Đi tìm mô hình quản trị công ty theo
kiểu Việt Nam
Điểm mấu chốt nhất của "quản trị công ty"
là tạo ra được một Hội đồng quản trị có đủ
“tầm” để chỉ đạo và kiểm soát công ty. Theo
thông lệ quốc tế, Hội đồng quản trị là một
cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh nghiệp - nơi vạch ra
những chiến lược và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, một công ty có nhiều đối tượng
hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành
các nhóm có lợi ích xung đột với nhau. "Quản trị công ty" là
việc cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu cho công
ty nhằm phát huy được tính hiệu quả, công khai, minh bạch,
góp phần bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức cạnh
tranh cho chính bản thân doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm
"quản trị công ty" ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tương đối
mới, nhiều người thường nhầm lẫm “quản trị công ty” và
“quản lý”!
Điểm mấu chốt nhất của "quản trị công ty" là, tạo ra được một hội
đồng quản trị (HĐQT) có đủ “tầm” để chỉ đạo và kiểm soát công
ty. Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao
nhất của doanh nghiệp - nơi vạch ra những chiến lược và giám
sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. GS. Martin
Hilb, Giám đốc điều hành Viện quản lý nhân sự và lãnh đạo
(Trường đại học St. Gallent, Thuỵ Sỹ), cho rằng: “Điều kiện tiên
quyết đầu tiên của văn hoá quản lý được đặc trưng bởi những
phê bình mang tính xây dựng và lòng tin vào sự lựa chọn một
HĐQT mẫu mực và đa năng; Thứ hai, HĐQT bao gồm những
người có vai trò hình mẫu cho cả cổ đông và các bên có lợi ích
liên quan”. Đây quả là một vấn đề mới mẻ
đối với Việt . Những điểm yếu
kém trong "quản trị
công ty" hiện nay
* Hướng dẫn về
“quản trị công ty”
của hầu hết các
nước đều đề xuất
“một phương thức
tiếp cận cho mọi
hoàn cảnh” mà điều
này rất nguy hiểm.
Điều này có thể hỗ
trợ quản trị tốt,
nhưng không đảm
bảo rằng, quản trị
một công ty sẽ là
hoàn hảo;
* Thiếu những định
hướng chiến lược
trong nhiều hoạt
động của ban lãnh
đạo;
* Lựa chọn, thẩm
định, xác định mức
lương thưởng và
phát triển ban lãnh
đạo thường thiếu sự
liên kết và tính
chuyên nghiệp;
* Thiếu kiến thức
chuyên sâu trong
kiểm toán, quản lý
rủi ro, giao tiếp và
đánh giá ở cấp quản
lý.
TS. Nguyễn Thế Thọ, Trưởng ban Quản lý (GS. Martin Hilb,
phát hành (Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) Giám đốc điều hành
cho biết: “Các công ty của Việt chưa quen Viện quản lý nhân
với nguyên tắc "quản trị công ty" theo thông sự và lãnh đạo,
lệ quốc tế. Bản thân các cổ đông hầu hết Trường đại học St.
cũng chưa nhận thức được những lợi ích Gallent, Thuỵ Sỹ).
của "quản trị công ty” trong việc giúp HĐQT
kiểm soát công ty được tốt hơn”. Ông Lê Công ích, Phó tổng
giám đốc Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng (Vinaconex),
nói: “Hiện nay, cơ cấu HĐQT ra làm sao, tiêu chuẩn, chức năng
như thế nào, chúng ta cũng chưa rõ, bởi còn quá nhiều thành
viên vào HĐQT là do nhiều nhân tố khác chứ không phải nhân tố
“quản trị công ty” tốt”.
Theo TS. Lê Đăng Doanh, doanh nghiệp Nhà nước hiện có đầy
đủ các thể chế cần thiết cho “quản trị công ty” như: HĐQT, giám
đốc điều hành, ban kiểm soát, đại hội công nhân viên chức, công
đoàn. Về lý thuyết, “quản trị công ty” tại các doanh nghiệp Nhà
nước phải vận hành rất tốt. Thế nhưng, thực tế lại không phải
vậy. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, công bố lần đầu vào ngày
17/8/2006, đã tiết lộ những yếu kém trầm trọng và có tính hệ
thống tại hầu hết các Tổng công ty Nhà nước như: hiệu quả kinh
doanh thấp hoặc thua lỗ, công tác quản lý kinh tế, tài chính và kế
toán còn nhiều tồn tại... Ông Lê Công ích phân tích: “Qua các báo
cáo kinh tế vừa rồi, tôi thấy rất rõ hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp Nhà nước kém lắm. Rất nhiều doanh nghiệp, nếu tính một
cách sòng phẳng ra thì có lẽ đã phá sản rồi, nhưng mình cứ níu
kéo lại thôi”.
Đối với doanh nghiệp tư nhân, tình hình cũng không mấy khả
quan. Đến thời điểm này, cách “quản trị công ty” theo kiểu “công
ty gia đình” hay theo “thuận tiện” vẫn đang là mô hình chiếm tỷ
trọng lớn trong các doanh nghiệp tư nhân của Việt . Đây cũng
được coi là mô hình phù hợp với tâm lý và thói quen kinh doanh
của người Việt . Thế nhưng, chính tập tục và thói quen này của
các doanh nghiệp Việt Nam lại gây ra những khó khăn khó lường
khi tiếp cận với các nguyên tắc về quản trị cấp cao của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng như các nguyên tắc
quản trị từ các nước kinh tế phát triển.
Vấn đề đặt ra, tại sao “quản trị công ty” của các doanh nghiệp
Việt lại kém? Có 3 nguyên nhân chính có thể lý giải điều này:
Thứ nhất, chúng ta vẫn chưa bắt nhịp kịp với những thông lệ tốt
nhất trong quản trị công ty. Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã có hiệu
lực từ 1/7/2006, trong đó, quy định khá rõ về quản trị doanh
nghiệp theo thông lệ quốc tế, nhưng đến nay, do chưa có Nghị
định hướng dẫn, nên các doanh nghiệp chưa có đủ cơ sở pháp lý
để thực hiện;
Thứ hai, môi trường kinh tế và môi trường pháp lý chưa được
đồng bộ, thông thoáng để có thể “quản trị công ty” tốt. Thực tế,
58% công ty tư nhân cho rằng chịu tác động trực tiếp hoặc ảnh
hưởng xấu từ các vấn đề liên quan do “quản trị công ty” tồi của
chính doanh nghiệp mình, hoặc các doanh nghiệp khác mang lại.
Thế nhưng, có tới 36% công ty lại cho rằng, Ban giám sát chỉ tồn
tại trên giấy tờ do pháp luật quy định!
Thứ ba, nguồn nhân lực của chúng ta chưa đáp ứng yêu cầu
“quản trị công ty”. Sự hiểu biết về “quản trị công ty” trong kinh
doanh, trong xã hội Việt còn rất mới mẻ, rất hạn chế. Nhiều giám
đốc và thành viên HĐQT của doanh nghiệp, cán bộ trong các cơ
quan quản lý Nhà nước, đều chưa được đào tạo có hệ thống
những kiến thức và kỹ năng về “quản trị công ty”.
Bên cạnh đó, vai trò và trách nhiệm của người chủ sở hữu,
HĐQT, ban kiểm soát và ban giám đốc chưa có sự tách bạch rõ
ràng về trách nhiệm. Trách nhiệm không rõ ràng đồng nghĩa với
sự chồng chéo giữa HĐQT và ban giám đốc doanh nghiệp. Một
khi hiện tượng này xẩy ra, thì có nghĩa là tính minh bạch của
những thông tin, quyết định của ban giám đốc công ty với cổ
đông của doanh nghiệp là không rõ ràng. Điều này vô hình chung
đã tạo ra lỗ hổng lớn trong cách thức quản lý doanh nghiệp. TS.
Lê Đăng Doanh cho biết: “Hiện nay, quản lý cấp trên vẫn giao chỉ
tiêu, kế hoạch cho doanh nghiệp. Cách tốt nhất của ban quản lý
doanh nghiệp là không có ý kiến gì khác đối với lại cấp trên, còn
nếu không thực hiện được thì đấy là do thị trường, hoặc những
quy định khác. Cho nên, động lực để “quản trị công ty” tốt, cũng
như chế tài để giảm những vi phạm còn... thiếu!”.
Với xu thế “quản trị công ty” mới, các doanh nghiệp Việt đang
chịu sức ép phải cấu trúc lại, phải thu hút thêm những nguồn lực
mới, năng lực chuyên môn mới vào hệ thống của mình. Nhưng,
quan hệ giữa HĐQT với các cổ đông, cũng như các bên liên quan
chỉ thành công khi hệ thống “quản trị công ty” được lành mạnh và
minh bạch. Trên thực tế, cũng không có một mô thức “quản trị
công ty” chuẩn, bất di bất dịch. Vì thế, theo TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ
tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), việc áp
dụng các quy tắc, các thông lệ quốc tế trong điều kiện cụ thể của
các doanh nghiệp Việt Nam là một yêu cầu phải tiến tới.
Ý kiến chuyên gia và doanh nghiệp
** TS. Vũ Bằng, Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước: Tăng cường quản trị công ty để tạo sự lành
mạnh và hiệu quả
"Quản trị công ty” có một vai trò hết sức là quan
trọng, đặc biệt, sau khủng hoảng ở châu á, người ta
thấy rằng, phải tăng cường “quản trị công ty” nhằm
thực hiện một số mục tiêu: Thứ nhất, tăng tính hiệu
quả của quản trị doanh nghiệp; Thứ hai, giảm thiểu
rủi ro; Thứ ba, bảo vệ được cổ đông thiểu số và
tăng tính minh bạch trong doanh nghiệp. “Quản trị
công ty” tốt, làm cho hoạt động của doanh nghiệp
minh bạch và hiệu quả, đặc biệt, khi bảo vệ được lợi
ích của cổ đông, thì nó tạo được lòng tin cho nhà
đầu tư trong và ngoài nước, qua đó, thu hút được
nguồn vốn và tạo tiền đề cho thị trường chứng
khoán phát triển bền vững hơn. Cho nên, “quản trị
công ty” gắn liền với cải cách về công bố thông tin là
hai mục tiêu rất quan trọng cần phải đẩy mạnh trong
thời gian tới.
Tôi cho rằng, trong quá trình cải cách “quản trị công
ty”, làm sao chúng ta không chỉ cải cách “quản trị
công ty” với các doanh nghiệp niêm yết, mà phải
chuyển dần sang “quản trị công ty” đối với cả công
ty chứng khoán và khối doanh nghiệp bên ngoài thị
trường. Khi nâng được tính quản trị và minh bạch
đối với khối doanh nghiệp bên ngoài thị trường -
doanh nghiệp chưa niêm yết - thì nó góp phần tăng
cường hiệu quả của toàn bộ khối doanh nghiệp của
nền kinh tế và giảm thiểu sự khác biệt giữa doanh
nghiệp niêm yết và doanh nghiệp bên ngoài. Từ đó,
doanh nghiệp bên ngoài không còn ngại ngần với
“quản trị công ty” và họ sẵn lòng vào niêm yết nhiều
hơn. Xuất phát từ lý do đó, tôi đánh giá rất cao Luật
Doanh nghiệp đã bắt đầu đưa nguyên tắc “quản trị
công ty” vào và áp dụng điều lệ mẫu đối với công ty
niêm yết. Cho nên, ngay khối doanh nghiệp đã có
nhu cầu về quản trị công ty được nâng lên. Mặt
khác, đối với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước,
chúng tôi cũng muốn tăng cường “quản trị công ty”
ở các doanh nghiệp niêm yết và công ty chứng
khoán cao hơn các doanh nghiệp bên ngoài và yêu
cầu công ty đại chúng cũng phải như vậy. Đấy là
bước đi quan trọng để tạo sự lành mạnh và hiệu
quả trong khối doanh nghiệp ở Việt .
** Ông Đỗ Viết Ngoạn, Tổng giám đốc Ngân hàng
Ngoại thương Việt : Trách nhiệm tập thể thì không
thể tạo ra quyết định tốt
Hiện nay, khả năng của HĐQT giám sát ban điều
hành thông qua một uỷ ban giám sát, hay thông qua
đơn vị kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp, là vấn đề
rất yếu kém, thậm chí, HĐQT chưa làm được việc
đó. Trong khi đó, lại giao cho HĐQT rất nhiều việc
tham gia tác nghiệp hàng ngày. Thành thử nó dẫn
tới sự chồng chéo giữa HĐQT và ban điều hành,
việc không phân định rõ trách nhiệm, mà dường
như trách nhiệm mang tính chất tập thể nhiều hơn
trách nhiệm cá nhân. Chừng nào còn cơ chế trách
nhiệm tập thể thì không thể nào tạo ra một hệ thống
quyết định tốt và năng lực cạnh tranh tốt của doanh
nghiệp.
Bà Trần Thị Kim Hương, Trưởng ban kiểm soát, Uỷ
viên Hội đồng quản trị, Tổng công ty Thương mại
Hà Nội: Văn bản dưới luật về quản trị công ty đang
còn... thiếu!
Những văn bản dưới luật về “quản trị công ty” đang
còn thiếu và một phần nữa cũng chưa được chuẩn
hoá theo đúng thông lệ quốc tế, cho nên, trong quá
trình hoạt động cũng không tránh khỏi có những cái
không được ăn khớp. Ví dụ, các văn bản quy định
về trách nhiệm, quyền hạn của HĐQT; các quy định
quy định về hoạt động của ban điều hành; những
chế độ báo cáo thông tin của ban điều hành, của
các bộ phận chức năng với HĐQT… nhìn chung,
trong thực tế còn chưa được trùng khớp!./.