BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG XỬ LÝ KIM LOẠI TRONG NƯỚC
BẰNG POLYME SINH HỌC (BIOPOLYMER)
TÁCH TỪ BÙN THẢI SINH HỌC
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
LÊ THỊ CHUNG
Hà Nội, Năm 2018
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG XỬ LÝ KIM LOẠI TRONG NƯỚC
BẰNG POLYME SINH HỌC (BIOPOLYMER)
TÁCH TỪ BÙN THẢI SINH HỌC
LÊ THỊ CHUNG
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60440301
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VIẾT HOÀNG
Hà Nội, Năm 2018
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ....................................................................................... 6
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................... 4
1.1. Kim loại – nguồn gốc phát sinh và mức độ ảnh hưởng ............................. 4
1.1.1. Nguồn gốc phát sinh kim loại ..................................................................... 4
1.1.2. Mức độ ảnh hưởng của kim loại ................................................................. 4
1.2. Vài nét về kim loại đồng ............................................................................... 5
1.2.1. Giới thiệu chung kim loại đồng .................................................................. 5
1.2.2. Nguồn gốc phát sinh.................................................................................... 6
1.2.3. Các phương pháp xử lý kim loại đồng ........................................................ 8
1.3. Tổng quan về EPS ....................................................................................... 11
1.3.1. Khái niệm chung về EPS .......................................................................... 11
1.3.2. Đặc điểm thành phần hóa học của EPS ..................................................... 11
1.3.3. Một số tính chất chính của EPS ................................................................ 12
1.3.4. Các phương pháp tách EPS ....................................................................... 14
1.3.5. Ứng dụng của EPS trong xử lý kim loại ................................................... 18
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 20
2.2. Vật liệu thí nghiệm ........................................................................................... 20
2.2.1. Bùn thải ....................................................................................................... 20
2.2.2. Nước thải ..................................................................................................... 20
2.3. Thực nghiệm ..................................................................................................... 20
2.3.1. Quy trình vận hành thiết bị pilot xử lý nước thải sinh hoạt để lấy sinh khối
tách EPS ................................................................................................................ 20
2.3.2. Phương pháp tách thu EPS từ bùn thải sinh học nuôi cấy .......................... 21
2.4. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả xử lý ion kim loại Cu2+ của
polymer ngoại bào ................................................................................................... 24
2.4.1. Đánh giá ảnh hưởng của pH ........................................................................ 24
2.4.3. Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ EPS ........................................................ 25
2.5. Phương pháp phân tích ................................................................................... 25
2.5.1. Xác định khối lượng EPS thu được ............................................................. 25
2.5.2. Phân tích hàm lượng protein, polysaccharide và acid nucleic trong polymer
ngoại bào ............................................................................................................... 26
2.5.3. Đo phổ hồng ngoại ...................................................................................... 26
2.5.4. Phân tích xác định Cu2+ bằng phương pháp phổ hấp phụ nguyên tử AAS
theo TCVN 6193: 1996 ......................................................................................... 26
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 27
3.1. Thành phần, đặc tính của EPS tách từ bùn thải bằng các phương pháp
khác nhau ................................................................................................................. 27
3.1.1. Hàm lượng EPS ........................................................................................... 27
3.1.2. Thành phần hóa học của EPS thu được ...................................................... 29
3.2. Kết quả phân tích phổ hồng ngoại .................................................................. 34
3.3. Hiệu quả xử lý Cu2+ của EPS tách bằng các phương pháp khác nhau ....... 37
3.4. Thử nghiệm đánh giá khả năng xử lý ion kim loại Cu2+ của EPS ............... 39
3.4.1. Ảnh hưởng của pH đến hiệu quả xử lý ....................................................... 39
3.4.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hiệu quả xử lý .............................. 40
3.4.3. Ảnh hưởng của nồng độ EPS tới hiệu quả xử lý ......................................... 42
3.5. Kết quả thử nghiệm xử lý ion kim loại Cu2+ của EPS đối với mẫu nước
thải thực tế ............................................................................................................... 43
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 46
1. Kết luận ............................................................................................................ 46
2. Kiến nghị .......................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 48
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Quy trình tách EPS theo các phương pháp khác nhau .............................. 22
Hình 3.1. So sánh thành phần hóa học của EPS được tách bằng các phương pháp
khác nhau (PN, PS và AN là hàm lượng protein, polysaccharide và acid nucleic) .. 31
Hình 3.2. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Protein .......... 33
Hình 3.3. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Polysaccharide .... 34
Hình 3.4. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Nucleic acid .. 34
Hình 3.5. Phổ IR của EPS được tách bằng các phương pháp khác nhau .................. 36
của EPS thô và EPS tinh tách bằng
Hình 3.6. Thể hiện hiệu quả xử lý kim loại Cu2+
các phương pháp khác nhau ...................................................................................... 37
Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ Cu(II) của EPS .... 40
Hình 3.8. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng thời gian đến khả năng hấp phụ Cu(II) của
EPS ............................................................................................................................ 41
Hình 3.9. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng nồng độ EPS đến khả năng hấp phụ Cu(II) .. 43
Hình 3.10. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng nồng độ của EPS đến khả năng hấp phụ
Cu(II) ......................................................................................................................... 44
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước thải một số làng nghề tái chế .. 7
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của EPS .................................................................. 12
Bảng 1.3. Các phương pháp tách EPS ..................................................................... 16
Bảng 3.1. Kết quả phân tích khối lượng, thành phần hóa học của EPS được tách
bằng các phương pháp khác nhau ............................................................................ 27
Bảng 3.2. So sánh kết quả khối lượng EPS tách được với các nghiên cứu khác ...... 29
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH đến khả năng hấp phụ của Cu(II) .......... 39
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng thời gian đến khả năng hấp phụ Cu(II) của
EPS ............................................................................................................................ 41
LỜI CẢM ƠN
Trong khoảng thời gian tham gia nghiên cứu về chuyên đề: được tiếp xúc
với các phương pháp với giúp em củng cố và nâng cao được kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp làm hành trang cho em bước đi trên con đường tương lai.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến:
Ban giám hiệu trường cùng các thầy cô trong khoa Môi trường – Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã tạo cho em một môi trường học tập
tích cực, đã giảng dạy và truyền đạt cho em hành trang kiến thức vô cùng quý báu.
Phòng Giải pháp Công nghệ Cải thiện Môi trường – Viện Công nghệ Môi
trường – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, là nơi em công tác và
trực tiếp tham gia nghiên cứu, hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.
TS. Nguyễn Viết Hoàng người đã tận tình hưỡng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Kính chúc TS. Nguyễn Viết
Hoàng công tác tốt, dồi dào sức khỏe và tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của
mình là truyền đạt kiên thức cho thế hệ mai sau.
TS. Mai Văn Tiến – giảng viên bộ môn Công nghệ Môi trường – Khoa Môi
trường – Trường Đại học Tài Nguyên và Môi trường Hà Nội, người đã dành nhiều
công sức, thời gian với sự tâm huyết để giúp đỡ em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp.
Sau cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã luôn động viên và là chỗ
dựa vững chắc cho em trong suốt quá trình học tập và làm việc.
Hà Nội, tháng 7 năm 1018
Sinh viên
Lê Thị Chung
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là thành quả của bản thân tôi trong suốt
thời gian làm luận văn vừa qua.
Các tài liệu, số liệu, kết quả được sử dụng trong luận văn là chính xác, khoa
học và đúng với quá trình nghiên cứu của bản thân tôi tại phòng thí nghiệm – Phòng
Giải pháp Công nghệ Cải thiện Môi trường – Viện Công nghệ Môi trường.
Những kết luận và kiến nghị được đưa ra sau quá trình nghiên cứu là không
sao chép của tác giả nào.
Cuối cùng tôi xin cam đoan rằng luận văn là hoàn toàn trung thực, chính
xác và khoa học.
Hà Nội, tháng 7 năm 1018
Sinh viên
Lê Thị Chung
MỞ ĐẦU
Môi trường và ô nhiễm môi trường hiện đang là vấn đề được cả thế giới quan
tâm. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nông nghiệp, du lịch có tác
động tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, thì sự phát triển này cũng là nguyên
nhân chính làm cho môi trường xung quanh chúng ta ngày càng trở nên ô nhiễm
nặng hơn. Ô nhiễm kim loại nặng nói chung và ô nhiễm đồng nói riêng vào nguồn
nước chủ yếu là do nước thải từ hoạt động của các nhà máy khai thác khoáng sản,
nhà máy mạ điện, nhà máy cơ khí, nhà máy sản xuất pin, ắc quy và gốm sứ,… chưa
qua xử lý hoặc xử lý chưa triệt để thải ra môi trường. Ô nhiễm kim loại nặng trong
nước là nguyên nhân gây ra sự phá vỡ nhiều quá trình chuyển hóa và cân bằng sinh
thái do độc tính và khả năng tích lũy của chúng. Khác với hầu hết các chất gây ô
nhiễm khác, đồng không phân hủy sinh học và không trải qua một chu kỳ sinh thái,
sinh học chung [2]. Việc sử dụng nguồn nước có chứa đồng và hợp chất của nó gây
ảnh hưởng tới toàn bộ các cơ quan và hệ cơ quan của con người. Nhiễm độc kim
loại nặng thường gây ra những tổn thương đặc biệt trong hệ thống tạo máu, hệ tim
mạch, hệ thần kinh và hệ tiêu hóa. Đặc biệt đối với trẻ em ngay cả với hàm lượng
kim loại nặng rất nhỏ cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, dẫn đến những rối loạn về phát
triển trí tuệ và thể lực, các rối loạn thần kinh tâm lý, giảm tổng hợp hemen và thiếu
máu, giảm vitamin D trong máu và tăng ngưỡng tiếp nhận âm thanh. Nghiên cứu và
tìm ra các giải pháp kết hợp với công tác quản lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm kim loại
nặng đặc biệt trong nguồn nước là việc làm cần thiết và thu hút được sự quan tâm
của rất nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế.
Hiện nay có nhiều phương pháp để xử lý ion kim loại như phương pháp kết
tủa hóa học; phương pháp trao đổi ion; phương pháp đông tụ, keo tụ và hấp thụ.
Đáng lưu ý hơn cả là phương pháp hấp phụ và trao đổi ion: một trong những biện
pháp hiệu quả trong xử lý nước khi so sánh với các phương pháp xử lý khác do lợi
thế dễ thực hiện, không phát sinh chất độc hại trong suốt quá trình xử lý và gần như
loại bỏ được tất cả các chất ô nhiễm trong nước.
Bùn thải sinh học (BTSH) của các hệ thống xử lý nước thải (XLNT) có chứa
lượng lớn hợp chất polymer sinh học (EPS - Extracellular polymeric substances).
1
EPS liên kết với tế bào vi sinh vật (VSV) thông qua các tương tác phức tạp để
tạo thành một cấu trúc mạng lưới rộng lớn. EPS là chất có phân tử lượng lớn
được sinh tổng hợp bởi VSV [2]. Các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy
EPS là một vật liệu tiềm năng để xử lý kim loại trong nước thải xi mạ [70]. Khả
năng hấp phụ sinh học của EPS (chủ yếu là heteropolysaccharides và lipids)
được cho là do EPS có khối lượng phân tử cao và chứa nhiều nhóm chức khác
nhau (ví dụ amino, carboxyl, hydroxyl, phosphate v.v…). EPS đạt hiệu quả cao
trong việc xử lý ion kim loại Cu2+.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Nghiên cứu khả năng xử lý kim loại
trong nước bằng polyme sinh học (biopolymer) tách từ bùn thải sinh học” được
thực hiện nhằm mục đích tách phần polymer sinh học có trong bùn thải và sử dụng
chúng với vai trò làm vật liệu để hấp phụ, xử lý kim loại Cu trong nước thải.
1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu xây dựng được quy trình tách bio-polymer từ bùn thải sinh học
- Đánh giá khả năng ứng dụng xử lý ion kim loại Cu2+ trong nước thải xi mạ
bằng bio-polymer tách được.
2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu lựa chọn và xây dựng quy trình tách bio-polymer từ bùn thải
sinh học
- Phân tích đặc trưng cấu trúc tính chất của bio-polymer thu tách được
- Thử nghiệm đánh giá khả năng xử lý ion kim loại Cu2+ trong nước và
nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng tới quá trình xử lý.
3. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả của đề tài nghiên cứu nhằm xác định được một phương pháp tách
phù hợp để tách polymer sinh học có trong bùn thải cho hiệu quả xử lý Cu tốt. Kết
quả này sẽ tạo các bước đi đầu để tái sử dụng các phần vật chất có ích trong bùn
thải (dạng chất thải đang phải đưa đi xử lý) và đưa ra được một loại vật liệu hấp phụ
kim loại có tính thân thiện môi trường.
2
4. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 chương, 55 trang, 11 hình, 7 bảng.
Mở đầu: Tóm tắt nội dung và tính cấp thiết của luận văn
Chương 1: Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu (13 trang)
Chương 2: Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu (8 trang)
Chương 3: Kết quả và thảo luận (20 trang)
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Kim loại – nguồn gốc phát sinh và mức độ ảnh hưởng
1.1.1. Nguồn gốc phát sinh kim loại
Trong tự nhiên kim loại tồn tại trong ba môi trường: môi trường không khí,
môi trường nước và môi trường đất. Trong môi trường nước thì kim loại tồn tại
dưới dạng ion hoặc phức chất. Trong ba môi trường thì môi trường nước là môi
trường có khả năng phát tán kim loại nặng đi xa nhất và rộng nhất. Trong những
điều kiện thích hợp kim loại nặng trong môi trường nước có thể phat tán vào trong
môi trường đất hoặc môi trường khí. Kim loại nặng trong nước làm ô nhiễm cây
trồng khi các cây trồng này được tưới bằng nguồn nước có chứa kim loại nặng hoặc
đất trồng cây bị ô nhiễm bởi nguồn nước có chứa kim loại nặng chảy qua. Do đó
kim loại nặng trong môi trường nước có thể đi vào cơ thể con người thông qua con
đường ăn hoặc uống.
Các quá trình sản xuất công nghiệp, quá trình khai khoáng, quá trình tinh
chế quặng, kim loại, sản xuất kim loại thành phẩm… là các nguồn chính gây ô
nhiễm kim loại nặng trong môi trường nước. Thêm vào đó, các hợp chất của kim
loại nặng được sử dụng rộng rại trong các ngành công nghiệp khác khư quá trình
tạo màu và nhuộm, ở các sản phẩm thuộc da, cao su, dệt, giấy, luyện kim, mạ điện
và nhiều ngành khác…cũng là nguồn đáng kể gây ô nhiễm kim loại nặng. Khác biệt
so với nước thải ngành côn nghiệp, nước thải sinh hoạt thường có chứa trong đó
một lượng kim loại nhất định bởi quá trình tiếp xúc lâu dài với Cu, Zn hoặc Pb
trong đường ống hoặc bề chứa.
1.1.2. Mức độ ảnh hưởng của kim loại
Các kim loại nặng có nồng độ vi lượng là các nguyên tố dinh dưỡng cần
thiết cho sự phát triển bình thường của con người. Tuy nhiên nếu như vượt quá hàm
lượng cho phép chúng lại gây ra các tác động hết sức nguy hại tới sức khỏe con
người.
4
Các kim loại nặng xâm nhập vào cơ thể thông qua các chu trình thức ăn.
Khi đó, chúng sẽ tác động đến các quá trình sinh hóa và trong nhiều trường hợp dẫn
của các nhóm enzim trong cơ thể. Vì thế các enzim bị
đén những hậu quả nghiêm trọng về mặt sinh hóa. Các kim loại nặng có ái lực lớn
với các nhóm -SH, -SCH3
mất hoạt tính, cản trở quá trình tổng hợp protein của cơ thể.
1.2. Vài nét về kim loại đồng
1.2.1. Giới thiệu chung kim loại đồng
Kim loại nặng là những kim loại có tỷ trọng lớn hơn 5g/cm3, bao gồm một
số kim loại như: As, Hg, Cu, Cr, Cd, Co, Pb, Zn, Sb, Mn…Một vài kim loại trong
số này có thể cần thiết cho cơ thể sống khi chúng ở một hàm lượng nhất định như
Zn, Cu, Fe,…tuy nhiên khi ở một lượng lớn hơn nó sẽ trở nên độc hại. Trong các
kim loại nặng, Cu2+ được coi là chất độc hại hoặc rất độc hại đối với các động vật
sống dưới nước hoặc rất nhiều các loài thực vật. Trong môi trường nước thì kim loại
đồng có thể được liệt xếp thứ ba về độ độc hại sau Hg, Cd. Mặc dù, sự sắp xếp này
chỉ là tương đối và các vị trí của các nguyên tố này trong chuỗi sẽ rất khác nhau phụ
thuộc vào từng loài, từng điều kiện và đặc điểm môi trường.
Đồng có độc tính cao đối với hầu hết các thực vật thủy sinh, ở nồng độ thấp
0,1 mg/L, nó đã gây ra ức chế không cho các loài thực vật này phát triển. Ngoài ra
đồng còn có khả năng làm mất muối bởi vậy làm giảm khả năng thẩm thấu của tế
bào. Đối với độc tính của đồng lên thực vật thủy sinh thì đồng chỉ đứng sau thủy
ngân. Đối với các loài cá nước ngọt thì đồng cũng gần như là kim loại có độc tính cao
nhất chỉ sau thủy ngân. Ngưỡng độc của đồng là LC50 = 0,017 - 1 mg/L, tùy thuộc
vào điều kiện môi trường và từng loài. Đồng ít độc hơn đối với các loài cá biển vì khả
năngtạo phức cao của đồng đối với các muối có trong nước biển, các phức này có thể
là các phức kết tủa hoặc các phức được tạo ra này ít nguy hiểm hơn.
Đối với con người thì đồng không quá độc bởi sự kết hợp trung gian của
đồng giữa các axit mạnh và axit yếu. Cũng không có bằng chứng nào chứng tỏ đồng
là chất gây ung thư cho con người. Tuy nhiên cũng như các kim loại nặng khác, khi
5
ở nồng độ cao, đồng có thể tích luỹ vào các bộ phận trong cơ thể như gan, thận... và
gây tổn thương đối với các cơ quan này.
1.2.2. Nguồn gốc phát sinh
Nước thải sinh hoạt và chăn nuôi
Sự tồn tại của Cu2+ ở trong nước thải sinh hoạt do các tác nhân trong các
mỹ phẩm dùng để trang điểm, rửa mặt.... Một vài hóa chất được sử dụng trong nông
nghiệp cũng làm gia tăng ô nhiễm Cu2+ như: Cu được thêm vào thức ăn cho lợn và
được bài tiết ra môi trường. Nhìn chung, nước thải sinh hoạt và hoạt động chăn nuôi
chứa hàm lượng Cu không cao, do lượng sự dụng ít và khi phát thải vào môi trường,
Cu có thể bị kết tủa bởi các tác nhân khác trong môi trường như OH, CO3 v.v.
Hoạt động sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp phát sinh lượng lớn Cu với nồng độ cao. Các quá
trình sản xuất công nghiệp chủ yếu phát thải lượng Cu lớn vào môi trường gồm quá
trình khai khoáng, quá trình tinh chế quặng, kim loại, sản xuất kim loại thành phẩm,
mạ bản mạch v.v. Ngoài ra, các hợp chất của Cu được sử dụng rộng rãi trong các
nghành công nghiệp khác như quá trình tạo màu và nhuộm, ở các sản phẩm của
thuộc da, cao su, dệt, giấy, luyện kim, mạ điện và nhiều ngành khác... cũng là nguồn
đáng kể gây ô nhiễm kim loại đồng. Đồng trong nước thải thường tồn tại dưới các
dạng: các muối Cu2+ như CuCl2, CuSO4... hoặc tồn tại dưới dạng các muối phức
như phức với NaOH tạo ra Na2[Cu(OH)4].
Trong các hoạt động công nghiệp, hoạt động xi mạ có thể được coi là một
trong các hoạt động chính phát sinh Cu, đặc biệt là hoạt động mạ, rửa bản mạch
điện tử PCB. Nước thải từ quá trình xi mạ có thành phần đa dạng về nồng độ và pH,
biến đổi rộng từ 2-3 đến 10-11. Đặc trưng chung của nước thải ngành xi mạ là chứa
hàm lượng cao các muối vô cơ và kim loại nặng. Tùy theo kim loại của lớp mạ mà
nguồn ô nhiễm có thể là Cu, Zn, Cr, Ni,… và cũng tùy thuộc vào các loại muối kim
loại được sử dụng mà nước thải có chứa các độc tố như xianua, sunfat, amoni,
cromat,… Các chất hữu cơ có ít trong nước thải xi mạ, phần chủ yếu là chất tạo
6
bông, chất hoạt động bề mặt…nên BOD thấp. Đối tượng xử lý chính là các ion vô
cơ mà đặc biệt là các muối kim loại nặng như Cu, Ni, Cr, Fe,…
Nước thải của làng nghề tái chế kim loại
Hoạt động của các làng nghề cũng là một nguồn phát sinh đáng lưu ý. Các
làng nghề hiện tại thường hoạt động ở quy mô bán công nghiệp và ít có sự quản lý
nghiêm ngặt về môi trường dẫn tới chất thải phát sinh không được xử lý triệt để.
Các cơ sở tái chế kim loại còn có thể nằm xen kẽ trong khu dân cư nên các chất thải
trong quá trình sản xuất gây ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng, làm suy giảm chất
lượng cuộc sống của người dân. Tỷ lệ người mắc bệnh ở các làng nghề đang có xu
hướng tăng. Tuổi thọ cũng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn
quốc.Tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, phổi, hô hấp, ngoài da, điếc và ung thư chiếm
tới 60% tại các làng nghề sản xuất kim loại, tái chế phế thải.
Kết quả nghiên cứu về hàm lượng một số kim loại nặng trong nước mặt của
một số làng nghề thu được cho thấy tình trạng báo động.
Bảng 1.1. Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước thải một số làng nghề tái chế
Cr2+ Fe Pb2+ Cu2+ Zn2+ Al3+ STT Nơi lấy mẫu (g/L) (g/L) (g/L) (g/L) (g/L) (g/L)
1 Chỉ Đạo – Bắc Ninh 0,04 0,4 0,35 0,1 0,6 -
2 Vân Chàng – Nam Định 63 12 0,9 1,5 8,7 10,4
3 Phước Kiều – Quảng Ninh 0,2 7,6 0,6 1,5 1,8 2,1
4 Xuân Tiến – Nam Định 0,8 0,3 0,44 3,1 2,15 0,32
(Nguồn: Đề tài KC 08-09 về môi trường – làng nghề)
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Do việc thu
gom và thải bỏ bừa bãi, nên ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sức khỏe người
dân rất nghiêm trọng. Hầu hết các ao hồ trong các làng nghề không thể nuôi được
cá, do đã tiếp nhận một lượng nước thải khá lớn từ hoạt động sản xuất với nồng độ
7
ô nhiễm cao, vượt quá khả năng tự làm sạch của môi trường và do rác thải bừa bãi
gây bồi lắng và cản trở dòng chảy của nước sông hồ.
1.2.3. Các phương pháp xử lý kim loại đồng
- Phương pháp kết tủa
Xử lý kim loại bằng phương pháp kết tủa là phương pháp phổ biến và thông
dụng nhất. Với ưu điểm là rẻ tiền, khả năng xử lý nhiều kim loại trong dòng thải
cùng một lúc và hiệu quả xử lý kim loại nặng ở mức chấp nhận được thì phương
pháp này đang là lựa chọn số một cho các nhà máy công nghiệp ở Việt Nam.
Cu thường được kết tủa với hydroxit, trong đó, vôi là sự lựa chọn thích hợp
nhất của các cơ sở do chi phí thấp và nguồn cung cấp dễ dàng. Kim loại cũng có thể
được kết tủa dưới dạng muối cacbonat hoặc Sulfit.
Với phương pháp kết tủa, đa số các kim loại đều cần điều kiện pH kiềm để tạo
ra muối của hydroxit. Do vậy, cần tốn hóa chất để nâng pH của nước thải lên. Chi phí
cho quá trình nâng pH khá cao do phần lớn các dòng thải chứa kim loại với nồng độ
cao đều có pH axit như nước thải từ quá trình mạ bản mạch, xử lý bề mặt hay nước thải
từ quá trình khai khoáng. Phương pháp kết tủa cũng có một nhược điểm lớn nữa là sinh
nhiều bùn dạng vô cơ nguy hại. Đây là dạng bùn chỉ xử lý được bằng phương pháp
đóng rắn nên về lâu dài sẽ gây tác động tiêu cực tới môi trường.
- Phương pháp điện hóa
Nguyên tắc của phương pháp điện hóa trong xử lý nước thải nói chung và
nước thải chứa kim loại nặng nói riêng là sử dụng các quá trình oxi hóa ở anot và
khử ở catot, đông tụ điện, kết tủa... khi cho dòng điện một chiều đi qua 2 cực anot
và catot. Các phương pháp điện hóa chính dùng trong xử lý kim loại bao gồm:
- Kết tủa điện hóa
- Thẩm tách điện hóa
- Đông tụ điện hóa
- Trao đổi ion điện hóa
Phương pháp điện hóa cho phép xử lý kim loại với hiệu suất cao, tuy nhiên,
phương pháp này ít được ứng dụng trong thực tế về xử lý nước thải do chi phí vận
8
hành đắt và đầu tư tốn kém. Phương pháp được ứng dụng trong một số trường hợp
đặc biệt cần thu hồi kim loại quý.
- Phương pháp hấp phụ
Hấp phụ là quá trình hút khí bay hơi hoặc chất hòa tan trong chất lỏng lên bề
mặt chất rắn xốp gọi là quá trình hấp phụ. Phương pháp hấp phụ được ứng dụng khá
phổ biến trong xử lý nước thải chứa kim loại với nồng độ thấp. Ở nồng độ cao,
phương pháp này ít có tính khả thi do vật liệu hấp phụ nhanh bị bão hòa, sinh nhiều
chất thải rắn cần xử lý. Hiện nay người ta đã tìm ra nhiều loại vật liệu có khả năng
hấp phụ kim loại nặng như: than hoạt tính, than bùn, các loại vật liệu vô cơ như oxit
sắt, oxit mangan, tro bay, xỉ than, bằng các vật liệu polyme hóa học hay polyme
sinh học. Sau khi bão hòa, vật liệu có thể được hoàn nguyên, tái sinh (đối với các
loại vật liệu hấp phụ có giá trị, và nhất thiết phải có kích thước đủ lớn để có thể
hoàn nguyên được) và trong nhiều trường hợp có thể thu hồi những cấu tử quý.
Chất hấp phụ dạng polymer: Người ta sử dụng nhiều chất polyme làm chất
hấp phụ. Các chất polymer thường có các nhóm chức có khả năng hút hoặc giữ các
kim loại vào trong thành phần liên kết.
Chất hấp phụ sinh học: chất hấp phụ sinh học là những chất có bắt nguồn từ
sinh học do vậy nó rất đa dạng và phong phú. Các chất sinh học được sử dụng để
làm chất hấp phụ sinh học thường là các polymer sinh học.
- Phương pháp trao đổi ion
Phương pháp trao đổi ion là một trong những phương pháp phổ biến để xử lý
các ion kim loại trong nước thải như Ni2+, Fe2+, Fe3+, Cu2+, Zn2+... Phương pháp này
khá hiệu quả trong việc xử lý kim loại nặng đặc biệt là có thể thu hồi hiệu quả một
số kim loại có giá trị. Quá trình trao đổi ion diễn ra giữa 2 pha lỏng - rắn, giữa các
ion có trong dung dịch và các ion có trong pha rắn. Thực chất phương pháp trao đổi
ion cũng là một phần của phương pháp hấp phụ, nhưng là quá trình hấp phụ có kèm
theo trao đổi ion giữa chất hấp phụ với ion của dung dịch. Có thể nói trao đổi ion là
một quá trình trong đó các ion trên bề mặt của chất rắn trao đổi với ion có cùng điện
9
tích trong dung dịch khi tiếp xúc với nhau. Các chất này gọi là các ionit (chất trao
đổi ion), chúng hoàn toàn không tan trong nước.
- Phương pháp sinh học
Phương pháp sinh học là một trong những phương pháp có nhiều hứa hẹn
mang lại những hiệu quả tích cực cho việc xử lý kim loại đồng. Đặc biệt tại Việt
Nam ngày càng có nhiều hơn các công trình nghiên cứu về ứng dụng của phương
pháp sinh học trong xử lý nước thải có chứa kim loại nặng. Sở dĩ phương pháp sinh
học đang ngàyđược quan tâm bởi vì nhưng ưu điểm nổi trội của nó so với các
phương pháp khác như: tính gần gũi với tự nhiên, ít tạo ra các ô nhiễm thứ cấp.
Nhiều các loài sinh vật trong tự nhiên đã được các nhà khoa học phát hiện và ứng
dụng trong xử lý nước thải kim loại. Phương pháp hấp thu sinh học là phương pháp
sử dụng các loài sinh vật trong tự nhiên hoặc các loại vật chất có nguồn gốc sinh
học có khả năng giữ lại trên bề mặt hoặc thu nhận bên trong các tế bào của chúng
các kim loại nặng khi đưa chúng vào môi trường nước thải có chứa kim loại nặng.
Hiện nay người ta đã tìm ra nhiều loại sinh vật có khả năng hấp thu các kim loại
nặng đặc biệt là các loại thực vật thủy sinh như bèo lục bình, rong đuôi chó, bèo
tấm, loài tảo Chlorella sp.
Nói chung, phương pháp xử lý kim loại nặng bằng phương pháp hấp thu sinh
học là phương pháp còn khá mới mẻ và nhiều tiềm năng.
- Hấp thu sinh học
- Chuyển hóa sinh học
- Bãi lọc ngập nước, thủy thực vật
- Các quá trình sử dụng enzyme khác
Cu là một trong những kim loại phát sinh nhiều trong hoạt động sản xuất
công nghiệp và sinh hoạt. Đây cũng là kim loại nặng có tiềm năng gây ảnh hưởng
tới môi trường. Hiện nay, nhiều công nghệ khác nhau đã được phát triển và ứng
dụng để xử lý kim loại đồng trong đó, phương pháp kết tủa là phương pháp được sử
dụng nhiều nhất. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, EPS có khả năng ứng dụng tốt
10
để hấp phụ và xử lý nhiều kim loại khác nhau. Các tính chất chung và đặc điểm của
EPS được trình bày chi tiết ở mục tiếp theo của luận văn.
1.3. Tổng quan về EPS
1.3.1. Khái niệm chung về EPS
Extracellular polymeric substances (EPS) là một hỗn hợp phức tạp của các
polymer ngoại bào có khối lượng phân tử từ 10 đến 30 kDa được sinh tổng hợp bởi
vi sinh vật [1]. EPS là một trong những thành phần quan trọng trong quần thể vi
sinh vật. Nó có tác dụng gắn kết chặt chẽ các vi khuẩn lại với nhau hình thành nên
bông bùn sinh học. Ngoài ra EPS có thể sử dụng như là nguồn dinh dưỡng dự trữ
cho vi khuẩn trong điều kiện môi trường nghèo dinh dưỡng [1].
Có nhiều cách phân loại EPS khác nhau, tuy nhiên EPS có thể được chia
thành 2 dạng là EPS liên kết (Bound EPS) và EPS hòa tan (Soluble EPS) [2]. EPS
liên kết có liên kết chặt chẽ với các tế bào, ngược lại EPS hòa tan lại có liên kết yếu
với các tế bào hoặc tồn tại ở trạng thái hòa tan trong dung dịch. Trong đó, cấu trúc
của EPS liên kết gồm 2 lớp [2]. Lớp bên trong là EPS liên kết mạnh (TB-EPS) và
lớp bên ngoài là EPS liên kết yếu (LB-EPS). Hai lớp EPS này có thể được tách ra
bằng cách ly tâm, LB-EPS sẽ nằm trong pha lỏng còn TB-EPS nằm trong pha rắn
cùng với các tế bào vi sinh vật.
1.3.2. Đặc điểm thành phần hóa học của EPS
EPS có thành phần hóa học rất phức tạp do thành phần của EPS phụ thuộc
nhiều vào quần thể vi sinh vật, pha sinh trưởng, nguồn dinh dưỡng, điều kiện môi
trường, loại thiết bị phản ứng, công cụ và cả phương pháp phân tích [3]. EPS chứa
một lượng lớn các chất hữu cơ có khối lượng phân tử cao, trong đó, carbohydrate
(chiếm từ 40-95% tổng khối lượng của EPS) và protein (chiếm từ 1-60% tổng khối
lượng của EPS) là hai thành phần chính của EPS [4]. Đối với bùn của thiết bị xử lý
sinh học, humic có thể là một thành phần quan trọng của EPS và nó có thể chiếm tới
20% tổng khối lượng [4]. Ngoài ra EPS còn chứa một số hợp chất khác như nucleic
axit (chiếm 1 – 10%), lipit (chiếm 1 – 10%), uronic axit và các hợp chất khác [4].
Các số liệu tổng hợp được thể hiện ở Bảng 1.2
11
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của EPS
Thành phần (mg/g VSS) Tài liệu
Nước thải tham Humic Uronic Polysaccharide Protein DNA khảo axit axit
1,1 – 96,0 7,0 - 757 0,4 – 18,7 - - [5]
- - [6] - 0,8 6,5 Đô thị
0,06 6,4 0,5 [7] 7,7 7,9
- - [8] - Nhà máy bia 24,5 82,8
Sản xuất 1,5 – - - [9] - acetate và 1,7 – 19,7 37,1 peptone
Cao thịt và - - [10] 0,7 8,6 4,0 peptone
- - [11] - Bột giấy 157 - 421 -
1.3.3. Một số tính chất chính của EPS
Tính hấp phụ của EPS
EPS có khả năng hấp phụ kim loại và các chất hữu cơ, Nguyên nhân là do sự
có mặt của nhiều nhóm chức khác nhau mang điện tích trong cấu trúc của EPS, chẳng
hạn như nhóm carboxyl, phosphoric, phenolic, hydroxyl và các nhóm phân cực (chất
thơm, chất béo có trong protein, các vùng kỵ nước trong carbohydrates) (Flemming
and Leis, 2003)[12]. Các nhóm chức này có khả năng tạo phức với các kim loại nặng
trong môi trường nước, cũng như tạo điều kiện thuận lơi cho quá trình hấp phụ các
chất hữu cơ (Ha et al., 2010; Joshi and Juwarkar, 2009; Liu and Fang, 2002)[13].
Các nhóm chức carboxyl và hydroxyl trong cấu trúc của EPS được cho là có
khả năng liên kết rất cao với các kim loại nặng (Guibauda et al., 2003). Các thành
phần như Protein, Carbohydrate và Acid nucleic trong EPS đều có khả năng tạo
phức với các kim loại nặng (Pries et al., 2006; Zhang et al., 2006) [14]. Quá trình
12
hấp phụ kim loại nặng thường tuân theo phương trình Langmuir hoặc Freundlich
(Bhaskar and Bhosle, 2006; Moon et al., 2006; Zhang et al., 2006)[15,16]. Hơn
nữa, EPS hòa tan có khả năng hấp phụ kim loại năng tốt hơn so với EPS liên kết từ
nước thải bùn (Comte et al., 2006a)[17].
Một vài loại khác của ion kim loại có trong môi trường xung quanh liên kết
được với EPS. Sự liên kết giữa EPS và cation hóa trị II, chẳng hạn như Ca2+ và
Mg2+ là một trong những liên kết quan trọng nhằm duy trì cấu trúc tổng hợp của vi
sinh vật (Mayer et al., 1999)[18]. Trong suốt quá trình hấp phụ kim loại nặng vào
bùn hoạt tính, một số nghiên cứu đã cho thấy rằng, nồng độ của Ca2+ và Mg2+ có
trong dung dịch tăng lên, điều này cho thấy cơ chế xử lý kim loại nặng có thể la cơ
chế trao đổi ion với Ca2+ và Mg2+ đã liên kết trước đó với thành phần EPS trong bùn
thải sinh học (Yuncu et al., 2006).
Khả năng phân hủy sinh học của EPS
Do thành phần chính của EPS là Carbohydrate và protein nên vi sinh vật có
thể sử dụng EPS được sinh ra từ các v khuẩn khác trong quần thể cho các hoạt động
chuyển hóa của mình [19]. Theo nghiên cứu của Wang (2007) cho rằng chỉ có phần
EPS nằm bên trong là có khả năng phân hủy sinh hoạc, còn phần EPS nằm bên ngoài
không bị phân hủy sinh học [19]. Park và Novak (2007) báo cáo rằng EPS khi được
tách chiết bằng các phương pháp khác nhau thì sẽ có khả năng phân hủy sinh học
khác nhau [12]. Ví dụ, EPS chiết bằng nhựa trao đổi ion (CER - Cation Exchange
Rasin) có khả năng phân hủy bằng phương pháp hiếu khí, trong khi EPS tách chiết
bằng phương pháp Sunfit lại có khả năng phân hủy bằng phương pháp kị khí.
Trong điều kiện cạn kiệt dinh dưỡng, vi sinh vật có thể sử dụng chính các
chất có phân tử nhỏ được sinh ta từ quá trình phân hủy EPS của mình làm nguồn
cacbon và nguồn năng lượng cho sự tăng trưởng của tế bào. Quá trình phân hủy của
EPS làm giảm khả năng tạo bông của vi sinh vật. Một phần EPS không bị phân hủy
có thể chảy cùng với nước thải từ các bể phản ứng và làm giảm chất lượng của nước
thải sau xử lý [7].
13
1.3.4. Các phương pháp tách EPS
EPS liên kết với tế bào vi sinh vật thông qua các liên kết như disulfide nối
cộng hóa trị nối các mạch phụ (nhóm R) lại với nhau, hay thông qua cầu nối cation
hóa trị II (Mg2+, Ca2+) v.v…[4]. Để tách được EPS ra khỏi tế bào vi sinh vật, cần
phá vỡ các liên kết này bằng các tác nhân lý học, hóa học hoặc sinh học khác nhau.
Có nhiều phương pháp tách khác nhau được sử dụng để tách EPS từ sinh khối của
vi sinh vật. Nguyên lý, ưu nhược điểm của các phương pháp tách được tóm tắt ở
Bảng 1.3.
Theo Nielsen và Jahn (1999), quy trình tách EPS có thể được chia làm 3
bước chính: (Bước 1) tiền xử lý mẫu, bao gồm công đoạn lấy mẫu, lưu giữ mẫu,
làm sạch mẫu và đồng nhất mẫu. Bước này có tác dụng làm phân tán các tế bào vi
khuẩn. Đối với trường hợp tách EPS từ màng sinh học và từ các loại vi khuẩn dạng
hạt, có kích thước nhỏ thì bước đồng nhất mẫu là quan trọng nhất. (Bước 2) tách
EPS từ mẫu môi trường sau khi đã được xử lý sơ bộ. (Bước 3) phân tích các thành
phần có trong EPS tinh sạch. Trong ba bước trên, bước tách EPS là khâu quan trọng
nhất. Tùy thuộc vào thành phần cấu tạo của EPS mà nên lựa chọn sử dụng các
phương pháp tách chiết phù hợp để mang lại hiệu quả cao nhất. Đối với loại EPS có
thể hòa tan và EPS có liên kết yếu với tế bào vi sinh vật thì phương pháp ly tâm
được sử dụng phổ biến nhất. Ngược lại, đối với loại EPS liên kết, người ta thường
phải sử dụng các phương pháp tách có tác động mạnh hơn tới liên kết của EPS với
tế bào vi sinh vật như siêu âm, nhiệt độ cao, hay các tác nhân hóa học (axit, bazơ
v.v.) [20].
Các phương pháp tách có thể được chia thành 3 nhóm chính: các phương
pháp vật lý, các phương pháp hóa học và phương pháp sinh học. Ngoài ra, còn có
các phương pháp kết hợp giữa nhiều tác nhân hóa lý sinh học khác nhau. Các
phương pháp vật lý sử dụng chủ yếu tác dụng của ngoại lực được tạo ra bởi sóng
siêu âm, lực ly tâm hay nhiệt độ nhằm kích thích EPS tách ra khỏi tế bào vi sinh vật
và tan trong dung dịch. Các phương pháp hóa học dựa trên tác động hóa học là sự
kết hợp giữa các hóa chất có khả năng phá vỡ liên kết của EPS với tế bào, đẩy
14
nhanh sự phân tách giữa EPS với tế bào (ví dụ như phương pháp NaOH, phương
pháp H2SO4, phương pháp EDTA, phương pháp ethanol, phương pháp
trichloroacetic, phương pháp HCHO, phương pháp glutaraldehyde, …). Các phương
pháp sinh học thì dựa trên cơ chế phân hủy carbohydrate và protein bằng enzyme
nhờ đó, phá vỡ cấu trúc bông bùn và giải phóng EPS vào môi trường.
Dựa vào kết quả của nhiều báo cáo, hiệu quả tách EPS của phương pháp tổng
hợp và phương pháp hóa học thường cao hơn so với phương pháp vật lí. Tuy nhiên,
các phương pháp hóa học cũng gặp phải vấn đề như ô nhiễm mẫu khi thêm một số
hóa chất phản ứng với EPS, hay gây ra những thay đổi trong thành phần hóa học và
tính chất của EPS. Vì thế mà việc lựa chọn ra được phương pháp tách chiết EPS phù
hợp với từng mục tiêu nghiên cứu/ứng dụng là rất cần thiết.
15
Bảng 1.3. Các phương pháp tách EPS
Tên phương pháp Cơ chế tách Ưu nhược điểm Tác nhân tách
Ly tâm Lực ly tâm
Nhiệt Nhiệt - Ít ảnh hưởng đến tế bào, ít gây vỡ tế bào. tách được - Chỉ lượng EPS bên ngoài tế bào. - Tách được đáng kể một lượng EPS từ tế bào
Phương pháp vật lý
siêu Siêu âm Sóng âm
EPS được tách ra từ bề mặt tế bào và hòa tan vào dụng dịch dưới tác động của lực ly tâm Dưới tác động của nhiệt độ cao, các phân tử của EPS dao động và hòa tan vào trong dung dịch Dưới tác dụng của các dao động tạo ra bởi song siêu âm, liên kết của EPS với sinh khối được phá vỡ.
- Phân hủy bông bùn và enzyme đạt hiệu quả cao. - Đây là phương pháp phổ biến nhất để tách EPS từ bùn đặc. - Phân hủy bông bùn một cách có hiệu quả. Axit H2SO4
Phương pháp hóa học
Kiềm NaOH
Làm tăng lực đẩy để phá vỡ lực liên kết giữa EPS với tế bào, nhờ đó tách được EPS ra khỏi tế bào Bổ sung thêm gốc Na làm cho liên kết giữa EPS với các cation hóa trị II yếu đi, giảm hoạt tính tạo bông của EPS - Làm tăng khả năng hòa tan EPS trong dung dịch. - Hiệu quả tách EPS khỏi tế bào cao.
16
CER Trao đổi ion - Tính chọn lọc cao đối với liên kết giữa EPS với Ca, Mg.
Loại bỏ các cation hóa trị II, do đó tách được EPS ra khỏi tế bào
EDTA EDTA
Cation hóa trị II đóng vai trò quan trọng trong liên kết tế bào. EPS với EDTA tạo phức tan với cation hóa trị II nhờ đó phá vỡ liên kết của EPS với tế bào
dụng
- Hiệu quả tách EPS cao. - Lượng dư của EDTA có thể gây ra ô nhiễm EPS sau khi tách. - Gây sai số với việc xác định protein bằng trong EPS phương pháp Lowry. - Hiệu suất chiết tách EPS thấp.
Enzymes Enzymes
Ethanol Ethanol
NaCl NaCl - Sử dụng đối với bùn lỏng. là phương - Đây pháp được sử dụng phổ biến. - Sử dụng đối với bùn lỏng. - Là phương pháp tiết kiệm kinh tế.
Lưu huỳnh Lưu huỳnh - Tính chọn lọc cao đơi với liên kết giữa EPS và Fe. các Sử có khả enzyme thủy phân năng và carbohydrate protein để phá vỡ cấu trúc bùn và giải phóng EPS Làm EPS biến tính và giảm lực liên kết giữa các tế bào, do đó EPS được tách ra NaCl nồng độ cao có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi cation, vì vậy EPS được tách dễ dàng Hình thành liên kết với FeS, phá vỡ liên kết giữa EPS và tế bào
17
HCHO NaOH HCHO kết hợp NaOH
Formaldehyde cố định tế bào nhờ đó, làm ảnh giảm hưởng của NaOH tới tế bào vi sinh vật khi tách EPS
Phương pháp kết hợp
- HCHO có thể làm thay đổi đặc tính của EPS và ảnh hưởng không tốt đến thành phần của EPS như protein, carbohydrate. - Hiệu quả phân hủy bông bùn cao.
NH4OH EDTA NH4OH kết hợp EDTA
là phương Đây pháp kết hợp nhằm điều chỉnh pH và ion để trao đổi nâng cao hiệu quả chiết tách
EPS có khả năng gắn kết cao với ion kim loại nên tiềm năng xử lý hay loại bỏ
kim loại của EPS là rất lớn. Theo Flemming và cộng sự (2000) [6] đã chứng minh rằng
EPS có khả năng loại bỏ kim loại Pb (0.13 mMol/mg EPS) và kim loại Cu (22ng/mg
EPS). Các hằng số ổn định Ni, Cu, Pb, Cd và Zn tạo phức vớ EPS phụ thuộc chủ yếu
vào pH. EPS hấp phụ kim loại với dung lượng tới 25% tính theo trọng lượng ẩm. EPS
được sản xuất bởi một số loài vi sinh vật chẳng hạn như Bacillus, Halomonas,
Herbaspirillum, Pseudomonas và Paenibacillus cũng được công nhận là các chất keo
tụ có tiềm năng loại bỏ kim loại trong nước thải (Lin and Harichund, 2012). Trong
nghiên cứu này cho thấy, EPS với hàm lượng từ 1-10mg/L có thể xử lý một lượng lớn
kim loại như Pb2+, Zn2+, và Hg2+ (lớn hơn 50%). Cũng loại EPS đó ở nồng độ 10000
mg/L có thể loại bỏ được kim loại Cd2+ ra khỏi nước thải với hiệu suất lên tới 95%. Khi
các ion kim loại xuất hiện với nồng độ cao (từ 300 ppm đến 800 ppm), EPS của
Zoogloea 115, Zoogloea 116M có khả năng hấp phụ các ion Co2+, Cu2+, Fe3+ và Ni2+
khi các nồng độ các ion này có mặt trong môi trường với nồng độ cao (từ 300 ppm –
800 ppm). Nghiên cứu của Ducan và các cộng sự (1987) cho thấy các vi sinh vật như
Zoogloea 115, P denitrifican, và Z filipendula có khả năng hấp phụ tốt các kim loại như
Cd2+, Cu2+, Zn2+, Co2+, Cr3+, Al3+, Ni2+ và Hg2+.
1.3.5. Ứng dụng của EPS trong xử lý kim loại
18
Nội dung trình bày ở phần nghiên cứu tổng quan cho thấy ô nhiễm kim loại nói
chung và Cu nói riêng đang là vấn đề nhức nhối ở nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp,
đặc biệt là các nhà máy liên quan tới sản xuất bản mạch điện tử. Nhiều phương pháp xử
lý kim loại khác nhau đã được áp dụng và nghiên cứu. Trong đó, EPS, một dạng
biopolymer sinh học, là một trong những vật liệu hấp phụ có tiềm năng lớn trong xử lý
kim loại. Đây cũng là vật liệu nguồn gốc sinh học nên có tính thân thiện môi trường
cao. Các công trình xử lý nước thải hiện đang phải xử lý lượng lớn bùn sinh học dư với
chi phí chiếm tới 1/3 chi phí vận hành của toàn hệ thống. Khi lượng bùn sinh học này
có thể được tận dụng để tách và thu hồi EPS nhằm mục đích xử lý kim loại sẽ là một
giải pháp tốt, thân thiện môi trường và tránh lãng phí tài nguyên.
19
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Bio-polymer tách từ bùn thải sinh học
- Kim loại (ion Cu2+) trong nước thải
- Bùn thải sinh học được nuôi cấy từ hệ thống xử lý nước thải
Phạm vi nghiên cứu
- Quy mô trong phòng phí nghiệm
- Địa điểm: Luận văn được thực thiện tại Phòng thí nghiệm Phòng giải pháp
công nghệ cải thiện môi trường - Viện Công nghệ Môi Trường
- Thời gian: Luận văn được thực hiện từ tháng 10/2-16 đến tháng 12/2017
2.2. Vật liệu thí nghiệm
2.2.1. Bùn thải
Bùn thải sử dụng trong nghiên cứu được nuôi dưỡng từ hệ thống xử lý nước
thải sinh hoạt trên qui mô phòng thí nghiệm. Bùn được lắng, gạn bỏ phần nước
trong và cô đặc tới nồng độ 13,5 g MLSS/L và bảo quản trong tủ lạnh ở điều kiện
nhiệt độ -40C để phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo.
Ưu điểm của việc nuôi cấy bùn thải trong phòng thí nghiệm là có thể chủ
động được lượng bùn, kiểm soát tốt được các thông số, chất lượng bùn, cũng như
các tính chất của bùn không bị thay đổi.
2.2.2. Nước thải
Mẫu nước chứa ion Cu2+ giả định nồng độ 250 mg/l được pha từ 0,97g
CuSO4.5H2O tinh khiết, định mức 1 lít.
Mẫu môi trường: Lấy từ nhà máy mạ đồng Phú Thái nồng độ Cu2+ 155 mg/l.
2.3. Thực nghiệm
2.3.1. Quy trình vận hành thiết bị pilot xử lý nước thải sinh hoạt để lấy sinh khối
tách EPS
Bùn thải sử dụng trong suốt thời gian nghiên cứu được lấy từ thiết bị pilot
AS-Tester phòng thí nghiệm (Dung tích phản ứng 10 L), tại Phòng Giải pháp công
20
nghệ Cải thiện Môi trường – Viện Công nghệ Môi trường. Nước thải sử dụng chạy
pilot được lấy từ sông Tô Lịch, đoạn đầu nguồn khu vực Hoàng Quốc Việt. Thiết bị
pilot được duy trì chạy tới khi ổn định, hàm lượng MLSS đạt 1500 – 2000 mg/L
(sau thời gian 2 tháng). Tính ổn định của hệ bùn xử lý được đánh giá thông qua hàm
lượng MLSS, hiệu quả xử lý COD và N. Sau khi thiết bị chạy ổn định, bùn được rút
ra lưu giữ trong tủ lạnh ở 4oC để phục vụ cho nghiên cứu tách chiết EPS và đánh giá
khả năng xử lý Cu của EPS.
2.3.2. Phương pháp tách thu EPS từ bùn thải sinh học nuôi cấy
Trước khi tách EPS, bùn được rửa sạch 2 lần bằng nước, cô đặc lại tới nồng
độ 13.5 g/L. Quy trình cụ thể của các phương pháp tách được mô tả trên Hình 2.1.
21
70 ml bùn sinh học
Rửa sạch hai lần
Ly tâm 2000rpm, trong 15 phút
Nhiệt
800C
trong
3ml NaOH 10M (24h, tại 40C)
30 phút
70ml EDTA muối 2% (3h, tại 40C)
1ml H2SO4 98% (24h, tại 40C)
1ml HCl 36% (24h, tại 40C)
Ly tâm 4000rp m trong 15 phút (40C)
0.42ml HCHO 36% (1h, 40C) 3ml NaOH 10M (24h, 40C)
Phương pháp hóa học Phương pháp vật lý
Ly tâm tại 4000rpm trong 15 phút (tại 40C)
Thu hồi dịch lỏng (EPS thô)
Thêm ethanol tỉ lệ 2:1 (24h, tại 40C)
Thu hồi chất rắn tinh (EPS tinh) Ly tâm 4000rpm tại 40C, trong 15 phút Hình 2.1. Quy trình tách EPS theo các phương pháp khác nhau
22
Các phương pháp tách EPS từ bùn thải được sử dụng gồm:
- Phương pháp vật lý: Ly tâm, nhiệt
- Phương pháp hóa học: H2SO4, HCl, NaOH, EDTA và HCHO kết hợp với
NaOH
Phương pháp tách polymer ngoại bào
Phương pháp ly tâm: 70ml bùn sinh học được ly tâm ở nhiệt độ 4oC, thời
gian 15 phút, ly tâm với lực 4000rpm [21]. Dưới tác dụng của lực ly tâm, EPS sẽ
được tách ra khỏi tế bào VSV và đi vào pha lỏng.
Phương pháp nhiệt: 70ml bùn sinh học được gia nhiệt ở nhiệt độ 800C, thời
gian 30 phút [16]. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, EPS sẽ được tách ra khỏi tế bào
vi sinh vật và đi vào pha lỏng.
Phương pháp HCl: Bổ sung 1ml HCl 36% vào 70 ml bùn sinh học sạch để
trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC, thời gian 24h. HCl sẽ phá vỡ liên kết giữa EPS với tế
bào sinh vật và giải phóng EPS vào pha lỏng. Sau đó đem ly tâm ở nhiệt độ 4oC,
thời gian 15 phút, ly tâm với lực 4000rpm. Phần lỏng chứa EPS sẽ được giữ lại
(được gọi là EPS thô).
Phương pháp H2SO4: Bổ sung 1ml H2SO4 98% vào 70 ml bùn sinh học sạch
để trong tử lạnh ở nhiệt độ 4oC, thời gian 24h. H2SO4 làm tăng lực đẩy để phá vỡ
lực liên kết giữa EPS với tế bào, nhờ đó tách được EPS ra khỏi tế bào. Sau đó đem
ly tâm ở nhiệt độ 4oC, thời gian 15 phút, ly tâm với lực 4000rpm. Phần lỏng chứa
EPS sẽ được giữ lại (được gọi là EPS thô).
Phương pháp EDTA: Bổ sung 70ml EDTA 2% (dạng muối và axít) vào 70ml
bùn sinh học sạch để trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC, thời gian 3h. EDTA tạo phức với
các cation hóa trị 2, phá vỡ liên kết giữa EPS và tế bào VSV và giải phóng EPS vào
pha lỏng. Sau đó đem ly tâm ở nhiệt độ 4oC, thời gian 15 phút, ly tâm với lực
4000rpm [59]. Phần lỏng chứa EPS sẽ được giữ lại (được gọi là EPS thô).
Phương pháp NaOH: Bổ sung 3ml NaOH 10M vào 70ml bùn sinh học sạch
để trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC, thời gian 24h. NaOH tác động vào liên kết giữa
cation hóa trị 2 với EPS theo cơ chế trao đổi ion, phá vỡ liên kết này, nhờ đó, EPS
23
được tách ra khỏi tế bào vi sinh vật và đi vào pha lỏng. Sau đó đem ly tâm ở nhiệt
độ 4oC, thời gian 15 phút, ly tâm với lực 4000rpm [22]. Phần lỏng chứa EPS sẽ
được giữ lại (được gọi là EPS thô).
Phương pháp Formaldehyde kết hợp với NaOH: Bổ sung 0.42ml
formaldehyde (HCHO) vào 70 ml bùn sinh học sạch để trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC,
thời gian 1h. Sau đó, bổ sung 3ml NaOH 10M vào hỗn hợp bùn và để phản ứng ở
nhiệt độ 4oC, thời gian 3h. Hỗn hợp sau phản ứng được ly tâm ở nhiệt độ 4oC, thời
gian 15 phút, ly tâm với lực 4000rpm để tách EPS [23].
2.4. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả xử lý ion kim loại Cu2+ của
polymer ngoại bào
2.4.1. Đánh giá ảnh hưởng của pH
Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của pH tới hiệu quả xử lý ion kim loại Cu2+
của EPS được thực hiện trên thiết bị Jatest (SJ-10, Yhana). EPS sử dụng là EPS
dạng thô.
Dung dịch nước thải chứa ion kim loại Cu2+ được chuẩn bị 6 cốc (100 mL)
với nồng độ 250 mg/L do đa số nồng độ kim loại đồng tại các làng nghề dao động
từ 150 mg/L đến 300 mg/L (Bảng 1.1). Dung dịch được khuấy với tốc độ 120
vòng/phút và được chỉnh pH về giá trị: 1; 2; 4; 6. Sau đó bổ sung EPS thô, dung
dịch được khuấy 1 giờ với tốc độ khuấy được giảm về 60 vòng/phút. Kết thúc quá
trình phản ứng, mẫu được để lắng 30 phút, phần nước trong sau đó được lấy để đo
nồng độ ion kim loại Cu2+ còn lại sau phản ứng hấp phụ. Xác định bằng cách hút
10ml dung dịch Cu(II) sau khi lắng và 1ml thuốc thử Nitrozo- R- Sol. Tiến hành đo
Abs so với mẫu trắng là 10 ml nước cất và 1ml thuốc thử. Dựa vào đường chuẩn ta
xác định được nồng độ còn lại của Cu(II) sau quá trình hấp phụ. Dựa vào nồng độ
ban đầu của Cu(II) ta tính được nồng độ của Cu(II) đã hấp phụ. Xác định pH tối ưu
để tiến hành các thí nghiệm tiếp theo.
2.4.2. Đánh giá ảnh hưởng của thời gian phản ứng
Đánh giá ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hiệu quả xử lý ion kim loại
Cu2+ của EPS. Dung dịch nước thải chứa ion kim loại Cu2+ được chuẩn bị với nồng
24
độ 250 mg/L. Dung dịch được chỉnh về pH tối ưu. Bổ sung thêm EPS thô và tiến
hành lắc trong máy lắc và lấy mẫu theo thời gian: 10 phút, 20 phút, 30 phút, 60
phút, 90 phút, 120 phút, 180 phút. Mẫu lấy ra theo thời gian được để lắng 30 phút,
phần nước trong được lấy để xác định nồng độ ion kim loại Cu2+ còn lại. Xác định
thời gian phản ứng tối ưu để tiến hành các thí nghiệm tiếp theo.
2.4.3. Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ EPS
Thí nghiệm được thực hiện trên thiết bị Jartest (SJ-10, Yhana). EPS được bổ
sung vào các bình với thể tích từ 1,5 – 12 mL, khuấy với tốc độ 60 vòng/phút trong
thời gian 2 giờ. Sau thời gian phản ứng, mẫu được để lắng trong thời gian 30 phút,
phần nước trong được lấy để đo nồng độ kim loại Cu2+ còn lại sau phản ứng hấp
phụ.
Hiệu quả xử lý kim loại Cu2+ được tính theo công thức sau:
trong đó:
H - Hiệu xuất xử lý (%);
C0 - Nồng độ ion kim loại Cu2+ trước phản ứng (mg/L);
C1 - Nồng độ kim loại Cu2+ sau phản ứng (mg/L).
2.5. Phương pháp phân tích
2.5.1. Xác định khối lượng EPS thu được
EPS trong dịch thu lại sau ly tâm được tinh sạch bằng cách kết tủa trong
Ethanol lạnh với tỷ lệ thể tích là 2 ethanol : 1 mẫu và để ở nhiệt độ -20oC qua đêm.
Mẫu sau kết tủa được ly tâm với lực ly tâm 4000rpm ở 4oC (Rotina 420R, Hettich
Zentrifugen) trong 15 phút để thu EPS tinh sạch. Khối lượng của EPS được xác
định bằng phương pháp trọng lượng sau khi sấy khô tới trọng lượng không đổi ở
nhiệt độ từ 50oC tới 60oC.
25
2.5.2. Phân tích hàm lượng protein, polysaccharide và acid nucleic trong polymer
ngoại bào
EPS trong dịch sau ly tâm được kết tủa trong ethanol lạnh với quy trình, ly
tâm (Rotina 420R, Hettich Zentrifugen), loại bỏ phần dịch lỏng. Phần EPS kết tủa
được hòa tan trong nước cất tới thể tích ban đầu. Dung dịch này được sử dụng để
phân tích protein, polysaccharide và nucleic acids. Protein được phân tích bằng
phương pháp Lowry với dung dịch chuẩn là BSA (Bovine Serum Albumin) [24].
Cacbonhydrate được xác định theo phương pháp Phenol – axit Sulfuric với dung
dịch chuẩn là glucose [25]. Axit nucleic được phân tích bằng phương pháp
Dyphenylamin.
2.5.3. Đo phổ hồng ngoại
Xác định nhóm chức trong EPS bằng phổ hồng ngoại IR: EPS được tinh sạch
bằng cách kết tủa trong ethanol, sau đó sấy khô ở nhiệt độ 50oC. 0,1 - 0,2 mg mẫu
sau khi đã sấy khô được trộn và nghiền kỹ với 100mg KBr. Sau đó, ép mẫu trên
máy có lực ép 5 tấn để tạo viên. Mẫu sau khi tạo viên được cho lên cửa sổ máy
quang phổ hồng ngoại để xác định thành phần nhóm chức.
2.5.4. Phân tích xác định Cu2+ bằng phương pháp phổ hấp phụ nguyên tử AAS theo
TCVN 6193: 1996
- Phân tích xác định Cu2+ bằng phương pháp phổ hấp phụ nguyên tử theo
TCVN 6193: 1996 trên thiết bị AAS- Thermo Fisher – Solar M6, tại Khoa Môi
Trường- Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
- Phân tích xác định Cu2+ bằng phương pháp đo quang trên thiết bị đo
quang phổ UV-VIS, tại phòng giải pháp công nghệ cải thiện môi trường – Viện
Công nghệ Môi trường
26
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần, đặc tính của EPS tách từ bùn thải bằng các phương pháp
khác nhau
3.1.1. Hàm lượng EPS
EPS sau khi được tách bằng các phương pháp vật lý, phương pháp hóa học
khác nhau, mẫu EPS được thu lại và đưa đi phân tích khối lượng bằng cách kết tủa
trong ethanol lạnh với tỉ lệ 2 ethanol : 1 EPS (quy trình được mô tả ở mục 2.4
chương 2). Kết quả phân tích khối lượng EPS tách bằng phương pháp khác nhau
được trình bày chi tiết tại Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả phân tích khối lượng, thành phần hóa học của EPS được tách
bằng các phương pháp khác nhau
Khối lượng Protein Polysaccharide Axit nucleic Phương pháp (mg EPS/g bùn) (mg /g bùn) (mg /g bùn) (µg /g bùn)
Ly tâm 3,333 0,055 0,072 0,063
Nhiệt 5,185 0,096 0,063 0,053
HCl 101,259 2,185 1,481 2,281
96,000 2,311 1,442 2,607 H2SO4
NaOH 39,259 2,681 0,841 5,600
HCHO + NaOH 25,556 2,119 0,607 5,148
EDTA 20,000 0,561 0,239 1,170
EPS là một trong những thành phần quan trọng đóng góp vào sự hình thành
lên các bông bùn sinh học trong hệ thống xử lý nước thải, vì vậy, trong bùn sinh học
luôn có chứa một lượng EPS nhất định [26, 27]. Tùy thuộc vào phương pháp tách
chiết EPS được sử dụng mà lượng EPS tách ra từ bùn sinh học có thể khác nhau.
Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng EPS tách được dao động từ 3,333 g
EPS/g bùn (phương pháp ly tâm) tới 101.259 mg EPS/g bùn (phương pháp HCl).
Hiệu quả tách tăng dần theo thứ tự sau: nhóm có hàm lượng EPS dưới 100 mg
27
EPS/L (phương pháp ly tâm, phương pháp nhiệt), nhóm có hàm lượng EPS dưới
1000 mgEPS/L (phương pháp NaOH, phương pháp NaOH kết hợp HCHO, phương
pháp EDTA), nhóm có hàm lượng EPS trên 1000 mgEPS/L (phương pháp HCl,
phương pháp H2SO4).
Kết quả khối lượng EPS cũng cho thấy hiệu suất tách của phương pháp vật lý
(ly tâm) thấp hơn nhiều so với pương pháp hóa học. Phương pháp vật lý như ly tâm
và nhiệt đươc sử dụng nhiều trong nghiên cứu khác nhau để đánh giá về hàm lượng
EPS có trong sinh khối [28]. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có khả năng tách EPS
ở dạng hòa tan hoặc liên kết yếu với tế bào vi sinh vật [29]. Trong bể bùn hoạt tính,
vi sinh chịu sự tách động mạnh do sự khuấy trộn bởi khí nên phần EPS có liên kết
yếu với tế bào vi sinh vật có khả năng bị giải phóng ra môi trường và chỉ còn lại
phần EPS liên kết tương đối chặt chẽ với tế bào vi sinh vật. Do đó, khi sử dụng
phương pháp ly tâm, lượng EPS tách được không cao.
Ngược lại, phương pháp tách bằng các tác nhân hóa học lại có khả năng tách
cả EPS dạng hòa tan và EPS dạng liên kết, do các tác nhân tách tạo phản ứng hóa
học với các cầu nối giữa EPS và tế bào vi sinh vật (khi bổ sung EDTA vào bùn sinh
học, EDTA tạo phức tan với cation hóa trị II nhờ đó phá vỡ liên kết của EPS với tế
bào vi sinh vật, hay bổ sung hóa chất NaOH, gốc Na tăng lên làm cho liên kết giữa
EPS với các cation hóa trị II yếu đi, do đó EPS được tách ra khỏi tế bào), nhờ đó
giải phóng được lượng EPS nhiều hơn vào pha lỏng.
Nhìn vào kết quả phân tích ta thấy được hàm lượng của EPS tách được của
phương pháp H2SO4 và phương pháp HCl (96 mg EPS/g bùn và 101,259 mg EPS/g
bùn) lớn hơn rất nhiều lần so với các phương pháp khác. Hàm lượng EPS lớn có thể
là do ngoài việc tách các hợp chất polymer có khối lượng phân tử cao nằm bên
ngoài tế bào thì các axit HCl và H2SO4 còn có khả năng phá vỡ tế bào và tách cả
những hợp chất hữu cơ phân tử lượng lớn nằm trong tế bào vi sinh vật (ví dụ: axit
nucleic, polysaccharide nội bào,…).
Kết quả cũng cho thấy, sử dụng HCHO làm giảm hiệu suất tách EPS. Trong
phương pháp tách với NaOH, khối lượng EPS giảm từ 39,259 mg EPS/g bùn
28
(phương pháp NaOH) xuống còn 25,556 mg EPS/g bùn (phương pháp HCHO +
NaOH). Nguyên nhân là do HCHO có khả năng phản ứng và gắn protein trong EPS
vào tế bào, cố định tế bào và làm tế bào trở nên vững chắc hơn, do đó làm giảm
lượng EPS tách được [39,69,76,77]. Mặc dù, HCHO làm giảm hiệu quả tách EPS
nhưng HCHO lại có khả năng bảo toàn tính chất của EPS và giảm thiểu các tác
động tiêu cực của tác nhân tách tới thành phần hóa học của EPS.
Kết quả phân tích hàm lượng EPS cho thấy, bằng việc sử dụng một phương
pháp tách phù hợp, hàm lượng EPS tách ra được từ bùn thải của hệ thống xử lý
nước thải được nuôi cấy tại phòng thí nghiệm có thể đạt từ 0.5 – 1.3 g/L (tương ứng
với khoảng 10% khối lượng của sinh khối). Lượng EPS thu được cũng tương đối
lớn so với quá trình lên men tổng hợp EPS thông thường (Bảng 3.2). So sánh kết
quả này cho thấy, bùn thải sinh học được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm là một
nguồn tiềm năng để thu hồi EPS vừa đơn giản, lại hiệu quả phục vụ các mục đích
xử lý môi trường.
Bảng 3.2. So sánh kết quả khối lượng EPS tách được với các nghiên cứu khác
Chủng VSV Môi trường EPS (g/L) Tài liệu tham khảo
Alcaligenes cupidus (KT 210) Đường Sucrose 0,6 [30]
Bacillus sp. F19 Đường Glucose 0,8 [31]
Klebsiella sp. N10 Nhân tạo 1,0 [32]
Proteus mirabilis (TJ-1) Đường Glucose 1,3 [33]
Bùn thải nuôi cấy 0,5 – 1.3 Kết quả của đề tài
EPS được tách từ bùn thải nuôi cấy trong phòng thí nghiệm
3.1.2. Thành phần hóa học của EPS thu được
Thành phần hóa học của EPS quy định tính chất và khả năng hấp phụ của
EPS. Như đã trình bày ở chương 1, EPS có thành phần khá phức tạp và là tổ hợp
của nhiều loại polymer khác nhau. EPS có thành phần chính là các hợp chất hữu cơ
có phần tử lượng lớn như protein, polysaccharide, humics, acid amin v.v…Trong
29
đó, protein và polysaccharide được cho là các thành phần quan trọng nhất. Ngoài ra,
nucleic acid cũng được quan tâm do nuclein acid là một chỉ thị đáng tin cậy để đánh
giá mức độ ảnh hưởng của các tác nhân hóa học và lý học tới quá trình phá vỡ và
phân hủy của tế bào vi sinh vật.
Kết quả phân tích thành phần hóa học của EPS được tách bằng các phương
pháp khác nhau được thể hiện tại Bảng 3.1. Kết quả cho thấy không chỉ khối lượng
EPS mà cả thành phần hóa học của EPS cũng có sự thay đổi một cách đáng kể tùy
thuộc vào phương pháp tách chiết EPS khác nhau. Hàm lượng protein có giá trị nằm
trong khoảng 0,063 mg/g bùn (phương pháp ly tâm) đến 5,6 mg/g bùn (phương
pháp NaOH). Hàm lượng polysaccharide có giá trị nằm trong khoảng 0,055 mg/g
bùn (phương pháp ly tâm) đến 2,681 mg/g bùn (phương pháp NaOH) và hàm lượng
nucleic acid có giá trị nằm trong khoảng 0,063 µg/ g bùn (phương pháp nhiệt) đến
1,481 µg/ g bùn (phương pháp HCl).
Hình 3.1 thể hiện tỉ lệ phần trăm của các thành phần hóa học trong tổng
khối lượng EPS thu tách được. Kết quả cho thấy EPS được tách bằng phương pháp
hóa học cho kết quả hàm lượng protein và polysaccharide chiếm tỉ lệ % nhiều hơn
so với hàm lượng acid nucleic, như đối với phương pháp NaOH kết hợp với HCHO
cho kết quả cao nhất, hàm lượng protein chiếm 20,14% tổng khối lượng EPS thu
được (69,5 mg Protein/ 345mg EPS), hàm lượng polysaccharide chiếm 8,29% tổng
khối lượng EPS thu được (28,6 mg Polysaccharide/345mg EPS), phương pháp
NaOH có hàm lượng protein thấp hơn chiếm 14,26% (75,6 mg Protein/ 530mg
EPS), hàm lượng polysaccharide chiếm 6,83% tổng khối lượng EPS thu được (36,2
mg Polysaccharide/530mg EPS), trong khi đó, cùng thuộc nhóm phương pháp hóa
học, phương pháp H2SO4, HCl và EDTA chỉ cho kết quả lần lượt là 2,25%; 2,72%
và 5,85% đối với hàm lượng Protein và 2,16%; 2,41% và 2,80% đối với hàm lượng
Polysaccharide.
Phương pháp ly tâm và phương pháp nhiệt có hàm lượng protein và
polysaccharide thấp hơn nhiều lần so với phương pháp hóa học, chiếm lần lượt là
1,89% và 1,01% tổng khối lượng EPS (đối với hàm lượng protein), chiếm lần lượt
30
là 1,64% và 1,84% (đối với hàm lượng polysaccharide). Bên cạnh đó, hàm lượng
acid nucleic được phân tích giữa các phương pháp không chênh lệch nhau nhiều,
dao động trong khoảng từ 1,19% đến 2,37%
Mặt khác, kết quả cũng cho thấy hàm lượng protein tăng nhiều hơn so với
hàm lượng polysaccharide. Nồng độ polysaccharide và protein trong EPS tăng đột
biến khi được tách bằng phương pháp hóa học chứng tỏ ngoài những hợp chất
polymer có khối lượng phân tử lớn nằm bên ngoài tế bào, thì các hợp chất hóa học
như NaOH, HCl, H2SO4, EDTA còn có khả năng phá vỡ tế bào và tách cả những
hợp chất hữu có phân tử lượng lớn nằm trong tế bào vi sinh vật như: DNA,
polysaccharide nội bào, protein nội bào. Vì nucleic acid là một trong những chất chỉ
thị cho hiện tượng tế bào bị phá vỡ [34]. Từ đó, hàm lượng protein, polysaccharide
và nucleic acid tăng lên đáng kể.
Hình 3.1. So sánh thành phần hóa học của EPS được tách bằng các phương pháp
khác nhau (PN, PS và AN là hàm lượng protein, polysaccharide và acid nucleic)
31
Bảng 3.1 Kết quả phân tích khối lượng, thành phần hóa học của EPS được
tách bằng các phương pháp khác nhau. Cho thấy, các phương pháp tách bằng tác
nhân hóa học cho EPS có hàm lượng protein, polysaccharide và nucleic acid cao.
Điều đó cũng chỉ ra rằng EPS tách bằng phương pháp hóa học có khả năng chứa cả
các hợp chất polymer ngoại bào lẫn các hợp chất polymer nội bào.
Thành phần hóa học của EPS (Protein, Polysaccharide và Nucleic Acid)
đóng vai trò quyết định tới hiệu suất xử lý ion kim loại Cu2+ do đây là các chất có
khối lượng phân tử lớn và có chứa các nhóm chức liên kết các cấu trúc của chúng.
Hình 3.2, 3.3 và 3.4 thể hiện mỗi tương quan giữa hiệu suất xử lý ion kim loại Cu2+
với các thành phần hóa học chính của EPS. Kết quả thể hiện ở các hình 3.2 - 3.4 cho
thấy, hàm lượng của Protein, polysaccharide và Nucleic acid trong EPS càng cao thì
hiệu quả xử lý kim loại của EPS càng lớn. Tuy nhiên, dựa vào hệ số tương đồng R2,
khả năng xử lý ion kim loại Cu2+ có mối quan hệ chặt chẽ nhất với hàm lượng
polysaccharide (R = 0,9589), tiếp theo là protein (R = 0,8775), độ tương đồng thấp
nhất là nucleic acid với R = 0,8075.
32
Hình 3.2. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Protein
33
Hình 3.3. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Polysaccharide
Hình 3.4. Mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý kim loại với hàm lượng Nucleic acid
Như đã trình bày ở trên, polysacchride là một trong những chỉ thị đánh giá
ảnh hưởng của phương pháp tách chiết tới tế bào vi sinh vật. Hàm lượng
polysaccharide cao thể hiện tế bào bị phá vỡ và các hợp chất polymer có trong nội
bào được giải phóng vào pha lỏng. Mối tương quan cao giữa hiệu quả xử lý ion kim
loại Cu2+ và polysaccharide gợi ý rằng các hợp chất polymer có ở trong tế bào vi sinh
vật đóng một vai trò lớn đối với hiệu quả xử lý kim loại của EPS tách ra từ bùn thải.
3.2. Kết quả phân tích phổ hồng ngoại
Các nhóm chức hiện diện trong cấu trúc của LB-EPS và TB-EPS sinh tổng
hợp bởi các chủng vi khuẩn trên môi trường bùn thải đã được phân tích, đo đạc
bằng phương pháp phổ hồng ngoại (IR)
Phổ hồng ngoại của EPS thu được từ 05 phương pháp đều cho thấy xuất hiện
các đỉnh nằm trong khoảng từ 3400 đến 3500 cm-1, thể hiện sự tồn tại của nhóm
34
chức NH2 [16, 35], đỉnh ở 1638 cm-1 thể hiện sự tồn tại của nhóm chức cacboxyl
(C=O) [8], và các đỉnh nằm trong khoảng 1100 cm-1 thể hiện sự tồn tại của nhóm
chức O-C (thuộc nhóm chức carboxylic axit và dẫn xuất của chủng) [35].
Các nhóm chức như NH2, C=O và O-C trong EPS được cho là có chức năng
liên kết, hấp phụ chất hữu cơ và đóng vai trò quyết định tới khả năng tạo bông của
EPS [35]. Đa số các nhóm chức có mặt trong cấu trúc của EPS đều mang điện tích
âm như C=O, O-C, chỉ có riêng nhóm chức NH2 là nhóm mang điện tích dương.
Điều này lý giải nguyên nhân EPS thể hiện hoạt tính thấp đối với các hệ hạt mang
điện tích âm như cao lanh hay các chất rắn lơ lửng trong nước khi không có sự hiện
diện của các cation đa hoá trị.
35
Hình 3.5. Phổ IR của EPS được tách bằng các phương pháp khác nhau
(a - Ly tâm; b - HCHO; c - NaOH; d - H2SO4; e - NaOH kết hợp HCHO).
36
3.3. Hiệu quả xử lý Cu2+ của EPS tách bằng các phương pháp khác nhau
của EPS thô và EPS tinh tách bằng
Hình 3.6. Thể hiện hiệu quả xử lý kim loại Cu2+
các phương pháp khác nhau
Từ trước đến nay, người ta vẫn coi phương pháp tách tốt nhất là phương
pháp có hiệu suất tách EPS cao và ít gây ảnh hưởng tới tế bào vi sinh vật (hạn chế
được quá trình phân hủy nội bào, được đánh giá qua hàm lượng axit nucleic có
trong EPS). Tuy nhiên, ảnh hưởng của các phương pháp tách tới hiệu quả xử lý kim
loại của EPS vẫn chưa được đề cập tới. Trong nội dung của phần này, ảnh hưởng
của phương pháp tách tới hiệu suất xử lý Cu2+ của EPS được đánh giá chi tiết với cả
EPS dạng thô và EPS dạng tinh.
37
Kết quả phân tích tại Hình 3.6 cho thấy hiệu quả xử lý kim loại Cu2+ bằng
EPS tách được phụ thuộc vào phương pháp tách rất nhiều, dao động từ 21,1 mg
Cu/g EPS (EPS tách bằng phương pháp ly tâm) đến 158,2 mg Cu/g EPS (EPS tách
bằng phương pháp NaOH) đối với EPS dạng tinh, còn đối với EPS dạng thô dao
động từ 116 mg Cu/g EPS ( EPS tách bằng phương pháp ly tâm) đến 513 mg Cu/g
EPS (EPS tách bằng phương pháp NaOH).
Hiệu xuất xử lý của EPS dạng tinh được tách bằng tất cả các phương pháp
đều cho kết quả dưới 10%, trong đó, hiệu quả lớn nhất đạt 9% và 8% lần lượt tương
ứng với phương pháp NaOH và phương pháp HCHO + NaOH (giảm được tương
ứng với 152,6 mg Cu/g EPS và 185,2 mg Cu/g EPS), các phương pháp còn lại đều
cho kết quả thấp dưới 5% (không có khả năng xử lý kim loại Cu2+).
Đối với EPS dạng thô, hiệu quả xử lý kim loại Cu2+ đạt kết quả dưới 10%
(phương pháp ly tâm, phương pháp nhiệt, phương pháp HCl và phương pháp
EDTA), hiệu quả trên 10% (phương pháp H2SO4, phương pháp NaOH và phương
pháp HCHO + NaOH). Trong đó, phương pháp cho hiệu quả xử lý cao gồm phương
pháp NaOH và HCHO + NaOH lần lượt là 18% và 23% (tương đương giảm được
406,0 mg Cu/g EPS và 513,6 mg Cu/g EPS).
Kết quả tại Hình 3.6 cho thấy EPS dạng thô cho hiệu suất xử lý cao hơn so
với EPS dạng tinh. Nguyên nhân có thể là do quá trình kết tủa EPS bằng ethanol
lạnh chưa triệt để và do yếu tố pH ảnh hưởng tới hiệu suất kết tủa protein và
polysaccharide. Protein và polysaccharide kết tủa trong ethanol với hiệu suất cao ở
pH từ 5,6 – 6, pH của các phương pháp NaOH, NaOH kết hợp HCHO nằm trong
khoảng 8-9 không nằm khoảng tối ưu nên hiệu suất kết tủa polysacharide, protein
thấp. Muốn có EPS dạng tinh phải trải qua những công đoạn phức tạp và phải để
trong khoảng thời gian dài nên có thể đã ảnh hưởng tới tế bào của vi sinh vật (xảy ra
quá trình phân hủy nội bào). Do đó thành phần hóa học của EPS dạng tinh tách
được có thể thấp hơn so với EPS dạng thô.
Kết quả thử nghiệm nêu trên cho thấy sau xử lý bằng hóa chất, EPS thô có thể
được sử dụng trực tiếp để hấp phụ Cu2+. Đây cũng là một ưu điểm thuận lợi cho việc áp
38
dụng EPS để xử lý kim loại ở quy mô thực tế do EPS có thể được sử dụng trực tiếp
không cần qua bước tinh sạch.
3.4. Thử nghiệm đánh giá khả năng xử lý ion kim loại Cu2+ của EPS
3.4.1. Ảnh hưởng của pH đến hiệu quả xử lý
Cho 0,11g EPS hấp phụ với 100 ml dung dịch Cu2+ có nồng độ ban đầu là
250 mg/L. Hỗn hợp được tiến hành hấp phụ với tốc độ khấy 120 vòng/phút không
đổi. pH của dung dịch hấp phụ được thay đổi từ pH = 1-5,5. Kết thúc quá trình hấp
phụ, tiến hành lọc xác định nồng độ Cu2+ còn lại trong dung dịch bằng phương pháp
hấp phụ nguyên tử AAS. Từ đó xác định được ảnh hưởng của pH đến lượng hấp
phụ của EPS.
Tiến hành khảo sát ảnh hưởng pH đến khả năng hấp phụ Cu(II) của vật liệu
thu được kết quả như Bảng 3.3
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH đến khả năng hấp phụ của Cu(II)
Cu(II) ban đầu Cu(II) sau hấp phụ Hiệu suất hấp phụ STT pH (mg/L) (mg/L) (%)
1 250 1.21 200 20
2 250 2.39 200 20
3 250 3.3 170 32
4 250 4.24 12 50
5 250 5.5 11.5 43
39
Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ Cu(II) của EPS
Từ bảng 3.3 và hình 3.7 cho thấy dung lượng hấp phụ tốt nhất của EPS đạt
cao nhất khi pH = 4.5 – 5.5. Ở pH thấp, các nhóm chức của EPS bị proton hóa và
tích điện dương dẫn đến giảm hiệu quả hấp phụ đồng. Khi pH tăng lên, mật độ điện
tích (-) tăng và do đó làm tăng hiệu quả xử lý. Thí nghiệm không thực hiện ở pH
cao hơn 5.5 do ở pH cao, Cu sẽ bị kết tủa và khó đánh giá được giữa hiệu quả của
quá trình hấp phụ và quá trình kết tủa.
Kết quả thu được cho thấy ở pH = 4.5 EPS được tách bằng phương pháp
NaOH kết hợp với HCHO có khả năng hấp phụ Cu (II) tốt nhất, đạt tới 50%.
3.4.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hiệu quả xử lý
Thời gian hấp phụ trao đổi của Cu2+ được khảo sát bằng cách lấy 0,1g vật liệu EPS cho lần lượt vào 100 ml dung dịch Cu2+ có nồng độ ban đầu là 250 mg/L. Thực hiện quá trình hấp phụ và trao đổi trong khoảng thời gian khuấy khác nhau lần lượt là 10 phút, 20 phút, 30 phút, 60 phút, 120 phút và 180 phút với tốc độ khuấy cố định là 120 vòng/phút. Kết thúc quá trình hấp phụ, tiến hành lọc xác định cố định nồng độ Cu2+ còn lại trong dung dịch và tính được dung lượng hấp phụ của vật liệu ở Bảng 3.4.
40
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian đến khả năng hấp phụ Cu(II) của
EPS được tách bằng phương pháp EPS được thể hiện trên Bảng 3.4.
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát ảnh hưởng thời gian đến khả năng hấp phụ Cu(II) của EPS
STT Cu(II) ban đầu Thời gian Cu(II) sau hấp phụ Hiệu suất hấp phụ
(mg/L) (phút) (mg/L) (%)
1 250 10 250 0
2 250 20 134,39 48,31
3 250 30 132.01 49,56
4 250 60 123,03 52,68
5 250 90 126,31 51,42
6 250 120 126,57 51,32
7 250 180 126,75 51,25
Hình 3.8. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng thời gian đến khả năng hấp phụ Cu(II) của EPS
41
Từ bảng 3.4 và hình 3.8 ta có thể thấy khi tăng thời gian thực hiện hấp phụ
của vật liệu từ 10 đến 60 phút dung lượng hấp phụ trao đổi của vật liệu đối với Cu2+
tăng lên từ 0 mg/L đến 126,97 mg/L. Kết quả cho thấy chỉ sau 60 phút thì khả năng
hấp phụ Cu(II) của EPS được tách bằng phương pháp NaOH kết hợp với HCHO
gần như bão hòa. Nguyên nhân là do quá trình hấp phụ và trao đổi của EPS cần có
thời gian nhất định để các ion Cu2+ có thời gian khuếch tán di chuyển sâu vào cấu
trúc bên trong mao quản để thực thiện quá trình hấp phụ, đồng thời khi thời gian
tương tác quá lâu, quá trình trung hòa axit bởi một số hợp chất kiềm và cacbonate
trong EPS làm tăng pH của dung dịch dẫn đến giảm khả năng hòa tan của ion kim
loại Cu2+. Do vậy khi tăng thời gian thực hiện hấp phụ của EPS dung lượng hấp phụ
tăng lên. Các kết quả cũng cho thấy khi thời gian thực hiện quá trình hấp phụ của
EPS trên 60 phút thì dung lượng hấp phụ của EPS đối với ion Cu2+ có chút giảm
nhẹ chứng tỏ thời gian hấp phụ của EPS tại 60 phút đã đạt tới trạng thái cân bằng.
Như vậy trong các quá trình khảo sát tiếp theo ta sẽ lựa chọn pH = 4,5 và
thời gian hấp phụ là 60 phút để nghiên cứu.
3.4.3. Ảnh hưởng của nồng độ EPS tới hiệu quả xử lý
Hình 3.9 trình bày kết quả thử nghiệm tách chiết ion kim loại Cu2+ bằng EPS thu tách được ở các nồng độ khác nhau từ 0,02 g EPS đến 0,16 g EPS (thời
gian tương tác 60 phút, pH = 4,5, tốc độ khuấy 120 vòng/phút).
42
Hình 3.9. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng nồng độ EPS đến khả năng hấp phụ Cu(II)
Kết quả nghiên cứu ở hình 3.9 cho thấy, hiệu suất loại bỏ kim loại đạt hiệu
quả cao từ từ 104,2 mg Cu/g EPS đến 610 mg Cu/g EPS khi bổ sung thêm lượng
EPS dao động từ 0,02 g EPS đến 0,16 g EPS. Hiệu quả xử lý ion kim loại Cu2+ tăng
theo bội số lượng EPS được thêm vào thí nghiệm (từ 0,02 g EPS đến 0,09 g EPS).
Trong khi đó, hiệu suất của kim loại Cu2+ gần như không có sự chênh lệch nhiều khi
tăng nồng độ EPS từ 0,11 g đến 0,16 gam. Như vậy, nồng độ tối ưu để xử lý ion
kim loại Cu2+ trong bùn thải của EPS là 0,11 g EPS tương đương loại bỏ được 568,5
mg Cu/g EPS
3.5. Kết quả thử nghiệm xử lý ion kim loại Cu2+ của EPS đối với mẫu
nước thải thực tế
* Mẫu môi trường:Nước thải được lấy tại nhà máy mạ đồng Phú Thái. Mẫu
được xử lý bảo quản bằng cách axit đến pH ≤ 2 và được lọc ngay sau khi xử lý.
43
* Tiến hành:
Cho 500 ml dung dịch mẫu ở trên có nồng độ ban đầu là (155 mg/l) tiến hành
chạy Jar-test bằng EPS tách thu từ phương pháp NaOH kết hợp với HCHO. Điều kiện
tối ưu thủ nghiệm tại pH = 4,5; thời gian 60 phút; nồng độ EPS dao động từ 20,25 mg
EPS/L đến 135 mg EPS/L. Kết thúc tiến hành phân tích xác định lại nồng độ Cu2+
còn lại trong nước thải bằng phương pháp hấp phụ nguyên tử AAS. Từ đó tính toán
và xác định được hiệu quả xử lý của vật liệu đối với mẫu nước thải thực tế.
* Kết quả: Căn cứ vào kết quả trong phần 3.2, ta tiến hành thử nghiệm khả năng xử lý
kim loại Cu2+ bằng EPS được tách bởi phương pháp NaOH trên mẫu nước thải nhà mày
mạ đồng Phú Thái (nồng độ ban đầu Co = 155 mg/L, pH ban đầu = 1,97). Thông số pH
được khống chế trong khoảng 4,5 để đảm bảo không xảy ra hiện tượng kết tủa kim loại.
Hình 3.10. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng nồng độ của EPS đến khả năng hấp phụ Cu(II)
44
Kết quả Hình 3.10 cho thấy, ở điều kiện pH 4.5, hiệu quả xử lý kim loại Cu2+
của EPS được tách bằng phương pháp NaOH kết hợp với HCHO tăng dần khi ta
đồng thời tăng nồng độ EPS từ 0,02 g EPS lên 0,14 g EPS.
Nước thải nhà máy mạ đồng Phú Thái có nồng độ ban đầu C0 = 155 mg
Cu/L, sau khi bổ sung 0,02 gam EPS thì hiệu suất xử lý kim loại Cu đạt 11,7% tức
giảm được 20,32 mg Cu/g EPS.
Tiếp tục tăng lượng EPS được bổ sung vào nước thải, kết quả cho thấy hàm
lượng ion kim loại Cu2+ bị loại bỏ tiếp tục tăng lên tới 118,2mg Cu/g EPS khi bổ
sung 0,11g EPS.
Khi tăng lượng EPS cần bổ sung vào thí nghiệm lên 0,14g EPS, kết quả cho
thấy thấy hàm lượng ion kim loại Cu2+ bị loại bỏ tăng nhẹ từ 118,2mg Cu/g EPS lên
125,6mg Cu/g EPS. Điều này cho thấy lượng EPS tối ưu nhất được tách bằng
phương pháp NaOH kết hợp HCHO là 0,11gam với 100ml mẫu tương ứng đạt hiệu
quả xử lý tốt nhất, giảm được 118,2mg Cu/g EPS.
45
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bẩy phương pháp tách chiết khác nhau đã được nghiên cứu để tách EPS từ bùn
thải sinh học được nuôi cấy trong phòng phòng thí nghiệm tại Viện Công nghệ Môi
trường để lựa chọn ra được phương pháp phù hợp để tách EPS phục vụ mục đích xử lý
kim loại Cu2+. Các kết quả chính đạt được của luận văn cụ thể như sau:
1. Hàm lượng EPS tách được dao động từ 0,045 mg/L đến 1,367 mg/L. Các
phương pháp hóa học cho hiệu suất tách EPS cao hơn nhiều so với phương pháp vật lý.
Trong đó, NaOH và HCHO kết hợp NaOH là hai phương pháp tốt nhất
2. Hàm lượng protein, polysaccharide và nuleic acid có trong EPS tách
bằng phương pháp NaOH kết hợp HCHO là cao nhất, lần lượt là 69,5 mg protein/L,
28,6 mg polysaccharide/L và 8,19 µg nucleic acid/L (tương ứng với 20,14%, 8,29%
và 3,9%)
3. Thử nghiệm khả năng xử lý Cu cho thấy NaOH kết hợp HCHO là phương
pháp tách phù hợp nhất do cả EPS thô và tinh đều có khả năng xử lý kim loại Cu với
hiệu suất cao.
4. Nghiên cứu chi tiết khả năng xử lý kim loại Cu2+ của EPS tách bằng
HCHO-NaOH cho thấy:
- EPS thể hiện khả năng xử lý kim loại tốt ở khoảng pH axit (pH < 6).
- Nồng độ EPS phù hợp để xử lý kim loại dao động từ 100-200 mg EPS/L.
Ở điều kiện tối ưu, hiệu suất xử lý kim loại Cu2+ đạt được là loại bỏ 568,5 mg
Cu/g EPS với 0,11 g EPS khi sử dụng EPS tách bằng phương pháp NaOH kết hợp
HCHO.
2. Kiến nghị
Do giới hạn về thời gian nghiên cứu nên kết quả của luận văn mới chỉ dừng lại ở
các kết luận như trên. Tuy nhiên, các kết quả đạt được đã cho thấy EPS tách từ bùn thải
là một hướng nghiên cứu có nhiều tiềm năng và cần được tiếp tục nghiên cứu. Từ quá
trình nghiên cứu tổng quan tài liệu và quá trình thực nghiệm, một số nội dung nghiên cứu
tiếp theo của hướng nghiên cứu này được đề xuất, cụ thể như sau:
46
1. Nghiên cứu thử nghiệm trực tiếp khả năng áp dụng của EPS trên nước thải
nhiễm kim loại Cu2+ từ các khu công nghiệp, nhà máy khác nhau.
2. Nghiên cứu đánh giá thêm khả năng hấp phụ các kim loại khác bằng EPS, đặc
biệt là các kim loại khó kết tủa ở điều kiện pH trung tính.
3. Tối ưu hóa phương pháp tách trên nhiều yếu tố hơn để thu được EPS chất lượng
tốt nhất, đem lại hiệu quả kinh tế cao như nồng độ của NaOH, nồng độ HCHO, nhiệt
độ,...
4. Xây dựng các nghiên cứu sâu về thành phần quyết định tới khả năng hâp phụ
kim loại của EPS để từ đó tối ưu được phương pháp tách và phương pháp thu hồi EPS
nhằm đạt được dung lượng hấp phụ cao
5. Nghiên cứu khả năng tuần hoàn, tái sử dụng các hóa chất tách để nâng cao khả
năng áp dụng của phương pháp.
6. Nghiên cứu khả năng thu hồi lượng kim loại đồng để không làm ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường sau khi đã loại bỏ từ nước thải ban đầu.
47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Liu, Y. and H.H. Fang, Influences of extracellular polymeric substances (EPS)
on flocculation, settling, and dewatering of activated sludge. 2003.
2. More, T., et al., Extracellular polymeric substances of bacteria and their
potential environmental applications. Journal of environmental management, 2014.
144: p. 1-25.
3. Wingender, J., T.R. Neu, and H.-C. Flemming, What are bacterial extracellular
polymeric substances?, in Microbial extracellular polymeric substances. 1999,
Springer. p. 1-19.
4. Wingender, J., T.R. Neu, and H.-C. Flemming, Microbial extracellular
polymeric substances: characterization, structure, and function. 1999: Springer
Science & Business Media.
5. Brown, M.J. and J.N. Lester, Comparison of bacterial extracellular polymer
extraction methods. Applied and Environmental Microbiology, 1980. 40(2): p. 179-185.
6. Flemming, H.-C., et al., Physico-chemical properties of biofilms. Biofilms:
recent advances in their study and control. Amsterdam: Harwood Academic
Publishers, 2000: p. 19-34.
7. Donlan, R.M., Biofilms: microbial life on surfaces. Emerg Infect Dis, 2002. 8(9).
8. Li, X. and S. Yang, Influence of loosely bound extracellular polymeric
substances (EPS) on the flocculation, sedimentation and dewaterability of activated
sludge. Water Research, 2007. 41(5): p. 1022-1030.
9. Sutherland, I.W., Structure-function relationships in microbial
exopolysaccharides. Biotechnology advances, 1994. 12(2): p. 393-448.
10. Comte, S., G. Guibaud, and M. Baudu, Effect of extraction method on EPS
from activated sludge: an HPSEC investigation. Journal of hazardous materials,
2007. 140(1): p. 129-137.
11. Cheremisinoff, N.P., Handbook of water and wastewater treatment
technologies. 2001: Butterworth-Heinemann.
12. Flemming, H. and A. Leis, Sorption properties of biofilms. Encyclopedia of
environmental microbiology. John Wiley & Sons, Inc., New York, NY. doi, 2003.
48
10: p. 0471263397.
13. Liu, H. and H.H. Fang, Extraction of extracellular polymeric substances (EPS)
of sludges. Journal of Biotechnology, 2002. 95(3): p. 249-256.
14. Zhang, J., et al., Characterization of a bioflocculant produced by the marine
myxobacterium Nannocystis sp. NU-2. Applied microbiology and biotechnology,
2006. 59(4-5): p. 517-522.
15. Moon, P., P. Carrott, and M.R. Carrott, Application of different equations to
adsorption isotherms of phenolic compounds on activated carbons prepared from
cork. Carbon, 2006. 44(12): p. 2422-2429.
16. Zhang, J., et al., Production of an exopolysaccharide bioflocculant by
Sorangium cellulosum. Letters in applied microbiology, 2006. 34(3): p. 178-181.
17. Comte, S., G. Guibaud, and M. Baudu, Relations between extraction protocols
for activated sludge extracellular polymeric substances (EPS) and EPS
complexation properties: Part I. Comparison of the efficiency of eight EPS
extraction methods. Enzyme and Microbial Technology, 2006. 38(1): p. 237-245.
18. Mayer, C., et al., The role of intermolecular interactions: studies on model
systems for bacterial biofilms. International journal of biological macromolecules,
1999. 26(1): p. 3-16.
19. Frølund, B., et al., Extraction of extracellular polymers from activated sludge
using a cation exchange resin. Water research, 1996. 30(8): p. 1749-1758.
20. Sheng, G.-P., H.-Q. Yu, and X.-Y. Li, Extracellular polymeric substances (EPS)
of microbial aggregates in biological wastewater treatment systems: a review.
Biotechnology Advances, 2010. 28(6): p. 882-894.
21. Bezawada, J., et al., Production of extracellular polymeric substances (EPS) by
Serratia sp. 1 using wastewater sludge as raw material and flocculation activity of
the EPS produced. Journal of environmental management, 2013. 128: p. 83-91.
22. Späth, R., H.-C. Flemming, and S. Wuertz, Sorption properties of biofilms.
Water Science and Technology, 1998. 37(4): p. 207-210.
23. Jorand, F., et al., Hydrophobic/hydrophilic properties of activated sludge
49
exopolymeric substances. Water Science and Technology, 1998. 37(4): p. 307-315.
24. Sani, R.K. and U.C. Banerjee, Decolorization of triphenylmethane dyes and
textile and dye-stuff effluent by Kurthia sp. Enzyme and Microbial Technology,
1999. 24(7): p. 433-437.
25. Delee, W., et al., Anaerobic treatment of textile effluents: a review. Journal of
chemical technology and biotechnology, 1998. 73(4): p. 323-335.
26. Lee, M., et al., Design of carbon beds to remove humic substances. Journal of
Environmental Engineering, 1983. 109(3): p. 631-645.
27. Wu, J.-Y. and H.-F. Ye, Characterization and flocculating properties of an
extracellular biopolymer produced from a Bacillus subtilis DYU1 isolate. Process
Biochemistry, 2007. 42(7): p. 1114-1123.
28. Carrott, P., et al., Separating surface and solvent effects and the notion of
critical adsorption energy in the adsorption of phenolic compounds by activated
carbons. Langmuir, 2005. 21(25): p. 11863-11869.
29. Mishra, A. and M. Bajpai, The flocculation performance of Tamarindus
mucilage in relation to removal of vat and direct dyes. Bioresource technology,
2006. 97(8): p. 1055-1059.
30. Zheng, Y., et al., Production and characteristics of a bioflocculant produced by
Bacillus sp. F19. Bioresource Technology, 2008. 99(16): p. 7686-7691.
31. Feng, D.L. and S.H. Xu, Characterization of bioflocculant MBF3-3 produced by
an isolated Bacillus sp. World Journal of Microbiology and Biotechnology, 2008.
24(9): p. 1627-1632.
32. Yang, Q., et al., A novel bioflocculant produced by Klebsiella sp. and its
application to sludge dewatering. Water and Environment Journal, 2012. 26(4): p.
560-566.
33. Pan, X., et al., A comparison of five extraction methods for extracellular
polymeric substances (EPS) from biofilm by using three-dimensional excitation-
emission matrix (3DEEM) fluorescence spectroscopy. Water Sa, 2010. 36(1): p.
50
34. Carrott, P., et al., Influence of surface ionization on the adsorption of aqueous
zinc species by activated carbons. Carbon, 1997. 35(3): p. 403-410.
111-116.
35. D’Abzac, P., et al., Extraction of extracellular polymeric substances (EPS) from
anaerobic granular sludges: comparison of chemical and physical extraction
protocols. Applied microbiology and biotechnology, 2010. 85(5): p. 1589-1599.
51