Mười nguyên nhân dẫn sốt ảo chứng khoán

Về cơ bản thì những nguyên nhân gồm lượng tiền đổ vào chứng khoán nhiều trong

khi số lượng chứng khoán còn ít, kiểm tra giám sát từ phía các cơ quan quản lý

còn chưa chặt chẽ và thông tin không minh bạch và nhà đầu tư thiếu hiểu biết.

Các nguyên nhân theo quan điểmcủa ông Nguyễn Hồng Hải- Nguyên Phó Tổng

giám đốc Ngân hàng Đại dương bao gồm:

1. Thiếu công cụ để giám sát

Chúng ta chứng kiến nhiều vi phạm của các nhà đầu tư, nhiều vi phạm của các

công ty chứng khoán mà báo giới đã nêu, như hiện tượng bán khống cổ phiếu,

hiện tượng T+, hiện tượng thiếu tiền, thiếu cổ phiếu của các công ty chứng khóan

tại trung tâm lưu ký, hay công ty chứng khoán tự động bán chứng khoán của

khách hàng mà không được sự đồng ý… Ủy ban chứng khoán vẫn thiếu người,

thiếu công cụ để kiểm tra giám sát những vi phạm, đồng thời ngay cả việc nắm

thông tin về đòn bẩy mà khách hàng sử dụng, nguồn vốn từ các luồng nào đầu tư

vào chứng khoán cũng là một khó khăn với Ủy ban chứng khoán, thiếu công cụ

kiểm tra, giám sát nên cũng khó đưa ra được giải pháp để khách phục.

2. Thiếu quyền lực để can thiệp

Đây là lỗi mang tính cơ chế, Ủy ban chứng khoán cũng có nhiều lần nêu những

khó khăn của mình khi mà họ là người giám sát và kiểm tra thị trường chứng

khoán thường xuyên, nhưng khi có quyết định can thiệp vào thị trường thì lại phải

thông qua cấp trên là Bộ tài chính, thị trường chứng khoán biến động nhanh, nhiều

khi cần những phản ứng tức thời, với cơ chế như vậy nhiều quyết định sẽ bị chậm

chễ.

3. Ngân hàng tham gia đầu cơ chứng khoán

Ngân hàng thương mại là nơi tập trung phần lớn nguồn vốn của xã hội, bằng các

nghiệp vụ huy động nguồn vốn từ dân cư và các tổ chức, các ngân hàng sẽ sử dụng

vốn này để phân bổ tới những đối tượng cần vốn hoặc tự mình đầu tư. Với một

hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán siêu lợi nhuận, năm 2006 và năm 2007

lượng vốn do các ngân hàng đổ vào để kinh doanh chứng khoán khá lớn, đó là

chưa kể ngân hàng cũng đẩy mạnh hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán.

Như vậy ngành ngân hàng đã góp phần tạo nên một luồng tiền lớn đổ vào chứng

khoán bằng hoạt động đầu tư chứng khoán của mình.

4.Các tổng công ty, doanh nghiệp quốc doanh lớn nhà nước đầu tư trái ngành

trái nghề

Các tổng công ty, doanh nghiệp quốc doanh lớn được thành lập để hoạt động trong

một ngành nghề nhất định mà họ có thể mạnh, họ có lợi thế được cấp vốn và nắm

một lượng vốn lớn của xã hội, cùng với cơ chế cho phép các tổng công ty và

doanh nghiệp nhà nước lớn này được phép đầu tư đa ngành, đa nghề thì với với

sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán, nhiều tổng công ty, doanh nghiệp nhà

nước đã bỏ một phần vốn của mình vào đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán, do vậy

lượng tiền chảy vào chứng khoán khá nhiều.

5.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào nhiều

Năm 2006, 2007 là năm Việt Nam được đánh dấu sự kiện được vào WTO, nguồn

vốn kiều hối và vốn nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt nam tăng

đột biến, với các nhà đầu tư nước ngoài và Việt kiều thì các thị trường mới nổi

thường khá hấp dẫn đối với họ và là cơ hội kiếm tiền của họ khi mà tốc độ tăng

giá nhanh và nhà đầu tư trong nước còn chưa thực sự chuyên nghiệp. Tuy nhiên,

ngay cả nhà đầu tư nước ngoài và Việt kiều khi đầu tư họ vẫn chưa thực sự hiểu

biết hết về thị trường và doanh nghiệp Việt Nam, họ cũng vẫn có những sự đầu tư

theo phong trào, cảm tính hoặc thông tin mà họ nắm được, phân tích chưa thực sự

chính xác. Chúng ta cũng thấy rất nhiều tổ chức, quỹ đầu tư nước ngoài có những

nhận xét đánh giá rất trái ngược nhau về thị trường chứng khoán Việt Nam.

6. Sử dụng đòn bẩy tài chính cao

Năm 2009, các nhà đầu tư Việt Nam đã học được bài học về “ sử dụng đòn bẩy”,

thuật ngữ “cháy tài khoản” được nhắc tới khá thường xuyên khi mà các công ty

chứng khoán đã thực hiện các chính sách về tỷ lệ đòn bẩy cao để thu hút, lôi kéo

khách hàng, có nhiều khách hàng đã sử dụng đòn bẩy cao gấp bốn, năm lần số tiền

hiện có, việc sử dụng đòn bảy làm cho thị trường tăng giá bong bong khi mà phần

lớn các nhà đầu tư đều sử dụng đòn bẩy, đến lúc thị trường đảo chiều thì các hoạt

động cắt lỗ, xử lý tài khoản của các nhà đầu tư làm cho thị trường giảm điểm sâu

và nhanh hơn rất nhiều so với việc dùng tiền túi của họ.

7. Lương thưởng lãnh đạo tài chính cao nhưng trách nhiệm với hậu quả thấp

Đã có thời kỳ các lãnh đạo các công ty chứng khoán, các ngân hàng thích thưởng

cổ phiếu hơn tiền mặt, thưởng càng nhiều cổ phiếu càng tốt, hoạt động tự doanh

được các công ty chứng khoán chú trọng hơn là môi giới và làm dịch vụ, các lãnh

đạo mong muốn các hoạt động làm tăng giá cổ phiếu mà mình đang nắm giữ,

lương thưởng cao dựa trên lợi nhuận công ty đạt được cũng dễ dẫn tới những hoạt

động đầu cơ mạo hiểm và trong khi đó khi hậu quả thua lỗ xảy ra đối với cơ quan

thì cùng lắm là lãnh đạo bị buộc thôi việc

8. Môi giới chứng khoán không nở rộ và ít bị kiểm soát

Cùng với sự phát triển nhanh, mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam thì hoạt

động môi giới chứng khoán cũng nở rộ, phát triển nhanh chóng. Có đủ loại môi

giới, có bằng cấp thì ít mà không có bằng cấp thì nhiều, phí hoa hồng cao đã làm

cho họ tìm mọi cách để lôi kéo và thu hút khách hàng thậm chí có rất nhiều tư vấn

sai lệch và gây thiệt hại cho khách hàng tuy nhiên họ cũng không hề bị cơ quan

nào kiểm soát, và phải chịu trách nhiệm vì tư vấn của mình, khách hàng chỉ có

cách duy nhất sau khi biết mình bị tư vấn sai thì không sử dụng dịch vụ nữa.

9.Thông tin không rõ ràng minh bạch

Các thông tin của các doanh nghiệp niêm yết không rõ ràng, minh bạch cũng là

một trong những lý do tạo nên các cơn sốt ảo về chứng khoán, có hiện tượng câu

kết giữa nội bộ lãnh đạo của doanh nghiệp niêm yếu với các “đội làm giá” để phối

hợp tung tin, làm giá cổ phiếu doanh nghiệp theo kế hoạch, hoạt động này cũng

chưa có các giải pháp để kiểm soát và hạn chế.

10. Nhiều nhà đầu tư không chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết

Nguyên nhân cuối cùng là các nhà đầu tư không hiểu biết khi ra quyết định đầu tư,

không dựa vào phân tích cơ bản, ít dựa vào phân tích kỹ thuật, mua bán theo tư

vấn và “ xui bảo “ của người khác, nên họ rất dễ mất bình tĩnh khi thị trường

xuống hoặc chủ quan khi thị trường tăng điểm. Chính những nhà đầu tư này

thường là người thiệt hại nhiều nhất trên thị trường chứng khoán.