngữ khác nhau và khá đa dạng nên chúng tôi sẽ tách việc phân loại những
phương tiện ngôn ngữ biểu hiện tình thái đạo nghĩa ra thành một mục riêng.
2.4.2.2. Các phương tiện biểu hiện tình thái đạo nghĩa trong án văn
Người nói trong án văn là một tập thể nhân danh Nhà nước, đại diện cho pháp
luật. Người nghe, cũng chính là đối tượng được nói đến, là những công nhân và pháp
nhân. Quan hệ giữa người nói với người nghe là quan hệ pháp luật với vai tác động
và vai bị tác động. Vì vậy, án văn sử dụng những phương tiện biểu thị tình thái đạo
nghĩa với mục đích ràng buộc về quyền và nghĩa vụ thực hiện một hành động nào đấy
đối với người nghe.
Nói đến phương tiện biểu thị tình thái đạo nghĩa trong án văn, trước hết phải kể
tới những vị từ tình thái như phải, được – hai vị từ tình thái thường xuyên xuất hiện
trong án văn nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ thực thi hành động cho đối tượng.
Vị từ tình thái phải thể hiện ý nghĩa tình thái về sự bắt buộc. Những phát ngôn
sử dụng vị từ tình thái phải biểu hiện sự bắt buộc đối tượng được nói tới có trách
nhiệm, nghĩa vụ thi hành một hành động hay một điều gì đó. Điều được nói đến như
một cưỡng bức khách quan với người nghe, và thường là điều mà người nghe không
mong muốn. Ví dụ:
(100) Ông V.P.X phải nộp 1.315.200 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, không
phải nộp tiền án phí phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số
005806 ngày 02/4/2007 và biên lai số 009124 ngày 14/10/2008 là 399.000 đồng. Ông
Xuân còn phải nộp tiếp 916.000 đồng tại thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.
(Ngữ liệu B29, tr.7)
(101) Ông Chủ tịch UBND Thị xã Tân An phải chịu 50.000đ án phí hành chính
sơ thẩm.
(Ngữ liệu F67, tr.5)
Sự bắt buộc trong tình thái đạo nghĩa trong những ví dụ trên có tính hợp thức
theo tiêu chuẩn pháp luật được quy định tại các điều luật. Ngoài tiêu chuẩn hợp thức
đó còn có những khung điều kiện hợp thức khác như hoàn cảnh về thời gian, về điều
kiện mà nghĩa vụ ràng buộc cho đối tượng được thực thi, ví dụ:
(102) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông T, bà Đ có đơn yêu cầu thi
hành án nếu ông N.V.N không trả đủ số tiền trên thì còn phải chịu thêm một khoản
tiền lãi suất theo mức lãi suất quá hạn của Nhà nước công bố tại thời điểm trả nợ
tương ứng số tiền thiếu nợ.
(Ngữ liệu B40, tr.6)
Ở ví dụ này, hoàn cảnh hợp thức cho nghĩa vụ “phải chịu thêm một khoản tiền
lãi suất theo mức lãi suất quá hạn của Nhà nước công bố tại thời điểm trả nợ tương
ứng số tiền thiếu nợ” là thời gian “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông T, bà
Đ có đơn yêu cầu thi hành án”, và điều kiện giả thiết “nếu ông N.V.N không trả đủ số
tiền trên”.
Vị từ tình thái phải luôn đứng sau biểu thức chỉ đối tượng thực thi nghĩa vụ và
đứng trước một vị từ hành động như: nộp, chịu, thi hành…Và đôi khi, để nhấn mạnh
đến nghĩa vụ ràng buộc, phải còn kết hợp với tổ hợp tình thái tính khác như: có nghĩa
vụ, có trách nhiệm…Ví dụ:
(103) Nếu ông T, bà P không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nêu trên, thì bà C và
các thừa kế của ông Th là N.T.T, N.T.Th, N.T.P.N phải có trách nhiệm liên đới trả số
tiền trên cho ngân hàng.
(Ngữ liệu E64, tr.6)
Vị từ tình thái phải còn đi cùng với động từ “buộc” nhằm nhấn mạnh đến tính
cưỡng bức của nghĩa vụ phải thực thi, như:
(104) Buộc anh V.T.H phải trả cho chị H.T.M.A số tiền vốn vay và lãi là
11.716.000 đồng (Mười một triệu bảy trăm mười sáu ngàn đồng)..
(Ngữ liệu B23, tr.6)
Vị từ tình thái phải khi kết hợp với tác tử phủ định không thì lại mang một ý
nghĩa tình thái khác là sự cho phép, ví dụ:
(105) Án phí sơ thẩm các đương sự không phải chịu.
(Ngữ liệu B30, tr.8)
Vị từ tình thái được thể hiện ý nghĩa tình thái về sự cho phép nhằm tạo lập
quyền cho đối tượng được nhắc đến, đối tượng có thể thực hiện hành động mà Tòa
yêu cầu hoặc không. Vị từ hành động kết hợp với vị từ tình thái được thường thấy
trong án văn là sở hữu, trừ, nhận lại, quyền, sử dụng, miễn.
Ví dụ:
(106) Bà T.T.K.C được sở hữu căn nhà số 286/60A, đường Cách Mạng Tháng
Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa – thành phố Cần Thơ sau khi thanh toán xong số tiền
nêu bên trên cho bà N.T.C.
(Ngữ liệu B20, tr.5)
(107) Nguyên đơn được nhận lại dự phí vụ kiện 2.549.000 đồng theo biên lai
số 003325 ngày 16/10/2007..
(Ngữ liệu B19, tr.4)
(108) Ông T được quyền đến thăm và chăm sóc con chung.
(Ngữ liệu B37, tr.9)
(109) Bà T.T.Y được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm, không phải chịu
án phí phúc thẩm.
(Ngữ liệu B28, tr.6)
Khi vị từ tình thái được có tác tử phủ định không đứng trước thì nó lại biểu
hiện ý nghĩa tình thái về sự cấm đoán, ví dụ:
(110) Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông S, không
ai được quyền ngăn cản.
(Ngữ liệu B21, tr.5)
Ngoài những vị từ tình thái phải, được, không được thể hiện ý nghĩa tình thái
bắt buộc, cho phép và cấm đoán, trong án văn còn sử dụng phương tiện tình thái khác
là tổ hợp tình thái tính. Tổ hợp tình thái tính là những kết hợp từ mang ý nghĩa tình
thái. Án văn sử dụng bốn tổ hợp tình thái tính như: có trách nhiệm, có nghĩa vụ, có
quyền, dành quyền…cho…Trong đó hai tổ hợp đầu có ý nghĩa tình thái bắt buộc, ví
dụ:
(111) Bà T.T.Y có nghĩa vụ giao trả cho bà L.N.N số tiền ½ giá trị đất tại thửa
242 là 80.500.000 đồng và tiền giá trị căn nhà là 84.693.566 đồng.
(Ngữ liệu B28, tr.6)
(112) Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương
trong việc quản lý giám sát các bị cáo trong thời gian thử thách.
(Ngữ liệu A3, tr.8)
Hai tổ hợp tình thái này cũng kết hợp với động từ buộc nhằm nhấn mạnh nghĩa
vụ bị cưỡng bức thực thi, như:
(113) Buộc ông N.V.N có trách nhiệm hoàn trả cho vợ chồng ông N.V.T và bà
V.T.H.Đ số vàng đã nhận là 3,5 chỉ vàng 24k (98%) và tiền chênh lệch giá là
37.368.000 đồng.
(Ngữ liệu B40, tr.5)
Hai tổ hợp sau có ý nghĩa tình thái về sự cho phép, ví dụ:
(114) Bà L.N.N có quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày án có hiệu
lực pháp luật.
(Ngữ liệu B28, tr.6)
(115) Dành quyền khởi kiện cho bà N.T.C đối với bà T.T.K.C v/v “Đòi giá trị
quyền sử dụng đất 104,56 m2” hiện do bà T.T.K.C làm nhà ở theo quy định chung.
(Ngữ liệu B20, tr.6)
Ngoài hai phương tiện trên, án văn còn thường xuyên sử dụng cấu trúc ẩn tình
thái. Cấu trúc ẩn tình thái được hiểu là cấu trúc trong đó phương tiện ngôn ngữ biểu
thị tình thái không xuất hiện (ký hiệu Φ thể hiện vị trí ẩn phương tiện biểu thị tình
thái) nhưng vẫn mang ý nghĩa tình thái. Ý nghĩa tình thái mà những cấu trúc này thể
hiện là ý nghĩa về sự bắt buộc.
Cấu trúc: Buộc…+ Φ vị từ hành động
Những vị từ hành động thường xuất hiện trong cấu trúc này là: giao trả/hoàn
trả/thanh toán/ bồi thường…Ví dụ:
(116) Buộc anh M, chị T Φ giao trả cho anh C, chị H 1.000.000 đồng tiền đất
đã nhận và 60.000 đồng chi phí thẩm định.
(Ngữ liệu B33, tr.5)
(117) Buộc bà T.T.K.C Φ thanh toán cho bà N.T.C số tiền 147.803.531 đồng.
(Ngữ liệu B20, tr.5)
(118) Buộc H.T.P (H.T.C) Φ bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho
H.T.L là 1.258.500đ (Một triệu hai trăm tám mươi ngàn năm trăm đồng).
(Ngữ liệu B27, tr.4)
Cấu trúc chỉ gồm vị từ hành động như: nộp, chịu… cũng mang ý nghĩa tình
thái về sự bắt buộc, ví dụ:
(119) Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ cấp phúc thẩm là 50.000 đồng, bà N
Φ chịu.
(Ngữ liệu B28, tr.6)
(120) Ông N.A.T và bà L.T.Đ.P Φ nộp toàn bộ án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm là 17.834.000đ.
(Ngữ liệu E64, tr.6)
Tóm lại, chúng ta có thể tổng kết các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái
đạo nghĩa trong án văn bằng bảng sau:
Bảng 2.6. Các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái đạo nghĩa
trong án văn
Phương Vị từ tình thái Tổ hợp tình thái tính Cấu trúc ẩn tình
thái tiện
Ý nghĩa
- Phải - Có trách nhiệm - Buộc…Φ + vị từ
- Có nghĩa vụ Sự bắt buộc hành động
- Φ + vị từ hành
động
- Được - Có quyền
- Không phải - Dành quyền….cho Sự cho phép
- Không được Sự cấm đoán
2.5. Tiểu kết
Trong chương hai, chúng tôi đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ án
văn tiếng Việt ở các cấp độ và bình diện ngôn ngữ.
Ở cấp độ văn bản, cấu trúc văn bản của án văn gồm có hai bình diện: cấu trúc
thể loại tiềm năng và cấu trúc phát triển nhận thức. Hai bình diện có quan hệ chặt
chẽ với nhau: cấu trúc phát triển nhận thức là một bộ phận của cấu trúc thể loại tiềm
năng và cấu trúc thể loại tiềm năng quy định tính chất của cấu trúc phát triển nhận
thức. Hai cấu trúc này cùng điều tiết cách bố trí, triển khai các đơn vị ngôn ngữ để
thể hiện nội dung. Phương tiện liên kết trong án văn thường gặp là phép lặp, phép
nối và phép tuyến tính. Phép lặp xuất hiện trên toàn văn bản, phép tuyến tính giữ vai
trò liên kết chủ yếu trong phần “Nhận thấy” và phép nối xuất hiện nhiều trong
những lập luận ở phần “Xét thấy”. Phương pháp trình bày nội dung án văn cũng là
một đặc điểm đáng lưu ý. Do cấu trúc nội dung của án văn khá đặc biệt mà phương
pháp trình bày nội dung cũng được ưu tiên lựa chọn cho phù hợp với mỗi phần, mỗi
bộ phận của án văn. Ứng với phần mở đầu, phần “Nhận thấy” và phần kết thúc văn
bản của án văn là phương pháp đưa thông tin. Thông tin được đưa ra một cách khách
quan, trung thực và không bao hàm một nhận xét hay đánh giá nào của người viết.
Phương pháp sử dụng lập luận chỉ được sử dụng trong phần “Xét thấy” để tạo tính
minh bạch và thuyết phục cho án văn. Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng trong
phần “Quyết định” thông qua hình thức biểu hiện bên ngoài là câu ngôn hành và các
phương tiện biểu thị tình thái.
Ở cấp độ từ vựng, chúng tôi chỉ xét đến hai nội dung: hệ thuật ngữ luật pháp
được sử dụng trong án văn và từ biểu thị ý khẳng định, phủ định. Hệ thuật ngữ luật
pháp sử dụng trong án văn có cấu tạo phức tạp và đa dạng, có tần số xuất hiện và sự
phân bố không đồng đều trên toàn văn bản. Từ biểu thị ý khẳng định, phủ định trong
những kết hợp “là + không + vị ngữ”, “là + có + vị ngữ”, “là + vị ngữ”, “không +
vị ngữ”, “có + vị ngữ” giúp cho việc lập luận để đưa ra kết luận được dứt khoát, rõ
ràng.
Ở cấp độ cú pháp, chúng tôi chú ý đến hiện tượng tách biệt cú pháp. Đây là hiện
tượng thường gặp trong văn bản hành chính – công vụ nhưng trong án văn hiện
tượng này không chỉ có tác dụng giúp cho nội dung biểu đạt được rõ ràng, dễ tiếp
nhận mà còn khiến cho văn bản trở nên mạch lạc, thống nhất. Câu tỉnh lược cũng
được coi là một đặc trưng cú pháp của án văn. Tỉnh lược thành phần chủ ngữ trong
câu là một chủ ý có tính kỹ thuật của người tạo lập văn bản, khiến cho thông tin
được nổi bật và tránh được sự lặp lại của các câu có sự đồng nhất về chủ thể. Bên
cạnh đó, thành phần trạng ngữ và phần phụ chú cũng có tầm ảnh hưởng lớn đến nội
dung và hiệu quả giao tiếp của án văn. Thành phần trạng ngữ xuất hiện ở phần mở
đầu và phần kết thúc văn bản ở những vị trí cố định như một khuôn mẫu giúp hợp
thức hóa văn bản. Ở phần nội dung, trạng ngữ xuất hiện với tần số khá cao, đa dạng
về cấu tạo và nội dung biểu hiện. Vị trí chủ đạo của trạng ngữ trong án văn là ở đầu
câu góp phần làm cho câu trong án văn có sự rõ ràng về ngữ nghĩa. Phần phụ chú
trong án văn có đối tượng được chú thích cũng khá đa dạng. Đó có thể là danh từ
riêng chỉ tên người, tên các cơ quan, tổ chức; có thể là số từ, cụm danh ngữ hoặc là
một câu. Quan hệ nghĩa giữa phần chú thích và phần văn bản hữu quan chủ yếu là
quan hệ bổ sung, giải thích hoặc quan hệ chỉ dẫn. Nhờ có phần chú thích mà nội
dung biểu đạt của án văn được cụ thể, rõ ràng hơn.
Ở bình diện ngữ dụng, chúng tôi nhận thấy trong án văn có sử dụng nhiều câu
ngôn hành và động từ ngôn hành. Câu ngôn hành trong án văn thường có chủ ngữ bị
tỉnh lược. Do đặc trưng về quan hệ giao tiếp mà án hình sự chỉ sử dụng một số động
từ ngôn hành nhất định như: tuyên bố, xử phạt. Tần số xuất hiện của chúng trong một
bản án tùy thuộc vào số lượng đối tượng bị truy tố (bị cáo) của vụ án. Đối tượng truy
tố càng nhiều thì sự xuất hiện của câu ngôn hành có chứa những động từ ngôn hành
này càng cao. Trong án dân sự, câu ngôn hành và động từ ngôn hành xuất hiện đa
dạng hơn và xuất hiện ở hai bậc. Bậc thứ nhất có hành động ngôn trung hướng vào
người phát, mang tính chất chủ quan với động từ ngôn hành là tuyên án/tuyên xử/xử.
Bậc thứ hai hướng tới đối tượng tiếp nhận được chỉ ra trong bổ ngữ chỉ đối tượng với
những động từ ngôn hành như: cấm, chấp nhận, bác, công nhận, báo, đình chỉ…
Để xác lập quyền và ràng buộc nghĩa vụ thực thi hành động cho đối tượng tiếp
nhận, trong án văn có hai loại tình thái: tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa.
Tình thái nhận thức trong án văn có mặt chủ yếu ở hai phần “Nhận thấy” và “Xét
thấy” với các kiểu ý nghĩa: Người nói không cam kết hay xác nhận tính chân thực của
điều được nói ra, người nói xác nhận hoàn toàn tính chân thực của điều được nói ra
dựa trên những bằng chứng có hiệu lực mạnh hoặc những cơ sở suy luận mà người
nói có được. Hai kiểu ý nghĩa này được hiện thực hóa bằng những biểu thức ngôn
ngữ cụ thể. Loại tình thái thứ hai là tình thái đạo nghĩa. Tình thái đạo nghĩa xuất hiện
trong phần “Quyết định” với kiểu ý nghĩa: Người nói cho rằng điều được nói tới là
bắt buộc, là được phép hay được miễn trừ. Những phương tiện ngôn ngữ thể hiện tình
thái đạo nghĩa trong án văn là những vị từ tình thái như: phải/không phải, được/không
được; những tổ hợp tình thái tính như: có quyền lợi, có trách nhiệm, có nghĩa vụ,
dành quyền…cho; những cấu trúc ẩn tình thái như: buộc…+ Φ vị từ hành động, …Φ
vị từ hành động.
Như vậy, chương thứ hai của luận văn đã chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ của
án văn tiếng Việt ở các cấp độ và bình diện ngôn ngữ. Đây cũng chính là trọng tâm
nghiên cứu của luận văn.
CHƯƠNG 3 - NGÔN NGỮ ÁN VĂN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Án văn là dạng văn bản pháp luật. Công bố bản án là thủ tục pháp lý bắt buộc
để khép lại một quá trình xét xử. Sau khi người có thẩm quyền đọc bản án trước Tòa,
trong một thời hạn nhất định, bản án sẽ được sao y và gửi cho các cấp chính quyền,
gửi cho các bên đương sự. Vì vậy, bản án cần phải chuẩn xác trong việc sử dụng
ngôn từ và tổ chức ngôn bản mới đảm bảo được chất lượng của bản án, tạo niềm tin
cho nhân dân và góp phần chuẩn hóa tiếng Việt. Tuy nhiên, do những nguyên nhân
chủ quan và khách quan, cho đến nay, nhiều bản án vẫn còn xuất hiện nhiều vấn đề
về từ ngữ, câu và tổ chức văn bản.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi dành chương thứ ba này để khảo sát
thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong án văn tiếng Việt hiện nay. Trong đó có những
vấn đề thuộc về lỗi sử dụng ngôn ngữ và có những vấn đề chưa phải là lỗi nhưng nó
làm cho bản án thiếu đi sự nhất quán, hoặc giảm đi tính chính xác, trung thực và
khách quan. Trước hết, trên cơ sở thực tế từ ngữ liệu, chúng tôi sẽ khái quát hóa các
vấn đề ngôn ngữ xuất hiện trong án văn thành những loại lớn. Với mỗi loại, chúng tôi
sẽ chọn lựa một số ví dụ tiêu biểu để phân tích và bước đầu đề xuất giải pháp khắc
phục. Trong một ví dụ có thể có nhiều vấn đề ngôn ngữ khác nhau nhưng chúng tôi
sẽ chỉ phân tích loại vấn đề đang được đề cập. Ngoài định hướng giải quyết chung, để
việc đề xuất giải pháp được cụ thể, chúng tôi sẽ gắn liền các đề xuất giải pháp với
từng vấn đề được nêu.
3.1. Căn cứ nhận diện và phân loại lỗi ngôn ngữ trong án văn
Căn cứ để nhận diện và phân loại lỗi ngôn ngữ là những quy định cụ thể về
chuẩn chính tả tiếng Việt; nghĩa của từ ngữ, cấu tạo và ngữ nghĩa của câu, đoạn văn.
Cụ thể:
Về từ ngữ: Từ được dùng đúng với ngữ nghĩa mà nó biểu đạt, đúng với phong
cách chức năng của loại hình văn bản (ở đây là phong cách hành chính – công vụ),
đúng với khả năng kết hợp từ và đảm bảo tính hệ thống.
Về ngữ pháp: Hiện nay, ngành nghiên cứu ngôn ngữ đang xuất hiện nhiều
quan niệm khác nhau về cấu trúc câu nhưng đáng lưu ý nhất đối với Ngữ pháp tiếng
Việt là hai quan niệm: Ngữ pháp truyền thống quan niệm rằng câu bình thường được
cấu tạo bằng hai thành phần chính: Chủ ngữ và Vị ngữ; quan niệm của ngữ pháp chức
năng: câu là sự phản ánh một mệnh đề, câu bình thường gồm hai thành phần chính là
Đề và Thuyết. Trong luận văn, chúng tôi chọn quan niệm thứ nhất để nhận diện cấu
trúc cú pháp tiếng Việt. Chúng tôi khảo sát câu tiếng Việt ở cấu trúc câu, thành phần
câu và việc sử dụng dấu câu. Căn cứ nhận diện lỗi về ngữ pháp là khả năng kết hợp
từ trong ngữ đoạn để tạo nghĩa chính xác đối với nội dung cần diễn đạt; sử dụng dấu
câu đúng với chức năng vốn có; và việc tách câu phải phù hợp với quy tắc ngữ pháp
tiếng Việt.
Về tổ chức văn bản: Tổ chức văn bản phải phù hợp với quy định chung của
thể loại và phải có sự nhất quán theo một cấu trúc hợp lý. Việc chia tách đoạn văn
hợp lý theo cấu trúc chung của văn bản.
Như vậy, bất cứ sự vi phạm nào về dùng từ, đặt câu, viết đoạn, tạo lập văn bản
đều bị xem là lỗi; những cách sử dụng ngôn từ, tạo lập ngôn bản không nhất quán
trong nhiều bản án và chúng làm giảm đi tính khách quan, minh bạch, thuyết phục
của án văn đều được đặt ra thành vấn đề để xem xét.
3.2. Thực trạng và giải pháp về từ ngữ trong án văn
Bỏ qua những lỗi chính tả, những lỗi thiếu từ do sai sót, chúng tôi khảo sát từ
ngữ trong án văn ở ba khía cạnh: từ ngữ trong xưng hô, từ ngữ trong phong cách chức
năng ngôn ngữ và xét nghĩa của từ trong phát ngôn.
3.2.1. Về xưng – hô
Xưng hô là “tự xưng mình và gọi tên người khác là gì đó khi nói với nhau để
biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” [31, tr.1164]. Xưng hô trong án văn thể
hiện mối quan hệ giữa những người có thẩm quyền - đại diện cho luật pháp - với cá
nhân và pháp nhân, trong đó những cá nhân và pháp nhân có quan hệ bình đẳng trước
pháp luật. Xưng hô trong án văn là dạng xưng hô một chiều, tức là chỉ người tạo lập
văn bản/người phát – đại diện cho pháp luật xưng danh và gọi đối tượng có liên quan.
Tuy nhiên cho đến nay, việc xưng hô trong án văn vẫn chưa có những quy định cụ thể
và chưa có sự thống nhất.
Xưng danh là yếu tố cần thiết đảm bảo tính minh bạch và khách quan. Việc
xưng danh trong bản án theo một khuôn mẫu chung và đôi khi do ngữ cảnh quy định
việc xưng danh được lược bỏ. Thủ tục quan trọng đầu tiên của mỗi bản án là việc
xưng danh đơn vị tòa án đang tiến hành tố tụng, tiếp theo là xưng danh các thành viên
trong hội đồng xét xử đang trực tiếp tham gia phiên tòa với tư cách là người đại diện
cho pháp luật, nhân danh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ví dụ (1), xưng danh trong Quyết định Giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối
cao:
TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Với hội đồng xét xử gồm có:
Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Luật
Chức vụ: Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao
Và các Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao:
5. Bà Nguyễn Thị Minh Tuấn
6. Bà Vũ Thị Minh Thủy
Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thanh Thủy
Đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao: Bà Trịnh Thị Hồng Bốn
Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
(Ngữ liệu H69, tr.1)
(2) Xưng danh trong bản án cấp phúc thẩm:
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Mai
Các thẩm phán:1/ Bà Trần Thị Thanh Mai
2/ Ông Nguyễn Thanh Bình
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thu
(Ngữ liệu B35, tr.1)
(3) Xưng danh trong bản án cấp sơ thẩm:
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Thanh Tâm
Thẩm phán – Thành viên hội đồng xét xử: Bà Trần Thị Thiên Hương
Các hội thẩm nhân dân:
Ông Bùi Văn Hà – Cán bộ hưu trí
Ông Phan Tấn Khế - Hội nông dân tỉnh Bình Thuận
Bà Lê Thị Thanh Tâm – Cán bộ hưu trí
Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Cô Hồ Nữ Kiều Mỹ - Cán bộ tòa án
Đại diện VKSND Bình Thuận: Ông Nguyễn Văn Thao – Kiểm sát viên
(Ngữ liệu A1, tr.1)
Đây là lần duy nhất trong một bản án mà chức danh và họ tên của các thành
viên trong hội đồng xét xử được giới thiệu rõ ràng. Trong quá trình xét xử về sau,
việc xưng danh được biểu thị bằng cụm từ thay thế là “Hội đồng xét xử”, như: Hội
đồng xét xử nhận định, Hội đồng xét xử xét thấy, Hội đồng xét xử quyết định…Yếu tố
cá nhân trong việc xưng danh đã mất đi mà thay vào đó là một tập thể đại diện cho
pháp luật.
Tuy nhiên, việc xưng danh trong các bản án nhất là ở cấp phúc thẩm và sơ
thẩm vẫn chưa có sự thống nhất. Sau đây, chúng tôi sẽ đi vào phân tích một số biểu
hiện của sự không thống nhất đó.
Cần phải nhắc lại rằng, từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt vô cùng đa dạng và
phong phú. Lựa chọn từ ngữ xưng hô sao cho phù hợp là điều không dễ dàng, nhất là
đối với các văn bản hành chính đòi hỏi tính khách quan cao và không yêu cầu màu
sắc biểu cảm. Việc sử dụng từ ngữ xưng hô tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: nghi thức
của hoàn cảnh giao tiếp, cương vị của người tham gia giao tiếp và thái độ của người
nói đối với người nghe hay người được nói tới. Quan hệ giao tiếp trong án văn là
quan hệ pháp luật; thái độ giao tiếp khách quan, trung thực và công bằng; nghi thức
giao tiếp trang trọng. Vì vậy việc lựa chọn từ ngữ xưng hô đảm bảo được những tính
chất như trên là rất cần thiết. Trong án văn, việc xưng danh các thành viên trong hội
đồng xét xử thường có mô hình như sau:
Chức danh: ông/bà + Họ tên
Ông/bà là danh từ chỉ đơn vị đi cùng với danh từ riêng thường thấy nhất trong
án văn, thể hiện tính trang trọng, tôn trọng đối với người được nhắc đến và phần nào
có tính trung hòa. Việc sử dụng danh từ chỉ đơn vị sau tên riêng cần phải có sự nhất
quán để tránh hiểu lầm là có sự phân biệt, đối xử khác nhau giữa các đối tượng. Tuy
nhiên, trong một số bản án việc xưng danh không thống nhất, có thành viên được
xưng là ông/bà nhưng có thành viên xưng là cô (như ví dụ 3 đã dẫn ở trên) hoặc chỉ
có họ tên, như: Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Dư Tuyết Lạnh, thư ký Tòa án
Nhân dân thành phố Cần Thơ. Việc xưng danh không nhất quán hàm ý phân biệt về
tuổi tác hay chức vụ của các thành viên trong Hội đồng mà việc phân biệt như vậy là
không cần thiết thậm chí thiếu đi sự khách quan, minh bạch cho bản án.
Ngoài ra, việc có hay không có phần phụ chú ghi rõ chức vị xã hội của các Hội
thẩm nhân dân hay thư ký tòa án cũng chưa thống nhất. Như ở ví dụ (3), sau khi ghi
họ tên của các Hội thẩm nhân dân, người viết có đưa thêm vào một phụ chú chỉ chức
vị xã hội của họ như: cán bộ hưu trí, hội nông dân tỉnh Bình Thuận nhưng ở ví dụ sau
đây:
(4)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: ông Phạm Minh Doanh
Thẩm phán: Ông Phạm Tấn Hoàng
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Lê Văn Ngọc
Ông Phạm Văn Mộc
Ông Lộ Minh Trại
Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Sẩm A Tắc – Cán bộ tòa án
Đại diện VKSND tỉnh Ninh Thuận tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Minh Hà – kiểm sát viên
(Ngữ liệu A11, tr.1)
Chức vị và nghề nghiệp của các Hội thẩm nhân dân không được đề cập tới.
Hay trong các bản án, Thư ký tòa án thường có thêm phụ chú, như:
“Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Trịnh Thị Ánh – Cán bộ Tòa án
Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.”
“Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Thùy Linh, thư ký Tòa án
Nhân dân tỉnh Sóc Trăng”
Nhưng trong ví dụ (1), (2) và trong nhiều bản án khác lại không có phần phụ
chú cho thư ký. Trong mẫu bản án sơ thẩm hình sự (ban hành kèm theo Nghị quyết số
04/2004 của Tòa án Nhân dân Tối cao), Hội thẩm nhân dân và thư ký đều có phần ghi
rõ nghề nghiệp và chức vụ. Mẫu bản án là quy định chung nhưng việc áp dụng quy
định đó chưa thật nghiêm túc đối với mỗi cấp và mỗi cá nhân viết án.
Tiếp theo, chúng tôi xét tới phần hô trong án văn. Trong án văn phần hô tức là
phần gọi tên, nhắc tới tên của những đối tượng đang tham gia tố tụng; cụ thể là
nguyên đơn, bị đơn, bị cáo, bị hại, luật sư bào chữa và những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Trong án văn có những cách thức gọi như sau:
(i) Ông/bà + họ tên/tên
(ii) Anh/chị + họ tên/tên
(iii) Họ tên
(iiii) Tên
Vấn đề được đặt ra là: trong cùng một bản án, những đối tượng tham gia tố
tụng hoặc có liên quan không được gọi theo cùng một cách thức mà có thể được gọi
bằng nhiều cách thức khác nhau. Trong các bản án khác nhau, việc gọi đối tượng
tham gia cũng khác nhau. Có những bản án gọi theo cách thức (i), có những bản án
gọi theo cách thức (ii), (iii) hoặc (iiii).
Trước hết là về cách gọi trong cùng một bản án. Các đối tượng được gọi khác
nhau chủ yếu do có mối quan hệ gia đình, họ hàng thân thuộc hoặc do sự chênh lệch
về tuổi tác. Ví dụ như nguyên đơn và bị đơn có mối quan hệ mẹ con, người mẹ được
gọi là bà + họ tên/tên, còn người con được gọi là anh/chị + họ tên/tên, hay trong
cùng một gia đình người lớn tuổi hơn được gọi là ông/bà + họ tên và người nhỏ tuổi
hơn được gọi là anh/chị + họ tên hoặc chỉ gọi tên. Thậm chí, trong cùng một gia
đình, người lớn tuổi nhất được gọi bằng cụ, tiếp theo là ông và sau là cháu.Ví dụ:
(5) Theo đơn khởi kiện của chị H.T Đ ngày 28/03/2008 (BL 04) đòi ông V.V.N
và bà H.T.N trả số tiền vốn vay là 60.020.000 đồng và yêu cầu trả lãi từ ngày vay cho
đến nay theo lãi suất Ngân hàng theo tờ thỏa thuận ngày 04/04/2004.
(Ngữ liệu B26, tr.2)
(6) Khi Tòa sơ thẩm thụ lý ông Lê Văn Tung còn sống. Ngày 26/5/2009 ông Lê
Văn Tung bị bệnh chết, ông Lê Văn Tung có bảy người con gồm:
1/ Lê Văn Cai – sinh năm 1948
2/ Lê Văn Ba – sinh năm 1953
3/ Lê Thị Đào – sinh năm 1957
4/ Lê Thị Nho – sinh năm 1963
5/ Lê Thị Nhãn Em – sinh năm 1963
6/ Lê Thị Nhãn – sinh năm 1959
7/ Lê Thị Bé Tám – sinh năm 1970
Ông Cai, ông Ba, chị Đào, chị Nho, chị Nhãn Em cùng ủy quyền cho chị Lê
Thị Bé Tám.
(Ngữ liệu B31, tr.4)
(7) Bà T.T.Y và chị L.N.N là mẹ con ruột, cùng sống chung trong một hộ gia
đình, bà Y hiện đang đứng tên QUYềN Sử DụNG ĐấT cấp cho hộ gồm: […].
(Ngữ liệu B28, tr.2)
(8) Cụ H chết ngày 04/8/2006. Trước khi cụ N.T.H chết, cụ H có làm tờ di chúc
để lại toàn bộ căn nhà số […] cho con là ông H.N.K được thừa kế di sản của cụ.
(Ngữ liệu C54, tr.3)
Có những trường hợp chỉ gọi tên đối tượng, như:
(9) Các đương sự có mặt tại phiên tòa; Phi và Công có đơn xin xét xử vắng
mặt.
(Ngữ liệu B25, tr.2)
(10) Tằng cho thuốc vào lon nhưng thuốc không đầy nên Tằng cho thêm tro
vào rồi tra dây cháy chậm vào kíp nổ còn mới để vào giữa lon thuốc nổ […].
(Ngữ liệu A4, tr.2)
Ngoài những danh từ chỉ đơn vị thường gặp như: ông, bà, anh, chị; một số bản
án còn dùng danh từ chỉ đơn vị khác như: cháu, em để gọi tên đối tượng nhỏ tuổi.
Ví dụ:
(11) Bị cáo có ý định hiếp dâm em K.S. Khi bị cáo hỏi K.S đi về đâu, K.S trả
lời cho về trường dân tộc nội trú, bị cáo biết nhưng bị cáo không chở em về trường
mà đi lòng vòng chờ cho trời tối.
(Ngữ liệu A6, tr.2)
(12) Bị cáo N.N.H nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật,
không những xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm cháu K.S mà còn gây ảnh hưởng
xấu tới đạo đức, thuần phong mĩ tục.
(Ngữ liệu A6, tr.3)
Như vậy, việc sử dụng danh từ chỉ đơn vị khác nhau cho những đối tượng tham
gia vụ án theo đúng như văn hóa giao tiếp xã hội thông thường lại làm giảm đi tính
nghiêm minh và công bằng cho một vụ án. Mối quan hệ trong vụ án không phải là
mối quan hệ gia đình, họ tộc hay mối quan hệ tuổi tác mà đó là mối quan hệ giữa các
công dân với pháp luật. Vì vậy họ cần được hô gọi như nhau.
Trong các bản án hình sự, bị cáo chỉ được gọi bằng họ tên chứ không có danh
từ chỉ đơn vị đi kèm. Trong các bản án dân sự, hành chính và kinh tế, các bản án gọi
tên đương sự theo những phương thức khác nhau, hoặc là chỉ có họ tên, hoặc là
ông/bà + họ tên, hoặc anh/chị + họ tên như vậy vẫn chưa nhất quán.
Về vấn đề xưng hô trong án văn, chúng tôi đề nghị như sau: Nên xưng hô các
đối tượng đã trưởng thành (bao gồm các thành viên trong hội đồng xét xử và các
đương sự) theo đúng một cách thức là ông/bà + họ tên. Như vậy sẽ đảm bảo được
tính thống nhất và không tạo cảm giác về sự phân biệt, đối xử giữa những đối tượng
tham gia tố tụng. Điều này sẽ góp phần làm cho bản án có thêm sức thuyết phục và
tạo được niềm tin trong nhân dân. Những đối tượng như thư ký Tòa án, hội thẩm
nhân dân cần có phần phụ chú chỉ nghề nghiệp, chức vụ và nơi làm việc đúng như
bản án mẫu đã hướng dẫn.
Ngoài ra, trong một số bản án còn có những sai sót nghiêm trọng về việc sử
dụng đại từ nhân xưng. Đây chính là lỗi từ ngữ thường thấy trong nhiều bản án.
Ví dụ:
(13) Bị đơn cho rằng vào năm 1962 cha, mẹ chúng tôi là ông N.V.Q (chết 1993) và bà N.T.H (chết) chuyển nhượng của ông N.V.Đ diện tích 137m2, số địa bộ
cũ là 296.
(Ngữ liệu B29, tr.4)
(14) Cha, mẹ qua đời nên tài sản trên là tài sản chung của anh, chị em chúng
tôi.
(Ngữ liệu B29, tr.4)
(15) Tờ tường trình của ông N.V.V tại (BL 66) không đồng ý giao trả đất theo
yêu cầu của bà N, nguyên nhân phần đất được ông bà cho ở từ năm 1961 (trong đó
phân nửa đất do ông Quân cố cho tôi từ năm 1982 ngang 18m x dài 33m, giá là 80
giạ lúa, thời hạn cố là một năm có làm giấy tay).
(Ngữ liệu B22, tr.2)
Phần “Nhận thấy” của bản án là phần ghi lại nội dung vụ án, lời trình bày của
các đương sự, của luật sư và những người liên quan tới vụ án. Lời trình bày của họ
thường được dẫn một cách tóm tắt và là lời gián tiếp thông qua ngôn từ của người
viết án. Vì vậy, đại từ nhân xưng trong lời trình bày của đương sự cần phải được đổi
lại cho tương xứng. Ví dụ: tôi -> ông/bà, chúng tôi -> các nguyên đơn/ các bị
đơn/các ông/các bà…hoặc phải cấu tạo thành lời dẫn trực tiếp đặt trong ngoặc kép.
Việc xưng hô trong án văn rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới tính pháp lý của
bản án. Vì vậy cần xưng hô cho phù hợp và nhất quán để giữ tính trang nghiêm, rõ
ràng cho bản án. Tiếp theo, chúng tôi xét đến những vấn đề về từ ngữ khác thường
gặp trong án văn như dùng từ không hợp phong cách, thừa từ, thiếu từ và dùng từ ngữ
không chính xác.
3.2.2. Về phong cách chức năng ngôn ngữ
Án văn là một dạng văn bản pháp luật, là một thể loại hành chính công vụ vì
vậy nó mang đầy đủ tính chất của phong cách hành chính - công vụ. Yêu cầu về từ
ngữ trong phong cách hành chính công vụ là “từ ngữ được lựa chọn khắt khe, không
thể có những từ ngữ chung chung, mơ hồ, mang tính chất hình ảnh biểu tượng, để có
thể bị bắt bẻ xuyên tạc, không thể có những từ ngữ địa phương, biệt ngữ, tiếng lóng,
những từ mang màu sắc hội thoại và hội thoại thông tục” [28, tr.73). Tuy nhiên, do
yếu tố chủ quan từ người viết mà một số án văn vẫn mắc những lỗi cơ bản về phong
cách.
3.2.2.1. Dùng từ ngữ địa phương
Các bản án được phân theo các cấp bậc từ địa phương đến trung ương,
như: bản án dân sự sơ thẩm là sản phẩm của tòa án cấp huyện, bản án dân sự phúc
thẩm là sản phẩm của Tòa án cấp tỉnh, quyết định giám đốc thẩm là sản phẩm của tòa
án tối cao…Thông thường, tòa án thuộc huyện/ tỉnh nào thì xét xử những vụ án liên
quan đến người dân thuộc huyện/tỉnh đó và thành phần Hội đồng xét xử cũng là
người địa phương. Vì vậy trong án văn xuất hiện những từ ngữ địa phương nhưng do
thói quen ngôn ngữ của người xử án mà họ không phân biệt rõ để chỉnh sửa (hoặc
cảm thấy không cần thiết phải chỉnh sửa). Xét về khía cạnh tiếp nhận thông tin, thì
việc sử dụng từ địa phương phần nào giúp cho người dân ở đây tiếp nhận thông tin dễ
dàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên không phải bản án nào của địa phương cũng có
ngay hiệu lực pháp luật và đặt dấu kết thúc cho một vụ án mà bản án đó có thể còn bị
kháng cáo, kháng nghị lên cấp cao hơn. Người thụ lý và xét xử án ở cấp cao hơn có
thể không phải là người thuộc địa phương đó và vì thế mà việc sử dụng từ địa phương
trong án văn sẽ làm ảnh hưởng tới quá trình xét xử tiếp theo, gây khó khăn cho người
đọc ở cấp cao hơn và còn ảnh hưởng tới quá trình chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt.
Khảo sát các bản án thuộc các tỉnh phía Nam, chúng tôi nhận thấy từ ngữ địa phương
Nam Bộ xuất hiện khá nhiều và trải khắp chiều dài của bản án. Tuy nhiên từ ngữ địa
phương tập trung chủ yếu ở phần “Nhận thấy”; bởi lẽ đây là phần ghi tóm tắt nội
dung của vụ án, tóm lược lời khai của đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Lời khai trong bản tường trình hoặc lời khai trước Tòa của người dân có
sử dụng nhiều từ địa phương nhưng khi ghi lại vào bản án người viết án vẫn giữ
nguyên những từ ngữ đó và không chỉnh sửa lại cho phù hợp với văn phong.
Ví dụ:
(16) Anh T.V.C trình bày: Vào ngày 01/10/2008 anh có mua của anh N.V.M một phần đất ruộng diện tích là 1.354m2 và 02m đường đi từ tim lộ nhựa vô ruộng chiều
dài là 71,8m.
(Ngữ liệu B33, tr.2)
(17) Năm 2004, ông sợ bà H nói ngược nên có mang giấy đến Ủy ban nhân
dân xã Vĩnh Tường nhờ xác nhận.
(Ngữ liệu B34, tr.2)
(18) Anh Đ, chị T trình bày: Anh, chị cất nhà ở đậu trên phần đất của chị N.
(Ngữ liệu B33, tr.3)
(19) Bà B.T.H trình bày: bà không sang đất cho ông Q mà do trước đây bà có
thiếu ông Q 5,5 chỉ vàng nhưng bà không có khả năng trả nợ cho ông Q nên ông Q
lấy đất và cắt cả lúa của bà đang canh tác.
(Ngữ liệu B34, tr.2)
(20) Do cha mẹ già yếu và để tiện cho việc đi lại làm thủ tục xin hợp thức hóa
nhà nên cha mẹ bà có nhờ hai vợ chồng bà đứng ra làm thủ tục hợp thức hóa nhà và
đứng tên giùm cha mẹ, chứ căn nhà không phải do vợ chồng bà mua lại của cha mẹ
như lời trình bày của ông T.
(Ngữ liệu B37, tr.3)
(21) Khi đi được khoảng 60m thì đến nhà của anh N.G.H – chạy xe honda ôm,
C thuê xe anh H chở C xuống bến phà Trà Ôn với giá 15.000đ, rồi anh H quay về, C
không qua phà mà đi ngược ra hướng cầu Sóc Tro, thuộc ấp An Thới, xã Ngãi Tứ,
huyện Tam Bình, rồi vào quán nhậu Duy Tân, kêu 02 xị rượu, 1 dĩa cánh gà ngồi
nhậu một mình.
(Ngữ liệu A17, tr.2)
Phần “Xét thấy” là phần lập luận và đưa ra kết luận của bản án cũng có sự xuất
hiện của từ ngữ địa phương do chính người viết án sử dụng hoặc do lặp lại nội dung
trình bày của đương sự. Chẳng hạn:
(22) Sau khi xét duyệt, Ủy ban nhân dân xã xác lập hồ sơ gởi lên phòng địa
chính xem xét và trình Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà P.T.H.
(Ngữ liệu B35, tr.7)
(23) Ngày 03/6/1982 ông Quân đã cố phần đất cho ông Vui và nhận 80 giạ
lúa, có làm giấy giao kết thời hạn một năm chuộc lại đất, nếu không chuộc thì ông
Vui được trọn quyền sử dụng đất.
(Ngữ liệu B22, tr.2)
(24) Ông H và ông Đ xác định vết thương của bà S trên mặt là do bà S và bà B
nắm đầu vật nhau té xuống đống gạch.
(Ngữ liệu B30, tr.4)
(25) Ông C cho rằng tại thửa đất 96 của ông có một phần đất 02 công tầm 3m
ông cho mẹ ông là bà B.T.H mượn canh tác nhưng bà H lại chuyển nhượng đất cho
ông N.V.Q nên ông C làm đơn khởi kiện.
(Ngữ liệu B34, tr.2)
(26) Theo biên bản số 76/VB-UB ngày 09/5/1998 của Ủy ban nhân dân huyện
Củ Chi và biên bản phân ranh đất ngày 25/5/1998 của Ủy ban nhân dân xã Tân An
Hội thì ông R giao lại cho bà R sử dụng phần đất từ 7 – 10 cao.
(Ngữ liệu B35, tr.3)
(27) Còn bà Y chỉ khai bà có hùn vào 30.000.000 đồng, nhưng không chứng
minh được nguồn tiền từ đâu có nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà Y.
(Ngữ liệu B28, tr.4)
Phần “Quyết định” trong một bản án có tần số xuất hiện của từ địa phương thấp
hơn hai phần trên.
(28) Ông S, bà T liên hệ với cơ quan chức năng để làm thủ tục hợp thức hóa
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất tại địa chỉ nêu trên và chịu thuế và các chi phí
theo quy định của pháp luật, bà T có trách nhiệm thối lại cho ông S 57.278.30 đồng.
(Ngữ liệu B21, tr.5) (29) Buộc bị đơn H.V.H trả lại cho nguyên đơn T.V.M 3.202.4m2 đất ruộng,
trong diện tích đất này có 56,9m2 đất kinh (có lược đồ kèm theo).
(Ngữ liệu C46, tr.6)
Những từ địa phương được sử dụng trong án văn hoàn toàn có thể thay thế
bằng những từ toàn dân tương ứng, như:
Từ địa phương Từ toàn dân tương ứng
vô vào
nói ngược nói không đúng sự thật
ở nhờ ở đậu
nợ thiếu
thay giùm
kêu gọi
đĩa dĩa
uống rượu nhậu
gửi gởi
trọn quyền toàn quyền
ngã té
góp hùn
trả lại thối lại
kênh/mương kinh
Trong từ địa phương Nam Bộ có những đơn vị đo lường như: giạ lúa, cao đất,
công, tầm, xị…những đơn vị này không có từ toàn dân tương ứng nhưng có thể quy đổi ra đơn vị đo lường chuẩn như kg, m2, lít….Và khi sử dụng những từ địa phương
như vậy, người viết có thể thêm một chú thích bên cạnh để vẫn đảm bảo được khả
năng tiếp nhận thông tin của người dân địa phương mà không gây cản trở đối với quá
trình xét xử tiếp theo. Ví dụ:
(26’) Theo biên bản số 76/VB-UB ngày 09/5/1998 của Ủy ban nhân dân huyện
Củ Chi và biên bản phân ranh đất ngày 25/5/1998 của Ủy ban nhân dân xã Tân An
Hội thì ông R giao lại cho bà R sử dụng phần đất từ 7 – 10 cao (tương đương 700 – 1000m2).
(Ngữ liệu B35, tr.3)
Vấn đề sử dụng từ địa phương trong án văn có thể khắc phục một cách dễ dàng
nếu người viết án, người có thẩm quyền đối với một bản án chú ý hơn trong việc sử
dụng ngôn ngữ và chỉnh sửa lại cho phù hợp. Tiếp theo, chúng tôi xét đến một hạn
chế khác về phong cách có ảnh hưởng không nhỏ đến tính nghiêm túc, khách quan
của án văn. Đó là vấn đề dùng khẩu ngữ trong án văn.
3.2.2.2. Dùng từ ngữ khẩu ngữ
Khẩu ngữ là ngôn ngữ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, thuộc dạng
ngôn ngữ nói đối lập với dạng ngôn ngữ viết. Mặc dù án văn viết ra là để đọc trước
tòa án và chỉ khi được đọc trước tòa án thì án văn mới có giá trị pháp lý nhưng việc
tòa tuyên án chỉ là hình thức đọc lại văn bản đã được soạn thảo từ trước. Án văn vì
thế vẫn mang đầy đủ đặc trưng của văn bản hành chính – công vụ ở dạng viết và phải
đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan. Những từ thuộc khẩu ngữ khi dùng trong án
văn sẽ làm giảm đi tính nghiêm túc, tính pháp lý và gây phản cảm đối với người đọc,
có tác động xấu đến mục đích giao tiếp.
Ví dụ như:
(30) Khi đó, ông V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngoài ra
trong suốt quá trình hộ bà N sử dụng đất cũng không hề đăng ký quyền sử dụng đất
và cũng không khiếu nại gì việc ông V được cấp quyền sử dụng đất cho đến khi bà T
có tranh chấp.
(Ngữ liệu B25, tr.3)
(31) Hành vi phạm tội của bị cáo T rất nguy hiểm, mặc dù giữa bị cáo và bị
hại không hề có mâu thuẫn, hiềm khích gì, nhưng bị cáo tấn công bị hại rất quyết liệt
[…].
(Ngữ liệu A1, tr.9)
(32) […] khi gặp nhóm thanh niên đang ngồi trong quán, bị cáo không hỏi
người nào đã gây xích mích hay mâu thuẫn gì cả, cũng không nói năng gì hết, rồi bị
cáo dùng dao đâm vào đùi thanh niên ngồi kế bên […].
(Ngữ liệu A16, tr.10)
(33) […] lúc cố đất hai bên có làm giấy tay, đến năm 1998 ông M có đến gặp
ông H xin chuộc lại đất thì ông H cho rằng ông M đã sang đứt nên không cho chuộc
lại.
(Ngữ liệu C52, tr.2)
Các ví dụ (30), (31), (32), (33) có các khẩu ngữ là trợ từ: không hề, gì cả, gì
hết, đứt. Những khẩu ngữ này giúp người viết án biểu thị thái độ khẳng định ý phủ
định về một sự việc không xảy ra hoặc nhấn mạnh ý phủ định hay khẳng định một
cách dứt khoát. Tuy nhiên nó lại không đúng với phong cách viết án đòi hỏi tính
khách quan, nghiêm túc trong lập luận.
Ví dụ tiếp theo:
(34) Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xuất phát từ hành động thiếu
tế nhị của người bị hại L.U là khi ông L.U và bị cáo C cự cãi, lời qua tiếng lại và so
sánh bị cáo nhậu nhẹt, quậy quạn giống con trai của ông […].
(Ngữ liệu A17, tr.5)
Trường hợp (34) từ “nhậu”, “quậy” là những phương ngữ khi sử dụng trong án
văn đã là hạn chế về phong cách nhưng thêm vào đó là cách láy âm dùng trong khẩu
ngữ “nhậu nhẹt”, “quậy quạn” với hàm ý chê bai càng làm giảm đi tính nghiêm túc
trong lập luận để đưa ra kết luận chính xác, công bằng. Nên sửa lại bằng cách thay
hai từ trên bằng hai từ tương ứng, như “uống rượu” và “gây rối”, ví dụ:
(34’) Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xuất phát từ hành động
thiếu tế nhị của người bị hại L.U là khi ông L.U và bị cáo C cự cãi, lời qua tiếng lại
và so sánh bị cáo uống rượu, gây rối giống con trai của ông […].
3.2.2.3. Dùng từ ngữ chung chung, mơ hồ
Bản án là một dạng văn bản pháp quyền, thể hiện tính quyền lực của nhà nước.
Những nhận định, kết luận mà mỗi một bản án đưa ra quyết định tới tính mạng, tài
sản của công dân và pháp nhân. Vì thế những nhận định, kết luận mà bản án đưa ra
phải chính xác và dứt khoát. Trong bản án không được phép sử dụng những từ chung
chung, mơ hồ về nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết những án
văn khi lập luận và đưa ra kết luận ở phần “Xét thấy” thường sử dụng từ “nghĩ”,
“nên” như một khuôn mẫu chung. Ví dụ:
(35) Xét về mặt tố tụng, ông S đã được triệu tập nhiều lần và được niêm yết
công khai về việc xét xử vắng mặt nhưng ông S không đến dự phiên tòa phúc thẩm, để
đảm bảo quyền lợi cho các đương sự nghĩ nên xét xử vắng mặt ông S.
(Ngữ liệu B21, tr. 5)
(36) Theo kết quả định giá (Bl số 180 – 184) thì giá trị nhà ở là 147.803.538
đồng. Số tiền này, nghĩ nên, buộc nguyên đơn thanh toán cho bị đơn để sở hữu phần
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất mới đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.
(Ngữ liệu B20, tr. 4)
(37) Bà S chỉ yêu cầu bồi thường số tiền 1.7.18.000 đồng nghĩ nên chấp nhận.
(Ngữ liệu B30 , tr. 6)
(38) Xét các tang vật trên là công cụ mà bị cáo C sử dụng phạm tội là của bị
cáo, nghĩ nên tịch thu tiêu hủy.
(Ngữ liệu A11 , tr.9)
(39) Hội đồng xét xử nghĩ cần thiết phải xử lý nghiêm khắc các bị cáo với mức
án tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra.
(Ngữ liệu A1 , tr.11)
Nghĩ nên trong án văn là một dạng viết tắt, lược bỏ yếu tố lặp lại hoặc chủ thể
là tập thể đã được nhắc tới trong ngữ cảnh hoặc không cần thiết phải nhắc tới. Dạng
đầy đủ là: Hội đồng xét xử nghĩ hội đồng xét xử/chúng ta/mọi người nên….
Nghĩ thường được hiểu là một động từ chỉ quá trình tư duy, vận dụng trí tuệ
vào những gì đã nhận biết được, rút ra nhận thức mới để có ý kiến, sự phán đoán, thái
độ. Kết quả của quá trình ấy là đưa ra kết luận của bản thân về vấn đề. Hay nói cách
khác kết luận về một vấn đề gì đó là kết quả của quá trình suy nghĩ về vấn đề đó. Kết
luận đưa ra thường sau khi đã nghĩ. Nghĩ còn có nghĩa thứ hai là “cho rằng, cho là”,
ví dụ như: tôi nghĩ là anh ấy sẽ đến = tôi cho là/cho rằng anh ấy sẽ đến. Nhưng từ
nghĩ trong trường hợp này mang tính chất phỏng đoán, biểu lộ sự đánh giá chưa chắc
chắn về nội dung sự việc, vì có thể: tôi nghĩ là anh ấy sẽ đến nhưng anh ấy lại không
đến.
Vì vậy, sử dụng từ nghĩ trong án văn như những ví dụ trên dù hiểu theo nghĩa
nào cũng là mơ hồ, không rõ ràng, chưa thể hiện được tính dứt khoát trong việc xử lý
vấn đề. Khi Hội đồng xét xử đưa ra một nhận định hay một kết luận nào đó thì nhận
định hay kết luận đó phải là kết quả của quá trình tư duy, suy nghĩ từ trước và khi đưa
vào án, tuyên án đó phải là những nhận định hay kết luận chắc chắn theo một hướng
là khẳng định hoặc phủ định. Do đó sử dụng từ nghĩ trong án văn như những ví dụ đã
đưa ra là không phù hợp.
Hơn nữa, từ nên được sử dụng trong những ví dụ trên là một động từ biểu thị
việc, điều đang nói đến là hay, có lợi, làm hoặc thực hiện được thì tốt hơn. Như vậy
rõ ràng từ “nên” không phù hợp với tính chất pháp lý của án văn. Bởi lẽ trong án văn
không có chuyện nên hay không nên làm gì đó mà chỉ có đúng hay sai, được phép
hay không được phép, làm hay không làm gì đó. Ví dụ như: Hội đồng xét xử nghĩ nên
tịch thu tiêu hủy là phù hợp. Ở đây có thể hiểu là tịch thu tiêu hủy thì tốt hơn là
không tịch thu tiêu hủy. Việc tịch thu tiêu hủy vật chứng là việc buộc phải làm khi đã
đưa ra đầy đủ những chứng cứ xác thực nhưng sử dụng từ nên sẽ khiến cho kết luận
của Hội đồng mơ hồ, chung chung, không dứt khoát.
Giải pháp cho vấn đề này, theo chúng tôi, cần phải thay thế từ ngữ nghĩ nên bằng
những từ ngữ thể hiện tính dứt khoát trong lập luận và kết luận như: kết luận, cần
phải…hoặc bỏ từ ngữ này trong những trường hợp không cần thiết, như:
(36’) Theo kết quả định giá (Bl số 180 – 184) thì giá trị nhà ở là 147.803.538
đồng. Số tiền này Φ buộc nguyên đơn thanh toán cho bị đơn để sở hữu phần nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất mới đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.
(37’) Bà S chỉ yêu cầu bồi thường số tiền 1.7.18.000 đồng vì vậy Hội đồng xét
xử chấp nhận.
(38’) Xét các tang vật trên là công cụ mà bị cáo C sử dụng phạm tội là của bị
cáo, cần phải tịch thu tiêu hủy.
(39’) Hội đồng xét xử kết luận: phải xử lý nghiêm khắc các bị cáo với mức án
tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra.
3.2.3. Về ngữ nghĩa của từ trong phát ngôn
3.2.3.1. Dùng thừa từ ngữ
Lỗi thừa từ ngữ là những lỗi mà trong phát ngôn có những từ ngữ không cần
phải xuất hiện để tạo nội dung ngữ nghĩa cho phát ngôn, sự có mặt của chúng trong
phát ngôn có thể gây khó hiểu, lặp lại nghĩa của từ khác hoặc tạo ra những kết hợp từ
tối nghĩa. Những từ được coi là thừa khi lược bỏ cũng không ảnh hưởng tới sự hoàn
chỉnh về nghĩa của phát ngôn, thậm chí khiến cho phát ngôn trở nên rõ ràng, chuẩn
xác, dễ hiểu hơn. Xem xét những ví dụ sau:
(40) Sau đó Nhà nước thu hồi phần đất này và cấp lại cho ông theo quyết định
số 86/QĐ-UB ngày 05/6/1990, khi cấp lại cho ông thì diện tích có tăng thêm
1.825,5m, nguyên nhân tăng thêm là do mở rộng phía sau hậu.
(Ngữ liệu B31, tr.2)
(41) Đến ngày 06/3/2000 bên phía gia đình ông T tìm được trụ đá ranh ở phía
sau hậu đất.
(Ngữ liệu B24, tr.2)
(42) Các nguyên đơn kháng cáo chỉ đồng ý cho hộ ông T, bà Th được sử dụng
một lối đi ngang 1,6m là không phù hợp vì bình thường thì không sao nhưng khi có
hữu sự xảy ra thì không đảm bảo, nên phải cho một lối đi chung ngang 02m.
(Ngữ liệu B24, tr.5) (43) Án sơ thẩm quyết định cho bị đơn ổn định phần đất tranh chấp 80m2 và
thanh toán tiền quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là chưa chính xác, cần cải sửa án.
(Ngữ liệu B20, tr.4)
(44) Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông L.T.D. Cải sửa án sơ thẩm số
01/HCST ngày 19.12.2003 của Tòa án Nhân dân thị xã Tân An.
(Ngữ liệu F67, tr.5)
Chúng ta thấy rằng cả 5 ví dụ trên đây có lỗi trùng ngôn do cùng một nguyên
nhân là người viết không hiểu nghĩa của từ Hán Việt và lạm dụng từ Hán Việt nên đã
tạo ra những kết hợp tối nghĩa. Phân tích nghĩa của những kết hợp như: phía sau hậu,
có hữu sự, cải sửa án chúng ta sẽ thấy điều đó: hậu là từ Hán Việt có nghĩa: ở phía
sau, sau; cải có nghĩa: sửa lại, đổi khác đi; hữu nghĩa là: có, hữu sự tức là có việc xảy
ra. Như vậy những kết hợp này đã sử dụng những từ có nghĩa giống nhau, tạo lên
hiện tượng trùng nghĩa và phải bỏ đi một yếu tố. Theo chúng tôi, để giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt nên sử dụng từ thuần Việt có thể thay thế cho những từ Hán Việt
trong những trường hợp như trên, tức là bỏ đi yếu tố hậu trong phía sau hậu, bỏ yếu
tố cải trong cải sửa án, bỏ yếu tố hữu sự và thay vào đó là cụm từ có việc xảy ra.
Xét những ví dụ khác:
(45) Thời gian gần đây đã liên tiếp xảy ra nhiều vụ án giết người với những
xích mích, mâu thuẫn nhỏ, không lớn trong sinh hoạt hằng ngày của cuộc sống.
(Ngữ liệu A17, tr.5)
(46) Năm 1988, Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi và Ủy ban nhân dân xã Tân
Thông Hội giải quyết cho bà P.T.R sử dụng khoảng 7 - 10 cao đất, tọa lạc tại ấp Tây,
xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi và yêu cầu bà R về canh tác, sử dụng trong 06
tháng.
(Ngữ liệu B35, tr.3)
(47) Bà K bà D vắng mặt, các đương sự khác còn lại có mặt tại phiên tòa.
(Ngữ liệu C42, tr.3)
(48) Tại phiên tòa ngày hôm nay hộ ông D cho rằng ông chỉ bán chuyển
nhượng cho bà Năm diện tích 305,37m2(thổ) thuộc Ô1, Ô2, Ô3.
(Ngữ liệu C49, tr.4)
Lỗi thừa từ ngữ trong ba ví dụ trên là do sử dụng hai từ liên tiếp có quan hệ
bao nghĩa. Cụ thể, trong ví dụ (45), những mâu thuẫn không lớn có thể hiểu là những
mâu thuẫn vừa và nhỏ; trong ví dụ (46), canh tác có nghĩa là sử dụng đất để cày cấy,
trồng trọt; sử dụng đất bao gồm canh tác và dùng đất vào những việc khác như cất
nhà, xây chuồng trại chăn nuôi… Trong ví dụ (47), các đương sự khác chỉ những
đương sự còn lại trong một tập hợp sau khi đã loại trừ đương sự được nhắc tới trước
đó. Ở ví dụ (48), chuyển nhượng là từ chuyên môn có nghĩa: chuyển quyền sử dụng
(trong bản án đang xét là quyền sử dụng đất) cho người khác bằng hình thức bán lại,
từ bán (mua bán) là từ thừa. Như vậy trong hai từ tùy vào ý đồ của người viết mà chỉ
cần sử dụng một từ là đủ, bốn trường hợp trên có thể bỏ từ nhỏ, canh tác, còn lại, bán
để câu rõ nghĩa hơn.
Xét ví dụ:
(49) Xem xét nội dung đơn kháng cáo của nguyên đơn, quyết định kháng nghị
của Viện kiểm sát, nghe qua lời đề nghị của các đương sự, vị đại diện Viện kiểm sát
cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ được kiểm tra tại phiên tòa.
(Ngữ liệu B40, tr.3)
(50) Xét qua lời trình bày trên của hộ ông D là hoàn toàn không có căn cứ nên
không được chấp nhận, bởi vì […].
(Ngữ liệu C49, tr.5)
Từ “qua” trong hai ví dụ trên có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất qua là
kết từ biểu thị sự việc sắp nêu ra là môi giới, phương tiện của hoạt động được nói
đến. Qua cũng có thể hiểu là một phụ từ biểu thị ý làm việc gì đó một cách nhanh
chóng, qua loa, không kĩ. Nếu hiểu từ qua theo nghĩa thứ hai thì phát ngôn trên được
hiểu là: Hội đồng xét xử nghe một cách qua loa, đại khái lời đề nghị của các đương
sự và vị đại diện Việm kiểm sát. Như vậy tính chất nghiêm túc, trung thực nhân danh
pháp luật của tòa án bị giảm đi đáng kể. Sử dụng từ qua trong hai trường hợp này dễ
gây hiểu lầm và câu không rõ nghĩa nhưng nếu bỏ từ qua thì phát ngôn trở lên rõ
nghĩa hơn, tránh được sự hiểu lầm. Vì vậy từ qua ở đây được coi là lỗi thừa từ.
(51) Xét ý kiến của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Ng.T.
Th và Ng.T.T, thấy: Các ông Th, ông T cũng xác nhận có việc ông T, bà C nhờ bị đơn
đứng ra vay tiền của Ngân hàng ABC.
(Ngữ liệu E64, tr.5)
Các là từ chỉ số nhiều có ý nghĩa toàn thể và xác định. Những danh ngữ chứa
các biểu thị toàn bộ những cá thể cùng loại trong một ngữ cảnh nhất định. Ông Th,
ông T trong ví dụ trên là những danh từ riêng có tính chất cá biệt, cụ thể, duy nhất.
Các không đứng trước làm yếu tố phụ cho danh từ riêng. Vì thế sử dụng từ các trước
ông Th, ông T là thừa, cần phải bỏ từ các trong trường hợp đã nêu.
3.2.3.2. Dùng sai nghĩa của từ ngữ
Xét các ví dụ sau:
(52) Xét yêu cầu kháng cáo của bà L.T.B đòi ông N.V.H bà B.T.B, N.X.H,
N.T.H phải cùng bà S bồi thường cho bà vì các người này cùng bà Sáu đánh bà là
chưa đủ căn cứ.
(Ngữ liệu B30, tr.5)
(53) Lời khai của ông V.V.Đ đều xác định chỉ có bà B.T.S và bà L.T.B nắm đầu
vật nhau dưới đống gạch trước cửa nhà ông S, còn các người khác không tham gia
đánh bà B.
(Ngữ liệu B30, tr.5)
(54) Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của các người bị hại nên công
nhận sự tự nguyện này.
(Ngữ liệu A4, tr.4)
(55) Nhưng với tính hung hãn, lưu manh côn đồ, các bị cáo đồng ý đi theo nói
là để hòa giải nhưng thực chất là để đánh giằn mặt nhằm trả thù cho nhóm bạn, nên
trước khi đi đã mang theo hung khí là các con dao.
(Ngữ liệu A16, tr.9)
Những kết hợp có từ các trong những ví dụ trên nghe không được tự nhiên lắm
và dường như người Việt không sử dụng những kết hợp kiểu như vậy. Như trên đã
nói, các là từ có nghĩa chỉ toàn thể và xác định. Cũng chính ý nghĩa toàn thể làm cho
các kết hợp kém tự nhiên với những trung tâm của danh từ biểu thị sự vật với tư cách
là những đơn vị tách biệt nhau một cách rõ rệt. Cụ thể trong những ví dụ trên, danh từ
trung tâm là danh từ chỉ đơn vị người, con đã xác định và tính chất chỉ toàn thể đã
bộc lộ rõ trong ngữ cảnh. Những cũng là một lượng từ có cùng vị trí với các trong cấu
trúc danh ngữ tiếng Việt và trong trường hợp của những ví dụ trên sử dụng từ những
sẽ hợp lý và quen thuộc hơn. Vì thế cần phải thay từ các bằng từ những.
Xét tiếp các ví dụ sau:
(56) Trình độ văn hóa: không biết chữ
(Ngữ liệu A10, tr.2)
(57) Trình độ văn hóa: 7/12
(Ngữ liệu A8, tr.1)
(58) Tiền án, tiền sự: chưa
(Ngữ liệu A16, tr.2)
(59) […] riêng bị cáo H, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, nên được xét giảm
một phần hình phạt theo quy định của pháp luật.
(Ngữ liệu A1, tr.11)
Trường hợp (56) và (57), sử dụng cụm từ “trình độ văn hóa” theo đúng hướng
dẫn của bản án mẫu hình sự sơ thẩm ban hành kèm theo Nghị quyết 05. Tuy nhiên sử
dụng cụm từ này chưa chính xác về nghĩa. Bởi lẽ “văn hóa” là một khái niệm rất
rộng, trong khái niệm về văn hóa không có nét nghĩa nào chỉ mức độ về khả năng và
điều kiện học tập. Bị cáo “không biết chữ” hay chỉ học tới lớp 7 không thể coi là có
trình độ văn hóa thấp được mà chỉ có thể coi là trình độ học vấn thấp. Trong phần ghi
lại căn cước và lý lịch của bị cáo, cần phải thay đổi cụm từ “trình độ văn hóa” thành
“trình độ học vấn” mới hợp lý.
Trường hợp (58), (59) là một lỗi nghiêm trọng về ngữ nghĩa. Nói đến tiền án,
tiền sự của bị cáo là nói đến những hành vi phạm pháp trước đây được tính đến thời
điểm diễn ra hành vi phạm pháp mới đang được xét xử trong hiện tại. “Chưa” là từ
biểu thị ý phủ định đối với điều mà cho đến một lúc nào đó không xảy ra nhưng trong
tương lai có thể xảy ra, ví dụ: Bữa tiệc diễn ra lúc 5 giờ nhưng mọi người chưa đến
đầy đủ, 6 giờ mới thấy đông đủ mọi người. Vì vậy, chỉ có thể kết luận là bị cáo có hay
không có tiền án, tiền sự chứ không thể kết luận là bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Phân tích lỗi của những ví dụ sau:
(60) Ngoài D.M.C là bị cáo chính của vụ án, còn các bị cáo khác bị xét xử vai
trò là đồng phạm do đã cùng giúp sức cho C quyết tâm thực hiện tội phạm.
(Ngữ liệu A11, tr.7)
(61) Do đó không phải buộc ông H, bà B, XH và H bồi thường cho bà B được.
(Ngữ liệu B30, tr.5)
(62) Do đó, đã đủ cơ sở khách quan để quy kết bị cáo Đ.T.C phạm vào tội
“Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự.
(Ngữ liệu A17, tr.5)
Bị cáo là người đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Một vụ án có thể có một
hay nhiều bị cáo và vai trò của từng bị cáo trong việc gây án có thể khác nhau. Tuy
nhiên dùng từ “bị cáo chính của vụ án” như ví dụ (60) với nghĩa bị cáo là người giữ
vai trò chủ mưu, vai trò chính trong vụ án là không chính xác mà chỉ có thể kết luận
bị cáo là “thủ phạm chính của vụ án”.
Trường hợp (61), cần thay từ “không phải” bằng từ “không thể”.
Trường hợp (62), quy kết là kết luận nhận định về người nào đó một cách chủ
quan, thiếu căn cứ (và thường là đánh giá nặng nề). Do đó sử dụng từ quy kết để kết
luận bị cáo phạm tội giết người sau khi đã phân tích và đưa ra những bằng chứng, cơ
sở pháp lý rõ ràng là không thể chấp nhận được. Cần sửa lại như sau:
(62’) Do đó, đã đủ cơ sở khách quan để kết luận/khẳng định bị cáo Đ.T.C
phạm vào tội “Giết người” theo Điểm n Khoản 1 Điều 93 của Bộ Luật Hình sự.
3.3. Thực trạng và giải pháp về ngữ pháp trong án văn
Ngữ pháp hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các vấn đề về câu, dấu câu, ngữ đoạn.
Cũng như đối với việc sử dụng từ ngữ, bản án còn có nhiều vấn đề về ngữ pháp cần
phải được chỉnh sửa để đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch.
3.3.1. Về sử dụng dấu câu
Dấu câu là một phương tiện ngữ pháp dùng trong chữ viết. Tác dụng của dấu
câu là làm rõ trên bề mặt chữ viết một cấu tạo ngữ pháp bằng cách chỉ ra ranh giới
giữa các câu, thành phần câu, các vế của câu ghép, giữa các yếu tố của ngữ và của
liên hợp. Dấu câu dùng thích hợp thì bài viết được người đọc hiểu rõ hơn, nhanh hơn.
Không dùng dấu câu hoặc sử dụng dấu câu không chính xác có thể gây hiểu sai về
nghĩa. Vì vậy, những nguyên tắc về sử dụng dấu câu cần được vận dụng nghiêm túc.
Hiện nay tiếng Việt dùng mười dấu câu, là: dấu chấm (.), dấu hỏi (?), dấu cảm (!),
dấy lửng (…), dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (;), dấu hai chấm (:), dấu gạch ngang (-),
dấu ngoặc đơn (), dấu ngoặc kép “ ”. Thông thường án văn chỉ sử dụng 7/10 dấu, là:
dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu gạch ngang, dấu hai chấm, dấu ngoặc đơn
và dấu ngoặc kép. Câu trong án văn thường dài và gồm nhiều bộ phận vì vậy việc sử
dụng dấu câu không chính xác dễ dẫn đến tình trạng hiểu sai nghĩa, khó theo dõi nắm
bắt nội dung, giảm khả năng thông báo. Theo khảo sát của chúng tôi, những trường
hợp sử dụng dấu câu không chính xác trong án văn là: sử dụng dấu câu sai chức năng,
sử dụng thừa dấu câu, thiếu dấu câu.
3.3.1.1. Sử dụng dấu câu sai chức năng
Xét những ví dụ sau:
(63) Bà Tr.T.L, sinh năm 1945. Vắng mặt.
(Ngữ liệu A19, tr.1)
(64) Bị cáo bị bắt ngày 08/12/2009. Có mặt.
(Ngữ liệu A17, tr.1)
(65) Các hội thẩm:
Ông L.V.H. Nguyên giáo viên trường Bùi Thị Xuân – Đà Lạt.
Ông K’Br. Phó ban dân tộc – Tôn giáo Ban dân vận tỉnh ủy tỉnh Lâm
Đồng.
(Ngữ liệu A3, tr.1)
Trong ba ví dụ trên đây, các cấu tạo “vắng mặt”, “có mặt”, “Nguyên giáo viên
trường Bùi Thị Xuân – Đà Lạt”, “Phó ban dân tộc – Tôn giáo Ban dân vận tỉnh ủy
tỉnh Lâm Đồng” không thể độc lập tạo thành câu. Vì vậy phải thay dấu chấm bằng
một dấu câu khác phù hợp với từng nội dung biểu đạt.
Trường hợp thứ (66) sau đây dùng sai chức năng của dấu hỏi:
(66) Tuy nhiên, tòa án các cấp cũng chưa xác minh làm rõ có việc khoảng năm
1988 ông X đã chia phần đất này thành 3 phần trong đó chỉ chia cho vợ chồng chị T 2.000m2 như lời khai của nguyên đơn không?
(Ngữ liệu H72, tr.3)
Câu này mặc dù có từ nghi vấn nhưng không phải để hỏi mà là câu trần thuật.
Vì vậy sử dụng dấu hỏi trong phát ngôn trên là không đúng chức năng, cần thay vào
đó là dấu chấm kết thúc câu trần thuật.
Xét các ví dụ khác:
(67) Xét trong quá trình “ở nhờ” – bị đơn đã làm nhà ở.
(Ngữ liệu B20, tr.4)
(68) Nguyên đơn – tại Tòa, không thừa nhận.
(Ngữ liệu B20, tr.4)
Hai ví dụ (67), (68), nội dung “trong quá trình ở nhờ”, “tại Tòa” là thành phần
trạng ngữ chỉ thời gian, không gian của câu. Dấu ngang (-) chỉ sử dụng trong những
trường hợp như: chỉ ranh giới của thành phần chú thích, đặt trước lời đối thoại, đặt ở
đầu mỗi bộ phận liệt kê mà mỗi bộ phận đó được tách riêng thành một dòng, đặt ở
giữa liên danh hoặc liên số. Sử dụng dấu gạch ngang để tách thành phần trạng ngữ ra
khỏi nòng cốt là không đúng. Hai trường hợp trên cần sửa lại là: bỏ dấu gạch ngang
hoặc thay dấu gạch ngang bằng dấu phẩy.
Dấu chấm phẩy (;) ít được sử dụng hơn so với các loại dấu khác và chức năng
của dấu chấm phẩy thường mờ nhạt, khó được phân định rạch ròi. Vì vậy nó thường
bị nhầm với các loại dấu gần gũi về hình thức hay chức năng như dấu chấm hoặc dấu
phẩy. Án văn sử dụng nhiều câu ghép và câu ghép thường có nhiều thành phần định
ngữ, bổ ngữ song song hoặc liên hợp mà không có kết từ. Vì vậy nếu dấu chấm phẩy
được hiểu rõ và sử dụng chính xác sẽ góp phần làm câu trở nên rõ nghĩa, dễ theo dõi.
Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, trong án văn, dấu chấm phẩy chưa thực sự
phát huy được tính ưu việt của nó và còn bị sử dụng sai với chức năng vốn có. Khảo
sát các ví dụ sau:
(69) Ngày 15/9/1998 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp giấy quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất cho N.M.Đ và N.T.N.T, đất ở tờ bản đồ số 01, thửa 892, có diện tích là 34,4m2, có diện tích sử dụng là 58,85m. Kết cấu nhà cấp 3, khung +
móng bê tông cốt thép, một trệt, một lầu, địa chỉ số 54, đường Thống Linh, phường 2,
thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
(Ngữ liệu B29, tr.5)
(70) Trong ngày 30/10/2008, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ
tiến hành xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số: 178/2008/DSPT ngày
02/7/2008 về tranh chấp quyền sử dụng đất;
Do bản án dân sự số: 79/2008/DSST ngày 28/5/2008 của Tòa án Nhân dân
quận Bình Thủy bị kháng cáo;
(Ngữ liệu B20, tr.1)
(71) Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và một phần yêu
cầu phản tố của bị đơn;
Buộc bà N.T.K.C bồi thường giá trị quyền sử dụng đất cho bà T.T.K.C […].
(Ngữ liệu B20, tr.3)
(72) Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn: Xử;
(Ngữ liệu C54, tr.8)
Ví dụ (69) có hai câu ghép đẳng lập, mỗi câu gồm hai vế, xác định thành phần
câu (quy ước: C là chủ ngữ, V là vị ngữ) như sau:
Câu 1:
Ngày 15/9/1998 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp giấy quyền sở hữu nhà và
C1 V1
quyền sử dụng đất cho N.M.Đ và N.T.N.T, đất ở tờ bản đồ số 01, thửa 892, có
V2 C2
diện tích là 34,4m2, có diện tích sử dụng là 58,85m.
Câu 2:
Kết cấu nhà cấp 3, khung + móng bê tông cốt thép, một trệt, một lầu, địa chỉ số
C1 V1 C2
54, đường Thống Linh, phường 2, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
V2
V2 của câu 1 có cấu tạo gồm nhiều động ngữ và V1, V2 của câu 2 có cấu tạo
gồm nhiều danh ngữ. Những động ngữ và danh ngữ này đã được phân tách bằng dấu
phẩy nên theo chúng tôi, giữa hai vế của câu không sử dụng dấu phẩy nữa mà phải sử
dụng dấu chấm phẩy để phân biệt ranh giới giữa các vế câu và những thành phần của
vế câu. Sửa lại:
(69’) Ngày 15/9/1998 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp giấy quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất cho N.M.Đ và N.T.N.T; đất ở tờ bản đồ số 01, thửa 892, có diện tích là 34,4m2, có diện tích sử dụng là 58,85m. Kết cấu nhà cấp 3, khung +
móng bê tông cốt thép, một trệt, một lầu; địa chỉ số 54, đường Thống Linh, phường 2,
thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Xét hai ví dụ (70), (71) ta thấy dấu chấm phẩy được dùng ở cuối câu để kết
thúc câu và xuống dòng là không phù hợp. Ngoại trừ những trường hợp tách dòng khi
liệt kê theo quy định riêng trong văn bản hành chính, dấu chấm phẩy thường chỉ có
chức năng chỉ ranh giới giữa các bộ phận trong câu (giữa hai vế của câu ghép song
song, giữa các yếu tố trong một liên hợp song song) chứ không có chức năng kết thúc
câu. Vì vậy hai trường hợp này cần phải thay dấu chấm phẩy bằng dấu chấm.
Trường hợp thứ (72) sử dụng sai chức năng của cả hai dấu: dấu hai chấm và
dấu chấm phẩy. “Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn” là một phát ngôn
trọn vẹn về mặt nội dung, “xử” (xử trong ví dụ trên là trường hợp tỉnh lược của: Tòa
tuyên xử) thuộc về nội dung thông báo khác chứ không phải là nội dung thuyết minh
có tác dụng bổ sung hay giải thích cho nội dung đã nêu. Vì vậy sử dụng dấu hai chấm
giữa hai phát ngôn có nội dung độc lập với nhau như trên là không phù hợp. Hơn
nữa, trong các bản án, để tạo sự minh bạch, xử hay Tuyên xử thường được tách thành
một dòng độc lập nên phát ngôn trước đó phải là phát ngôn đã hoàn chỉnh và kết thúc
bằng dấu chấm. Sau “xử” cần phải có nội dung thông báo việc giải quyết nội dung vụ
án của Tòa vì vậy không thể dùng dấu chấm phẩy sau nó mà phải dùng dấu hai chấm.
Có thể sửa lại như sau:
(72’) Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.
Xử:
3.3.1.2. Sử dụng thừa dấu câu
Sử dụng thừa dấu câu trong án văn được hiểu là dấu câu sử dụng trong những
trường hợp đó là không cần thiết, không đúng cần phải loại bỏ mới chính xác. Trường
hợp thừa dấu câu khác với trường hợp sai chức năng của dấu ở chỗ: khi sử dụng sai
chức năng của dấu thì phải thay dấu sai bằng một loại dấu khác phù hợp, còn thừa
dấu thì phải loại bỏ dấu đó ra khỏi phát và không có sự thay thế.
Xét hai ví dụ:
(73) Bản án số: 05/2009/KDTM-PT
Ngày 12-01-2009
Về việc “Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng công nghiệp”
(Ngữ liệu D63, tr.1)
(74) Bản án số: 115/2008/DS-ST
Ngày: 25/12/2008
“V/v tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”
(Ngữ liệu C46, tr.1)
Hai ví dụ trên nằm ở phần định danh cho bản án, phần định danh này do người
viết căn cứ vào thời gian xét xử, số lượng án cùng loại và tính chất, nội dung vụ án để
định ra. Lỗi thừa dấu mà chúng tôi nhận thấy ở phần định danh này là thừa dấu hai
chấm và dấu ngoặc kép. Thứ nhất, “Bản án số 05/2009/KDTM-PT”, “Ngày
25/12/2008” là một danh ngữ. Trong đó “số”, “ngày” là danh từ chỉ sự vật có ý nghĩa
đơn vị và 05/2009/KDTM-PT, 25 là định ngữ cho danh từ đó. Dùng dấu hai chấm để
tách danh từ trung tâm và định ngữ là không chính xác, cần phải loại bỏ. Thứ hai, dấu
ngoặc kép chỉ sử dụng trong trường hợp chỉ ra ranh giới của lời nói được thuật lại
trực tiếp, nhưng phần định danh bản án là do người viết án dựa vào nội dung, tính
chất của vụ án để định ra chứ không phải là nội dung dẫn lại từ tài liệu khác, vì vậy
không cần phải đặt trong dấu ngoặc kép. Trường hợp tòa án ở cấp cao hơn xét xử lại
vụ án của cấp thấp hơn mà tòa án ở cấp cao vẫn giữ nguyên tên gọi của vụ án như
Tòa cấp dưới đã gọi cũng không cần thiết phải đặt vào trong dấu ngoặc kép.
Xét tiếp các ví dụ sau
(75) Tờ tường trình của ông N.V.V tại (BL 66) không đồng ý giao trả đất theo
yêu cầu của bà N […].
(Ngữ liệu B22, tr.2)
(76) Nguyên đơn N.T.M.D trình bày: Vào ngày 27/7/2007 vợ chồng bà và vợ
chồng ông N – bà T có làm hợp đồng (giấy tay) chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 264,6m2 trong đó có 200m2 đất (T) còn lại là đất (LNK).
(Ngữ liệu B32, tr.2) (77) Ông N.V.S được quyền sử dụng diện tích 128m2 đất “T” và “CLN” tọa
lạc tại ấp 9, xã Vị Thắng, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang […].
(Ngữ liệu B21, tr.5)
(78) Sau đó B về báo lại có 2 người khách đi xe “Cúc Tư” về Tuy Hòa – Phú
Yên.
(Ngữ liệu A10, tr.5)
Ở các ví dụ (75), (76): BL 66 (Bút lục 66) là định ngữ của tại, T (thổ) và LNK
(lâu năm khác) là định ngữ cho danh từ đất. Giữa danh từ và định ngữ không sử dụng
dấu ngoặc đơn kiểu chú thích.
Ở các ví dụ (77) và (78), người viết có thể đã sử dụng lại từ ngữ trong tài liệu
khác, như đất T và đất CLN (đất trồng cây lâu năm) là từ thường dùng trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất khi xác định loại đất hoặc mục đích sử dụng đất. Ví dụ
(77) cũng tương tự như ví dụ (75), (76): T và CLN là định ngữ của danh từ đất. Ở ví
dụ (78), Cúc Tư là một danh từ riêng khi nhắc lại không cần phải đặt trong dấu ngoặc
kép. Hơn nữa, đặt danh từ riêng vào trong dấu ngoặc kép có thể khiến người đọc hiểu
lầm là người viết có ý mỉa mai hay phê phán đối với cái tên đó.
Cả bốn trường hợp trên cần phải sửa lại bằng cách bỏ dấu ngoặc đơn hoặc dấu
ngoặc kép.
Xét những trường hợp khác:
(79) […] ông M thì cho rằng lúc cố đất 2,5 công tầm 3m bằng 8 chỉ vàng, giấy
cố đất ông H, giữ còn ông H cho rằng giấy sang đất là 20 chỉ vàng 24k do ông M viết
và ký tên.
(Ngữ liệu C52, tr.2)
(80) Nay anh yêu cầu giải quyết buộc chị N, anh M, chị T: Một: là tách bộ
sang tên đất ngang 2m dài 71,8m. Hai: là trả lại tiền đất bồi thường 1.1.88.000đ.
(Ngữ liệu C51, tr.2)
(81) Toàn bộ diện tích đất trên là do bà Y đứng tên quyền sử dụng đất; còn
căn nhà cấp 4 cất trên phần đất tại thửa 242 được xây dựng vào năm 1999, bà Y có
đưa vào số tiền 30.000.000 đồng; còn lại bao nhiêu là của bà N.
(Ngữ liệu B28, tr.2)
Ở ví dụ (79) người viết sử dụng thừa dấu phẩy giữa chủ ngữ và vị ngữ của một
tiểu cú: ông H, giữ (không loại trừ đây là trường hợp đánh dấu nhầm). Dấu phẩy
được sử dụng ở đây không có tác dụng tích cực đối với nội dung thông báo mà còn
làm cho thông báo đứt quãng và gây khó hiểu với người đọc. Ở trường hợp (80), ta
thấy sau số từ một, hai có thể dùng dấu hai chấm để thông báo điều sắp nêu ra là nội
dung giải thích, bổ sung cho điều đã được nói đến theo hướng liệt kê. Nhưng do trong
phát ngôn (80), giữa số từ và nội dung thông báo có động từ “là” biểu thị quan hệ
điều sắp nêu là nội dung giải thích cho điều đã nêu. Vì vậy không cần phải sử dụng
dấu hai chấm trong trường hợp này. Ví dụ (81) là một câu ghép đẳng lập mà hai vế
của nó đã được phân ranh giới bằng một dấu chấm phẩy. Sử dụng dấu chấm phẩy ở
vế thứ hai (còn căn nhà cấp 4 cất trên phần đất tại thửa 242 được xây dựng vào năm
1999, bà Y có đưa vào số tiền 30.000.000 đồng; còn lại bao nhiêu là của bà N) sẽ
khiến cho người đọc cảm nhận đây là câu ghép có ba vế đẳng lập. Trong khi đó, nội
dung: còn lại bao nhiêu là của bà N là nói về số tiền xây dựng căn nhà đang được
nhắc tới trong phần trạng ngữ của vế thứ hai chứ không thông báo một nội dung mới
có quan hệ đẳng lập với hai nội dung trước đó. Như vậy cấu trúc phát ngôn bị hiểu sai
sẽ làm sai lệch nội dung phát ngôn. Cho nên trong trường hợp này cần phải thay dấu
chấm phẩy ở trước “còn lại” bằng dấu phẩy.
3.3.1.3. Thiếu dấu câu
Thiếu dấu câu trong án văn gồm có những trường hợp như sau:
Thiếu dấu để tách biệt các bộ phận trong câu:
(82) Nên hợp đồng trên bị tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố là hợp đồng vô hiệu là
có căn cứ đúng các quy định của pháp luật do hợp đồng vô hiệu nên toàn bộ nội
dung tờ “giấy tay nhượng đất ruộng” đề ngày 28/02/1995 không có giá trị về mặt
pháp lý.
(Ngữ liệu B40, tr.4)
Sửa lại: Nên hợp đồng trên bị tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố là hợp đồng vô hiệu
là có căn cứ, đúng các quy định của pháp luật. Do hợp đồng vô hiệu nên toàn bộ nội
dung tờ “giấy tay nhượng đất ruộng” đề ngày 28/02/1995 không có giá trị về mặt
pháp lý.
(83) Việc chuyển nhượng đất có làm giấy tay do ông Q viết, bà H gạch thập vì
không biết chữ và có ông C.A ký tên vào giấy mua bán có hai nhân chứng là ông
N.V.T và N.T.T có xác nhận của ông N.V.T là trưởng ấp.
(Ngữ liệu B34, tr.2)
Sửa lại: Việc chuyển nhượng đất có làm giấy tay do ông Q viết, bà H gạch thập
vì không biết chữ và có ông C.A ký tên vào giấy mua bán, có hai nhân chứng là ông
N.V.T và N.T.T, có xác nhận của ông N.V.T là trưởng ấp.
(84) Cấp sơ thẩm buộc ông phải trả lại cho ông Q 2.545.m2 đất ông không
đồng ý vì đất này trước đây là của bà B.T.H chuyển nhượng cho ông canh tác từ năm
1998 đến nay.
(Ngữ liệu B34, tr.2) Sửa lại: Cấp sơ thẩm buộc ông phải trả lại cho ông Q 2.545.m2 đất, ông không
đồng ý vì đất này trước đây là của bà B.T.H chuyển nhượng cho ông canh tác từ năm
1998 đến nay.
Thiếu dấu phân tách các thành phần phụ của câu và tách thành phần phụ ra
khỏi nòng cốt của câu:
(85) Ngày 06/9/2007, trên tuyến đường Quốc lộ 1A thuộc khu vực huyện Hàm
Thuận Nam, N.Đ.B và L.V.M là 2 tài xế xe ô tô khách có mâu thuẫn với nhau trong
lúc điều khiển xe.
(Ngữ liệu A1, tr.3)
(86) Bà N.T.C là mẹ của nạn nhân L.Q.T là người đại diện hợp pháp của bị hại
bà C có yêu cầu được bồi thường các khoản sau: […].
(Ngữ liệu A1, tr.12)
Hai trường hợp này đều có thành phần phụ chú nằm ở vị trí giữa chủ ngữ và vị
ngữ vì vậy cần dùng dấu câu để phân tách chúng với nòng cốt của câu. Do thành phần
chú thích có quan hệ rõ với danh ngữ phía trước và trong câu đã sử dụng dấu phẩy
tách thành phần trạng ngữ nên trong hai trường hợp này sử dụng dấu ngang để phân
ranh giới thành phần chú thích với nòng cốt câu là hợp lý hơn cả.
Sửa lại:
(85’) Ngày 06/9/2007, trên tuyến đường Quốc lộ 1A thuộc khu vực huyện Hàm
Thuận Nam, N.Đ.B và L.V.M – là 2 tài xế xe ô tô khách – có mâu thuẫn với nhau
trong lúc điều khiển xe.
(86’) Bà N.T.C – là mẹ của nạn nhân L.Q.T – là người đại diện hợp pháp của
bị hại. Bà C có yêu cầu được bồi thường các khoản sau: […]
Xét tiếp các ví dụ sau:
(87) Theo sơ đồ đo đạc ngày 06/4/2008 của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi
trường tỉnh Đồng Tháp ông X chỉ ranh giới đất ông với đất của ông Đ, bà Th là mốc
4 nối với mốc 3[…].
(Ngữ liệu B29, tr.5)
(88) Sau giải phóng gia đình các nguyên đơn tiếp tục làm đơn yêu cầu xin
được cất nhà ở nhưng cũng không được giải quyết và kéo dài đến năm 1999 Cơ quan
chức năng thông báo cho biết thửa đất này đang xem xét quy hoạch mở rộng nút giao
thông ngã tư nên không cho xây dựng.
(Ngữ liệu B29, tr.2)
(89) Ngày 06/5/2009 và 13/5/2009 tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 614/2008/TLPT – DS ngày 13/11/2008 về
vụ việc: “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”.
(Ngữ liệu B29, tr.1)
Ở các ví dụ (87), (88) cần phải có dấu phẩy để phân tách thành phần trạng ngữ
của câu ra khỏi nòng cốt khi trạng ngữ có cấu trúc phức tạp, có thể sửa lại như sau:
(87’) Theo sơ đồ đo đạc ngày 06/4/2008 của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên
môi trường tỉnh Đồng Tháp, ông Xuân chỉ ranh giới đất ông với đất của ông Đức, bà
Thủy là mốc 4 nối với mốc 3.
(88’) Sau giải phóng gia đình các nguyên đơn tiếp tục làm đơn yêu cầu xin
được cất nhà ở nhưng cũng không được giải quyết và kéo dài đến năm 1999, Cơ
quan chức năng thông báo cho biết thửa đất này đang xem xét quy hoạch mở rộng
nút giao thông ngã tư nên không cho xây dựng.
Khi phát ngôn có hai (ba, bốn…) trạng ngữ liền nhau thì cần phải có dấu phẩy
để phân tách những trạng ngữ đó, vì vậy trường hợp (89) cần sửa lại là:
(89’) Ngày 06/5/2009 và 13/5/2009, tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng
Tháp, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 614/2008/TLPT – DS ngày
13/11/2008 về vụ việc: “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”.
Như vậy, dù sử dụng thừa dấu, thiếu dấu hay sai chức năng của dấu thì cũng
khiến cho nội dung án văn trở nên khó hiểu, khó theo dõi thậm chí gây hiểu sai về
cấu trúc phát ngôn và nội dung phát ngôn. Vì thế, dấu câu cần phải được sử dụng
chính xác để đảm bảo tính chất minh bạch cho án văn.
3.3.2. Về tách câu
Tách câu tức là tách các thành phần câu và nâng chúng nên thành những câu
khác, những câu này còn được gọi là ngữ trực thuộc hay câu dưới bậc.
Trong văn chương, các tác giả sử dụng việc tách các bộ phận của một câu ra
thành nhiều câu như một biện pháp tu từ cú pháp nhằm đạt tới một ý đồ nghệ thuật
nào đó. Còn trong án văn, do tính chất của văn bản đòi hỏi tính minh xác và đơn
nghĩa nên việc sử dụng biện pháp tu từ cú pháp là khó có thể chấp nhận. Vì vậy việc
tách các bộ phận của câu thành nhiều câu trong phần trình bày nội dung vụ án hoặc
trong phần lập luận bị coi là một lỗi về cú pháp.
Xét các trường hợp tách câu không hợp lý trong án văn sau đây:
(90) Tại phiên tòa ngày 25/12/2009. Ông Ph yêu cầu đo đạc lại vì cho rằng
việc đo đạc của cấp sơ thẩm không chính xác.
(Ngữ liệu B40, tr.4)
(91) Tại bản cáo trạng số 04/KSĐT-P2 ngày 16/01/2009. Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Lâm Đồng truy tố N.V.T phạm tội “Giết người” theo Điểm 1 Khoản 1 Điều
93 Bộ Luật hình sự.
(Ngữ liệu A4, tr.2)
(92) Từ các nhận định trên. Hội đồng xử án Tòa án Nhân dân thành phố Cần
Thơ căn cứ vào Khoản 1 Điều 275 Bộ Luật tố tụng Dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
(Ngữ liệu B19, tr.4)
Ví dụ (90), (91) và (92) là trường hợp tách thành phần phụ ra khỏi nòng cốt
câu. Những ví dụ này cho thấy người viết đã tùy tiện tách thành phần trạng ngữ chỉ
nơi chốn, chỉ nguồn ra khỏi nòng cốt câu, tạo thành một câu riêng đứng trước câu
chứa thành phần nòng cốt. Việc tách câu như vậy không mang lại hiệu quả gì cho nội
dung thông báo mà khiến cho câu cụt, thiếu liên kết về nội dung. Cần sửa lại bằng
cách bỏ dấu chấm câu và thay vào đó là dấu phẩy.
(93) Luật sư Đ.T.H. Văn phòng luật sư Tín Nghĩa – Đoàn luật sư Lâm Đồng
bào chữa cho bị cáo, có mặt.
(Ngữ liệu A2, tr.1)
Ở ví dụ trên, người viết tách thành phần chú thích và vị ngữ ra khỏi chủ ngữ để
làm thành một câu. Việc tách câu như trên không những tạo câu thiếu hoàn chỉnh về
mặt cú pháp mà còn gây hiểu lầm về nghĩa. Vì câu thứ hai “Văn phòng luật sư Tín
Nghĩa – Đoàn luật sư Lâm Đồng bào chữa cho bị cáo, có mặt.”, người đọc sẽ hiểu
Văn phòng luật sư Tín Nghĩa – Đoàn luật sư Lâm Đồng là chủ thể của hành động bào
chữa cho bị cáo chứ không phải là cá nhân luật sư Đ.T.H (trong văn phòng luật sư có
thể có một luật sư hoặc có thể có nhiều luật sư).
Xét tiếp ví dụ sau đây:
(94) Trong vụ án này, mặc dù các bị cáo Th, T, Th không trực tiếp tấn công Th
và T. Nhưng lẽ ra khi biết ý định phạm tội của bị cáo Ch, các bị cáo phải ngăn cản,
khuyên can hoặc có thể chỉ ở tại nhà không tham gia.
(Ngữ liệu A11, tr.6)
Ở ví dụ (94), người viết có dụng ý sử dụng cặp quan hệ từ sóng đôi mặc
dù…nhưng…để biểu thị quan hệ nhượng bộ (nghịch nhân quả). Cặp quan hệ từ này
có chức năng liên kết các vế của câu ghép chính phụ, có tác dụng làm cho kết cấu
ngữ pháp của câu thêm chặt chẽ và quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu thêm rõ. Tuy
nhiên người viết đã tách hai vế của câu ghép chính phụ ra thành hai câu nên câu đầu
không trọn vẹn về ngữ nghĩa.
3.3.3. Về thành phần chủ ngữ của câu
Cần phân biệt trường hợp câu thiếu thành phần chủ ngữ là một lỗi về ngữ pháp
với câu tỉnh lược chủ ngữ là đặc trưng ngữ pháp của án văn.
Xét hai ví dụ sau:
(95) Hành vi trên của các bị cáo H.V.T, N.L.V.T, H.V.H thể hiện tính nguy
hiểm cho xã hội, đã dùng hung khí nguy hiểm tước đoạt trái phép tính mạng của
L.Q.T.
(Ngữ liệu A1, tr.1)
(96) Quan điểm của luật sư T.V.S người bào chữa cho bị cáo Đ.T.C thống nhất
theo quan điểm của Kiểm sát viên; ngoài ra, trình bày thêm bị cáo còn được hưởng
các tình tiết giảm nhẹ khác; cụ thể là: […].
(Ngữ liệu A17, tr.4)
Hai ví dụ trên đây là hai câu ghép đẳng lập, nhưng vế thứ hai của câu ghép
thiếu thành phần chủ ngữ do bị chập cấu trúc khiến cho câu không hoàn chỉnh. Cần
sửa lại như sau:
(95’) Hành vi trên của các bị cáo H.V.T, N.L.V.T, H.V.H thể hiện tính nguy
hiểm cho xã hội, các bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm tước đoạt trái phép tính
mạng của L.Q.T
(96’) Quan điểm của luật sư T.V.S (người bào chữa cho bị cáo Đ.T.C) thống
nhất theo quan điểm của Kiểm sát viên; ngoài ra, luật sư trình bày thêm bị cáo còn
được hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác; cụ thể là: […]
Ngoài ra, câu trong án văn còn thường thiếu thành phần chủ ngữ do người viết
sử dụng thừa giới từ, như:
(97) Qua cơ sở pháp lý trên đã khẳng định thực trạng nhà 15 Nguyễn Huy
Lượng có diện tích khuôn viên là 80m2.
(Ngữ liệu C58, tr.3)
(98) Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Ng.T.Ng trình bày: […]
(99) Vả lại, trong cách xử sự của người bị hại không tế nhị nên cũng phần nào
ảnh hưởng đến nhận thức và hành động của bị cáo.
(Ngữ liệu A17, tr.5)
(100) Theo biên bản giải quyết này có nội dung thể hiện Ủy ban nhân dân
huyện Củ Chi không công nhận diện tích đất bà R đã đăng ký 12 cao vì thực hiện
không đúng tinh thần chỉ thị 299 của Hội đồng Bộ Trưởng.
(Ngữ liệu B35, tr.7)
(101) Riêng đối với bị cáo Th, T cũng đã có tác động gia đình bồi thường cho
phía người bị hại để nhằm khắc phục một phần hậu quả.
(Ngữ liệu A11, tr.8)
(102) Đối với bị cáo L.T.Q là người lãnh đạo cao nhất cơ quan đã chỉ đạo các
bị cáo khác làm sai quy định của nhà nước nên chịu trách nhiệm chính.
(Ngữ liệu A13, tr.6)
Cách sửa đơn giản và hiệu quả nhất trong những trường hợp này là bỏ đi
những giới từ đứng ở đầu câu, như vậy sẽ làm câu hoàn chỉnh về mặt hình thức và
nội dung thông báo rõ ràng hơn.
3.4. Thực trạng và giải pháp về tổ chức văn bản trong án văn
3.4.1. Không thống nhất ở cấu trúc văn bản
Nhắc tới cấu trúc văn bản là nhắc tới trật tự sắp xếp các bộ phận của văn bản
theo một trình tự nhất định. Trình tự sắp xếp hợp lý, thống nhất cũng sẽ đảm bảo
được tính rõ ràng, mạch lạc cho án văn.
Án văn có một cấu trúc xác định do tính khuôn mẫu của văn bản hành chính
quy định. Tuy nhiên, cấu trúc của bản án mới chỉ được quy định khái quát, không đi
sâu vào chi tiết. Vì vậy, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có những điểm
không thống nhất hoặc bất hợp lý trong việc triển khai nội dung của án văn. Đặc biệt
là trong phần “Quyết định”, cách tổ chức văn bản dường như mỗi nơi mỗi khác, mỗi
người một kiểu.
Xét những ví dụ sau:
(103)
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Điều 29, 34, 35, Khoản 1 Điều 131 và Điều 210 Bộ Luật Tố tụng dân
sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005
QUYẾT ĐỊNH
+ Áp dụng Điều 342, 343, 471 Bộ Luật dân sự và Điều 52 Luật Tổ chức tín
dụng; Khoản 2 Điều 18 và Khoản 1 Điều 19 Nghị định 70/CP của Chính phủ quy
định về án phí, lệ phí của tòa án ngày 12 tháng 06 năm 1997; tuyên xử:
[…]
(Ngữ liệu E66, tr.4)
(104)
Bởi các lẽ trên.
Áp dụng Khoản 2 Điều 275, Khoản 1 Điều 276, Khoản 2 Điều 132, Khoản 6
Điều 279 Bộ Luật Tố tụng dân sự
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận […]
(Ngữ liệu B40, tr.5)
(105)
Vì các lẽ trên,
Hội đồng xét xử
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Bộ Luật Tố tụng dân sự tại Khoản 2 và 3 Điều 275.
Bộ Luật dân sự tại Điều 255 và 256.
Luật Đất đai tại Khoản 1 Điều 136
Xử:
[…]
(Ngữ liệu B20, tr.5)
(106)
Vì các lẽ trên;
Căn cứ Khoản 2 – Điều 275; Khoản 2 – Điều 132 Bộ Luật Tố tụng dân sự;
Điều 471, Khoản 2 – Điều 476 Bộ Luật Dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
- Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo yêu cầu của ông Phạm Tùng Nghi.
- Sửa 01 phần nội dung quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 31 ngày
27/3/2009 của Tòa án Nhân dân huyện Tháp Mười.
Tuyên xử:
[…]
(Ngữ liệu B32, tr.5)
(107)
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 2 Điều 275, Khoản 1 Điều 131, Khoản 2 Điều 132 Bộ Luật Tố
tụng dân sự; Điều 10, Điều 136 Luật Đất đai, Điều 688 Luật Dân sự
Tuyên xử:
[…]
(Ngữ liệu B25, tr.4)
Tóm lại, về cơ bản, có những cách sắp xết trật tự nội dung của phần “Quyết
định” trong các bản án dân sự theo thứ tự trên đây như sau:
103 104 105 106 107
Căn cứ… Áp dụng… Quyết định Căn cứ… Quyết định
Quyết định Quyết định Áp dụng… Quyết định Căn cứ…
Áp dụng… (Nội dung) Xử: (Nội dung) Tuyên xử
(Nội dung) Tuyên xử: (nội dung) Tuyên xử:
(Nội dung) (Nội dung)
Trước hết có thể thấy việc dùng từ “căn cứ” và “áp dụng” không thống nhất.
Có bản án chỉ dùng “áp dụng…” như ví dụ (104), (105). Có bản án chỉ dùng “căn
cứ…” như trong ví dụ (106), (107). Có bản án dùng cả hai cách như trường hợp
(103). Theo chúng tôi, việc dùng như vậy rất dễ gây hiểu lầm là áp dụng luật và căn
cứ vào luật có ý nghĩa khác nhau. Thực chất, trong án văn chúng được sử dụng với
cùng một nghĩa là dựa vào một cơ sở cụ thể để lập luận và hành động. Phần “Xét
thấy” có những căn cứ xác định để lập luận và đến phần “Quyết định” những căn cứ
ấy là cơ sở để hành động. Vì vậy, theo chúng tôi, nên sử dụng nhất quán một cách là
“căn cứ…” để tránh hiểu lầm và cách diễn đạt chính xác hơn. Vậy thì nên để “căn
cứ…” đứng trước hay sau cụm từ “Quyết định”? Như đã nói, căn cứ là dựa vào một
cơ sở nào đó để lập luận và hành động. “Quyết định” và nội dung quyết định trong án
văn là một hành động cụ thể. Vì vậy nên đặt “căn cứ…” trước cụm từ “Quyết định”
sẽ phù hợp hơn.
Thứ hai, cách sử dụng “Tuyên xử:” cũng chưa hợp lý. Xét ví dụ (106), ta thấy
sau “Quyết định” có nội dung “chấp nhận…” và “sửa 01 phần…” rồi sau đó mới tới
“Tuyên xử:” và nội dung tiếp theo. Rõ ràng hai nội dung vừa nêu thuộc về nội dung
“Tuyên xử:” là những phán quyết của tòa án khi xử lý vụ việc. Việc tách riêng nội
dung phán quyết như vậy khiến bản án không rõ ràng về giới hạn nội dung; khiến
người nghe, nhất là khi nghe Tòa tuyên án có thể nhầm tưởng nội dung bên trên
không thuộc phạm vi “Tuyên xử”.
3.4.2. Không hợp lý trong việc chia tách đoạn văn
Đoạn văn thông thường được hiểu là một phần của văn bản tính từ chỗ viết
hoa, thường lùi vào ở đầu dòng cho đến chỗ dấu chấm xuống dòng. Đoạn văn có thể
gồm một câu hoặc nhiều câu tùy vào nội dung diễn đạt. Việc chia tách đoạn văn được
xem xét từ góc độ của văn bản hoàn chỉnh hoặc một phần đủ lớn của văn bản. Đối với
những văn bản phi nghệ thuật, việc chia tách đoạn văn có tác dụng tạo cơ sở hình
thức cho kết cấu văn bản (hoặc của phần văn bản đủ lớn) cũng là đánh dấu sự liên kết
tổng thể, giúp làm rõ cấu trúc ý của văn bản.
Án văn là dạng văn bản khá dài. Trong án văn, cần thiết phải có nhiều đoạn
văn để nội dung được rõ ràng, dễ theo dõi. Việc chia tách đoạn văn cần phải chú ý
đến sự thống nhất chung trong các phần của án văn và trong toàn án văn, có như vậy
mới đảm bảo được tính minh bạch và tránh được sự nhầm lẫn về nội dung. Tuy
nhiên, một số bản án còn xuất hiện vấn đề chia tách đoạn văn không hợp lý. Điều đó
dẫn đến việc phá vỡ cấu trúc chung của phần văn bản hoặc toàn văn bản, phá vỡ tính
liên kết giữa các đoạn văn và có thể dẫn đến hiện tượng mơ hồ về nghĩa. Xét các ví
dụ sau (Đ là ký hiệu viết tắt của đoạn văn):
Ví dụ (108):
Tại phiên tòa, bị cáo L.Q.S thừa nhận […].(Đ1)
Bị cáo N.C.T khai […].(Đ2)
Bà N.T.K.L, mẹ của nạn nhân P.C.T yêu cầu làm rõ: H giữ vai trò chủ mưu
trong vụ giết người nhưng sao không bị xử lý lại được cho về nhà. H khai là H kêu
mỗi người mang một khúc cây. (Đ3)
L.T.Nh không thừa nhận có đưa dao cho T tại sao ngày thực nghiệm điều tra
lại diễn tả rất thuần thục mà không phản ứng gì. T khai tại phiên Tòa dao do Nh chị
của H đưa cho tại sân nhà H và anh N.Q.D có nhìn thấy. Vậy con dao từ đâu mà có
trong khi Sỹ và Th không mâu thuẫn gì. (Đ4)
Bà L và ông X yêu cầu […].(Đ5)
Ông Kiểm sát viên lập luận […].(Đ6)
(Ngữ liệu A7, tr.4)
Ví dụ trên gồm có 6 đoạn. Xét về nội dung ý nghĩa, (Đ1), (Đ2), (Đ3), (Đ5), (Đ6)
có quan hệ song hành, liên kết với nhau bằng phép lặp cấu trúc ngữ pháp: câu đề
được đặt ở đầu mỗi đoạn văn xác định phạm vi nội dung mà đoạn văn đề cập tới (chỗ
in đậm trong ví dụ trên là đề của mỗi đoạn). Nhờ có kết cấu như vậy mà người đọc
dễ dàng xác định được nội dung cụ thể của vụ án; xác định chính xác yêu cầu, ý kiến,
lời khai…của từng đối tượng liên quan. Tuy nhiên, (Đ3) và (Đ4) có quan hệ trực
thuộc: (Đ4) là một phần nội dung triển khai của câu đề: Bà N.T.K.L, mẹ của nạn
nhân P.C.T yêu cầu làm rõ thuộc (Đ3) và nội dung biểu đạt trong hai đoạn này cũng
không quá dài và phức tạp. Việc chia tách đoạn (Đ3+4) thành hai đoạn đã phá vỡ cấu
trúc chung của phần văn bản, khiến cho cấu trúc ý nghĩa không còn có sự liên kết
chặt chẽ và khó theo dõi. Theo chúng tôi, nên gộp hai đoạn (Đ3) và (Đ4) thành một
đoạn để đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ cho phần văn bản này.
Ví dụ (109):
[…] Ông H và ông Đ xác định vết thương của bà S trên mặt là do bà S và bà B
nắm đầu vật nhau té xuống đống gạch, do đó chưa đủ căn cứ để xác định ông B cầm
gạch để đánh vào mặt bà S gây thương tích. (Đ1)
Đối với thương tích của bà S, tại giấy chứng nhận thương tích ngày 22/9/2007,
tình trạng thương tích lúc nhập viện. (Đ2)
Vết thương vùng trán (T) gần mí mắt (T) dài 3cm (đã khâu ở trạm y tế) + bầm
nhẹ mi trên mắt (T) cao huyết áp. (Đ3)
Bà S nhập viện từ ngày 22/9/2009, đến ngày 29/9/2007 xuất viện, thời gian 7
ngày. (Đ4)
(Ngữ liệu B30, tr.6)
Ở ví dụ trên chúng tôi chỉ xét đến hai đoạn (Đ2) và (Đ3) nhưng để tiện
theo dõi chúng tôi dẫn thêm (Đ1) và (Đ4) để có thể nhận diện vấn đề rõ hơn. Kết hợp
hai đoạn (Đ2), (Đ3) và thêm từ vào ta mới được một câu hoàn chỉnh về cấu trúc và ý
nghĩa: Đối với thương tích của bà S, tại giấy chứng nhận thương tích ngày
22/9/2007, tình trạng thương tích lúc nhập viện là vết thương vùng trán (T) gần mí
mắt (T) dài 3cm (đã khâu ở trạm y tế) + bầm nhẹ mi trên mắt (T) cao huyết áp. Việc
chia tách một câu thành hai đoạn là bất hợp lý. Nó không những tạo ra hai đoạn
không hoàn chỉnh về nội dung biểu đạt mà còn thiếu đi sự liên kết, nội dung không rõ
ràng. Sửa lại bằng cách gộp hai đoạn (Đ2) và (Đ3) thành một đoạn.
Xét thêm ví dụ (110) về việc tách đoạn không hợp lý:
Xét kháng cáo của các nguyên đơn yêu cầu phía bị đơn phải trả đất ngang
1.37m x dài 8m là không có căn cứ pháp luật bởi lẽ: (Đ1)
Tại phiên tòa ngày 06/5/2009 các nguyên đơn đều thừa nhận phần đất liền kề
với đất của ông Q, bà H với đất của ông N, bà C chuyển nhượng của bà Từ [từ] năm
1943, ông N bà C không sử dụng […].(Đ2)
Theo sơ đồ do đạc ngày 06/4/2008 của […] và Tòa sơ thẩm căn cứ vào đơn
đăng ký đất ngày […] cho rằng bị đơn lấn đất của nguyên đơn và buộc bị đơn phải
trả cho nguyên đơn 80.640.000 đồng là không có căn cứ. Bởi lẽ: […].(Đ3)
Xét kháng cáo của bị đơn không đồng ý trả tiền giá trị đất cho các nguyên đơn
là có căn cứ pháp luật. Bởi lẽ: […].(Đ4)
(Ngữ liệu B29 tr.5)
Ở ví dụ trên, tòa án đưa ra ba lập luận theo quan hệ nhân quả: B bởi lẽ A. Mỗi
một lập luận được tách thành một đoạn để tạo ra sự rõ ràng và dễ theo dõi. Tuy nhiên
lập luận thứ nhất: kết luận (B) và luận cứ (A) lại được tách thành hai đoạn. Nên gộp
(Đ1) và (Đ2) thành một đoạn để tạo sự thống nhất cho phần văn bản và dễ theo dõi
nắm bắt nội dung hơn.
Như vậy, trong tiểu mục này chúng tôi đã phân tích ba ví dụ tiêu biểu cho việc
chia tách đoạn văn không hợp lý xuất hiện trong án văn. Theo chúng tôi, nguyên nhân
của vấn đề này nằm ở chỗ người viết chưa ý thức rõ về tầm quan trọng của tính thống
nhất trong cấu trúc của đoạn văn (như ví dụ 108), hoặc có thể do sao chép một cách
máy móc, thụ động nội dung trong tờ tường trình/lời khai của đương sự (như ví dụ
109), xuống dòng một cách tùy tiện (như ví dụ 110). Việc chia tách đoạn văn không
chỉ dựa vào nội dung ý nghĩa mà còn phải tính đến sự thống nhất, mạch lạc cho toàn
văn bản.
3.5. Tiểu kết
Về mặt xã hội, bản án là văn bản pháp luật có tính quyết định đến tính mạng,
tài sản của con người. Về mặt ngôn ngữ, bản án là một sản phẩm ngôn ngữ đặc trưng
cho thể loại hành chính, công vụ. Bản án được thảo luận công khai và khi công bố tại
phòng xử án thì phát sinh hiệu lực và ràng buộc nghĩa vụ thi hành án. Về mặt pháp lý,
bản án, quyết định khi đã được công bố thì không được sửa đổi, bổ sung trừ trường
hợp có sai sót rõ ràng về số liệu do tính toán và sai lỗi chính tả. Tuy nhiên việc sửa
đổi do sai sót như vậy rất phức tạp, tốn thời gian và làm giảm đi tính thuyết phục của
bản án, giảm đi lòng tin của nhân dân vào chất lượng xét xử. Vì vậy, bản án cần đảm
bảo tính chính xác tuyệt đối trong việc sử dụng ngôn từ và tạo lập ngôn bản để đạt tới
hiệu quả giao tiếp cao nhất, hướng tới chuẩn mực của tiếng Việt.
Tuy vậy, hiện nay ở nước ta vẫn còn những bản án mắc không ít những lỗi cơ
bản về dùng từ ngữ, ngữ pháp và tổ chức văn bản như đã trình bày ở trên. Thực trạng
sử dụng ngôn ngữ như vậy có thể do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, là do bản thân
người viết kém năng lực sử dụng ngôn ngữ. Thứ hai, là do cơ quan chức năng có
thẩm quyền chưa đưa ra những quy định thật cụ thể và chi tiết cho việc viết bản án;
chưa có những bản án mẫu phù hợp với từng lĩnh vực xét xử và nội dung vụ việc…
Để tăng hiệu quả giao tiếp cho án văn, người viết án cần chú ý đến tính chuẩn
mực của ngôn ngữ, tính khuôn mẫu của văn bản và những quy định riêng về tạo lập
văn bản, tránh rơi vào các lỗi đã được phân tích ở trên. Cơ quan chức năng cũng cần
phải theo dõi và ban hành những hướng dẫn chi tiết về cách viết bản án cho từng lĩnh
vực xét xử.
Để khắc phục những lỗi ngôn ngữ trong án văn cần phải có một thời gian dài
và bắt đầu ngay từ gốc rễ của vấn đề. Đó là nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ của
những người viết án trong hiện tại và trong tương lai. Chúng tôi xin đề xuất một số
hướng giải quyết chung như sau:
- Cơ quan chức năng có thẩm quyền cần phải đưa ra những quy định cụ thể, chi
tiết cho việc soạn thảo và xét duyệt bản án.
- Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức ngôn ngữ cho cán bộ ngành tòa án, nhất
là Cán bộ tòa án cấp huyện.
- Cần nâng cao trình độ tiếng Việt cho sinh viên các ngành, vì những đối tượng
này là những người xử lý các vụ án và viết bản án trong tương lai.
- Cần chú trọng đến kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong công tác tuyển chọn,
đánh giá thi đua, khen thưởng và đề bạt cán bộ, chuyên viên ngành tòa án các cấp.
KẾT LUẬN
1. Mặc dù ngôn ngữ luật pháp tồn tại từ lâu và là một phần tất yếu của xã hội
nhưng nghiên cứu về ngôn ngữ luật pháp nói chung và ngôn ngữ án văn nói riêng còn
là một địa hạt rất mới mẻ đối với ngành Việt ngữ học. Nếu ngôn ngữ luật pháp được
nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc thì nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy
sự pháp triển của ngành Luật và của ngôn ngữ tiếng Việt. Luận văn của chúng tôi hi
vọng góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu sự độc đáo, phong phú của tiếng Việt trong
lĩnh vực giao tiếp đặc biệt quan trọng của xã hội: lĩnh vực pháp luật với đối tượng cụ
thể là án văn. Đồng thời luận văn cũng mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới cho những
người quan tâm tới ngôn ngữ trong lĩnh vực này, như: nghiên cứu sâu hơn vào tổ
chức ngôn ngữ trong án văn, nghiên cứu ngôn ngữ luật pháp ở những lĩnh vực khác,
nghiên cứu so sánh đối chiếu ngôn ngữ án văn tiếng Việt với những ngôn ngữ án văn
thuộc loại hình ngôn ngữ khác, nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ án văn với ngôn ngữ
trong những thể loại văn bản pháp lý khác…
2. Đặc điểm ngôn ngữ án văn tiếng Việt được chúng tôi xem xét ở nhiều góc
độ khác nhau như: từ ngữ, ngữ pháp, ngữ dụng, tổ chức văn bản. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân mà việc nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ án văn của luận văn mới chỉ
dừng lại ở mức độ nhất định với những phương tiện ngôn ngữ đặc trưng nhất của án
văn.
Xét về phương diện tổ chức văn bản, án văn có một cấu trúc tương đối chặt chẽ
với những phần, bộ phận liên kết mật thiết với nhau. Cấu trúc của án văn thể hiện ở
hai bình diện: cấu trúc thể loại tiềm năng và cấu trúc phát triển nhận thức. Hai bình
diện này có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với nhau và cùng quy định cách
thức sử dụng ngôn từ cho văn bản. Phương tiện liên kết trong án văn rất đa dạng, tiêu
biểu là phép lặp, phép nối và phép tuyến tính. Những phương tiện liên kết này có vai
trò khác nhau trong từng bộ phận của văn bản. Án văn còn sử dụng ba phương pháp
trình bày nội dung tương ứng với ba phần nội dung của văn bản. Phần “Nhận thấy”
sử dụng phương pháp đưa thông tin. Phần “Xét thấy” sử dụng phương pháp lập luận
và phần “Quyết định” sử dụng phương pháp mệnh lệnh. Nhờ đó, án văn có sự rạch
ròi về chức năng giao tiếp của từng bộ phận.
Xét về mặt từ ngữ, án văn sử dụng một hệ thống thuật ngữ luật pháp liên
ngành, tức là không chỉ có những thuật ngữ thuộc ngành tòa án. Ngoài ra, từ ngữ biểu
thị ý phủ định và khẳng định cũng là một phương tiện ngôn ngữ đắc dụng đối với lập
luận và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giao tiếp của án văn.
Mặt ngữ pháp của án văn cũng có nhiều điểm đặc biệt. Hiện tượng tách biệt cú
pháp là hiện tượng ngữ pháp thường thấy trong các văn bản hành chính – công vụ,
giúp cho nội dung diễn đạt được rõ ràng và người đọc dễ nhận diện. Trong án văn
hiện tượng cú pháp này còn có vai trò liên kết các bộ phận của cấu trúc trong văn bản
khiến văn bản có sự chặt chẽ, thống nhất. Câu tỉnh lược cũng là đặc trưng của án văn
trong việc lập luận và đưa ra nội dung quyết định. Thành phần trạng ngữ và phần phụ
chú trong câu cũng có một vai trò đáng kể đối với việc trình bày nội dung và hiệu quả
giao tiếp của án văn.
Đáng chú ý nhất trong ngôn ngữ án văn là đặc điểm về ngữ dụng.Án văn khi
có hiệu lực và được công bố, nó thực hiện một hành động xã hội.Vì thế trong án văn
có sử dụng loại câu ngôn hành và động từ ngôn hành để thực hiện hành động xã hội;
sử dụng tình thái để phục vụ mục đích giao tiếp.Tình thái trong án văn là loại tình
thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Trong đó tình thái đạo nghĩa được biểu hiện
bằng các phương tiện ngôn ngữ khá đa dạng để tạo lập quyền và ràng buộc nghĩa vụ
cho đối tượng tiếp nhận.
3. Ngoài đặc điểm ngôn ngữ án văn tiếng Việt, luận văn còn dành một chương
để khảo sát thực trạng ngôn ngữ án văn tiếng Việt hiện nay ở các cấp độ ngôn ngữ:
từ, ngữ pháp, tổ chức văn bản căn cứ vào chuẩn chính tả tiếng Việt hiện hành, các
quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, phong cách học tiếng Việt, căn cứ vào những quy định
của pháp luật về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chính… Những vấn đề ngôn
ngữ còn xuất hiện trong án văn có hai loại. Loại thứ nhất là những lỗi ngôn ngữ, như:
lỗi trùng ngữ, dùng sai nghĩa của từ ngữ, dùng dấu câu chưa hợp lý, tách câu tùy tiện,
câu thiếu thành phần chủ ngữ, chia tách đoạn văn không hợp lý…Với từng loại lỗi,
chúng tôi đã chọn lựa những ví dụ tiêu biểu để phân tích và đề nghị cách sửa.Loại thứ
hai là những vấn đề ngôn ngữ còn xuất hiện chưa phải là lỗi nhưng chúng lại xuất
hiện ở nhiều bản án và khiến cho khuôn mẫu bản án thiếu đi sự thống nhất, giảm đi
tính chất trang trọng cần có, giảm khả năng giao tiếp của án văn.Ví dụ như: vấn đề
xưng hô trong án văn không thống nhất, cấu trúc văn bản trong phần “Quyết định”
không thống nhất và có nhiều điểm bất hợp lý…Với loại này, chúng tôi đưa ra ví dụ
để chứng minh và bước đầu đề xuất giải pháp khắc phục chung.
4. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng luận văn đã bước đầu chỉ ra những đặc
trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ án văn tiếng Việt, mở ra một hướng nghiên cứu mới
có ý nghĩa thực tiễn cao.Hy vọng trong tương lai, những điểm còn thiếu sót trong
luận văn sẽ được khắc phục và vấn đề ngôn ngữ án văn tiếng Việt sẽ được nghiên cứu
một cách chi tiết, đầy đủ và sâu sắc hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
3. Bộ Luật Tố tụng Dân sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Luật Tố tụng Hình sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2008),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính phủ (2011), Thông tư 01/2011/TT-BNV.
6. Gilian Brown & George Yule, Phân tích diễn ngôn (Trần Thuật dịch), Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
8. Phan Mậu Cảnh (2000), “Xung quanh kiểu phát ngôn tỉnh lược trong tiếng Việt”,
Ngôn ngữ, (8), trang 16 – 23.
9. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Simon C. Dik (2005), Ngữ pháp chức năng (nhóm biên dịch: Nguyễn Văn Phổ,
Trần Thủy Vịnh, Nguyễn Hoàng Trung, Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh
Phong), Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Đăng Dung, Hoàng Trọng Phiến (1997), Hướng dẫn soạn thảo văn bản,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
13. Nguyễn Đăng Dung, Ngô Đức Tuấn, Nguyễn Thị Khế (1995), Nhà nước và pháp
luật đại cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Đỗ Văn Đại (2009), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đỗ Văn Đại (2010), Tuyển tập các bản án, quyết định của tòa án trong lĩnh vực
trọng tài thương mại, Nxb Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Vũ Xuân Đoàn (2003), “Tổ chức văn bản hợp đồng thương mại quốc tế”, Ngôn
ngữ & đời sống, (6), trang 9 – 13.
18. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt – từ loại, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội
19. Đinh Văn Đức, Kiều Châu (1998), “Góp thêm đôi điều vào việc nghiên cứu danh
ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (1), tr.39 – 46.
20. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Hoàng Văn Hành (1983), “Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt”,
Ngôn ngữ, (4), trang 26 – 34.
22. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
24. Võ Lý Hòa (2009), “Các đặc trưng ngôn ngữ cơ bản của văn bản tóm tắt”, Ngôn
ngữ, (4), trang 29 – 40.
25. Phan Trung Hoài (2002), “Bàn về khái niệm và các tiêu chí của bản án điển
hình”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (5).
26. Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao (2004), Nghị quyết 04/2004/HĐ-
TP.
27. Bùi Mạnh Hùng (2000), “Về một số đặc trưng ngữ nghĩa – ngữ pháp của “những”
và “các””, Ngôn ngữ, (3), trang 16 – 26.
28. Đinh Trọng Lạc (1995), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Liên tịch Bộ Nội vụ - Văn phòng chính phủ (2005), Thông tư 55/2005/TTLT-
BNV-VPCP.
30. Dư Ngọc Ngân (2001), “Về giới ngữ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (1), trang 29 –
35.
31. Hoàng Phê (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.
32. Võ Văn Thành (2009), Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiếng Việt trong
lĩnh vực thương mại, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Thìn (2000), “Quán ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (9), trang 64 – 68.
35. Nguyễn Phú Thọ (2008), So sánh các biện pháp liên kết từ vựng trong văn bản
tiếng Việt và tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Thu (2004), “Hướng tới việc cải cách tư pháp trong năm 2004: Ban hành
mẫu bản án thống nhất trong toàn ngành – Một việc rất cần làm”, Pháp luật,
(2), trang 4.
(2004), “Cách viết bản án còn tùy tiện”, Vietbao.vn, 37. Anh Thư
http://vietbao.vn/An-ninh-phap-luat/Cach-viet-ban-an-hinh-su, ngày 20
tháng 4.
38. Lê Minh Toàn (2003), Pháp luật đại cương (dùng trong các trường ĐH, CĐ và
THCN) (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Hùng Tiến (1999), Một số đặc điểm của ngôn ngữ luật pháp tiếng Việt (có so
sánh đối chiếu với tiếng Anh và ứng dụng trong dịch Việt – Anh), Luận án
tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia, Hà Nội.
40. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
41. Từ điển luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
42. Hoàng Tuệ (1996), “Về vấn đề thành phần câu”, Ngôn ngữ và đời sống xã hội –
văn hóa, Nxb Giáo dục, trang 201 – 211.
43. Nguyễn Xuân Tùng (2009), “Một số suy nghĩ về kỹ năng viết bản án sơ thẩm
hình sự”, tand.hochiminhcity.gov.vn, http://www.tand.hochiminhcity.gov.vn,
ngày 17 tháng 9.
44. Ủy ban KHXHVN (1983), “Các dấu câu”, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, trang 225 – 238.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Nguồn ngữ liệu của luận văn NGỮ LIỆU6 STT Số
trang
A Án hình sự
Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Thuận, Bản án số 08/2009/HSST 21 1
ngày 05/3/2009.
3 Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 69/2008/HSST ngày 2
24/9/2008.
9 Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 03/2009/HSST ngày 3
15/01/2009.
5 Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 08/2009/HSST ngày 4
25/2/2009.
6 Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 11/2009/HSST ngày 5
26/02/2009.
5 Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 14/2009/HSST ngày 6
25/3/2009.
Tòa án Nhân dân tỉnh Long An, Bản án số 02/2010/HSST ngày 17 7
12/01/2010.
6 Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bản án số 01/2009/HSST 8
ngày 12/01/2009.
6 Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bản án số 02/2009/HSST 9
ngày 14/01/2009.
9 Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bản án số 03/2009/HSST 10
ngày 20/02/2009.
Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bản án số 04/2009/HSST 11 11
ngày 23/02/2009.
6 Ngữ liệu được chúng tôi sắp xếp theo trật tự ABC của tên riêng tỉnh, thành phố, huyện.
Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bản án số 05/2009/ HSST 6 12
ngày 04.3.2009.
Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh, Bản án số 186/2008/HSST ngày 18 13
26/11/2008.
Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh, Bản án số 201/2008/HSST ngày 11 14
11/12/2008.
Tòa án Nhân dân tỉnh Tiền Giang, Bản án số 13/2010/HSST ngày 12 15
04/9/2008.
Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Bản án số 04/2010/HSST ngày 15 16
17/03/2010.
Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Bản án số 05/2010/HSST ngày 8 17
19/3/2010.
B Án dân sự phúc thẩm
Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước, Bản án số 18/2008/DS-PT 7 18
ngày 29/12/2008, về việc Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ, Bản án số 263/2008/DSPT 4 19
ngày 20-10-2008, vụ việc Tranh chấp-Đòi nợ theo hợp đồng vay
tài sản.
Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ, Bản án số 274/2008/DS- 6 20
PT ngày 30-10-2008, vụ án tranh chấp Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ, Bản án số 09/2009/HNPT 6 21
ngày 15.4.2009, vụ việc Tranh chấp xin ly hôn.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 429/2008/DSPT 6 22
ngày 18/9/2008, về việc Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 442/2008/DS-PT 4 23
ngày 23/9/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 451/2008/DS-PT 9 24
ngày 26/9/2008 về việc Tranh chấp lối đi và ranh giới Quyền sử
dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 465/2008/DS-PT 5 25
ngày 29/9/2008 về việc Tranh chấp Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 532/2008/DS-PT 5 26
ngày 04/12/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 549A/2008/DS-PT 4 27
ngày 23/12/2008 về việc Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức
khỏe.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 89/2009/DS-PT 6 28
ngày 11/3/2009 về việc Tranh chấp Quyền sở hữu nhà và Quyền
sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 176/2009/DSPT 8 29
ngày 13/5/2009 về việc Tranh chấp ranh giới Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 222/2009/DS-PT 7 30
ngày 25/6/2009 về việc Bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 264/2009/DSPT 6 31
ngày 27/7/2009, về việc Tranh chấp ranh giới Quyền sử dụng
đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 377/2009/ DS-PT 6 32
ngày 22/10/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 384/2009/DSPT 6 33
ngày 28/10/2009 về việc Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng
Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Hậu Giang, Bản án số 46/2010/DS-PT 5 34
ngày 19/4/2010 về việc Tranh chấp Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 14 35
1153/2008/DS-PT ngày 22/9/2008 về việc Tranh chấp Quyền sử
dụng đất.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 7 36
1688/2009/DS-PT ngày 07/9/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 10 37
2121/2009/HN-PT ngày 27/10/2009, về việc Ly hôn và tranh
chấp tài sản.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 15 38
123/2010/DS-PT ngày 20/02/2010 về việc Tranh chấp hợp đồng
thuê nhà.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 9 39
197/2010/DS-PT ngày 02/3/2010 về việc Tranh chấp tài sản
chung và hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Bản án số 58/2010/DS-PT về 6 40
việc Tranh chấp Quyền sử dụng đất.
Án dân sự sơ thẩm C
Tòa án Nhân dân tỉnh Bến Tre, Bản án số 04/2009/DS-ST ngày 5 41
17/12/2008 về việc Đòi tài sản.
Tòa án Nhân dân quận Bình Thủy thành phố Cần Thơ, Bản án số 5 42
79/2008/DSST ngày 28/5/2008 về việc Tranh chấp Quyền sử
dụng đất.
Tòa án Nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp, Bản án 10 43
số 62/2008/DS-ST ngày 17/6/2008 về việc Tranh chấp QUYềN
Sử DụNG ĐấT và tranh chấp thừa kế QUYềN Sử DụNG ĐấT
theo di chúc.
Tòa án Nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp, Bản án 5 44
số 106/2008/DS-ST ngày 29/9/2008 về việc Tranh chấp ranh đất.
Tòa án Nhân dân thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp, Bản án 5 45
số 115/2009/DS-ST ngày 25/12/2009 về việc Tranh chấp ranh
giới quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 5 46
02/2008/DSST ngày 02/10/2008 về việc Tranh chấp nhà và
Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 3 47
72/2008/DSST ngày 18/7/2008 về việc Hợp đồng vay
Tòa án Nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 4 48
59/2008/DSST ngày 15/7/2008 về việc Đòi lại quyền sử dụng
đất.
Tòa án Nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 8 49
51/2008/DSST ngày 26/9/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 5 50
31/2009/DS-ST ngày 27/3/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhà.
Tòa án Nhân dân huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, Bản án số 5 51
55/2009/DS-ST ngày 27/8/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, Bản án số 3 52
135/2008/DSST ngày 21/07/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng
thuê Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 9 53
1268/2008/DS-ST ngày 20/8/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng
thuê nhà.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 15 54
2584/2009/DS-ST ngày 09/9/2009 về việc Tranh chấp thừa kế.
Tòa án Nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 7 55
55/2008/DS-ST ngày 04/11/2008 về việc Tranh chấp quyền sử
dụng đất ở.
Tòa án Nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 8 56
30/2009/DS-ST ngày 17/6/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản.
Tòa án Nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 11 57
40/2009/HNGĐ-ST ngày 14/8/2009 về việc Ly hôn và tranh chấp
tài sản.
Tòa án Nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, 16 58
Bản án số 52/BA/2008/DSST-ST ngày 10/10/2008 về việc Tranh
chấp quyền sử dụng đất lối đi chung.
Tòa án Nhân dân huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án 7 59
số 61/2009/DSST ngày 25/02/2009 về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng Quyền sử dụng đất.
Tòa án Nhân dân huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án 20 60
số 286/2009/DSST ngày 30/7/2009 về việc Tranh chấp tài sản
chung và hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất.
Án kinh tế phúc thẩm D
Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai, Bản án số 04/2008/KDTM-PT 6 61
ngày 11/4/2008 về việc Đòi BTTH trong HĐ vận chuyển.
Tòa án Nhân dân Tối cao - Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí 6 62
Minh, Bản án số 72/2008/KDTM-PT ngày 23/5/2008 về việc
Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ về tên thương mại.
Tòa án Nhân dân Tối cao - Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí 10 63
Minh, Bản án số 05/2009/KDTM.PT ngày 12-01-2009 về việc
Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng công nghiệp.
Án kinh tế sơ thẩm E
Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Bản án số 9 64
04/2008/KDTM-ST ngày 26/9/2008 về việc Tranh chấp hợp đồng
tín dụng.
Tòa án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 07/2008/KDTM-ST 7 65
ngày 07/10/2008 về việc Tranh chấp về hợp đồng kinh doanh
thương mại Tín dụng ngân hàng.
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 5 66
1750/2008/KDTM-PT ngày 27/10/2008 về việc Tranh chấp hợp
đồng tín dụng.
Án hành chính F
Tòa án Nhân dân tỉnh Long An, Bản án số 05/HCPT ngày 4 67
02/04/2004.
Án lao động G
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 11 68
1792/2008/LĐ-ST ngày 04/11/2008 về việc Đơn phương chấm
dựt hợp đồng lao động.
Quyết định H
Tòa án Nhân dân Tối cao tại phía Nam, Quyết định Giám đốc 5 69
thẩm số 105/GĐT-DS ngày 30 tháng 5 năm 2003
Tòa án Nhân dân Tối cao tại phía Nam, Quyết định kháng nghị 3 70
số 191/2010/KN-DS, ngày 26 tháng 3 năm 2010 Đối với bản án
dân sự phúc thẩm số 46/2009/DSPT ngày 27/02/2009 của Tòa án
Nhân dân tỉnh Bình Dương
Tòa án Nhân dân Tối cao, Quyết định kháng nghị số 2 71
127/2010/KN-DS, ngày 10 tháng 3 năm 2010 Đối với bản án dân
sự phúc thẩm số 512/2008/DSPT ngày 17/9/2008 của Tòa án
Nhân dân tỉnh Bến Tre.
Tòa án Nhân dân Tối cao, Quyết định kháng nghị số 3 72
128/2010/KN-DS, ngày 10 tháng 3 năm 2010 Đối với bản án dân
sự phúc thẩm số 537/2008/DSPT ngày 30/9/2008 của Tòa án
Nhân dân tỉnh Bến Tre.
Tòa án Nhân dân Tối cao – Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí 2 73
Minh, Quyết định số 73/2008/QĐ-PT.
Tòa án Nhân dân Tối cao – Tòa phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí 3 74
Minh, Quyết định số 35/2010.
Phụ lục 2: Một số ngữ liệu tham khảo
Ngữ liệu số A10
Ngữ liệu số A16
Ngữ liệu số B37
Ngữ liệu C41
Ngữ liệu số D63
Ngữ liệu E66
Ngữ liệu số H69