Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông
lượt xem 10
download
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu từ góc độ Triết học, Tôn giáo học để làm rõ vị trí, nội dung của những tư tưởng đạo đức Tam giáo, hay của từng giáo phân tích vai trò và ảnh hưởng của một số nội dung cơ bản đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông và chỉ ra ý nghĩa của việc tiếp biến những tư tưởng ấy đối với việc xây dựng nền đạo đức xã hội con người Việt nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN THỊ CHÂM (Thích Đàm Luyện) ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC LÊ THÁNH TÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN THỊ CHÂM (Thích Đàm Luyện) ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC LÊ THÁNH TÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành : Tôn giáo học Mã số : 60.22.90 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới HÀ NỘI – 2010
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 *. Lý do chọn đề tài 1 1. Tình hình nghiên cứu đề tài 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Cơ sở lý uận và phương pháp nghiên cứu 6 5. Đóng góp của luận văn 6 6. Ý nghĩa của luận văn 6 7. Kết cấu của luận văn 7 Chương I SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TAM GIÁO TẠI VIỆT 8 NAM ĐẾN TRƯỚC THỜI LÊ THÁNH TÔNG. 1.1. Sự du nhập Tam giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam 8 (Đến trước thời Lê Thánh Tông). 1.2. Một số quan niệm về vai trò, vị trí đạo đức trong 31 Tam giáo đồng nguyên. Chương II MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ 39 TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA LÊ THÁNH TÔNG. 2.1. Cơ sở khách quan và chủ quan của sự ảnh hưởng 39 Tam giáo về đạo đức của Lê Thánh Tông. 2.2. Nội dung ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo 58 đức người cầm quyền của Lê Thánh Tông. 2.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo 58 2.2.2. Ảnh hưởng của Phật 73 2.2.3. Ảnh hưởng của Đạo giáo 75 2.3. Ý nghĩa của việc tiếp biến Tam giáo trong tư tưởng 86 đạo đức Lê Thánh Tông đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay. KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
- MỞ ĐẦU *. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tam giáo Nho, Phật, Đạo là các học thuyết chính trị- xã hội, đạo đức Tôn giáo từ bên ngoài đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, Tam giáo đã dần dần thâm nhập gắn bó mật thiết với đời sống- văn hóa tinh thần và đặc biệt là trong quan niệm tư tưởng đạo đức của người Việt Nam. Qua quá trình tiếp biến lâu dài, nhiều yếu tố tư tưởng đạo đức Tam giáo đã dần được giai cấp Phong kiến Việt Nam tiếp nhận, đề cao và có sự tái cấu trúc hòa nhập với văn hóa Việt Nam, ăn sâu vào thói quen, tâm lý, phong tục tập quán người Việt, nên đây đã là hướng nghiên cứu quan trọng thu hút sự chú ý của nhiều học giả với nhiều công trình có giá trị. Trong thời kỳ phong kiến Ngô - Đinh tiền Lê - Lý - Trần trước thời Lê, với việc qui định tiếp biến các yếu tố kế thừa tư tưởng Tam giáo thông qua bộ lọc là tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc mà giai cấp phong kiến Việt Nam đã dần dần xây dựng được một hệ tư tưởng cho nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, củng cố độc lập, xây dựng nền văn hóa dân tộc và đào tạo nhân tài cho đất nước. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và củng cố đất nước Việt Nam mà các yếu tố của Nho, Phật, Đạo đã được Lê Thánh Tông rất coi trọng và sử dụng trong đường lối trị nước của mình, vì thế đây là những chủ đề quan trọng đã được tiếp cận từ nhiều góc độ riêng rẽ cụ thể của giới nghiên cứu … Tuy nhiên, đến nay trong điều kiện mới của khoa học xã hội và nhân văn đã đến lúc tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề tư tưởng của ông dưới góc độ liên ngành Triết học, Tôn giáo học vẫn là cần thiết. Và vấn đề ảnh hưởng Tam giáo đến tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông có ý nghĩa mới mẻ, cần được đi sâu tìm hiểu một cách hệ thống. Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, được sinh ra ở bên ngoài cung cấm, tại chùa Huy Văn ( hiện nay ở phía trong ngõ Văn Chương, Tôn Đức Thắng, 1
- quận Đống Đa, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ, cho đến năm lên 4 tuổi, mẹ của Vua Nhân Tông buông rèm chính sự, mới đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên Vương cho ở nhà Thái Phiên để hàng ngày cùng Nhân Tông và các Phiên Vương khác học tập tại tòa Kinh Diên. Chính từ đây, Lê Thánh Tông được học tập, tiếp xúc với tư tưởng, tinh thần của Tam giáo. Trong thời đại Lê sơ hào khí, kế thừa những tư tưởng yêu nước thương dân sâu sắc kết hợp với lòng nhân ái của Đạo Phật, đạo đức toàn thiện của Đạo Nho tư tưởng phóng khoáng của Đạo Lão Trang đã thấm nhuần vào ông từ tấm bé, hình thành nên nhân cách một ông Vua anh minh, nhân đức làm nên triều đại Lê Thánh Tông trị vì với tinh thần thượng quốc, thương dân, có trật tự gia phong và kỷ cương xã hội. Những yếu tố tư tưởng đạo đức Tam giáo về : Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng, Từ, Bi, Hỉ, Xả, “Vô Vi” các giá trị đó… đã được Lê Thánh Tông tiếp biến, phát triển và trở thành đường lối trị nước bằng đạo đức của mình. Với cốt lõi là tinh thần dân tộc Lê Thánh Tông đã kế thừa các góc độ Tam giáo có thể nói Tam giáo được tiếp nhận chủ động đã có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông. Tuy nhiên vấn đề là ảnh hưởng của Tam giáo trong tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông rất đậm nét nhưng chúng đã được khúc xạ, tiếp nhận như thế nào, để Tam giáo chính là một cơ sở quan trọng góp phần làm nên khía cạnh nhân văn của đường lối đức trị ở Lê Thánh Tông. Ảnh h- ưởng đó không phải là tất cả mà đã có sự tái cấu trúc, kết hợp tổng hợp theo cách như thế nào. Những vấn đề này rất cần được tiếp tục làm sáng tỏ từ góc độ Triết học, Tôn giáo học. Trong bối cảnh hiện nay, văn kiện Đảng ta nhận định: Trong bộ máy chính trị, sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên biểu hiện tập trung ở tình trạng tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của xã hội, bên cạnh đó những thang bậc đạo đức xã hội đang có chiều hướng suy thoái, lối sống gấp thực dụng, hưởng thụ tiêu dùng theo chủ nghĩa cá nhân chưa bị ngăn chặn … do đó trở lại tìm hiểu cách thức tiếp 2
- nhận ảnh hưởng từ bên ngoài của tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông để kế thừa có phê phán, chọn lọc những giá trị tư tưởng đạo đức nhân văn của Lê Thánh Tông lại càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay. Những lý do trên cho thấy rõ việc nghiên cứu “ ảnh hưởng của Tam giáo đối với tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông ”là vấn đề cần thiết nhằm chỉ ra được những giá trị tích cực cần kế thừa tiếp thu có chọn lọc để vận dụng góp phần vào xây dựng nền đạo đức, chính trị con người Việt Nam trong thời đại mới. Hơn nữa với tâm nguyện riêng là một người tu sĩ tu hành tại chùa Huy Văn, với lòng thành kính Vua Lê Thánh Tông, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu này với mong muốn có những am hiểu sâu sắc hơn tư tưởng của vị Vua được thờ phụng tại đây. 1. Tình hình nghiên cứu đề tài Như chúng ta đã biết, vấn đề tìm hiểu nội dung tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và ảnh hưởng riêng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đến tư tưởng của Lê Thánh Tông từ trước đến nay đã và đang thu hút được một số nhà nghiên cứu quan tâm, mặc dù không nhiều, song vấn đề này đã có những công trình, bài viết được đánh giá cao. Trong đó phần lớn các tác giả chú ý đề cập đến vấn đề nội dung của các phẩm chất đạo đức Nho giáo như Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng … được Lê Thánh Tông tiếp biến và thể hiện nhiều qua thơ, văn của ông. Tuy nhiên, khi đánh giá về các nội dung đó thường tiếp cận từ góc độ khoa học riêng rẽ cụ thể: sử học, văn học, nghệ thuật học, chính trị học, văn hóa học. Các nội dung khác của tư tưởng đạo đức Phật giáo, Đạo giáo biểu hiện ở Lê Thánh Tông còn chưa được khai thác nhiều, chẳng hạn: Ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo đến quan niệm về vai trò, vị trí của đạo đức, con đường hình thành lối sống có đạo đức lý tưởng, con đường xây dựng con người có đạo đức toàn thiện (siêu việt) … là những vấn đề trọng yếu phổ quát chung của tư tưởng đạo đức Tam giáo được ông tiếp biến khá thành công, nhưng trong các công trình đó chưa được chú ý đi 3
- sâu, sự nhìn nhận đánh giá về các vấn đề đạo đức Tam giáo còn trên nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau, thậm trí trái ngược nhau. Cho nên, chúng tôi hiểu rằng tiếp tục việc xem xét lại những ảnh hưởng tư tưởng đạo đức trong học thuyết của Tam giáo ở Lê Thánh Tông và vị trí, ý nghĩa của mỗi giáo trong từng giai đoạn lịch sử của cuộc đời Lê Thánh Tông và vận dụng bài học, giá trị tư tưởng tích cực chủ động của ông vào hoàn cảnh thực tiễn hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu từ chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học là việc làm cần thiết. Từ trước và đặc biệt sau đổi mới, tìm hiểu về Tam giáo, nhất là ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam trong đời sống chính trị, đạo đức đã được giới nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà cả nước ngoài đề xuất một cách sôi nổi, nhiều công trình biên soạn và khảo cứu xoay quanh vấn đề điều kiện du nhập, phát triển, giá trị, vai trò, đặc điểm tư tưởng chính trị đạo đức Nho giáo trong lịch sử. Riêng về nghiên cứu sâu ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Lê Thánh Tông cũng có một số công trình, bài viết như : “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư (chủ biên - chương Tư tưởng thời Lê), sách “Lê Thánh Tông - vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại ” do Lê Đức Tiết tái bản, có bổ sung. Nxb. Tư pháp, 2007, sách tuyển “Lê Thánh Tông - về tác giả và tác phẩm” Tuyển chọn, giới thiệu: Bùi Duy Tân. Lại Văn Hùng Nxb. Giáo dục, 2007; Góp phần tìm hiểu cách chia phiên trong chính sách “Ngụ binh ư nông” thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497)” của Hà Duy Biển; “Vua Lê Thánh Tông và cải cách tổ chức bộ máy thời hậu Lê” của Minh Đạt; thơ “Lê Thánh Tông” của Lâm Giang dịch, Nxb. Kim Đồng, 2001; “Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh” sách của Nguyễn Hoài Văn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2002 … Qua đây có thể thấy, nhìn chung, các tác giả mới tập trung chú ý nghiên cứu nhìn ảnh hưởng riêng Nho giáo đến Lê Thánh Tông dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, song nghiên cứu một cách tổng hợp vấn đề “ảnh hưởng 4
- của Tam giáo ở tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông” (Để khẳng định điều này thì chưa có đủ điều kiện, nhưng trong góc độ tư tưởng Lê Thánh Tông vẫn khẳng định có những ảnh hưởng Tam giáo theo mức độ đậm nhạt khác nhau) và chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức đạo đức Tam giáo đối với tư tưởng đạo đức chính trị Lê Thánh Tông từ đó rút ra bài học nhằm vận dụng và đánh giá vai trò của chúng đối với việc xây dựng nền đạo đức con người mới ở nước ta hiện nay từ góc độ Triết học, Tôn giáo học thì chưa được quan tâm nhiều đề nghiên cứu một cách tổng hợp hệ thống đầy đủ. Bởi những lý do đó mà chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu từ góc độ Triết học, Tôn giáo học để làm rõ vị trí, nội dung của những tư tưởng đạo đức Tam giáo, hay của từng giáo phân tích vai trò và ảnh hưởng của một số nội dung cơ bản đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông và chỉ ra ý nghĩa của việc tiếp biến những tư tưởng ấy đối với việc xây dựng nền đạo đức xã hội con người Việt nam hiện nay. 2.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có ba nhiệm vụ : - Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Tam giáo, đặc điểm sự du nhập và ảnh hưởng của chúng vào Việt Nam đến trước thời Lê Thánh Tông. - Phân tích làm rõ những ảnh hưởng quan niệm Tam giáo đối với tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông ở một số nội dung cơ bản. - Chỉ ra ý nghĩa sự vận chúng vào việc xây dựng nền đạo đức con ng- ười Việt nam thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước từ góc độ chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: 5
- Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học tìm hiểu ảnh hưởng của quan niệm Tam giáo đến tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu : Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học Nghiên cứu một số nội dung cơ bản của quan niệm đạo đức Tam giáo và những ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng đạo đức chính trị của Lê Thánh Tông chủ yếu qua thơ văn của ông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay . 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, quan điểm chủ nghĩa Mác như: Quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Cơ sở lý luận của luận văn còn dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Tôn giáo, kế thừa biện chứng các giá trị truyền thống của dân tộc. 4.2 . Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp giữa việc sử dụng phương pháp chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu sử dụng phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh với việc sử dụng một số phương pháp liên ngành Triết học, Tôn giáo học, Triết học văn hoá. 5. Đóng góp của luận văn - Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học luận văn làm sáng tỏ thêm về cơ sở hình thành giá trị, nội dung tư tưởng đạo đức của Tam giáo và ảnh hưởng của chúng tại Việt Nam. - Phân tích làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản ảnh hưởng Tam giáo đến tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông, giá trị sự tiếp nhận ảnh hưởng của tư 6
- tưởng đạo đức Tam giáo ở Lê Thánh Tông và sự vận dụng những tư tưởng đó trong việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa của luận văn Ý nghĩa lý luận: Góp phần tìm hiểu về những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức của Tam giáo ở Lê Thánh Tông và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Tôn giáo học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung chính của luận văn gồm 2 chương 5 tiết 7
- Chương I SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TAM GIÁO TẠI VIỆT NAM ĐẾN TRƯỚC THỜI LÊ THÁNH TÔNG 1.1. Sự du nhập Tam giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam đến trước thời Lê Thánh Tông. Lịch sử tư tưởng Việt Nam có hai giai đoạn. Từ khi nước ta tiếp xúc với Phương Tây, du nhập tư tưởng phương Tây tức là giữa thế kỷ XIX cho đến nay, đó là thời đại mới, tư tưởng Việt Nam tiếp cận và hòa vào dòng tư tưởng đồng đại của thế giới. Đối với giai đoạn mới nghiên cứu vấn đề nội dung tư tưởng tương đối thuận lợi. Đó là nội dung đối tượng và phương pháp chung tương tự như khi nghiên cứu tư tưởng triết học cận hiện đại của các nước. Nhưng với giai đoạn trước đây thì công việc phức tạp hơn. Nghiên cứu tư tưởng Lê Thánh Tông ở thời kỳ này cũng đặt ra rất nhiều vấn đề nhưng không giống cách ở Phương tây, nơi đã cung cấp cơ sở để hình thành phương pháp nghiên cứu hiện đại mà chúng ta đã sử dụng phổ biến. Cần chú ý, trong Bắc Thuộc và thời gian Phong kiến độc lập đến trước Lê Thánh Tông dài ước tính từ thế kỷ II sau công nguyên cho đến thế kỷ XV, nước ta có sự tiếp biến hỗn dung của Tam giáo, du nhập từ Trung Quốc vào. Tam giáo Nho, Phật, Đạo có thay thế nhau giữ vai trò quan trọng nhưng thực tế đời sống là cả ba có kết hợp với nhau, thẩm thấu vào nhau, chia phạm vi với nhau, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh Tam giáo còn là sự song song tồn tại của cách suy nghĩ dân gian để dấu vết lại trong các truyện kể và kết tinh trong tục ngữ, ca dao… Cũng cần nói đến ảnh hưởng khác nữa của các học thuyết âm dương, Ngũ hành, cách phân tích thời, thế …Chúng cũng là những tư tưởng du nhập chủ yếu từ Trung quốc và cũng tồn tại không hoàn toàn độc lập với Tam giáo, các dòng đan xen tư tưởng đó ảnh hưởng lớn đến các tư tưởng tri thức chính trị và đạo đức, cách suy nghĩ, tính toán trong cuộc sống, sự kết hợp uyển chuyển giữa Nho, Phật, Đạo, giữa Tam 8
- giáo với cách suy nghĩ tính dân gian, giữa những thứ đó với Âm dương, Ngũ hành, để tổng hợp chung nhất thành quan niệm người Việt Nam về thế giới, quan niệm về con người, cuộc sống, quan niệm sự vận động, sự đổi thay lịch sử … Sự hỗn dung đó mới đúng là cách tư duy Việt Nam mà rõ ràng Lê Thánh Tông cũng không ngoại lệ này. Bởi vậy tư tưởng Lê Thánh Tông Việt Nam không chỉ là cái “thổ sản” “thuần Việt”, mà còn tiếp biến nhiều cái từ ngoài đến, có khi được cải tạo, có khi để nguyên dạng, nhưng đều được sắp xếp theo một cách nào đó hay sử dụng theo một cách nào đó, cái này mới là mấu chốt của bản lĩnh Việt Nam và ưu nhược điểm của cái này mới là cái chi phối sâu xa tư duy Việt Nam nói chung, tư duy Lê Thánh Tông nói riêng. Nho giáo từ thế kỷ II về sau dần dần ảnh hưởng chủ đạo đều từ Trung Quốc truyền vào nước ta, Nho giáo được truyền bá với sự xâm lược quân sự từ đời Hán, với chính quyền Phương Bắc đô hộ hàng ngàn năm và với những lớp người Hán tỵ lạn sang Giao Châu, mảnh đất lúc ấy yên ổn hơn nội địa. Song những người Hán quan lại hay không phải quan lại đã mang đến đây cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Riêng đối với Phật giáo thì tình hình du nhập có khác một chút. Nằm trên con đường biển từ Ấn Độ sang phương Đông Nam và Trung Quốc, vùng ven biển nước ta đã . Cuối đời Hán, Luy lâu (Thuận Thành - Hà Bắc) đã là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh trung tâm Luy Lâu còn ra đời trước cả trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Quốc, và về đường biển có phần thì Phật giáo từ Việt Nam mà vào Trung quốc, thế nhưng đối với chính quyền và lớp trí thức thượng lưu thuộc người Hán vào mấy thế kỷ sau thì Phật giáo ở đây cũng đã phát triển theo ảnh hưởng Phật giáo từ Trung Quốc. Ở Trung Quốc từ Hán Võ Đế đã tìm ra phương thức Nho Pháp tĩnh dụng cho việc trị nước, bảo vệ chế độ chuyên chế. Tư tưởng, học thuật Tôn giáo ở Trung Quốc trong tình hình đó về sau cũng phát triển theo xu hướng dung hợp Phật, Đạo, Hoàng Lão- âm dương - ngũ hành với Nho giáo. Tuy về sau ở Trung Quốc Nho giáo 9
- được tôn làm quốc giáo, cũng đến đấy từ Hán, mới có điều kiện để tiến hành việc tổng hợp hệ thống hóa: xác định thành phần kinh điển, xác định văn bản và giải thích chính thức các luận điểm. Gói hành lý tinh thần mà các nhà trí thức Trung Quốc mang vào vùng đất mới Giao Châu cũng là hỗn tạp như vậy. Nhưng liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong xứ sở Phương Nam còn cư dân vốn giữ nguyên tổ chức công xã làng quê với những phong tục, tín ngưỡng của mình ? Và nền học thuật Hán hoá đó quan hệ như thế nào với Phật giáo từ Ấn Độ đã có thời gian du nhập trước để bám rễ vào nhân dân? Nên điều đáng chú ý là Nho giáo tuy vào sớm và chắc chắn được bộ máy thống trị ưu tiên truyền bá - chứng cớ là những điều sử sách ghi chép về sự nghiên cứu của Nhâm Diến, Tích quang, Sỹ Nhiếp thế nhưng trong thực tế thì nó phát triển chậm, chậm so với Phật giáo và Đạo giáo. Qua Ngô, Đinh, Tiền Lê, mãi đến thế kỷ XI, nhà Lý mới xây dựng Văn Miếu, tổ chức thi cử Tam giáo. Tuy vậy, các Vua nhà Lý và cả nhà Trần nữa, vẫn tìm chỗ dựa chính ở Phật giáo. Từ thế kỷ XV với nhà Lê sơ Nho giáo trở thành độc tôn, chi phối mọi mặt hoạt động, độc tôn là nói Nho giáo trong khoa cử thay Phật giáo, nhà Nho thay nhà sư trong đời sống chính trị nhà nước, còn thực tế trong xã hội thì Phật giáo, Đạo giáo vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân và cả trong tư tưởng Vua quan, nhất là tư tưởng đạo đức. Tại Trung Quốc Nho giáo vốn không phải thuần nhất, có hệ thống chặt chẽ, do yêu cầu thực tiễn càng về sau, khi đồng chức năng ý thức hệ và Tôn giáo chính thống, để giải đáp nhiều vấn đề thực tế và ứng phó với các học thuyết khác (nhất là Phật giáo) Nho giáo lại càng phải vay mượn, dung hợp nhiều thứ hơn. Nhà Nho, nhất là nhà Nho từ Đường Tống về sau, càng ít thuần nhất; trong tư tưởng của họ hội cả thành phần âm dương, Lão Trang, Phật thường là không nhỏ, thứ Nho giáo thời lê được truyền bá vào và có ảnh hưởng nhiều ở Việt Nam sau Minh là thứ Nho giáo hậu kỳ- Sau Tiên Tần, Hán-Tống Nho- Minh Nho. Trong lịch sử Nho giáo ở Trung quốc từ thời Xuân thu, Chiến quốc cho đến trước Tần- Hán việc học tập kinh điển tiến 10
- hành theo lối sư truyền trực tiếp, ảnh hưởng khá rộng rãi. Sau nạn đốt sách của nhà Tần, triều đình nhà Hán mới sưu tập kinh điển, đặt các chức Bác sỹ ngũ kinh để giảng dạy và tiến hành với quy mô lớn và lâu dài việc xác định thành phần kinh điển, văn bản và nội dung kinh điển. Đến đời Hán Linh đế (Hy bình năm thứ 4) mới chọn định bản khắc vào bia, đá dựng trước nhà Thái học. Qua một thời gian loạn ly dài, nhất là do tình hình phân tranh Nam Bắc từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, các luận giải kinh điển Nho học ý kiến đã trở thành rất phân tán. Đường Thái Tông lại sai Khổng Dĩnh Đạt cùng một số ng- ười khác soạn Ngũ kinh chính nghĩa để thống nhất kinh điển một lần nữa. Từ Hàn Dũ (768 - 824) đời Đường đến đời Tống có một xu hướng khôi phục lại, tổng hợp mới Nho, Phật, Đạo để Nho giáo đủ sức đối lập với Phật giáo và Đạo giáo phát huy vai trò ý thức hệ và phát triển cùng với ý nghĩa là Tôn giáo kết tinh lại thành học thuyết Tống Nho với các tên tuổi nổi bật là Chu Hy (1130 - 1200) và Trình Hạo, Trình Di. Về mặt lịch sử tư tưởng, ở đời Tống, Trình- Chu không phải là phái duy nhất, cũng không phải là phái tiến bộ nhất, nhưng đáng nói là ảnh hưởng của phái đó ngay từ đời Nguyên, ở Phương Nam đã rất lớn. Đến đời Minh mà dòng họ trị vì là con cháu Chu Hy, thì các giải thích kinh điển của Chu Hy được coi là chính thống. Năm 1414 Minh Thành Tổ giao cho Hồ Quảng biên soạn Tính Lý đại toàn, trình bày học thuyết Lý học một cách hệ thống Tống Nho. Trong lịch sử tư tưởng nước ta thời Bắc Thuộc thứ Nho giáo thời Hán, đời Đường chắc cũng vào nước ta nhưng ảnh hưởng chỉ hạn chế trong đám người Hán di cư. Còn Tống nho thì do sự tiếp xúc khá mật thiết của nước ta dưới thời Lý-Trần với phương Nam Trung Quốc, do sự đô hộ của nhà Minh, nên ảnh hưởng từ đấy nhanh chóng và rộng rãi hơn. “Đại Việt sử ký toàn thư ” chép: “ Năm Kỷ hợi (1419). Mùa xuân, tháng hai. Nhà Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện âm chất, hiếu thuận sự thực cho Nho học các phủ, châu, huyện. Đến năm 1435 nhân có phái đoàn sang chúc mừng vua Minh lên ngôi, vua Nhà Minh 11
- lại ban sách Tứ thư đại toàn mới in xong. Cũng cần nhắc đến quy định khoa cử trong chiếu định khoa thi của Lê Thái Tông năm 1434 có quy định môn thi “kỳ thi thứ nhất một bài kinh nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài”. Việc tách hai thiên Trung dung, Đại học trong Lễ ký thành sách, phân chương mục, chú thích và đưa hai quyển đó vào Kinh điển như Ngũ kinh là việc làm của Trình Di và Chu Hy. Đến đời Nguyên Nhân Tông (1312 - 1320) thì sách Tứ thư thành kinh điển dùng cho việc thi cử. Ở nước ta từ năm 1396 cũng bắt đầu “theo phép thi của nhà Nguyên”cũng cần nhắc là trước đó đời Trần Chu văn An đã soạn Tứ thư thuyết ước. Từ đó cho đến thế kỷ XV uy tín của Trình Chu trong việc giải thích kinh điển là tuyệt đối trong quy định khoa cử của nhà Lê sơ và được cố gắng duy trì về sau. Cần chú ý tuy rằng Nho giáo được độc tôn không có nghĩa là Phật giáo, tư tưởng lão Trang và Đạo giáo bị phủ định hoàn toàn, chính ngay về mặt nội dung từ Hán nho đến Tống Nho, Minh Nho là một quá trình hỗn dung. Tống nho là một hệ thống hỗn hợp Nho Phật Đạo. Tại Việt Nam tuy có sự khác biệt về mặt vai trò trong đời sống tinh thần xã hội hầu như đã thành sự thỏa thuận ngầm với nhau giữa Tam giáo về một sự “phân công” phân lĩnh vực vùng ảnh hưởng. Từ thời Lê sơ, Nho giáo được nhà nước đề cao ở Triều đình có vai trò cốt yếu dành toàn quyền trong việc học hành thi cử - với ý nghĩa đào tạo nhân tài cho bộ máy hành chính nhà nước quan liêu phong kiến . Nhưng trong các địa hạt khác như tâm linh đạo đức xã hội, văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng tâm linh … Tam giáo song song tồn tại. Vẫn còn có những địa hạt, có những địa phương Nho giáo không phải là có thế lực nhất. Trong một con người - kể cả nhà Vua như Lê Thánh Tông - về mặt chính trị, ông chịu sự chi phối chủ đạo của tư tưởng Nho giáo, nhưng về mặt tâm linh, đạo đức, tín ngưỡng, lối sống … nhiều khi ông chịu ảnh hưởng tổng hợp Nho- Phật - Đạo và tín ngưỡng bản địa. Điều cần đặc biệt lưu ý là từ khi các triều đại giành được độc lập, chấm dứt sự đô hộ của phong kiến Trung Quốc, thì cũng không thể “tự do” xóa bỏ 12
- những tổ chức, thể chế đã hình thành mẫu số chung của khu vực qua hàng ngàn năm Bắc Thuộc. Các triều đại Lý- Trần -Lê đều đã kế thừa và bắt chước cách tổ chức chính quyền Nhà nước đáp ứng yêu cầu giữ vững chủ quyền độc lập, xây dựng và bảo vệ đất nước cùng với chế độ chọn người bằng khoa cử Nho học theo kiểu Trung Quốc. Ở Triều đình Nho giáo tỏ ra thích dụng với mô hình tổ chức nhà nước trung ương tập quyền cao độ. Song Xã hội Việt Nam vẫn tiếp tục bảo lưu các tế bào cơ sở là cộng đồng làng xã tự trị, tôn tộc thì tuy trong hệ tư tưởng chính trị thì càng ngày Nho giáo tỏ ra có ưu thế nhất, thích hợp nhất. Nho giáo giúp các triều đại đó nhất là ở thời Lê Thánh Tông củng cố sự thống trị mà cũng giúp nó củng cố sự thống nhất Đất nước. Các vị Minh quân và cả những nhà yêu nước lớn như Chu Văn An, Nguyễn Trãi đều rất chăm lo, phát triển Nho giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích đạo lý Nho học … đều theo lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo. Việc phát triển Nho học ngày một rõ nét thời Lê Thánh Tông, đưa nhà Nho vào chính trường cầm quyền thay thế nhà sư và quý tộc, kéo dài từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XV, cho ta thấy xu hướng ảnh hưởng chung ngày một đậm Nho Hán nho, Tống nho. Từ khi độc lập về tư tưởng thực tế học hỏi tiếp biến Tam giáo không chỉ là xu thế ở việc Phật giáo Thiền tông Trung Quốc thay cho Phật giáo chịu ảnh hưởng Ấn Độ, mà còn ở việc Hán Tống Nho có ảnh hưởng càng ngày càng sâu rộng trong thời độc lập mà còn cả ở việc sau này xu thế tông phái Lâm tế của Phật giáo Trung Quốc được truyền bá phổ biến cả ở Bắc Hà và Nam Hà vào quãng thế kỷ XVII thay vào thiền phái Trúc Lâm, từ thế kỷ XV. Ở đây Việt Nam trong lịch sử đã có một sự chuyển vùng về ảnh hưởng văn hoá và Đông Nam Á sang Đông Á, Lúc đầu bị cưỡng bức do xâm lược Trung Quốc chiếm được vùng đất Châu Thổ Sông Hồng miền Bắc nước ta, biến nó thành quận, huyện, nội thuộc là tách nó ra khỏi thế phát triển của vùng Đông Nam Á. Người Việt chống lại để giữ gìn bản sắc độc lập của văn hoá dân tộc trong hàng ngàn năm chính quyền đô hộ xúc tiến quá trình Hán hoá. Nhưng khi đã 13
- dành được độc lập, các triều đại, kể cả chính quyền thịnh trị nhất là thời Lê Thánh Tông để đủ sức mạnh giữ vững nền độc lập đó đã chủ động tiếp biến Tam giáo, cũng tiếp tục con đường tiếp biến Tam giáo Hán hoá đó. Đó là vì quyền lợi của giai cấp thống trị nhưng cũng là để xây dựng bảo vệ độc lập và phát triển dân tộc. Tuy nhiên xét đến sâu xa hệ quả tất nhiên không chỉ có một mặt ảnh hưởng tích cực, tuy chính quyền ra sức xúc tiến sự thống nhất toàn diện nhưng trong một đất nước tuy đã thống nhất về lãnh thổ, về ngôn ngữ, về lịch sử - tức là đã có sự hình thành dân tộc về cơ bản - mà sự giao lưu giữa các vùng rất bị hạn chế và chưa có nhiều ý nghĩa kinh tế, trong điều kiện cơ cấu bảo tồn tổ chức xã hội làng, xã khép kín, sống bằng nền kinh tế nhỏ nông nghiệp và thủ công nghiệp tự túc, thoả mãn nhu cầu trao đổi hàng hoá ở các chợ nhỏ địa phương; trong điều kiện sự gia nhập của các vùng mới vào đời sống dân tộc trên quá trình Nam Tiến xảy ra vào những thời điểm xa nhau thì cần thấy có những khác biệt vùng, có thể nói thực tế Hán hoá, ảnh hưởng Tam giáo dù là Nho giáo hay Phật giáo hay Đạo giáo đậm nhạt rất khác nhau qua các thời kỳ các vùng, ngay thời Lê Thánh Tông cũng vậy. Cần chú ý thêm có thể nói trong đời sống chung của cả đất nước thì vẫn bảo tồn đựợc sắc thái văn hoá Đông Nam Á vẫn là nền tảng, nhiều khi các yếu tố Hán tuy có vào, thậm chí là vào lâu, vẫn không phá vỡ được mà phủ một lớp cơ cấu bên ngoài. Thời Lê Thánh Tông điều đó còn thấy rất rõ ở các vùng trước đây không được coi là "Đất văn vật". Nhìn nhận rõ sự phá vỡ không nổi sắc thái bản địa đó là cơ sở cho một số người nói quá trình phát triển lịch sử ở Việt Nam còn là quá trình giải Hán hoá hay nói trong tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng Nho giáo chỉ là cái vỏ, cái áo khoác ngoài. Chúng tôi thấy rằng không chỉ thừa nhận một trong hai ý kiến trái ngược đó và không thể không bàn vấn đề này trên bình diện văn hoá một cách rộng và tổng quát hơn ở một điều kiện khác.Vấn đề mà luận văn tập trung bàn ở đây hay đối tượng xem xét ở đây là ảnh hưởng Tam giáo đến tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - và tư tưởng của ông, không phải hiểu theo nghĩa là tổng số các thành tựu về tư duy, tổng cộng 14
- các tư tưởng về kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự, khoa học … Mà tư tưởng luận văn chú ý nghiên cứu khái quát đi đến là tư tưởng đạo đức chính trị ở đời Lê mà cụ thể là Lê Thánh Tông. Ở đây Lê Thánh Tông là một ông Vua sáng đại diện cho quyền lực tối cao thời thịnh trị là đại diện giai cấp cầm quyền, những lớp người trí thức, những vùng văn vật có vị trí chi phối là đại diện của thời Lê qua quá trình tiếp biến chủ động Tam giáo Hán hoá. Hán hoá về tư tưởng thực ra không đơn giản chỉ là khoác áo Nho giáo hay Tam giáo ra ngoài cái nội dung tư tưởng bản địa hay nhét cái nội dung tư tưởng bản địa vào cái vỏ Tam giáo dùng vỏ khái niệm các học thuyết Tam giáo phủ ra ngoài cái nội dung tư tưởng bản địa hay lồng với cách nhìn nhận xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp xây dựng chế độ phong kiến trong thời đại đó, ở đây Chúng ta một mặt không nên coi thường “khả năng đồng hoá”, khả năng thích ứng, khả năng liên kết - nhiều khi là bằng cách lồng nội dung của nó hay kể cả khoác cái áo của người khác - của chính học thuyết Nho giáo, thứ học thuyết có cách hấp thu các loại hình tư tưởng kiểu đồng hoá hoà hợp điển hình của văn hoá Trung Quốc, Thế nhưng vào Việt Nam vấn đề tồn tại một hệ tư tưởng cũng đã phải phát triển đạt đến một mức cao nhất định cái bản địa đó mới có đủ sức hấp thu chọn lọc quy tụ Tam giáo và chi phối mọi mặt hoạt động, mà trước khi tiếp nhận nguồn vật liệu mới thì nó chưa phát triển theo hướng như vậy. Có những nội dung Phật, Đạo Giáo Lê Thánh Tông chưa chú trọng, có những địa hạt ông ít quan tâm. Vì vậy về sau Phật giáo, Đạo giáo còn có cơ hội vẫn từ Trung Quốc tiếp tục được tiếp biến. Nhìn chung ảnh hưởng Tam giáo Nho, Phật, Đạo tại Việt Nam thời Lê Thánh Tông đã thành một xu thế Tam giáo chung một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế mặt tích cực đó làm cho nước ta cũng được phát triển và cũng như Trung Quốc nhưng chắc chắn mặt tiêu cực ở những thế kỷ sau sẽ vào bế tắc tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá không phải đã là một xu thế luôn mạnh mẽ trong quá khứ đang trở thành là một yêu cầu cần thiết của ngày nay 15
- đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước tiến nhanh hội nhập để phát triển vững chắc. Trong lịch sử các nước, hiện tượng du nhập các hệ tư tưởng từ ngoài vào phổ biến hơn nhiều cùng với hiện tượng biệt lập phát sinh ở bản địa. Ngay cả ở các nước có thể tự hào là có nền triết học phát triển cao cũng thường bắt đầu bằng việc mở cửa du nhập tư tưởng từ ngoài vào rồi sau đó mới phát triển nền triết học của mình qua một cuộc cách mạng tư tưởng để có thể phát triển thành hệ tư tưởng triết học phải tiếp biến tư tưởng mới trải qua sự phủ định biện chứng các lý luận hệ tư tưởng cũ. Khi ấy đã có một bước nhảy vọt mới trong tư duy. Bước phát triển mới về chất như thế nhất định cần có những yêu cầu và điều kiện thực tế mới, những điều kiện cho phép nhìn ra sự phi lý của cách nhìn thế giới cũ, những nhu cầu vươn lên trở lực lớn trên con đường phát triển nhận thức. Ở đây Việt Nam trong quá trình tiếp xúc văn hoá đã tiếp nhận được những phát kiến vang đội về khoa học có vai trò cực kỳ quan trọng. Và tất nhiên là phải có người, có lớp trí thức đủ năng lực làm chủ được trí thức “ mới” của thời đại, có người đủ điều kiện vật chất và tinh thần đảm đương nhiệm vụ khái quát tổng kết lịch sử đó. Trong lịch sử nước ta không phải không có những lúc có biến động lớn, gặp trở lực lớn, nhưng vươn lên có những thời đại rực rỡ, mở ra viễn cảnh huy hoàng, chắp cánh cho tư duy con người, những thời đại đó thường là thừa kế phát huy hào khí thắng lợi chống ngoại xâm, như sau các chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Hoàn xoá bỏ tình trạng Bắc thuộc, chiến thắng oanh liệt đời Lý- Trần- đời Lê cũng vậy, … Đó là những thời đại tinh hoa dân tộc phát triển đến cao độ không những dốc hết vào đấu tranh quân sự mà còn phải xây dựng phát triển văn hoá để giữ vững độc lập, thắng lợi huy hoàng đã chắp cánh cho thơ ca, cho nghệ thuật nhưng mặt khác nếu không lại tạo được những điều kiện thực tế cho việc “ vựợt bậc” thì sự trì trệ là khó tránh khỏi mà quan trọng hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất định đề phòng giặc ngoại xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành luỹ, với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh 16
- nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kỹ thuật không đòi hỏi nhiều phát minh khoa học, nhưng không có nghĩa thực tiễn không cần nhiều lý luận, không có lý luận thì khó có sự nhảy vọt về chất mới. Đến thế kỷ XV trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đã có thời kỳ tiếp biến Phật giáo từ Ấn Độ và sau đó Nho, Phật, Đạo từ Trung Quốc, nhưng không trải qua cuộc tranh chấp tư tưởng kịch liệt nào. Tâm thức Việt Nam không cuồng tín để dẫn đến đổ máu tranh chấp tư tưởng Tôn giáo . Nếu đội ngũ trí thức trước thế kỷ XIV là những nhà Sư và sang thế kỷ XV là nhà Nho không để lại cho chúng ta một di sản triết học to lớn thì ta cũng không nên trách cứ họ, chưa thoát ràng buộc xã hội nguyên thủy thì người Việt đã gặp ngay nạn xâm lăng từ phương Bắc và nạn ngoại xâm đe doạ thường trực suốt trang lịch sử. Hoàn cảnh khắc nghiệt buộc người Việt lựa chọn thích ứng tiếp nhận chọn lựa, lọc bỏ cha ông chúng ta quan tâm đến nhiều vấn đề đạo đức trong Tam giáo chúng dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để cố kết tăng cường nội lực ứng phó, nhằm vận dụng linh hoạt vào mục đích thực tế, chúng ta đã tiếp biến lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận tổ chức, sắp xếp lại nó cho gọn nhẹ , nhưng lại biết cách sử dụng chúng cho hữu ích không gây ra chống đối. Đối với thực tế mà “nhu cầu lý luận” đặt ra chỉ như vậy kho Kinh, Tạng của Tam giáo là quá phong phú, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện học đủ. Những trường hợp như Nguyễn Trãi thừa hưởng gia tài sách vở của ông ngoại, một học giả quý tộc làm Tể tướng từ đời Trần, tiếp xúc rộng rãi, hay như Vua Lê Thánh Tông là rất hiếm. Đại đa số người học chỉ học đủ kinh, sử để đi thi. Đối với họ sách Tính Lý Đại toàn do Chu Hy soạn còn là quá rườm rà nên phải làm Thuyết ước, phải làm Toản yếu - những bản tóm tắt - cho dễ học. Trong lịch sử học thuật của ta ít có những nhà kinh học chuyên để cả cuộc đời tra cứu, biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển, mà cũng ít có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển tư văn ở Việt 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ triết học: Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Đắk Lắk hiện nay
89 p | 293 | 112
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 468 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc
123 p | 188 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng trong việc phát huy nhân tố con người thời kỳ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
26 p | 131 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học hiện sinh cơ bản của Albert Camus qua một số tác phẩm
102 p | 79 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm “sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử”
26 p | 125 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong Đạo gia và ý nghĩa hiện thời của nó
118 p | 80 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về con người trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
81 p | 57 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ, Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
76 p | 46 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
81 p | 67 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại
25 p | 91 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm "Tri thức khách quan"
110 p | 44 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 86 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn