Mô hình xác định giá trị của tài sản vốn - Capital

Asset Pricing Model

CAPM được ba nhà nhà kinh tế học William Sharpe, John Lintner và Jack Treynor

đưa ra vào những năm giữa thập niên 60. CAPM là mô hình mô tả mối tương quan

giữa rủi ro và thu nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các chứng khoán có mức

độ rủi ro cao. Công thức tính toán như sau:

ks = Rrisk free + Beta * (Rmarket - Rrisk-free)

với ks là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu.

Trong đó:

 Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được

dự đoán dựa trên các số liệu quá khứ

 Rrisk free là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính phủ vì loại lãi

suất này được coi là không có rủi ro thanh toán (Rủi ro mặc định - default

risk)

 Rmarket là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian (expected market return

over a period of time), thường được tính toán hoặc cho sẵn.

Giả định khi sử dụng mô hình CAPM:

 Thị trường hiệu quả

 Nhà đầu tư luôn sở hữu một danh mục đầu tư (portfolio) đa dạng hoá

Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà đầu tư khi tiến

hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì cũng được bù đắp lại theo hai

cách: giá trị tiền tệ theo thời gian và rủi ro.

Giá trị tiền tệ theo thời gian thể hiện thông qua tỷ lệ phi rủi ro (Rrisk free) trong công

thức và khi dùng tiền để đầu tư vào bất cứ hoạt động nào thì nhà đầu tư sẽ được

hưởng sự bù đắp này. Phần còn lại trong công thức thể hiện tỷ lệ rủi ro và tính toán

các khoản khác mà nhà đầu tư được hưởng vì đã chấp nhận một tỉ lệ rủi ro cao hơn.

Khoản bù đắp này được tính toán thông qua tỉ lệ rủi ro (beta) được sử dụng để so

sánh thu nhập từ tài sản so với thu nhập thị trường kì vọng qua một khoảng thời

gian (expected market return over a period of time) và với mức đền bù rủi ro thị

trường (market premium - Hiệu Rmarket - Rrisk-free).

Mô hình định giá tài sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng của một loại chứng

khoán hay danh mục đầu tư sẽ ngang bằng với mức trên các chứng khoán phi rủi ro

cộng thêm khoản lợi tức bù rủi ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không đạt mức thu

nhập tối thiểu yêu cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến hành đầu tư. Các đường

SML (Security Market Line - đường biểu diễn rủi ro của thị trường chứng khoán)

sẽ thể hiện kết quả của CAPM đối với các mức rủi ro khác nhau (các betas khác

nhau).

Sử dụng mô hình CAPM cùng các giả định, chúng ta có thể ước tính được thu nhập

kì vọng trên một cổ phiếu.

Ví dụ: giả sử rằng tỉ lệ phi rủi ro là 3%, tỉ lệ rủi ro là 2%, thu nhập thị trường kì

vọng qua thời gian là 10%, khi đó thu nhập kì vọng trên cổ phiếu là 3%+2*(10%-

3%) = 17%.

Mô hình CAPM không phải là mô hình duy nhất dự báo tỷ suất sinh lợi nhưng nó

có nền tảng lý thuyết vững chắc. Mặc dù có nhiều tranh luận và nghiên cứu về tính

ổn định của beta cũng như những kiểm định thực nghiệm về mô hình CAPM

nhưng về cơ bản CAPM được xem là hiệu quả và đã tồn tại suốt 40 năm qua.

Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ sung những nhân tố

khác nhằm có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một cách chính xác hơn. Những bằng

chứng thực nghiệm cho thấy ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập

(P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B). Đặc biệt trong thị trường các

nước mới nổi, sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường

trên giá trị sổ sách (P/B) lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán là khá rõ nét. Cùng với

mô hình CAPM, P/E và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng như là các

công cụ dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường các nước mới nổi. Điều

này hàm ý một mô hình CAPM đa biến với các biến là: beta, P/E và PBV.

Mô hình CAPM cải tiến là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số P/E

và P/B để dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên,

việc ứng dụng mô hình này vào dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước

mới nổi nói chung và vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng sẽ có những

hạn chế nhất định.

Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam quá nghèo nàn về chủng

loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư

có thể yên tâm đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà

nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa cho thị trường chứng khoán nhưng

hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp

dẫn các nhà đầu tư, đặc biệc là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có nguồn lực

tài chính lớn.

Thứ hai, sự thiếu vắng hệ số beta trong việc phân tích rủi ro của các chứng khoán.

Nói cách khác, các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số beta trong việc đánh giá

chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty chứng khoán có liệt kê những tỷ

số cơ bản về tài chính và so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web

cũng đề cập đến hệ số beta trong danh mục khái niệm các chỉ số tài chính cần phân

tích (ví dụ công ty chứng khoán VNDIRECT), nhưng chưa thực sự có ý định sử

dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính chung có liên quan đến danh

lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản,

hoặc liên quan đến tình hình vay nợ như tổng vay nợ trên vốn hoặc liên quan đến

giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E, ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số

giá thị trường so với giá sổ sách (P/B), beta…

Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị trường nên vai trò của beta còn tương đối

hạn chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn thiện, beta sẽ phát

huy tác dụng và theo kịp với sự phát triển của thị trường. Thông qua hệ số beta và

các tỷ số thị trường khác như (P/B)…, doanh nghiệp sẽ nhìn nhận rõ hơn về rủi ro

và năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng

có điều kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một cách hiệu quả

hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và sử dụng hệ số beta, việc nghiên cứu và

sử dụng những mô hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên lý

thuyết nữa.

Thứ ba, các mô hình dự báo chỉ được vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được

thông tin ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh bạch hóa thông

tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường chứng khoán. Đây chính là

nguyên tắc công khai, được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường

chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công bố thông tin hoạt động

theo đúng yêu cầu thì thị trường chứng khoán không thể vận hành được.

Mô hình CAPM : dự báo tỷ suất sinh lợi và rủi ro

Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để dự báo

tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang tính

chuyên nghiệp.

Vào những năm giữa thập niên 60, ba nhà kinh tế học William Sharpe, John

Lintner và Jack Treynor đã đưa ra mô hình CAPM (Capital Asset Pricing Model)

nhằm dự báo tỷ suất sinh lợi của một chứng khoán thông qua beta của chứng khoán

đó.

Mô hình CAPM không phải là mô hình duy nhất dự báo tỷ suất sinh lợi nhưng nó

có nền tảng lý thuyết vững chắc. Mặc dù có nhiều tranh luận và nghiên cứu về tính

ổn định của beta cũng như những kiểm định thực nghiệm về mô hình CAPM

nhưng về cơ bản CAPM được xem là hiệu quả và đã tồn tại suốt 40 năm qua.

Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ sung những nhân tố

khác nhằm có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một cách chính xác hơn. Những bằng

chứng thực nghiệm cho thấy ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập

(P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (PBV). Đặc biệt trong thị trường các

nước mới nổi, sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường

trên giá trị sổ sách (PVB) lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán là khá rõ nét.

Cùng với mô hình CAPM, P/E và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng

như là các công cụ dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường các nước

mới nổi. Điều này hàm ý một mô hình CAPM đa biến với các biến là: beta, P/E và

PBV.

Mục đích của bài viết này đánh giá khả năng sử dụng mô hình CAPM đa biến trên

để dự báo tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trong tương lai ở thị trường chứng khoán

Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự khác biệt so với các thị trường

đã phát triển bởi sự kỳ vọng vào bản chất không thuần nhất giữa các nhà đầu tư

trên thị trường và sự năng động vốn có của chúng. Đây là thị trường có những đặc

trưng bởi sự biến động lớn và tỷ suất sinh lợi trung bình cao.

Mô hình dự báo tỷ suất sinh lợi của chứng khoán

Thông qua việc kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập là beta, E/P và

PBV so với biến phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng bằng cách kết hợp so sánh

chéo và các quan sát chuỗi thời gian, chúng tôi sử dụng 3 mô hình sau để thực hiện

kiểm định thực nghiệm trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Rit = λ0 +λ1EPit +λ2βit + εit (1)

Rit = λ0 + λ3PBVit + λ2βit + εit (2)

Rit = λ0 + λ1EPit +λ2βit + λ3PBVit +εit (3)

Trong đó:

Rit = 3 tháng đối với tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cho chứng khoán i trên thị trường

EPit là chỉ số E/P trung bình của chứng khoán i trên thị trường

PBVit là chỉ số giá thị trường/giá sổ sách của chứng khoán i trên thị trường

βit là beta của chứng khoán i trên thị trường

λ1, λ2, λ3 : là hệ số hồi quy

εit : sai số

Tỷ suất sinh lợi được dùng trong mô hình là tỷ suất sinh lợi cho thời kỳ 3 tháng. Vì

thế, trước tiên chúng tôi tính toán tỷ suất sinh lợi 3 tháng cho mỗi chứng khoán

trên thị trường chứng khoán trong tháng t bằng cách coi tháng đó là khoảng thời

gian khởi đầu. Do đó, tỷ suất sinh lợi 3 tháng, Rt,t+1, được nhận thấy như là %

thay đổi trong giá chứng khoán vào thời điểm t+j so với thời điểm t.

Do đó, một nhà đầu tư hoạt động vào tháng t sẽ nhận được Rt,t+j sau j tháng, khi j

nhận giá trị là 3, 6 hoặc 12. Khi khoảng thời gian đo lường tỷ suất sinh lợi liên tiếp

theo tháng, chúng tôi chỉ chọn những quan sát với tỷ suất sinh lợi không trùng

khớp nhau. Do đó khi chúng tôi tính toán tỷ suất sinh lợi trong 3 tháng, chúng tôi

quan sát hàng tháng trong tháng 1, 4, 7, và 10 mỗi năm trong mẫu. Sau đó chúng

tôi kiểm tra liệu tỷ suất sinh lợi tương lai 3 tháng có thể được dự đoán hay không

bằng cách xem giá trị trung bình của E/P và PBV.

Trong thời kỳ tỷ suất sinh lợi 3 tháng, sự ảnh hưởng thì thấp, được chỉ ra bởi giá trị

R2 thấp: thống kê t thất bại trong việc bác bỏ giả thiết không có giá trị cho rằng các

hệ số của E/P và PBV là 0.

Ứng dụng mô hình dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường chứng

khoán Việt Nam

Mô hình này là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số E/P và PBV để

dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên, việc ứng

dụng mô hình trên vào dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước mới nổi nói

chung và vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng sẽ có những hạn chế nhất

định.

Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam quá nghèo nàn về chủng

loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư

có thể yên tâm đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà

nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa cho thị trường chứng khoán nhưng

hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp

dẫn các nhà đầu tư, đặc biệc là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có nguồn lực

tài chính lớn.

Thứ hai, sự thiếu vắng hệ số beta trong việc phân tích rủi ro của các chứng khoán.

Nói cách khác, các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số beta trong việc đánh giá

chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty chứng khoán có liệt kê những tỷ

số cơ bản về tài chính và so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web

cũng đề cập đến hệ số beta trong danh mục khái niệm các chỉ số tài chính cần phân

tích nhưng chưa thực sự có ý định sử dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài

chính chung có liên quan đến danh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE), lợi nhuận

thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, hoặc liên quan đến tình hình vay nợ như tổng

vay nợ trên vốn hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E, ngoài ra

không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị trường so với giá sổ sách (PBV), beta…

Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị trường nên vai trò của beta còn tương đối

hạn chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn thiện, beta sẽ phát

huy tác dụng và theo kịp với sự phát triển của thị trường. Thông qua hệ số beta và

các tỷ số thị trường khác như (PBV)…, doanh nghiệp sẽ nhìn nhận rõ hơn về rủi ro

và năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng

có điều kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một cách hiệu quả

hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và sử dụng hệ số beta, việc nghiên cứu và

sử dụng những mô hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên lý

thuyết nữa.

Thứ ba, các mô hình dự báo chỉ được vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được

thông tin ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh bạch hóa thông

tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường chứng khoán. Đây chính là

nguyên tắc công khai, được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường

chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công bố thông tin hoạt động

theo đúng yêu cầu thì thị trường chứng khoán không thể vận hành được. Thị

trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé và sơ khai. Tuy nhiên, các văn bản pháp

quy điều chỉnh vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đã và đang

được xây dựng nhằm đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin trên thị

trường và duy trì củng cố lòng tin của nhà đầu tư.

Tóm lại, bài viết này đưa ra một mô hình dự báo cơ bản nhằm mục đích giúp cho

nhà đầu tư có những dự báo bổ sung cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình

trên thị trường chứng khoán Việt Nam – một thị trường mới nổi với những rủi ro

và hạn chế. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô hình này sẽ có những hạn chế nhất định

trong thực tiễn. Thông qua những hạn chế này, chúng tôi mong muốn nêu ra một

vài vấn đề bức thiết mà chúng ta phải nhìn nhận và giải quyết một cách triệt để

nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời

gian sắp tới.